TẠP TẠNG
SỐ 2113 - BẮC SƠN LỤC
I. THIÊN ĐỊA THỦY (nguồn gốc của trời đất vũ trụ)
- Đất Tân châu, chùa Huệ nghĩa, Sa-môn Thần Thanh soạn
- Nước Tây Thục, đình Thảo huyền, Sa-môn Huệ Bảo chú.
Bộ sách này gồm mười quyển nói về các mục sau:
1. Thiên Địa Thủy
2. Thánh Nhơn Sanh
3. Pháp Tịch Hưng
4. Chơn Tục Phù
5. Họp Bá Vương
6. Chí Hóa
7. Tông Sư Nghị
8. Thích Tân Vấn
9. Tang Phục Vấn
10. Cơ Dị Thuyết
11. Tống Danh Lý
12. Báo Ứng Nghiệm
13. Luận Nghiệp Lý
14. Trụ Trì Hạnh
15. Dị Học 16. Ngoại Tín.
------------------------------
Trước tôi muốn nghe sách Phật nên học hỏi ngài Nam Bình Phạm Trăn Pháp sư mà nhận được lục này. Ngài Nam Bình nói: Xưa tôi từng nghe Lão sư nói Đinh Bí Giám rất thích sách này, mới xem qua không rằng trong tay có được bản gốc. Lời Lão sư rất đáng tin. Những bài viết của Đinh Bí Giám đều nêu ra những điều rất hay. Nhất thừa là gốc mà sách của Bá gia chỉ là nhánh lá. Tìm nhánh thì như tìm sông mà đi trên đất không được nguồn gốc cũng đủ xem là học rộng huống là thấu suốt nguồn gốc ư? Song sách ấy lưu hành chưa bao lâu thì trên đời hiếm thấy người đọc. Người đọc đều là kẻ có tiếng thời ấy. Mà người đọc chỉ dùng chơi riêng làm của không hề truyền rộng ra ngoài. Tôi nghe ngài Thần Thanh ở thời Nguyên Hòa đạo ngài rất hiển hách, đương thời được các công khanh kính trọng lễ bái, người theo học Ngài có đến ngàn người. Tánh Ngài thích sáng tác các phần trích luận trong kinh hoặc lọc bớt hoặc hàn thêm có hơn trăm quyển mà riêng lục này thì nêu ra được các điều sâu sắc và rộng lớn nhất khiến người học thấu đáo sách mà đạt đến nguồn cội thì lo gì mà chẳng được Thần Thanh. Thần Thanh là tên Ngài sanh ra ở dưới núi Đại An, sau ở Trường Bình Sơn Âm nên gọi là Bắc Sơn Lục. Ngài Hiền Đại sư có được Bản Thục đầu tiên bèn đem truyền rộng cho các người thích sách bèn mời tôi ở Đại phương mà khắc bản in ra. Nhơn đó tôi thuật lời của ngài Nam Bình Pháp sư để ở đầu quyển.
Năm đầu Hy Ninh, ngày 12 tháng 05 Tiền Đường Trầm Liêu kính lời tựa.
*****
Bậc Ngại Nho (Lão Nho có đạo đức) gây tiếng tốt cho Đạo Nho và đám nhà Nho mến thích giáo ấy. Tiểu Tử tôi nghi việc khởi đầu của vụ trụ trời đất mà kính lạy nêu hoài bảo. Ngại Nho nói: Lớn lao thay lời hỏi. Ta biết trời đất mênh mông rộng lớn và mịt mờ đối với người mà hiểu biết sáng tỏ. Hãy lắng nghe lời ta giải bày. Dịch có Thái Cực mà sanh Lưỡng Nghi, lúc đầu tiên chưa có điềm gì thì bằng bằng dực dực hạng hạng đổng đổng (mênh mông lẫn lộn), trong đục một lý, hỗn độn (trộn lẫn) không có hình tượng gì. Kịp khi nguyên khí hồng mông bắt đầu manh nha (nảy mầm) trời đất lúc chưa phân cũng như cái trứng gà trong đục đã có điểm rồi thì gọi là lưỡng nghi, khí trong là trời khí đục là đất, khí hòa là người, là tam tài) về sau mới có Bàng Cổ sanh trong đó 18.000 tuổi. Khi trời đất mở ra, trời cao một trượng, đất dày một trượng. Mặt trời Bàng Cổ dài một trượng, đầu ở Đông
Chân ở Tây, tay trái đến Nam, tay phải đến Bắc. Mở mắt là ngày, nhắm mắt là đêm thở ra là nắng nóng, hít vào là lạnh, thở hơi ra thành gió mây, nhả tiếng ra thành sấm sét. Bèn có bốn mùa, vạn vật sanh ra. Tám hành vi là lớn, có gì nhiều hơn (tám hoành = tám hướng, chín vi = chín châu) Tam Hoàng Ngũ Kỷ là tôn quí có ai trước hơn. Thời Thái Cổ (xa xưa nhất) ăn dơ uống bẩn. Mùa đông thì ở trong hang đốt lửa, mùa hạ thì ở trên cây. Khi chưa có lửa đế nấu ăn thì ăn trái hạt cây cỏ, thịt chim thú thì uống máu ăn lông. Khi chưa có tơ thì mặc bằng lông chim da thú. Sau có thánh chỉ bày mới lợi dụng được ích (mới dùng lửa mà sửa trị?) lợi của lửa. Bèn đúc vàng nắm đất làm đồ dùng rồi cất nhà cửa cung điện, rồi nấu nướng chưng cất, rồi chế biến tơ gai làm vải, nuôi người sống chôn kẻ chết thờ chúng quỉ thần. Từ Thái cổ đến nay không thể kể hết năm tháng, từ sau đời Phục Hy khoảng bốn mươi vạn năm thì có tiền của, có vua quan nhân dân có giúp hại hưng vang. Nho trước chỉ dạy, Nho sau tuân làm mà bận rộn lăng xăng không có một ngày nào dứt.... Từ trên là lời của Ngại Nho nói về sự mở mang của trời đất.
Ở bến Bồi thủy dưới chân núi Bắc, kẻ quê mùa này từ lâu đã xa lìa vinh hoa tục lụy (đây là nói về thần thanh Sa-môn người soạn lục này) chí chuộng việc xưa mà chỗ biết chưa rộng, hết mình vì đạo nhưng đi du học thì trở ngại (ngại việc du học), bèn học ở trường làng nghe Nho phong mà mừng bảo rằng: Lớn lao thay lời Nho. Kịp khi học Phật thì bến bờ mênh mông mà không hề chán sợ. Chỉ lo không sớm được nghe ai là Thánh nhơn Tây trúc, nói kiếp trước đã hoại, trời đất đã không. Không rồi lại thành kiếp này mới bắt đầu. Lúc không đó thì có gió nhẹ thổi, gió nổi lúc càng mạnh ở dưới thế giới này là phong luân. Bỗng mây lớn hay lên không trung mưa xuống như thác đổ chứa trên mặt tung luân kết thành lớp nước là thủy luân. Phía trên thủy luân cứng lại thành vàng như sữa đặc (chỗ tựa cũng) là kim luân. Khi ba luân đã thành thì từ trên không mưa xuống ngày đêm không dứt suốt mấy ngàn năm trên lớp kim luân, lớp nước này trong đục khác chất, là trời Phạm Thế ở trên không là đá báu, là núi biển, là đất đai là nhà cửa cung điện và các đồ vật tạp nhạp, mà có khu vực.-Trên trời các trời chết rồi thì sanh xuống, hình thể có ánh sáng, chân đi trên mây không ăn không uống sống lâu vô số, bay đáp xuống. Đất có vị ngọt, da đất rễ cây cỏ và lúa thơm đều có vị thơm ngọt ăn được. Ăn các thứ ấy rồi thì tai họa vào thân, thân thể cứng nặng ánh sáng mất hết. Từ đó mặt trăng mặt trời và các sao hiện ra rồi thành hình ra cõi người (nhân đạo) giận hờn mến tiếc này ra, ái dục càng dữ mà có cha con, mà có vua tôi. Rồi phân ranh giới bờ cõi nước non có của ông của tôi, có buôn bán trồng trọt sinh lợi, rồi lập luật pháp để ngăn sai quấy, lập hình phạt để trị tội. Từ Diêm-phù-đề này cho đến trăm ức Diêm-phù-đề khác, từ bốn thiên hạ này cho đến trăm ức bốn thiên hạ khác, núi Thiết vi to lớn... đều từ lúc này mà thành một đại thiên thế giới là một cõi Phật. Rồi tuổi thọ của loài người giảm dần, giảm còn mười tuổi, giảm rồi lại Tăng, Tăng đến tám vạn tuổi, hai vạn tuổi đầu thì có Thiết Luân Vương, bốn vạn tuổi kế thì có Đồng Luân Vương, sáu vạn tuổi kế thì có Ngân Luân Vương, tám vạn tuổi sau thì có Kim Luân Vương. Như đây mà thống lãnh một Diêm-phù-đề cho đến hai, ba, bốn thiên hạ. Nay là kiếp giảm thứ chín của Hiền kiếp, còn mười một kiếp kia có thể biết rõ. Cuối một kiếp giảm, giảm đến ba mươi tuổi thì có lần tai ương đói kém kéo dài bảy năm bảy tháng bảy ngày. Giảm đến hai mươi tuổi thì có một tai ương bị dịch bệnh kéo dài bảy tháng bảy ngày, giảm đến mười tuổi thì có một tai ương đao binh chém giết nhau suốt bảy ngày bảy đêm. Khi kiếp đã hoại thì lửa dữ cháy suốt chín trời phá tan đến trời Tam thiền. Rồi nước mênh mông dâng đến cõi này (bảy lần lửa cháy thì có một lần nước dâng, bảy lần nước dâng thì có một lần gió thổi tan hết). Mọi vật tan mất hết rồi thì trở thành kiếp không, kiếp không đã thành rồi thì sau đó kiếp mới bắt đầu. Kinh nói Thành-Trụ-Hoại-Không đều phải trải hai mươi tiểu kiếp làm thành đại kiếp.
Phàm cao dày không gì lớn hơn trời đất, lâu xa không gì qua cổ kim (xưa nay). Lớn lao thay Phật (Đại Thành) đã biết rõ chỗ bắt đầu của trời đất, chỗ chung cuộc của trời đất, biết chỗ cao của trời chỗ dày của đất, biết sự chiếu sáng của mặt trời mặt trăng và các sao, biết rõ sự đi về của kiếp biết xưa đã qua biết nay sắp đến. Thấy rõ nhất không gì bằng Thiên nhãn, nghe rõ nhất không gì bằng Thiên nhĩ, biết rõ ý niệm không gì bằng Túc mệnh thông. Có cái gương sáng rỗng suốt này mà chẳng khắp thiên hạ đều không. Cho nên che trùm không kín được, mặt trời mặt trăng không chiếu đến được, sương mù không rơi vào được, thuyền xe không chở được, mong thấu suốt ở tâm mục huống là một khu ở Oa Giác. Thương tôi sanh ở trong ấy mà làm Ê-kê, mà làm ve sầu, làm sao biết được sự rộng xa của vũ trụ, sự dài lâu của năm tháng thành ức, há ức năm là kiếp, phàm nhiều đất làm cõi nước há cõi nước là thế giới. Vua Thang hỏi Cách Nhật: Trên dưới tám phương có chỗ cùng cực chăng? Cách đáp: Ngoài cái vô cực lại có vô cực. Nhiễm hữu hỏi Trọng Ni: Lúc chưa có trời đất có thể biết được không? Trong Ni đáp: Xưa cũng như nay. Thế nên biết các vua Tiên Triết đến các Tiên Nho đều có biết chỉ vì ngầm xét mà thôi. Phàm lên núi Mông mà không coi nhỏ (khinh khi) kẻ ngu độn (xem nước Lỗ là nhỏ), phàm lên núi Thái sơn mà không coi thường thiên hạ(xem thiên hạ là nhỏ) huống là có cao như núi Thái sơn thật chẳng dối vậy-Xưa vua Huỳnh Đế ngủ ngày mộng thấy dạo chơi nước Hoa Tư, chẳng biết nước ấy có mấy ngàn vạn dặm, bởi không phải sức thuyền xe mà đến được. Nước ấy không có Sư trưởng, tự nhiên mà có trí, không chết ác, không chết yểu, không biết quí mình mà khinh người, nên không thương ghét, không biết trái nghịch hướng thuận nên không có lợi hại. Đều không có chỗ thương tiếc cũng không có chỗ kiêng sợ. Khi Huỳnh Đế thức dậy thì vui mừng có chỗ được. Tôi khảo cứu suy nghĩ nước ấy thì như thiên hạ của Bắc Tước (Uất) (cõi Bắc-cu-lô-châu). Ở ngoài Cữu vi (chín châu của nhơn gian) ở trong Doanh hải (là biển lớn ở phía Bắc núi Tu-di) nếu không phải sức của Thiên Lão, Lực Mục, Thái Sơn Kê thì không thể biết được (ba người này là tôi của vua Huỳnh Đế) vì Huỳnh Đế chánh tâm sửa mình cầu đạo nuôi thân điều khiển vật cho nên có Thần dạo chơi như thế. Nếu không phải Bắc Châu thì không mộng được như thế. Cho nên ta dạy (nói) các người trung Tiểu thừa (bậc tiểu thánh) kiếp trước kiếp sau đều tám vạn thấy nghe hai ngàn cõi bậc Bồ-tát thừa (bậc trung thánh) thì thấy nghe được ba ngàn cõi. Bậc Đại thánh (Phật thừa) thì tất cả đều thấy biết. Mặt trời mặt trăng và các sao đều sáng rỡ trên không. Mặt trăng mặt trời không có hưng vong, các sao cũng không đầy vơi, một ngày một đêm chúng chiếu bốn Đại châu hướng theo Nam Bắc để phân lạnh nóng (mùa hạ thì mặt trời gần Bắc, mặt trăng gần Nam; mùa đông thì ngược lại) do gió giữ gìn, di chuyển chẳng ngừng mà không rơi. Phía trên có các Trời ở. Ngày đêm dài ngắn so với phương này thì phân chia thời tiết đồng nhau mặt trời to năm mươi mốt do-tuần, mặt trăng to năm mươi do-tuần, sao to thì một do-tuần, sao nhỏ thì một Cu-lư-xá (một do-tuần = ba mươi, bốn mươi dặm, một Culư-xá = hai dặm. Một do-tuần của Tiểu thừa là mười sáu dặm) mặt dưới của mặt trời mặt trăng mà ở lỗ sao rơi như mưa, ở Tống có năm vẫn thạch. Bởi đó bỗng nhiên mà có điềm lành điềm dữ.
Nhà Nho nói ở ngoài Đông nam hải, trong Đại hoang, tại Cam tuyền có nước Hy Hòa, có người con gái tên Hy Hòa, sanh mới mười ngày thường tắm ánh nắng mặt trời ở Cam tuyền. Ở đời vua Nghiêu có mười mặt trời hiện ra sai quan bắn thì chín mặt trời rơi xuống. Đến thời Chí Đức, thì mặt trời mặt trăng như họp bích, năm sao như Liên châu. Các sao đi từ Đông về Tây, mặt trời mặt trăng trái trời mà về Đông-Thái Hạo vẽ Bát quái thông Thần minh mà làm sách kết dây. Bà Nữ Oa bắt trời lập cực, cùng với Chuyên Húc tranh làm vua, cùng với Đầu Xúc chẳng khắp núi, chống trời vạch đất duy tuyệt. Cho nên trời nghiêng về Tây Bắc mặt trời mặt trăng và các sao tựu hội. Đất chẳng khắp Đông Nam nước trăm sông từ xa kéo về. Dương
Châu nói: Việc Thái tổ (quá xưa) mất rồi ai ghi chép. Việc của Tam Hoàng hoặc còn hoặc mất, việc của Ngũ đế hoặc biết hoặc không, việc của ba vua hoặc ẩn hoặc biển. Theo lời biện biệt của Dương Tử thì ta là chất gì. Trọng Ni nói: Ngũ (5) đế là dùng ở thuyết Tam (3) vương là dùng ở độ, xa thì chỉ do ngôn thuyết, gần thì cần pháp độ. Trung Quốc coi cái cao nhất trong thiên hạ thì không gì to cao hơn gò (núi) Côn lôn. Trên có mây (ráng) năm phương, dưới có sóng năm sắc. Nếu không phải là bậc Đại nhân lịnh tiên thì không đến được. Cho nên vua Huỳnh Đế lên đó trông về phía Nam mà trở về, vua Chu Mục vương đãi yến Vương Mẫu ở Dao trì. Bèn từ đó mà lồng lộng giáng xuống sức tạo hóa.
Riêng Phật giáo thì lấy núi Tu-di cho là lớn nó từ nước biển mọc lên cao, tám vạn do-tuần cao rộng do bốn báu tạo thành, dưới bốn phía đều có tầng bậc. Trên hết thì có cung điện của trời Tứ đại (thiên) vương làm rào ngoài cho Đế-thích mà giữ gìn Tu-la. Ở trên đảnh Tích-lô vuông vức tám vạn do-tuần thì bằng phẳng và êm như bông, là nơi đóng đô của Đế-thích. Ở bốn phương có tám trời bao vây hầu vua ở giữa là trời ba mươi ba (Đếthích ở đấy, là trời Đao-lợi nhiếp giữ cả ba mươi hai trời kia). Các núi trên biển có nhiều trời ở trên đất, bởi là kinh đô của bốn trời Tứ thiên vương. Đó là phương trượng Bồng Lai, năm rất dài, cõi rất đẹp, ngọc vàng sáng rực làm đầu đài lầu các.
Chuyên làm Tiên đạo, là nơi tập họp dạo chơi của các thần tiên. Nguyện làm vây cánh mà ở, làm đùi vế mà hộ vệ trời Đế-thích, có nghiêm có dực mà thống lãnh các trời. Chiếu trùm các cõi, ngự điện Thiên luân, lưới kết châu sáng rực cả vùng mà hiển bày các thứ. Cho nên tội phúc sống chết thọ yểu, cát hung, gặp gỡ đều hiện rõ trong châu. Thế nên bậc thượng lưu (Thánh hiền, vua quan). Có tội thì trời hình phạt, còn tội của kẻ hạ dân thì trời nhờ các bậc ấy hình phạt. Còn người thiện thì có phước cũng như thế. Người quân tử thì nói họa phước do mạng trời, nói giản dị là do lòng vua. Lại nói cát hung chẳng lạm (quá mức), nói Càn đạo (đạo trời) là chánh. Cho nên Thần nông hậu tắc ở người thay trời mà nuôi Cao Đào và Bổ Hình thay trời mà hình phạt. Vua Thành Thang phát từ nhà Chu thay trời mà đánh dẹp. Truyện nói Triệu Bá thay trời mà trị. Hoặc là hướng từ dùng năm phước (là thọ, phú, khang ninh, Du Hảo Đức, Khảo Chung Thọ), oai thì dùng sáu cực (là hung đoản chiết, tật, ưu, bần, óc, nhược). Không phải là Thánh nhân thì không thể thấy được các hiện tượng của luân thường. Đại phạm là tôi của Đế-thích, Đế-thích là tôi của Tứ Thiên là tôi của các thần (Đại phạm có tôi là Đếthích, Đế-thích có tôi là Tứ Thiên, Tứ Thiên có tôi là các thần) cho đến các hậu. Sách nói: Dám dùng trâu đen mà cúng tế chiêu cáo các Thiên thần hậu, ngẫu nhiên mà được chẳng phải đại thiên ư? Nếu chẳng thể thì trời xanh không thơm không thúi, ai thật là chúa tể. Phàm có việc ở Viên khâu mà tế Hạo Thiên Thượng đế, cúng tế các thần ở bốn phương, lễ mặt trời mặt trăng và các sao. Đây hoặc là thơ (việc) các trời Đại Phạm vương, Thiên Đếthích, Tứ thiên vương v.v... phàm năm khí năm giao Đế lên đàn, họp tế năm thần, cùng tế trăm thần hoặc là Tứ thiên vương Đế-thích. Chỉ đời sau làm theo phép xưa đã bày. Xưa tức là thời Hồng Hoang rất thuần phác tỉnh lược, đều do chiếm cứ đất đai theo vận khí Ngũ hành, mà thành, bày ra lễ kinh gọi là thần kỳ (tế thần), giết vật sống mà cúng tế, tên có khác, nhưng việc thì phù hợp giống nhau. Nên ở Tây vức không có đàn để cúng tế mà có đền Trời (Thiên Tử) cũng có phong tục giống cõi Hoa Hạ (Trung Quốc) này.
Xưa Triệu Giảng Tử hưởng vui ở Điếu thiên, vua Tần Mục Công lạy ban cho Thuần Thủ. Bởi Thần cùng Trời giao nhau, hồn đi mà thân còn, cao thấp tuy xa mà ứng rất gần. Giáp Sanh làm Tố Bị Phát. Lưu Ước có thỉnh Mỹ Ngọc. Bởi trời trao cho linh tính bày chết cho biết, nếu không thì dân thường ai tin.
Từ ba mươi ba trời này đều ở trên không nếu không có thần thông thì chẳng đến được, phàm có hai mươi sáu trời ở trên nhiều từng mây, sống rất lâu (từ năm trăm năm đến tám vạn kiếp). Hoặc là mây nhỏ hoặc là hình nhỏ hai mươi tám trời này cả bốn loài trong ba cõi đều nhiếp hết.
Hổn Thiên Nghi nói: Trời như cái trứng gà, đất như lòng đỏ mà ở trong trời. Trời lớn đất nhỏ, trong ngoài có nước. Trời đất đều nương mây mà đứng, nước nâng mà nổi.
Có người thích hỏi bảo rằng: Bàn Cổ kia nói: Nơi nào đất dày thì đến đó mà ở, ngoài Hổn Thiên ra thì ai che chở. Mà một nhà học giả ấp úng lo nghĩ gì để được việc ấy-Sông xuất phát từ núi Côn lôn, chảy về tích chứa ở Thạch sơn bị vua Võ mở đường dẫn nước đi, chảy qua Trung Quốc rồi dần chảy ra biển Đông. Sông Hoàng hà này từ ao Anậu-đạt chảy ra. Ao này từ phía Bắc Trung thiên qua Thất hắc sơn đến phía Bắc núi đại Tuyết sơn và Hương túy sơn, mà chảy ra phía Nam hai núi ấy, vuông vức năm mươi do-tuần, bốn báu làm bờ, bốn mặt đều chảy ra một sông lớn rồi chảy về Đông. Các sông này từ Thông sơn phân lưu mà chảy ngầm.
Phù Tang Linh Kha lên ở Đại Minh, hoặc đây là cây Diêm-phù, nó lớn cả trăm do-tuần, quả nó ăn được, đầy cả vùng cực Nam ở châu này. Các và chim to lớn tức là loại cá Ma-kiệt và chim Ca-lăngla (kim sí điểu). Vua Sở chẳng biết được loại bèo thật, người họ Tạng sai đem tế ở Viên cư. Nếu như không gặp Thánh Khổng Tử thì liền bảo hai vật ấy là lạ lùng. Cho nên Phương Hạ xưa nay, nước Yên nước Việt ở trong quan ải ở ngoài quan ải thì lời nói ấy với vật đồng mà tên chẳng đồng (phương là bốn phương, Hạ là Trung Quốc, Yên ở Bắc, Việt ở Nam nói năng tên gọi có chỗ chẳng đồng). Nếu là khác cõi sao lại là đó-Ở chân núi Tu-di nước tám công đức dùng làm biển lớn (nước tám công đức: Một là trong, hai là lạnh mát, ba là nhẹ, bốn là mềm mại, năm là thơm, sáu là chẳng thúi, bảy là uống vào không hại cổ họng, tám là không hại bụng), sâu rộng cùng đồng với Tu-di. Biển bao quanh núi. Bên ngoài biển lại có hai núi như biển Luân vi, cao dày bằng phân nửa núi Tu-di. Trên ngọn cao ngang mặt trời mặt trăng. Có các núi khác biển khác vây quanh, đã thấp lại hẹp, ngoài núi thứ bảy mới có biển mặn. Mà bốn đại châu ở bốn mặt núi Diệu cao đều ở trong biển mặn. Đó gọi là một tiểu thế giới, một ngàn tiểu thế giới gọi là tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên gọi là một trung thiên, một ngàn trung thiên gọi là một đại thiên. Đó thì biết trời đất vô cùng. Phẩm vật lưu hình cái gì ở ngoài Lục hạp. Áo Nho áo Đạo danh và lý đều cao quí. Có Vụ Huyền tiên sanh luận sâu Nho học, nhà có nhiều sách đạo, bảo rằng từ xưa nay tôi bình chú thì chỉ có đạo Phật là rộng lớn. Tôi không thể nghĩ bàn, tuy là cuối đời của Thánh nhân đều được bã rượu mà chua ngọt mập gầy ai chẳng nói là khác. Cho nên kiếp xa nếu chẳng phải Lệ Thủ thì không thể tính đếm, Diệu Linh nếu chẳng phải là khoa phụ thì chẳng toại lòng. Bởi Đông, Tây, Nam, Bắc bốn biển đều có bờ. Hỗn Nghi, Chiết Thiên, Thiên Khung Long Tuyên Dạ, trải tạo hóa một khối mà thôi. Xưa là Thánh nhân Trung Quốc biết đến (nay) mà dấu đi (xưa), xét đi (xưa) mà biết đến (nay), xét hết Thần mà biết Hóa, rõ đầu mà biết cuối. Dẫu chưa đến (phi thời-không phải thời) nhưng đạo chẳng dối làm. Vả lại sửa kinh Bá Ích mà biết dấu vua Đại Vũ, đặt ra Tam cương, Ngũ thường, lạy khắp Hoa Hạ, đó gọi là một thiên hạ. Đến như bốn loài rợ Bì Phục, Điêu Đề, Tả Nhâm, Cùng Phát đối với Vương Hóa còn thô lậu đều theo về cống nạp. Có đến thì ghi chép còn không thì thôi, huống là cả đại thiên mênh mông không bến bờ, phương sách lại thiếu, không muốn nêu thành văn. Có người cho họ Thích (Phật giáo) là dối lừa (sanh ra), ấy là ganh nhau. Phàm dối lừa (sanh ra) thì trời đi (trừ đi?) từ lâu, sao được truyền khắp (đi trong) thiên hạ. Thật đáng sợ thay ngọn cây thương thâu phương mà cười Nam minh (biển Nam) là xa. Cho nên đem tâm Thánh nhân mà cầu thì vạn thứ đều được, còn đem tâm hẹp hòi mà cầu thì một việc cũng không thành. Như việc hai nước Man và Xúc nghe thân người Tiều Nghiêu cao một thước rưỡi, người Chu Nho cao ba thước mà thật sợ, còn người Tiều Nghiêu và Chu Nho nghe người Phòng Phong Dưu Man và Rợ Trường Địch Kiều Như thân cao ba trượng, xương chất đầy xe, cổ họng rách nát thì cái sợ cũng như Man Xúc nghe Bành Tổ bị hại bởi Thương Tử mà không biết là Thương Tử của Vương Mẫu-Con rắn bò ngoằn ngoèo mà đi nhanh hơn gió, con quì một chân mà nhảy nhanh hơn rắn. Cho nên riêng nhỏ mà chẳng biết lớn, riêng gần mà chẳng biết xa, riêng cô quả một mình là khác biệt đông. Sao không đúng như thế ư?
----------------------------
Đạo khế hợp với vô vi, có nhơn và đức cao hơn người, hóa khắp muôn hạnh thì gọi là Thánh nhân đây là chỉ cho Phật Thích-ca Mâu-ni giáng sanh.
Đó là 08 tháng 02, mùa xuân năm Giáp dần đời Châu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, Đại thánh sinh ra ở nước Ca-duy (Ca-tỳ-la-vệ-dưới cây vô ưu, tại cung thành vua Tịnh Phạn ở Trung Ấn Độ) khắp bày Đức giáo ở Ngũ Thiên trúc mà người Châu không biết.
Trước hết sông suối dâng đầy, đất đai rúng động khí lành bay lên không xâu suốt Thái vi khắp hiện sắc xanh hồng ở phương tây. Vua hỏi Thái sử Tô Do rằng: Điềm lành gì thế? Thái sử đáp: Có đại Thánh nhân sinh ra ở Tây phương. Vua hỏi: Đối với thiên hạ như thế nào? Đáp rằng: Bây giờ thì không có gì khác, nhưng một ngàn năm sau thì Thanh giáo truyền dạy khắp phương này. Vua nhơn đó khắc bia đá để ở Nam giao. Xưa nước Cao Ly hỏi người Tề thì sư Pháp Thượng cũng lấy văn này mà đáp. Phàm Chiêu Vương nối nghiệp các vua Văn-Võ-Thành-Khang đem hình phạt trị nước. Có dịp suy nghĩ về vô vi, cẩn trọng về Đạo mà mắt thấy các điềm lành nhưng tâm không tinh cầu. Bởi phước ứng đến đây cho người có số.
Xưa thế giới mới thành có ngàn hoa hiện ra là xa báo tin ở Hiền kiếp có ngàn Phật ra đời. Nay là kiếp giảm thứ chín, tuổi thọ của người từ sáu vạn tuổi xuống còn trăm tuổi, mà bốn Phật hiện ra đời (Phật Câu-lưu-tôn ra đời người sống sáu vạn tuổi, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni ra đời người sống bốn vạn tuổi, Phật Ca-diếp ra đời người sống hai vạn tuổi, Phật Thích-ca ra đời người sống một trăm tuổi). Các Phật khác ở khắp kiếp giảm khác. Đại thánh nối tiếp Phật xưa từ cung Tri túc (Đâu suất) giáng thần sanh vào cung vua, chiếu sáng khắp trăm ức, từ đó mà theo các trời đại oai đức đến các thần quỉ trên dưới biết đã đúng lúc. Bèn ở vườn Tỳlam dưới cây Ba-la (vô ưu) mà từ hông hữu sanh ra. Xưa người sanh ra có ráng hồng thì được làm vua trị đời, cho nên Đại thánh cũng dùng voi trắng làm điềm lành. Xưa vua Nghiêu có tám lông mày hai đồng tử mà làm vua lớn, cho nên Đại thánh cũng dùng ba mươi hai tướng mà biểu hiện ngôi bậc. Nước có Lão tiên (vị Tiên già) bảo vua rằng: Than ôi, Vương tử có tướng kỳ lạ, nếu ở tại gia thì làm Chuyển luân vương, nếu xuất gia thì sẽ thành đạo Vô thượng. Xem tướng hảo đẹp sáng tỏ ắt là chẳng ở tại gia. Vua Tịnh Phạn nghe nói thì lòng rất buồn lo. Thật là nối ngôi nước không phải ở đây thì họ ta sẽ mất. Dân chúng không bảo hộ con cháu mà xưng là khách của nước thì nước ấy sao còn. Mưu đồ được an thì hết lòng làm, lập người giữ gìn và dạy dỗ, trải các việc học bắn cung cỡi ngựa. Vương Tử bèn ngồi xe dê đến trường học, học ba điều: phụ-quân-sư trưởng. Từ đó ngồi voi khảy đàn bắn cung cỡi ngựa đấu vật đánh nhau, làm đủ các thứ đều đứng đầu thiên hạ. Lại làm cung Thiếu dương rồi tìm chọn mỹ nữ hầu hạ và cưới con gái của vua Thiện Giác là Gia-du-đà-la dung nhan đẹp đẽ tiết hạnh đoan trang, dùng đủ mọi thứ âm nhạc hay quí cốt làm vui lòng Thái tử, tổ chức yến tiệc vui chơi. Nhưng Ngài vẫn tai ngơ mắt lấp mà chuyên tinh đạo tánh. Vào ngày 08 tháng 02 tiết xuân, thời cảm ứng đã đến nên quỉ thần họp bàn mưu giúp. Đêm chưa hết, buồn thương dằn lòng, chán việc vợ con, phóng ngựa bay lên không, đến Thanh sơn mà cắt tóc. Thể luôn vui mà hóa độ thiên hạ. Than ôi, người tính thua quỉ tính, quỉ tính thua trời tính. Người mưu tính là theo dục, trời mưu tính là theo đạo, quỉ không phải kẻ địch của người huống lại giúp trời ư? Thế nên lính giữ thành bỏ cửa, kẻ canh gác lỏng lơi, người tấu nhạc im tiếng. Vì họ hôn mê không rảnh rang há làm tròn chức phận. Cho nên chất sanh ra tuy nói tánh trời, công còn độ vật mà chẳng được làm Thiên tánh.
Vua cha thấy Thái tử chậm trở về cung âm thầm nhìn núi rừng người đi mãi không về, bèn khóc lóc ủ-ê. Rồi mời trong tộc họ các anh em cậu chú năm người mà đến tìm. Khiến hầu hạ ấm lạnh giúp Thái tử hành tàng mà không trái ý Thái tử, qua sáu năm thì đều tỉnh ngộ. Tu khổ hạnh mà chẳng được công đức gì. Bèn cho bụng no mới là chí đạo. Rồi tháng ấy ngày ấy đêm ấy khi sao hôm đã chuyển, các động đã yên, ngồi tòa Kim cương như rồng cuộn khúc, dứt hết đại nạn muôn đức đến chầu. Lồng lộng nhiều kiếp hồng huân bèn như một phút giây. Phàm như những vật nhỏ nhặt dần dần tích chứa từ lâu xa như nhiều bụi của đất, nhiều đá của núi, nhiều giọt nước của biển bỗng chốc mà thành đại dụng. Đại sĩ đến tu Đại hạnh làm thiện không trái dùng hạnh nguyện Phổ Hiền mà vào tất cả. Cho nên vào sáng nay thân ấy khắp ngồi tất cả Đạo tràng. Mà kẻ tiểu trí thì thấy là thân trượng sáu bậc Đại sĩ thì thấy lớn xa. Lớn xa thì bao gồm báo thân, còn trượng sáu thì là hóa thân. Nó cũng như ngồi đáy giếng nhìn trời tùy miệng giếng lớn nhỏ mà thấy trời rộng hẹp. Thương thay biển khổ chìm nổi thác dữ cuốn trôi, gặp ai trước để độ thoát. Do đó, mà nhìn quanh dụ dự trải hai mươi mốt ngày đêm. Rồi đi nhanh đến vườn nai. Vườn Thí lộc Phật xưa đã hóa độ. Nay được năm người ở đất này (là năm anh em Kiều Trần Như) họp với chuyện xưa. Kịp đi ba lần Chuyển pháp luân mà chứng ngộ chẳng đồng. Lúc ấy Thần đất lên tiếng trăm thần đều theo, trên thấu chín trời, dưới thông Địa phủ, khắp cả tám phương trời người đều mừng vui, mặt trời mặt trăng chiếu sáng không ai chẳng vui mừng khen ngợi, quần linh hòa vui, muôn Thánh suy tôn Đại giác là Pháp vương. Lúc đó là thời Châu Mục Vương nước Cực Tây có Hóa nhân đến, vào được nước lửa, xuyên qua vàng đá núi sông, dời được thành ấp, bay trên không chẳng rớt, gặp vật cứng không ngăn cản được, ngàn biến vạn hóa vô cùng cực. Đã đem hình biến đổi vật lại lo dị nhân. Mục Vương kính như thần, thờ như vua. Hóa nhân bảo vua cùng dạo chơi. Vua nắm tay áo Hóa nhân bay lên không trung mà đến cung điện của Hóa nhân. Cung điện cấu tạo bằng vàng bạc và châu ngọc, ở trên mây mưa chẳng biết ở dưới là đâu, nhìn thì thấy toàn mây. Vua bèn ở đấy mấy ngàn năm chẳng nhớ quê cũ. Hóa nhân lại rủ vua cùng đi. Chỗ trở về ngước chẳng thấy mặt trời mặt trăng, cúi nhìn chẳng thấy sông biển, ánh sáng chói lòa chẳng thấy được gì, tiếng vang dội tai chẳng nghe được gì. Vua xin Hóa nhân trở về. Hóa nhân dời đi, vua như từ trên không rơi xuống. Tỉnh lại ở chỗ ngồi như cũ. Vua hỏi ở đâu về, tả hữu nói vua chỉ ngồi im vua từ đó ba tháng không trở lại (nhớ gì). Lại hỏi Hóa nhân, Hóa nhân nói ta cùng vua thân vía dạo chơi, thân sao động được. Lại chỗ ở xưa đâu có cung vua khác, chỗ dạo xưa sao khác vườn cũ. Vua rất vui. Bỗng nghĩ đã gặp Phật nhưng chưa biết là Phật. Tiếc thay! Vua nói phàm người chưa thấy Thánh hoặc không được thấy. Đã thấy thánh rồi cũng chẳng do thánh (dùng được), thật là ở đây. Cây Bồ-đề rậm mát, tòa Kim cương bất động. Cây là biểu thị cho tòa, ngồi tòa ấy thì nhờ cây ấy. Cây ấy tốt đẹp chớ chặt chớ đốn, tòa ấy chắc chắn chẳng sụp đổ. Thánh nhân thành đạo mà đức trong cả thiên hạ. Chỗ này ghi dấu thánh tích nơi khác không có. Cho nên Tiên vương ngoại quốc, khắc đá làm tượng Nam Bắc nêu chí để xem Di hóa.
Lão Tử sanh năm Châu Định Vương ba, ngày 14 tháng 09 tại nước Sở, quận Trần, thôn Lại, làng Khúc nhân, họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bách Dương, thụy là Đam. Trọng Ni sanh ở năm Lỗ Trương Công hai mươi, mùa Đông, thôn Bình nước Lỗ. Lão Tử ngầm biết Năng Nhơn (Phật?) Trọng Ni hỏi Lễ với Bách Dương về kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh, lấy Đại Ca-diếp làm Lão Đam, lấy Nho Đồng Bồ-tát làm Khổng Khâu
-Kinh Thăng Tây (tức Đạo Đức kinh) nói: Thầy ta hóa đạo Thiên trúc khéo nhập Nê-hoàn. Đây bèn giữ gìn đạo không dám đứng trước thiên hạ. Đức của Lão Tử toàn là ở đây. Thi nói: Không ganh đua thì chỉ có ở Lão Tử. Phù Tử nói thầy của Lão Tử là Thích-ca Văn. Đây hoặc là theo lời Lão Tử. Xưa Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng: Ngài (Phụ Tử) là Thánh chăng? Đáp rằng: Ba vua khéo dùng trí dõng, Thánh thì Khâu này không biết.-Năm đế là Thánh chăng? Đáp: Năm đế khéo dùng nhơn tín, Thánh thì Khâu này không biết.-Ba Hoàng là Thánh chăng? Đáp: Ba Hoàng khéo dùng thời chính, Thánh thì Khâu này không biết. Thái Tể kinh hãi hỏi vậy lấy ai làm Thánh nhân. Phu tử nghiêm sắc mặt đáp rằng: Ở phương Tây có Thánh vậy. Chẳng trị mà không loạn, chẳng nói mà tự tin, chẳng dạy mà tự làm. Thênh thang người không thể gọi tên. Thể mới biết đạo nho sáng rỡ như mặt trời trên không nhưng lại khiêm nhường như thế, bởi Thích sư đã ngầm hóa độ-Ba giáo Huyền thuyết đồng nhau, (?) chỉ có pháp Bi có nhiều cách, kinh sách có nhiều môn Thích tông thì dùng nhân quả, Lão Tử thì nêu hư vô, Trọng Ni thì dùng lễ nhạc. Từ cạn vào sâu, lời huyền vi làm giáo thích họp với đương thời, giúp nhau làm đẹp. Cũng như trời đất bốn mùa nếu không có lúa thóc rau cỏ thì chẳng phải xuân, chẳng có cỏ thì chẳng phải thu. Cho nên Nho giáo thà dần đến (Tiệm chí), Ân Thang sửa chú, chỉ câu và không lưới cá. Lão Giáo thì Trung chí, một là từ, hai là kiệm, ba là chẳng dám đứng trước thiên hạ. Thích giáo thì Cực chí, từ chim thú nếu giết hại đều bị trừng phạt. Như có người dùng Thích giáo khiến người ở lậu tận như có người dùng Lão giáo khiến dân rất xung hòa.
Như có người dùng Khổng giáo khiến dân lên Nhơn Thọ. Do đó Đại thánh (Phật) sanh ra đời Châu Chiêu Vương. Người năm thiên, ấp ngàn thặng, vua trăm xe đều do Thánh trí-hai giáo sanh ra ở đời suy mà Đại Đạo rất cao rộng, cho nên Lão Thánh, ngầm ở Long Đức ẩn ở Trụ hạ, Tử khí xông lên ở quan ải xa đến Lưu Sa. Trọng Ni thì Tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiếu chương Văn Võ, từ Vệ trở về Lỗ mà sửa kinh Xuân Thu Cảm Linh Ứng ấy tay áo lau mặt bảo đạo ta đã cùng, đều chẳng phải chí ta. Mà kẻ biết đạo thì có quan Duẫn, kẻ biết đạo Nho thì có Nhan Hồi làm hai giáo thì có Bá vương (trăm vua?). Lão Tử là Cao Tiên, Trọng Ni là Tố Vương. Thánh mưu mênh mông cùng với trời đất mà vô cùng. Lúc đó có người thấy giận (Uẩn kiến) bảo rằng: Nếu chẳng chê đè hai giáo thì dạy mà có đức nào. Tôi bảo ông ấy chẳng biết chỗ mâu thuẫn. Kinh ta đã do hai người chí hóa đến nay đã suy vi (Ca-diếp là Lão Tử, Nho đồng là Trọng Ni) thời trái nghĩa ấy.
Năm Châu Mục Vương thứ năm mươi hai, Nhâm thân, ngày 15 tháng 02 thì Đại Phật Thánh tịch diệt. Ngày ấy mây đen bốn hướng nổi lên, gió bão, đất đai rung chuyển, ở phương Tây có mười hai luồng ráng trắng xuyên ngang Nam Bắc suốt đêm không mất. Đó là tướng suy.
Đầu tiên Mục Vương nghe phương Tây có
Thánh nhân lại thấy khí sáng, lo không trọn Chu Đạo bèn sai Lữ hầu hội họp chư hầu ở Đồ sơn để dự bị có tai biến đến, đó đều là khải ốc (bầy tôi khuyên vua làm tốt).
Thuở xưa Đại thánh phó thác pháp tạng cho Đại Ca-diếp. Việc xong đến Song lâm Đạo tràng. Cuối cùng nằm trên giường bảy báu đầu xây về Bắc trong đêm vắng lặng im không tiếng động, mặt trăng Chánh biến tri ẩn vào núi Niết-bàn. Muôn thứ chấn động, suối khô núi sụp, ác tinh chợt rơi các sông chảy ngược. A-nan tâm chìm biển lo âu. Lahầu-la chỉ quán vô thường, bậc hữu học và vô học đều sầu thương. Các trời than khổ thay rừng Ta-la. Bốn đôi tám lẻ họp thành hai cây mà buông rủ xuống, đua bày sắc trắng bạch hạc nên gọi đó là cây hạc. Cành lá đều ngậm sương, đông giá chẳng điêu tàn, cho nên gọi là rừng kiên cố. Khi xưa lúc Đại thánh sắp ở vô vi từ thành Tỳ-xá-ly ra đi đến bờ sông Nam (phía Nam sông Hằng) Phật ngồi trên tảng đá vuông bảo A-nan rằng đây là lần cuối cùng ta thấy tòa Kim cương và Vương xá thành mà lưu lại vết tích. Cho nên nay trên đá có dấu hai chân Phật dài một thước tám tấc rộng sáu tấc (một thước ba), dưới có tướng ngàn nan xe chỉ rõ muôn chữ hoa văn và bình cá rất rõ ràng. Từ xưa đám tà chê hủy mà lại trở về nguồn (khôi phục lại?). Giáo này Thánh nhân gởi dấu để biểu thị giáo, giáo còn mà dấu chẳng mất. Người xem khóc chỗ nương nhờ mà nghĩ luôn còn tháng hai thời Châu nay là tháng mười hai, vào đêm rằm ở Ấn Độ. Tháng mười hai ấy lấy tên sao mà gọi. Sao mới mọc là sóc, sao lặn là hối, cho nên ngày mười sáu nay phải là sóc họp với ngày ba mươi mà thành. Nửa tháng trước gọi là Hắc phách tử, nửa tháng sau gọi là Bạch minh sanh. Phân mười hai tháng làm ba thời, gọi ngày mười sáu tháng giêng ngày mười lăm tháng năm là Nhiệt Tế. Từ ngày mười sáu đến ngày mười lăm tháng chín là Vũ tế, từ ngày mười sáu đến ngày mười lăm tháng giêng là Hàn tế. Gió lạnh nóng cùng lịch tượng này hội nhau. Xưa chánh (tháng giêng) ba đời có chỗ lấy bỏ. Họ Hạ Hậu chuộng đen, mà lập Dần làm chánh (tháng giêng). Người Châu chuộng đỏ mà lập Tý làm chánh (tháng giêng). Mà Đại thánh (Phật) sinh ra ở đời Châu nên lấy tháng mười một làm tháng giêng (chánh) khác với đời nay.-Tháng ấy trời đất chẳng mở, rồng rắn trốn mất, Vi Dương ngầm bày ở dưới suối, mầm hung chưa ló lên trên đất. Vì sanh này ứng khí vận mà đến, vì diệt này ứng với đại tạ mà đi phàm ở cuối mà chẳng chết là không phải Thánh nhân. Đã chết mà chẳng thể sanh là chẳng phải Thánh nhân. Chẳng chết chẳng sanh mà có thể sanh chết thì gọi là Đại Thánh nhân. Mà trong Lục hạp vạn loại theo chức phận, không làm hại hữu vi, không làm hại vô vi. Sanh mà lại sanh, chưa bắt đầu mà có cùng cực. Mà Thánh nhân ứng sanh thì sao lại có cùng cực. Do đó mà Đại thánh sanh cái sanh của đời, diệt cái diệt của đời sanh diệt là vật chắc chắn chẳng ở mình.
Ngày mồng tám sanh ra biểu thị cho hoa đầu tiên trọn đầy. Ngày mười lăm mà tịch diệt là hiển bày đầy mà lại vơi. Đầy thì thấm nhuần hoa, vơi thì hại đầy. Xét ngày ấy để thấy sanh diệt là hữu vi. Lại phương hoạch mà sanh, phản hoạch mà chết. Bởi sanh là hiển rõ tử hối, là trưng bày sáng suy nghĩ mà tối biếng nhác. Than ôi! Quần sanh lăng xăng như ở trong mộng. Hoặc có người thấy Phật sanh đó diệt đó, sống đó chết đó, thể thường còn đó vốn chẳng sanh. Thí như ngủ cùng nhà mà khác mộng. Người mộng cũng chẳng biết mình mộng. Lại có bậc Đại giác biết rõ người ấy mộng, quả có phân mà khác, chẳng thể họp cái đồng ấy mà đồng là chẳng thể lìa cái khác vậy.
Nếu năm Châu Trang Vương thứ mười là Phật sanh là xét theo Sử Lỗ, cắt cong ý kinh chỉ là nhiều xuyên tạc-Có nơi lấy 15 tháng 03 là ngày Phật diệt độ, bởi Tây vức theo lời Tỳ-la-bộ, các thuyết khác thì không như thế. Lão thánh là Tần dật đến Điếu như lại về Châu. Trọng Ni mộng Điện ở lưỡng Doanh-Xét vạn hóa mà đồng hết. Trí trời sanh ra ở vũ trụ, chết rồi về vũ trụ. Đó là chơn hay quyền. Chơn thì tượng Thánh, quyền thì nải Thánh. Nếu chẳng phải chơn chẳng phải quyền thì do thấy mà tâm có khởi diệt (khởi lên và diệt mất).
(Thiên này nói về lý do kiến lập ra kinh luật luận là giáo pháp một đời của Như lai).
Dưới gốc cây, nhiếp phục quân ma, giúp cho thiên hạ được thái bình (Đức Phật lúc mới thành đạo, ngồi trên tòa Kim Cang dưới cội Bồ-đề tại thành Già-da, dùng năng lực trí tuệ nhiếp phục ma quân, giúp cho pháp giới vắng lặng), thương xót thế gian mà lập giáo suốt bốn mươi chín năm (vì ba mươi tuổi thành đạo, bốn mươi chín năm nói pháp độ người, bảy mươi chín tuổi nhập diệt), chia kinh, luật, luận làm ba tạng (kinh là Tu-đa-la tạng, luật là Tỳ-nại-da tạng. Luận là Ma-đắc-lặc-già tạng), dùng năm giới, mười thiện, bốn Đế, mười hai nhân duyên, sáu độ làm năm thừa (năm giới là nhân thừa, mười thiện là Thiên thừa, bốn Đế là Thanh văn thừa, mười hai nhân duyên là Duyên giác thừa, sáu Ba-la-mật là Bồ-tát thừa). Bao gồm mười hai phần (một là Khế Kinh, hai là trùng tụng, ba là ký biệt, bốn là trùng thuyết, năm là tự thuyết, sáu là duyên khởi, bảy là thí dụ, tám là bản sự, chín là bản danh, mười là phương quảng, mười một là hy hữu pháp, mười hai là luận nghĩa. Cũng gọi là mười hai bộ giáo). Khai bốn tông: (Kinh, luật, luận và chú), (Âm giáo vừa mới khởi mà hiệp cả pháp tâm, có nhắm đặt đó gọi là Cam-lô, cũng có khi cho đó là Trống Độc (Tùy theo bệnh mà, trừ nhiệt não nên gọi là Cam-lộ, chẳng đúng bệnh, khởi phiền não nên gọi là trống Độc). Đấng Chí thánh đã thị tịch mà di ngôn gần dứt, Vương Thành mới đầu nhóm họp đến Thạch Thất (Chí thánh tức Đức Như lai) Đại Ca-diếp vội bảo một ngàn vị Ứng chân, soạn định thuyên tựa để không rơi lạc, thiếu sót yếu chỉ (soạn âm là tuyển, Đức Phật diệt độ, sau khi Trà-tỳ, Đại Ca-diếp bảo ngàn vị La-hán đến hang Tất-bát-đa, kết tập pháp tạng, thỉnh vua Vô Ưu làm chủ Đàn hộ). Quy thị thi vị ấy (thi là chủ, Quy thị là Ca-diếp). đầu tiên là ngài Ưu-ba-ly được đề cử tụng luật Bộ (Ưu-bà-ly là thợ cắt tóc cho các Thích Tử, khi các Thích Tử xuất gia, bèn trao vòng xuyến v.v... cho, Ưu-bà-ly được rồi trong tâm tự nghĩ: Các người này tánh cao thể quý mà còn xả bỏ, huống chi ta kẻ hèn, giữ vật báu chỉ chịu khổ, bèn treo lên cây, nếu ai cần thì tùy ý nhận dùng, do đó cầu xin xuất gia, thường mở rộng luật Bộ). Ưuba-ly rời chỗ ngồi mà đến tòa (Đại Ca-diếp lúc mới đầu ở Tất-bát-la-đặt-ba pháp tòa, một khiến kết tập luật tạng, một khiến kết tập kinh tạng, một khiến kết tập luận tạng. Nên Ưu-ba-ly rời khỏi chỗ ngồi mà đến tòa này) đảnh lễ dưới chân chúng tăng rồi bước lên, tay cầm quạt ngà voi, đúng như những điều trước kia Phật nói, không trái lỗi văn tự (mỗi một đều y như Phật hiện còn mà nói, chẳng thiếu một câu một chữ). Một ngàn vị Lậu tận thay nhau quán xét thay biên ghi, lại đáp lại lời đó, sau mới quyết định, đủ tám mươi lần, nên gọi là Bát thập tụng (Ưu-bà-ly ghi nhớ toàn bộ mà nói. Đại chúng ghi chép xong mà kết tập. Kế đến, bảo A-nan (Anan vốn vì còn ở giai vị hữu học, chẳng được dự vào số chúng, bị đuổi ra ngoài hang, bèn đem ba cõi chín hoặc buộc thành chín loại, khởi chín thứ vô gián đạo đoạn, chín giải thoát đạo chứng. Sau đó được ba minh sáu thông, dùng thần cảnh thông, theo lỗ hổng ở cửa mà vào, nên được dự vào hội. Ca-diếp bèn bảo kết tập Kinh tạng, Ca-chiên-diên kết tập Luận tạng). A-nan đáp: Thường vâng, như Ưu-ba-ly, qua ba tháng, Ẩm quang ngu dật vong, dùng lực trí nguyện quán sát đó không biển mạn (Ẩm quang tức là Đại Ca-diếp, ngu là lự, Dật vong là tan mất, sợ trải qua dài ngày tan mất, bèn thường dùng trí nguyện để quán xét không biển mạn). Phàm trăm năm đường dài rộng, người dùng biết dạy răn (từ sau khi Đức Phật diệt độ, Ca-diếp mở mang pháp tạng hai mươi năm, rồi giao phó cho Anan, cũng hai mươi năm lại giao phó cho Mạt-điền-địa, hai mươi năm, Mạt-điền-địa lại giao phó cho Thương-na-hòa-tu, hai mươi năm sau Thương-nahòa-tu lại giao phó cho Ưu-ba-cúc-đa, năm vị cộng lại thành trăm năm, mở mang và hành trì pháp tạng). Sau trăm năm, Ưu-ba-cúc-đa trái thế, pháp tham … trục (trái thế là viên tịch, phục bên ngoài, gọi là tham v.v… là tàn, dụ cho sau khi Ưu-bà-cúcđa thị tịch là pháp thừa bị tổn hủy). Tuy bạc xà can hỷ chiếm dấy mười lỗi, mà gồm bảy trăm người như Ly-ba-đa, v.v... không đắm dính mắc, như kim bộc cô mà xuyên lỗ cảo (sau khi Đức Phật diệt độ trăm năm, tại nước Tỳ-xá-ly, có Tỳ-kheo Bạt-kỳtử nói mười việc là thanh tịnh, đó là chỉ thức ăn khô, uống sao, nhận cất vàng bạc v.v... mười việc đều bị Phật cấm không cho phép. Trưởng lão Lyba-đa và tất cả đến chỗ thượng tọa Tam-phù-na và bảy vị La-hán Trưởng lão ở thôn Sưu-bà v.v... làm pháp Yết-ma mà dứt diệt tội đó, soạn ra Luật Tứ phần năm mươi bốn quyển. Cảo là lụa trắng, kim bộc cô là tên mũi tên, Lỗ Trang Công dùng để bắn Cùng Trường vạn). Thế rồi, Đại trưởng lão Ma-hađề-bà (tức Đại Thiên, vốn là con của một vị thương chủ nước Thổ-hỏa-la, nhân người cha đi xa, bèn gian dâm với mẹ, khi người cha trở về bèn giết cha, sau cũng giết cả mẹ, và A-la-hán. Do sợ tội mà cầu xuất gia, rất thông minh, rộng thông ba tạng) trộm danh của bậc thánh, cậy thế của vương giả (tự nói: Ta đắc A-la-hán, vào cung vua Vô Ưu, thường làm thầy của các bậc vương giả. Hỗ là cậy. Bỉ tránh là tâm, lìa chiết là mỗ, tăng tổn lời Phật, độc loạn thánh điển (nhân ngày rằm, chúng tăng thuyết giới mà vọng có nói năng, độc loạn lời thánh, bất hòa với chúng tăng). Các bậc thánh quở trách thì chống trái mà chẳng trái qua, (thánh chúng thượng tọa quở trách trái loạn lời Phật bèn thành sự tranh cạnh, vua chẳng thể giảng hòa được). Đồ chúng đó nhưng cho rằng trương cắt mà làm quán thù (đồ chúng của Đại Thiên như lông dím mà trương lừng lực cùng thánh chúng chung làm giặc thù) các thánh chẳng khắc ngự hối (khắc là năng. Đại thiên bộ cường thạnh, thánh chúng bộ chẳng thể cản ngăn) bèn chia thành hai bộ (Đại Thiên là Đại chúng bộ, thánh chúng bộ là Thượng tọa bộ). Hai bộ phải lưu truyền rất rộng chẳng trái, mãi trăm năm tiếp xâm thành hai mươi bộ (trong Đại chúng chia ra thành chín bộ: Một là Thuyết bộ; hai là Thuyết xuất thế bộ; ba là Kê dận bộ; bốn là Đa văn bộ; năm là Thuyết giả bộ; sáu là Chế-đa-sơn bộ; bảy là Tây sơn trú bộ; tám là Bắc sơn trú bộ và Bộ gốc thành chín bộ. Thượng tọa bộ chia thành mười một: Một là Thuyết nhất thiết Hữu Bộ; hai là Tuyết Sơn Trụ bộ; ba là Độc tử bộ; bốn là Pháp thượng bộ; năm là Hiền trụ bộ; sáu là Chánh lượng bộ; bảy là Mật lâm sơn bộ; tám là Hóa địa bộ; chín là Pháp Tạng bộ; mười là Ẩm quang bộ; mười một là kinh lượng bộ. Tuyết Sơn bộ là bộ gốc, vậy thành hai mươi bộ). Thương Thay! Hóa thuần là nhạt, Đại nghĩa là thừa. Thuần nhạt là rượu nhạt. Phật diệt độ từ sau trăm năm, chia thành hai mươi bộ, pháp vị bạt nhạt) Chiết vàng tranh điệp, phân sông từ đó uống (thí như một cây gậy vàng chia thành năm đoạn, mỗi đoạn đều là vàng, như Phật pháp chia làm năm bộ. Thân phụ Phật Ca-diếp là vua Cát-lợichỉ từng thấy mười điều mộng, đều tiêu biểu cho các đệ tử trong di giáo của Thích-ca; một là mộng thấy một xấp lụa trắng, hai mươi người tranh nhau tấm lụa đó. Mà tấm lụa chẳng rách, tiêu biểu cho hai mươi bộ Đại Tiểu thừa này sau khi tranh nhau thì phân sông mà uống nước! Nên các Bộ nói Khế kinh như vậy, bộ ta chẳng tụng, mà ở tự Bộ đều đến nơi giải thoát (đều cho giáo của tự bộ là lời Phật, còn bộ khác thì chẳng phải). Tông Đại Thừa: Luận Đại Trí Độ nói là Văn-thù-sư-lợi cùng các đệ tử tổ chức đại hội tại núi Thiết Vi, mời A-nan đến tụng, các Thanh văn chẳng thể dự nghe (luận Đại Trí Độ cũng nói: Đại thừa kết tập là Bồ-tát Văn-thù cùng A-nan, v.v... kết tập tại núi Thiết Vi. Khi ấy đều là Đại thừa, các Thanh văn Tiểu trí chẳng được tham dự). Các Thanh văn nghe điều đó, mê loạn điên đảo, hoặc cho là Biệt thừa (nghĩa là Nhị thừa thật Thanh văn), hoặc có người chẳng xoay tâm (nghĩa là các Thanh văn định tánh chẳng xoay tâm, là thuộc loài nguội tâm bặt trí, nghe nói Đại thừa, mê đảo chẳng tin) các kinh khác, thánh khác, chê chẳng do luận, đâu phải khó của hành mà cũng chẳng thể biết đó ư? (Hoặc có các bậc Thánh của bộ kinh giáo khác và các bộ chê luận mà chẳng lấy. Vì luận là tuệ học, nghĩa lý sâu mầu, học đó thật khó, mà biết cũng chẳng được). Di-lặc soạn Du-già gồm mười bảy địa (một là năm thức thân tương ưng địa, hai là Tuệ Địa. Hai là ý Địa, ba là hữu tầm hữu tư địa, bốn là không tầm chỉ tư địa, năm là không tầm không tư địa, sáu là Tam-ma-hêđa-địa, bảy là chẳng phải Tam-ma-hê-đa-địa, tám là có tâm địa, chín là không tâm địa, mười là văn sở thành địa, mười một là tư sở thành địa, mười hai là tu sở thành địa, mười ba là Thanh văn địa, mười bốn là Duyên giác địa, mười lăm là Bồ-tát địa, mười sáu là hữu dư địa, mười bảy là vô dư y địa, nêu đủ ba thừa mở bày giảng nói (tiếng Phạm là Du-già, Hán dịch là tương ưng, nghĩa là tất cả thừa cảnh hạnh quả, v.v... tất cả các pháp đều gọi là tương ưng, tức mười bảy địa gọi đó là sư). Sau các học giả coi Văn-thù là pháp tánh, coi Từ Thị là pháp tướng (pháp tánh lấy chân lý dung quán làm môn, pháp tướng lấy thức tướng Hành Bố làm yếu chỉ) mỗi tự phong giữ bờ vực, cũng rong ruổi chương cú, tự khoe đẹp đó (người người sau y cứ tánh tướng có khác, tông về tánh là lấy dung quán làm hay, tông về tướng thì lấy riêng biệt làm khéo, mỗi mỗi đều y cứ). Đến nỗi khiến Tây cực đông hoa, mọi người mãi đến ngày nay có sự khác nhau giữa hai tông Nam bắc, nên Nam tông thì lấy không giả trung làm Ba quán (Quán Biến kế phiền não không xứ năng hiển chân lý làm chân đế quán. Quán y tha giả có làm tục, Đế quán là quán chân tục hỗn đồng làm đệ nhất nghĩa Đế quán). Bắc tông thì biến kế, y tha, viên thành là ba tánh (Biến kế nương vọng tình mà sinh, y tha mượn các duyên mà khởi, viên thành tức chân lý). Mà Hoa Nghiêm lấy thể tánh đức tướng nghiệp dụng làm Phạm vi pháp giới (tức năng chứng sở chứng thể dụng mà nói phạm vi bao la). Được môn đó, gồm cả Nam bắc, đó như chỉ nơi các lòng bàn tay (học Hoa Nghiêm là thấu đạt cội nguồn tánh tướng, đều hết yếu chỉ Nam bắc) Ấn-độ truyền pháp, từ Đại Quy Thị đến Tỳ-kheo Sư Tử có hai mươi bốn vị, thường tiếp nối chân cáo truyền bá rộng khắc (từ sau Phật diệt độ, Đại Ca-diếp mở mang giữ gìn pháp tạng, cho đến Tỳ-kheo Sư Tử có cả thảy hai mươi bốn vị, thường lan tỏa dấu vết của Năng Nhân, khéo phất lên ngọn gió mầu nhiệm của tổ thánh) mãi đến lúc Tỳ-kheo Sư Tử bị hại ở Kế-tân, từ đó, tương thừa tương phó mới hết (Tỳ-kheo Sư Tử tuyền pháp đến nước Kế-tân bị vua Kế-tân giết hại, từ đó về sau, pháp tạng tuy truyền mà đạo đó mỏng nhạt! Nhưng giới pháp ngăn ngừa họa hoạn chỉ có Đại thánh cấm chế (giới, tiếng Phạm là Tỳ-nại-da, Hán dịch là Điều phục tạng, vì ngừa quấy ngăn lỗi điều phục ba nghiệp của hữu tình, Đức Như lai đích thực cấm chế rất vì căn dặn). Vì giới tức nghiệp của bảy chi, nghiệp tánh rất sâu, thành đạt trí lực rõ biết vì nghiệp mới tột cùng số đó (bảy chi: Tức thân có ba nghiệp: Sát, Đạo, dâm, không có bốn nghiệp: Ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngôn, ỷ ngữ, cộng thành bảy chi, thành đạt trí lực là rõ số của nghiệp vậy) nên khai giá trì phá, liên quan đến tổn ích, mà Phật trước Phật sau đều chẳng gửi miệng mà nói (trong giới pháp, có khai thì chấp thuận dung thông, có giá thì tuyệt làm, có trì là giữ chắc chẳng phạm, phá là lầm phạm chẳng trì. Luật tạng chính do Phật chế, chẳng do giữa miệng mà truyền nói). Lại cao bày giữ lời chẳng phù hành, tâm giúp định tuệ để Huyền giải (Đức Như lai nói lập cấm giới, bày cao ngăn ngừa phù phiếm, tâm tập hành định tuệ để đạt đến Huyền giải. Huyền giải là như dùng dây treo vật, mà treo tuệ giải liễu đạt như mở ra). Nên cũng gọi là Ba-đề-mộc-xoa (Ba-la-đềmộc-xoa, Hán gọi là giới biệt giải thoát, nghĩa là bảy chúng nghiêm trì, mỗi mỗi giải thoát riêng biệt. Lại, trì một giới, được một giải thoát). Kinh gồm năm hạng người nói (luận Đại Trí Độ chép: Năm hạng người là: Một là Phật; hai là đệ tử; ba là thần tiên; bốn là trời; năm là biến hóa) để nêu thiện ẩn ác, dẫn vật khởi tin, phân định tà chánh, đều được gọi là nghĩa dây mực (chương là rõ, ôn là bệnh, bệnh ở ác mà rõ ở thiện, dẫn dắt sinh khởi, có người chẳng tin thì dẫn đó khiến tin, người chẳng định thì mổ xẻ người, tà khúc thì sửa đổi ngay đó, như ở đời dây mực năng chỉnh thẳng cong co của gỗ). Bao gồm tánh tướng, chẳng để tan mất, xuyên suốt tâm người, đều được gọi là nghĩa kết man. (trong kinh tánh tướng đều bao gồm nghĩa tụ, trước sau liền suốt, như người ở Tây Vực dùng chỉ xỏ tràng hoa đi nghiêm sức) chỉ ngôn có chuẩn, quy củ hợp độ, mà dân là pháp tắc đó đều được, gọi là pháp nghĩa (giống như lời vua ban ra, thiên hạ đều vâng theo. Quy là tròn, củ là vuông. Vuông tròn đều hợp chế độ làm tiêu chuẩn của người, nên gọi là Pháp.
Pháp là phép tắc). Lời đó như lan, tin theo là hằng, thiên hạ rót đó mà chẳng biết hết đó đều được, gọi là nghĩa thường (Lan là cỏ thơm, hằng là thường, như suối tuôn chảy chẳng khô cạn, nên gọi là thường). Luận gồm cả đệ tử soạn. Vì năng hợp lìa chân tục, buông chứa danh lý, lỗi sâu tại vỏ, phong vị phái thẳm, nguyên do của pháp nghĩa sinh nên đều được, gọi là Ma-đát-lý-ca (Luận là tuần hoàn nghiên cứu điểm huyệt chân tông làm nghĩa. Vốn chỉ do Phật nói rải rác trong các kinh về sau, các thánh đệ tử lớn nhỏ đều cũng soạn mà năng lìa hợp chân tục, khu tánh sắc tâm, định chỉ quy của không hữu, tận lối sâu của danh nghĩa, đó chỉ là luận Tạng. Tiếng Phạm là Ma-đát-lý-ca, Hán dịch là Bản mẫu, năng sinh trí tuệ như mẹ sinh con). Kiểu phục cầm túng, khải tắc quan kiếu (kiểu là dối trá, phục là thuận, cầm là bắt đoạt, túng là buông thả. Đạo của luận nghĩa hoặc dối hiện buông thuận mà sau đoạt lấy nghĩa đó. khải là khai mở, tắc là đóng bít, quan là khóa cửa, kiếu là đường nhỏ, luận tông có mở có bít, có ngăn phòng, bít chốt cốt yếu), Phát mong đích đó, phóng buông có thừa dõng duệ (đạo của quả phát ngôn, phải có chuẩn đáng, như mũi tên bắn đi có phải mang trúng đích, thí là buông phóng, buông phóng nghĩa đề đó phải khiến dõng khí có thừa. Môn khổ lý trong bốn tông chẳng hiển luận tông, v.v...) ngoại đạo khác đảng, chẳng dám khinh hối (luận là dẹp tà hiển chánh nên các ngoại đạo chẳng dám khinh mạn), nên đều gọi là Ưu-ba-đề-xá (tiếng Phạm là Ưu-bađề-xá, Hán dịch là luận nghĩa vậy) Pháp là sở đối (thuộc về cảnh sở chiếu) tuệ thì hướng quán (nghĩa là tâm năng chiếu). Hướng thì khắc diệt (nghĩa là trí năng chứng khởi thì các hoặc đều dứt). Quán thì khắc thánh (nghĩa là Tuệ chiếu lý như đèn đó chiếu vật thì năng hiển thánh đạo) nên đều gọi là A-tỳđạt-ma (tiếng Phạm là A-tỳ-đạt-ma, Hán dịch là Vô Đối pháp). Xưa một thuở nọ, Đức Phật nói khoảng giữa đây kia mà nhập định (một ngày nọ, Đức Phật nói khoảng giữa đây và kia ba thứ chưa chỉ nhập định), các Đại đệ tử, đều tự lấy sự hiểu biết của mình, đua nhau giảng nói thánh ý, hoặc cho sinh tử là đây, Niết Bàn là kia, đạo là khoảng giữa (sinh tử, nghĩa là hai thứ phần đoạn và biến dịch sinh tử làm đây. Niết Bàn nghĩa là bốn lý của Niết Bàn sở chứng làm kia, đạo thì trí năng chứng làm khoảng giữa). Hoặc là nhãn căn làm đây, sắc cảnh làm kia, thức là khoảng giữa (căn là năng chiếu, cảnh là sở chiếu, thức tại khoảng giữa là năng liễu biệt). Như vậy mới có năm trăm nói, chẳng đoạt nhau với chí (tuy đều chẳng đồng, cũng đều nói lên chí đó) đến lúc Đức Đại Thánh nhập định, Xá-lợi-phất, v.v... bày tình xét nghi, Đức Phật dạy: Xúc là đây, tập là kia, thọ là khoảng giữa (xúc là đối cảnh, tập là năng nhiễm, tâm thọ ở khoảng giữa lãnh nạp) các ông tuy chẳng phải ý ta, nhưng đều là nhân của diệt khổ, đều nên thọ trì, chớ để quên mất (tào là bọn, điều đệ tử nói tuy chẳng phải bản ý của Phật, nhưng cũng không trái đạo lý) nên ngày Đức Phật chưa thị tịch, Xá-lợiphất soạn tập dị môn túc luận (gồm hai mươi quyển, một trăm tám mươi chín trang, do Huyền Tráng dịch) Mục-liên soạn Pháp Uẩn Túc luận (hai mươi quyển, một trăm bảy mươi tám trang, Huyền Tráng dịch) Ca-đa-diễn-na soạn Thi Thiết Túc Luận (mười tám ngàn bài tụng, bộ này chưa thấy lưu hành, ba bộ luận trên đều do các vị đệ tử soạn lúc Đức Phật còn tại thế) Ngọc Hào đã ẩn, Đề-bà-thiết-ma soạn Thức Thân Túc luận (mười sáu quyển, được soạn sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, do Tam Tạng Huyền Tráng dịch). Thế Hữu soạn Phẩm Loại Túc Luận (mười tám quyển, hai trăm chín mươi trang, được soạn sau Phật diệt độ khoảng ba trăm năm) và Giới Thân Túc Luận (ba quyển, bốn mươi chín trang, do Thế Hữu soạn, trên đây gọi là Lục Túc), Ca-đa-diễn-ni soạn luận Phát Trí (mười sáu quyển, ba trăm sáu mươi lăm trang, do Đại nghĩa đầy đủ nên gọi luận này là Thân, lấy Lục túc làm chân, được soạn sau Phật diệt độ). Phàm, bảy luận phấn phát mở mang, tài tảo khống vượt đường gió, cạnh đó cầu thánh lý. Thức Bật thần hóa, lớn đó cùng cả thiên hạ, nhỏ đó xét hết lân hư (Bảy luận đều là văn của Tiểu thừa; Từ tảo, (văn vẻ) rộng thoáng, Phong Quy Vượt dịch, còn tánh tướng tâm sắc không gì chẳng luận đủ, lân hư là bụi trần của cực vi). Sánh các Nho môn, ba truyện bốn thi, đều là âm vàng ngọc. (Ba truyện là: Một truyện Tả Khâu Minh; hai là truyện Công Dương Cao; ba là truyện Xác Lương Dịch. Bốn thi là: Lỗ thi, người Lỗ tỏ bày Bồi Công, Hán Võ vì Bồn luân vi đến đã hơn tám mươi lần dùng kinh Thi là truyện Huấn Khẩu mà không truyền, Tề Thi là do Viên Cố Sinh người Tề Lưu truyền. Hàn Thi là sở học của Hàn Anh người Yên, Mao thi, do Mao Công Tự là Văn Tháo người ở Hà Giang truyền cho Tử Hạ). Do đó khoảng đầu bốn trăm năm, ở nước Ca-thấp-di-la có năm trăm vị chứng sáu thần Thông y cứ luận Phát Trí mà soạn Tỳ-bàsa (sau Phật diệt độ, khoảng đầu bốn trăn năm, có vị La-hán tên là Ca-chiên-diên tử đánh kiền-chùy báo khắp các trời và Hiền Thánh ở mười phương, chẳng được nhập diệt, ở chỗ Phật có được nghe một bài kệ, một câu pháp đều nên nhóm họp tại nước Ca-thấp-di-la. Lúc các thánh hiền đã đến, bèn gom điều đã nghe. Phải thì lấy, quấy thì bỏ, mới thành bộ Đại Tỳ-bà-sa, Hán dịch là Quảng Giải, cấm không cho truyền ra ngoài nước. Nghĩa là Tôn giả Bà-sa-đầu-bạc ngầm vào nước đó đọc tụng rồi ra khỏi nước trở về nước Kế-tân lưu truyền, về sau mới lan tỏa đến các nước khác). Giải thích đủ cả ba tạng (đó là kinh, luật, luận). Do có tám phẩm, người dịch cho là tám uẩn, cũng gọi là tám tạng vậy (uẩn hay tạng đều là nghĩa tụ, tức tám kiền-độ) đến năm trăm năm, Long thọ học cùng khắp vực nội, tự cho là bậc Nhất Thiết Trí, mới lập làm Đại sư. Rồng ao A-mậu-đạt dẫn vào cung, chỉ bày cho Trần Sa Bí tạng mà Long Thọ thẹn chỗ mang tội suốt chín tuần mượn tụng tại cung Rồng mà rất hối hận điều xưng đó (Long thọ vốn là Phạm Chí nước Nam Thiên-trúc. Tục thông bốn bộ phệ-đà, nhân vào cung vua, nhàm chán dục lạc mà xuất gia, kinh luận tụng đọc hết, tự gièm chê kinh pháp Phật nói chẳng nhiều. Sau Long Vương mời xuống cung rồng trong chín mươi ngày, chấm Đề kinh còn chẳng hết, rất hối hận lời nói sai nhầm. Thông giải soạn luận Đại Trí Độ gồm mười muôn bài tụng, ở Thiên-trúc kính trọng lập miếu phụng thờ như
Phật) chỗ đó tụng tập, nhân gian có người được đó, do vậy rộng soạn các luận, phi thủ giáo trước (phi là lớn, nghĩa là rất có khả năng Hoằng giữ giáo của giáo bậc Thánh trước.) Đến một ngàn năm, Thế Thân lúc đầu học Tiểu thừa, thường muốn làm việc tốt lợi đối với Đại thừa, người anh là Vô Trước, thương xót, giả có bệnh để sai người gọi đến, dùng đủ lời huyền để răn bảo. Thiên Thân trở lùi mà tỉnh xét lỗi lầm cũ, sắp tự rút dao cắt lưỡi, Vô Trước bèn đến ngăn cản, (581) bảo là: Tội từ tâm ngươi, chẳng phải lỗi của lưỡi, ngày trước đã dùng lưỡi để hủy báng, nay phải dùng nó để tán thán (hạp là sao chẳng) cắt bỏ nó đâu có ích gì? Bèn soạn ngàn bộ luận, hoặc y cứ hoặc giải thích cổ xúy cả năm thừa (Bồ-tát Thiên Thân là người nước Bố-lũ-sa-phú-la thuộc Bắc Thiên-trúc, anh em gồm ba người đều xuất gia theo Hữu Bộ. Người anh là Vô Trước ngộ Đại thừa trước, thường lên cõi trời Đâu-suất thỉnh Di-lặc giảng nói Du-già. Thiên Chân lúc còn ở Hữu Bộ, có soạn năm trăm bộ luận Tiểu thừa, rộng bài bác Đại thừa, sau được Vô Trước chuyển hóa đã ngộ Đại thừa, bèn soạn năm trăm bộ luận Đại thừa, rộng khen ngợi Đại thừa, nên hiệu là Thiên Bộ Luận Chủ).
Ở đời Tần Chánh (Tần Thỉ Hoàng, họ Danh tên Chánh, tự là Tổ Long, con của Tần Tương Vương, gồm thâu sáu nước, đắp xây Vạn lý trường thành, khiến kẻ sĩ ở các phương vào Biển đến Bồng lai tìm thuốc tiên), có mười tám vị Sa-môn từ Tây Vực đến (đó là mười tám người như Thất-lợi-phàng, v.v...) kia bạo doanh mới có sự thiên hạ, chẳng hoàng Đại đạo (hoàng là kịp, chẳng kịp hành Đại đạo). Xấu ta có đức nên bắt giam các Sa-môn lớp tường, bị thần lực sĩ phấn phát oai phong đánh tường (Thỉ Hoàng chỉ hàng phục lễ tạ. Đạo nhân tức trở về Tây quốc). Phàm Tần đó đối với đạo ta như đá chẳng thấm nước, môn của Cao Manh chẳng đủ để phát thuốc đó ở đây, Tần mới vô đạo, dùng thiện để cảm hóa đó nên chẳng cùng đến. Tấn Cảnh Công bị bệnh cầu thuốc ở Tần, mộng bệnh hóa thành hai đứa trẻ bảo là: Kia là lương y sợ thương tổn ta ư? Một đứa bảo ở trên cao ở dưới cao, như ta làm sao thầy thuốc đến? Nói bệnh tật chẳng thể làm vậy, nay Tần bạo ác chẳng đáng để thiện hóa, như Cao manh của Tật). Tuy đương thời Sa-môn chẳng thấy bày ở Tần mà lúc đó cũng rất được nguyên do đó (Thất-lợi-phòng, v.v... tuy chẳng được Tần thấy gặp mà lại cấm đó, vì Tần hung bạo mà chẳng nhận nạp ở Thiện cũng làm nhân của Đằng lan). Tâm người hiểm dễ nhàn ở sông núi, sau đó chỗ lại thật may. Thất-lợi-phòng, v.v... trước ban thưởng đó, chẳng cầu đó chẳng đến (thưởng là thử, vì Thất-lợi-phòng, v.v... trước thử lại, Tần tuy chẳng nhận, sau lại Tam Tạng mang việc này mà biết. Nên nếu không Thái Hâm sai người cầu thỉnh thì chẳng đến nơi đây). Năm Tân
Mão, tức niên hiệu Vĩnh Bình thứ bảy thời Hậu Hán (đem niên lịch mà so sánh, thì phải là năm Giáp Tý, nay nói Tân Mão là nhầm) Hiển Tông mộng thấy người vàng (Hiển Tông là Minh Đế, chúa thứ hai thời hậu Hán, tên là Trang, con của Quang Võ, hoàng hậu Âm sinh ra). Cổ đeo ánh sáng mặt trời, bay ở sân điện, nghiêng y đêm hầu sáng (hầu là đợi. Đêm mộng thấy người vàng khắp mình phát ra ánh sáng, bèn ngồi đợi sáng), gọi các quan để hỏi. Phó Nghị đáp rằng: "Đó là thần Phật" (bấy giờ vương Tuân Phó Nghị v.v... tâu, năm thứ hai mươi bốn đời vua Chiêu Vương nhà Chu, Thái sư Tô Do tâu: Phật sinh ở Tây Quốc, một ngàn năm sau Thanh Giáo lưu truyền đến đây. Nay đã hơn ngàn năm nên là thần Phật đến) bèn sai Tái Hâm Tần Cảnh đem mạng lệnh cầu ở mộng (bèn sai gồm mười tám người như Thái Hâm v.v... sang Tây Quốc đi tìm). Đến Đại Nguyệt Thị, cùng gặp Ma Đằng, Trúc-Pháp-Lan (Đến nước Nguyệt Thị thấy hai vị Tam Tạng: Một vị họ Ca-diếp tên Ma-Đằng, một họ Trúc tên Pháp-lan). Hai vị đó từ trước đã chứa nhóm chỉ ý đi xa cứu tục, gặp Tần Cảnh Thái Hâm mà hợp (Tần Cảnh v.v... thấy hai vị Tam Tạng ở nước Nguyệt-thị bèn cầu thỉnh đưa về đất Hán) mười năm sau tức năm Giáp Ngọ (vốn là năm Đinh Mão, Giáp Ngọ là nhầm, Hán Sứ đến từ Tây Vực. Hai Sa-môn đến đất Lạc (thời Hán đóng đô ở Lạc Dương). Dâng tượng Phật Thích-ca và các kinh. Từ đó bắt đầu có chùa ở Lạc Dương (Tam Tạng mới đầu đến ở chùa Hồng Lô, vì đường Bạch Mã Đà mà đến, bèn gọi là chùa Bạch Mã. Nếu theo tiếng Phạm là Tăng-già-lam, Hán dịch là chúng Viên, nghĩa là chỗ hành đạo) Làm tượng tại Đài Thanh Lương ở Nam Cung và cửa Quan Dương trên gò Hiển Tiết (đều là đồ tượng ở các xứ này) kinh đó mới đầu bảo phiên dịch, ghi ở đầu kinh bốn mươi hai chương (Ma-đằng hai Tam Tạng mới đầu dịch kinh một quyển, tên là Kinh Tứ Thập Nhị Chương) cất giữ tại Thạch Thất Lan Đài, đợi người có thể nghe nghe đó ở mục thay (Thạch thất Lan
Đài là bí lầu chứa kinh. Ư tha là từ ta thán, mục là kính). Thánh giáo đó ở thời, đó có thể thuận theo chẳng thể cường. Thuận thì ác vật (ác là thấm đượm, nghĩa là như đời của Hán Minh mà lại). Cường thì tỳ vật (như đời Tần mà lại bị bệnh). Nên suy dẫn đến đạo, nếu chẳng phải chí trí thì chẳng thế thấy, người cũng có lời nói, Vĩnh Bình là đời gì? Minh Đế là đức gì? Bởi nguyên thuần nhần nhạt nhân nghĩa dần phế, đạo đức và Ngũ Kinh sắp biến mất ở đời (từ thời Vĩnh Bình, đạo đức đã mảng, Văn Tịch sắp rớt, nêu là nói đời rất mỏng nhạt) mà từ vận dựng xa, Thích giáo tỏa rộng, khiến Phương Tây nhàm chán chỗ tập học trước mà ưa thích điều nghe mới (Phật pháp đối với đời mỏng nhạt mà lại khiến người nhàm chán nhân nghĩa lễ nhạc mà ưa thích giáo mới đó, đời cũ tập mới mà hành đó) thay trái theo cần ba huấn cát cử để sáng khắp thiên hạ (Huấn là giáo, Tốt là tập, dùng ba giáo tập cử mà giáo hóa thế gian) nên đạo ta sao sắp chẳng thể nếu khắp, tuy ngàn năm tham thần trái (giáo ta là gốc của Hán đạo, nếu chưa hợp với đời trải qua kỳ hạn ngàn năm như sao Tham và sao Thần hẳn chẳng hợp nhau), sắp có thể nêu, tuy muôn dặm phong mã cùng chung (đó hoặc giáo có thể nêu, đường đi tuy muôn dặm cũng có thể chung. Phong mã là con cái, con đực theo nhau. Tề Hoàn đánh Sở, Sở tử nói: Đến chỗ Phong Mã, trâu chẳng kịp). Vì vậy Hán ban chiếu ở Thiên Thùy, thánh nhật xuất hiện ở phương Đông (thùy là biên, nghĩa là Tần Cảnh, v.v... đến Nguyệt Chi, thánh nhật nghĩa là Ma-đằng đến phương Đông) Đuốc sinh linh ở trùng ngân, bày Đại giác ở Chiêu Hồi (ngân là biên, Phật nhật soi chiếu các loài sáng đẹp đất trời). Mượn mộng một đêm, tiếng cây gió đến muôn xưa, như Đế Trang là thiên hạ thật có vua (Hán Minh nằm mộng thấy người vàng, tây tâm giáo pháp mới lập phong phạm, Thanh giáo cuối cùng làm quy của muôn xưa). Tuyên tâm mậu du sáng mở có Hán, như Vương Phó Tần Thái, như Hán thật có bề tôi (mậu là thạnh, du là đồ, Tuyên tâm thạnh đồ mở vận Minh Hán, nghĩa là Vương Tuân Phó Nghị Tần Cảnh Thái Hân, v.v...) là Di đồ của Pháp Vương (Di là miêu, đồ là đệ) mở mang nối tiếp Đức Âm, như Ma-đằng là Thiên-trúc thật có tăng (năng nối dõi Thanh giáo) miễu quán xưa trước, Đức lớn lợi này thật châm ở sinh dân, dân gánh vào ơn đó, lan tỏa tốt lành mạnh mẻ, thạnh ở kính thờ (miễu là nhỏ nhiệm), vậy quán đời trước có lợi đối với dân, cảm ân đó, thì phát dương tốt lành, nghiệp lớn bày tỏ ở hưởng tế). Nên lễ nói, pháp thí đối với sinh nhân, chết thì cúng tế, đen nhọc định nước thì cúng tế, dùng khả năng chế ngự tai họa lớn thì tế đó, năng chống đỡ đại nạn thì tế đó, mà hai họ cùng hai ba bề tôi xướng giáo của Kim tiên thích tục của chưa nghe, khiến người đem chân thành của khổn khổn (khổn khổn là thiết thực) biết chỗ về của tội phước, nhàn chán thân có bờ mé, chuộng lý của diệt tâm (Hán Minh cùng hai ba bề tôi, mới đầu mở mang Phật giáo, khiến tục của mê đảo ngộ hiểu tội phước nhàm chán thân có tận, chứng lý vô sanh). Khôi khôi (lồng lộng) công của huyền hóa bao trùm ở nhân từ, mà đời đời chẳng sùng trọng tẩm chiêu đó điện lễ đó, tuy xưa nói khuyết mà nay cũng chưa được (khôi khôi là khuếch (lớn to). Vì công đó tuy to lớn tạo hóa đối với phép thờ hợp nên bao trùm đầu đó, mà ở đời chẳng sùng trọng tẩm miếu, rõ hưởng điện đó, ở xưa nói là thuyết nay cũng chưa được chẳng thuyết) từ mới đầu là Hán Trung Hưng, từng giọt ở Lạm thương (lạm là dật (tràn đầy). Hán Thủy mới đầu ra chỉ có thể tràn đầy một chén uống rượu (thương). Phật pháp từ mới đầu ở thời hậu Hán từng giọt nhỏ chảy như mới đầu ra của sông Hán) Ngụy chảy Thúc Tân (đến đời của Tào Ngụy dần như dòng chảy ở Thúc Tân) mãi đến nay thời Đại Đường ta, phong đó xâm rộng, (từ đời Hán Phật pháp bắt đầu đến, cho đến thời Đại Đường này, pháp đó dần rộng lớn). Cúc sưu chúng bộ (Cúc là tận cùng) hơn tám ngàn quyển, nay các Phạm tăng lại phiên dịch chưa xong. Trong khoảng đời Tề đời Lương, hai nhà họ Tiêu (Nam Tề Tiêu Diễn thành, Lương Võ Tiêu Diễn, hai Triều hai tiêu đều đóng đô ở Kim Lăng). Học ưu từ hợp ở chế soạn, như Cánh Lăng Vương Tử Lương, sao tập các kinh riêng làm bảy mươi bộ, hai trăm năm mươi chín quyển (Tề Cánh Lăng Vương đem bộ loại sao tập đó). Tuy đương thời tự ý chẳng muốn truyền ra ngoài, mà đời sau ghi chép ở các chánh lục. Lương Thái Tử Cương (tức Giản Văn Đế) soạn Pháp Bảo Liên Bích hai trăm quyển, sa-môn Tăng Hựu (soạn Hoằng Minh Tập mười sáu quyển). Tăng Mân (ở núi Hổ Khâu, Tiêu ngang đến kính lễ mà vẫn nằm dài chẳng dậy, người đời gọi là Tổ vương đời Lương). Bảo Xướng (vị tăng chùa Trang Nghiêm ở Dương Đô, là người biết rộng nghe nhiều, Lương Võ khiến soạn Kinh Luật Dị Tướng năm mươi quyển). Trí tạng (là bậc cao tăng thông minh biết rộng đời Lương) thảy đều thuật lại rất nhiều điều mục, đời sau hoặc có phế, thông trang mà tuân kỳ lộ (thông trang là đường lớn, nghĩa là Chánh kinh, kỳ là đường nhỏ, là các tập). Bấy giờ, Thái Học Giang sắc nữ (học sĩ đời Lương) vừa mới tám tuổi từ niên hiệu Vĩnh Nguyên năm thứ nhất đến niên hiệu Thiên Giám thứ tư (Vĩnh Nguyên là niên hiệu của Nam Tề, Thiên Giám là niên hiệu của Lương Võ Đế, từ năm Kỹ Mão đến năm Ất Dậu, tính ra là bảy năm) ngồi yên nhắm mắt, tự nhiên tụng ra ba mươi quyển (nay trong tạng có đề mục mà không có văn kinh. Đã chẳng phải Phật nói nên nay ở Ngụy Lục). Các người bàn luận cho là trời trao, làm sao phân biệt chân ngụy ư? Đại thừa lấy một pháp cho là thật tướng (Thật tướng là chân như) Tiểu thừa thì có ba, đó là các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, nhưng có trái đối với đây thì chẳng phải giáo của ta. Đó có vu lụy Phàm thiển, như các kinh Thất Phật thần chú, Phổ Hiền chứng minh, pháp Hoa Độ lượng, Thiên địa bát dương, Diên thọ mạng, v.v... trái với các giáo điển, mất thể của thánh ngôn, còn ở nghi ngờ là ngụy chẳng phải điều đáng nói. (đều nghi là ngụy lục) (582). Đó hoặc chất trược nhỏ nhiệm (như các kinh Âm Trì nhập đạo địa, v.v...) như các kinh Hán Ngụy thất dịch, nay ở tại chánh lục) tuy chẳng nhã áo, lại chẳng phải khuyết lầm, nghiệm xét đó trùng dịch chẳng thể phế bỏ, nhưng được chim tuy lưới có một mắt, mà nhờ muôn mắt gần ở một mắt. Vượt ra khỏi khổ tuy pháp của một môn, mà gần muôn pháp giúp ở một môn (tuy dùng một mắt được chim mà chẳng thể chỉ mở ở một mắt, tuy dùng một pháp khế cơ mà chẳng thể chỉ điển một pháp) nên diễn mà bày đó làm tám mươi bốn ngàn pháp tạng. Mâu Tử nói (Mâu Tử là quan Thái thú đời Thương Ngô, viết sách đề là Mâu Tử) kinh Phật trước nói việc trong ức năm, tức nói cốt yếu của muôn đời. Thái tố chưa triệu, Thái Thủy chưa sinh, trời đất mới dấy, tinh tế chẳng thể nắm, mỏng dính chẳng thể nhập, Phật đều lan tỏa ngoài cửa rộng lớn đó, mở chiếc trong của sâu xa đó, không chi chẳng ghi chép, kinh quyển đó dùng muôn kế, nói dùng ức số (nên Long Thọ qua chín mươi ngày ở nơi cung rồng chẳng thể đọc hết đề mục đó). Thí như xuống sông uống nước no mà tự đủ, sao biết còn lại đó ư? Kinh của hai thánh Hàm Hạ (là Hiếu tử tuyên phụ) ở trăm họ như Bắc thần đối với Huyền tượng (Khổng Hiếu là Bắc thần, các vị Hiền triết là các sao) mà ngoài của Khổng lão còn có cách ngôn của tượng giáo. Dương Chu tuệ thí dòng của hư vô (rút từ Trang tử). Mặc Địch, Hàn Thi dòng tế thế (rút từ Sử Ký) trong thời gian đó, Mã Thiên tu chỉnh sử (Tư Mã Thiên tự là Tử Trường, người thời Hán Võ, làm Thái sử tiếp nối cha tu chỉnh Sử Ký gồm một trăm ba mươi quyển) trước Hoàng lão mà sau Lục kinh (Lục kinh là Xuân Thu, Lễ Ký, Mao Thi, Thượng Thư, Chu Dịch, Nhạc Ký vi v.v...) Ban cố nghệ văn (Ban Cố, tự là Mạnh Kiên, tu chỉnh tiền Hán Thư một trăm hai mươi quyển) mới đầu là nhà Nho, kế tiếp là đạo đức và kế nữa là tông ta làm ba giáo (cái gọi là Nho, Đạo, Thích) nâng mặt trăng mới chẳng thể hư nát, đến chỗ Phế Hưng lấy bỏ, đều hệ thuộc ở thời (hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc phế hoặc hưng đều hệ thuộc ở thời số) đó có người làm ở đời sau, hoặc từ thắng so với lý, hoặc tài chẳng bằng sự (hoặc từ tuy dồi dào mà lấy đó rỗng trống, hoặc sự tuy đủ sử mà tài lực chẳng đủ) chuyên hoa bỏ thật (là lọt mất, người khéo viết sử đối với sự thật phần nhiều bị mất) chuộng đen chẳng chuông vàng biết đó là hoạn ở nắm bắt, ai có khả năng cùng người chết giao luận (của biến kế, mà chỗ hoạn sắc đời ngắn ngủi, ai năng cùng người đời trước giao luận phải quấy ư). Người chẳng biết thật tụng tại tâm, truyền bá lưu tỏa vô cực (các học trò chẳng rõ chỉ biết trì tụng ở tâm, lưu bố vô tận mà thôi) nhưng Nho giáo lấy triều tự tán nhung làm giềng mối của nước nhà (triều là lễ của xa trông hợp hầu, tự là sự của sáu cúng tế ở Tông miếu, Táng là nghi của Điếu tặng bồ Lâm, nhung là sự giảng võ chinh phạt) gần hành đạo đó tốt khắc du phồn (du là nơi chốn, phồn vặn là loạn, năng bao gồm sự đó mà thực hành thì lễ ít có phồn loạn). Giáo lý của Thích lão ở tại dấu vết Hư Huyền xen quyền thật (lý đã hư vô u huyền, đạo đó hoặc thật. Đến nỗi khiến hạng người bậc trung trở xuống (thượng sĩ nghe mà thực hành, trung sĩ như còn như mất, hạ sĩ xem thường mà cười) gá nương nói quanh co hẳn chẳng yêu thì vọng, tiếng trịnh loạn nhã, mắt cá khi xem thường châu ngọc. Do đó đạo thì có Hóa Hồ kinh (do Đạo sĩ Vương phù đời Tấn soạn, một quyển, sau dần thêm mười một quyển) Di Hạ ba phá mười vị chín mê (đều là văn của Đạo môn chẳng phải Thích giáo) thích thì có diệt hoặc ngự Di Hạ (Tiếu đạo luận v.v... chân Loan đều ở Hoằng Minh tập) Phá tà biện chánh (Sa-môn pháp Lâm đời Đại Đường soạn) rối ren lấn giá. Đã trái lẽ mà qua, cũng trái lẽ mà lại (mâu thuẫn lẫn nhau) tình ý kỵ mộ (kỵ là ghét, mộ là yêu thích). Nghĩa chẳng do thẳng, cùng gá nhau như chắp buộc (lấy cong làm thứ chẳng vậy) tương thù hưởng đáp, nhữu làm biên giản (nhữu là lẫn lộn) muộn làm Côn Đằng (Côn Đằng là lấp bịt) đâu liên quan bản của mười hai phần năm ngàn văn ư (ý chỉ bậc thánh vốn không có văn phải quấy) Tây Vực gồm giáo của một đời Đức Phật, chia làm ba thời, đó là: Hữu giáo (tức là A-hàm) Không giáo (tức tám bộ Bát-nhã v.v...) chẳng không chẳng hữu giáo (tức kinh Giải Thâm Mật) còn xứ này lấy năm thời để so sánh: Một là bốn đế (đó là bốn sự khổ tập diệt đạo, Tiểu thừa giáo); hai là Bát-nhã (đó là tám bộ Bát-nhã, không giáo); ba là các kinh luận Tịnh Danh, Tư Ích, v.v... (đó là luận Duy-ma, v.v... Bất Tư Nghị Giáo); bốn là Pháp Hoa (gom hai về một, là Trung đạo giáo); năm là Niết-bàn (viên tịch giáo hoặc có người cho là không đúng, nay còn ở xưa (nghĩa là ba thời giáo).
-----------------------------
(Ngầm khế vô vi là chân, có tướng động dụng là tục. Tục chẳng phải chân mà chẳng hưng chân, chẳng phải tục mà chẳng phải hiển bày chân tục, nương nhau, có không cùng hiển nên gọi là Phù Phù Khế). Các bậc của chiêu cơ là có (chiêu là hiển, nương giáo của ngôn luận trải qua môn của tu chứng) các bậc minh cơ là không, (minh là tối, vượt tướng ngôn luận, lìa cảnh của tác vi) trái nhau là đạo (nói chân là ở tục còn mê, còn tục là ở chân chưa rõ, đều lấy chấp làm đạo). Như một bánh xe chạy giữa đường, kỳ hàn xoay giữa trời đều làm sao được (Kỳ là đơn lẻ, hàn là vốn hai bánh mới chuyển, chim dùng hai cánh mà bay. Nay đối với chân tục nếu chẳng viên thông, như xe một bánh, chim của cánh lẻ, đều bằng nhau) chỉ đạo đó chẳng mở mang, làm chỗ y cứ của vật, miệt du tế đó (miệt là không, du là nơi chốn, nếu chẳng mở mang đạo chân tục, muốn làm tông tượng của vật thì sẽ không thành, tế là thành). Nên lấy hai môn chân tục làm then chốt chung của đạo, thổi muôn hữu ở một ngón tay, lắng các động ở tuyệt điền, mênh mông sao chân có thể vào đường lớn của pháp môn chẳng hai (nhiếp muôn hữu mà ở một chỉ thú, lắng các lự mà hết hình điềm, ở chỗ đối thì rõ ràng không) khởi mãi may can thiệp động đó gọi là Tục (chưa hẳn dùng tạo cảnh của chí cực, bèn làm chân, can thiệp hữu làm tướng, bèn cho đó là Tục, đâu kỳ hạn vậy ư?) chân là tánh không (nghĩa là không của chân tánh, lý của viên thành) tục ấy là giả có (nghĩa là y tha huyễn có). Có của giả có, gọi đó là tợ có (pháp đó vốn không, nương duyên mà có, duyên lìa thì không, tợ có của huyễn hoặc đó) không của tánh không, gọi là chân không (trên của chân tánh, bốn tướng Bách Phi không được) nên bậc tỏ ngộ lập chân ở trái nhau của tục (chân là vô vi, tục là hữu vi, vì hai pháp chẳng đồng) hợp chân tục ở chẳng hai (chân là lý, tục là sự, sự không lý mà chẳng dấy, lý không sự mà chẳng hiển, không tục chẳng thể nói chân, không lý chẳng thể bàn sự, chẳng tức chẳng lìa nên làm chẳng hai). Trung đạo chiếu suốt, rõ ràng Huyền hội, chưa từng có một sự đáng tình đó. Phàm lý giản dị như vậy ở đâu chẳng hiển bày, nghiệp lâu lớn ở đâu chẳng đủ (Hệ từ nói: Dị thì dễ biết, giản thì dễ theo, dễ biết thì có thân, dễ theo thì có công, thuận tình của muôn vật, thông chí của thiên hạ, thì năng thành công có thể lâu dài, có thể lớn lao). Tuy Tăng-kỳ nói: Xa pháp thân không ngoài sao ngộ ư (A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô lượng, từ Thập Tín sơ phát tâm cho đến cuối thế đệ nhất, gọi là Sơ-tăng-kỳ, từ kiến đạo đến cuối địa thứ bảy là Tăng Kỳ thứ hai, từ địa thứ tám đến đạo giải thoát, gọi là Tăng-kỳ thứ ba, ngoài ba Kỳ này mới được thành Phật, cũng chẳng xa ư. Nhưng lý của pháp thân xưa nay dung chứa lẫn nhau, mê ngộ tuy khác mà chẳng phải bên ngoài được) nên muôn tượng nói chân, lấy không làm tánh (Trúc biếc rờn rờn đều là chân như, hoa vàng rực rỡ không gì chẳng phải Bát-nhã), dùng tướng hữu vi nói về giả (nương giả tức tướng của chân không) đã không giả một chất, hai mà không được, chẳng phải Trung đạo, làm sao (không là tánh, giả là tướng, tướng chẳng lìa tánh, tánh chẳng lìa tướng, nên nói là một chất, hai mé là hai bên, hai bên không được nên khế hợp Trung đạo) vì vậy quán sinh của tượng cũng chẳng có tự thể, đợi các duyên kia sinh. Đã đợi duyên thì tượng vốn là không (pháp kia muôn tượng vốn không tự thể, duyên hợp mà sinh, duyên lìa mà diệt. Nếu tâm pháp bốn duyên, sắc pháp hai duyên, tự chẳng năng sinh thì là không tự thể), căn là ở không (tượng của giả có lấy không làm gốc) không gồm ở tượng, đợi tướng hiển bày. Hiển đã ở tượng thì Không là tượng. Ngoài tượng chẳng có không (không của vô vi gồm tượng của hữu vi, sắp hiển vô vi phải nhờ hữu vi, hữu vi thì chẳng hiển, vi là sở hiển). Thí như ở trăng nước duyên hợp thì thấy, ai được gọi đó là là không, hình là dối không thật. Ai được gọi đó là có (mặt trăng vốn ở trên trời, bóng nó trôi dưới nước, ai nói đó là không, nước vốn không trăng, mượn chỗ ảnh trôi, ai được nói có). Nên Diệu Thể của bậc thánh khoảng của có không năng thành dụng của có không. Đó gọi là chí (vì vậy bậc thánh mới rõ thể dụng đó). Thanh Biện nói: Hữu vi như Huyễn hóa, vô vi như Không hoa. (Luận Chưởng Chân nói: Pháp hữu vi giống như Huyễn Hóa, vốn chẳng thật có, pháp vô vi giống như hoa đốm trong hư không, định chẳng khởi nên). Huyễn pháp giả có, vừa có vừa không (sừng thỏ vốn không, nhà ảo thuật dùng khăn tay mà giả có, lìa khăn tay thì không có sừng thỏ, như pháp hữu vi nương các duyên mà giả có, lìa các duyên giả pháp vốn không, cho nên vừa có mà vừa không) Không Hoa vốn không, bởi do không mà tợ có, không mà tợ có, lắng ở mé chân (chân tánh vốn không, chẳng khởi giống như Hoa đốm trong hư không, vi là hữu vi làm nương tựa, do đó tợ có đây vốn không, tức là lắng yên mé chân) có mà vừa không, lại về vô vật (nếu dùng pháp hữu vi của giả có, duyên tan về nguyên tức vốn không vật) Hỏi là hai dụ để bày pháp tắc, pháp không chỗ (hai dụ; Huyễn pháp dụ cho chân tánh hữu vi, dùng Không Hoa dụ cho chân tánh vô vi) chỉ khéo văn tự là, được kiếu mà chẳng được số, khéo tâm học là biết cực mà chẳng biết tượng (vật sinh có tượng tượng, sau đó có số, kiếu là biên, cực là chung. Đãi của Tầm văn, tuy được lối nhỏ của mé kiếu mà chẳng được tổng số của chỉ quy đó. Truyền tâm ấn là, tuy được diệu môn của chung cực, nhưng chẳng biết điềm tượng của nguyên thỉ). Giữ hai bờ mà chẳng hết, hoạn là ở đây (một là duyên văn tự mà dính mắc có, một thì bác bỏ các tướng mà dính mắc không, đều giữ bên của một bờ, đâu đạt lối của Trung đạo) nên dính mắc có là lạm ở thường, theo không là xen ở đoạn (chấp hữu là chấp các pháp là thường, như ngoại đạo chấp bốn biến thường. Lại, Tiểu thừa chấp tất cả hữu, v.v... chấp không là như ngoại đạo chấp luận bảy đoạn diệt, v.v... lại tông ta cũng có khi bác bỏ các pháp toàn là không, v.v...) cùng với Thiệp đoạn làm sao cùng lạm thường. Thường thì có pháp đáng tu, đoạn thì không thiện nào chẳng bỏ, bỏ thì đáng với tà kiến, tu thì tiệm ở chân đạo (như bác bỏ Bồ-đề Niết-bàn là không, v.v... nên nói làm sao có thể khắp có, như núi Tu-di chẳng thể bác bỏ là không, như hạt cải) nay có phong ở táng hữu, chấp không làm môn chí cực (như đời gần đây nói thiền kẹt ở đạo của táng hữu là: Toàn chấp không làm đạo chí cực). Thử hỏi: Không đây là có thể thủ hay chẳng thể thủ (nếu vậy thì lỗi gì). Nếu có không có thể thủ thì không làm mà có (không đã có thể thủ há chẳng phải có? Vì dùng tâm của phong chấp thủ không hỗn mang (đây chỉ diệt không của đãng nhiên) đâu liên quan gì lý tu hành thấy tánh? Nếu không chẳng thể chấp thì cùng có chỉ dứt trừ (có cũng chẳng thể chấp cùng không có gì riêng). Đã cùng có đều khiển trừ thì cũng cùng có đều còn (có đã chẳng thể chấp còn không, dứt trừ, ở đó có không cũng chẳng thể chấp, đâu ngăn ngại cũng còn có) nào riêng đạo còn không ư? Năng dứt trừ tất cả và còn tất cả, thì đãng nhiên không lụy (ở tướng thì không có chẳng không, hỗn chân thì có không đều sạch) mới gọi là chánh quán của Đại Sĩ, huyền chiếu của đạo tràng (lìa tướng hai thủ nên gọi là thật trụ duy thức). Long Thọ nói: Thí như có đến nước khác, quán ở nghịch lữ (nghịch lữ là nhà khách) chủ nhân nghịch lữ dâng đó, dùng cơm ngon mới triệt (triệt là bỏ, nghĩa là thâu cơm) khách làm mà từ nói, có gì ư? (Thấy thức ăn ngon mà nêu câu hỏi) người chủ nói: Vì nước tôi có tương nên, kia lùi mà nói riêng: Tương cùng vị hợp nói thì vẫn đến là cũng như riêng làm vị ư? Mới tuyên tuệ của người chủ (tuyên là rõ, nghĩa là nhớ rõ lời nói của người chủ). Do đó, âm nơi nhà chúc tương (âm là tối, chúc là bán) tham buông lung tâm mình, ở phòng không người, thuộc yếm mà ăn (thuộc yếm là nói túng) mặn quá khát mà chết, Phàm lấy thiên không làm đạo là cũng rốt cùng lấy không làm hại (dính mắc mà chẳng thông hiểu nên bị hại). Luận Trung Quán chép: Nếu người thấy có không, thì Chư Phật chẳng hóa, sợ mê đắm nên răn đoạn. Trong kinh nói: Tỳ-kheo Thắng Ý nghe Hỷ căn nói Dâm-nộ-si là đạo (Bồtát Hỷ căn nói Dâm-nộ-si là đạo là, như nói trước dùng móc dục kéo, sau khiến vào trí Phật, v.v...) bất bình lý đó, phẫn mạn sinh ra. Hỷ căn quán ở đời khác có ích, gượng trao chẳng kỵ (nay tuy chưa đạt, trọn làm nhân lành cho đời khác, kỵ là quán) chỉ nay tà kiến là nhầm chấp vắn đó làm danh tướng, đều không làm ác chẳng tạc (tạc là hổ thẹn, nghe nói không cho là chẳng được ý đó bèn bỏ danh tướng đều không mà chẳng hổ thẹn). Đâu được ý kinh. Nhưng mà thứ nói: Hoàng kiến có cực, hội có cực đó, quay về có cực, Hoàng Đại cực trung (phàm lập sự phải dùng đạo của Đại Trung. Ở đây so với văn thượng thư có khác chút ít) đạo của Đại Trung, chẳng phải bậc thánh chẳng năng, ngõ hầu thực hành đó (đạo của Đại Trung là chín trù: Một là Ngũ Hành; hai là Kính dụng ngũ sự; ba là năng dụng tán chính; bốn là Hiệp dụng năm kỳ; năm là kiến dụng Hoàng cực; sáu là lại dùng ba đức; bảy là minh dụng xét nghi; tám là niệm dụng thứ trưng; chín là hưởng dụng năm phước, oai dụng sáu cực; có ai đủ chín điều này là bậc thánh quân tử Đế vương). Lễ nói: Trung dung chí hỷ đó ư? (Lễ Ký thứ mười sáu có thiên Trung dung) dung là thường, dụng trung làm thường đạo, nên Hoàng cực là trung trung của muôn hóa, trung dung có đạo ở trong đó) làm tánh của chí đức, làm hình dung của muôn vật (làm chủ trương của muôn hóa, chân tể của âm dương). Lão thánh nói, ba mươi bức cộng một cốc, đáng dụng không có xe đó (văn trong chương mười một của Lão Tử đạo kinh, ba mươi bức là nhiều, một cốc là ít, lấy ít gồm nhiều. Ở đây nêu pháp của Viên Xưởng có tự thể mà giúp dụng của vô thể). Duyên thực dùng làm khí đó (duyên là hòa, thực là đất, hòa là đất làm đồ gốm, là có khi dùng nội không xứ có dụng đựng vật, nên có đó dùng làm khí (đồ đựng) (như sự pháp hữu vi) không đó dùng làm dụng (như vô vi mượn sự pháp hữu vi mà hiển bày) không thì là trung (trung dụ cho chí đạo) Trung bày một, nên nói thiên được một để trọng, địa được một dùng Ninh (văn trong chương ba mươi chín của Lão Tử, vật được đạo dụng nên thiên thanh mà địa minh. Dụng mất thì thật táng (vùi lấp)). Dịch chép: Thần vô phương mà dịch không tự thể (văn của Hệ từ, thần là âm dương chẳng lường, dịch thì chỉ có chỗ biến đó, chẳng thể dùng một phương một thể mà nói). Lại chép: Một âm một dương gọi là Đạo (đạo là tên gọi của tịch nhiên không tự thể, âm dương tuy khác mà không có một để đối đãi, tại âm dùng vô âm âm để sinh, tại dương làm không dương dương để thành, nên nói một âm một dương) chỉ yết lệ có sâu cạn mà thuyết của ba môn là khác, (Luận Ngữ chép: Sâu thì lệ, cạn thì yết, Nhĩ Nhã chép: Lấy áo thấm nước làm lệ, nếu cạn thì nhúng áo vào, cạn thì yết vén áo. Cạn thì vén dụ cho hành đạo quán đó có cạn sâu) nắm giữ Đại Trung ở trong, hành đức giáo ở ngoài, trời đất hòa bình, quỷ thần chẳng linh, nên Đại Đình rạng rỡ (đều là vua trước …, trị) được thuật hay của Trang Hoàn, gồm muôn hóa ở vô vi (chẳng thân thân đó, chẳng con con đó, vô vi tự hóa) xưa kia, miếu của Lỗ Hoàn (Hoàn Công, thì trọng tử con Ẩn Công con của Lỗ Tuệ Công sinh ra) có kỳ khí vậy (hình như hũ gốm nhỏ, dùng đựng nước, rỗng thì ỷ, ỷ là nghiệp, trung (vừa) thì chánh, đầy thì úp, dụ giữ đạo Trung Chánh) lấy Trung Chánh để chỉ bày cho người, Trung thì chánh, chánh thì rỗng đầy hợp độ, siêu nhiên đặc thực, mới đầu ở mắt, sau ứng ở tâm, sâu mà mát mẻ (đặc thọ đó là, mới đầu trông ở mắt mà cuối cùng ngộ ở tâm, Huyền mà có thể tin) thư nói: Nương mà không ngược, giản mà không ngạo (văn của Thuấn điển, cương mất vào ngược, giản mất vào ngạo) Tử ôn mà lệ, oai mà chẳng mãnh (văn của luận Ngữ Ôn là Hòa, lại nghiêm lệ, tuy nhiên là chẳng mạnh mẽ) đều là bậc thánh quân tử, Quyền hành vật lý, tâm dung sự hội mà chẳng mất trung (trên đây tuy là điều ngoại điển nói, nhưng đều lấy nghĩa của Trung. Ý Hòa-thượng Bắc Sơn chỉ người học có học không nên được Trung). Trí luận dùng đại sĩ quán ở sắc không như thầy trò mổ trâu (văn luận Đại Trí Độ và văn của Trang Tử ý toàn đồng nhau). Họ Trang lấy làm Bào Đinh mổ trâu, mắt không hoàn toàn trâu (Bào Đinh làm Văn Tuệ Quân mổ trâu, chỗ tay xúc chạm, chỗ của vai tựa, chỗ của chân đạp, chỗ của gối tựa, v. v… là nhiên hưởng vậy, tấu dao v. v… nhiên chớ chẳng trúng, âm hợp ở cách múa của Nhu lâm, mới trúng hội của kinh thủ, vì thần gặp mà chẳng dùng mắt nhìn, dùng một dao suốt mười chín năm mổ mấy ngàn con trâu. Dao nếu mới ra từ đá mài là, tiết kia có khoảng mà dao nhọn không dày, dùng không dày vào có khoảng. To lớn thay đó ở dao nhọn hẳn có thừa vậy, đây là trang sinh ngu nói nhục đạo, lấy ý lợi dụng chẳng dính mắc) vì sao? Vì chất của châu đội sừng rủ hồ (hồ là thịt ở cổ) là có, khoảng cốt tiết thì không như vậy, nhọn của không dày nhập vào thân có khoảng, sao được chẳng khôi khôi ư? Nào có của trâu. Người giết mổ trâu biết rõ đó, (lúc chưa mổ trâu, chỗ thấy không chẳng phải trâu là, sau của ba năm chưa hề thấy toàn trâu, vì thần gặp đó) thầy trò mổ trâu rõ khó đó. Đó như Lương Bào Tộc Bào dao có lâu mau. (lương bào năm đổi dao hại, Tộc Bào tháng đổi dao bẻ, cùng dao mười chín năm khác). Nên trong thể là chẳng lấy vật thật làm ngại (được đạo đó là vật chẳng năng ngại) mà núi Diệu Cao nhét vào Hải cải, thật ủy chín chú ở Hào Khích (ủy là chín biển) thật có thể được mà dễ (ý kinh Tịnh Danh) Lão thánh nói: Hủy không chỗ ném sừng đó, hổ không chỗ mượn móng, binh lính không chỗ dung nhọn (đây chẳng tâm hại vật không hại vậy, nên không chỗ của ném sừng, mượn móng chứa nhọn), Trang Thị chép: Đại xâm cúi lạy trời mà chẳng mê đắm, (Đại xâm là biển, kê là đồng, văn của Thiên Tiêu Dao). Đại Hạn vàng đá chảy, đất núi cháy rụi mà chẳng nóng (chẳng vì lạnh nóng mà đổi tướng, chẳng vì thế vật đoạt tháo đó). Trọng Ni thấy Lã Lương Trượng nhân trong dòng ba mươi nhận. Thị Trung tín chọn nhặt bơi lội (bảy thước làm nhận, đạo Thị Trung Tín, mà chẳng sở hiểm trở) há chẳng đều dùng gần lý Đại Trung, hòa tánh của phẩm vật mà năng đến ở đây ư? Nên đi trên nước chảy vào lửa, chạm mũi nhọn, dẫm nguy ách, thân có thể bay lên, tai năng nghe rõ, mắt năng thấy suốt, chánh do tâm rỗng mà thôi (Lão Tử nói: Rỗng tâm, thật bụng), Tâm rỗng nên chẳng ngược đối với muôn vật, (không đây kia mà tiếp đó) muôn vật cũng cùng ta huyền thuận. Tánh của hoạt nhiên không đến đâu chẳng hợp (rỗng tâm tâm vật, chỗ gặp Huyền Hội). Vả lại, nước lửa là có hại của vật (nước năng trôi chìm, lửa năng đốt nóng, đều là cái hại của vật, mà loài vảy nuôi ở suối (cá rồng có nước để sống) thú sinh ở lửa (như có chuột lửa đều sống trong lửa) kia đâu mượn phương thuật của chế ngự nước lửa ư? Chỉ tánh hợp ở táo thấp, khí đồng ở lạnh nóng, nên dung nhau mà chẳng trái nhau, sinh nhau mà chẳng hại nhau, thật thì hoàn toàn (đã chẳng thương tổn nhau thì tin nước lửa năng toàn ở vật), huống chi có đạo là mà đức toàn ở muôn loại ư? Nên Đại sĩ dùng tâm này học, gọi là thiền, thiền là tĩnh lự (tiếng Phạm là Tam-ma-hý-đa, Hán dịch là Tĩnh lự. Định này năng dừng lắng tâm lự) ngoại cảnh chẳng đủ để chuyển đổi tình gọi là Định (tiếng Phạm là Tammuội, Hán dịch là Chánh Định). Định là chuyên nhất, hễ có dùng thân thì Phật dứt trừ tượng, nếu ở vị của đại thánh là, thật ngu bội ngược mình (như đồ chúng của Kim Cang thiền). Nếu thật là dùng nước lửa thì đâu được nhiều may đó là khỏi ư? (Nếu ném đồ ở nước lửa thì đâu thể trốn lánh cái hại), hạ thức kém lầm, lời không đúng lý, chẳng lý thật hành, gá mà nói tâm thẳng đường khó mình (như người mù dẫn đám mù). Người làm đạo có ba thứ biết tâm, hành tâm, khiến tâm, xét ở mình, sau đó nói chỗ đó đến. Biết tâm nghĩa là rõ chân vọng. Hành tâm nghĩa là diệt thương ghét, khiến tâm nghĩa là khắp dơ sạch, (tâm tịnh thì thế giới tịnh đồng). Nay mới bắt đầu học, mới muốn tợ biết, đối với thứ khác thì thiếu, sao tâm tự lừa dối (các thiền sư thời nay thường tự cho là đắc mà lừa dối với người là như do quả Kim Cương thiền, v.v... yêu loạn là nhiều) nên đại bi vô cùng, cơm thơm vô cùng, Đại Trí chẳng ngại, phương trượng chẳng ngại (như Duy-ma-cật đại bi vô cùng, chỗ lấy cơm thơm chẳng cùng tận, chỗ tu trí hành chẳng chướng ngại, nay chỗ phương trượng chiêu cảm cũng chẳng chướng ngại) kinh nói: Nếu lúc thành Phật, đủ ba mươi hai tướng v.v... (văn kinh Pháp Hoa) mới được gọi là hết hẳn. Hành nhạc, Thiên thai (tức Hòa-thượng Tư Đại ở Nam Nhạc, đại sư Trí Giả ở Thiên Thai) nhất tâm tam quán (nghĩa là Đại Bátnhã, đại pháp thân, Đại Niết-bàn. Một là từ giả vào không, quán sắc tức không, nên hiển pháp thân, hai là từ không vào giả, quán không tức sắc nên hiển Bát-nhã, ba là không giả bình đẳng, nghĩa là sắc không chẳng khác nên là Niết-bàn) thành ở viên y ba đức (trên đây ba pháp tướng nương nhau mà thành, gọi là ba đức, cũng gọi là viên y, Phạm Thư nói chữ y có ba điểm, như ba mắt trên mặt Ma-hêthủ-la) bởi được đó là Long thọ. Gia Tường quyền thật song hành thành ở hai chân Bi Trí (Tuệ Kiểu là tăng trụ chùa Gia Tường ở Cối Kê, học thông nội ngoại, giỏi về kinh luật luận, dính mắc dấu vết Phạm Võng, Niết-bàn, v.v... vì có đại bi nên ưa thích độ sinh, vì có đại trí nên ưa thích đoạn chứng, nương nhau như hai chân người) bởi được đó ở Hoa Nghiêm (đây mới được ý chỉ của thật tánh). Bồ-đề-đạt-ma trí tư vô vi, vô tư, vô lự, được đó ở tánh không (lấy từ niên hiệu Thiên Giám thời Nam Lương đến nay) mà đời gần đây chẳng biết không, chẳng lìa giả, bỏ có cầu không, khác đầu mối ở việc làm đó (vì chân không chẳng lìa giả có) làm sao vẫn dẫm tục là biết giả chẳng lìa không (dẫn trải sự pháp, biết sự pháp lấy không làm chỗ nương tựa) thì đạt chỗ của ta làm, chẳng gọi là tục (tuy tục mà năng đạt thân đó, đâu được gọi là Tục?) ở chân là biết chân, chẳng lìa giả thì chiếu chẳng làm của ta chẳng gọi là chân (ở chân năng biết chân dùng tục hiển thì chẳng chấp chân mà tự) nên Đại thánh ba cõi làm Vô sinh, Nhị thừa diệt ba cõi làm Vô sinh (Đại thừa mới ngay tục mà nói chân, Tiểu thừa là diệt tục mà bàn chân) thiên viên hơn kém là ở đây (Đại thừa do Viên thông giải thoát, Tiểu thừa vì thiên chấp tự dính mắc) kinh nói: Tuy biết các cõi Phật và chúng sinh là không, mà thường tu tịnh độ, giáo hóa các chúng sinh (tuy biết có tướng là không mà chẳng phế bỏ độ sinh) đó gọi là hành trung đạo. Như vậy, nấu vàng dệt lụa ai gọi đó là có, lụy gót chân nhắm mắt, ai gọi đó là không (ở đó làm ma rõ tướng của có làm, ai nói đó ở có ư? Ở không làm là đạt không làm, ai nói đó rơi vào không của không làm ư?) đó năng thể đạt hành ở phi đạo thông hiểu Phật đạo, mới có thể nói là cùng cực (thể đạt được phi đạo đó, mà thông hội được Phật đạo, mới có thể nói về lý chí cực đó). Kia cô lậu là gọi đó là gì ư! (Hạng mê không đắm có đâu biết đạo). Hạng có trí bảo trọng với danh tiết nỗi trội riêng, mà năng trì luật đắm danh dự, mà chẳng năng rỗng tâm hợp đạo (chỉ bền chắc tâm tiểu tiết có vị đạo của viên thông) lạnh thì vào nước, nóng thì vào lửa, khát thì ăn muối, đó là chết giá buốt, buồn làm thần chùa, tuy gắng gỏi tiết tháo dốc thành thực mà chẳng biết sở do của đạo, phàm lạnh nóng là hằng kỷ của đất trời, kia còn phức mà trái đó (phức là ngang bướng). Thịt ngăn nằm tình ở vật ta ư? (tổ thứ hai mươi là Xà-dạ-đa đến thành La-duyệt gặp một vị Đầu-đà sáu thời lễ niệm, ít muốn biết đủ, thường ngồi chẳng nằm, ngày ăn một bữa mà thôi. Tôn giả bảo đại chúng; Vị Đầuđà này các ông thấy thế nào? Đại chúng đáp: Chẳng thể nghĩ bàn, thường tu phạm hạnh, đây là đạo chăng? Thật như. Hành giả. Tôn giả bảo: Nay vị Đầu-đà chẳng bao lâu sẽ đọa lạc, cách đạo xa vời, tâm có sở đắc, chẳng gọi là Đạo. Đại chúng hỏi: Sao biết? Tôn giả đáp: Ta chẳng cầu đạo, cũng chẳng điên đảo, ta chẳng ngồi hoài cũng chẳng biếng lười, ta chẳng ngày ăn một bữa cũng chẳng ăn tạp, ta chẳng biết đói cũng chẳng tham dục. Vị Đầu-đà nghe nói vậy bèn sinh kính trọng, ở Thiêntrúc gọi là Biển Hành Đầu-đà, tức Bà-tu-bàn-đầu) nên sống nhọc hình, chết đắm chìm không tướng trạng, mà Tiểu thừa đối với Đại thừa trì luật là phá giới (như luận Du-già chép: Bồ-tát nếu thấy hữu tình chịu nghiệp ác, riêng đoạn mạng đó, tự chịu nghiệp sát, khiến thân đó được thoát khổ, v.v...) Siêng năng là biếng lười (ưa đắm pháp tiểu thừa là biếng lười) tin là trí chướng (tin tiểu quả mà chẳng khởi Đại Trí) nghĩa có thể thấy. có chấp quên lời làm đạo là hẳn cũng loại đây. Phàm chẳng biết mà nói là nói dối, không biết nói mà chẳng nói là thận trọng lời nói đó. nương lời mà nói gọi là học nói (nương lời nói của người. Biết nói mà không nói là lời nói yên tĩnh). Đó muốn mất ở lời nói mà chẳng quả ở tâm của mất lời nói, thì tuy hưởng dứt ở ngoài, tình xao động bên trong, bởi chẳng mất đó (miệng tuy hết nói mà tâm đuổi theo danh lợi thì chẳng phải ở tâm của mất nói) phàm năng nói rõ sinh ở vật vật đều tự hóa, nói đó cũng tự hóa, suốt ngày nói mà thường im lặng, đó gọi là chân thật mất nói (tuy nói mà tâm chẳng dính mắc) mà trong kinh, Tịnh Danh chẳng nói, do các Đại sĩ trước nói đã đến hết lời chăng? (Chẳng nói là chân thật vào pháp môn chẳng hai) lại còn gọi là gì. Trung Thị vô vi, gọi là chẳng cáo biết dạo Bắc, vì người đó chẳng thể hội lời nói mà ngay nơi đạo mới chẳng cáo vậy (cáo là thỉnh, tự ấn chứng chẳng thỉnh cáo) như trong kinh nói: Pháp đó chẳng thể bày, tướng nói phô vắng lặng (văn kinh Pháp Hoa, bàn chân lý đây là tướng nay) há chẳng nói ư? Do đó Bátnhã âu hòa làm hai đầy đủ của viên tông. Bỏ phương tiện thì Bát-nhã soi chiếu lẻ loi (tiếng Phạm là Bát-nhã, Hán dịch là Trí, tiếng Phạm là Ân-hòa-câu-xá-ra, Hán dịch là phương tiện. Phương tiện và trí thể dụng nương nhau. Nếu bỏ dụng của phương tiện thì thể của Bát-nhã là soi chiếu lẽ loi,) cho nên chí đạo, gồm trời đất, bao gồm muôn vật, động biến hóa, được đó vào một trần mà rộng thoáng cả pháp giới (một trần chẳng hẹp, pháp giới chẳng rộng, thoáng) mất đó dạo pháp giới mà hẹp ở một trần (chẳng được đạo đó là tuy pháp giới mà chật hẹp so với bụi cát). Núi lớn đó cũng đầu mảy lông mùa thu mê ngộ sao trái nhau (Thái sơn và Thu nữ lớn nhỏ chẳng bằng nhau, tình của mê ngộ thông suốt, dính mắc, cũng là riêng).
(Nói về các Đế Vương tiếp nối nhau, các Samôn từ Tây Vực và cả Trung Hoa gặp thời vua hưng phế, v.v...)
Kiếp sơ chư dân, tự ở gạo ăn (chưng là đông nhiều, tư là lẫn nhau. Đất béo đã hết thì có gạo canh tự nhiên), lúa thơm đã hết, phân đất làm nghệ (nghệ là trị, người đã xâm đoạt, mới phân đất ruộng mà mỗi việc đều trị). Vì phòng ngự biên giới mà lập Đại-tam-ma-đa-vương (Tam-mạt-đa, Hán dịch: vua tụ lạc sợ có kẻ mạnh xâm đoạt bèn lập một người làm vua, cung cấp thay nhau hiến cúng, khiến làm dân chủ) thứ loại vâng theo, ân tỏa khắp xứ, lại lìa kế thể, vận đời tại Thiên-trúc (quân phụ kế tiếp làm chủ của Thiên-trúc, đến đời Tịnh Phạm là có hơn tám mươi bốn ngàn hai trăm sáu mươi vị vua (kinh A-hàm chép: Ở quá khứ có vị vua tên là Ý-ma, có bốn thứ tử: Một là Chiêu Mục; hai là Liên Mục; ba là Điều Phục Tượng; bốn là Ni-lâu Thông, đều thông minh thần võ, có oai đức lớn, phu nhân thứ nhất có người con tên Sinh, dáng mạo xấu xí, mọi người khinh rẻ, phu nhân lo nghĩ bốn người con kia sẽ đoạt ngôi vị đó, bèn nói cùng Vương Trương ruồng đuổi đó, vua liền đuổi bốn người con mỗi mỗi mau ra khỏi nước, khi ấy, các lực sĩ tất cả nhân dân đều nguyện theo đi, đến khoảng núi tuyết, dừng ở ngay rừng cây, chỉ trong vài năm, mọi người kính mến đức, quy về đông như chợ, bèn thành nước mạnh. Vua cha thấy vậy, vời gọi mà họ chẳng trở về, vua cha bèn ba lần than: "Con ta có tài năng", từ đó bảo gọi là dòng họ Thích. Kinh Ahàm nói: Thích Lâm là họ, nên có dòng họ Thích. Thích tức là thọ). Sau vua Ý-sư-ma có vị vua tên là Đại Thiện Sinh, suốt bảy đời là dòng họ Cù-Đàm (xưa có vị vua, cha mẹ mất sớm, nhường nước cho con. Xả bỏ ngôi vị, giữ tâm đạo gặp một vi Bà-lamôn dòng họ Đàm, nhân theo đó học đạo, vị Bàla-môn bảo: Thường cởi áo vua, như chỗ ta mặc, nhận dòng họ Cù-Đàm, gọi là Bồ-tát Tiểu CùĐàm) Sau vua Uất-ma có vị vua tên là Ni-lâuthông, suốt năm đời là dòng Thích-ca. (Vua Nilâu sinh ra vua Ô-đầu-la, vua Ô-đầu-la làm chủ nước Ca-duy-la-vệ, sinh vua Cù-đầu-la, vua Cùđầu-la sinh vua Thi-hưu-la, vua Thi-hưu-la sinh bốn người con: Một là vua Tịnh Phạm, hai là vua Bạch Phạm, ba là vua Hộc Phạm, bốn là vua Cam Lộ Phạm, vua Tịnh Phạm tức là thân phụ của Phật) Đại sĩ đã qua kiếp tu tướng tốt (Bồ-tát ba đại Xída-kiếp tu hành đến định Kim Cương dụ, sau trăm kiếp tu tướng hảo, ngàn kiếp học oai nghi, muôn kiếp học hóa hành) sau cùng quyết sinh không gì bằng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, mà Sát-đế-lợi địa vị quý trọng (tiếng Phạm là Sát-đế-lợi, Hán dịch là Thổ Điền chủ, là dòng họ vua) Bà-la-môn đức tôn, (tiếng Phạm nói đủ là Bà-la-hạ-ma-noa, Hán dịch là Tịnh ngự, là con cháu của Phạm Thiên, chỉ năm xứ Ấn-độ có, ngoài ra các nước không có, làm thầy vua nên gọi là Đức tôn), chỉ cho kiếp trược, đức chẳng thắng địa vị nên ta chẳng sinh ở Bà-la-môn. Tuy nước nhỏ không có Sát-đế-lợi (vi là không) mà thế tục lâu dài, không gì vượt hơn Đức Thíchca (từ vua Tam-mạt-đa cho đến vua Tịnh Phạm có hơn tám mươi bốn ngàn hai trăm sáu mươi đời vua) ngoài ra, còn có hai dòng họ thấp hèn, sinh vào đó thì chẳng tránh khỏi bị người đời phỉ báng, nên Đại thánh chẳng sinh (tắc là lấp bít, hai dòng họ đó: Một là Phệ-xá, dịch là ngồi buôn bán, tục nhiều vật báu nên lấy làm tên, hai là Nhung-đạt-la, cũng gọi là Thủ-đà, nghĩa là học giả bề tôi làm ruộng) năm xứ Ấn-độ phân đồng trống khắp hơn chín mươi ngàn dặm ba bờ biển lớn, lưng phía Bắc núi Tuyết có tám nước lớn, mười sáu thành lớn, hơn bảy mươi nước nhỏ. Bấy giơ, không có Luân Vương thống ngự, theo lệnh của nước Vu-Bá (nếu có Luân Vương thì các nước nhỏ đều phục thuộc, nay không có Luân Vương chỉ lấy mạnh làm bá) giống như ở thời Chư Hạ Xuân thu, chư hầu được nhiều chuyên chính, như Tấn Văn Công, Tề Hoàn công v.v...) lễ phục chinh phạt chẳng phải do của một người (thời xưa, hạ lễ làm nhạc của việc chinh phạt, đều phải từ nơi Thiên Tử, từ đó trở lại chuyên lạm chẳng phải từ một người mà ra). Ma-kiệt-đề là nước lớn (Hán dịch là Bất chí), vì nước này đem binh lính mưu tính đánh chiếm, binh lính các định gần đều chẳng thể đến. Khắp năm ngàn dặm. Thành ít người ở, Ấp nhiều biên hộ. Lúa mạ tươi tốt đượm nhuần, có loại gạo thơm hạt lớn, mùi vị khác lạ, tục kia gọi đó là gạo cúng đại nhân, đất đai ẩm thấp, ấp nước ở hang, phong thuần tục chất phát, khí hậu ôn hòa) ở bên trong góc biển, vua Bình-sa là quân trưởng (tức Tần Bà-sa-la, Hán dịch là nhan sắc đoan chánh, tức phụ thân vua A-xàthế). Đứng đầu trong các hậu, thành Vương-xá là pháp tập thắng hội, bày muôn phái mà quy về (thành Vương-xá, tiếng Phạm là Cư-xa-yết-la-bổla, Hán dịch là thành Thượng Mao. Nơi sản sinh loại cỏ tranh (mao) tối thượng. Trong nước Makiệt-đề, xưa kia nhân hỏa hoạn mà ra ở đây, bèn thành nhà ở, về sau vua Vô Ưu dời đến ở Ba-traly, đây chỉ có ngàn nhà Bà-la-môn ở chung) núi Linh Thứu là áo phủ của các bậc thánh, bày tướng của các nhạc phía dưới (thánh Câu-tô-ma đã là thành núi, gần thành vương xá, tuy có năm núi này riêng tốt đẹp, cao mà lại hiển, nên bày ra quá Nhị thừa, có nhiều chim thứu đậu ở nên gọi là Thứu phong) A-xà-thế nghĩ Hoàng đăng dong (hoàng là lớn, đăng là lên, dung là dụng, lớn lên dụng nghĩa là quân) vì giết cha bại danh, tuy có công đức chẳng đánh ca ngợi (cùng Đề-bà-đạt-đa bày mưu giết cha, giam tù vua Tần Bà-sa-la, lại phục kiếm đuổi mẹ là Vi-đề-hy, v.v...) đến thời vua A-dục, hưng thạnh trong niên hiệu đại nghiệp, oai trùm góc biển, thế kiện Thiết luân mà chẳng tức chân (kiện là bằng, tức là thành. Thế tuy ngang bằng Thiết luân, là tằng tôn của vua Tần-bà-sa-la) mới đầu trong kinh Pháp Tượng tạo địa ngục (Pháp Tượng là nương học) đắp tường thành nhiều lớp, nấu sắt nóng chảy đổ vào, xô người xuống đó, tuy xưa kia có mổ xẻ thiêu đốt nhưng chẳng quá tàn khốc như thế (xưa kia, Thương Trụ mổ bụng phụ nữ mang thai, chẻ cẳng chân của Triều Thiệp, đặt ra ngàn hình luật kế tiếp, thiêu đốt kẻ trung lương, mổ moi tim bậc hiền nhân, nếu so sánh thì cũng chưa bằng) mến kẻ dõng tế ác, khắc mại kẻ hung đức (dưới Nam Sơn có một người, hung ác có thể làm lính ngục, vời gọi đó, cha mẹ chưa chấp thuận, nó bèn giết hại cha mẹ mà đến). Gặp người đắc đạo dùng thần lực giáo hóa, vội sửa đổi mà qua (Mới đầu trong nước, các tội nhân pháp chẳng kể nặng nhẹ đều đưa vào đồ thán, sau có ai đến ngục, tiếp thì bắt đầu giết hại. Bấy giờ, có vị Sa-môn, lần lượt khất thực, kẻ sứ ngục bắt vào, Sa-môn kinh sợ, cầu xin lễ sám bảy ngày, bỗng chốc thấy có một người bị trói đưa vào, chém chặt tay chân, mổ xẻ hình hài, thấy rồi càng thêm buồn thương, thành quán vô thường, chứng quả Vô học, tuy bị bỏ vào vạc sôi mà như ở ao mát, có hoa sen lớn, dùng để làm tòa, vua nghe vậy, đích thân đến xem, rất ngợi khen Linh Hựu. Sau đó giết chủ ngục, bèn phế bỏ ngục đó). Đại Đức Cúc-đa lại dùng nhân quả khải địch (Khải là mở, địch là dẫn dắt, Tổ thứ năm, Ưu-bacúc-đa dùng đạo lý nhân quả mà khai mở dẫn dắt) càng xét thêm sợ, vội nghĩ bổ đắp, bèn mở hộp của tám vua, dựng tám muôn linh sát (từ sau phế bỏ địa ngục, Cúc-đa mỗi ngày càng thêm khéo dẫn dụ, nói rộng về nhân của hiến đất, Đức Như lai huyền Ký Công đức của sự dựng lập, bèn nhóm họp quỷ thần, dốc lực đồng tâm, đem tám nước cùng phân chia Xá-lợi, bảo quỷ thần đến kỳ hạn ngày tháng, có ẩn che tướng trạng như bàn tay, nên hạ Xá-lợi ngay giữa trưa, La-hán đưa tay che mặt trời, tạo dựng bèn thành) vua đó do phước của thí đất, công cao vị trọng đến như A-túng. Đại thiên xua đuổi hiền thánh, đến nỗi khiến chúng tăng chia thành hai bộ (từ sau khi Đại thiên vào cung thường ngày thọ nhận ân sủng, ngay đêm thuyết giới tranh cãi với chúng tăng, vua Vô Ưu a dua theo, mới chia thành Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ) Phật pháp mới bắt đầu bị phân chia, tuy nguyên ác đãi đổi vốn chẳng tại mình mà vị vua vốn không xét trước, chẳng được chẳng chia đều tội ở tự mình (từ đó pháp thừa một vị. Nguyên là đầu, đổi là oán, vì vua chẳng có khả năng năng định tội cho đúng, chẳng phải lỗi đó ở đây) phía Bắc Thân-độc (Độc theo thư là âm đốc, tức Ấn-độ, hoặc gọi là Hiền Hổ, đời Đường gọi là Nguyệt, nguyệt có một ngàn tên. Quần sinh luân hộ đem dài chẳng dứt, hiền thánh giáo hóa, dẫn vật như trăng chiếu đêm, do đó đặt tên đất kia) có nước Kiện-đà-la (tức bắc Ấn-độ, cách Ma-già-đà năm trăm dặm, không sương tuyết, người khéo tập học nghề tên kính ngoại đạo là quê quán của Vô Trước, Thiên Thân) vua ấy hiệu là Ca-nị-sắc-ca (sau Phật diệt độ bốn trăm năm), làm vua mà có lễ, rộng mà kính tin, tôn La-hán Mô Hiếp làm thầy (phú pháp tạng nói: Tỳ-kheo Ba-xa từng sống chẳng nằm, hông chẳng dính chiếu, người thời bấy giờ gọi là Hiếp Tôn giả) giải thích các bộ, phẩm cách đồng dị, soạn Đại Tỳ-bà-sa (hai trăm quyển), tuy có nước có vua, không có lúc nào không có tăng ở, tin mà hành tin, đó là chẳng nịnh (miệng tài gọi là minh, làm vua của nước ở trung tín mà hành kính tin, đó gọi là chẳng xiểm nịnh, mới đầu vua chẳng tin tội phước nhân đi săn, thấy hai mục đồng đắp Tốt-đổ-ba, bèn hỏi, hai mục đồng nói: Phật thọ ký sẽ có vua ở đây thâu Xá-lợi của ta. Đại vương xưa đã gieo trồng nên tín tâm sâu chắc, kính trọng Phật pháp) kẻ tăng người tục dùng đó, nghiệp lớn bày đượm (người ở Tây Vực, tăng tục đều học luận này) đời gần đây vua giới Nhật là kế đó (vua Giới Nhật tức vua nước Ma-kiệt-đà ở đầu thời Tiền Đường, Á là kế thứ) đời Chu Tần, nguồn chân xa bít, bờ linh dài ngăn, chủ trái với đạo, sớm chẳng lên Hiền. Bá Dương Ni-phụ khinh thường gặp phải (thời đại Chu Tần, Khổng lão tuy đại hiền mà đều chẳng thấy dùng) thương tưởng lý tư, rất đỗi buông lúng (đều rất chiêu mộ kẻ lại, đều chẳng được chết) mà họ Thích cẩn thận gian nan nên chẳng đến (Phật pháp chưa truyền đến là biết gian nan của Bạo Tần, nhưng cảm hóa có thời, chẳng thể gượng ép). Vả lại, Hán tiếp thừa ngựa xấu nhà Tần, lên để lấy thiên hạ, mượn lực để anh hùng mới thành đế nghiệp (Hán cao tổ chống kiếm ba thước mà lấy thiên hạ) nên khiến má Luận Công đều rút kiếm đợi nói, Cao Tổ mắc hoạn đó (Hán sau năm năm hội cai sắp phong công, mà các tương đua tranh rút chợt nói, cao tổ vì ngậm răng, từng bắn Cao Tổ có thù, mới phong đó, các tướng biết có trông mong mới định). Vì vậy, Thúc tôn gạn chung nên cả các sinh lỗ, tu chỉnh lễ của Triều Hội, trông xa kiệu hoàng đế, trăm quan không ai chẳng sợ hãi, thức ngăn cấm tệ của đương thời, để tôn muôn thừa oai nghi (đây là tên Thiên Tử mà ép chư hầu) nên Thái Hoàng phản bái (cha của cao tổ) gia lệnh được ban, tự xưng nghiệp bá, lưu lại quyết tôn mưu, phong cách của Hoàng vương tôn sùng sư mà giáng lễ, chưa hề có nghe (đây là Thúc Tôn Thông ở thời Tiền Hán, v.v... nêu bày cả Hán lễ, mà chưa thấy việc tôn sư trọng đạo giáng lễ từ việc bề tôi). Hoàng đế hỏi đạo ở Quảng Thành (Hiên Viên hỏi đạo ở Quảng thành tử) Đường Nghiêu thuận phong ở Cụ Tỳ (Nghiêu Vương lễ tiên sinh Cụ-tỳ và đưa ra Nam Hoa chân kinh) há chẳng phải việc của Chí tôn ư? Đến khi nhà Hán Trung Hưng, đế Trang Phi Hiển (chúa thứ hai thời hậu Hán Minh đế tên là Trang phi hiển minh) tiếp khách ở Đại Hồng Lô, đáng ty ở Đại Tông Bá (từ Tây Vực, chỗ Ma-đằng, v.v... đến, hoặc an ở chùa Hồng Lô, hoặc Tông Bá làm chủ đó vậy) nên Chi Khiêm an thanh (Chi khiêm là Ưu-bà-tắc ở nước Nguyệt thị, tự là Cung Minh, Hán chưa đến đất lạc, trao nghiệp cho Chi Lượng, Chi Lượng trao cho Chi Sấm, ở đời xưng là thiên hạ biết rộng chẳng ngoài ba chi, An Thanh tự là Thế cao, con vua nước An-tức, nhường ngôi vị mà xuất gia, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ nhất thì Hán Hoàn đến đây, đức trọng trong chúng tăng, mà chưa làm thầy bạn của Vương Hầu, tuy Sở Vương tu sửa đền thờ của nhân thánh, Hiếu hoàn dựng tế của Hoa cái (đều là các vua đời Hán) cũng chỉ có thần Phật mà thôi. Chưa đền thờ nhân tâm, người của Hoa cái (chỉ là nghiêm trang khí cụ) Ngụy nhân Hán lễ, trưng dụng chuộng lạ, chỉ vì âu lo Cần vương đảnh cao, nhân nào mà thờ đối với ta khắc hạ ư? (Ngụy Tào Tháo tự là mạnh đức, làm tướng nhà Hán, vì nhà Hán suy yếu mới ép Thiên tử khiến chư hầu mưu toan phân bá, chẳng rảnh sùng hiển giáo của ta) nhưng tuy chẳng thể mở mang khen ngợi phong cách đó, mà cũng chẳng tệ đối với đạo ấy (cũng có các Tam Tạng pháp sư như Khương Tăng Khải, Đàm Đế, v.v... đến phiên dịch) đầu đời Tam Quốc, người Ngô chưa dốc tin từ Thiên-trúc có Sa-môn Khương Tăng Hội mới đầu đến đất Ngô, dựng lập hành đạo. Tôn Quyền (tự là Trọng Mưu, đóng đô ở Kim Lăng) cho là lừa dối khác tục, bắt giữ, Khương Tăng Hội nói; thân Phật tuy diệt, nhưng di cốt Xá-lợi ứng hiện vô phương. Các bậc tiên vương ở ngoại quốc xây dựng tám mươi bốn ngàn ngôi tháp, phô bày Di hóa, Tôn Quyền cho là đãi mình (đãi là nói khinh thường) bèn khiến ra kỳ hạn cầu Xá-lợi, nghiêm khắc điều lệ hoãn phạt hai mươi mốt ngày, Khương Tăng Hội cùng đồ chúng sắp chết, Xá-lợi bèn rơi xuống lẻng kẻng trong mâm, hiện ráng cầu vồng trên đèn, vua tôi của Ngô cùng trông thấy bèn vui mừng bảo: Lành thay, điềm lạ vậy mới bắt đầu xây chùa Kiến Sơ, gọi xứ đó là làng Phật-Đà. Lúc ấy là niên hiệu Xích Ô năm thứ tư, cách niên hiệu Vĩnh Bình hơn một trăm bảy mươi năm (năm Giáp tý thuộc niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười đến niên hiệu Xích Ô thứ tư tức năm Tân Dậu là được một trăm bảy mươi tám năm) một ngàn người Ngô ở tại Ngô Lạc biết pháp gần không muộn ư? Tôn Hạo cuồng ngược vô đạo, cả nước sắp bị bệnh, mới đầu phá Hủy Dâm từ, dần hồi đến chùa am. Các thần bàn nghị rằng: Oai lực của Phật chẳng đồng các thần khác, Khương Tăng Hội cảm linh Thái Hoàng xây chùa. Nay nếu khinh thường Tăng Hội. Tăng hội là người tài biện nổi bật, ngày mai khó thể giúp thêm, bèn đến chỗ Tôn Hạo, Tôn Hạo nhóm họp các Công khanh cho đến Liêu thứ, dùng xe ngựa để trừng Tăng Hội, khi đã đến Tôn Hạo gượng ngôn từ, mờ tối lý, cho là Tăng Hội chẳng bằng mình (Tôn Hạo hỏi Tăng Hội rằng: Điều Phật giáo nói về thiện ác báo ứng là thế nào? Tăng Hội bảo: Phàm minh chúa hiếu từ dạy đời, thì chim đỏ liệng, sao người già hiện, nhân đức kịp vật thì suối lễ tuôn mầm tốt ra, thiện đã có chứng, ác cũng có thể nghiệm, làm ác nơi ẩn, quỷ được dịp giết đó. Làm ác nơi hiển, người được dịp giết đó. Tôn Hạo nói: Nếu vậy thì Chu Khổng đã rõ, Tăng Hội bảo: Phật giáo rộng sâu) mà Tăng Hội đối kháng hết thể của Điển mô, suy dẫn hợp bàn nghị của người trung lương. Tôn Hạo tự nhiên biết đó chẳng thể khuất, mới đổi sắc mặt mà kính. Nên, trị quốc là thể thánh hiền và quân tử. Như khí thức của Tôn Hạo là sau cùng, đâu được chẳng làm chủ của mất nước ư? Vừa rồi chẳng phải Tăng Hội dùng đạo nghĩa dẫn dắt, chở che buông lung làm ác, chẳng biết kỹ cực thể của Tiêu Tường, Thi Ân Tử Đạt, đâu được nhục sâu dày ở đất Tấn (Tôn Hạo tự là Tông Nguyên, con của Hòa, cháu của Tôn Quyền. Mới đầu Phông Ô Trình Hầu, Trương Bố, v.v... lập đó, sau oai ngược độ, bị chinh nam tướng quân Đỗ Dự, v.v... tóm bắt, Tôn Hạo bắt trói hàng Tấn vào Lạc Phong về mệnh hầu, tức niên hiệu Thái Khương năm thứ nhất) Tăng Hội từ niên hiệu Xích Ô mới đến, tới cuối niên hiệu Thiên Kỷ, Tôn Hạo hàng, chẳng mấy tháng thì mất (năm Tân Dậu, niên hiệu Xích Ô thứ tư đến đất Ngô, đến năm Canh Tý, niên hiệu Thiên kỷ thứ tư, Tôn Hạo hàng được ba mươi chín năm. Đến mùa đông mất tại đất Ngô). Đầu cùng nước Thạnh sau cùng nước Tiêm (tiêm là diệt). Người trong Bang Quốc kính mến Tôn Hạo, hát dũ so với mến mộ Tăng Hội ư? (hát là sao, dũ là hơn). Thổ Đức đã mỏng, đảnh dời đến Tấn (Ngụy dùng Thổ Đức mà ứng lịch số) Tuệ Hoàng mất ngự, thiên hạ đổ nát (Tuệ Hoàng là con Võ Đế, tên chung, tự là Chánh Độ, lập mà Vô Trí, triều chính chẳng trị, đến sau niên hiệu Vĩnh Khang, tại đó phân lập thành mười sáu nước) Tiền Triệu ở Ly Thạch (Lưu Nguyên Hải, mới dấy Hung Nô, sau Xương Đốn. Hán Cao Tổ lấy Tôn nữ làm vợ, Xương Đốn kết làm anh em, bèn thuộc dòng họ Lưu. Nguyên Hải tay vượn khéo bắn. Thành Đô Nương tang bày đó làm Ninh Sóc tướng quân, không nước thành hai tuần, đông đã năm mươi ngàn, bèn tiến vào thành đế vị, bảo Tử Thông cướp Lạc Dương. Lưu Diệu sau dời đến Trường An, bị Thạch Lặc giết hại, tất cả có bốn chủ trong hai mươi bốn năm). Hậu Triệu dấy khởi ở Cát Bà (Thạch Lặc là người Yết ở Thượng Đảng, khởi nhường nước Bắc Vương Tuấn hàng Lưu Côn, bèn thành đế vị, sáu chủ trong bốn mươi sáu năm) Thạch Lặc, Thạch Hổ binh lính mạnh lại đông, chống hung bạo làm đức, chém giết như cây cỏ, các Sa-môn bị hại rất đông. Vì vậy Phật-đồ-trừng thương điếu rằng: Tội gì của người kia mà tánh mạng chẳng bảo toàn. Nhân tướng của Thanh Lặc là Quách Hắc Lược, hiển bày thần vị, giúp mưu kế lớn, hẳn được tỏ bày với Thanh Lặc, ngày khác Quách Hắc Lược đánh mạnh gặp Thạch Lặc, tỏ bày thành quả qua nhan sắc, đem việc của Phật-đồtrừng mà nói. Thạch Lặc mừng vui mời đến hỏi. Phật-đồ-trừng biết Thạch Lặc chẳng đạt huyền lý bèn đáp rằng: "Chí đạo tuy xa, nhưng có thể nghiệm gần" bèn dùng bình bát đựng đầy nước, đốt hương cầu chúc, chỉ trong khoảng khắc mọc lên hoa sen xanh, Thạch Lặc trạng thần thánh đó, cúi đầu xuống phong rỗng tâm nhận dạy răn. Nhân trắc đồ thán, niệm lự chẳng nghĩ (Thạch Lặc lúc đầu kết làm bạn cướp với Vương Dương Chi Hùng, thường làm việc giết hại, lại Thạch Hổ tự là Quý Long, tức tùng tử của Thạch Lặc, võ mạnh chống kháng ở sĩ nữ, ít có loại bỏ sót) người của Hồ Hạ đáng bị giết chết gồm có mười chín mà được sống, thật có thể gọi là thám xét mạng người ở miệng Hổ.
Cho nên biết ngắn dài ở thánh mà chẳng ở ty mạng. Ty mạng năng ty làm sao có thể ngắn dài (vì bậc thánh thực hành pháp mà kéo dài, chẳng phải điều ty mạng làm được) Phật-đồ-trừng nghe tiếng linh, gồm quán tay dính dầu, nhờ thông minh ở tai mắt mà thật hư chiếu ở tâm, các gọi là không đâu chẳng phù nghiệm (Phật-đồ-trừng mỗi lúc biết Thạch Hổ sắp bại, giả đem dầu xoa tay mà hiện ánh sáng. Lại Quách Cảnh Lược dùng xem đó, giả dùng tiếng linh, và niệm Bát-nhã Ba-la-mật, mà báo đó nhưng sâu xét ở tâm, mượn việc bên ngoài khiến sinh tin, chỗ báo sẽ phù hợp) Thạch Lặc chết Thạch Hổ tiếp nối Ngụy hiệu, sắp cẩn khinh tục, thánh kính ngày một lên (cẩn là nghiêm, Thạch Hổ đã kế tiếp vị, muốn nghiêm cẩn đối với tục khinh thường, nhân tự thêm kính cẩn đối với Phật-đồ-trừng) ban chiếu thứ rằng: Hòa-thượng là Đại bảo của nước nhà, vinh tước chẳng thêm, cao lộc chẳng nhận, tước lộc chẳng chuộng. Lấy gì nêu đức đó, từ đây đã sang, nên dùng gấm lụa làm áo, dùng kiệu xe để đi. Ngày triều hội, Hòa-thượng lên điện, thường hầu trở xuống đều nêu lên, Thái tử, các công giúp đỡ, mà chủ trên xướng đại Hòa-thượng, chúng ngồi đều đứng dậy, để bày tỏ sự tôn trọng. Lại sắc ban ty không lý nông sớm tối thân hầu thăm hỏi. Thái Tử các Vương cứ năm ngày chầu một lần, biểu thị trẫm kính. Tấn Sư ra Hoài Phì (sông Hoài ra từ núi Đồng Bá, Sông Phì ở Lô Giang, bấy giờ nhà Tấn đóng đô ở Kim Lăng, Thạch Hổ đóng đô ở Lăng Dương) Thạch Hổ bèn tức giận nói: Tâm ta kính thờ Phật, lại khiến quan ngoài, Phật không phải thần, Phật-đồ-trừng biết vậy, ban đêm đến chỗ Thạch Hổ mà bảo: Vua ở đời quá khứ làm vị Đại thương chủ, thường cúng dường trong chùa Kếtân, trong đại hội có sáu mươi vị La-hán. Tôi đây thân nhỏ bé cũng dự hội. Bấy giờ có người đắc đạo bảo tôi rằng: "Người chủ này khi chết phải làm loài gà, sau làm vua đất Tấn", nay chủ làm vua há chẳng phước ư? Cương trường quân cướp (cương trường là đất bờ ven) việc thường của nước nhà, sao lại oán giận phỉ báng Tam bảo, ban đêm dấy khởi niệm độc ư? Thạch Hổ kinh sợ khắp cả mà tạ lỗi. Một hôm cùng Thạch Hổ ngồi, bỗng nhiên đứng dậy bảo: Biến U châu tai họa, vội bảo lấy thuốc rượu xa rưới, Thạch Hổ sai người xét nghiệm, ngày đó lửa từ bốn cửa nổi lên, mây đen từ phía Tây nam đến, chợt gặp cơn mưa dập tắt đó, nước mưa lại có mùi rượu. Phật-đồ-trừng sắp tịch, bảo Thạch Hổ rằng: Ra vào sinh tử là lẽ thường của Đạo, ngắn dài phân định chẳng kéo dài. Đạo trời trọng hành, hoàn toàn đức trọng không biếng lười (đạo đức chẳng thể do biếng lười mà được) nếu nghiệp tháo không thiếu sót thì dù mất cũng như còn, trái lại mà được kéo dài, chẳng phải chỗ nguyện. Niệm ý chưa tận là vì nước nhà tâm còn ở Phật Lý, phụng pháp không sai, xây dựng chùa miếu to lớn tráng lệ, xứng với sự mong mở đó. Nên Thuần Hưu xã mà bố chính dữ dội. Dâm hình khốc lạm, bày trái thánh điển, sai quấy giới pháp, chẳng tự trừng cách, cuối cùng không có Phước đức (trừng là răn, cách là đổi, tuy xây dựng chùa miếu kính thờ Phật pháp, nếu hình pháp khốc lạm thì không hề có ích lợi gì) nếu hàng tâm đổi suy nghĩ, ban ân người dưới đây, thì vận nước lâu dài. Đạo tục mừng nhờ, rốt cùng mạng đều hết, chết không để hận. Quân tử cho rằng lời nói của Phật-đồ-trừng thật là trung của xả tắc, từ của Phổ Môn, hoặc nói thật để khen đức). Sách Thi nói: Người đó nói mất nước nhà Điển Tụy (thi là chương của Đại Nhã chiêm ngưỡng. Điển là diệt, tụy là bệnh, nói vua chẳng tốt, triều đình hiền nhân ẩn mất, thì thiên hạ nước nhà sắp hết bệnh) mà Phật-đồ-trừng tịch, quần thây hồ kia nhiễm mẫn (Thế gian nói: Phậtđồ-trừng tịch, Thạch Hổ mở quan không thấy xác, chỉ có Ca-sa ở nhiễm mẫn. Thạch Hổ dưỡng cháu mưu dõng tuyệt luân, giết Thạch Giám mà tự lập, cờ xí chuông trống nổi dậy, vang xa cả trăm dặm, chỉ việc giết hại mà Mộ Dung Lận bắt giết, hai bên phải trái khắp bảy dặm cây cỏ đều khô) Phàm có kỳ chất, hẳn có kỳ trí, có kỳ trí thì sẽ có kỳ hành, có kỳ hành thì sẽ có kỳ ngôn, ngôn thì mới kinh xưa kia, da vảy đầu trâu, mũi hổ mỏ chim (phục hy vảy rồng, đại chuẩn mũi lớn, thần nông đầu trâu, Nữ oa thân rắn, Hoàng đế dáng rồng, đế khốc răn ngựa, Nghiêu mày chữ bát, Thuấn mắt tròng đôi, Cao Đào mỏ chim, Võ vương mắt dê, Chu Công lưng gù) đều bẩm linh khí chẳng lường, chứa nhóm thánh đức chẳng cùng, mà bên cạnh vú trái của Phật-đồ-trừng có lỗ vây quanh bốn, năm tấc, sâu suốt thấu trong ruột, có lúc có ánh sáng từ trong tỏa ra, dùng khoáng bít lại (khoáng là bông tơ) ban đêm nếu hoặc rút khoáng ra thì chiếu suốt cả phòng, hằng ngày đến Thủy Hử (hử là bờ sông) kéo ruột già ra mà tẩy rửa. Đây thật là biểu thị của chí kỳ (đều xuất xứ từ Cổ Cao Tăng truyện). Loạn trong niên hiệu Vĩnh Gia, nhà Tấn dời về phương Đông (nhà Tấn từ lúc Tuệ đế lên ngôi, triều cương nhiễu loạn, cốt nhục tàn hại nhau. Triệu Vương luân dấy loạn từ đầu niên hiệu Vĩnh Khang đến niên hiệu Vĩnh Gia, cùng khắp Giang Đô, v.v... đều làm loạn. Tiền Triệu, hậu Triệu, hậu Thục đua nhau nổi dậy, Tấn Nguyên Đế trấn ở Dương Châu, bèn sang Kim Lăng lấy hiệu là Đông Tấn) Trúcpháp-tiềm (Cao Tăng thời nhà Tấn, họ Vương, tên Tiềm, tự là Pháp Thâm, uẩn chưa tiếng tăm ở thời đó) là con của Vương Đôn. Trước tôn thờ Lưu Nguyên Châu ở Trung Châu, sùng đức chăm học, tiếng tăm vang khắp Tây triều (Lưu Nguyên Chân sớm có tiếng tăm tài năng, Pháp Thâm rất được Tôn Xước mến trọng) quan Thừa tướng của Nguyên Đế và Minh Đế là Vương mậu, Hoàng
Thái Úy Sưu Nguyên Quy (tức vương đạo Sưu Lượng) đều kết bạn mà kính trọng, khoảng niên hiệu Kiến Võ Thái Minh, Pháp Thâm thường mang guốc vào trong điện, người thời bấy giờ gọi là bậc sĩ của phương ngoại, do đức trọng nên như vậy. Sau về ẩn tại Kiếp sơn, mọi người đến thưa hỏi điều lợi ích, thì dùng Phương đẳng, Lão Trang, giáo điển nội ngoại mà đượm nhuần (dùng kinh sách nội ngoại mà dẫn dạy). Ai Đế đến chỗ pháp hội khai giảng (Tấn Ái Đế là con của Thành Đế, tên Phi, tự Thiên Linh. Vua Mục Đế băng, không có con nối dõi cho nên lập ông, thờ Không Hà Thứ Đạo Tông lấy làm thầy, sau tấu xin về Kiếp sơn, khi đã mất, Hiếu Võ ban chiếu nói: Pháp sư Tiềm, lý ngộ rỗng xa, phong soi rỗng suốt, vất bỏ vinh quang của Tể tướng, tiếp nối trắng trong của nhiễm y, ở núi ngoài vật, chuyên cần chẳng biếng nhác, mới nhờ tuyên đạo để cứu chúng sinh, an nhiên thị tịch, đau nhói cõi lòng, có thể phụ mười muôn quan tiền (tặng chết gọi là phụ, Hiếu Võ tên Diệu, tự Xương Minh, là con thứ ba của Hải Tây Vương. Hoàn Ôn Phụ Chính, Đế còn nhỏ mà thông minh, mười tuổi lên ngôi). Ở đời Mục Đế (Tấn Mục đế, tên Đan, tự là Bành Tổ, con của Khang Đế, lập năm hai tuổi, Trử Thái Hậu lâm triều) chi đạo lâm là bậc kỳ mậu của rừng nâu sồng, phong trong mẫu nhiên, sóng lắng lắm hoa, lập am nơi rừng vắng, ẩn ở tâm chí, đạo đức văn chương làm chỗ đời kính ngưỡng. Thiên Tử ba việc thứ duẫn (ba sự là ba công, thứ duẫn là các khanh) Hiền Sở đại phu Nghiêm Tẩu biết tên, không gì chẳng cao anh mại. Khâm thừa đạo luận Tạ An Vương Mông, Lưu Đạm Ân Hoạt Tôn Xước Hoàn Ngạn, biểu vương văn độ, các vị như vậy là kỷ vật Quốc Hoa (đều là các bậc Công khanh quý tộc ở thời Đông Tấn) đều dùng pháp bát quan trai, dạo núi đượm đêm, mượn ngày quanh mâm, tẩy rửa đai đãi cúng tiến hương hoa, ung ung mục mục, đủ khắp đoái mộ (ung ung mục mục là dáng mạo hòa nhạc) Khế hợp thường thức thanh kỳ làm hưng thạnh một đời. Vương Hy Chi nói với người rằng: Một hơi khí thoảng qua cũng nào đáng tin, đã thấy mới hối tiếc lời nói trước đãi nơi tai (đãi là nơi lạc, hoặc có bản ghi là điếm, đều thông). Phàm sở dĩ bày có sinh là nói loạn đó, sách Thi nói: Chỉ bạn nói đó, cho nên tợ nó (Thi, Tiểu nhã thường thường là chương cuối của Hoa, ý dùng quân tử đó có phong cách cao thượng, chỗ được bạn, tương tợ cùng đó, Thi ít riêng dùng văn hại ý) vậy biết Kiêu Phụng chẳng chung Đàn (Kiêu là loài chim bất hiếu, ăn thịt mẹ mà bay, đông lệnh bắt mà xé xác ngay giữa đường, chữ từ là chim trên cây, phụng là chim tốt lành, đầu gà cổ rắn, cằm yến lưng rùa, đuôi cá, năm mầu, cao sáu thước, con mái gọi là hoàng) báo và lợn chẳng làm bạn (báo giống như con hổ, lợn là con heo) nêu thiện để tìm đảng, bởi suất phong cổ xưa (suất là theo) Trọng Ni nói: Chẳng biết người đó thì xét người sứ mà ông tu làm bạn, chẳng biết vua đó thì xét chỗ nó sai sử. Thiền hiện thay! Thật Khổng thánh, phàm bảy tử (người) theo đó, Hầu Bá nhà Tấn (bảy người đó là: Điên Hiệt, Ngụy Võ Tử Tư không, Quý Tử, Cô Yểm, Triệu Suy, Cô Mao, Giả Đà bảy người theo Tấn Trùng Nhĩ ra rão cuối cùng về Bá Tấn) bốn ông đến hộ, Hán trữ định (Hán Cao Tổ vì Thích Phu nhân sắp lập Thái Tử chưa định, trên dưới, lo sợ. Trương Lương khiến Lã hậu thỉnh ở Thương Sơn giúp đỡ vào triều. Cao Hoàng vừa thấy vị đó mới định, bốn Hạo một Đông viên công, hai Hạ Hoàng Công, ba Kỹ Lý Quý, bốn Giác Lý tiên sinh, giác âm là lộc) Trường Lộc bỏ hưng thịnh của Ngụy Tần (Phạm tuy vì chỗ gièm chê của tu giả chịu sỉ nhục của Ngụy Tề, mới đổi họ tên là tiên sinh Tiên Lộc. Tần dùng đó làm tướng phong hầu mà rất hưng thạnh nước Tần). Ác lai cùng trụ mất của nhà Ân (Sử ký nói: Phi Liêm sinh ác đến phụng sự Trụ nhiều lực, lại khéo gièm pha hủy phá chu hầu. Võ Vương đánh Trụ giết chết ác lai). Lời nói đó rất ứng nghiệm, mà người ít để bụng. Nên đảng xưa nêu đảng giết chết, thật chẳng mất thiện ác của thiên hạ (hình luật xưa, đảng đó thiện là đều thưởng hết cả. Đảng đó có ác duyên bị mà giết). Tiểu nhân thời nay phần nhiều lén trộm, bạn quân tử sinh làm tiếng tăm (gần đây hạng người dối trá, tự không đức hạnh nương cậy hàng cao lưu, buông tâm tiếng tăm, dáng chồn ở đời) mà thôn xóm chẳng khảo xét mối manh đó, cùng nhau nhận lấy dối trá. Mà hạng biết hiểu cao xa khó gọi riêng đó là chẳng đúng, nên làm bạn bè. Ở xưa thì thẳng, ở nay thì lạm (Tử nói: Bạn thẳng ngay, bạn tin thực, bạn nhiều nghe lợi ích. Bạn khiến lánh xa, bạn khéo mềm mại, bạn khiến nịnh tổn). Lâm Công bị lưu giữ tại chốn kinh đô ba năm, nghĩ muốn về Đông Sơn, mà không lúc nào vua chấp thuận. Cố dùng biểu văn chối từ, đó thật buồn đau. Thời Ngụy Tần có Thiệp Công (Cao Tăng Thiệp Công, gốc Tây Vực, mọi việc dự đoán có lắm ứng nghiệm. Niên hiệu Kiến Nguyên thứ mười lăm ông đến Trường An, qua năm sau thì viên tịch, năm sau nữa trời nắng hạn) chẳng ăn ngũ cốc, mỗi ngày đi năm trăm dặm, có khi năng chú nguyện rồng xuống, trong bát khiến giáng mưa. Thiệp Công viên tịch sau một năm thì trời nắng hạn, Phù Kiên nói với Chu Đồng rằng (Chu Đồng làm Bí thư giám). Nếu Thiệp Công còn thì đâu khiến trẫm đốt cháy tim gan nơi mây Hán ư? Mới đầu Tần Thái Thú tâu: Sao có đức xuất hiện ở phần dã nước ngoài quốc, sẽ có bậc thánh đến giúp nước nhà. Định đó là vua, Phù Kiên mới phân bảo Phù Phi (Phù Phi là con thứ của Phù kiên) đánh Tương Dương bắt được Đạo An, Lã Quang bắt được Lathập ở Quy-tư (nói đủ là Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng Chân). Chu Tự bị Tần vùi dập (Tán nam trung lang tướng Chu Tự bị Phù Phi vùi dập) cuối cùng được Đạo An và Tập Tạc xỉ. Phù Kiên mừng nói: Trẫm dùng mười vạn quân mà được nửa người (một người là Đạo An, một nửa là Tập Tạc xỉ) nước nhà có nghi ngờ mưu tính và khí phục xưa cũ như Triện Lệ ngọc báu mà chẳng biết là đều nhờ thưa hỏi Đạo An. Phù Kiên thường muốn đi dạo Đông Uyển, bảo Đạo An cùng đi chung kiệu. Quyền Dực can ngăn rằng (Quyền Dực là Tả bộc xạ) thần nghe pháp giá của Thiên Tử, Thị trung giúp cưỡi. Đạo An là kẻ sĩ hèn hủy mình, làm sao có thể tham dự, bức ép cưỡi kiệu? Phù Kiên tức giận đổi sắc mặt bảo: An Công Đạo ngầm Chí Cảnh, đức mọi thời tôn, trẫm là trọng của khắp thiên hạ chẳng đúng dể đổi đó ư? Nếu chẳng phải điều vinh hạnh của ông thì là điều vinh hạnh của trẫm, và bảo Quyền Dực đỡ Đạo An lên kiệu. Nhưng bề tôi can ngăn là bày trung. Chủ Kháng cự là mến hiền, Quyền thì xích độ của khư khư (can ngăn của Quyền Dực là nghĩa của thần tử, nhưng chẳng năng tôn hiền trọng đức, cũng là khí lượng chưa rộng lớn) Phù thì bờ hồ thăm thẳm (An Công thật là hiền một đời, Phù chủ sâu chỗ khí trọng, tuy có lời nói mạnh can ngăn, nhưng cũng chẳng hề theo, Tin là cái thấy của sự nhận biết sâu) vua tôi trái nhau, như chẳng cùng hợp (nếu vậy cũng tợ) mà đối với nước nhà thì hợp, nêu quân tử hòa vào chẳng đồng, chỗ gọi là khác đường mà đồng về) Kia tuy Ngụy Phù mà còn hơn chân kiệt (Kiệt tuy là chân chúa mà vô đạo, Tần tuy ngụy Bá mà có đức) thật có thể gọi là được đạo của Bá. (Đạo An là người xứ Phù Liễu thuộc Thường Sơn, họ Vệ, gia thế anh nho, sớm mất cả cha mẹ, được người anh họ ngoại nuôi dưỡng. Năm bảy tuổi đọc sách, xem lại thì tụng được, năm mười hai tuổi xuất gia, dáng mạo thấp xấu, rất được thầy mến quý, làm việc nhọc nhằn chẳng tỏ vẻ oán thán, sau mấy năm mới mở Tâm kinh và kinh Biện Ý một quyển khoảng năm ngàn chữ, mang kinh vào ruộng, chiều tối trở về đã tụng được. Lại được trao cho kinh Cụ Thành Quang Minh một quyển khoảng muôn chữ, như trước cũng tụng được, thầy cầm kinh dò chẳng sai một chữ) Tần đánh Yên và Lương (tiền Yên tức Mộ Dung vì chiếm cứ tại Nghiệp Đô, bị Phù Kiên đánh phá. Tiền Lương tức Trương Thiên Tích chiếm cứ Lương Châu, bị Phù Kiên đánh diệt) hàng phục vua đó làm tôi. Bột Hải Lưu sa khôi phục làm Quốc nhượng (Bột Hải tận đông, Lưu Sa tận Tây) đủ lương thực, đủ binh lính, oai lực chấn-động cả Hải Nội, thường lo hoạn chẳng được theo cựu phục của Võ Lên Cối Kê mà trông biển xanh, chầu muôn nước, để hiệu lệnh thiên hạ (Võ ở Đồ Sơn hội muôn nước chư hầu giữ ngọc lụa mà triều cống Đồ Sơn ở Cối Kê, thuộc Việt Châu) nhiều lần hỏi Đạo An về kế đánh Tấn, Đạo An thường bảo: Tấn đức tuy nhỏ, mà mạng trời chưa đổi, khó thể mưu tính. Quân tử cũng lấy làm riêng giữ viện bản triều mà thật được lễ, nên một lời nói mà gồm an đặt. Phù dùng cái thấy của Độc Phu (Thư nói: Độc Phu là Trụ) viện nêu chúng đông cả trăm vạn. Phù Dung trị tiền quân, Tấn đến lừa dối, cuối cùng trống giục chưa thành lệ. Tần sư tan rã (Phù Kiên học binh kỵ của Trường An có tám mươi bảy vạn, trước sau ngàn dặm cờ trống giục nhau, Đông tây muôn dặm thủy lạc đều tiến, Phù Dung làm tướng, Tấn Tạ Huyền, v.v... dùng bảy mươi ngàn thủy quân chống cự. Vương Đạo Tử dùng Cổ Xúy Tâm hỗ trợ ở núi Thần Chung, Phù Kiên đến Thọ Xuân, lên thành trông thấy trên núi Bát Công, cỏ cây đều tướng trạng như người dẫn quân trận đến sông Phì, quân Tấn chẳng được qua, sai sứ nói với Dung rằng: Ông treo quân sâu vào ép sông làm trận, đây là kế giữ lâu, đâu muốn đánh ư. Nếu thối lui quân thì khiến tướng sĩ chu toàn. Bậc và các Công hoảng bí mà trông xét cũng chẳng khéo ư? Dung liền xua quân ra trận, quân bèn chạy lui, chẳng thể cấm ngăn, Dung cưỡi ngựa đánh trận té ngựa nên bị quân giết) từ hậu yên trở lại Yên (sau khi Phù Kiên bại, Mộ Dung xung nổi dậy binh lính đánh Trường An, Mộ Dung Thùy trở lại nghiệp đô mà xưng là hậu Yên) Lương trở về Lương (Lý Hạo vốn tướng Trương Quỹ, sau xưng là Tây Lương ở Đôn Hoàng. Lã Quang xưng là hậu Lương mà Cô Tàng). Tần chiếm cứ ở Tần (Diêu Trành sai tướng vây Phù Kiên ở núi Ngũ Tướng, bị bắt mà thắt cổ tại chùa Phật, Tân Bình tự lập làm
Hậu Tần). Trước đó Thích Công viên tịch (Thích Công tức Đạo An) Phù Kiên Lâm đổng (buồn thương quá gọi là đổng) nói: Tôi chưa cứu giúp,
An Công bỏ ta mà đi. Ở lời nói đó đâu sai lầm ư? Mới đầu, Đạo An bảo Vương Tử Niên rằng: Đường đời như nay cái hành ư? (cái là sao chẳng) Niên nói: Công hãy đi trước, tôi phải trả nợ sau. Sau Niên bị hại ở Diêu Trành (Vương gia tự là Tử Niên, người xứ Lạc Dương, hình mạo thấp xấu dường như chẳng đầy đủ, khéo khôi hài, chẳng ăn dùng ngũ cốc, như có người hỏi việc thiện ác, ứng đáp tỏ vẻ như đùa cười, mà việc qua rồi phần nhiều rất ứng nghiệm, đáp với Đạo An rằng: Trách nhiệm nhỏ chưa xong, chẳng được cùng đi. Đến lúc Diêu Trành được Trường An, cùng Phù Đăng gìn giữ rất lâu. Diêu Trành hỏi rằng: có phải Trẫm được chăng? Đáp hơi được. Diêu Trành bảo: Phải nói là được, chứ sao hơi được? Nhân đó bèn chém chết, sau khi Diêu Trành chết, con là Diêu Hưng mới giết Đăng. Diêu Hưng tự là Tử Lược, tức chỗ ý của gia nói là hơi được). Pháp Thải đến Vu kinh yết kiến Hoàn Ôn, Hoàn Ôn cậy oai thế danh trọng chẳng vội đón tiếp, pháp thải lo hoạn rụt rè nên chợt bảo rằng: Tôi có bệnh phải lui gấp, kẻ ấy nói Pháp Thải đến Hoàn Ôn, chẳng đợi giẫm dép mà đi trước đó (Pháp Thải người xứ Đông Hiện, thuở nhỏ là bạn đồng học với Đạo An, tuy tài biện chẳng bằng Đạo An mà dáng mạo khôi ngô vượt xa) Đạo
An đã bị bắt tại Tần, môn nhân đều tự tan rã. Tuệ Viễn mới đầu sắp đến La Sắc (núi gần Nam Hải) đến Tầm Dương (Giang Châu). Chiêm bói tại Lô Sơn mà dừng ở đó, đã được chỗ đất khô tìm ra suối nước nên chẳng đang tâm bỏ đi. Tuệ Vĩnh (cũng là học trò của Đạo an) mời đến ở Tây Lâm (chùa Tây Lâm ở Lô Sơn) về sau Thứ sử Hàn Y (bề tôi của Đông Tấn) lập riêng chùa Đông Lâm, trước đó, Đào Khản trấn ở Quảng Châu (Đào Khản tự là Sĩ Địch mới đầu ham học, tiếp đón bạn bè, khách đến, nhà nghèo mẹ cắt tóc bán để tiếp đãi, sau làm đô đốc cả tám châu) được pho tượng vua A-Dục (tức tượng do vua A-dục-tạo) đưa đến chùa Hàn Khê ở Võ Xương (Võ Xương tức là Ngạc Châu) Xa chùa thành xa thỉnh tượng, mới vượt hư không mà đến. Bấy giờ các hàng quan lại nho sĩ ngạo đời lão bàn đó, như Tông Cửu Lôi thứ Tông, Lưu Di Dân, Chu Tục Chi, Trương Quý Thạc, v.v... (ở Nam Dương có Tông Bính, Trương Thái Dân, Trương Quý Thạc, ở Bành Thành có Trương Di Dân, ở Dự Chương có Lôi Thứ Tông, ở Nhạn Môn có Chu Tục Chi, Tân Tế, Tất Dĩnh Chi, Sa-môn Tuệ Trì, Tuệ Vĩnh cùng lập liên xã) Phàm cả trăm quân tử danh lớn đều cùng tư phụ (tư là chung cùng). Tuệ Viễn thuở nhỏ cùng Tuệ Trì đều là những vị tinh học sáu kinh, lễ nhọc danh số, đặc làm pháp độ từ triều đình đến thôn dã. Vương Tuân cùng Phạm Minh Thư (Vương Tuân làm chủ Bộ Hoàn Ôn,
Phạm Minh chú Cốc Lương Truyện) nói: Viễn Công và Trì Công đôn dũ (Đôn là ai, dũ là hơn). Phạm Công lại nói: Thật là hiền huynh đệ (Tuệ Trì Và Tuệ Viễn thật là anh em thân tục) Vương Tuân lại nói: Chỉ khiến như anh em thật chưa dễ có, huống chi là hiền ư? Mới đầu, Diêu Hưng, dịch Trí luận xong (Trí luận hoặc gọi là luận Trí Độ, do Bồtát Long Thọ soạn) đốc sở mang đến thỉnh cầu Tuệ Viễn viết lời tựa. Đó lại thấy khác hẳn như thế (Hoàn Huyền chinh Ân Trọng Kham (Hoàn Huyền tự là Kính Đạo, con của Đại Tư Mã Hoàn Ôn, làm thứ sử Giang Châu, niên hiệu Nguyên Dữ thứ hai giết An Đế đời Tấn Lưu dụ dấy binh, Hoàn Huyền bèn đánh Trọng Kham) muốn Tuệ Viễn ra khỏi Hổ Khê. Tuệ Viễn cáo bệnh, Hoàn Huyền tự vào núi, mọi người bảo: Xưa kia, Ân Trọng đảnh lễ Tuệ Viễn, xin Ngài chớ nên kính lễ. Huyền bảo: Sao có lý này Trọng Kham vốn là người chết. Đã thấy vốn trái với trước, ước vốn trước y cứ rằng: Vốn trước là, vốn nói chẳng lễ, nhưng khi thấy liền lễ). Ra khỏi núi, Huyền bảo mọi người: Thật là việc chưa từng thấy, về sau, Hoàn Huyền muốn sa thải giáo, các Liêu thuộc nói: Lô Sơn là chỗ các bậc đạo đức ở, chẳng tại phần sưu giản (giản là duyệt), mới đầu Thành Đế nhỏ trẻ, Sưu Băng làm phụ chánh (Tấn Thành Đế húy là Diễn, con của Minh Đế (Hoàng Thái Hậu họ Sưu nhiếp triều xưng chế, thuế ước Tô Lăng đến lúc họ Sưu chuyên chính) cho rằng
Sa-môn phải kính lễ vương gia: Hà sung, Vương Mật v.v... can ngăn luận bàn, đồng khác chẳng thống nhất, sau Hoàn Huyền tại Cô Thục (Cô Thục là Đang Đồ Huyền, ngày trước Tống chúa đổi làm Thái Bình Châu) muốn cho đều phải kính lễ, liền đem thưa hỏi. Tuệ Viễn viết thư trả lời và soạn luận Sa-môn bất kính vương giả năm thiên, để bít lấp các luận bàn ngang trái đó (thư và luận đều còn trong Hoằng Minh Tập) An Đế áp bức Hoàn Huyền giết Tốn ở quận Nam (An Đế húy là Đức Tông, con của Hiếu Võ, dùng Vương Đạo Tử ở Cối Kê làm Thái Phó nhiếp chính. Thứ sử Duyên Châu Vương Cung cùng Hoàn Huyền làm phản, dời Đế đến Tầm Dương, Hoàn Huyền mới soán vị hai năm. Lưu Dụ bèn giết chết) Hoàn Huyền chết, Đại giá khắc phục lại kinh đô cũ. Hà Vô Kỵ trước khuyên nghinh hầu (Vô Kỵ làm Thị trung) Tuệ Viễn cáo bệnh chẳng đến, được ân ban chiếu chỉ thăm hỏi, Tuệ Viễn viết thư cảm tạ, chiếu đáp than hận chẳng được gặp. Tuệ Trì đến tỉnh Lạc, người xứ tỉnh Lạc thấy Đạo Phong của Sư mà đua nhau kính mến (Tuệ Trì đến đất Thục, trú tại Viện Hậu Nham ở huyện Y chính) Đạo phúc con của Ngụy Thục Tiêu Trung Chi rất hung dữ. Lại đến Bì Trung (chùa Cái Pháp Định ở huyện Trâu) chư tăng trong chùa xa thấy người ngựa máu đổ đều tuôn chạy (kẻ sĩ kinh sợ) Tuệ Trì đứng rửa ráy ở tại cửa, khí sắc vẫn tự nhiên. Đạo Phúc đã đến, Tuệ Trì đến chỉ vào nước lọc trọn chẳng thôi. Đạo Phúc kinh sợ toát mồ hôi mà lui ra, bảo với tướng hiệu là Đại nhân hẳn khác mọi người! Quân tử nói: Tấn mất Trung Nguyên, ranh giới tại Giang Quốc, áo mão lánh loạn Ngũ Hồ (Ngũ Hồ tức tiền Triệu Lưu Nguyên Hải, hậu Triệu Thạch Lặc hậu Ngụy thác bạc thị, tiền Tần Phù Thị hậu Tần Diêu Thị) đều dời về phương Nam, nước nhà lấy Bắc đánh làm mưu, kính mến lòng can đảm, mạnh mẽ, đến nỗi khiến những kẻ anh hiền, các hàng tăng tục, trạch tâm ngoài sự, loan ngâm hạc hót, nhìn thớt đậu dãi miện mà như bỏ lại (trạch là ở, sự là vật. Các hạng cao thượng, nhìn đời loạn lạc, đặt tâm ngoài vật, buông tình của Loan Hạc, nép yên cạnh suối rừng, đối với Lễ Nhạc mà chẳng đoái hoài) Phàm các vị, Phật-đồ-trừng, Đạo An, Lâm Tuệ Viễn chế tác đối dương, đều ngôn từ chí khí cao sâu, có luân có nghĩa (luân là lý) tuy tuyên phong hóa ngoài tượng, dẫn nhiều lược của kinh tế, nên mới đầu nói việc trước tiên phải tin trọng ở Thiên Lạc, Lã Quang vào Quy-tư, bắt được La-thập, dưới gối đầu đó, khiến cưỡi lạc đà bị té mà không tỏ vẻ tức giận, Lã Quang mới rất lấy làm lạ, chẳng dám xem thường (Phù Kiên sai Lã Quang đem binh đánh Quy-tư bắt La-thập khi đã bắt được, không mấy trọng vọng, bèn dùng con gái vua Quy-tư để ép bức, lại khiến cưỡi ngựa dữ, bị ngã mà La-thập vẫn không tỏ vẻ oán giận. Đến lúc trở về, La-thập lại khuyên dời địa điểm doanh trại, quả nhiên mưa lớn nước dâng, do đó Lã Quang lễ kính trọng vọng) khi trở về đến đất Lương, nghe Tần bị bại, bèn tiếm vị và chiếm cứ xứ đó, cải đổi xa thư (Lã Quang đánh Quy-tư trở về, dùng hơn hai mươi ngàn lạc đà, mười ngàn ngựa giỏi và có hơn ngàn thứ châu báu, cũng về đến Cô Tàng, nghe Phù Kiên đã chiến bại, bèn tự xưng là Hậu Lương thứ sử, sau tiếm xưng là hậu Lương được mười bốn năm) Diêu Hưng dẫn binh bắt đánh đất Lương, bắt La-thập, nhà Lương mất, khiến đó đến Quang Trung. Học chúng bốn phương nhóm họp, nhà Tần mưu tính sinh con nối dõi đó bèn dùng vợ để ép bức (Diêu Hưng mến mộ sự thông minh của La-thập, nên dùng kỹ nữ trong cung để áp bức) người tịnh hạnh xấu hổ nghe việc ấy. Nhà Tống rùa linh mà nạp giới, người kinh nói mà với chặt (Tống Nguyên Quân nằm mộng người chẽ tóc bảo rằng: Ta cho rằng sứ giả trong sạch, Bá Ngư là Dự thả được ta, Nguyên Quân vời lại hỏi rằng: Được rùa mới mổ đó, dùng bói bảy mươi hai khoan đó là không sót. Lại Biện hòa ở kinh Sơn được đá, mài giũa đó có ngọc đem dâng Sở Vương, Sở Vương không biết hai lần chặt chân, dâng lần thứ ba mới khác, đó đều vì linh trí mà chịu mổ chặt, như La-thập vì thông minh mà ô giới hạnh, giới là vỏ). Há chẳng phải trí có chỗ có thể được, lực có chỗ có khốn khổ ư? Nên tiếp nối càng vì tổn vật, chớ làm đó là chẳng lầm hoặc, Ngụy Chiếu Văn ban chiếu bắt La-thập (Hiếu Văn Húy là Hoằng Hiến con trưởng của Văn Đế, năm tuổi nhận thiền của cha, dời đô về Lạc Dương, đổi thành họ Nguyên, làm vua được hai mươi chín năm, nhân hiếu nhã hão Hoàng Lão, rất tinh giỏi về thích nghĩa) sau được rồi mà ban lộc. Tuy giáo pháp ta vì vấp ngã hiểm nạn quá quỷ quyệt (chẳng chân chánh) nhưng nghĩa của Xuân Thu nói công, mười đời cũng có thể tha thứ (Xuân Thu có công, tha thứ tội của mười đời). Mới đầu đồng thọ tai nước ngoài gặp vị thánh bảo là: Nên thận trọng chớ đến Đông Đô sẽ có điều rất chẳng lợi, La-thập mới chẳng đoái hoài mà đến. Há chẳng phải bề tôi tốt chết mưu kế nước nhà, nắm giữ tốt chết bởi nghĩa cao, người nhân chết bởi thành nhân đức, sao đoái hoài đó, có vậy (sắp mở mang Đại giáo chẳng thể vì tiểu tiết mà giữ gìn vững chắc pháp môn, đến nhận đó ban sự hưng thạnh của giáo pháp, thật do lực của La-thập) nên La-thập thật viên tịch, thiêu chiếc lưỡi còn nguyên. Tăng Đạo mười tuổi theo thầy học kinh Quán Âm hỏi rằng: Kinh này có mấy quyển? Thầy muốn thử đó bèn nói chỉ có một quyển. Tăng Đạo nói, mới đầu nói: "Bấy giờ Vô Tận Ý" nên biết trước đó hẳn có việc gì. Thầy lấy làm kỳ lạ, gặp hoặc phải phận nghèo không vốn liếng nên chặt củi để nuôi sống, đêm về học nhờ mà thành sự nghiệp. Diệu Hưng khâm trọng đức đó, vào chùa vội kính mến mời ngồi chung kiệu về cung. Tống Võ vui mừng là bậc hiền nên vì đó mà xây chùa Đông Sơn tại Thọ Xuân (Tống Võ Lưu Dụ đánh bắt hậu Tần cùng Tăng Đạo đưa về Kim Lăng) Tấn, Đàm Thủy cuối thời Hiếu Võ (Đông Tấn, Đế làm vua rất kính phụng Phật pháp, binh lính Phù Kiên đến Tạ Huyền phá) đến Liêu Đông, khai Đạo bắt đầu ở Cao-ly, sau trở lại Tam Phụ (Tam Phụ là huyện Hàm Dương, xưa kia Tần Hoàng đặt điện quán ở đó, người xứ Tam Phụ rất kính ngưỡng. Tống Võ đánh diệt Diêu Hoằng để lại con là Nghĩa Chân trấn ở Trường An, Hách Liên khuất cú (Hách Liên là Bột Bột) đuổi theo đánh bại. Kẻ tăng người tục lớn bé đều bị giết hại. Đạo thỉ tiếp mũi nhọn chẳng thương tổn. Quật cú tự mạng kiếm đánh mà không thể hại, mới kinh sợ tạ tội, đến lúc Ngụy thế tổ lỗ Hách Liên Xướng (Hách Liên là con của Bột Bột, bị hậu Ngụy diệt) được Đạo Thỉ thường rất kính trọng đã diệt pháp, Huyền Phong dứt bặt áo đỏ hết đó (áo đỏ là bởi màu cànđà). Đạo thỉ mới bít, hình sâu ngại, chẳng phải chỗ nghịch mạng đến kịp (xóa vết nơi núi hang) bởi chim hồng bay mờ khoảng cao, trong bầu trời mà chẳng phải chỗ của uất la với kịp (… là lưới), sau biết Đại pháp sắp hanh thông, vào ngày mồng một tháng giêng, Thiên Tử Lý Đoan (nghĩa là ngày đầu của tháng giêng, Lý Đoan ở mới đầu, nêu chánh ở trung (giữa) gom lại ở chung (cuối) người tạo lịch làm đầu của Bộ Lý, nghĩa là tiết hằng tháng nêu chánh được trung khí tức làm tháng đó, hai trăm năm mươi bốn ngày, con lại mười một ngày mười lăm phân, chứa thành ba mươi hai ngày làm một lần nhuận) đình thật lữ bách (thật là đầy, lữ là đông nhiều, nghĩa là ngày mồng một tết, vật hiến dâng đầy sân). Hà Tích ở Quốc Môn mưu tính sắp biến đổi đó. Ngụy chúa nghe rất tức giận, bảo Hữu Ty nhanh chóng tránh đi, da chẳng dung chịu mũi nhọn, kiếm tay đưa đến thương tổn như chỉ vụn, tỷ ném chuồng hổ, hổ nép phục (mãi là ngươi, tích là hành hình, tỷ là sai khiến) cuối cùng thế nào? Dời đến điện xét hỏi sự hưng phế (do đó hỏi việc vận nước ngắn dài) Đạo Thỉ bèn đóng cửa tà, cứu mở đường nghẽn. Đào lo sợ mới tỏ ngộ (hậu Ngụy Thái võ húy là Đào, mới đầu chẳng tin Thích giáo, tàn hại Sa-môn, phá hủy tượng Phật v.v... nhân gặp được Đàm Thỉ hóa độ, sau, hối hận lỗi lầm, về phương Nam đánh nhà Tống, giết người vô tội, lập ngôi vị được mười chín năm). Ở Thái Sơn có ngài Tăng Lãng, không biết là người phàm hay thánh, sáu Thiên Tử Tấn, Ngụy, Yên, Tần ban chiếu hỏi về sự cúng hiến, đều là của cải quý báu rất kỳ lạ trong đời. Tuy châu có mà không chân, cho đến người không tâm mà chỗ của đức vời lại, nên không nơi xa nào chẳng đến (Chí Nhân vốn không có tâm cầu Châu Ngọc, Châu Ngọc cũng không chân mà đi, chỉ do đạo đức chiêu cảm mà không nơi xa nào đều đến). Do đó đức nhân danh hiển, danh do đức mà có. Danh đức giúp nhau thật thì trọn đời, nên nay kiệu vàng cốc linh, dấu vết chẳng mờ phai (Chùa Thần Thông núi Thái Sơn ở Tề Châu. Mộ Dung Đức ở Nam Yên lập nơi chỗ ở của Thiền sư Tăng Lãng, đem dân của ba huyện để xây đắp, hiên dài sân rộng có thừa mấy gian, ba lần phá chùa phá hủy mà đều chẳng được. Hễ xâm phạm thì Tăng Lãng liền hiện thân dùng tích trượng xua đuổi, ngã chết tâm buồn như mới đầu, có một cái giếng, mà người nữ đến liền khô cạn, đốt hương tỏ tâm cầu sám thì trở lại như cũ. Dựng lập đã bốn trăm năm, đến nay tượng Phật vẫn sáng đẹp như mới, chúng hội chẳng ngớt, đến nay vẫn nghiễm nhiên) Tây Tần, Bắc Lương đều là nước nhỏ. (Tây Tần khuất phục Quốc nhân đóng cứ tại Hà Tây, Bắc Lương Thơ Cừ Mông Tốn đóng cứ tại Cô Tàng) xét về Thánh Hiền thì chỗ phiên dịch biên soạn của Đàm-vô-sấm, Pháp Tấn, Đạo Lãng, nước đó chẳng phải nhỏ. Nên Sở Thư nói: Nước Sở không lấy gì làm quý báu, chỉ lấy thiện làm quý báu, phải chăng, sao được chẳng do năm vận bỏ xa, khai hoang cây am. Xã tắc tự dựng sự nghiệp lớn một phương. Ở đời Lương, Tuệ Ước mới đầu qua chí học đã có phong thái người già, người thời đó đã có câu nói là: Trẻ thấu Diêu Lý cư sĩ già, khi đã vào đạo, đức lớn vang ra, lên làm Quốc sư, có sắc chiếu ban lấy vườn nhà cũ làm chùa Bản Sinh, tại làng đang ở đó gọi là thôn xóm Trí Giả. Ở Bắc
Tề có pháp Thượng (Cao Hoan thọ thiền từ Đông Ngụy, đóng đô ở đất Nghiệp xưng là Bắc Tề, bị hậu Chu phá diệt, mới đầu rụng hai búi tóc mà trót vọt thành khí khắc ý chuộng hành, lại nghiên cứu huyền vi, người thời bấy giờ gọi là thánh Sa-di. Do hình sắc chẳng đẹp, nên tục ngữ gọi là Lý Sa-di, như cao đến tòa gặp tai họa, văn tuyên thỉnh làm giới sư, che mặt phủ tóc khiến giẫm bước, mới nhận kính trọng rất mực của giáng quân. Trong khoảng niên hiệu Thiên Bảo nước nhà thiết đặt mười thống, lấy thượng làm Đại thống (Giáng là giáng tôn của quân phụ (vua, cha) hành kính của thầy trò, Văn Tuyên Húy là Dương, tự là Tử Tấn, con thứ ba của Cao Hoan. Bấy giờ có loạn của Nhĩ Chu Vinh cộng với cái lo đói lạnh. Đế mới sinh chỉ vài tháng, tự nhiên vui vẻ nói được. Đến lúc lên ngôi thần võ suốt tuyệt, cuối năm bị độc nghịch giết hại, chẳng thể nói ghi, băng hà lúc ba mươi sáu tuổi) Tùy Linh Tạng Cao Tổ bạn của Long Tiềm (Tùy Cao Tổ họ Dương, Húy là Kiên, sinh vào niên hiệu Đại Thống thứ bảy đời Bắc Chu, tại chùa Bátnhã ở Phùng Dực, hơi khí sắc tía đầy sân, nối tước vị Tùy Quốc Công, Chu Võ vì Thái Tử sính đế bằng trưởng nữ. Tuyên đế băng hà, Lưu Phưởng, v.v... vì đế phụ chính đế làm Thừa tướng, Đế băng hà, thọ Bắc Chu thuyền, làm vua mười hai năm, ngày Tiềm Long cùng Tang làm bạn rất thân). Khi đã lên ngự cực lại càng dốc lòng son xưa cũ cửa cung đó vào thì không bị ta cấm, ra cũng như thế, ngồi thì đồng giường, đi thì đồng kiệu, gọi đệ tử là Thiên Tử người tục, Luật sư làm Thiên Tử đạo nhân. Nay gọi là nói quá của đế vương vậy, lời vua thì sách nào có thể cười đùa ư (chỗ hai bên vua nêu hẳn ghi tả sử ghi lời hữu sử ghi động) Mến thương người chẳng mất nghĩa đó thì mến thương đó xa. Năm khổ hạn hán mà không mưa, người trong nước lo chẳng phải năm có, Đế cho rằng nghe ở thần chẳng bằng nghe ở bậc thánh. Bèn thỉnh Đàm Diên đến điện Đại Hưng, lên ngự tào xoay mặt về phương Nam mà truyền giới. Đế bảo triều tể trải chiếu xoay mặt về phương Bắc quỳ thọ, chẳng sùng triều mà mưa. Áo mặc thức ăn đều xuất từ cung vua, trao từ tay vua, sau đó lên làm Sa-môn bình đẳng. Đối với chỗ phạm hai lần đầy đủ, sau đó khóc mà răn trừng, ai buồn kính hình thư, mở mang truyền bá thương trách của Đại Võ (Đàm Diên vốn họ Vương, người xứ Tang Tuyền thuộc Bồ Châu, thuở bé rất thông minh, lúc làm Sa-di có Cư sĩ Bệ Nhân ghi bốn chữ để dạy đó là vuông, tròn, động, tĩnh và khiến đó hiểu rõ. Đàm Diên liền đáp: Vuông như thành Phương đẳng, tròn như mặt trời trí tuệ, động thì tợ sóng nước, tĩnh như thất Niết-bàn, cư sĩ Bệ kinh ngạc. Về sau trước nói kinh Niết-bàn Sớ mười lăm quyển, đến trước tháp Xálợi cầu thỉnh, phát ra ánh sáng soi chiếu suốt đêm) đế thường muốn thử khí độ Sa-môn. Rộng tìm kêu ở sân điện, sắc cấm Giám Hổ Bí, khua kiếm đuổi đó, chỉ kinh thoát trước võ, nếu rảnh thì quanh co mà lui. Vua đẹp vui lòng rộng xa, mới lên điện tích pháp vật đạo phục, tiêu biểu lại thường đó (cao tăng kính thoát thường cõng mẹ đi học, khéo viết chữ lớn, cây bút như ống vai dài ba thước nơi phương trượng ghi một chữ lại chẳng chỉnh sửa. Tùy Văn bảo lên điện, ban tặng chiếc quạt tre lớn mặt rộng ba thước, liền bảo cầm dùng và ban tặng đôi guốc bằng gỗ thông, khiến mang từ cung điện mà ra, vua tự đưa tiễn đó mà nói là: Thật là tăng kiết!) xem ra trong thời gian nhân thọ, khai hoàng, thiên hạ rất ổn định, cũng bởi thiện mà đạt được, mà trí chẳng mưu tính xa, gia ái chẳng tàng (tàng là thiện, gia ái nghĩa là Dương Đế kế thừa đại nghiệp của cha mà chẳng tu lệnh đức (Hoang mê nữ sắc đến nổi mất bại) bèn khiến bói đời chẳng còn mãi, nên giáo pháp ta lấy phước tuệ làm hai sự cứu giúp, nếu thiếu thì nói sao ư? (nhà Tùy có ba vị vua, làm vua tất cả ba tám năm, rồi mất, đến tay nhà Đường) xưa kia, có đức ban tước, có công mà hưởng lộc. Mà Sa-môn có tước lộc là Chí Khanh đại phu, xưa kia, tên sống chữ quan, chết thì thụy, mà Sa-môn có thụy của chí hầu bá đó (con sinh đến hai mươi tuổi đội mũ đặt tên tự. Tự (chữ) là tiêu biểu đức chết mà lập thụy, người thời nhà Chu vì Húy kỵ tôn thờ tên thần, chết dùng tên Húy, nên dùng thụy để đổi, xưa kia không ban (y mầu tía) và hiệu sư có ban thụy hiệu, như Định Lan được ban thụy là Giác tánh). Buồn thay người Tần đuổi Bạt-đà đến Lô Sơn (Bạt-đà, Hán dịch là Giác Hiền, một ngày tụng tập hơn mười người khác một tháng, từ trung Ấn đến đất Tần, cùng La-thập luận bàn rất thần dị, bị ngài Tăng Khế v.v... phỉ báng rồi đuổi đến Lô Sơn, dịch kinh có hơn trăm quyển, thị tịch lúc bảy mươi mốt tuổi) Ngụy hậu xử tử Huyền Cao ở bình thành (Huyền Cao sống rất thần dị, hậu Ngụy Thạc Bạt Đào tiếm cứ ở Bình Thành, Huyền Cao cùng Thái Tử Hoảng làm bạn lành, Hoảng bị gièm pha cha nghi ngờ Huyền Cao. Lại vì Thôi Hạo, Khấu Khiêm Chi v.v... gièm tâu vua, vua tức giận trói lại đem giết, ánh sáng tỏa chiếu về chùa, các đệ tử mới biết bèn xin thây muốn an táng. Huyền Cao nói đủ mọi sự tốt xấu xong rồi liền tịch. Xuất xứ từ Lương Truyện) giả sử chẳng phải tâm đó, tuy bậc thánh còn phải chịu khổ khóc nguy thân, đâu chỉ khóc rồng thương phụng mà thôi ư? Nên Hán Văn Ưu Hiền mà giả nghị còn khiển trách (Hán Văn nhân thánh, mà giả nghị tài hiền còn trách, đày đến Trường Sa mà chết) Ngụy Võ lễ sĩ, mà Khổng Dung chịu chết (Khổng Dung tự là Văn Cử bị Ngụy Võ giết chết, Dung có hai người con khoảng tám, chín tuổi, ngồi yên đánh cờ chẳng dậy, mọi người hỏi: Cha bị giết chết sao chẳng dậy? Hai người con đáp: Đâu có che dưới ổ, lại có trả trứng đó ư? Sau đó đều bị bắt mà chết) há chẳng phải mạng của Thông bít treo ở thời vận ư! Tôi có đến đồng trống mãng thương (mãng thương là đồng trống ở vùng ngoại ô) gặp gió đẹp hương thơm, vì đó nhìn khắp bốn phía, được vài gốc tử chi ở cuối rừng suy, mà chỗ đồng trống cháy đốt và thân nương hủy khuyết, mới ngắt hái mà đùa vui, chỉ nhìn vụn về ở chỗ thường đến lúc xế chiều… trên đá mà trở về, ngày khác lên chu môn nhìn trong lộng quỳnh dùng văn vẽ để cân, sao khác với chỗ tôi thấy trước, chỉ gặp và chẳng gặp.
Tiếc thay người đối với người sao chớ như vậy ư!
------------------------------
(Nói về đấng Đại Giác dùng tâm bi trí hành hóa chí cực)
Đại thánh cung kỷ muôn linh làm phụ, lợi kiến làm tâm, cứu giúp làm công, sáng đượm thiên hạ. Hóa (trời rồng giúp kính Thích Phạm tông sư, gồm ba cõi ở địa vị tôn quý, bao gồm bốn loài mà đều hóa) hoặc làm đại phu, hoặc làm nhân vương (đáng dùng sự hóa hiện của Tể quan, Tiểu vương v.v...) cho đến Bách Công, Trưởng giả Chúc Hương (nước Quảng Đại có Trưởng giả Chúc Hương tên là Ưu-bát-la, khéo biết, riêng biết tất cả mùi hương, cũng biết pháp hòa hợp tất cả các thứ hương, thiêu đốt bôi thoa bóp, v.v... lại biết xuất xứ có thứ hương tên là tượng tạng, do rồng đánh nhau mà sinh ra, nếu đốt một viên thì nỗi mây thơm lớn che phủ cả vương đô, trong bảy ngày mưa nhỏ mưa hương, dính vào thân lầu gác y phục đều thành vàng ròng. Tại núi Ma-la-đa có cây chiên đàn tên là hương ngưu đầu, nếu xoa vào thân, thì dù vào lửa cũng chẳng bị đốt cháy. Tại núi tuyết có loại hương tên là A-lô-đa chúng sinh ngửi được là lìa các nhiễm dục) thiền sư vượt biển (ở phương Nam có thành trong lầu gác có vị Thiền sư tên là Bà-thíla trên biển đó cùng trăm ngàn thương nhân dùng phương tiện chỉ bày pháp công đức của Phật, độ thoát chúng sinh). Ngoại đạo khổ hạnh (núi Thiện Đắc ở thành Đô-đát-la có ngoại đạo tên là Biến Hành, vì giảng nói cho người nghe tất cả xảo thuật kỹ nghệ của thế gian, lại năng điều phục chín mươi sáu thứ, ngoại đạo khiến họ lìa bỏ tất cả các kiến) đồng tử vốc cát đùa vui. (Ở phương Nam có đồng tử tự tại ở bờ sông nước Danh Văn, cùng mười ngàn đứa trẻ vốc cát vui đùa. Đồng tử này đối đãi với tất cả chúng sinh gọi là tất cả nghiệp, gọi là tất cả đế, gọi là thảy đều biết rõ) với sự có ích đối với mọi người thì không gì chẳng làm, hoặc muộn muộn dùng chỉ bày sự chất phác (muộn muộn là vẻ ngu tối) hoặc sát sát dùng trí chỉ bày đó (sát sát là vẻ minh đạt) hoặc hành hành dùng dõng chỉ bày
(hành hành là vẽ mạnh mẽ) hoặc khản khản dùng hòa chỉ bày (khản khản là vẻ hòa vui) mà chẳng được nhất trí của tâm, chẳng thể bỏ một dùng tâm ấy. Nên hoặc hấp hoặc tịch, hoặc hiển hoặc hối, hoặc oa hoặc long (hấp là tu, tịch là mở, hiển là rõ sáng, hối là mờ tối, oa là thấp sâu, long là cao hiển) sắp được lại mất, sắp nương lại trái. Đức đó sâu thay, vết đó đổi thay, biểu đó hay thay, ảnh đó dối thay, âm đó bốc thay, vang đó bít thay. Thật chẳng thể nêu bày sự nhỏ nhiệm đó, vì vậy chân đạo làm sao có thể dùng tu thân, Quyền Đạo làm sao có thể dùng ngự hóa (chân đạo là Mãn giáo, chẳng chuyên lợi mình, Quyền Đạo là Bán giáo, chẳng thể gồm giúp ngự nhiếp) chân đạo chẳng thể để tạm phế, nên hỗn mà chẳng cặn đục (ở quả chẳng thêm, ở nhân chẳng bớt, tùy thường lưu mà chẳng chìm ở, các dây sắn mà chẳng khác nên) Quyền Đạo chẳng dùng lập lâu, nên xả bỏ mà hợp đạo (giả sử quyền tạm dùng nên chẳng thể lập lâu, phải trở về thường đạo) mà chân đạo là chung (chữ chung trước là tròn khắp, chữ chung sau là quả của ba kỳ, mới là xứ của chúng chung cách, sáu độ là chân đạo của muôn Hạnh năng trong khắp quả của ba kỳ) Quyền Đạo thỉ thỉ (chữ thỉ trước là mới phát, chữ thỉ sau là Hạnh của năm giới, mười điều thiện, Tiểu thánh, v.v.... Phật mở giáo quyền nghi, đây dùng làm thỉ của mới phát thú nhập). Như điều-đạt gây ra ba tội nghịch mà cuối cùng cũng được thọ ký, ba tội nghịch cũng có quả báo (tiếng Phạm là Đề-bà-đạt-đa, Hán dịch là Thiên Thọ, là con vua Hộc Phạn, là em chú bác với Phật, theo thiền thần mà cầu xin được nên thường coi Phật là kẻ thù, xô đá làm chân Phật bị tổn thương, khiến thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết Tỳ-kheo-ni là ba tội nghịch, tuy vào địa ngục mà trên pháp hội Linh Sơn cũng được thọ ký, quả báo của ba tội nghịch đâu rỗng vậy ư?) Thánh ký hiển lại quy về gốc. Thường Bất Khinh lễ bái bốn chúng, thật thì mất nghi, chỉ kiếp trược khó hóa, mà bậc thánh khéo dùng thời, giữ vết bày lễ (kinh Pháp Hoa nói Bồtát Thường Bất Khinh nhờ thường lễ bái bốn chúng mà được thành Phật là quyền ứng theo thời, vì thời nhiều khinh mạn, thạnh hành lễ kinh mà hóa) ở Tây Vực vua Ưu-đà-diên cùng Tân-đầu-lô thiếu tướng Hậu thiện (Tân-đầu-lô dòng họ Phả-la-đọa ở núi Ma-lợi, chẳng nhập Niết-bàn) vua từng đến mà Tân-đầu-lô chẳng đứng dậy, mọi người xin vua dùng pháp trị, vua bảo: Sự ký vậy (ký là đã vậy. Sự độ trước chẳng dậy đã xong) phải ta đến sau, ngày khác vua đến chỗ Tân-đầu-lô Niệm Dục chẳng dậy, sợ vua hại mình đọa vào địa ngục nên Niệm Dục liền đúng dậy, lo tổn phước vua, mất cả vị nước nhà, chốc lát lại cắt đó, trọng của mất nước chẳng quá lắm so với đường ác. Dậy hơn chẳng dậy, nên theo điều hơn, mới đi ngược đến trước vua bảy bước, vua ngạc nhiên sự khác thường đó, Tân-đầu-lô bảo: Tôi trước lo vua mất vị, nay sắp vì ta hại nên chẳng được lo nghĩ điều đó. Vua nói: Tôi mất nước thế nào? Đáp sau bảy ngày sẽ mất nước bảy năm, ở Bắc Tề, Tăng Trù thấy Văn Tuyên không sắp tiễn đưa (Văn Tuyên Cao Dương đóng đô ở Hà Đông, tại vị mười năm thì băng), vua kín nhận lời tà sàm tấu, Khấu Khiêm Chi dùng sấm kỵ hắc y (Bấy giờ có sàm tấu văn Tuyên rằng: Thấy vua mà chẳng dậy là có ý khinh quân mạn chủ. Lại có sấm rằng: Hắc y đáng vua Tăng Trù mặc y nhuộm là thích hợp oai nghi, mong ngày khác đến, vì rất chẳng kính nên trừ đó, chọn giá lớn đi đến trong núi, Tăng Trù ra khỏi núi cách hai mươi dặm đứng riêng bên cạnh đường, vua bảo: Thường ngày khác chẳng tôi ngươi, nay thì như vậy Tăng Trù bảo: Sợ máu trên thân làm dơ bẩn tăng phòng. Vua trong tâm cần khẩn, xin dùng thân mình cõng Tăng Trù trở về chỗ ở cũ, Tăng Trù có chẳng thọ mạng (chẳng nhận mạng lệnh cõng khiêng trở về). Dịch nói: Đạo của quân tử hoặc đi hoặc ở, hoặc nín hoặc nói, nói thì ứng biến theo thời (cái gọi là Bang hữu đạo thì trí, Bang vô đạo thì ngu dụng đó thì hành, xả đó thì tàng) người giàu có trong thiên hạ, quý có người dân là, xem hành nghề giống như loại gà chó, trâu ngựa. Bắt đầu vì biết được giờ giấc (là gà) năng sủa dữ (là chó) năng đến xa (là trâu) năng thay nhọc (là ngựa) mà vui vẻ đó, cuối cùng chẳng vì khả năng đó mà chẳng giết nó, chẳng ăn nó mà chẳng lấy lông da nó mà dùng. Nên kia thận trọng cậy nương thưởng đó, mà sợ làm hại nó, còn lẽ loi ở tốt lành. Huống chi đạo đức: (các loài chim thú này tuy được mến thưởng mà vẫn có lúc bị giết hại) nếu chim kỳ thú lạ làm dụng của muôn giếng chẳng gấp (tỉnh là hương tỉnh, chín nhà là một Tỉnh) hoặc chỗ vui của một sĩ, đó năng lâu dài ư? Mà đời Chí Đức (thời Thượng cổ) ổ chim có thể nhìn, nai hươu có thể nhờ gửi đó, vì sao giết các căn cơ nhỏ bé như vậy? Đời sau, ở đó cao, người đó xa (cầm thì ở cao, thú thì ở xa người, sợ giết hại cho nên như vậy) chớ được quen lớn đó, há chẳng vì quá lắm của đó ư? (như Ngô Quý Phác đến sính lễ Tấn vừa vào nội cảnh liền than: Bạo thay! Mọi người cùng theo hỏi lý do. Đáp rằng thấy chim ở cao, hoặc vì biết hung bạo) Trọng Ni nói: Nghiêng ổ che trứng, phụng hoàng chẳng đến, tận chầm khô đầm, kỳ lân chẳng đến, chê bai hại đó (ác thương tổn loại đó) nên hiền giả chẳng giúp, thế khéo xuống thôi (chẳng A-đảng mà cao cứ) trời trao phước đó, người nghĩ không cạnh tranh (sống chết do mạng, giàu sang tại trời, chỗ biệt báo cảm chẳng vọng động). Phàm đối với Quyền hào (kẻ sĩ quyền thế hào cường) ít có chẳng giống mình mà vụ nhiều còn ở người đó (tiển là ít, thái là tập, vụ là mộ, thượng là thắng, kẻ sĩ cao quý quyền hào, ít có ai chẳng tập, nghĩ thế của mình quyền hào đã tập, nghĩ đó mà hẳn thiết tâm thắng thượng đối với người). Trông nhìn nhà kia lạnh lùng mà viện ít.
Tuy mang trí nghề, miệt đó sao có (kẻ quyền hào ở bậc nhà bồng cửa tất, giả sử tài nghệ lướt mây cũng chẳng đoái hoài) tưởng ở mình chẳng do cô tức thì hẳn La-chước dùng tội mà độc hại (cô tức là thương xót, đã chẳng xót thương tức riêng việc là chước, mà thêm tội lệ để hại đó) nên sách chép: Nhà của Lộc đời ít khắc do lễ (văn của thượng thư tất mạng, ở đời nhà có lộc vị, ít hay dùng lễ) Tại sao dùng lễ mà muốn lý giới đó ư? Mà kẻ lại hoặc có chí, có khí là lấy tàn khắc làm đức, đâu biết ân huệ của ôn át vừa rồi khiến gặp hổ hủy trông nhìn khinh bỉ cũng phải dùng lực xúc đó, sao trông mong ở tức giận ư? (xải nhai là kẻ tức giận, xúc là đối để. Đâu sợ tức giận đó) xưa kia Quản Phiên giết Bạch Viễn (Viễn tự là Pháp Tổ, vốn họ Vạn, người Hà Nội, xuất gia từ thuở nhỏ, tài tư thấu suốt, mỗi ngày tụng thuộc muôn lời, Trương Phụ rất mến thương, muốn khiến về tục mà chẳng chịu, về sau với luận nghi đạo sĩ Quản Phiên, Quản Phiên thua, gièm pha tới Trương Phụ giết đó, các Hồ nghe vậy tức giận liền đến Tần Châu giết Trượng Phụ và Quản Phiên) Sưu Cung giết Pháp Tuệ (Pháp Tuệ người ở xứ Quan Trung, phương nghi có giới hạnh, trong khoảng niên hiệu Kiến Nguyên đời vua Khương Đế đời Tấn thì trụ ở Tương Dương, chẳng thọ thỉnh riêng, mỗi lúc đi khất thực, thường mang giường chõng đi theo, một lúc nọ mắc mưa, dùng dầu ấp vai tự che, mưa dứt chẳng thấy nữa. Sa-môn Pháp Chiếu nói: Ông có lỗi trước kia từng làm tổn thương chân một con gà, oan đó sắp đến, về sau bị đánh chiếm phương Tây là Sưu Trỉ Cung giết đó) buông tứ tức giận mạnh phạt một sao phá lắm. Lượng cũng do kia chẳng tự lưu độn. Lại chẳng ách tốn (lượng là tin thật, độn là trốn hiền giả lánh đời, đã chẳng thể lánh ác của đời, tức hợp tiện ách hành tốn lời, bao phòng của khắp thân mà tự rước lấy họa) dính mắc nghiệp lý cho nên đến đó (chỉ dính mắc chẳng chung chỉ nghiệp báo mà dứt). Hoặc vì đạo giàu có thì chẳng có mình. Nên chăn ao tiết hạt, tổn hình hài như ve sầu héo úa, nên chẳng khó mà chết, làm sao có thể kiểu bày ư (khoảng đó hoặc có đạo đức cao vời, thấu suốt không hữu, vật ngã đều mất, đối với chết nên không hề sợ, làm sao có thể kiểu sức tâm sinh đó) kia bởi chẳng được nghĩa của chết (đã chẳng phải cứu giúp giáo môn, lại chẳng phải tâm đạo giúp vật, luống một đường chết, sao cũng lấy làm ư). Phàm có dũng mà khinh chết, có tang ta mà khinh chết, đối với dũng đó là chẳng ngu là nhân). Dũng mà chết là, hoặc vì ngu mà chẳng sợ chết, hoặc vì dùng nhân mà dũng đối với chết). Ngu như Hổ dữ Bằng Hà (Hổ dữ không đánh bắt, Bằng Hà không giẫm qua) nhân thì được nghĩa lên chốn Minh Đường (vì giữ nước khó khăn mà chết thì lên nơi Minh Đường) Tang ta là bậc thánh, chẳng phải nên xúc chết, chết đến chẳng sợ. (Ngộ Đạt sống chết đâu hề sợ, chỉ nghiệp là đáng sợ) xưa kia khoảng thời của Ngụy Chu, nào từng có chẳng phải tự thân bẻ chuồng dũng chết, đối với nghĩa là (Hán thư, Chu Vân tự là Tử Du, người xứ Lỗ, thời Thành Đế, Trương Võ làm Đế Sư rất tôn trọng, Chu Vân dâng thư nói: Xin ban phương trên kiếm chém ngựa chặt đầu một nịnh thần, để răn các người còn lại, Thượng hỏi: Ai vậy? An Xương Hầu Trương Võ. Đế tức giận bề tôi nhỏ ở dưới chê tránh trên sân, nhục sư truyền lệnh ngự sử đem xuống điện. Chu Vân vin điện bẻ chuồng khổ kỵ, kêu can ngăn mới thôi, từ thời hậu Ngụy, hậu Chu đâu từng có người như thế) tuy hạng lắng mây chưa đạo hang rỗng giết thân, cũng bởi tự trải qua dòng của Câu Vạn (tĩnh ái can ngăn Chu Võ sa thải chẳng theo, vào núi chích máu ghi tên trên đá, treo ruột trên cây, moi tim ra bưng lấy mà chết. Luận Ngữ nói: Đâu như tin thật của những người tầm thường, tự trải qua nơi câu độc) sau khi bình Tề, Tuệ Viễn tức giận quát mắng buông lời sấm sét, lại chẳng đẹp, bện râu ngược vảy chẳng khỏi bị hại (Viễn Công can ngăn Chu Võ mấy lần nhầm lẫn ý chỉ mà ra, sau Tuệ Viễn ẩn lánh nơi núi rừng mà giảng kinh Niết-bàn, đến thời Tùy Văn hưng khởi mới ra) nên bậc hiền năng quyền làm bậc Thánh biết cơ, tuy chẳng quý sống cũng chẳng thể khinh chết. Tăng Trù nói với Cao Dương rằng: Đàn Việt xưa làm La-sát, hãy đến chỗ có nước sẽ tự thấy. Đế theo đó nhìn thấy đàn La-sát bèn chẳng ăn thịt, bải bỏ trói buộc chim thú, cấm giết mổ đem thịt vào chợ bán (Tấn Tề nói Cao Dương đánh Khế Đan, trước lộ bày đều thân? Tổ ngàn dặm chỉ ăn thịt uống nước, trạng khí gắng gỏi, về sau làm vua, tổ bày hình thể, truyền phấn bôi xoa. Lạc đà trâu ngựa chẳng mang yên dàm, nam nữ lẫn lộn nhóm họp dâm dật, thân khán vô lễ, bẻ chân tay phụ nữ, dùng đùi làm cầm sắt, tự mổ bụng người leo lên rường cột nhà, chạy nhanh như ở mặt đất, giết hại chẳng thể tính kể. Lấy đó mà xét, nếu gọi là La-sát thật chẳng nhầm, lúc đầu. Đế ở Tấn Dương bảo người cưỡi lạc đà đến chùa lấy hòm kinh, kẻ sứ hỏi đến đâu, Dương nói: Dẫn lạc đà ra thành, lúc ra khỏi am như mộng thấy đến một núi, nửa núi có chùa Phật, các Sa-di xa nói Cao Dương Thác đà đến, bèn dẫn đến gặp một lão tăng, vị tăng bảo: Dương làm Thiên Tử thế nào? Đáp: Ngày càng là thánh minh? Hỏi: Ngươi đến đây làm gì? Đáp lấy hòm kinh, vị tăng bảo Dương ở chùa lười đọc kinh, nay Bắc đi đến đầu phía Đông. Sau Đế đến chùa Mộc Tĩnh ở Cốc Khẩu, bấy giờ có người Si xả thân, trước chẳng hiểu lời nói, chợt bảo với đế rằng: Tôi đi trước, ông lại đi sau. Đêm đó người Si chết, Đế sau đó cũng băng tại Tấn Dương (có đạo nhân ở Thái Sơn, Đế hỏi rằng: Tôi được làm Thiên Tử mấy năm? Đáp Được ba mươi năm, Đế nói: Được mười năm mười tháng mười ngày chẳng phải ba mươi, đến kỳ hạn quả nhiên băng) Đế là người ngu hay trí chẳng thể lường biết. Ủy chính Dương Tuân Ngạn, mà ngày xây chùa rộng lớn xong, ngồi thiền lễ Phật hành nhiễu, mau chóng như gió. Bỉ cho rằng như Cao Dương tự phù hắc sấm. (Trước đó sấm gọi Hắc y là Thiên Tử, thiền sư Nghi Đảo, nay Hòa-thượng Bắc Sơn, ý lấy tiếng chữ Cao Dương cùng Cao Dương đồng, tức là hắc (đen)) trước là vào khoảng niên hiệu Chánh Quang đời Ngụy trở đi (trước là Hồ Thái Hậu lâm triều, vua Thanh Hà vui vẻ, khắc binh lính quyết sự ở trong điện, đổi niên hiệu Chánh Quang năm thứ nhất, người vào chợ đều đóng thuế một tiền), thống trong lắm ngu, Vương dịch quang bệnh, chỗ tại biên hộ theo nhau vào đạo, lẫn lộn càng nhiều, lược tính chùa miếu có hơn ba vạn, tăng ni hai trăm vạn, đến lúc Chu Võ đánh Tề, Tề nối tiếp sau Ngụy, chùa ra bốn ngàn năm, chúng giảm ba trăm vạn, Vệ Nguyên Tung hoặc vì Phật pháp giặc ác cương khóc chủ của rước họa, dùng trách báng gá đó, sắp khiến diệt đó, diệt mà lại hưng, cùng nghĩa chỉ mới của thiên hạ (Nguyên Thường người ở huyện Tân Phồn, đất Thục, xuất gia tại Hắc Thủy núi Nga My, dâng thượng sách hai mươi điều, khiến Trừng Thải Phú tăng không hạnh, đặt một chùa Diên bình lớn, an ổn hạng bệnh yếu khắp bốn biển, lý đó rất đúng. Đường Thái Tông vào trong chỗ tối thấy đó đang ở trong ngục, tự nói ở đây như cõi thiền thứ ba, người đó chẳng ở ba cõi, kinh nói: Chỉ bày chúng có ba độc, lại thấy tướng tà kiến (kinh Pháp Hoa) há chẳng phải hạng người này ư? Chỉ có Chí Nhân hành, Quyền sự tế mở Quyền, nếu trọn muộn mà chẳng mở, thì trái là so quyền hại thật, như Nguyên Tung thì chưa tận thuật của quyền. Tống Bôi vượt trên biển trách tiên, ẩn giấu trên họ đó, người thời bấy giờ ngồi trên Bôi (cái chén) mà qua sông, bèn ngay nơi sự mà gọi, cũng gọi là độ luyện (hoặc có chỗ gọi là độ luyện) thời xưa gọi chư tăng là Đạo sĩ A-luyện, A thượng, (lại có ba tên này) thường ngủ qua đêm trong quán trọ, tờ mờ (sáng sớm) trộm tượng vàng mà đi, người chủ cưỡi ngựa đuổi theo. Kia chậm rãi đi mà chẳng đãi (đãi là kịp, đuổi nhanh bằng ngựa mà chẳng kịp) đến bến Mạnh Tân, ngồi trên bôi mà qua sông (mạnh Tân là sông Hoàng Hà) đi đến kinh đô thì y phục ăn mặc thô xấu, ăn uống mừng giận đều chẳng tiết độ, mang một lô thuyên (thuyên là đồ dùng bằng tre, như chiếc lộng nhỏ, đều làm bằng tre lau) trong thuyên đặt một chén gỗ, thường muốn Qua Bộ (Qua Bộ là địa danh ở Giang Hoài, xưa kia Tôn Chung trồng dưa ở xứ này, tức trên sông Dương Tử) Người ở bến chẳng gì tháo thuyền mới tự kẹt chân trong chén, đưa mắt liếc nhìn ngâm vịnh mà vượt thẳng đến bờ phía Bắc, một hôm ở thôn xá Quảng Lăng (tức Kim Lăng) gặp hội bát quan trai, bèn đặt thuyên trong sân, nhà đó cùng nhau dời bỏ nhưng nó nặng chẳng thể giở nổi, có người lén nhìn thấy bốn đứa trẻ ở đó, mới đầu Ngụy chết dưới hạng núi phía Bắc Quảng Lăng, hoa sen nhiễu quanh thân, mọc trên đá. Sau khi an táng lại có người thấy ở Bành Thành (tức Từ Châu) mở quan tài để xem, chỉ còn có đôi giày (chư tăng mang giày mũi cong ngắn, gọi là Phú-la) Chu Hư Kỳ (người đời Tống) đi sứ từ Cao-ly trở về, mất tiếp tế trên châu, được bát của Độ, khi đã đến, Độ bảo: Ta không thấy bát này đã bốn ngàn năm (Độ thấy bát liền biết). Vào thời Nam Lương, có Bảo Chí ăn uống phi pháp, tóc dài mấy tấc, cầm một chiếc gậy chống trên mũi dao và gương hoặc hai ba mảnh vải, Tề Võ bảo đó là Dương mê hoặc dối người (Nam Tề Võ Đế, dòng họ Tiêu, tên Trách, tự là Tuyên Viễn, con của Thành Đạo, làm vua được mười một năm thì băng, để lại chiếu văn trên linh chớ dùng muôn sinh cúng tế, chỉ dùng bánh cơm mà thôi, chẳng cho người xuất gia nhập đạo và xây tháp, dùng vườn nhà làm tinh xá v.v...) trói buộc ở Kiến Khương, mà Bảo Chí phân thân dạo đi trên chợ, thường đến người đòi xin nem chả, ăn no rồi bỏ đi, người chủ nhìn trong bồn, cá sống như cũ (Chí Công có lần chính mắt Lương Võ ăn nem, Lương võ gièm trách, Chí Công bèn vội nhả trong nước, đều thấy cá như cũ, chỉ tổn thương ở đuôi. Đến nay ở Giang Lăng có nem cá thừa) Võ Đế sử dụng hình pháp tàn khốc,
Bảo Chí gá thần lực đó khiến thấy Cao Đế ở dưới đất chịu cực khổ (Cao Đế là Tiêu Đạo Thành) do đó trừ bỏ cái hại của dao. Mới đầu Lương dốc chí tôn sùng Khổng Mạnh, có Trần Chinh Lỗ, cả nhà đều tôn thờ Bảo Chí mới vì hiện thân, có ánh sáng như tượng Bồ-tát. Có chỗ cho Quán Âm là Bảo Chí, nay có chỗ xây dựng đó (tức nay tôn tượng Quán Âm mười một mặt) Phàm Đại sĩ Thập Trụ còn có khả năng thành Phật đầy đủ mười hiệu (người đầu địa tiền tức thập trụ) huống gì là Bồ-tát nhục thân ư, nên có chỗ cho rằng Bảo Chí là Quán Âm, chẳng phải Quán Âm là Bảo Chí (thánh hiền quyền hóa đều như vậy, chưa hẳn chỉ là Quán Âm) Bảo Chí từng đến chỗ Vân ở chùa Quang Trạch, liền ở trong đêm nói tôi muốn giải sư tử rống, Vân mổ cho và búng ngón tay nói: Lành thay pháp Vi diệu. Lúc sắp qua đời đốt một ngọn đèn giao cho xá nhân ở sau gác, Đế bảo: Kia sắp giao phó hậu sự cho ta, và ban sắc táng lễ nồng hậu (tức niên hiệu Thiên giám năm thứ mười bốn đời Võ Đế thời Nam Lương, thị tịch tại chùa Khai Thiện) có Sử Tông là người xứ Bồng Lai, Ma Nhu, Thiệu Thạc, Trương Nô (bốn người đều ở ngoài vật) đều là loại đó. Ma Nhu gặp Phật-đồ-trừng, ngôn từ tặng nhau qua lại rất bí áo. Bấy giờ, Trương Nô người trẻ được ăn, thường đối nhưng vui vẻ suốt mùa đông hạ, chỉ một áo đơn, có đạo nhân nước ngoài là Tăng-khư-tra là người Thần Dị, đến nghỉ lại qua đêm tại chùa Thường Thiên (ở Dương Châu) cùng Tăng Ngộ chung phòng, nửa đêm bưng nâng chùa vào mây, sau đó đặt xuống lại, và bảo Tăng Ngộ chớ tiết lộ (cột trụ chùa tháp, Tăng-khư chẳng khiến Tăng Ngộ tiết lộ với người) sau trên đường thấy Trương Nô (Tăng-khư thấy) vui mừng cười bảo: Tôi từ phương Đông đến Thái Đồn, đến phương Nam hỏi Mã Sinh, qua phương Bắc gặp Vương Ngưu (đều là các hiền sĩ ẩn tích) nay muốn đến Bôi Độ mới được gặp ông. Trương Nô đề chỗ cây hòe bài ca rằng: Mênh mông trong đại tượng (pháp giới thoáng rỗng, vật tương mênh mông) chiếu diệu thật rõ bày (bản tánh linh minh luôn tự chiếu soi) việc gì mờ tối nam, buông hoặc tự vời hoa (tánh của Bản giác chẳng thể tự biết, năm dục điên trụy mê hoặc vời họa. Đây là ý buồn thương phàm ngu chẳng tỏ ngộ), chỗ vui ít người đến (cảnh của Chư Phật, duỗi tay dài tiếp dẫn mà phàm tục ngu mờ chẳng chịu hướng về) đường khổ như đãy phiên (chìm đắm ba đường, một lúc mất thân người, trở lại khó được, giống như đãy lượt nước) chẳng có chí thông bách, sao dùng phỏng gió sương (chẳng có chí vững chắc, làm sao đối các cảnh, gió sương sống chết đến làm sao có chỗ nương) nhàn dự ngoài mây tía, ca dài ra Hạo Thương (Hạo Thương là trời, đây là Trương Nô tự trình bày chí ý của mình, tức nhàn ngâm nhạc đạo, dạo rảo giữa khoảng đất trời). Lắng hư không sắc nước (Thượng Thiện như nước, lắng như không sóng, muôn cảnh chẳng động, sóng thức vốn lặng) nên thấy quê có duyên (nơi này duyên hết đến nơi khác hóa độ) Tuế Diệu Tỳ Hán hậu (Tỳ là phụ, Đông Phương Sóc là tinh của Sao Tuế, xuống giúp Hán Võ Đế hậu quân) thần lệ giúp Ân Vương (truyền thuyết là truyền thuyết sao xuống giúp Ân Vương, võ Đinh) kia ta chẳng hai tiên (nói ta chẳng phải Phương Sóc, đây truyền thuyết hai tiên) chín phương mờ dấu vết (chín phương là tám phương và phương trên) cũng thấy lưu tục tử chạm mắt khiến đau thương (hai câu này là ý thương) Lược Ca xem có nghĩ ngày nào hết Khâm Chương (vì có chỗ thuộc ý lạc làm bài ca này, làm sao có thể hết lượng của ta ôm ấp) Tra đáp hòa có giữ, thư gửi (văn đó chưa thấy) Trương Nô nói vô Cực Độ, chẳng có ai hiểu (theo lời Lưu Công Hạ cho rằng giấu từ) bởi kia thần dạo ở ngoài có biết, mà bên trong chẳng kịp (ba cõi đều là cảnh của khổ biết, nghi người này là ngoài ba cõi, nay ở trong ba cõi nên chẳng kịp ngôn luận đó) phàm trang sức ngu làm trí dễ, tức điếc mờ tối khó (văn của Tả Truyện) như Bôi Độ Bảo Chí kia dáng khác tám phù (Bởi quân tử hòa mà chẳng đồng) mà trong chiếu chưa hề ngu (mà nội dung cảnh thật đâu được gọi là Ngu) người ngu cho đó là ngu (kẻ ngu chẳng đạt nên cho đó là Ngu) di tích chẳng huyễn trí, người trí gọi đó là trí (chiếu trong vết mờ người nhận biết biết trí đó) chỉ tâm người không thường đối đãi cảnh mà chuyển dời, phàm vật lý giữ thường thì tai mắt chẳng hãi (nếu chẳng phải hiển khác thì chẳng thể xoay tâm thức đó, kinh hãi tai mắt) nên ở khoảng mênh mông, hẳn giả gá hành vi lạ thường, mới để giúp giáo (đang lúc loạn tục mênh mang thì nên bày hành vi lạ thường để quyền hóa mà giúp sức cho giáo phong) đó như biết đổi của gió mưa sấm sét ở tình của muôn vật (cách là sửa đổi, mùa xuân sấm động mà sâu trùng mở cửa, gió đông thổi vút mà băng nhẹ vở tan, đổi quẻ lên sáu, quân tử báo biến Văn Úy đó) kinh nói Tam mật chẳng phải là đây ư (Tam mật là ngôn, hành và tâm) Nhưng Đại nho, Tiểu nho lấy thơ làm đạo (Đại nho là nho quân tử, Tiểu nho là nho tiểu nhân, nho là đêm trước gắng học để đọc hỏi, ôm hoài trung tín để đợi nêu lên. Lực hành dùng để tự lập có kẻ như thế. Nay các Tiểu nho ghi lấy mãnh văn chữ vụn cẩu thả trận danh dự, nên gọi đó là đạo) ngu truy ngu tục lấy pháp làm đạo, nên có lời nói của trộm yêu dung sắc quái (nên có kẻ sĩ lừa dối, ở đời xưng là bậc thánh, cũng trộm sánh ví yêu dung quái phục mà làm mê hoặc thế gian, rất là lạm tràn.) mới đầu xưng là thánh trí, cuối cùng thì bỉ nhục (như loại quả núi, loại Kim Cang thiền rất nhiều) chỉ rất tin là thật dối đều đến, Gia mưu bại ở Lương Lạc (gia mưu là thóc lúa, lương là giống lương (kê) lạc là cỏ rác, tuy lương bị chỗ lạc xen lẫn cũng còn gọi là gia lật,) hạng không tin thì ngu, thánh đều lùi, hòa ngọc hổn nơi yên mân (người chẳng tin tốt xấu đều lùi, nên ngọc đá đều bỏ. Đá yên mân tợ như ngọc) Nậu Phu đẽo tượng vừa đủ, vì đó buồn (nậu phu là người cày bừa, trác tượng là thợ làm ngọc, lương lạc yên mân nên làm buồn) nhà quyền quý ít có, chẳng áng áng cùng kỳ lạ, làm có đạo đó (áng bồn thuộc nhà quý, vì một loại tăng thường thấy đó như bồn chất phác, rất chẳng biết bên trong chứa đựng hành vi rất mực dối trá, bèn cho là người có đạo) chuộng tim phủ đó hỗn hình dung hành vi bỉ lậu (chỉ vì y phục bụi trần đó che phủ nói năng thật vụn, bèn chuộng đó làm đạo) mới đầu thân đó, kế đến ngợi khen, người ngu kia được đến nơi giàu sang mà mờ tối ở Hình Hiến, giam hồi là thường ngu, không ngu ác gì mà chẳng làm cũng đã rõ, kia tự chẳng lấy Sưu (mắt không có con ngươi) làm lỗi trái lại cho rằng thiên hạ đều là người xuất gia là việc chẳng thể có. (sưu là không mắt, tự không nhận biết riêng, đoái hoài dùng hạn gian tà, cho đến trái rõ ràng, trở lại trách hàng thanh bạch, há chẳng phải mê ư? Chá Cốc Tử dụ đó là cổ hoặc) dùng du bằng khiết, ngu xen lẫn chẳng ra gì. Loại phàm tình này làm sao so sánh ngang với hàng thanh triết, ngu trược xen lẫn kẻ chẳng ra gì, từng chẳng biết chư Tăng có vết tích sâu thẩm ngoài Thiên Phủ thần hư lụy ra, vào sống chết, động tĩnh vô phương. Chí đức đó khắc đến ở đây (chư tăng có cùng trời đất hợp đức, xua tan tro bụi nhơ, đến nơi nào cũng chẳng kính mắc, đức chí cực đó bằng ở đây) chư tăng có khí trọng danh dương giáo tông, nhân phạm, có thể nhìn thấy mà chẳng thể đến gần (có thể dùng đức nhìn thấy mà chẳng thể dùng tình quen lớn) khó tiến tới mà dễ thối lui (tánh đồng mây hạc, đời chẳng được thân gần) Cao trời đó mà đến ở đây. Chư tăng có từ Lương ở ý (mến vật ban vui gọi là Từ, không chỗ can phạm gọi là Lương) nhân thứ khắc kỷ(ban từ trải tuệ gọi là Nhân, thốn độ hợp độ gọi là Thứ) nhường thì tự bằng (khiêm thân ước kỷ gọi là Nhượng) vui mừng thì bằng người (việc thành khắp nơi gọi là Khánh (vui mừng)). Đó đượm vật có như thế, đó như cách nang trời tiên ngói sỏi châu cơ (cách là da, nếu thấy ngoài hiện chất phác cho là đãy da ngói sỏi, mà không biết ở trong chứa hạnh châu cơ của trời tiên, châu nhỏ gọi là cơ) vui còn chẳng cười, nghĩa còn chẳng thủ (vui cười là tình còn động, nghĩa mà thủ là dục còn đủ, chẳng phải đồng loại Công Thúc Văn Tử) há lấy chỗ mình chẳng biết mà đo lường (hạng thế tục tự đã chẳng biết hành tung của chư tăng, mà lấy ước đoán vọng đo lường) Nên Tam Miêu nghịch mạng, Quỳ Long có đức (Thời Thuấn là nước của Tam Miêu, Tả diệt đình Hữu Bành, chẳng thuận Đế mạng Võ đánh chiếm, một tháng chẳng phục, xin trở lui mà tu đức bảy tuần sau mà tự lại, đây là đức của tương phụ. Quỳ Long là phụ tướng của Thuấn) nghĩa Hy hòa miến, Thiên Tông không phế (họ Hy, họ Hòa ở đời làm quan trông coi trời đất, đến Thái Khương quá sai chẳng độ, tỷ miến nơi rượu, nên bỏ giết đó, mà thề rằng: Quyết diệt cừ khôi hiệp theo không ý trị. Lấy Tam Miêu Hy hòa dụ cho gian hồi. Quỳ Long Thiên Tông dụ cho chúng thanh tịnh) Phàm tâm người ở nghĩa mới đầu thì thục thắc có thể biết (xem đó ở mới đầu có nghĩa hay không nghĩa thì biết đó thiện hay ác. Thục là thiện, thắc là ác) khảo tình ở tố hành thì cuồng triết có thể biết (tố là trước, cuồng là ngu, triết là trí) nên việc làm tăng của Kiểu Trác, hẳn chẳng phải Điều-đạt Thiện Tinh (kiểu là tử sản, trác là con út của Diên Lăng. Kẻ sĩ khổ sứ lương thiện làm tăng hẳn chẳng làm việc ác, Điều-đạt Thiện Tinh là ác Tỳ-kheo) làm tăng của Trang chích hẳn chẳng phải Thu Tử Thục Thị (Trang chích là hung tặc, Thu Tử là Xá-lợi-phất, Thục Thị là Mục-kiền-liên) sao là mới đầu được tăng ở Trang chích mà sau tránh chẳng hiển ư? Mới đầu chẳng biết tăng có Kiểu Trác mà trước cho là không đức ư? Phàm có khí của kẻ sĩ quân tử có tăng của kẻ sĩ quân tử. Có tánh của đài kiệu, hẳn có tăng của Đài Kiệu (Đài Kiệu là người hèn mọn) nên lấy nhân cầu Tăng có thể hẳn, dùng tăng cầu nhân khó thay, (dùng nhân hành hướng trong tăng mà cầu thì có thể có người nhân hành, nếu phàm là tăng bèn trách nhân hành đó, tức là sợ khó) vả lại khiến An Viễn vọng (đạo định Tuệ Viễn) kia hẳn chẳng làm vọng, thật tự có thừa, khiến Tư Khải bạo (thiền sư Tư đại, thiền sư thiên thai trí giả) kia hẳn chẳng là bạo, nhân tự có thừa, khiến Phật-đồ-trừng, Tuệ thỉ yêu (Phật-đồ-trừng như trước, Tuệ thỉ là Sa-môn thời Nguyên Ngụy, rất có thần dị, hơn năm mươi năm không hề nằm ngủ, đi qua chỗ đường sình lầy mà chân chẳng nhơ, ở đời gọi là Bạch Túc) kia hẳn chẳng làm yêu thần lực tự có thừa, khiến Tăng Mân Trí tạng ninh (Tăng Mân ở núi Hổ Khâu, Lương Tiêu ngang đến lễ yết, chẳng cho gặp mặt theo cửa sau mà bỏ trốn. Trí Tạng thì Lương Võ Đế lập chế cho vào suốt trong cung, nhân rảnh cùng Sa-môn dạo chơi. Quan Hữu Ty tấu ngự tòa chẳng phải chỗ Sa-môn lên. Trí Tạng ngang nhiên ngồi đó, nghiêm sắc mặt lớn tiếng bảo: Bần đạo xưa làm Ngô trung cố lang còn chẳng hổ ngồi giường v.v...) kia hẳn chẳng làm nịnh, nguy chẳng tự có thừa, vì thế nhà Trung Hiếu chẳng thể khiến làm loạn, nhà đức hạnh chẳng thể khiến làm lạm. Tống Văn Đế cúng cơm chư tăng đồng chúng ngồi trên chiếu dưới đất ban thức ăn chậm, chúng nghi sắp chiều chẳng ăn, Đế bảo: Đầu có thể giữ, Sinh Công nói: Bạch nhật sáng bầu trời, trước nói là đầu giữa, sao được chẳng phải giữa, bèn bưng bát mà ăn, ở chúng cùng theo, Đế rất vui vẻ (quân của muôn thừa chủ của Phật pháp, nắm cán của bỏ lấy, có quyền của giết để, nếu có thủ tiểu đạo, mà chống đó, giả sử không họa phế cả, thì chẳng trái với đạo kính thuận hay sao? Như chỗ thấy sâu xa của Sinh Công là đúng) đó bởi đại nhân cùng đất trời đồng đức, nhật nguyệt đồng sáng, nên nói giữa thì giữa. Huống chi năng lực của Đế Vương có thể sợ ư? Nên lánh thiêu đốt chẳng đợi ở sư mổ (mổ là nữ sư, vợ của Đại phu năm mươi tuổi mà không con thì vào cung là nữ sư. Đứng ngồi đều được, mới đi đã gả thì chẳng đợi. Tống Bá Cơ mắc lửa, đợi mổ chẳng lại mà thiêu chết, đây là chấp mắc,) vớt chìm đắm đâu hiềm ở nắm đầu (Mạnh Tử như người cha chìm nước, con chụp đầu tóc để cứu cũng chẳng có lỗi, bởi đều lấy quyền đó thích nghi của gấp nạn) phúc cắn đâu đoái hoài ở chặt cánh tay (phúc là loài rắn, tay chân thân thể đâu chẳng yêu tiếc, nếu bị rắn cắn, sợ chết nên phải chặt bỏ) Lý của hộ pháp thông với thần minh (vì hộ pháp nên đâu đoái hoài ở tiểu tiết mà thôi) xưa kia Viễn Công sắp tịch, môn nhân dâng nước đường, tỳ sử (tỷ là khiến lại cẩn thận lo nghĩ có trái với phương luật (kiểm luật chưa được mà tịch (không khó nên nương pháp hành) kia khắc ép ở mình, sai khiến người thì đó không vượt qua, nhàn một cúi một ngửa có làm cũng (nhàn là pháp, mình đã nghiêm ép năm giữ khiến người sau nương phép tắc đó mà thực hành). Vào thời Bắc Tề, khoảng niên hiệu Thiên Bảo, có Sa-môn Đàm Hiển chẳng biết từ xứ nào đến, ăn uống đồng như người tục, bấy giờ buông lời rộng xa, thượng thống biết đó kỳ dị (Pháp Thượng làm Tăng Thống nên gọi là Thượng Thống) thầm giao tiếp rất thân. Bấy giờ, gặp Hoàng quan Lục Tu Tĩnh từ Lương chạy sang Tề (Tu Tĩnh trước của Lương, hủy báng Phật giáo, Lương Võ muốn giết, nên trốn chạy sang Tề. Lại cầu thử) ban sắc Sa-môn cùng đồng bạn của Tu Tĩnh gồm mười người đối biện, chiếu ban so sánh hơn kém. Đồng bạn của tu tĩnh dùng chúc yêu thuật, y bát Sa-môn hoặc bay đến, chúc cây rường hoặc đến ngang dọc, trông thấy Sa-môn chẳng thể đối lại, nên lớn tiếng bảo: Chỗ Sa-môn thấy một ta sẽ thấy hai. Đế bảo Thượng Thống. Thống cầu Đàm Hiển, Đàm Hiển say ngồi ở cuối cùng, mọi người bảo: Gã say ấy ư? Pháp Thượng nói: Kia được gọi là Tế Tửu chánh có thể người sau đối đáp được, vội khiến cặp dắt lên tòa, thế rồi cười đưa một chân bảo: Ta đã thấy một, khanh có thể hai ư? Đồng bạn tu tĩnh hổ thẹn im lặng, Đàm Hiển lại bảo lấy y bát Thiền sư điều khiến kia chúc đó, nhưng chẳng thể nào nhúc nhích. Đế khiến nhấc y bát lên, từ một người đến năm cặp (mười người) đều chẳng nhấc nổi. Đặt trên sườn gỗ chúc đó cũng chẳng nghiệm. Đồng bạn Tu Tĩnh chiến nữu (chiến nữu là kinh sợ, hổ thẹn) bèn phế thuật mà nói là: Phật tự xưng nội, nội là nhỏ, cho ta là ngoại, ngoại là lớn Đàm Hiểu liền bảo: Thiên Tử ở nội, Bá Quan ở ngoại, nhỏ lớn sao bộ trái nhau ư? Người Tề do đó, đức ở tu. Trâu tuy tích còn phẫn ở trên đồn (tích là gầy, phẫn là đỗ ngã, đồn là heo, nói trâu tuy gầy nhưng bị ngã còn có thể đè trên heo, nói tuy lớn kém còn đè ở nhỏ. Đây là văn Xuân Thu, dụ cho Tấn Lỗ) sao nay chẳng vậy ư? Mới đầu nước nhà từ thế tích đánh đòi ở Hà Bắc, quà biếu chẳng cấp, Vương sư lại gầy, vay lương thực ở chùa, chư tăng bảo: Thường trú chẳng thể, Tuệ Hưu nghe bèn bảo đó rằng: Nếu khắp đây không công, thì đó là niềm vui của nước nhà. Nước nhà vui mà chùa còn chưa như vậy, với đồ đó cản trở chúng báo với sư (vời tăng chúng tán rải báo binh sư mà cấp tán rải) mở kho phát lương thực. Thần Nghiêu lúc đầu muốn bãi bỏ Đạo Phật, chỉ ở Hà Bắc chẳng bị chiếu, dùng anh dùng công bày vang vọng nên (thời nhà Tống niên hiệu Càn Đức thứ tư đánh Thục, quân Hậu Xuyên làm loạn, Vương sư đánh toàn sư hùng quân thực chẳng cấp, viện Thiên Thai ở Bành Châu mở kho lẫm của chúng tăng để cứu viện. Đến niên hiệu Khai Bảo năm thứ sáu, chúa thượng ban sắc bồi thường lại, nhưng ban ân giúp riêng) thời gần đây, Đạo Khiêm ở Toại Châu dáng mạo to lớn, giỏi giảng kinh Niết-bàn, bấy giờ hoặc dùng huyết tanh bồi bổ thêm mùi vị, các hàng đạo tục rất chẳng bằng lòng cho, Đạo Khiêm bảo: Giúp lực vì giảng xin chớ chê bai, đang lúc nắng gắt, do mở đổ tẩm tỏa thơm khốc liệt (khốc là rất lắm), so với Đàn Khương còn chẳng như. Làng nước đặc biệt tỏ bày ai kính, cho nên là quyền đạo, là chí chí (chữ chí trước là kịp, chữ chí sau là cực, năng kịp nơi đạo chí cực) Trọng Ni nói: có thể cho lập, chưa thể cho quyền (văn của Luận ngữ chỉ có thể cho lập sự, chưa thể cho quyền đạo, trái lại với thường đạo, trước trái mà sau hợp). Hoa của Đường Lệ riêng trái (Đường Lệ là Di, cũng gọi là Úc Lý, lại nói là cây lý dưới xe cao ba thước, đã đến tháng hai hoa nở tàn, hoa hồng điều. Các hoa trước hợp sau mở như thường đạo. Hoa đây trước nở sau hợp dụ cho Quyền đạo, mới đầu dường như trái nhau mà sau hợp đạo). Há chẳng nghĩ vậy thật là xa (đây là thơ mà Quyền đạo dụ. Há chẳng thể nghĩ đến hiền nhân làm thất xa của hiền nhân, thơ đây chưa đủ, tiếp theo nói là: Nghĩ của sau cùng. Phàm sao có của xa tự đó chẳng nghĩ, nghĩ liền kịp) thật chẳng gì khó ư? Nên tâm chỉ trinh nhất, có do cúi ngửa (trinh là chánh, hành tâm còn ở đạo chánh nhất của cơ quyền, thì hoặc cúi hoặc ngửa chẳng nhất định) sự thật chỉ công dùng như chỉ tư là nhân trí. Quán ích đó tuy trái mà đạt. Quán vô ích đang thuận mà giữ (chẳng hẳn định chấp đó. Phàm lệ cùng Tây Thi nhăn mày (Tây Thi là gái đẹp, Lệ là con gái xấu, tần là thích) chỗ nhăn mày là một mà so sánh biết đó chẳng bằng, thì như chớ nhăn mày mà biết là khó khăn (Tây Thi dáng đẹp nhăn mày càng đẹp, phía đông gần đó cô gái xấu, so sánh với Tây Thi nhăn mày càng xấu. Ý này dụ như tâm của tu Tĩnh, v.v... thử mà càng trái).
(Bàn luận về kinh, luật, luận, thiền, mỗi pháp đều có đạo của sư thừa tông tổ)
Sóng thừa của Nại Uyển, đến đầu niên hiệu Vĩnh Bình mới chảy tỏa (là khu vườn ở nước Ba-la-nại, cũng là nước Ba-la-ni-tư, Hán dịch là thành Chú Nhiễu, vì sông chảy quanh thành, gieo giống cây hoa, có khu vườn tên là Lộc dã, đức Như lai thường ở đó nói pháp. Niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười đời vua Minh Đế thời Hậu Hán, Phật pháp mới truyền đến Trung Hoa, nên gọi là mới (triệu). Từ phía đông Thông Lãnh đến Lưu sa, phong quang dần xa (phía Tây Chấn Đán có ngọn núi rất cao tên là Thông Lãnh, vì thông đó xanh biếc cho nên gọi tên như vậy) tỏa khắp đến Trung hạ. Ở đời Hán hơi có kinh học, còn thiền luật chưa dung (dung là nói, từ Trúc-pháp-lan, v.v... mới bắt đầu mang kinh Tứ Thập Nhị Chương đến, lại có An thanh, v.v... mang kinh tượng đến, nhưng chưa hiểu thiền luật) người tuy cạo tóc, mà chuyên việc như thế tục, y phục không điều tướng, thức ăn có cả cá thịt, cúng hội trai sám, giống như tế tự (tăng không giới luật, như tục chẳng khác. Y nghĩa là casa, Hán dịch là hoại sắc, có ba thứ y: Một là Tăng-già-lê, Hán dịch là hợp thành, cắt vải may chồng lại, ba bức dài một bức ngắn; hai là Uất-đa-la-tăng, Hán dịch là thượng trước y, là y mặc trên hết, hai bức dài một bức ngắn, nay là y bảy điều; ba là Anđà-hội, Hán dịch là Trung túc y, nghĩa là cận thân, tức y năm điều, cũng nghĩa là y chấp tác. Đây là ba y. Đức Như lai đều khiến cắt rọc để để làm điều lá, lấy biểu tượng ruộng lúa, bởi lấy nghĩa sinh ra phước tuệ, hòa chí là thịt, quân là đồng) Chu Sĩ Địch là người đầu tiên xuất gia (Sĩ Địch, người xứ Dĩnh Xuyên, sau khi xuất gia lấy đại pháp làm trách nhiệm của chính mình, ở Lạc Dương Giảng Tiểu phẩm, thường hay chẳng thông, thường khen kinh này là cốt yếu Đại thừa mà dịch lý chẳng hết, bèn tim đến Vu-điền, quả nhiên gặp được Chánh phẩm bản Phạm, sai đệ tử thỉnh đưa về Lạc Dương. Các sư Tiểu thừa ở Vu-điền cho là chư Tăng đất Hán dùng Sách Bà-la-môn làm loạn chánh điển, do đó đốt hủy mà chẳng tổn hại, tức nay là kinh Phóng Quang Bát-nhã) đầu đời Ngụy, Đàm-kha-la bắt đầu truyền giới pháp, lá vàng khuôn ngọc năm thiên bảy tụ (đời Nguyên Ngụy Phật pháp truyền vào đất Hán, giới luật từ Kha-la là đầu tiên, Ba-ladi, tăng tàn, Ba-dật-đề, Đề-xá-ni, Đột-kiết-la là năm thiên, thêm Thâu-lan-già, ác-tác, ác thuyết là bảy tụ) thể của thằng khẩu là lỗi trái (thằng là chánh, lỗi của miệng có bốn: Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, ác khẩu, thân có ba: Sát, đạo, dâm. Trì giới luật có công năng chánh đó, khiến không lầm lỗi) tiết phục làm mạn dịch của soạn, liệt thay thương diễn, thê thê thay sương lạnh, trật trật thay khoa điều (liệt liệt là oai, thê thê là nghiêm, trật trật là thanh, nói giới pháp nghiêm tuấn) chẳng oai mà nghiêm túc chẳng hình phạt mà trị, ở Thần Châu có Sa-môn, Kha-la là đầu tiên (thời Hán tuy có Samôn, mà giới luật chưa hoàn bị) xưa kia cuối thời Hán có An Thế Cao, thời nhà Cao có Khương Tăng Hội đều là kỵ nhân của khu vực xa (Thế Cao là Thái tử của vua nước An-tức. Tăng Hội là Thái tử của vua nước Khương-Cư, cái gọi là phương ngoài mà chẳng ngụ ở người tục. Trang Tử nói: Kỵ nhân là ẩn ở người mà ngang ở trời), học cùng chỗ sâu kín của trời người, đức động khế hợp với quỷ thần (Tôn Hạo sắp cấm dâm từ mà muốn hủy phế, khiến Trương Dục vặn hỏi Tăng Hội, hết ngày mà chẳng thể khuất phục, Thế Cao dạo đến Binh Đình, Thần hồ mới thấy, nhân đó cảm hóa mà bỏ đường ác) đèn như Trí Tham u vận, Tăng Hội như chẳng kịp (Thế Cao biết có túc trái mà hai lần lại đáp trả) chế ra Thùy Văn, Tăng Hội có lẽ hơn đó (Tăng Hội tài biện lập lời Thành Điển). Từ đó về trước, Sư huấn chưa rõ (từ niên hiệu Vĩnh Bình thời hậu Hán đến niên hiệu Xích Ô thời nhà Ngô, tuy có phiên dịch, nhưng chưa lưu truyền tốt đẹp lắm) tường cách mũi nhọn của Tăng Hội, chẳng có ai được môn đó (Tử Cống nói: Tường của Phu Tử vài mũi nhọn, được môn đó là hiếm ít) ở đời Ngụy có Chi Khiêm ở xứ Nguyệt Chi, thọ học ở Chi Lương, Chi Lương thọ học từ Chi Sấm nói rằng: Trong thiên hạ biết rộng chẳng vượt ngoài Ba-chi (vốn là Ưu-bà-tắc ở nước Nguyệt-Chi, cuối đời Hán mới đến Lạc Dương, tinh cứu thành nghề nghiệp, thông khắp dị thư, hiểu tiếng sáu nước, nhiều chỗ thám học) Chi Khiêm là người nhỏ cao đen gầy, mắt trắng mà tròng vàng. Nói là Chi-lang. Chi-lang vàng trong mắt, thân hình tuy thấp nhỏ mà là đãy trí, cuối đời Hán. Lánh nạn về đất Ngô. Tôn Quyền tôn làm Tiến sĩ, Phụ Đông cung cùng Vi Diệu đồng hàng, mà Ngô Chí chẳng ghi chép, bởi sử thần chẳng ngay thẳng (Đông cung tức Thái Tử Hòa, được khen mà phế. Vi Diệu tự là Hoằng tự, ham học khéo thuộc văn, chuyển đổi Thái Tử trung thứ, sau lụy chuyển đổi đến Thị Trung, tu chỉnh Ngô sử chưa xong thì bị Tôn Hạo giết chết). Ở Thục có kinh Phổ Diệu chẳng biết do ai dịch (mười quyển, nhập tạng hiện hành).. lờ mờ chí ngôn, đối với tục của nhẫn dục thì hẳn tạc bính trở ngữ (tạc bính là cán, trở ngữ là dáng chẳng đều nhau. Sở Từ nói: chẳng lường tạc mà Chánh Bính mà cây gỗ phá, như dùng thiện mà ném ác) nghi báng rối ren, chẳng phải hiền của thần đức tôn oai thì không sùng công khắp vật, mà Thục Chí chẳng ghi chép truyện người đó là, bởi họ Lưu muốn làm phản nhà Hán. Vật cũ dấy binh lính ở Ngụy. Giáo của Du Huyền tuy mở mang, động của Nguyên tượng chưa hiển, bèn khiến đời sau những người ghi chép rõ ràng tìm hận (Lưu Bị nhân cuối đời Hán Hiến ba phần chiếm cứ Thục, phía Bắc có thù của Bá Ngụy, phía Đông có địch của Tôn Ngô, chứa để lương thực, huấn luyện binh lính, chiến tranh ngày một cản trở, đâu rảnh mà mở mang giáo pháp không tịch. Lại Trần Thọ Thục Chí nói: Gia Cát sắp mất tại chẳng đặt sử quan, vì vậy không văn mà ghi chép) đầu đời Tấn có Trúc Pháp Hộ, bấy giờ gọi là Bồ-tát Đôn Hoàng (Cao tăng Trúc Pháp Hộ người xứ Đôn Hoàng, tám tuổi xuất gia, sau đến Tây Vực, dốc chí ham học, muôn dặm tìm thầy. Tôn Xước Phương Chi Sơn Cự Nguyên, dịch kinh Chánh Pháp Hoa v.v... đến thời Tấn Tuệ thị tịch tại Thằng Trì) môn hạ có bảy tác giả, đó là đầu tiên dịch Chánh Pháp Hoa, đã định cổ huấn bảo Khương-naluật giảng trao, người phúng tụng tự nhiên lấy làm đẹp. Đến đời La-thập dịch là Diệu Pháp Liên Hoa mà chỗ dịch của Pháp Hộ hơi ngầm tỏa sáng (trong niên hiệu Hoằng Thỉ, La-thập dịch tại vườn Tiêu Dao, ở đời đang lưu truyền hưng thạnh, còn bản Chánh Pháp Hoa hơi ít, nay ở trong tạng, bởi thấy Đại Lộ là chẳng lấy chùy luân làm quý (Văn Tuyển nói: Chùy luân là mới đầu của Đại Lộ, Đại Lộ sao có chất của Chùy luân, thêm băng làm chỗ chứa nước thành, chứa nước thêm nhỏ ở lạnh của tầng băng, Chùy luân là xe sạn cổ. Đại lạc là Ngọc lạc, được hoa quên nghĩa của mộc mạc) môn nhân của Pháp Hộ có pháp thừa (Trúc-Pháp-Thừa nương Pháp Hộ làm Sa-di, tuy trẻ thô mà thần ngộ soi xét cao hơn người. Có dối đến Pháp Hộ, gấp cầu hai mươi vạn tiền, Pháp Hộ chưa đài, năm mười ba tuổi, Pháp thừa ở cạnh thầy, đã nói rằng: Hòathượng đã hứa với người trước, Pháp Thừa hẳn chẳng phải người cầu của cải, sắp trông thấy đạo đức của Pháp Hộ) Tài tuệ nổi bật, Tôn Xước phương khác Vương Tuấn Xung, về đều trẻ nhỏ có soi xét của cơ ngộ (Vương Nhung, tự là Tuấn Xung, người xứ Thái Nguyên, con của Hồn, cùng Nguyễn Tịch kết bạn từ nhỏ đến hai mươi tuổi, cùng được như thời đồng bạn, thường đến nhà mỗ liền đến nhà Nhung, nói với người cha rằng: Tuấn Xung thanh chuộng chẳng phải Hương luân, cùng Hương nói năng chẳng bằng A Nhung.) Trúcpháp-nhã (người xứ Hà Gian, Phỏng Chánh có thứ thuở thiếu thời giỏi ngoại học, lớn lên thấu đạt kinh Phật, tài tư tuấn thiệm, các hiền giả bấy giờ rất mến mộ, giỏi cả soạn thuật) Khương Pháp Lãng (người xứ Trung Sơn, khéo rành giới tiết, dạo khắp các nước Tây Vực trở về) đem nghĩa loại trong kinh Phỏng Luận bàn sách nho, làm ví dụ về sinh giải, gọi đó là cách nghĩa để dạy răn môn học, thường cùng Đạo An, Pháp Thải giảng nói các kinh, đều khéo tận cốt yếu. Môn nhân của Pháp Lãng có Lệnh Thiều, mỗi lần nhập định mấy ngày mới xuất, Pháp Lãng khắc cây làm tượng, như lễ thờ sống bạch pháp tổ tuấn của thần gió. Đối với Vương Đạo thì dùng giản suất, đối với trông đó thì trang kính lấy làm Phong Đạo của Vương Công. Ở đây nói biện lệnh quỷ độc cách vật (Bạch Viễn, tự là Pháp Tổ, Vốn họ Vạn, người xứ Hà Nội. Tài tư thấu suốt, thông minh chẳng ai bằng, mỗi ngày tụng muôn lời, gặp lúc nhà Tấn loạn bèn trốn đến Lũng Hữu, Tần châu. Thứ sử Trương Phụ mến trọng, muốn cho trở về quy phục, nhưng chẳng theo bèn giết, phiên Hán truy điệu. Tôn Xước Đạo hiền luận Phương Chi Kê Khương). Em của Pháp Tổ là Pháp Tộ, đức tài xung đầy thật út của Pháp Tổ (Pháp Tộ cũng có ít vẻ vang bị bác sĩ gạn hỏi mà chẳng đến, năm hai mươi lăm tuổi xuất gia, thấu suốt Phật lý. Thứ sử là Lương Châu Trương Quang vì anh của Pháp Tộ chẳng chịu quy phục, Trương Phụ bèn giết, Trương Quang lại ép bức đến Pháp Tộ, cũng kiên chí chẳng theo, nên cũng bị Trương Quang làm hại) Bạch Cao Tòa là bậc tài giỏi cao xa (Bạchthi-lê Mật-đa-la, người nước Cát Giao, bấy giờ gọi là Cao Tọa, vì Ngài khéo nói pháp. Con của vua nước đó, nhường ngôi vị mà xuất gia vào thời Đông Tấn, dịch kinh Dược Sư, v.v...) Vương Đạo nói với đó rằng: Nước ngoài có quân (vua) một người mà thôi. Thi-lê-mật cười bảo: Nếu khiến bần đạo chỉ như đàn việt làm ngày nay, đâu được đến đây (Kiên Tịch vào niên hiệu Hàm Khương đời Tấn, thọ hơn tám mươi tuổi, an táng tại sườn núi Thạch Tử, sườn núi ở đất Ngô, về sau xây chùa) Chi Độn thường sai người đến Trúc Tiềm mua núi, tức ngang bên cạnh tiểu lãnh của Lệ Châu (Chi Độn tự là Đạo Lâm, họ Quan, người xứ Trần Lưu, thuở bé đã thần tuấn, thông minh tài giỏi, Vương Mông rất mến trọng. Sau đến Tiểu Lãnh ở Lệ Châu lập chùa, về già, ra Sơn Âm giảng kinh Duy-ma, Hứa Tuân làm Đô giảng) Trúc Tiềm nói: Muốn lại liền cấp, đâu nghe Sào Hứa mua núi mà ẩn (Trúc Tiềm, tự là Pháp Thâm, họ Vương, em của Đại tướng Quan Đôn đời Tấn, tôn thờ Lưu Nguyên Chân ở Trung Châu làm thầy, Nguyên Chân có tài nổi tiếng, về sau ẩn tại núi Diễm, người đương thời tìm vết hỏi đạo). Về sau Chi Độn gửi thư cho đạo nhân ở Cao-Ly, nói: Thượng tọa Trúc-Pháp-Thâm, đệ tử của Lưu Công ở Trung Châu, thể tánh trinh kỳ, đạo tục luân tông đến chỗ kinh ấp, duy trì lưới pháp, trong ngoài đều chiêm ngưỡng thật là bậc thầy mở mang đạo pháp. Dốc đem đạo nghiệp giúp sức, chẳng nạn trần tục, khảo thất núi Chằm tu đức an nhàn, nay ở tại Ngang Sơn của huyện, dẫn hợp đồng đạo, luận Đạo nói nghĩa, lầu cao rỗng rang, xa gần có vịnh. Tôn Xước sánh Trúc tiềm với Lưu Bá Luân, gọi là thể của khoáng đại đồng. Bấy giờ, Trúc-Pháp-Hữu ở Ngang Sơn theo Pháp Thâm thọ học A-tỳ-Đàm (một trăm quyển) qua một đêm bèn tụng Pháp Thâm bảo: Qua mắt thì tụng thuộc xứng với người xưa. Nếu đấng Năng Nhân tái hiện ở đời Đại Tấn này hẳn lấy ông làm một trong năm trăm người (năm hai mươi bốn tuổi, Pháp Hữu bèn khéo giảng nói, sau lập chùa Nam Đài ở thành Diễm Huyện) ở đời Tấn Thành có Khương Tăng Uyên, Khương pháp sướng, Chi Mẫn độ đều qua sông (Tăng Uyên vốn người Tây quốc, sinh tại Trường An, xuất gia làm tăng, thường đi khất thực tự sống, đức Vượt hơn Pháp Sướng và Mẫn Độ cùng Ân Hạo đối hỏi điển tịch nội ngoại, Hạo đuối lý chẳng thể đáp). Pháp Sướng thường nắm đuôi cờ đi, mỗi lúc gặp khách tiếng tăm liền bàn luận cả ngày, Dữu Nguyên Quy nói: Đuôi trần này vì sao thường còn? Pháp Sướng bảo: Liêm là chẳng cầu, tham là chẳng cho, cho nên thường còn, trước thuật nhân vật thỉ nghĩa (Chi Mẫn Độ soạn thuật dịch kinh lục, nay hiện hành ở đời) Chi Độn mới đầu đến kinh đô, Vương Mông rất quý trọng, nói với mọi người rằng; Công đức nhỏ nhiệm chẳng giảm phụ tự. Lúc Ân Dung cùng vệ trân giao thời, cho rằng đó thần tình thấu suốt, Hậu Tấn chẳng có ai kế tiếp. Đến lúc gặp Chi Độn khen ngợi coi trong người này (nhược nhân là người này gọi là trân quý) mỗi lúc giảng Chi Độn khéo nêu Tông hội, mà chương cú hoặc có chỗ sót, bây giờ làm Tông văn là chỗ sơ sài. Tạ An nghe liền bảo: Đây là ngựa chân tướng của chín phương. Lược đen vàng mà lấy ngựa giỏi (Trang Tử nói: Tướng của chín phương là Chân thiện, Hoài Nam Tử, Tần Mục Công vời Bá Lạc sai tìm kiếm ngựa, ba tháng sau trở lại nói: Đã được, tại Sa khâu, Mục Công hỏi: Ngựa gì vậy? Đáp: Đực mà vàng, kịp đến ly mà cái, Mục Công tức giận bảo: Chỗ ông tìm kiếm mầu lông đực cái chẳng biết. Bá Lạc bùi ngùi nói: Một đến đây đã, chỗ xem là thiên cơ, được tinh mà quên thô, trong mà quên ở ngoài, thấy chỗ thấy mà quên chỗ chẳng thấy. Ngựa đến mà quả nhiên ngựa của thiên hạ) sau ra Lệ Châu ở Sơn Âm giảng kinh Duy-ma. Hứa Tuân làm Đô giảng. Chi Độn giải thích một nghĩa, chúng cho rằng Hứa Tuân không chỗ chỉ nạn, Hứa Tuân bày một cật nạn cũng cho rằng Chi Độn chẳng thể giải thích (thế thuyết Hứa Tuân tự là Huyền Độ ưa thích dạo sông núi, Thuyết bèn lên Thiệp ẩn hang sâu Vĩnh Hưng, thường khiến bỏ sót của chư hầu bốn phương. Huyện Sơn Âm ở Việt Châu, tức Vương Hữu Quân Lan Đình khúc thủy ở đây, có thành nhỏ của Việt Vương Câu Tiễn hiện còn) Ai Đế nêu ra kinh đô Vương Mông sớm dựng mấy trăm lời, cho rằng Chi Độn chẳng thể chống lại. Chi Độn từ từ bảo, Bần đạo và Quân Cách biệt đến nay đã nhiều năm. Quân nói rõ chẳng tiến xa. Hy siêu hỏi Tạ An rằng: Lâm Công bàn luận sao giống như Kê Trung Tán (Hy siêu, tự là Gia Tân, Hoàn Ôn Ký thất tham quân, thân hình thấp bé có nhiều cơ biện. Kê Khương làm Trung tán đại phú) Tạ An nói: Cố gắng lo lường được đi. Lại hỏi: Đối với Ân Hạo thế nào? Đáp: Gắng gỏi luận biện sợ ân rãnh rỗi, Chi siêu nhổ thẳng lên, Ân có đức thẹn, về sau Siêu gửi thư cho bạn thân nói: Pháp sư Lâm thần Lý Thông Huyền nỗi bật riêng ngộ, mấy trăm năm nay tiếp sáng Đại Pháp, khiến chân lý chẳng dứt, chỗ một người mà thôi, Chi Độn lúc nhỏ cho rằng gà con không có mạng sống, vị thầy tranh luận lại chẳng thắng, sau khi chết bị hình luật ném trứng dưới đất, vỏ vỡ ra gà con bước đi, Chi Độn mới cảm mà ăn chay, (Chi Độn cùng thầy luận bàn rằng trứng sống dụng chưa đủ, giết đó không tội, vì thì Chi Độn tài tuệ biện bác nên thầy chẳng thể thắng, bèn hiện thân chết, ném trứng để giác ngộ đó). Lễ nói: Quốc quân xuân chẳng trái đầm, đại phu chẳng bưng bít các sĩ chẳng lấy… trứng hư. Chi Độn như mới đầu là chưa biết. Đã biết vậy thì chẳng trái nhân, đâu đợi sự dạy răn của thầy (bởi thầy thấy trước đó còn chưa ngộ) có người bỏ sót ngựa, Dưỡng bảo: Tôi muốn nó thần tuấn nên lại nuôi dưỡng nó, có người tặng hạc, bèn thả rồi bảo: Mày là vật xung thiên, sao làm vật để vui tai mắt. Trước trải qua núi Diêu ổ, đến nơi sinh thần riêng trở về trong ổ. Hoặc có người hỏi ý đó, đáp: Trước kia Tạ An mấy lần lại gặp gỡ liền chuyển dời cả mười ngày, nay chạm tình khắp mắt, không gì chẳng hứng tưởng, Tôn Xước so sánh các Hướng Tử Kỳ (Hướng Tú Tự là Tử Kỳ) vì nhã chuộng phong hảo đồng với Lão Trang. Vu-Pháp-lan (người xứ Cao Dương, thuở trẻ có tiết tháo khác thường) Ẩn ở hang hốc, bấy giờ băng tuyết rất nhiều, có một con hổ vào phòng, Pháp-lan thần sắc không đổi, sau đến Giang Đông, sắp tới Tây Thành đến Giao Châu, thị tịch tại Tượng Lâm. Chi Độn làm bài tán rằng: Dòng họ Vu Diêu thế gồm rõ Huyền Chỉ, vui ẩn núi đầm, rõ thuần hổ dữ. Tôn Xước phương ở Nguyễn Tự Tông, đều dùng cao thượng khác mọi người, học trò của Vu-Pháp-lan có Vu-Pháp-khai và Vu-Pháp-Thúy, học trò của Vu-Pháp-khai có Vu-Pháp-oai suốt ba đời đều nổi tiếng, Pháp Khai từng cùng Chi Độn luận nghĩa tức sắc không, bởi kình địch của rồng hổ (Lô hỏi sao im lặng, trình bày pháp khai cật nạn Cao Bình, Hy siêu tuyên thuật, Đạo lâm giải thích đều truyền ở xuất vậy) Tôn Xước vì Pháp Oai làm bài tán rằng: Dịch nói ngựa bạch (Văn của quả Bí) Thị Viên văn vẻ, ban như tại trường, phân nhã thuần lạo, vu oai phát rõ, rõ ràng xét xa, có danh khiết đó, không thẹn lòng ân, Pháp Khai từng sai Pháp Oai ra đô, trên đường ngang qua Sơn Âm tính toán, Chi Độn đang giảng
Bát-nhã, sáng sớm hôm ấy đến chỗ nêu bày công kích cật nạn, Pháp Oai đến quạu quả nhiên chẳng nghĩ ra kế đó, mới qua lại vài phen, Chi Độn kéo lui, nhân đó gắng tiếng bảo: Ông sao đủ khả năng mà nhận người chuyển gửi lại ư? Sau có sắc chiếu nêu giảng kinh Phóng Quang, Pháp Thúy theo Pháp Khai qua sông, tịch ở Giao Chỉ (đất của Nam kích, Thông Dự nói: Người nước kia đứng hai ngón chân cái giao nhau) Hy Siêu vẽ tượng Chi Độn, khen rằng: Anh anh thượng nhân, thức thông lý suốt, chất sáng ngọc ngời, đức âm thơm tỏa. Tôn Xước sánh với Nguyễn Oai. (Nguyễn Hàm tự là Trọng Dung, nhà nghèo bảy tháng bảy ngày đều phơi áo đẹp, Nguyễn Hàm đang ở trong sân phơi Độc Tỵ Côn, có người hỏi rằng đâu thể khỏi tục) vì đó Cao Phong nhất trí. Ở núi Diễm có Trúc Pháp Sùng (chẳng rõ là người xứ nào, từ thiếu thời vào đạo, chỉ chuyên một kinh Pháp Hoa, sau soạn thuật nghĩa sớ bốn quyển lưu hành) Sư có đến Lộc Sơn ở Tương Châu (Nay là Đàm Châu), thần núi hóa thành Đại Nhân, đến Pháp Sùng cầu thỉnh giới, thần núi bèn cúng núi làm chùa, ở đó thời gian ngắn, trị Tương sĩ, sau trở lại núi cát hiện của núi Diễm dựng am tranh ở, uống nước suối mà thôi) học trò của Trúc Tiềm có Trúc Pháp Nghĩa, chợt mắc bệnh tim, chỉ thành xưng niệm Quán Thế Âm mộng thấy bị người mổ ruột, bệnh ấy bèn lành (năm mười ba tuổi Pháp nghĩa gặp Trúc tiềm, lấy làm lạ bèn khuyên xuất gia, đi khắp nơi nghiên cứu các kinh điển, cửu thiện Pháp Hoa: Sư thị tịch vào niêu hiệu Thái Nguyên thứ năm thời Đông Tấn) Phó Lượng nói: Tiên Quân tôi cùng Nghĩa Công đi đến đâu thường nghe Quán Âm thần dị, bất luận lớn nhỏ đều nghiêm túc, Hiếu Võ mời ra kinh đô giảng pháp (Hiếu Võ con của Văn Giản Đế đời Tấn tên là Xướng Minh ở ngôi được hai mươi bốn năm thì băng) người xưa xuất gia lấy họ thầy, Đạo An thọ nghiệp từ Phật-đồ-trừng, Phật-đồ-trừng họ Bạch, Đạo An cho rằng thầy chẳng hơn Phật, bèn lấy chung họ Thích làm họ, nên Sa-môn ở Trung hạ (Trung Hoa) xưng họ Thích là từ Đạo An là đầu tiên. Ngữ nói: Học chẳng bắt chước Đạo An nghĩa chẳng trúng nạn. Tập Tạc Xỉ gửi thư cho Tạ An nói: Vừa rồi gặp Thích Đạo An, hẳn bậc thắng sĩ phi thường, thầy trò vài trăm vị, trai giảng chú giải mỏi mệt, không kỹ thuật biến hóa có thể dùng mê hoặc tai mắt người thường, không dốc phạt trọng oai có thể để sửa sự so le, của quần tiểu, mà thầy trò nghiêm trang tự kính nhau, ích lợi đẹp xinh xưa nay chưa từng thấy, người ấy các sách nội ngoại đều lược xem qua. Âm Dương Kế số cũng đều thông hiểu, diệu nghĩa kinh Phật hẳn là chỗ thể hội, lật lại trù tính không thể sánh vai. Hận dưới chân chẳng đồng ngày mà gặp, Tuệ Viễn lúc đầu là nhà nho, tuổi ngoài hai mươi mới gặp Đạo An ở Thái Hành thuộc Hằng Sơn, vui mừng nói: Đây thật là thầy của ta! Thường muốn thống nhiếp giềng lưới, lấy đại pháp làm trách nhiệm của mình, suốt cả ngày đêm, bần lữ nhiều thiếu sót, Đàm Dực thường cung cấp chi phí đèn dầu, Đạo An nghe vậy bảo: Đạo sĩ thật là biết người. Thường những ngày khác, Đạo An khen rằng: Khiến dòng Đạo tỏa Đông Đô là do Tuệ Viễn này. Về sau Tuệ Viễn đức lớn đã rõ bày, tiếng thơm tỏa khắp, nước ngoài đều tôn xưng đất Hán có đạo sĩ Đại thừa, từng hướng về Lô Sơn phương Đông, đốt hương cúi đầu từ xa Chí thành cung kính, khi La-thập vào Quang Trung, Tuệ Viễn gửi thư thăm hỏi. La-thập đáp thư chương cuối nói: Kinh chép: Sau đời Mạt ở phương Đông có Bồ-tát Hộ Pháp, cố gắng thay nhân giả khéo mở mang sự nghiệp đó, ân trọng kham qua kinh châu đến núi, cùng Tuệ Viễn qua khe phía bắc, bàn nói về Dịch, cảnh dời chẳng nhọc, Lô Tuần lúc đầu cát cứ tại Giang Châu, vì cha Phúc đồng làm thư sinh, khuyên vậy dốc cựu có người can ngăn rằng: Lô Tuần làm quan nhà nước, cùng đó thân hậu được chẳng nghi ư? Tuệ Viễn bảo: Trong Phật pháp ta không có tâm lấy bỏ, há chẳng phải chỗ người hiểu biết xét xem, đến lúc Tống Võ khảo xét Lô Tuần, mọi người nói Viễn Công vốn dốc lòng giao du với Lô Tuần. Dụ nói: Viễn Công là người của Thế Biểu, tâm không đây kia, bèn mang thư đến và gởi tăng tiền gạo, Tuệ Viễn giảng Tang Phục Ký, Tông Lôi đồng thời cầm quyển (Tông Bính Lôi Thứ Tông) về sau Thứ Lôi soạn thuật nghĩa sớ, mới đầu xưng là họ Lôi, Tông Bính giễu cợt bảo rằng: Xưa cùng chung túc hạ nơi Hòa-thượng thích tận mặt thọ nghĩa này, nay bèn ghi đầu quyển xứng là họ Lôi ư? Tuệ Trì thân cao tám thước, thường mang guốc, mặc áo nạp ngắn nửa ống chân, sắp đến đất Thục, người anh ngăn cản rằng: Người đời muốn đoàn tụ, riêng ngươi ưa xa lìa là thế nào? Tuệ Trì đáp: Nếu vướng kết tình ái nhóm tụ gốc thì chẳng nên xuất gia, nay đã cắt dục hướng tâm về đạo, phải lấy phương Tây làm kỳ hẹn, có bạn đồng học là Tuệ Vĩnh lên trên đảnh Tây Lâm lập một phòng thất riêng muốn tham thiền, liền đến ở đó, thường có một con hổ ở chỗ thất, khách đến thì xua nó đi, một hôm gặp Hà Vô Kỵ ở Hổ Khê. Tuệ Viễn theo đồ chúng hơn trăm vị trang nghiêm mà chỉnh túc, riêng Tuệ Viễn mặc áo nạp mang giày cỏ cầm gậy bưng bát từ dưới gốc thông an nhiên bước đến. Bấy giờ ngọn gió mát rải phần nhiều từ Tuệ Viễn, môn nhân ở đó có đức hạnh là từ Đạo tổ, Tăng thiên, Đạo Lưu là các vị giàu có tài tư, Tuệ Viễn từng bảo với Đạo Tổ, v.v... rằng: Phàm dễ ngộ hết như các ông thì tôi không còn phải buồn lo với hậu sinh (Khổng Tử nói: Nghe nghĩa chẳng thể dời là sự lo ngại của tôi) sau đó Tăng thiên, Đạo Lưu qua đời. Tuệ Viễn nói: Các vị này đều là bậc tài nghĩa, anh mậu, thanh ngộ, ngày một đổi mới mà khiến họ đi xa như vậy, một bề đau xót! Có Tuệ Yếu lo trong núi không khắc lậu, mới đến trên nước dựng hoa sen mười hai cánh, nhân sóng chuyển mà định mười hai thời, lường cảnh không sai (lại thường chim oanh võ bằng gỗ khiến bay vài trăm bước, có Trương Sơn Nhân, vào niên hiệu Quảng Chánh đến trước điện Thục Chủ dựng lầu Hồn Nghi, rót thủy ngân vào đó, sai người gỗ nắm tấm bảng hai thời, tùy thủy ngân chuyển đối điện mà báo thời, khắc bóng chẳng sai, Trương Sơn Nhân tên là Tư Huấn, vốn người Toại Xuyên, sau vào kinh, hệ Tự Thiên Giám) có Tăng Triệt khéo giỏi ghi viết thường đến Sơn Nam vin cây thông mà thổi (phía nam Lô Sơn) khi ấy gió hòa xa đến, chim muông kêu buồn, siêu nhiên có thắng khí, trở về đem hỏi Tuệ Viễn: Luật cấm đàn sáo ca múa, vậy một ngâm một thổi có được làm chăng? Tuệ Viễn đáp: Vì loạn ý ngôn nêu đều trái pháp. Tăng Triệt nghe vậy bèn thôi, có Côni Đạo Nghi, thấy ở Cao-ni truyện (Ni truyện bốn quyển) bàn nghị là cho rằng học trò của Phật-đồtrừng có Dự Chương Kỹ Tử (tức là An Công), học trò của Đạo An có Côn Lam Tông Bích (Tông Bích mỹ vương ra ở Côn Sơn, Lam Điền là Viễn Công) học trò của La-thập có Hồ Liên Phủ quỹ (tức Đạo sinh Tăng Triệu v.v..., Ân Hồ, Hạ Liên, Chu Phủ Quỹ) học trò của Tuệ Viễn có Tê Tượng Xỉ Cách
(tức Đạo Tổ, v.v... là ngà voi, da tê), học trò của Tuệ Quang có Khổng Thúy Vũ Mao (Tuệ Quang là Thùy Dương, người ở Định Châu, nương Phậtđà mà xuất gia, tuấn dị lãng ngộ tập học các kinh bèn vì người nói, sư vì xuất gia càng thêm dĩnh tuấn, người đời bấy giờ gọi là thánh Sa-di, rất công kích Luật bộ, tạo sớ chú kinh rất nhiều, học trò theo học đông như rừng, nhập thất có chín vị, trong đó Đạo Huy là đứng đầu, nho sinh phùng duyên) học trò của Huyền Tráng như trầm Đàn Lan tuệ (Khuy Cơ, tự là Hồng Đạo, soạn trăm bản sớ) cách thánh càng xa, đạo đức cùng thấp, nghệ hành mỹ (đẹp) (ở đời Tấn Tống, phần nhiều tu thiền Quán, người đắc đạo nhiều, thời Tùy Đường đã xuống, người tuệ học nhiều, nghệ giải mỹ. Đắc Đạo ít), chẳng phải cá của suối sắp cạn, mất chỗ sông hồ tại nhiều sủi bọt đó ư? (ruồng bỏ giáo mà nương miên man, tùy Tuệ giải dùng bạc bẽo). Người Tống người Ngụy, Nam bắc hai đô (Tống dòng họ Lưu đóng đô ở Giang Nam. Ngụy dòng họ Nguyên đóng đô ở Lạc Ấp) Tống phong còn Hoa, Ngụy phong còn thuần. Thuần thì ít mà y cứ đạo, hoa thì nhiều mà dạo ở nghệ (Cao Tăng thời Tấn Tống nghệ giải tỏa sáng một thời, mở mang giáo pháp, nên gọi là Hoa. Cao tăng thời Nguyên Ngụy, dùng thiền quán hạnh nghiệp y cứ đạo nên gọi là thuần, nhưng tại người mà chẳng tại gì khác) làm sao biết quán ư? Bắc thì cành lá sinh ở đức giáo, Nam thì cành lá sinh ở loạn hành. Xưa kia Tạng Thị tể Tất Điêu thị, dùng Đại Thái Phồn phân biệt biết sự hơn kém của Tạng Thị (Tạng Thị là Lỗ Đại Phu, Tất Điêu khai là Lỗ Hiền Nhân, tể là Gia tể, đời Tạng Thị chưa nhóm rùa của Đại Thái, văn trọng Hiền ba năm một mười, Võ Trọng hai năm một bói, trở xuống một năm một bói. Giản là ít, phồn là nhiều, biết ưu thắng yếu kém) nay thì riêng chẳng như đối với bằng ở tượng (Hề là sao, Tạng Thị dùng tượng của Thái Quy mà biết hơn kém, sao chẳng dùng thuần hoa mà biết sư huấn) nhà của văn chương, Khuất Tống Dương mã thay nhau noi theo (Khuất Bình, Tống Ngọc, Dương Tử Vân, Mã Trường Hương đều là những bậc sĩ biên soạn văn chương) tuy muốn nhanh chóng mà khó đều chân, nên đạo đức ngôn hành xưa nay khác đời, quyết như Pha-đà (dáng vẻ chẳng đều) xâm vi vậy (dáng thứ lớp), đẽo đá lạ thành vật dụng đẹp là khả năng của thợ giỏi. Dựng gỗ quý làm nhà rộng là do Triết tượng (thợ khéo). Dùng thạnh đức trao truyền chuyên môn là dạy răn của nhân sư. Nên chim có thể chọn cây, cá có thể chọn suối. Bề tôi có thể chọn vua, đệ tử có thể chọn thầy, phàm năng làm tôi, mà cầu năng làm vua, chẳng năng làm con mà cầu năng làm cha, chẳng năng làm đệ tử mà cầu năng làm thầy, đó là khó vậy (đo mình lường việc có thể) nên làm người ở tha thứ mình. Nhưng cha con thiên thuộc. Đó có chẳng tượng (đạo cha con là thiên tánh, như Võ… chẳng tượng) vua tôi quốc thể, nên có tượng chẳng tượng, Nguyên khải của bạc bẽo làm tượng, bốn hủy làm chẳng tượng) thầy trò nghĩa hội, đâu được có chẳng tượng ấy ư? Như Thuấn Sinh Quân (Thánh Sinh Võ Vương cũng thánh là tượng của cha con) Đình Kiên làm tôi nhà ngu, Phi Liêm làm tôi nhà Trụ, Hoan Đâu là nhà tôi nhà Nghiêu, Long Phùng làm tôi nhà Kiệt, vua tôi tượng chẳng tượng (Đình Kiên là Cao Đào cùng Ngu Thuấn làm tượng, Phi Liêm cùng Trụ làm tượng. Hoan Đâu cùng Nghiêu, Long Phùng cùng Kiệt là vua tôi chẳng tượng,) học trò của Trọng Ni, nhan mẫn chuộng nhân nghĩa. Học trò của Quỷ Cốc, Tô Trương chuộng ở dối trá là khắc tượng. (Tô Tần, Trương Nghi đều bắt chước Quỷ Cốc Tử, học thuật của Tung Hoành giáp hạp) nên học trò của Trọng Ni, đồng tử tam xích còn hổ thẹn nói Bá, xưa kia Thích Công đạo hành đến Quan Hữu, Lô Sơn hóa khắp ở Giang Tả, Pháp Thải lương trực ở đời Tấn (Pháp Thải và Đạo An đồng hàng, Đạo An đến Tương Dương. Hoàn Ôn đón rước, thân cao tám thước, phong thứ khả quan, cùng Pháp sư Đạo Hằng luận nghị mà phá đó, xây chùa Ngõa Quan, Vương Tuân, Tạ An thường lễ kính) Đạo Sinh quả đoán ở thời Tống (nghĩa là quyết định nói tất cả chúng sinh đều được thành Phật ở đời Tống). Phàm tượng nào mà trải xem qua trước, ai năng chẳng do nhà của đạo đức mà đến danh lớn ư? (Dương Hùng nói: Thầy là mô phạm của người chẳng mô (khuôn) chẳng phạm (phép) thì chẳng thể tôn làm thầy) Lễ nói: Khéo ca khiến người kế tiếp tiếng đó, khéo dạy là khiến người kế tiếp chỉ đó, nên chẳng thể kế tiếp bậc thánh dòng họ Thích mà có thể kế tiếp quân tử của dòng họ Thích, sao chẳng do đạo của thầy ư? Phàm từ Phật-đồ-trừng đến Đạo An, từ Đạo An đến Tuệ Viễn, từ Tuệ Viễn đến Đàm Thuận, Từ Đàm Thuận đến Tăng Tuệ, suốt năm đời, giá trọng Đế Vương, gió động bốn phương, sự nêu sử sách (thư nói: Bốn phương gió động chỉ đây mới dừng) đó hoặc lập đức (nghĩa là Hành giả của thiền quán) lập công (tức phiên dịch lưu truyền) lập ngôn (giảng nói soạn thuật) làm người của thiên hạ, Tăng Hội Chi Độn làm người của thiên hạ mà một Hội một Độn, sau đó miệt văn, nhưng có chí ở nhiều đời là, hoặc màu xanh có ra từ mẫu Lam, hoặc băng có ra từ nước, chỉ là hiền của một phương, chưa quả quyết làm hiền của thiên hạ. Nên làm đệ tử là do ngại thầy chẳng được như Đạo An, Tuệ Viễn. Làm thầy cũng lo ngại đệ tử chẳng đến như Đạo An Tuệ Viễn, phàm chuông trống ở trong cung, tiếng vang ra ngoài, Huyền Tượng ở trên trời mà ánh sáng xuống dưới, cầm sắt tại ngự, tri âm khó muộn, băng tuyết mang chở để vết sao ẩn (trên đây dụ cho việc tốt ẩn ở trong, Quang Hoa bày ở ngoài, hẳn có vết tích). Như kia đức hạnh cầm nắm, nói nín tin thời (đã chứa đức hạnh chẳng nói, mà người tự tin, như đào lý tự có hàng lối) Tuy bờ cao đã thành hốc, Thông Bách đã khô mà Hoa huy chẳng xấu, Dương Dương thay! Đầy vậy thay! (Dương Dương là khen đẹp) năm của Tào Mã (thời Ngụy Tấn) kinh luận quyền dư, nguồn nguồn dòng lẫn lộn (giáo pháp mới đầu truyền đến như nước đục lẫn lộn chảy tràn chưa rộng) người tuyên xướng chỉ bao gồm đại nghĩa, thưởng vị Huyền Chỉ, đến chỗ mổ xẻ danh tướng, không có du cứ (võng là không du là chỗ, giáo văn thiếu nhiều) há chẳng phải chỗ làm thanh giáo chưa hoàn bị hay sao? An Công lúc đầu thấy dịch các Tiểu luận, hớn hở vui mừng, cho rằng may thấy hoàn toàn ba tạng, mà chưa biết chỉ là thương minh quyến quái (quyến quái là bờ ruộng, câu từ là dụ cho chỗ thấy đó. Thương minh là dụ cho chỗ chưa thấy) tuy bậc thượng sĩ mượn giải thích để ngộ chỉ, mà bên trong thì thật chưa nhiều. Thời Bắc Lương, Phù-đà-bạtma dịch A-tỳ-Đàm Tỳ-bà-sa (Hán dịch là Giác Khải, người Tây quốc, Mậu xứ con của Mông Tốn thỉnh dịch tại Cô Tang một trăm quyển) học giả trút sáng tràn lan đó như không bờ ven. Thời hậu Tần Phật-đà-da-xá rất giỏi Đại Tỳ-bà-sa, thời bấy giờ gọi là Xích Tư, (Hán dịch là Giác minh, người nước Kế-tân chủng tộc Bà-la-môn. Năm mười ba tuổi theo thầy mỗi ngày tụng ba mươi ngàn từ, tụng kinh Đại Tiểu thừa mấy trăm vạn, tánh tình đơn giản v. v… chẳng phải chỗ chư tăng gặp, La-thập đến Sa-lặc rất tỏ vẻ trọng hậu, từ Quy-tư đến Trường An, dịch kinh Thập Trụ, Đại Tỳ-bà-sa, v.v... Diêu sảng nghi chỗ tụng đó, khiến tụng ở Khương tịch dược phương có năm mươi ngàn từ, hai ngày tụng, sau đó đáp lại chẳng nhầm một chữ) Tỳ-ma-la-xoa giỏi về Thập tụng, bấy giờ gọi là Thanh Nhãn (Hán dịch là Vô Cấu Nhãn, người nước Kế-tân, khổ tiết luật tạng, cùng gặp La-thập, La-thập kinh lễ tôn là thầy, dịch luật Thập Tụng thành sáu mươi quyển, thị tịch tại chùa Thạch Giản ở Thọ Xuân. Bấy giờ, gọi là Thanh Nhãn Luật sư) thời Đàm Thỉ Túc Ngụy, ở thời đó gọi là Bạch Túc A-luyện-nhã (Đàm Thỉ đi chân chẳng giẫm đất, Luyện-nhã tức là Tăng, vô tránh là nghĩa tịch tĩnh) Da-xá lúc ở Sa-lặc làm thầy La-thập, sau đến Cô Tàng. Nghe La-thập bị Tần làm ô giới bảo rằng: La-thập như tấm lụa đẹp, làm sao có thể để cho vào trong rừng gai nhọn ư? (Diêu Hưng có bảo La-thập rằng: Đại sư thông minh siêu ngộ, trong thiên hạ chẳng có người thứ hai, một mai qua đời sau, làm sao có thể để cho pháp chủng không được nối dõi? Bèn dùng mười người kỹ nữ ép bức khiến cho nhận chịu. Từ đó trở đi chẳng ở tăng phòng, sống riêng nơi mái chùa, mỗi lúc đến giảng nói, trước thường thí dụ như trong bùn dơ mọc hoa sen, chỉ nên hái sen chớ lấy bùn dơ) La-thập nói với Tần chủ rằng: Hể muốn giảng nói giải thích giáo pháp vô thượng nên khiến văn nghĩa lý thú viên thông. Bần đạo tuy là diệt tụng văn đó mà chưa hiểu rành lý đó, chỉ có Da-xá là người đạt sâu kinh giáo, hiện ở tại Cô Tang, xin ban chiếu thỉnh, nói một rõ ba, sau đó ghi chép khiến lời huyền chẳng rơi lạc, lấy làm tin tưởng ngàn năm. Diêu Hưng bèn thỉnh Da-xá, Daxá cười bảo: Minh chỉ đã ban, liền nên ghi chép, Đàn Việt đãi sĩ đã hậu, thoát như La-thập hiện xứ thì chưa dám vâng mạng, Diêu Hưng ngợi khen sự cẩn trọng đó, lại ban sắc chiếu giáo dụ, cho đến buồn thay Tấn giết Đậu Độc. Trọng Ni chẳng qua sông (Khổng Tử từ nước Vệ sắp đến Tấn, tới sông, nghe Triệu Giản Tử giết Đậu Minh Độc và Thuấn Hoa, bèn đến bên sông mà than rằng: Đẹp thay nước mênh mông thay! Phàm Khâu ta chẳng qua mạng này. Tử Cống hỏi tại sao, đáp là Đậu Độc Thuấn Hoa, giản từ chưa đắc chí phải đến hiền đại phu của Tấn Triệu. Nay giản tử giết chết, mổ thai, đốt rừng thì kỳ lân chẳng đến, úp tổ phá trứng thì phụng hoàng chẳng liệng v.v... bèn xoay xe trở lại chẳng qua) Tần độc hại La-thập, Da-xá khước từ mà chẳng vào nước. Há chẳng phải hại một hiền mà các hiền chẳng ký (ký là đến) vui đùa một đức mà các đức sắp lìa ư? Đầu niên hiệu Hoằng thỉ đời Ngụy Đồng Thọ dịch Tam Luận (Trung Bách,
Trung Quán, Thập Nhị Môn) người mến chuộng Không môn tìm đến tấp nập, sau dịch Thành Thật, người giỏi về Pháp tướng lại nhóm họp đông nhiều. Thời đó lấy làm cứu sướng danh số, chẳng gì hơn luận này. Mới đầu La-thập bảo Tăng Duệ giảng, Duệ nói rằng: Trong tranh luận này có bảy xứ phá tông A-tỳ-đàm mà tại ngôn nhỏ ẩn, nếu chẳng hỏi mà hiểu thì đáng gọi là anh tài, Tăng Duệ mở bày sâu mầu quả thật chẳng hỏi La-thập. Lathập khen rằng: Tôi truyền dịch kinh luận được gặp ông, không hề tiếc gì (Tăng Duệ người xứ Trường Lạc, Ngụy Quận nương pháp sư Tăng Hiền làm độc tử khiêm hư không mẫn, giúp La-thập dịch kinh, khó nhiếp oai nghi, hoằng tán kinh pháp, thường hồi hướng hạnh nghiệp ấy nguyện sinh về An Dưỡng, ngồi chẳng xoay về lưng phía Tây, lúc sắp chết tắm gội đốt hương xoay về hướng Tây chắp tay an nhiên mà tịch) hoặc gọi là học trò của La-thập có bốn vị thánh là Đạo sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ là thượng thủ, tinh nan thì Tuệ Quán, Tăng Triệu bậc nhất, hoặc gọi là mười triết thì thêm Đạo Hằng, Đạo tiêu (Đạo sinh, Tăng Triệu, Đạo dung, Tăng Duệ, Đàm ảnh, Tuệ nghiễm, Tuệ quán, bản truyện không ghi danh, Bằng là có Đạo bằng ở Nam Tề, chẳng phải học trò của La-thập, có Tăng khế rất tuấn tú, sợ là nhầm chữ) mà Đạo Hằng, Đạo Tiêu xếp vào tám vị, còn phụ giúp tài của Lượng (Đạo Hằng, người ở Kinh Triệu, chín tuổi xuất gia, ẩn sĩ Trương Trung khen rằng: Đứa trẻ này có tướng vượt hơn người, ở tục thì có công lao phụ chính, xuất gia thì có đức của sáng hiển, tôn thờ mẹ kế rất hiếu thuận, rộng thông minh thư, giúp La-thập dịch kinh, Đạo Tiêu cũng nhã có tài lực, đều có công trợ giúp) có thể ở
Vương Tá, Diêu Hưng chuyên việc kinh luận, dùng địa vị của Nham Lang vàng tía cưỡng ép hai hiền, tuy bức Bá oai mà rốt cuộc chẳng làm bề tôi. Người chuyên việc hiển vinh lấy chiếu cỏ ăn trữ làm bay chạy (Dụ như chim thú chẳng thể cùng đàn) người mến vị hư huyền lấy áo ăn thóc làm gông cùm (như hy sinh của vào triều) mà Y Duẫn Lã Vọng cầu làm bề tôi (Y Duẫn tướng nhà Thang, Lã Vọng là Thái Công, bề tôi của Võ Vương) Biện tùy chuyên việc tỏ sáng đều là nhường chủ (Nghiêu Thiền vị mà chẳng nhận) há chẳng mỗi mỗi trái phản tốt xấu, khác vinh khổ! Như Đạo Hằng, Đạo Tiêu mà còn lấy hình hài nghịch lữ, đâu đoái hoài danh khí. Vì vậy tiếp gặp của gió mây, cắt ái của quân thân, nỗi trôi ngũ hồ mà chẳng làm khó (Phạm Lãi từ Việt Vương Câu Tiễn cưỡi thuyền con mà trôi nổi Ngũ Hồ, vua dùng vàng đúc vời gọi mà chẳng trở lại) Nhảy qua biển xanh mà chẳng là xa (Lỗ Liêm nói là: Thà chìm dưới biển xanh mà chết, chẳng tôn thờ chủ vô đạo) kia cứ khư khư, Tần chỗ nào mà đạt đến ư? Khiến thời Đường, Ngu Nguyên Khải tương xỉ (Bát Nguyên Bát Khải là tôi hiền của Nghiêu, Tương Xỷ là bằng tuổi) mới đầu của Ân Chu cùng Y Duẫn bằng chân. Còn lo mất đó, huống chi thời nay tước lộc làm sao gọi là trọng ư? (thời bấy giờ gọi là Thiên Bá Ngụy Tần). Xưa kia, Chi Lâm Tuệ Viễn là tiếng tăm trọng vọng, thường mắc nạn này (bị ép của vua tôi) mà khua bỏ như bụi nhẹ, phải dứt như Hủ Triền (Hủ Triền là tơ mục) chẳng lấy làm khó. Nên Sào Do có thể làm tôi hoàng, chẳng phải sức vua có thể khởi được. Di Thúc có thể làm tôi đế, chẳng phải chỗ năng lực của vương dấy được. Ỷ lý có thể làm tôi của vương chẳng phải chỗ lực của Bá Năng dấy động được (Tĩnh Dân thì pháp gọi là hoang, nghĩa là chủ của Viêm Hạo, Đức tượng trời đất gọi là Đế, đó là Nghiêu Đế, chỗ nhân nghĩa đến được gọi là Vương, như Ân Chu nhà Hạ. Tần Hán đều gọi là Bá. Phàm ở ngoài tục mà là trong tục, chỗ khởi cũng chẳng khó. Tống Văn Đế có thuật nghĩa đốn ngộ của Sinh Công, chư tăng cật nạn, đế cầm phất Trần gõ vào ghế bảo: Nếu khiến người chết có thể dậy, đâu là chỗ các ông khuất phục (Trúc Đạo Sinh, người xứ Cự Lộc, từ thuở bé đã thông minh, thấu suốt như thần, toản ngưỡng các kinh, châm chước tạp luận, ở chùa Thanh Viên, mới đầu thấy kinh Nê-hoàn là nói về nghĩa đốn ngộ thành Phật, lộng nan thuyết cũ, bấy giờ cho là tà thuyết bị đuổi chuyển đến Lô Sơn, về sau phần kinh đến, quả nhiên nói Xiển-đề đều có Phật tánh, mới lên tòa luận nghĩa mấy phen, Trần Vĩ rối ren mà rơi rớt, ẩn án mới tịch, nói nhẫn chết đợi kinh, nên Tống Văn lại nêu lên) trước thuật lý thức luận của Nham Điên, Đế nhờ Tuệ Nghiêm giải thích đồng khác, qua lại suốt ngày. Đế cười bảo: Các ông, v.v... ngày nay không thẹn bàn nói của Chi Hứa. Chi Độn tài chương mậu dật, được phong của Tăng Hội, Tăng Triệu bút vót xa lạ, lại được phong của Chi Lâm, môn đồ của Đạo An, Tuệ Viễn, Đạo Sinh, Tăng Tuệ đều chuyên tốt đẹp, từ đó về sau, chư Tăng ít có ai tiếp nối âm huy. Đến sau thời Tề Lương, ở đời còn dính dáng quanh co, từ thuyết thể yếu, đến nỗi khiến cầu nhã ngôn lập ý đó từng chẳng kịp châm luận ở thời Hán Ngụy (như tục Ngu Châm của Dương Tử Vân) mà so với kinh Tịch của bậc thánh ư? Nên Huyền Tượng, Nhạc Độc chẳng lấy gian hoa làm văn chương của trời đất, lấy công năng giềng mối chở che làm văn chương (Huyền Tượng là kinh thiên, Nhạc Vạn là đề địa). Nhân văn sao chẳng vậy ư? Từng đọc Bàng Minh của Ân nói: Giả sử ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới. Lời Viếng Khổng Khâu rằng: Hạo Thiên chẳng thà để lại lão già, chẳng cùng vị con. Than ôi! Buồn thay! (Khổng Khâu chết, Lỗ Ai Công đến Viếng đó nói: Hạo Thiên chẳng điếu chẳng thà để lại một lão khiến che chở tôi một người, để tại vị côi cút tôi tại đau lòng, than ôi, buồn thay! Ni phụ không tự văn luật, tại Tả Truyện ba mươi, cùng nay khác chút ít) Văn này là trời sắp lấp lâu, chẳng có thạnh đức đại nghiệp. Như vậy, ai có khả năng dấy khởi đó (Trọng Ni vì trời rộng lắm tài nên ai viếng đó) Tăng Triệu trước thuật luận Bát-nhã vô tri (Tăng Triệu người xứ Kinh Triệu, nhà nghèo nên làm nghề viết mướn, nhân được trải qua xem đọc kinh sử, giỏi về Trang lão, sau gặp được kinh Duy-ma bản cổ, v.v... mới biết chỗ về, La-thập đến thì theo Ngài phiên dịch, soạn thuật bốn bộ luận như: Bất Thiên, v.v... thị tịch vào niên hiệu nghĩa hy thứ mười tại Trường An, thọ ba mươi mốt tuổi) Lưu Di Dân thấy vậy than rằng: Chẳng hay phương bào lại có bình thúc. Đạo Dung giảng kinh Pháp Hoa, bản tân dịch, mở thành chín vết, hiệu là Cửu Triệt Pháp Sư. La-thập bảo: Sự hưng thịnh của Phật pháp là do Đạo Dung. (Đạo Dung người ở Lâm Lự, quận cấp. Được thầy mến thương sự thông minh đó, trước bảo theo học ngoài, khiến vào trong rừng, mượn luận Ngữ đọc xem mà chẳng hề mang về, khi kia đã tụng, thầy cầm bản khảo lại chẳng sót một chữ. Đến tuổi ba mươi, tài giải suốt rành, nghe La-thập đến bèn sang học hỏi. La-thập thấy vậy lấy làm lạ, về sau tịch tại Bành Thành, thọ bảy mươi bốn tuổi) La-thập dịch Trung luận mới hai quyển. Đạo Dung lại mổ xẻ, dự suốt đầu cuối. Bấy giờ, tại nước Sư Tử có vị Bà-la-môn, cưỡi lạc đà chở sách đến, xin thử sách hơn kém, nếu hơn thì thực hành, người Tần trông thấy mắt miệng đó bèn lánh, sắp đổi quán ta (có tâm xoay kính đó) La-thập bảo Đạo Dung: Ngoại đạo này thông minh khác người, đấu lời sẽ thắng, há có thể khiến Đại Đạo vô thượng tại chúng ta mà bị kia khuất nhục, như sự thấy biết của tôi, thì chỉ có mình ông. Đạo Dung tự xem xét tài lực có thể tế (Tế là thành) chỉ lo sách vở ngoại đạo chưa mở đọc hết, mới kính ghi chép danh mục, xem qua một lượt mà đã tụng, thuộc định ngày chỉnh sửa, đối chất tại sân vua, ngoại đạo kia tự cậy biết rộng, thêm ý công kích Đạo Dung, Đạo Dung nêu ra chỗ biết mà tránh chỗ chưa biết, kia vội ôm lấy tụng nhiều, mà Đạo Dung nêu lên chỗ tụng và các sách ở chư hạ, biên danh mục rất rộng, chỗ đó tụng Phạm Chí kiểng mà tứ (tứ là buông lung, kiểng là xin tình buông thả) La-thập tế từ mà giễu cợt, kia vội vượt mà mất (tế là thêm, nói trốn) xưa kia, phù sư đánh Tấn, đại sự sắp đi, Tạ An biết Huyền mà nêu đó, bèn đạt huân tập lớn, thiên hạ phục soi xét xa đó, mà La-thập biết Đạo Dung, sao chẳng đồng như Tạ An ư? Nên chất vấn hưng phế đó đồng ở một việc (chất là hình đối, vì La-thập cử Đạo Dung có thể đối Tạ An cử Huyền) Đạo Dung tánh chẳng lờn tuyên, thường lên lầu mở vui, Tăng Duệ mới đầu làm đệ tử Tăng Hiền, Tăng Hiền có bạn là Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang, gặp Tăng Duệ gièm pha cật nạn, Tăng Lãng nói với Tăng Hiền: Vừa rồi Tăng Duy cách nạn, tôi suy nghĩ rất nhiều mà chẳng thể thông, có thể gọi là đệ tử Hiền Hiền. Tăng Duệ người quận Ngụy, Tần chủ hỏi Diêu Tung rằng: Duệ Công thế nào? Đáp: Thông Bách ở đất nghiệp đất vệ, Diêu Hưng mời đến gặp rất vui ban thưởng, lại cấp xe cộ, sau bảo với Diêu Tung rằng: Đây là tiêu lãnh của bốn biển, đâu chỉ có sao riêng thông bách của đất nghiệp đất vệ ư. Tăng Duệ bình sinh vốn chẳng xoay lưng về hướng Tây (do nguyện sinh về phương Tây). Đàm ảnh mới đầu theo La-thập nói với Diêu chủ rằng: Hôm qua thấy Cảnh Công, cũng là Tăng Phong lưu tiêu vọng ở nước này. Đời Tống có Tăng Đạo (người ở Kinh Triệu, mười tuổi xuất gia, về sau soạn Thành Thật Luận Sớ, xây chùa Quang Sơn ở Thọ Xuân. Hiếu Võ ban chiếu mới đến kinh đô. Xe loan giáng tất. Tăng đạo vì mới đầu của Hiếu Kiến Tam Cương lại bắt đầu buồn chẳng thể chịu nổi (niên hiệu Nguyên gia thứ ba mươi, Thái Tử Thiệu giết Văn Đế mà tự lập, mới ba tháng bị Võ Lăng Vương Tuấn cùng các vua giết chết, liền lên ngôi, đổi niên hiệu là Kiến Võ, hiệu là Hiếu Võ Hoàng Đế), Đế cũng ngậm ngùi, ban sắc khai giảng, Đế và Công Khanh nhóm hội, Tăng Đạo nói: Xưa kia thác sinh ở cung vua, song lâm thị tịch, từ đó đến nay năm tháng lâu dài, nguồn thuần dứt hẳn, Phong bạc chẳng đuổi, cấp vườn, đồi gò, vườn nai hoang uế, chín mươi lăm loại (loại ngoại đạo, có chỗ nói là chín mươi sáu) lấy hướng xuống làm lên cao, các loài trong ba cõi lấy nhà lửa làm cõi tịnh (kinh Pháp Hoa chép: Ba cõi chẳng an, giống như nhà lửa) đâu biết bậc thượng thánh đổ lệ, đại sĩ xót thương, nhân thì nước mắt mũi, bốn chúng vì đó mà đổi sắc mặt (ngài Tăng đạo thị tịch tại chùa Thạch Giản, Thọ Xuân, thọ chín mươi sáu tuổi). Bây giờ, tại chùa Thạch Giản, có vị tăng cũng là bậc Danh tượng ở đời, có người hỏi so với Tăng Đạo thì ai hơn, vị Tăng đáp: Tôi cùng Tăng Đạo đồng học với ngài La-thập, phương khổng môn tắc, Tăng Đạo vào thất, tôi lên giảng đường, Đạo Du Thuật nghĩa đốn ngộ, Hiếu Võ nói: Sinh Công tình đơn dứt chiếu, Du Công dây thẳng riêng cao, có thể là khắc sáng sư tượng, không thẹn vi chỉ (Đạo Du người đất Ngô, đệ tử của Sinh Công, Sư nói sau khi thấy kinh Thắng-nam, mở sách than rằng: Tiên sư nghĩa trước cùng kinh này thần hợp, nhân chú giải đó năm quyển, về sau Hiếu Võ ban chiếu giảng nghĩa đốn ngộ, những người tranh biện nghe tấu đua nhau nổi dậy, Đạo Du đều phá, Đế bèn vỗ ghế ngợi khen). Đời Tấn có anh em Tuệ Viễn, Tuệ Trì, đời Tống có Pháp Ái, Pháp Viện, Viễn trì, Pháp Ái làm quốc sư nhuế, được bổng lộc ba ngàn hộ. Pháp viện thì vua Văn Đế khiến thuật nghĩa đốn ngộ của Sinh Công. Hà Thượng Chi nghe bèn thán rằng: Thường cho rằng sau khi Sinh Công thị tịch vi ngôn dứt hẳn, ngày nay lại nghe lời bàn của tượng ngoại, có thể gọi là trời đây chưa mất văn này! Tăng Viễn ẩn trên chùa Định Lâm. Thượng Tề Thái Tổ đi kiệu loạn đến, cửa Tăng Viễn hẹp, kiệu chẳng vào được, Bởi Thái Tổ muốn ra mắt Tăng Viễn, Tăng Viễn viện cớ già chân chẳng bước xuống giường, Thái Tổ sai người thăm hỏi, đang nằm ngồi dậy mà đi. Văn tuệ Thái Tử Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) tôn làm sư phạm, Hà mặc chu ngung, Ngô bào Trương dung bẩm giới thọ đạo. Xưa kia, Sa-môn xưng bần đạo với Đế vương, Pháp Hiến, Huyền Sướng thời Nam Tề đều làm Tăng Chánh, Võ Đế cùng bàn nói, đều gọi là chẳng ngồi (bất tọa) sau Tăng Chung xưng là bần đạo Đế chê trách rồi hỏi Vương Kiệm rằng: Sa-môn tiền bối đối với Đế Vương xưng thế nào, tại chánh điện có ngồi được chăng? Vương Kiệm đáp: Vào thời Hán Ngụy, Phật pháp chưa hưng thạnh, chẳng có ký truyện, từ thời Ngụy quốc xưng là bần đạo cũng dự ngồi, mãi đến đầu đời Tấn cũng vậy. Trong đời có Sưu Băng, Hoàn Huyền, v.v... đều muốn Samôn phải kính trọng, bàn luận giữa triều lăng xăng, mọi sự đều dứt nghĩ. Trong triều nhà Tống cũng phải rất kính lễ, nhưng sau đó thấy chẳng thi hành, từ đó mãi đến nay phần nhiều dự ngồi xưng là bần đạo, Đế bảo: Hai vị pháp Hiến, Huyền Sướng đạo nghiệp như thế, còn tự xưng danh, huống chi các vị khác lễ bái rất đáng, xưng danh cũng không ngại, từ đó về sau xưng danh là bất đầu từ Pháp hiến, Huyền Sướng, ở đời Lương có Bảo Lương tánh rất thẳng thắn mỗi lúc đối diện Võ Đế, xưng là bần đạo thượng, tuy có lúc vậy mà rút lui thần chí đó, Bảo Lượng người ở Thanh Châu, mới đầu đến kinh đô, Viên Xán lấy làm lạ hỏi: Châu sinh hợp phủ, người Ngụy lấy làm chiếu thừa. Bích ở Hàm Đan, người đời Tần xưng là Hoa quốc. Báu của thiên hạ phải cho thiên hạ cùng chung, chẳng phải là chỗ của thượng nhân Quý Châu nên chuyên, Tăng Mân bảy tuổi xuất gia ở Hổ Châu, hoặc có người hỏi: Sa-di họ gì, nhà ở xứ nào? Đáp rằng: Bần đạo họ Thích, nhà ở núi này, Trương Dung Tạ Thiếu thuở trẻ rất thân hậu, Lục Thùy thường cùng khách đến chỗ Tăng Mân, Tăng Mân viện cớ bệnh chẳng tiếp, Lục Thùy mừng rỡ bảo: Pháp sư chẳng dạo ở đời, đây thật là chỗ mong muốn của đệ tử! Tiêu Ngang ra trấn thủ Ngô Hưng (Quận Ngô Hưng là nhà Hán đặt, xưa là nước của họ Phong Phong, đến đời Tùy bỏ quận, đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình) sắp đến bái yết Tăng Mân, Tăng Mân bảo: Tôi là người bệnh ở núi Chằm, không việc được hai ngàn thạch quý. Xưa kia Đối Ngung ở tại Bắc Lãnh, Tông Giang Hạ vương vào núi, Đối Ngung nằm cao nơi cửa sổ chú giải xuống chẳng gặp nhau. Nói tôi tuy đức mỏng xin phụ việc của Đới Công, khi Tiêu Ngung đến thì theo cửa sau mà trốn. Phàm người ruồng bỏ đời, lợi lộc liên can đó chẳng bằng, người muốn chuộng liên can lợi lộc đó chẳng bằng, Đã được lợi lộc quen lờn làm chí, đối với bậc Hiền tay mới giáng lễ, nếu vui mừng gặp đó mà không thường tâm đó, cuối cùng năng dùng quyền thế mà sai sử (đã có lợi lộc bằng đó thì thân quen mà lờn mạn, tuy có Hiền giả mà năng xuống lễ cùng tiếp, nhưng đạo của thấy gặp, tâm đó chẳng thường, thì cậy thế lực đó mà cứ ngạo cho đến rốt cùng, thì nay nhà sang quý đều như vậy) nhưng năng bệnh rốt cùng đó sai sử mà điềm lành đầu tiên đó gặp thì cao, thấy đó rành rẽ thì chẳng để lại mình đau xót (trông đầu mà biết cuối, thì khỏi đó tự để lại đau xót kia) Trí Tạng hầu thầy, do hiếu kính mà nổi tiếng, thầy bệnh bỏ ăn, Trí Tạng cũng bỏ ăn, đến lúc thầy uống, Trí Tạng mới uống, chỉ tánh thương ở Hứa Trực (bới móc nêu lời riêng của người) mà dùng hành vi vẻ vang làm can lỗ nên chẳng đến nơi nguy ách, thường xả bỏ của cải mà đại sám, Tạ Cơ Khanh chỉ cành trúc móc áo, cười đó bảo: Còn lưu lại vật này là còn có ý ư? Trí Tạng bảo: Thân còn chưa diệt ý làm sao có thể hết, học trò của Đạo An là Pháp Ngộ, dẫn dắt bốn trăm đồ chúng, bấy giờ có một vị tăng uống rượu bỏ đốt hương ban đêm, Pháp Ngộ phạt mà chẳng đuổi, Đạo An nghe vậy lấy ống buộc gậy gửi đến Pháp Ngộ, Pháp Ngộ nói: Đây là do người uống rượu, con dạy răn chẳng chuyên cần, xa để lại lo cho, mới nhóm họp đại chúng, bảo Duy-na đánh gậy đến ba, nhân do đó khóc lóc tự xấu hổ, thời nhà Ngụy, học trò của Đạo Biện có sư quên tên, cậy của cải mà ngạo đời, Đạo Biện đánh mà đuổi đến Hoàng Long, vị đó không có ý hận, sớm tối hướng về Đạo Biện từ xa kính lễ. Đời Đường môn nhân của Trí Chánh là Trí Kiến, chỗ thầy biên soạn thì đứng hầu mà ghi chép nhiều năm, lúc đầu thầy chẳng bảo ngồi, vì đứng lâu nên bị té. Trí Chánh trách đó là: Cất chân bảy ngày chẳng phải nhọc, nay tâm ông khinh sao chẳng như vậy (Đức Thích-ca ở trong nhân địa bảy ngày giơ một chân, khen ngợi Đức Như lai Để-sa). Học trò của Bắc Viễn là Trí Vi mỗi lúc giảng nói phân tích pháp sâu mầu đều nói: Ý Đại pháp sư như thế, nhân thì tiếng lệ đều phát (Tuệ Viễn ở Lô Sơn họ Giả, người ở Nhạn Môn, gọi là Nam Viễn; Tuệ Viễn trụ chùa Hiệp Thạnh ở Đàm Châu, họ Lý, người xứ Đôn Hoàng, soạn Niết-bàn kinh sớ, gọi là Bắc Viễn) kính lễ nói: Phàm học Đạo, thầy nghiêm là khó, thầy nghiêm thì về sau đạo tôn quý, đạo tôn quý thì về sau dân biết kính học. Nhưng nhà lành con ở nhà nhà có răn dạy từ thầy, thầy có dạy bảo gì nên ghi nhớ, dốc hết chỗ kính mà hành kính, dốc hết chỗ tin mà hành tin, do đó Đấng Đại thánh đều bảo tộc họ con mà gắng gỏi (dáng mạo thấp hèn luật cấm xuất gia) chẳng phải dây chốt hủ cửa là làm được (nhà nghèo dùng dây buộc then chốt, lấy vò hủ làm cửa sổ) buồn nay đệ tử ít có không nghe nói ở sư phạm là, kia dùng lễ sơ (xa) mà đến, ở đây lấy ân mỏng mà sang (đệ tử đã ở chỗ thầy xa, thầy sợ bèn trông lại đó ân mỏng nên chẳng ở mà đi), nhưng dẫn trâu đi tắt nơi ruộng mà đoạt trâu (vào thời Xuân Thu có dẫn trâu đi tắt nơi ruộng là tội, còn đoạt trâu thì tội rất nặng). Nay dụ cho ân mỏng của thầy đã chẳng phải mà bèn bỏ đó chẳng tôn thờ, như đoạt trâu tội tất nặng, gốc nhẹ mà ngọn nặng (ân mỏng của thầy gốc nhẹ mà chẳng kính làm ngọn nặng) như tôn tuy nghĩa chẳng thấp hèn thì muốn y cứ việc đó ư? (Cha dù cho chẳng đáng cha, con không thể chẳng giữ phận con) Lễ nói: Cha mẹ thương con mừng mà chẳng quên, cha mẹ ghét con, sợ mà không oán (người làm con là chẳng lo không làm được việc gì mà lo chẳng có hiếu, cung kính lệnh cha, đâu thường có đó) chuyển dời được điều này đến thầy đó là đâu khiến quá thân đó ư (chuyển dời phụng thờ cha, đạo chẳng quên chẳng oán, mà phụng thờ đối với thầy thì sẽ không quá đó) nên có giả thầy mà làm danh, xem thường lương đức của thầy, (lương là mỏng, giả là mượn, vì đức của thầy mỏng, rất không có nghi thức kính thuận, chỉ mượn danh thầy mà thôi) sắp thăng đường thì gân cốt liền mở, khiến hầu ngồi thì tay chân uể oải (ở trong hang nằm mà không ngồi, lại là người lười biếng như ở trong tại hang nằm mà chẳng ngồi dậy) đó hoặc đuôi lớn mà chẳng xứng, tả truyện nói: Đuôi lớn chẳng xứng nay hoặc đệ tử hơn thầy nên cùng khinh ngạo) nên răn phạt đó chẳng đến, hoặc minh linh đó có tợ tướng của vật loại vời (minh linh là ông lấy trùng mà chú đó tợ như ta, tợ như ta chẳng mấy ngày mà trùng hóa thành ong. Nay đệ tử là do người khác sinh ra, lấy để dạy răn, khiến làm học trò) oai đó còn chẳng cẩn dung, mà đức đâu thể phục tâm đó ư? (Quan có oai hình sự công còn chẳng sợ dung. Nay thầy dùng đức làm sao có thể phục tâm đó?) nay phong của bạc bẽo cuối cùng, thầy tìm đệ tử, chẳng phải đệ tử tìm thầy, thầy cho đây là bắt đầu, đệ tử cho đây là kết thúc, than ôi! Ngày nào chẳng do đó! Phàm, tiên sư nước Lỗ vì nhiễm có phác, phiền trì ngự, Tử Cống dịch Nhan Hồi… (Nhiễm Cầu tự là Tử Hữu, Phiền Tư tự là Tử Trì, Đoan Mộc Tứ tự là Tử Cống, Nhan Hồi tự là Tử Uyên, xưa kia Phu tử tại trần thì ban địch đồng sở) đó sao đến so với đây ư? Đức kia dày có thể mến, mà đệ tử Phật mến đức cho nên như vậy, thời nhà Lương có bậc chí nhân là Tuệ Bố Tam Quả, khéo thấu suốt ba luận thời bấy giờ gọi là Đắc Ý Bố, thấy người ưa thích sinh Tịnh Độ thì bảo họ rằng: Phương độ là tịnh, chẳng phải ta nguyện. Thế nào là ở trong hoa mười kiếp thọ vui, không phải như trong ba đường cứu khổ (sinh phương Tây thuộc hạ phẩm trung sinh thì ở trong hoa sáu kiếp, còn hạ phẩm hạ sinh thì ở trong hoa sen mười hai kiếp, hoa nở mới được thấy Phật, chẳng như ở trong ba đường, chúng sinh khổ. Đây là Bồ-tát thêm tâm bi) phàm pháp tập thì trước chúng đến mà im lặng, lếu láo kia sợ như ngậm chí của gốc đức (thăng đường thì đến trước, sau sinh sợ đó mà im lặng) sau khi thị tịch tay cong ba ngón, đất rung động bảy ngày, sử Tần nói là sao người đắc đạo diệt (cao tăng truyện chép Tuệ Bộ thệ sinh trong ba đường cứu khổ chúng sinh) xưa kia đời Ngụy, Huyền Cao có thệ nguyện sinh vào ba đường xấu ác, thời nhà Tề Tăng Cảnh cũng vậy, chỉ có bậc thánh và bậc thánh mới năng đến nơi đây, thời Trần, Tuệ Tư ở Địch Nhạc tức Nam Nhạc ở Hồ Nam, nay là Nhạc Châu) chứng Pháp Hoa Tam-muội, biết được việc đời trước, trên đảnh có nhục kế biết được tâm người, độc chẳng thể hại, oán chẳng thể động, mới đầu Trí Khải vui mừng phong đó mà đến, Tuệ Tư bảo: Xưa kia ở Linh Sơn đồng nghe Pháp Hoa, chỗ tìm duyên xưa nay lại đến, bèn chỉ bày đạo tràng Phổ Hiền bốn hạnh an lạc. Trí Khải hành đạo trải qua hai mươi mốt đêm tụng đến phẩm Dược Vương, câu tâm duyên khổ hạnh là tinh tấn chân thật thì thấy cùng Tuệ Tư đồng tại núi Linh Sơn nghe Phật nói pháp, Tuệ Tư bảo: Tướng linh dị này nếu chẳng phải ông thì không cảm, chẳng phải tôi thì chẳng biết, Pháp Hoa Tam-muội này là phương tiện trước, Tuệ Tư dùng trao truyền nghĩa Tam quán cho Trí Khải, Trí Khải dùng nghĩa bốn giáo bổ sung. Nên tông chỉ Ba Quán bốn giáo, từ Hành nhạc Thiên thai là đầu tiên. Lương sách thảo đường ước làm Trí giả (tức Pháp sư Tuệ Ước). Đời Trần đời Tùy tôn xưng Trí Khải là trí giả (tức nay chùa Ngọc Tuyền ở Giang lăng, do quan tướng quân xây dựng) chỉ có bậc hiền của đạo nghe hư danh chẳng phải tốt đẹp, thấy hư khí chẳng lấy làm trọng, tâm như sắc mây, vết như lông bay (chỉ có khí và danh chẳng thể dùng giả người, mà các bậc cao sĩ có đạo thấy danh trôi nổi cũng chẳng cho là quý) mà đế thiên hạ là thầy thánh đó, bạn hiền cố nhiên đó là vậy (vì đời Lương, Trần, Tùy quý có thiên hạ, chẳng thể chẳng tôn thánh mà bạn với Hiền ư?) có người hỏi quả Vị, của Hành Nhạc thì bảo là: Tôi là người ở vị Thiết Luân Vương (Bồ-tát vị Bốn gia hạnh làm vua bốn châu, vua Thiết Luân thì ở Noãn vị) hoặc hỏi về quả vị của ngài Thiên thai, thì bảo là: Tôi chẳng lãnh chúng, thì sẽ tịnh sáu căn (một là từ Bát địa trở lên sáu căn thanh tịnh, hai là Sơ địa trở lên, ba là tư lương gia hạnh cũng thanh tịnh. Nay Trí Khải và Tuệ Tư đều là hàng tư lương gia hạnh Địa tiền) vì người tổn mình chỉ là người trong năm phẩm, Gia Tường mới đầu nghe Thiên Thai lại khinh ở tai (Cao Tăng Tuệ Kiểu ở chùa Gia Tường) khi cũng đã mắt thấy mới dốc lòng làm học trò, lại dùng ba luân mổ đoán qua lệ, chế thắng đó luận, mà đặc biệt nổi tiếng khắp thiên hạ, đệ tử Trí Khải nghiệp chuyên môn tuy chẳng dốc hết đối với thầy mà đến chết thì được ngợi khen. Bốn triều ở Nam Độ Khắc chuông Huyền Lý (Tống, Tề, Lương, Trần) giúp Long Thọ, Đề-bà soạn luận chẳng nhổ, Chân Đế tuy dịch các bộ như đối pháp Duy Thức, v.v... (Tam Tạng pháp sư Chân Đế đến thời nhà Trần) gặp nhà vua rất vui lòng, Thiên bộ khổng gian (khổng rất gian nan, hậu chúa biến loạn) chỗ học trò nghiên cứu sự nghiệp mở mang, có pháp hội vạch nghiên giảng ký để lại hơn một nửa, tiếc thay thọ mạng ngắn ngủi nên chẳng làm tròn chí nguyện, ngày sắp tịch bảo đốt bản thảo người nghe rơi lệ, từ đó về sau, học trò dần mất đi (gặp pháp sư khảo xét Duy Thức chưa tận cùng yếu chỉ, mà đến thời Tiền Đường, Từ Ân trước soạn Duy Thức Sớ mười quyển) đến thời Chân Đế trở về Nam gom tập những gì không nghe, nên học của sắc tâm trọn ít nghe ở tận thiện, các nhà chương sớ hẳn để ý trước ở lý Không (từ Chân Đế về sau, ít tuyền pháp tướng, phần nhiều mở rộng tánh không) Quốc sư Huyền Trang (vào niên hiệu Trinh Quán) dịch, Duy Thức trao cho học trò là Khuy Cơ (Khuy Cơ họ Uất Trì, tự là Hồng Đạo, du tử của Ngạc Công kính đức, soạn trăm bản sớ, tức Hòa-thượng Từ Ân) và bao gồm Du-già (đều luận về Đại thừa). Dịch Câu-xá trao cho học trò là Quang (chưa rõ) bao gồm Bà-sa (và luận Tiểu thừa) có thể gọi là pháp tướng sáng đẹp, danh số sâu rộng, tinh sưu châu tục, thông đạt đại đạo, cái học của Không tông kia im lặng như chẳng kinh qua chỉ đó (Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ 2 đến Tây Quốc học kinh luận Pháp tướng, đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ 19 trở về, mở rộng Pháp tướng, các vị chuyên tánh không thấy đó như lặng mà sóng yên) Thái Tông, Cao Tông soạn lời tựa thánh giáo (nay thấy ở đầu các kinh). Hoa tỏa ở văn trời, chân phong luyện ở góc biển, đến khi Huyền Tông chú sớ Bát-nhã, bởi hai thánh chứa đượm của Khuy Cơ (Huyền tông chú sớ kinh Kim Cang, hiện lưu hành ở đời) chỉ ở đời vì dịch kinh thì dễ, dịch luận thì khó, mà người truyền cũng thế (truyền kinh là dừng ở tìm văn nêu chỉ thuật ý liên hoàn cho nên dễ, truyền luận là xoay vần tánh tướng thấu đạt sâu mầu cho nên là khó) thật do kinh chỉ dứt nghi sinh tin, ý chỉ xa mà văn gần, luận thì sạch cùng tánh tướng, răn xướng tinh vi, làm nghĩa hẳn là điển, làm văn chuộng hoa, lầm lẫn âm luật, khanh thương bân uất (Ban uất là vẻ văn thể hưng thạnh) khách chủ do nhau, móc sâu làm đẹp, tự chẳng phải bậc thượng trí chẳng thể thấy ý của qua lại, nên người học ít chẳng công bồi làm núi (hạng cạn gần nghe mà khinh lờn, bởi chẳng phải cảnh đó. Làm núi chín nhận phát khởi từ đắp nhiều lớp đất) nói tham thần hóa vì giáo hành trung hạ, lúc đầu chẳng dịch luận, cầu đạo thầy trò giúp nhau cho nên khó (đến nay hạng người học kinh, đồng bạn đông như rừng, còn các vị nghiên cứu luận thì như vạch cát tìm báu). Phàm đồng bạn của pháp học biết kinh luật là chỉ như tán thuật văn đó mà thôi. Còn viện dẫn nhiều nghĩa lớn thì chẳng gọi đó là thấu suốt (nên nay ở đất Thục, khéo truyền kinh đều gồm cả học tập luận, sau đó truyền giảng mới tốt.) La-thập dịch kinh từ hẹp hòi, dịch luận thì buông thõng. Huyền Trang thì trái lại. Nên ở đời La-thập, kinh học thì ưu (ưu là thắng), ở đời Huyền Trang luận học thì gấp bội. Xưa kia, Tuệ Lâm mang một đôi giày ba mươi năm, gặp bùn sình thì đi chân không mà bảo: Bùn sình mềm dịu dễ đạp, tôi chẳng muốn tổn của tín thí nên làm như vậy. Thường bảo chúng rằng: kinh luật tôi đã nghe đều hai ba mươi biến, còn sợ là thiếu công, muốn gần các bộ khác mà chưa rảnh học nhiều. Học giả ngày nay ít có thông đủ, văn cú biết sơ sài thì đã dự làm sư phạm, đến nỗi có bao gồm thì chẳng biết đầu mối thế nào, ở đây pháp diệt là do người, do đó trọn đêm tưởng hoài có bùi ngùi trong nỗi lòng!
(Giả nêu bày hỏi đáp giữa chủ khách để giải thích điều nghi ngờ của chúng tôi).
Hướng Phương sĩ đến quán của Thạch Lâm (Hướng Phương Sĩ là giả thiết, như ô tiên sinh thì mất là loại của công) mô quỵ trông nom (mô quỵ là lạy, Mục Thiên Tử truyền rằng: Mô quỵ thọ nhận. Quách Phác nói: Như nay người Hồ lễ Phật) thuật với chủ nhân rằng: Đời tôi ràng buộc trăm mối lo toan, một hôm phòng khác có rượu thịt, có đàn ca, có thi thơ sum tụ đông đầy, ưa thích ca vịnh phong cách của tiên sinh, còn thiếu chưa vui, nay bèn lại ở cao, thông quế vắng vẻ, tường bao rỗng lắng, tâm bỉ lận vén (khiểm là hận, lâu ở trong lưới tục, thường nhàm phiền tạp, một lúc đến chốn chùa lắng thâm u nên thỏa sướng đó) sắp may hưởng vị yếu chỉ của kim tiên, thỏa sướng thiên của vô sinh (kinh Phật khen ngơi lý vô sinh) uống hết pháp hỷ (kinh Pháp Hoa nói: Thức ăn Pháp hỷ thiền duyệt ăn uống pháp vị tự nhiên no đủ, tắm gội Cam-lộ, sáng phiền tố nơi thu chiếu, vắt hoa tươi nơi xuân đượm, dáng tâm tuy khẩn, chẳng dám dùng trông như thế nào (đã gội Huyền Phong, đạo tâm đượm tốt, dáng tâm tuy có tình khẩn chẳng hay chưa dám trông mong thế nào) người chủ nói: Tôi bệnh phế bỏ đã lâu, trong các vị ở đời như mờ mắt chẳng vui ở quyết cung (Thuyết Mạng chép: Nếu thuốc chẳng mờ mắt, thì quyết bệnh chẳng lành. Nay tôi bệnh, người đời phế bỏ đã lâu, trông mọi người ở đời đối với tôi mờ nhạt chẳng đoái hoài nhạc) lui ẩn nơi núi rừng, ở bèn chứa Tô-biện-tỳ (Tô là cỏ, tỳ là tranh) mặc là tệ hạt thô thuần (hạt là lông, thuần là tơ, Luận Ngữ chép: Nay là thuần kiệm) ăn là chén đơn đậu lẻ, hang dòng luôn luôn, cùng hưu nai làm đàn, vậy có đạo gò khả quan sự gì đáng hỏi ư? Chỉ sự hòa nhau của vàng đá, tùy vỗ đánh đó, mới có thể lớn nhỏ buông nhanh, hoặc cũng quả ứng (nhạc không tiếng hay, tùy đánh gõ mà tấu, người không lời đáp, theo đánh hỏi để cùng đáp) khách hàng bái (để tạ người chủ hứa hỏi), người chủ tỵ chẳng mẫn (tỵ là nhường vị, mẫn là đạt) đã trở lại chỗ ngồi, khách hỏi: Hán mộng chưa chiêm, âm thích chưa thông, xứ này trước có ai được nghe Chí giáo chăng? (từ thời Hán Minh đế về trước, xứ này có ai biết ở phương Tây có Phật không) người chủ đáp: Liêu thay! Làm sao tôi biết được (liêu là xa, vừa rồi tôi biết là khiêm nhường) chỉ chạm đá đó mây sinh ở phu thốn (Công Dương truyện chép:
Mây nhân chạm đá mà sinh, phu thốn mà hợp: Bốn ngón tay gọi là phu, hai ngón tay gọi là thốn) nước của bắn cá mang ở Dư Hoàng (Dư Hoàng là tên thuyền của Ngô Vương, nói bắn cá là nước ít năng chở thuyền lớn) Kỳ nào chẳng như thế, xưa kia đức Đại thánh đến nước Bà-xà, nước đó ở Nam Hải, cách phương hạ không lấy làm xa (Nam Hải cách Lạc chưa quá muôn dặm) gió của dòng nhỏ sao chẳng kịp nay, nên vua Chu Mục gặp Tây cực hóa nhân, lão thánh xưng là Cổ Hoàng tiên sinh (kinh Lão Tử Tây Thăng chép: Trúc càn có tiên sinh Cổ Hoàng) Khổng Tử suy tôn ở phương Tây có bậc Đại thánh (Khổng Tử nói: Phương Tây có Đại bậc thánh chẳng nói mà tự sửa) Phật-đồ-trừng biết dưới đá Lâm Truy có lộ bàng bên hữu tượng cũ, Kiệnđà-ha thấy trong núi Bàng Châm có nền móng chùa cổ, chẳng có người thấy nghe ư? (đây đều dự có thấy nghe đó). Đến đầu niêm hiệu Nguyên Thú thời Hán Võ (chúa thứ năm thời tiền Hán lấy niên hiệu là Nguyên Thú) là niên hiệu Chủ Nguyên Thú thứ năm thời Tiền Hán bảo Hoắc Khứ Bệnh ra phía Bắc đánh Hung Nô, Qua Cư Diên bắt vua Hưu-xà (xà âm là trừ) được người vàng, cho là Đại thần, đưa về cung Cam Tuyền, dùng lễ bày hương đèn, tôn đó ba năm, đào ao Côn Minh (niên hiệu Nguyên Thú thứ ba thời Hán Võ giảm một nửa lính của quận Thú Lũng Tây thượng và người lộng pháp thì giáng chức, sai đào ao côn minh, Tây Kinh Tạp Ký chép: Trong ao khắc đá làm cá, lúc gặp mưa sấm cá thường kêu rống, ở trên có ghe thuyền vài trăm hoa mâu chiếu đèn. Tam Phụ Cố sự nói rộng ba trăm hai mươi mẫu, lúc đầu xuyên được đất đen, Đế đem hỏi Đông Phương Sóc) được đất đen đem hỏi Đông Phương Sóc, Đông Phương Sóc nói: Điều này tôi chẳng biết, bệ hạ hãy hỏi Đạo Nhân Hồ ở Tây Vực, đến khi Trương Khiên đại hạ trở về, biết có nước Thân-độc, (Hán Thư nói: Trương Khiên truyện Âm là Đốc, tức Ân Độ đồng) kinh Sơn Hải chép: Dân của Thân-độc gần người mà mến người. Quách Phác ghi chú là: Thì xứ của chỗ Thiên-trúc sắc đồ gầy dựng, cũng gọi là Ấnđộ, Ấn-độ là tên Nguyệt, sau Nguyệt có cả ngàn tên, nay mới một vậy (như xứ này thiềm thứ treo ảnh xe lạnh mâm vàng, v.v... thì xứ kia lấy làm tên nước, đủ nghĩa lâm chiếu) đời vua Ai đế, Cảnh Hiến đến Đại Nguyệt Thị, thọ kinh Phù Đồ, vua Nguyệt Thị bảo Thái tử miệng đọc trao truyền, Lưu Hướng nói: Tôi tìm khắp các sách, thường thấy có kinh Phật. Trong niên hiệu Hồng Gia (đời vua Hán Thành Đế) soạn Liệt Tiên Truyện (hai quyển) chép: Tôi xem xét tạng thư xa tìm Thái sử, mới đầu tạo Liệt Tiên Đồ, từ Hoàng đế về sau sáu đời mãi đến nay, Đắc Đạo Tiên hơn bảy trăm người, vừa rồi xem xét hư thật, được một trăm bốn mươi sáu vị, trong đó bảy mươi bốn vị đã thấy kinh Phật. Lấy đó mà suy biết, Chu Hóa thành Tần, Tần diệt Hán Hưng, đến niên hiệu Vĩnh Bình, thật đã ngàn năm, từ đây về trước sao chẳng nghe (đáp: Hán mộng chưa chiêm, v.v...) Khách nói: Thuở xưa ở vườn Am-la ấn ngón chân xuống đất, Linh Thứu vọt sáng (thánh chúng đầy khắp hư không (cư sĩ Duyma dùng thất phương trượng vườn tánh am thấy Phật. Đức Thích-ca nói kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, Phóng quang động đất) đạo tràng cùng khắp pháp giới (trên pháp hội Pháp Hoa ba lần biến ruộng đất khắp cùng pháp giới), điển của cơ khổng chỗ nào mà chẳng chép, người của Tần Lạc chưa từng dự hội. Há không phải Đại thánh riêng lệnh ư? Truyền là trương bày ư? (Phật đã phát ra ánh sáng khắp cả pháp giới, tại sao ở kinh Lạc không ai thấy nghe? Đại thánh giáo hóa có riêng lệnh là như truyền mà mở bày luống dối ư?) người chủ đáp: Cá lặng chẳng biết ở nước, người đất chẳng thấy gió đó, chẳng phải có thể biết mà biết, ở đó mà chẳng biết, chẳng phải có thể thấy mà thấy, ở đó mà chẳng thấy. Huống chi phương chư chước nguyệt, chẳng phải phương chư thì cho là không nguyệt (Phương chư là Vương Sung Luận Hành nói, là gương nước, tháng mười một ngày Vương Tý nửa đêm giờ Tý, luyện đá năm phương đúc như mâm chén, hướng lên ánh trăng được nước. Cao Dụ nói: Âm toại tợ cáp lớn, đốt xoa lau để hướng nguyện, dưới nước được vài thạch) Dương Toại sáng mặt trời, chẳng phải Dương Toại thì cho là không có mặt ư? (Có châu ánh mặt trời, dùng ngãi trung hứng thì được lửa, gọi là Dương toại, lại có khi dùng lưu huỳnh, v.v... đúc gương, hứng mặt trời cũng ra lửa, hứng mặt trăng ra nước, viên (tròn) là hiệu của Dương Toại. Phương (vuông) là hiệu của phương chư, mặt trời, mặt trăng thường luôn, mà phương chư, v.v... chợt khuyết thì nước lửa chẳng có, như Phật hiện khắp mà người không duyên, hoặc chẳng thấy rẽ) thật do linh biến tại tâm, mà ngoài ứng ở vật, chỉ tâm bất biến thì sao được? (ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, tâm biến mà thấy vật, không hư khởi) Lễ chép: Tâm chẳng có, nhìn mà chẳng thấy, lắng mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị, nên biết trước tin chẳng do kia, chẳng phải nên nghe thấy (xưa người xứ này chưa tin, nên hoặc giả sử thấy trong nhà rực sáng, đất rung động chẳng để ý, nên chẳng ghi chép) giả sử có ôm niềm tin được riêng mà nói, thì người đời chê trách cho là dối vọng (chỗ mọi người không duyên chẳng thấy, trong đó hoặc vị nào có duyên được nghe thấy riêng thì mọi người sẽ chê trách đó là quái vọng, đâu thể cùng họ tin được. Lại thêm năm tháng xa mờ, biên giảm rơi lạc (huống chi năm tháng thời đại trải qua lâu xa, sách sử lạc mất, đâu thể biết đủ). Hoặc Chu Sử biết chẳng phải việc của Trung quốc nên mới chẳng ghi chép (phàm là sử quan, thường chỉ ghi chép việc sự của nước mình, đây chẳng phải là việc của Trung quốc. Lại nữa, quân tử rất thận trọng nên chẳng ghi chép) Khổng thánh tự chê trách mình không phải khí thọ đạo, nên chẳng nói (chê trách, Khổng Tử tự chê trách mình không phải khí thọ đạo, nên chẳng muốn nói) đâu vì thiếu trong Sử Ký thì cho là không có ư? Phàm chiết trụ Quán Hồng Hiệp Ô Đằng Nga Hôn Kiến Nhiễu Xu Kỵ Vĩ (xưa kia, Nữ oa cùng Cộng Công Thị tranh giành thiên hạ. Đầu chạm chẳng khắp núi, cột trời bị gãy, lại chặt chân Ba ba để lập cực. Lại nữa, Nữ oa cảm ánh sáng cầu vồng xuyên suốt mặt trời mà sinh Chuyên Húc, ở thời Xuân Thu có ráng mây như chim đỏ cặp mặt trời mà bay ba ngày, lại Nghệ xin thuốc bất tử ở Tây Vương Mẫu, vợ Nghệ là Hằng Nga lén trộm để đùa giỡn trong trăng, xuất xứ từ Dịch lược. Lại điện chớp quanh sao xu mà hoàng đế sinh, lại theo truyền thuyết chết thì tinh thần lên làm sao, đồng với các sao, ở trên Vĩ Tú nên nói là kỵ) mà chở che là một, ba thứ ánh sáng thửa đồng, Tây vực kia không thấy ghi chép, nên thật ra cũng cho rằng tiếng Hoa là không thật ư? Nếu kia nghi quả là sai thì nghi này đâu đúng. Nếu kia tin là thật thì tin này đâu luống dối, nhưng sáu điển của Hoa Hạ, ai giản vụ yếu, phải ở Tần diệt, còn chẳng nghe đầy đủ (sách vở xưa, vốn dùng giản yếu lại gặp phải bạo Tần đốt hủy, mọi việc đã qua đâu được lại đầy đủ ư?) Như ở hai đời Đường, Ngu, thượng thư còn vài thiên (chỉ còn năm thiên như Nghiêu Điển, v.v...) Thương Chu thạnh hóa, thi tụng có thể hơn mấy mươi. Đây trọng hình đức còn có chỗ khuyết, huống chi kia vượt ngoài tượng mà có thể đầy đủ ư? Nên Nghiêu Sư Duẫn thọ, Thuấn sự vụ quang. Chu Khổng cũng là chỗ chẳng ghi chép, Khổng Tử nói đạo thấy ở họ Trang (Năm kinh không lời đều xuất xứ từ Trang Tử, Lão Đam biết lễ, còn ở Đái thánh (Đái đức tự là cận quân truyền lễ, hiệu là Đại Đái Lễ, Chí tín thái phó. Đái thánh tư là thứ quân truyền lễ, hiệu là Tiểu Đái Lễ, vì bác sĩ luận thạch cừ đến Cửu Giang thái thú) vừa rồi giả sử sách này cháy nát hết thì đâu biết hai thánh biết lễ, biết đạo ư? (nếu tại Bạo Tần thiêu đốt hết, thì đây đâu thể thấu tận cùng ư?) khách nói: Trúc pháp Lan, Mađằng đến nước này, có người đem đất đen để hỏi, Trúc-Pháp-Lan nói: Đây là đất thừa của kiếp thiêu, mà thật được sự đó ư? (thật là đất của kiếp lửa ư?) Người chủ đáp: Nói tại người đã qua, sao biết tâm đó (lời này truyền lại tuy còn, mà người đó đã không, thì làm sao có thể biết ý của kia đáp ở chỗ nào) Trọng Ni nói: Tình muốn tin biện muốn khéo là biện (lời đáp này, chỉ là biện đối của Trúc-PhápLan) hoặc cũng trinh mà chẳng lượng (Trinh là chánh, lượng là tin, ý tuy chánh, lời nói chưa hẳn đúng tin) phàm chỗ thiêu đốt của kiếp lửa. Đại địa đều hết, nhưng đã tức lại, thì làm sao cháy nát ư (khoảng của kiếp lửa, hai ánh sáng của đại địa đốt đến Sơ thiền, sau đó trở lại, đâu có đất cháy nát, cho nên biết kiếp lửa là không tro) xưa kia Trang Chu vì trí của Trọng Ni chẳng phải rất hung dữ như chẳng xem thường, nên xa lấy Đông Lăng ngụ từ thấy ý (Đạo Chích ở tại Đông Lăng) mà Lan cũng lấy Huyền của họ Thích chẳng phải kinh tai mà chẳng biếng nhác, nên mượn kiếp thiêu để khai mở giáo đó (người vì kinh sợ nghe lấy làm lạ, nên sắp khai hóa, lấy đây cũng là phương tiện mà kích động) Bởi quân tử lấy nghĩa đức làm tin (quân tử nghĩa sau đó tin, tin gần ở nghĩa, nói có thể lại) nếu khiến chỉ nói là lửa thường, thì nạn thiếu đâu đem nhường ư? (Mạn Thiên tức Đông Phương Sóc, tự là Hướng, nếu đáp chỉ nói là lửa thường thì đâu có chỗ nhường của Đông Phương Sóc ư?) nên vỗ về không để dẫn thật, bởi phế gần để nêu xa (vì muốn giáo hóa nên trước tạm chỉ ở không mà dẫn dụ, phế bỏ lửa thường gần, mà nêu kiếp lửa ở xa) khiến người khác nghe chỗ mới mẻ đó đến thiện, phàm khát nghe là đặt để điều nghi, đặt để điều nghi thì phải cầu đến Lý, Lý đến thì chẳng xa mà trở lại (nghệ là thật) đó như Ngu Cơ Trương Tĩnh quát được ở Độ (Văn của Thái Giáp, cơ nổ nha, ngu là độ, sắp bắn mũi tên, thì trước độ cơ đó, hợp thì phát ra sẽ trúng, như sắp khai hóa, phải khiến hẳn quy về) khách nói: Phật xuất hiện ở Nhung, giáo khắp người Nhung, Hoa Phong là Nhung, cũng chẳng xấu xa ư? Người chủ đáp: Không phải như vậy không phải như vậy, chỗ quân tử ở còn là chẳng xấu xa, huống chi nói bậc thánh ư (Luận ngữ chép: Khổng Tử muốn đến Cửu Di, có người nói: Xấu xa đến làm gì? Khổng Tử bảo: Quân tử ở đó, còn có gì xấu xa. Quân tử còn vậy, bậc thánh ở đó, thì hóa hẳn chẳng xấu xa) Phàm Hoàng Thiên không thân, chỉ đức là phụ, học không thấy thường sư. Chủ Thiện làm thầy (chủ là thân, có thiện thì theo ý mà theo) thiện của thiên hạ là một, sao có thể lấy đê phong làm hạn ư? Chỉ lấy lợi tế làm tâm, đâu lấy phong vực làm hạn) nên đại Võ Cơ Văn là bậc thánh vương (Đại Võ ra từ Tây Khương sống ở Thạch Tế, nay là Lộ Mậu Châu, Chu Văn sinh ở đất Bân đều là Nhung Khương) Do Dư Nhật Đạn là bậc tôi hiền (Do dư là Nhung sứ đến đất Tần, Tần xây dựng cung thất, Do Dư gièm chê là: Nếu chẳng thợ quỷ thì phải do người tạo, Kim Nhật bi là người Phiên ở thời Hán Võ, ở tại Hán cung rất hiền) khi sống chẳng ở Trung Hạ, Thái Khương Chu U là các quan quân (Thái Khương là Hạ Vương ham vui dạo đồng ruộng, năm người con làm bài ca để ngăn cản, mười tuần (trăm ngày) mà chẳng trở về, Chu U Vương sủng ái Bao Tự mà diệt thân) Hàn Trác thân hầu là kẻ tôi bội ngược (Hàn Trác Bá họ Minh đến gièm pha con em, diệt Nghệ mà lên ngôi, thân hầu diệt Chu U Vương) sinh chẳng ở bốn di. Há đem bang vực mà nói về hiền bỉ ư? Mà hoàng đế lên Côn Lôn, lão thánh đến
Lưu sa (hoàng đế lên núi Côn Lôn hỏi đạo với Quảng Thành Tử, Lão tử đến Lưu sa, tìm Phật Thích-ca) đều quý điều đã nghe, kính mến chỗ đồng, mà sau tìm sang (đồng thanh ứng nhau, đồng đạo tìm nhau) nên Hồ Mã phục tạo (Tạo lệ dưỡng mã chức hèn) Hồ Nhạc Trương Đình (như cầm, sắt, khương, địch, v.v...) Hồ Tông sung phủ (Tông Bích ra khu vực khác) thì chẳng gọi là xấu xa ư? Nên mong cầu đạo xuất tục, phải là nghi của trái tục (đầu tròn áo vuông) ở trong nghi thức đó mà chẳng muốn gắng gỏi, với đạo thì hạng trung tài trở lên vừa xấu hổ (ở đất không bụi trần, làm nghi trái thế tục, chẳng tiến đức tu nghiệp mà rong ruổi trong làng tài lợi, hàng thượng sĩ thấy vậy rất xấu hổ) mà Khổng thánh nói: Chẳng dám hủy thương, bởi nói răn mù vời hại (sảnh là lầm lỗi, hại là tai, Hiếu kinh nói: Thân thể da tóc chẳng dám làm thương tổn, bởi răn lỗi lầm tai hại ấy). Còn Thái Bá thì thấy cắt tóc làm chí đức, Dự Nhượng vì sơn làm giữ trung (Ngô Thái Bá là con trưởng của Chu Thái Vương, vì ấu đệ quý lịch hiền, lại sinh Thánh Tử Văn Vương, xương biết đó sẽ có thiên hạ, bèn trốn đến đất Ngô, Khổng Từ lấy đó làm Chí Đức, Sử Ký chép: Triệu Nhương Tử giết Trí Bá, Dự Nhượng nghĩ vì Trí Bá mà bảo đó, Nhượng Tử biết bèn bảo người trong nước đuổi đi, Dự Nhượng mới sơn thân biến đổi thân, suốt than để đổi tiếng mà đến nước đó, Sử Ký cho là trung, thì cắt tóc biến thân chưa phải là bất trung bất hiếu) Họ năng lập đức phô bày danh, đâu từng lấy toàn vẹn tóc da đó làm hiếu ư? Do đó, xưa nay Hoa Hạ biết họ có ích lợi sâu dày nên đắp tượng đó, chẳng vì biến đổi thân nghi nên anh hiền đó phế bỏ, tại quan phục thì nhà nước hưng, nên hữu viện chẳng mượn trâm cấp (quý Hữu và vệ thúy viện đều là hai bậc hiền, đâu do trâm cấp mà đạt) Hoàn Mão chẳng vì râu đỏ (Hoàn Đồi Thiếu Chánh Mão đều là kẻ bất nhân, đâu vì râu đỏ) sao vinh đây nhục kia ư? Xưa, Triệu Võ Linh Vương là người đầu tiên biến đổi y phục người Hồ (Triệu Võ Linh vương bảo với Lâu Hoãn rằng: Tôi muốn mặc sắc phục người Hồ, đáp: Tốt! Các quan chẳng muốn, Phì Nghĩa hầu vương lại bảo đó rằng: Tôi muốn mặc sắc phục người Hồ mà sợ đời sau sẽ bàn nghị quả nhân phải làm sao! Phì Nghĩa nói: Thần nghe nói nghi việc không công, nghi hành không danh, vua đã định mạng lo nghĩ của dị tục, trị không đoái hoài bàn nghị của thiên hạ, người ngu mờ tối rối với việc đã thành, người trí thấy việc khi chưa nẩy mầm, nhưng vì sao vua nghi? Từ đó bèn mặc sắc phục người Hồ) sau thời Tùy Đường dần sửa đổi áo mão, chỗ quý là trị, kiến lập làm vương độ, ghi sự ghi lời, chưa thấy ai gièm pha đó (làm chính trị là quý ở sửa dân, lập vương độ đó, chưa thấy ai gièm chê mặc y phục người Hồ). Trọng Ni chẳng phải bề tôi của Ngu Hạ, mà tông ở ba đời Lễ Nhạc(Ngu, Hạ, Thương) Ngô Việt chẳng phải nước Lỗ thuộc Vệ mà hành giáo của Cơ Văn, Chu Công họ Khổng, đến chỗ Tần Chánh Tân thất đặt nên điển pháp trăm quan hành chánh, Đế vương đời sau phần nhiều cũng tầm ở chính nhân mà không tiếm (Chánh là Thỉ Hoàng, Tần Thất là Vương Mãn cả hai tuy là vô đạo, đặt pháp độ trăm quan, hoặc nhân mà chẳng sửa đổi). Hoặc vì hai đời Vương Mãn đồng ở Trung Hạ nên thay nhau tiếp nối. Chẳng phải kia tuyệt vực là, hoặc là mất ý của dụng thiên ty mục (trời xanh chưng dân, tư mục của cây, hoặc nói dùng đạo của trời, đâu hạn cục ở Di Hạ) phàm chỗ có một mặt trời, mặt trăng đều là thiên hại ta, ta hành thiện của thiên hạ thì ai chẳng là thiên hạ của ta ư? Xưa kia Sở Vương mất, Cung Nhậm Sở được đó, Trọng Ni nói: Tiếc thay đó chẳng lớn, sao chẳng khiến người được đó? (Sở Vương mất, Cung nói: Chẳng qua người Sở được đó, Trọng Ni nghe vậy bảo: Tiếc thay sao chẳng nói người mất, người Cung được đó) nay chỉ nói là đều xưng Tây Vực là Hồ, mà thật Hồ ở dưới Thông lãnh hơn ba mươi nước, phía Tây lãnh nước Thânđộc gọi là nước Bà-la-môn. Nhưng ở khoảng đó chẳng phải không lẫn lộn, hõm mắt điêu quyết, như y lạc xứ này, Nhung Địch bức chiếm vương kỳ gần, nên Thân-độc rất xấu xưng là Hồ (nay Hà Nam là khoảng đất Ỷ Lạc đều có người Nhung ở) nhưng Vương Phù nói trong kinh Hóa Hồ là: Người Hồ rất hung tợn, nên giáo hóa đó thành Phật khiến râu đỏ dứt dòng dõi. Tại sao mê lầm như vậy? Ngay thời Xuân Thu, Xích Địch, Bạch Địch làm cướp thì các nước, Hiểm Duẩn, Khổng Xý, Man Di, Hoạt Hạ (Khổng là rất, hoạt là loạn, đương thời Xuân Thu, Địch đánh Tấn Lỗ v.v...)Vì sao gần mà chẳng phục xa, ở bên ngoài Lưu Sa, cuối cùng của Đại Hoang mới bày dõng ư (Lão Tử sinh trong nước vào thời Định Vương, tự bị Nhung Địch bức ép sao chẳng hàng phục đó, mà nói đến Tây Trúc hàng phục người Hồ kia ư). Lại từ xưa, thánh vương đều xa là nghĩ đó, sao có ngầm mong hết nối dõi kiểu răn nhân đạo (người xa chẳng hàng phục thì tu văn đức để lại đó. Lại nói: Chỉ đức động trời không xa đâu chẳng đến, lại không lười không hoang, bốn di lại vương, đâu cần dứt dòng dõi, ép làm răn dạy đó) rõ ràng phàm tam miêu hoằng khóc, Thương Ưởng cực pháp chưa quá lắm so với đây (Thời Thuấn, nước của Tam miêu, bên trái là Động Đình, bên phải là Bành Thành, ở ngoài hoang phục, mấy ngàn vua giết chết mà chẳng theo Vương Đạo, thời Tấn Thái Công. Tôi hèn cảnh lâm tiến vệ nhân thương Ưởng, dùng khóc mà giúp Tần, sau Hiếu Công băng, Tuệ Vương lập sai xứ đánh bắt, thương quân chạy đến dưới quan, muốn nghĩ ở nhà trọ, người khách chẳng biết đó là Thương Quân, nói lệnh của Thương Quân, người trong nhà không xem xét là ngồi đó. Thương Quân nói: Than ôi! Là tệ của pháp, một đến đây ư? Bèn bị vạch bày mà giết, nay Thích tử chẳng phải học trò của Tam miêu, lão thánh chẳng phải loại của Thương Ưởng, sao đến ở đây) mà lão thánh nói thường thiện cứu vật, há như vậy ư (nếu vậy thì nói và làm trái nhau) Khách nói: Trái lệnh cha, để lại me đau xót, khinh úy đến hiểm, có thể gọi là hiếu ư? (Thái Tử Tất-đạt-đa muốn xuất gia, vua cha chẳng chấp thuận, thêm thể nữ để mua vui, nửa đêm Thái tử ngầm vượt thành trốn đi là trái lệnh cha, khiến cho di mẫu buồn khóc, tan tát ruột gan, là để lại cha mẹ đau xót. Ở vị trữ phó mà riêng đến ở núi hang là khinh úy, ở trong núi Tuyết là đến hiểm. Như vậy có thể gọi là hiếu ư?) làm thầy vua Bình Sa, ở tộc Ca-tỳ-la, bị A-xà-thế nghịch hại, Tỳ-lưu-ly đánh chiếm, mà chẳng cứu được, vậy được gọi là nhân ư? (vua Bình-sa tức là Tần-Bàba-la, ở thành Vương Xá là cha của A-xà-thế, vua A-xà-thế bắt giam bỏ tù cho đến đói khát mà chết, Phật chẳng thể cứu. Lại nữa, con của vua Ba-tưnặc là vua Tỳ-lưu-ly, do phu nhân Mạt-lợi sinh ra, là cháu ngoại của họ Thích, vì lời nói là con đứa đầy tớ mà dấy binh giết hại họ Thích, Phật biết túc nghiệp đó đối nhau mà cũng chẳng thể cứu.) Điềuđạt thiên luân (Điều-đạt là con của vua Hộc Phạn, anh em chú bác với Phật) Thiện Tinh chí tánh sống bị mắng nhục, chết mắc phải đồ thán, có thể gọi là Nghĩa ư? (Điều-đạt, Thiện Tinh đều đọa địa ngục) ngồi giường ngọc báu nhận bái lễ của vua và cha, nói rất trái khiêm nhường, dáng vẻ cao ngạo, có thể gọi là Lễ ư? Treo cung chưa tới mười ngày, mẫu hậu mất, họa hoạn khôn cùng, lỗi chẳng lớn ư, có thể gọi là Phúc ư? (Thái Tử sinh, treo cung dâu ở cửa, xưa kia Phật làm Thái tử, sinh mới bảy ngày mà Ma-da mất) Lợi đó như vậy sao còn muốn cho người trong nước hành theo? Người chủ đáp: Luận về Ái Ố, danh Dự nhục nhã nào nhất định, xưa có kẻ mắc tội với Tam Hoàng mà hủy bỏ Ngũ Đế, có danh dự Hán âm mà ép đè Trọng Ni (Trang Tử là Trượng nhân, Bão hũ xuống giếng để lấy nước tưới vườn, Tử Cống dạy đó làm lược. Hán Âm Trượng nhân thạnh, chèn ép Trọng Ni, đó là xảo Ngụy) có cưỡng ngư phụ mà trách Tam Lã (Tam Lã là đại phu Khuất Nguyên, gặp chỗ khen của Cận Thượng, Hoài Vương nghi ngờ, bèn biếm xuống Trường Sa, đi một mình trên bờ sông, gặp ngư phụ hỏi nên nói: Khắp trong đời đều say, chỉ mình ta tỉnh, khắp trong đời đều đục, chỉ có mình ta trong, ngư phụ khuyên mà chẳng được, bèn trầm mình xuống nước mà chết) có kịch Tần Pháp mà mỹ tân thất (Tần Thỉ, Vương Mãng pháp tàn ngược, đời sau có Dương Hùng soạn Mỹ Tân Thất, một thiên, kích bác Tần Thỉ mà ngợi khen Vương Mãng) xét sự trái thuận đó, phá tường xuyên cửa, là công của chim chuột (có tập học người xưa Tào Bá lại thêm xuyên cửa để cổ xúy phải quấy, như Vương Sung Lưu Tử Huyền, v.v... chỉ thờ Thư hoàng) Lễ chép: Đại Hiếu nghiêm thân, kế là chẳng nhục, kế là năng dưỡng (nghiêm thân nghĩa là khiến Tôn tỏ khảo đó, chẳng nhục là tu thân trì hạnh). Nếu đổi nhà thành quốc gia, thiên hạ gọi đó là Đại Hóa, hễ làm thánh thì thiên hạ ai cho rằng đó là nhỏ ư? Nên tuy gần mất Nghiêm ái xa giẫm núi rừng, mà khiến người của thiên hạ biết cha là cha của Đại thánh, biết mẹ là mẹ của Đại thánh, đã biết đó mà tôn sùng, đã tôn sùng mà an đó, nghĩa của Hiếu Tử thật gọi là chẳng quỹ (quỹ là thiếu). Đây mới là đạo Nghiêm Thân. Thi nói: Hiếu tử chẳng thiếu, trọn cho là loại đó) từng cho là bất hiếu, thì ai năng làm hiếu đó ư? Tăng Tử nói: Dưỡng thì có thể, còn kính là khó, (còn như chó ngựa đều năng có dưỡng, bất kính sao lấy làm riêng ư?) kính là có thể, còn an là khó, an là có thể rốt cùng là khó, cha mẹ đã mất, thận trọng hành thân đó, chẳng để lại tiếng xấu cho cha mẹ, thật có thể gọi là chung của hiếu) mà Đại thánh đâu chẳng đốc đó đầy đủ ư? Nếu là bậc thánh có làm chẳng trái, hai ánh sáng sớm tối chẳng trái bốn mùa, chỗ Vinh Lạc có thể trái: Là tạm hóa mà thôi, hóa lâu thì lỗi ở vật tánh, khôi quái quỷ quyệt sinh (tuy là bậc thánh chẳng thể trái với túc nghiệp). Còn tù tội đói chết vùi cốt vằm thịt là bởi đền trả nhân ở đời trước (vua Bình-sa vì không con, thầy tướng đoán là trong núi có vị tiên sẽ làm con, vua bèn giết vị trên đó để thọ sinh gấp. Lại khi chưa sinh thì làm con thỏ trắng cũng bị vua giết, nên nay bị vua A-xà-thế giam trong ngục tối mà chết. Dòng họ Thích lại vì đời trước giết cá lớn Ma-kiệt cho nên như vậy) báo ứng duyên trước, chẳng phải bậc thánh chẳng thể khiến tạm trái, chỉ vì chẳng phải dứt hẳn nghiệp lý (trong kinh chép: Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đã gây chẳng mất, lúc nhân duyên hội đủ quả báo lại tự chịu). Phàm hậu tắc khéo truyền bá thuận với thiên thời, Biển Thước thầy thuốc giúp hữu mạng, trái thời và mạng, kia chẳng thể làm, cho nên bỏ hình thì ảnh mới mất, trừ nghiệp thì báo mới hết. Nếu khiến mất ảnh để lại hình, dứt báo còn lại nghiệp, thì ảo thuật làm ra (chưa qua sám tẩy cho nghiệp dứt sạch thì đồng với thuyết của Vu Cuống yêu huyễn) xưa kia ăn thóc ngựa, Mục-liên thỉnh cầu mùi vị đất (Bà-la-môn Axà-ni-đa thỉnh Phật chín mươi ngày, chỉ ăn thóc ngựa, ở kiếp sơ có mùi vị đất vùi lấp ở dưới đất, Mục-liên muốn vận thần thông đến lấy, Đức Như lai chẳng chấp thuận, ý chỉ bày người đời sau) Catỳ bị vây quanh, Mục-liên xin dùng sắt làm thành (dòng họ Thích bị vua Tỳ-lưu-ly vây bủa, Mục-liên muốn hóa thành sắt để bảo vệ. Đức Như lai lại chẳng nhận lời, vì nghiệp chẳng thể trốn lánh) Đại thánh đều cho nghiệp báo chẳng phải như thế cho nên làm được mà chẳng làm là bất nhân, chẳng làm được mà làm, sao gọi là bất nhân ư? Nếu là được lý, tuy thương tổn mà gọi đó là nghĩa vậy, mất lý tuy tồn tại mà chưa gọi là Nghĩa. Đan Quân bạc bẽo đối với Nghiêu Thuấn (vì đó bất tài nên bạc bẽo, chẳng để cho nối ngôi) Quẩn tế di đối với Chu Đán (quản tế nhị thúc để lại lời phỉ báng Chu Đán, Chu công chẳng vì cốt nhục mà chẳng giết, bèn giết quản thúc ma tế. Tế thúc) Trịnh trang Khắc Đoạn (cùng Thúc Đoạn là mẹ của Trịnh Trang Công. Vì làm loạn, Trang Công Khắc đó ở yển) Thạch Thước giết hậu (Thạch Thước là cha của Thạch Hậu. Hậu cùng Công Tử Châu Hu giết Vệ Hoàn Công, tự lên ngôi, hỏi định Quân với Thước, Thước khiến triều bày mà giết chết) bởi cốt nhục là nhẫn. Bảo Tông Thiêu phụng thờ, nêu hình pháp đó để răn bày người ở tương lai, khiến những người không con, không em, sợ mà cố gắng, như Điềuđạt, Thiện Tinh, thường mượn Hồng Tư để khỏi tội, cho nên khuyên thiên hạ làm nghịch, nên kêu ăn đàm dãi để làm nhục (Điều-đạt học thần thông rồi, hóa thành một đứa bé ở trên đầu gối vua A-xàthế, vua A-xà-thế nhân đó khạc nhổ vào miệng đó, Điều-đạt hứng lấy mà nuốt, nên Đức Phật cho nhục đó là người ăn đàm dãi) rõ ràng trọng khổ để mong (ban đêm Đức Phật hành đạo, Thiện Tinh thấy thời gian lâu sắp hết, bèn giả làm quỷ Bạc-câu-la để làm Phật sợ hãi, nên bị đọa địa ngục) khiến chỗ ngửi vị đều có xấu hổ tạm cách (cách là chánh, tuy ở chỗ cốt nhục tợ có sĩ nhục, nhưng Lý Quy ở Chánh Đồng Tộc là ngửi đồng với vị) không có việc may đến mà khỏi (chẳng có việc may mắn mà khởi) do đó bậc thánh hình tự gần mà xa, chẳng kín thân mà chia sơ, nghĩa của Quyền lớn đâu có lường. Nếu là đại lễ cùng thiên hạ đồng tiết, đạo đức cùng trời đất Đồng Tôn, bậc thánh đồng thể với đạo đức, mà quân phu sơ suất lỗ thì Tôn kính trời đất, tôn kính trời đất thì gần đạo đức, gần đạo đức thì kính bậc thánh, kính bậc Thánh thì hợp tiết trời đất, mở rộng ngọn gió đạo đức, chẳng phải Đại thánh ta cần trên để cầu tôn trọng, bởi quân phụ do đạo đức mà tự tôn trọng, lễ pháp đã rõ ràng mà người là bắt chước, nên khiến hình nghi khác tục, thì chẳng khác là lễ kính, thuận với đạo đức, hình nghi chẳng khác tục, khiến khác tục là lễ kính, thì trái với đạo đức, tuy khác mà không hẳn hiền đối với chẳng khác. Chẳng khác là không hẳn ngu đối với khác, nhưng ngẫu của đất đá tiêu biểu tượng tiết đó vẫn có thể kính (đất cây đắp khắc họa tượng) con của người làm ruộng, người buôn bán phục mạo sao chẳng kính. Bốn tánh xuất gia đều đồng họ Thích, không vì dòng họ thấp hèn mà không kính, kính kẻ chẳng ra gì còn hơn không kính. (chẳng vì phàm thường mà kính thì còn hơn chẳng kính) còn dê mà biết lễ (thường lễ của Lỗ thì phải giết dê, cáo, sóc ở miếu, từ Văn Công về sau chẳng rành lễ cáo, sóc, chỉ còn tế dê mà thôi, đến thời Ai công, Tử cống làm ty thương, chủ lễ tế miêu sóc, cáo, do vua chẳng thấy sóc, bèn gần muốn phế bỏ sự của tế dê, phu tử bảo: Ông mến dê, ta mến lễ đó, quân tuy chẳng thấy sóc, thấy dê còn biết lễ này, nếu gồm bỏ cả dê thì lễ không được ghi chép, nay kính cũng vậy, mua xương ngựa để chiêu hiền) Xưa kia, Yên Chiêu Vương sắp chiêu mộ hiền sĩ, Quách Quỳ nói: Xin Vua dùng vàng ròng đắp đàn, mà tôn đối với bề tôi thì bậc hiền của phương Tây sẽ đến. Vì thân chẳng giống mà Vương còn dùng đó, huống chi bậc hiền ư? Xưa kia, có khi cầu rồng ngựa mà chẳng được, có được đầu ngựa chết là lên, Vương đem ngàn vàng cúng tế, mọi người nghe vậy đều đến, chỉ một tháng được ba rồng ngựa, xin vương tôn thần, sau quả có vui lại cùng mấy người mà đến). Bởi đại đạo của nhân luân. Nên Quân Phụ kính hay chẳng kính là tại mình, vì Sa-môn thọ hay chẳng thọ mà tại người chẳng phải Đại thánh hẳn muốn ép Quân Phụ phải kính, Sa-môn phải muốn ngồi nhận bái tiếp. Con Tân Quan mà mẹ bái (Lễ Ký Quan nghĩa nói: Đã hai mươi tuổi mà đặt tên chữ, là đạo thành nhân, thấy ở mẹ, mẹ bái, thấy ở anh em, anh em bái, thành rồi mà đủ làm lễ) Giới trụ là chẳng bái, đều chẳng mất kính của Quân thân. Huống chi nho chẳng có bề tôi, Thiên tử chẳng có Quan Sĩ chư hầu ư? (như Sào Hứa, Tứ Hạo, v.v...) nếu là Ma-da mượn tuổi thọ đợi làm mẹ Phật, thánh đã ra đời, hoàn hình về trời (kinh Hoa Nghiêm chép: Chư Phật ở quá khứ và tương lai đều lấy Ma-da làm mẹ, sinh Phật xong thì trở về trời) mẹ con có dụ sao chẳng phải là phước ư? Xưa kia, Hạ Khải sinh mà mẹ hóa thành đá (Đế Vương Thế Kỷ chép: Lấy con gái họ Diệp nói: Tu rồi đi dạo núi thấy sao băng ý cảm, lại nuốt ý tỳ ba năm chẳng sinh, sau đó vạch hông mà sinh Võ, nay ở huyện Quảng Diệp núi Thục Vấn có vùng đất tên Thạch Tế, là nơi mẹ Võ hóa đá. Lại Võ muốn thông Viên sơn, bảo con gái Đồ Sơn rằng: Hướng ta nghe tiếng chuông trống mà đến, Võ đáp đá năng trúng tiếng trống, nữ đến Hướng thấy Võ mới hóa động, mà đến dưới Tung Sơn hóa thành thạch nữ, mới mang thai Khải, Võ nói: Ta là con của đá về phá mà sinh khải, thì mẹ hóa thành đá). Y Duẫn sinh mà mẹ thành không tang (Y Duẫn là tướng văn của Thang, vừa sinh thì mẹ hóa thành không tang). Há chẳng tốt lành ư? Nên hai giáo nói thẳng ở đời này Thích giáo gồm bày ở đời khác, như hai người mẹ kia hóa thành đá dầu tinh hồn đi đâu, Thánh mẫu cúi đầu, nhật nguyệt xuống buồn, người đời thật thì phước giẫm sắp đến, khách nói: Ngược nhà Ngụy giết ở nội tín. Hôn Chu chẳng giống ở Huyền Lữ (Ngụy Thái Võ Thác bạc đào, niên hiệu Thái Diên thứ năm diệt pháp có che giấu Sa-môn thì bị tội chết, Chu Võ tự Văn Ung, niên hiệu Kiến Đức năm thứ hai Phật giáo Huyền Tăng cũng phải gánh chịu) khiến khắp nơi xôn xao, ân vua hết sạch, mới đầu như có thỏa ý, rốt cùng thì chóng hại (hai vua lúc đầu diệt pháp dường như hợp với chí, sau đó cũng kết quy về bệnh xấu ác) kia sao đến so với đây ư? Người chủ đáp: Lệ khí ung đúc mà năm nghĩa bại, gian tà làm mà muôn linh tức giận (ngũ hành đã bại, trăm thần tức giận) nên chỗ giúp của trời là thuận, chỗ người giúp là tin, chẳng phải tin, chẳng phải thuận, người trời đều giết, chẳng mất được ư? (Thư nói: Trời làm yêu nghiệt còn có thể lánh, tự làm yêu nghiệt chẳng thể trốn). Đầu đời Ngụy, Thái Tổ Thái Tông (Thái tổ là Thát Bạc Khuê, Thái Tông là Thát Bạc Từ, hiệu là Minh đế, Thái Tổ là con cả của Võ Đế) dốc tin giáo lý nhân duyên, Samôn Pháp quả là bậc giới hạnh tinh thuần, khai giảng pháp tịch, vua Thái Tổ ban chiếu làm Samôn Thống, Thái Tông càng thêm tôn kính, trao cho hết ngôn từ là phụ quốc nghi thành tín hầu an thành Công Đế đến chỗ đó ở, vì cửa hẹp xe kiệu chẳng qua được nên ban sắc chiếu cho mở rộng, tám mươi tuổi mới thị tịch, Đế đích thân đến dự lễ tang, tặng hiệu là Lão Thọ tướng quân (đều biểu trưng sự sủng ái của Đế) Triệu Linh Công Thế Tổ lên ngôi (Thái Võ Hoàng Đế) mới đầu vâng hành, thường dẫn các vị Sa-môn cao đức cùng chung bàn luận, vào ngày mồng tám tháng tư, kiệu tượng ra giữa đường rộng, đế ngự đến cửa, rải hoa cúi đầu cung kính, chỉ vì tám tuổi lên ngôi, thưa hỏi Quốc Chính với quan Tư Đồ Thôi Hạo, đến lúc gặp được Thiên sư Khấu Khiêm, ban chiếu cho các châu trấn lập đạo tràng gặp Cái ngô phản lại ở Hạnh Thành, Quan Trung bị nhiễu loạn, niên hiệu Thái Diên thứ năm tức năm Kỹ Mão, Đế tiến về hướng Tây đánh Trường An (thời Hậu Ngụy đóng đô ở Bình Thành) bấy giờ, Sa-môn có gieo trồng lúa thóc, trong chùa có ngăn đạo mục, Đế vào chùa xem ngựa, theo quan lén nhìn, thấy trong phòng có tài sản cung nỏ mục thú, do các nhà giàu gửi giấu, mọi vật nhiều đến muôn vàn, khi ấy Đế mới hai mươi bốn tuổi, Xuân Thu dồi dào mà ít ở Lý Học, thấy việc ấy hợp với lời nói của Thôi Hạo, do đó ban chiếu, đốt phá kinh tượng, chỉ để lại bốn chùa dưới đài như Trường An. Niên hiệu Thái Bình Chân Quân thứ năm lại ban chiếu, từ Vương Công trở xuống đến thứ dân, có ai riêng chứa Sa-môn, kỳ hạn ngày mười lăm tháng hai năm đó phải ra, quá kỳ hạn chẳng ra, Sa-môn thì tội chết, người dung chứa thì giết cả nhà, bấy giờ, Tông cung phụng Thái Tử giám quốc dâng biểu cản ngăn: Hình giết Sa-môn rất tàn khốc, lại chẳng phải tội của Đồ Tượng, nay nên bãi bỏ đạo đó, phá dẹp các chùa, ở đời chẳng tu phụng, đất gỗ xanh đỏ tự nhiên hủy diệt, tấu chẳng thực hành, năm đó thầy của Thái Tử Hoảng là Sa-môn Huyền Cao, do Thôi Hạo sàn tấu, nên đều bị giết (cùng Thái Tử đều như vậy) nhưng tháng ba mùa xuân niên hiệu Thái Bình Chân Quân năm thứ bảy, ban chiếu Phật pháp tất cả đều trừ diệt, Sa-môn chẳng kể lớn nhỏ đều bị chôn sống. Tông Cung nói tuy chẳng dùng, còn Hoảng tuyên chiếu mạng lịnh xa gần đều được che giấu, tính kế chạy trốn. Thôi Hạo chết khoảng năm thứ mười một, Võ Đế Di Lưu bị Tống Ái là một người bị thiến làm hại (hậu Ngụy mới đầu đóng đô tại Bình Thành, họ Thác Bạt đến thời Hiếu Văn Hoàng đế mới dời đô đến Lạc Dương, đổi thành họ Nguyên. Tây Ngụy nương theo Vũ Văn Thái đóng đô ở
Trường An, Đông Ngụy đánh triệt cung quyết Lạc Dương đóng đô ở Nghiệp Thành) lúc đầu Thôi Hạo và Khấu Khiêm đồng theo vua Khấu Khiêm tranh giành mà Thôi Hạo chẳng theo, Khấu Khiêm nói: Nay ông thúc giục tuổi thọ, diệt cửa nhà (cuối cùng sắp bị giết còn khiến đái vào miệng đó) Chu Cao Tổ cho rằng Sa-môn ứng với sấm đen, lúc đầu Thái Tổ Hắc Thái gặp Ngụy chạy về phương Tây, y vật cờ xí đều chuộng sắc đen, sau đó Sa-môn đều mặc y vàng, dân Tề rất kỵ, mà người Chu lấy làm chẳng hắc (đen chẳng phải quạ) giết họ Ô chẳng hắc, chẳng phải đậu, bèn giết họ Đậu, có Vệ Nguyên Tung phản phúc, (người huyện Tân Phồn đất Thục, phản phúc là dâng trạng văn sa thải) Mũ vàng Trương Tân cùng Ngẫu Canh (ngẫu là đối, canh là dùng khẩn ở Tông giáo hai-mùa Xuân Thu ngẫu nước Tấn) Đế-đích thân thọ phù lục, tháng ba mùa xuân năm Kỷ Sửu tức niên hiệu Thiên Hòa thứ tư, nhóm họp cả Tam giáo những người có gia văn, và văn võ hơn hai ngàn vị, kiểm bàn Hưng Phế chẳng nhất định, qua tháng tư mùa hạ, ban chiếu, ban chiếu ty lệ chân loan xét rõ, niên hiệu Thiên Hòa thứ năm, Chân Loan dâng luận Tiếu Đạo (ở trong tạng) đế lấy làm rõ đạo pháp luống dối rất là thấp hèn. Đạo An dâng luận Nhị Giáo đế mưu hơi ngầm, đến tháng năm mùa hạ niên hiệu kiến đức thứ ba giúp hai giáo hủy nhau, kế đó lại thực hành, Thích Lý đồng bỏ, sánh như chó rơm. Lão Tử đạo kinh cho muôn vậy là con chó dồn bằng rơm) chôn tượng giết người, chẳng thể nghe nổi, mùa xuân niên hiệu Kiến Đức thứ sáu Chu Sư đánh Tề, tự lấy làm giúp của diệt giáo (ngày mười chín tháng giêng niên hiệu Kiến Đức thứ sáu Bình Trị Bắc Tề, được Ấn Ngọc do Tần Hà truyền, vuông bốn tấc, văn viết là: Nhận mạng ở đời, đã thọ Vĩnh Xương, được năm mươi châu, ba trăm tám mươi lăm huyện 3.002.528 nhà, 30.002.886 người, tháng hai sư trở về) Qua niên hiệu Kiến đức thứ bảy, đổi niên hiệu là Tuyên Chính, năm đó chẳng kịp thưởng mà băng ở Vân Dương (thường là thu tế, tháng sáu Đế băng, ngày Thái Tử Bân lên ngôi, tuyên đế đổi niên hiệu là Đại Thành, Đại Tượng, hoang dâm tửu sắc, vào chợ vào thuế đều một tiền, sau đó lập Thái Tử làm Đế, Tự xưng là Tuyên Nguyên Hoàng Đế. Hễ tham, hễ trọng lợi nào đoái hoài đối với Quân thân, như Thương Thần khoát quý không lánh điều ác (Thương Thần là Thái Tử Sở Thành Vương, giết cha lại thêm tên thụy xấu ác, mắt cha chẳng nhắm, đổi thụy hiệu là thành mới nhắm, Khoát Quý là Thái Tử Vệ Linh Công muốn giết mẹ, Nam Tử chẳng nhanh chóng bèn bỏ chạy, Công chết mới lập con của Khoát Lý, cha con đánh nhau giành nước, ra vào giết hại nhau, đâu lánh tiếng xấu ác) Thác Bát vì lời gièm tấu mà giết Nguyên Tử, (Thái tử Hoảng bị Tông Ái sàm tấu hành dâm ở nội cung, Đế tức giận, Thái tử Hoảng sợ giết chết nên sắp mưu tính phản nghịch, đế mới giả vờ chết sai gọi Thái tử đến, dùng lộng sắt giam giữ đó, đánh ba trăm gậy rồi giết chết ném vào bụi gai. Thường Thị Tông Ái về sau hại đế) Vũ Văn vì ngờ kỵ mà hại Gia tể (Tấn Công Vũ Văn Hộ làm Thái Tể chấp chính, thường nghi kỵ đó, tháng ba niên hiệu Kiến Đức thứ nhất đế tự đánh giết đó ở trong cung, Đế tự nắm cả muôn cơ, kia còn là kình nghê đối với cốt nhục mà há đấng năng nhân tha thứ ở đạo đức ư? (cá kình nghê lớn mà ham đấu đá) nên nay đồng tử Tam Xích không gì chẳng để chưởng, thở dài với việc đó (để chưởng là chống tay mà bàn nói) buồn thay hai Võ chẳng được làm quỷ, sao mặt dày đối với Tổ Khảo, khách nói, Ngụy Linh Thái Tổ sắc đồ hết sản của Ức Triệu, lao vời như tạo hóa, người thật gìn giữ đó, trời như bỏ đó, nên một mai làm tai họa, khói lửa cháy rực ở chín bụi trần un cháy suốt ở Trùng Ngân(nhiều lớp bờ) chưa dụ ý trời, có thể nói ư? Người chủ đáp: Phàm vật lấy hợp độ làm đức, mất độ làm nghiệt làm đức thì thường, làm nghiệt thì mất, họ Hồ là Nghiệt, vì quá với đại tráng, đâu thường của quỷ thần, bởi do sức người, đó cao ngàn thước, gồm có chín tầng, trên sát bình vàng, đựng được hai mươi lăm hộc. Vàng hứng lộ bàn mười một lớp, bốn góc khóa sắt, bốn đường dẫn sát đều tủa linh vàng như một hộc khí, bốn mặt đều có ba cửa lớn, khoảng giữa có sáu cửa sổ, cửa son chạm vàng, trụ thêu vàng thiếp, gió thu suốt đêm chói lòa giữa hư không, âm vang leng keng vang xa hơn mười dặm, chăn dài rông tỏ, lên xuống trót vọt, bậc nhất ở Diêm-Phù-Đề. Kinh (Dịch nói: Xưa kia Huyệt ở nơi đồng trống, đời sau bậc thánh đổi thành cung thất, trên nóc dưới mái để đãi gió mưa, bởi lấy các Đại tráng, chưa có trái khiêm vượt lễ, năng tráng đó ấy) tuy thạch thì cực, mà nam có cường lân, giữa phân nhật nguyệt. (Bấy giờ, Thái Hậu ở Lạc Dương, Võ… Kim Lăng) nước có gian thần cầu bệnh của chủ (nghĩa là loại của Nhĩ Chu Vinh) vàng ngọc đã hết, vật dịch cũng khổ, sau đó Nhĩ Chu thừa khe hở, chân động dưới cầu song Triền Lạc, áo mão mất nơi cá ba ba (Thái Hậu chẳng tu đức chính, Nhĩ Chu Vinh, v.v... kháng biểu nói: Nay trong nước đều nói mất đế vì chẩm độc hại đó, vàng trẻ con chưa nói để đến bốn biển, Vinh bèn dẫn mọi người vượt qua sông, bèn đến Lạc Dương, sai kỵ bắt Thái Hậu và thiếu chủ, v.v... và Triệu thượng thư Trương Ly, Trương Lương đều xây một ngôi tháp lớn, Phật-đồ-trừng bảo với đó rằng: Thờ Phật ở nơi thanh tịnh vô dục, từ căn làm tâm. Đàn việt kính thờ đại pháp, làm sao có thể mong cầu của phước báo, Da-ly v.v... về sau đều bị giết chết, chỉ tâm người không gửi gắm nên gá tháp tượng để nói, Lý Nghệ thì nên lấy tâm của bậc thánh từ thứ. Nếu ngoài chinh phạt nịnh thiện, trong giấu tàn ngược, hẳn chỗ nhóm hợp của nghiệp hại, chẳng phải sức thánh mà năng a dua đó, vả lại Đại thánh bị cắt thịt xoa da tánh vẫn bình đẳng không hai (Đức Như lai có ba bình đẳng, bên trái dùng Chiên-đàn xoa, bên phải dùng dao bén cắt, ở giữa một người không cắt không xoa, Đức Như lai đến với ba người đó, tâm vẫn bình đẳng) sao có thể vì một ngôi tháp mà cho đó chẳng phải thiện ư? Nên làm thiện là phải, đem Thiệu đến thiện, không thể chẳng phải thiện đến thiện. Thư nói: Con cái móc không sớm, sớm của con đực móc chỉ đòi của nhà, hoang thay! Hồ Hậu đòi nhà của họ Nguyên (văn của Mục Thệ, Đem phụ nữ biết quốc chính dụ cho mẹ móc thay đực móc kêu thì người nhà phải lặng đòi, là dụ cho Hồ Hậu biết chính) tuy muốn dựng chẳng Công của thế gian, mà thật nhọc chẳng tạo của nhà (hậu Ngụy Linh Thái Hậu Hồ Thị là Hậu của Tuyên Võ và là mẹ của Hiếu Minh, nơi Hồ Sung Hoa Tôn làm hoàng hậu. Hiếu Minh nhỏ dại, Thái Hậu lâm triều xưng chế, dâm loạn nơi triều, bảo thị thần bắn, không thể phạt đó, tự bắn lỗ kim, trong đó vui mừng, Đại thần tuyên dâm, có Dương Bạch Hoa là người có tài năng tướng mạo, Thái Hậu bức ép, Bạch Hoa sợ họa mới chạy trốn đến đất Lương, Thái hậu nghĩ theo chẳng quên, bảo các văn sĩ làm ca từ, suốt đêm ngày sai người trong cung ca xướng liên tiếp rất buồn thảm) nói: Gần phía đông giết trâu, chẳng như tế được của gần phía Tây tế nói quỷ thần hưởng ở khắc thành, mà sánh với bậc thánh ư? Có chỗ cho rằng của cải trái đọa làm thiện còn hơn so với tế ác chẳng tuyên bày biến đó, kia là A-lợidung, chẳng phải kẻ sĩ khinh gốc trọng ngọn. Phàm Sa-môn chứa nhóm buôn bán làm tượng, luật gia không lễ (chẳng trọng chẳng phải đạo. Hồ Khâu trộm tài vật làm thức ăn, nghĩa sĩ mửa ra: Viên Tinh Mục từng đói khát đạo, Hồ khâu trông thấy đến mà hưởng đó, nhân đó hỏi: Ông là ai? Đáp tôi là Hồ Khâu, xót thương ông đói nên trộm cơm cha để cho ông. Nói: Tôi là nghĩa sĩ, chẳng ăn thức ăn vô nghĩa, bèn chống hai tay nơi đất, oái nhả đó mà chết, xuất xứ từ Liệt Tử) Lễ nói: Cha mẹ đã mất, phải cầu gạo thóc của bậc nhân giả để cúng, đây gọi là lễ, vậy biết của cải chẳng phải lễ thì chẳng làm phước. Nếu chiếm thật như điều đã nói, bởi tiểu nhân ở trong chẳng phải đạo tự nói hơn kém. Đó do con của thường hủy hú chẳng nối tiếp cha là đức (chẳng kế thừa cha hung hủy làm đức) trộm của mở tráp, lấy năng hành nhân nghĩa làm hiền (Quỷ Cốc Tử nói: Mở tráp mò đãy khư bàng vậy, từ bên cạnh mở lấy làm khư) cũng chẳng phải rõ bày, lưu huấn của khuyển điển. Khách nói: Lương Võ dốc chỉ mở mang, nổi tiếng khắp vũ trụ, đáng với trời khuyên gồm giáng trời trọn mạng sao phân băng lìa chiết cốt nhục tàn hại nhau, chẳng phải hết đời mà có dụ ư? (Lương Võ Đế Tiêu Diễn thọ trai thiền, chỉ tôn sùng Phật giáo, Tông Miếu ăn chay thân mặc pháp phục, xả thân vào chùa, bề tôi góp tiền chuộc về, đến lúc Hầu Cảnh phản nghịch, tại thành Thạch Đầu chôn vùi buồn tức mà băng, Giản văn Hiếu Nguyên thảy đều bị hại) người chủ đáp: Lịch số tại trời, biết nhỏ nhiệm tại thánh, mà bậc hiền con mờ tối, huống chi chỗ tài năng thích hợp mà nói ư? (…) trong niêm hiệu Đại Thống, họ Tiêu ứng vị của báu lớn, hành giáo của bậc thánh, hoặc chẳng thấy tâm của bậc thánh xa, phàm mặc văn thể đeo kiếm bén, mang tấm chắn để đến các hậu, đâu hẳn tổn mình làm đài lệ ư? (đài lệ là kẻ nghèo hèn, lại làm tạo lệ thông) hẳn như nhàm chán nhà vàng đề cung thấp bé (tề là ưa thích). Hồ chẳng trải có đức mà cao nhường, giẫm dây vàng mà chẳng trở lại (Hồ là sao, Kỳ Viên dùng dây vàng giăng ranh giới đất) đâu đợi có cầu xin của bên bề tôi ư (Lương Võ ở trên muôn thừa, ba lần xả thân vào thường trú để cung cấp tiện lệ, triều thần đem muôn tiền chuộc bèn trở về) Dương Chu nói: Đường Nghiêu ngụy nhường để hưởng phước, Di Tề thật nhường mà làm cho đói khát, huống chi Họ Lương gồm mất cả ngụy, thật ư? Tuy bốn mươi lăm năm giang biểu vô sự, mà chính hình tương khuyết, lễ nhạc băng buông, chính dao chẳng giảm, giáo bụa không cáo, vua xướng tôi hòa, cha xướng con hòa, tự cho là trí lý vô vi, Cao Đàm trị nước bèn khiến cho Hầu Cảnh dòm ngó, cậy trời làm oai, đã mất thân đó cũng bỏ tộc đó. Thượng cửu ở đầu, đâu được không hối (dịch càn quẻ thượng cửu lừ lục, Kháng long có hối ở cùng cực của thượng vị, là nói biết tiến chẳng biết lùi, biết còn chẳng biết mất, biết được chẳng biết mất. Niên hiệu Thái Thanh thứ nhất, Hầu Cảnh làm phản ở Thọ Xuân, bèn vượt qua sông, bao vây Đài Thành. Trần đế đến mười mất viện quân chẳng có chí đánh, bèn vùi lấp Đài thành, Hầu Cảnh tự làm Thừa tướng. Đế buồn giận thành bệnh, miệng đắng đòi mật chẳng được hà hà mà băng thọ tám mươi sáu tuổi) Tống Văn Đế nói với Cầu-na-bạt-ma rằng: Đệ tử thường muốn trai giới, chẳng giết bức hại, đem thân theo vật chẳng được theo chí, Pháp sư lấy gì chỉ dạy! Cầu-na-bạt-ma bảo: Đế Vương so với thất phu, hạnh tu đều khác, thất phu thân hèn danh kém, nói lệnh chẳng oai, nếu chẳng khắc kỹ chỗ thân thì lấy gì làm dụng, đế vương lấy bốn biển làm nhà, muôn dân làm con, nói ra một lời các hàng sĩ nữ đều lấy làm vui, bày một thiên chính, người thần đều hòa, nên phải hình luật không yểu mạng, khiến làm không nhọc sức, khiến gió mưa thuận thời, lạnh nóng đúng tiết, trăm thứ lúa thóc đượm nhuần, dâu mè tươi tốt, trì trai như vậy trai cũng lớn lên, chẳng giết hại như thế, đức cũng nhiều (thanh khiết là trai, phòng phi là giới) thà tại cửa ăn vào giữa ngày để toàn mạng một con thú, sau đó mới là rộng tế. Đế vỗ ghế bảo: Lời pháp sư nói thật đáng là khai ngộ tâm người, minh đạt vật lý, có thể gọi là bàn nói ở giữa trời người. Tốt đẹp thay như người chẳng phải riêng dụ tiến ở chân môn, ước cũng giúp hưng thạnh vương hóa, mà trai đó và giới tuy thiên tử đến thứ dân đạt chí lý đó, còn ngũ hiếu chẳng đồng kinh đó (Thiên tử lấy bác ái rộng kính làm hiếu, chư hầu lấy chẳng kiêu cẩn pháp làm hiếu, Khanh đại phu lấy tuân theo pháp ước lễ làm hiếu, sĩ lấy mến cha đồng vua làm hiếu, thứ dân lấy nghiêm cẩn tự thân dưỡng (người) thân làm hiếu), nghe một để biết hai; đó tại Tống Văn ư? (Văn Đế tên là Nghĩa Long, con thứ ba của Tống Cao Tổ, lên ngôi đổi niên hiệu là Nguyên Gia, có tài Văn Võ, chứa đức khoan dung, cần khổ tiết kiệm, làm vua ba mươi năm) vừa rồi khiến Lương Võ nhận thâu Đại Lộc khó thứ quan thuận khảo cổ thận quyết chung (lộc là lục, nghĩa là thân muôn cơ, chọn nhậm các quan chỉ khó được người, thuận xét đế đạo xưa mà thực hành, kính thận rốt cùng đó. Cái gọi là an phải nghĩ nguy trị chẳng quên đạo của loạn) xét ở lời trước mà hoặc chẳng bằng nạn này (nếu Lương Võ thường xét lời nói trước, sợ chẳng kịp nạn của họ Hầu), Thái Tử Cương (tức Giản Văn, con thứ ba của Đế) Luân (tức Thiệu Lăng Vương) Kỷ (thứ sử Ích châu Võ Lăng Vương) Tôn Thất các vương rất thoải mái văn mực, thỉnh đế tự giảng, bèn ban sắc đáp rằng: Các ngươi chưa đạt gian nan của cấy gặt, sao biết mang nặng của thiên hạ, chỗ chủ thường quân tử trẻ lấy nối bước che đầu đều do an chẳng nghĩ nguy, huống chi chưa an hay sao? Ân Giám chẳng xa, tại nơi đời trước, nay chỗ tôi hành tuy khác với ngày xưa, chỉ biết giảng nói, chẳng lo việc nước, thì cùng người kia khác thuật đồng mất (thuật là đường lối) nói trước sau nhiều lần cầu thỉnh, Đế cũng nhiều lần kháng cự, chỉ tuổi cao khí mờ, tinh hoa đã cạn kiệt, nhà có con nịnh cha, triều có sĩ chẳng phải cung, trước chẳng sau đáng, chết như đã nói (như lời nói khác thuật đồng mất, đến sau khi Hầu Cảnh làm loạn. Đế băng, Hầu Cảnh lập Giản Đế tìm chỗ tối đến tỉnh Vĩnh Phước để bặt người mong, về sau Hầu Cảnh lại giết chết, đến vương tăng biện phá, Hầu Cảnh lập Hiếu Nguyên Đế. Binh lính Hậu Ngụy đến thành chôn vùi bị bắt, nhưng phú thi làm túi đất chôn đó, Tiền Lương bốn chủ, nước quy về nhà Trần, hậu Lương ba chủ nước vào nhà Tùy) Khách nói: Một người mất ngự đã bị trời trách phạt, trăm thợ hành khắp lỗi gì dự nạn đến nỗi khiến chết là đùi mang đầu dựa, mà ngày tiếp nối ư? Người chủ đáp: Nói gì vậy? Phàm vua nhục tôi chết, huống chi vua chết ư? Phàm đế thiên hạ là lấy nhậm trung lương làm thánh. Trung lương lấy vệ xã tắc làm hiền, nên bề tôi của Văn Võ tiến nghĩ tận trung lùi nghĩ giúp lỗi, tuy đương thời ứng khí của Kim Lăng, chợt gặp vận của thời ung. Đài Cổn chẳng nghe ở Triều Toán, chinh soái chẳng nghĩ ở lấy thắng, vì vậy nhà của Thi Tố đều dùng văn chương tự huyễn (trầm ước, hà thượng chi, nhan diên niên v.v...) như pháp Bảo Liên Bích, Hình thần diệt luận đều đáp Phật tánh hai đế khó đồng, vua chẳng có oai đó, tôi và hại gần(võng là không, Hại là Hầu Cảnh) ràng buộc vườn uyển, vật dịch chẳng phải nhậm, Trang Thị nói: Người bồi bếp tuy chẳng sửa bếp, thi chúc đâu thể vượt khỏi thớt mỏng ư? Xưa, Trần Bình chẳng đối nơi kho lúa thóc (Văn Đế hỏi Chu Bột thiên hạ kho lúa thóc ít nhiều, khố tàng tiền vật thường ngày xuất nhập bao nhiêu, Chu Bột toát mồ hôi chẳng thể đáp được, đem hỏi lại Trần Bình, Bình nói: Xe của kho lẫm mỗi có Ty Tồn, tể tướng chỉ điều âm dương mà thôi) Bính Cát ải thì hỏi Ngưu Suyễn (Bính Cát tự là Thiếu Khanh, người xứ Bắc Hải, làm tướng thời Hán Tuyên Đế, Thấy Ngưu Suyễn hỏi đó lại gần xa, nếu gần là âm dương mất độ) nên làm vua là phải làm ở vô vi (thiên tử rủ áo xiêm mà cầm thẳng tua mũ tơ vàng mà thôi, đây tức là vô vi) chẳng vì mình khéo ở hữu vi, chẳng vì mình khéo nơi vô vi (chẳng khiến vua làm ở vô vi (tôi chẳng nương chấp chính khiến vua tự chủ) do đó lửa của Liệu Nguyên nhúng tụng quyết không tha) Thư nói: Xấu thì đổi, nếu liệu của lửa ở Nguyên, chẳng thể hướng gần, đó do có thể đánh diệt ư?) thoát bức dư thi (dịch tiểu súc quái chín hai từ. Dự thoát bức sư quái sáu năm hào từ nơi đệ tử Dư Thi) làm sao than kịp! Thi chép: Tĩnh cung là vị ấy, chánh trực là cho, thần đó nghe đó, thức cốc dùng ngươi (thi, Tiểu nhã, tĩnh là trị, nhĩ là ngươi, thức là dụng, cốc là lục, nói kính trị chức vị ngươi chính sự, người chánh trực mới cho làm luân, thần nghe việc của ngươi làm, dùng phước cho ngươi), kia chẳng cùng trực thức, cốc sao mong được? Khách nói: Kiều-trần-như mặc y phục xấu năm tiền, Tu Bồ-đề ở phòng hoa trăm báu, đều là bậc thánh, (Kiều-trần-như cũng gọi là Kiều-trầnna, thì năm câu luân, chẳng cầu hoa sức, Tu Bồ-đề xuất gia lâu mà chẳng đắc đạo quả, Phật hỏi A-nan, A-nan thưa: Vô thiếu ở mọi thứ của báu vui nên như vậy. Phật bảo A-nan đặt cho, A-nan không có vật báu, Phật sai vào cung vua mượn để trải trong phòng, liền được giải thoát, chứng quả A-la-hán). Địch Nhạc trọn đời một áo nạp (là Nam Nhạc Tuệ Tư) Huyền Cảnh mỗi xế chiều thay áo (Cao Tăng Huyền Cảnh mỗi ngày phải thay áo mới, trải qua thân thì đem thí cho người) đều là cao tăng, sắp tu ở mình, bốn thứ gì trước tiên? Người chủ đáp: Thiện đối với thiện không gì chẳng thiện, chẳng thiện đối với thiện không gì có thể thiện. Nên bốn đây là khắc hay chẳng khắc là ở nơi ta, đáng hay chẳng đáng chẳng ở nơi vật (năng tu hay chẳng năng tu là ở nơi người, chẳng phải do vật bên ngoài) vậy sao hễ nghèo thì chì làm cho mình tốt, giàu thì khắp thí rộng giúp, xa xỉ thì chuyên việc lễ, tiết kiệm thì gần với nhân, là bậc hiền trí, nghèo nên thì vẫn hoạch, giàu có thì gia thực (văn quẻ đại súc. Thật của đại súc dùng đó nuôi Hiền, mạng hiền là chẳng gia thực) xa xỉ thì tiếm dật (vì chẳng khiêm tốn, như họ Quý, v.v...) tiết kiệm thì cố lậu (như Yến Anh tiết kiệm chẳng hợp lễ, đều là cố lậu) là ngu bỉ. Nên bậc thánh chẳng cách giàu nghèo, đối với nghèo giàu đều là bậc thánh. Hiền chẳng cách ngăn xa kiệm, ở nơi xa kiệm đều là cao tăng, người xưa nói: Kiệm là cung của đức, xa xỉ là lớn của ác, mà thật chẳng đức chẳng kiệm, ác đầy mà xa xỉ, thật là mang tai họa sao chẳng kỵ ư? Dịch chép: Phòng ốc đó v.v… nhà đó lớn nhìn cửa đó, nghe đó không người, ba năm chẳng thấy hung dữ (là che ngăn Dịch Phong quái thượng lục hào từ, ý đó nói: Không đức mà được lộc là tai họa của thân, ba năm phải chịu ương đó, nên nói nghe đó không người) chỉ tới thuê da võ, chỗ thánh từ chấp thuận, nay có hành thì là quả đức, trái lại thì hợp đạo, là nói lầm. (Cho rằng mặc tơ gấm là quả đức, dùng lá che là hợp đạo, rất không biết Như lai có đạo khai già, vì tục tình chấp chặt) đó có chuyên tự khổ tiết, mè ngải nuôi thân, cao lắng nghiệp đó, đây đáng ưa chuộng, nếu chuông hạnh mua danh vận mặc khinh tích duệ tiêm câu (cô là bán, kiểu là luống dối, tích là vải mịn, vốn không đạo đức, dối hiện hồ tiết, dùng vải mịn làm y, dùng vải thâm làm vạt, kiệm nào có đó) thật ra thì xa xỉ chẳng phải thương tài (của cải) sao làm liêm sỉ, ăn mặc là tiêu biểu của tâm hành, được nghi thức đó thì ít nhục ít lỗi, trái nghĩa đó thì mở gian thâu nhận hại, nên Lễ nói: Quân tử ở suy diệt thì có vẻ buồn, ở đoan miện thì có vẻ kính, giới trụ thì có vẻ chẳng thể nhục, so với đây. Sa-môn ở đạo huề thì phải có vẻ hư tĩnh (đạo huề là ca sa, Đức Phật thấy ruộng nước, chỉ mà bảo với A-nan rằng: Đệ tử ta phải cắt rọc làm y, như ruộng nước này có nghĩa xuất sinh. Có thể sinh ra ruộng phước), hư là đạo, nên chỗ ăn mặc tại đạo chẳng hẳn ép dùng da tơ mà cử chấp nối giúp người chuyên việc dối trá (nếu chuyển giúp vải chắp vá thì dối trá là chuyên ở trong sức) đời Lương, Thẩm ước cho rằng Sa-môn ăn thịt, Tiểu giáo tuy dung thứ mà sau giáo lấp trái, lý của tằm lụa thì sao chẳng vậy, chỉ giáo truyền lại có sót khuyết, chẳng thể chấp nhận, bèn soạn luận cứu cánh từ bi, rộng bày ví dụ đó, nhưng lo nói sai (thẩm ước tự là Hưu Văn, người xứ Võ Khương, Ngô Hưng lưu ngụ nghèo nàn, dốc chí ham học, đêm ngày chẳng nghỉ, người mẹ sợ ông khổ nhọc nên thường giảm bớt dầu tắt đèn, đến lúc giúp Lương Võ lên ngôi, nhiều lần chuyển đổi thượng thư, lâu ở đoan quỷ, có chí đài ty, đế chẳng hề dùng, gửi thư khuyên cố gắng, gắng làm lời đối với đế, chỉ thêm cổ xúy mà thôi, tỷ ước tánh chẳng uống rượu, ít đắm dục, mắt trái có hai tròng, lưng eo có tử chí, nhóm góp sách hai mươi ngàn quyển, làm Đan Dương Duẩn Thị Trung, thôi nghỉ chức quan, soạn thuật sách Tấn, Tống, Tề, v.v...) tuy muốn rộng bày thấy biết đặt thù đó, mà ý của bậc thánh thì hoặc chẳng như vậy. Phàm nhân lo rỗi giới, bỏ tổn đến ích, lỗi của ăn thịt, hung tợn mà không mưu tính (kinh Niết-bàn chép: Người ăn thịt thì chúng sinh xa lìa, kinh Lăng Nghiêm chép: Là chư Phật oán, dứt giống từ bi, tất cả quỷ thần đêm rằm liếm môi mép, phước đức ngày một tiêu mất) người trí còn khinh bỉ, huống chi bậc thánh ư? (Mạnh Tử nói: Vì vậy quân tử đối với cầm thú, thấy nó sống mà chẳng nỡ thấy nó chết, nghe tiếng nó mà chẳng nỡ ăn thịt nó, do đó chẳng gần kẻ bồi bếp) thịt da giúp hình nghi phục tu khiết, người đời không hề cười chê (nên Tỳ-kheo Mã Thắng dùng oai nghi nhiếp chúng) bậc thánh do vậy mà ngợi khen, nên trong kinh chép: Treo giăng phước lọng, lại nói lụa mềm mại dùng làm chăn gối (kinh Pháp Hoa) nếu y theo ngày nay chưa dứt là do kinh chưa truyền đến đó, mà Niết-bàn chấp thuận có ý Kiêuxa-da (nghĩa là y đẹp mầu đỏ, lại nói là thượng phục giá trị ngàn muôn, cúng Phật và chúng tăng) vì sao chẳng đầy đủ ư? Chỉ ở đời họ Tiêu, họ Trần con người quá tin, pháp giáo đượm rõ, từng đọc Tề Thái Tử và Lương Trần Thư, từng xả bỏ cổn niệm xe cộ và ngọc báu làm các kinh sám, cầm bút tuôn từ, lấy hạnh nguyện Bồ-tát làm trẻ nhỏ đùa vui. So ở thời Chu Ngụy thì hơn, mong cầu nơi phong giáo thì bệnh, Khách nói: Pháp Vân rong ruổi khắp Điếu Khánh, kẻ gièm pha cho đó là nịnh, Linh Dụ Kiệm mặc vải xấu, bấy giờ bàn nghị cho đó là kiểu (Pháp vân là sau Chu xứ, gặp trong tang mẹ, Hủy bệnh quá lễ nhiều ngày chẳng ăn, đến nổi chẳng muốn chôn cất. Tăng Mân can ngăn rằng: Bậc thánh chế lễ bậc hiền cúi đến, kẻ chẳng hiền mong và hủy tánh chẳng diệt, còn xứ từ sách Nho, huống chi Phật có yếu chỉ gần thì kính phụng sắc dưỡng, xa thì phát khởi Bồ-đề, huống chi giặc ân ái chẳng thể dung túng, mới cắt tình đau thương, dần hồi ăn cháo, Linh Dụ vì Chu diệt pháp, bèn ngầm ẩn hình đời, quần áo trảm thôi, ba thăng vải bố đầu quấn đai gai, như chịu tang cha mẹ, thề phải được Phật pháp trở lại như lúc đầu mới tiếp nối nghi cũ) Phàm đức hạnh như vậy, sao được chẳng thâu? (thâu là bạc) người chủ đáp: Cho người không cần đủ. Lễ nói: Lấy nghĩa độ người thì khó làm người (chẳng thể cầu đủ. Lấy người trông người thì bậc hiền có thể biết rồi vậy (vì hiền trông kẻ chẳng hiền thì biết hơn kém) phàm lấy pháp phục chật vật làm pháp thì nhục mình, chẳng làm pháp thì gồm nhục pháp (làm số làm chúng thì theo trần còn có thể ngõ hầu, chẳng phải đây thì là nhục) chỉ bậc đại số hoặc dùng lý thông làm tốt đẹp (trái giáo thuận lý cũng có thể thực hành, nhưng giáo có quyền thật) nên Hoàng Thường Nguyên Cát tin tại nội (khôn quái Lục Ngũ từ). Hoàng là sắc trung chánh, thường là nghiêm sức ở phía dưới, khôn là bề tôi, Đạo tận mỹ ở dưới, nhậm phu văn lý rủ Hoàng Thường để được Nguyên Cát, như Pháp Vân, v.v... vì pháp mà đến cõi trần). Tấn Văn Công quỷ quyệt mà chẳng chánh, chẳng phải chẳng bá. (Văn công là trùng nhĩ, sau của phục tấn, đại bá chư hầu, sắp triều chu tự chê bai mạnh mẽ, bèn vời vương khiến ra mà hành thăm lễ, phu tử nói: Lấy tôi với vua chẳng thể răn, nên Xuân Thu đổi thành thiên vương thú đến Hà Dương, là vì quỷ quyệt mà chẳng chánh) như Pháp Vân đâu được chẳng làm cao tăng? Người đó là anh mẫn trong trời người, sống nổi trôi nơi đời, cảm thông Linh Thụy thân chết mà lời nói còn, thật là sự tốt lành của pháp (Pháp Vân, mẹ họ Ngô, ngày sinh pháp Vân thấy mây lành tủa khắp hư không, nên đặt tên là Pháp Vân, trụ chùa Trang nghiêm ở Nghĩa Hưng, giảng các kinh Pháp Hoa, Tịnh Danh, v.v... như gió nhanh ứng biến, người thời bấy giờ gọi là ảo Pháp sư, nhưng xứ kia, Viễn Công ảnh chẳng ra khỏi núi, vết chẳng vào thế tục, đón đưa chẳng qua Hổ Khê. Tuệ Hy rêu phủ, một lần hơn ba mươi năm ngồi ngay giường, tầm hai đầu trần hợp chắc thì nhục(đời Thục, Sa-môn Tuệ Hy ở chùa Không Tuệ, người xứ Thành Đô thuở nhỏ ham thích thiên vịnh, nhân cùng Sa-di Đạo
Trưng chùa Đại Thạch liền xướng thi chương bèn thành lời, nhàn rỗi mới hồi ý, gá tâm thiền quán, đến lúc thọ giới cụ túc mới tập học tất cả kinh luật, nghiên cứu ba luận, đêm nghỉ tại phòng chỉ ngồi một giường, tâm hai đầu bụi đầy, ngoài ra phòng đất, chỉ có một dấu vết, còn lại toàn là rêu phủ) Linh Dụ nói: Tôi lừa đời mà làm thiện, còn hơn so với trực tâm mà làm ác, đó là hứng nói ở người xưa, tiếp nói đó là ở Linh Dụ, phàm Quản Yến đều làm Hiền đại phu, Quản Thế, Yến Lậu trước lễ, sau đồng cười chê (Quản Trọng là Tề đại phu Di Ngô, lấy chín con gái của ba nước, Quan sự chẳng nhiếp, dùng dựng cửa chấn bít và đặt điếm phản đều là tiếm, nhưng tướng Hoàn Công chín hợp chư hầu, tôn giúp vương thất, trách sở bao mao, nên gọi là Hiền. Yến Anh là Tề đại phu, tánh kiệm vai heo, chẳng loại bít đậu, nhưng tướng Cảnh Công, một lời xét hình, đều được gọi là Hiền, nhưng mấy người kiệm) Tăng tử nói: Nước xa hoa thì dùng kiệm chỉ bảo người, nước cần kiệm thì dùng lễ chỉ bảo người, đó là của Yến Tử (Tề Hoàn Công có ngàn con ngựa, đến ngày chết, dân không đức mà tôn xưng vậy, nên Yến Tử lấy kiệm để chỉ bày) chỉ sánh ngầm lặng là chẳng được hết biến quả cá rồng, ở đất là chẳng được hết công của bay chạy (vật tượng chẳng thể dùng tận cùng tánh nó) há áo phùng dịch thì tận cùng cái học của Khổng môn (Phùng Dịch là đại tụ, tuy gọi là nho sĩ mà thật mời tối Điểm Bí. Luống gọi là thư sinh, sao biết xét xưa) quan (mũ) anh dung thì tận phong của lão thánh (hèn tham mạng gạo, đâu chuộng thanh hư, chỉ đọc kinh táo, sao thông suốt tận cùng đạo đức) Cầm Trượng vòng thì tận đạo của họ Thích (chỉ cậy một chiếc lông, bèn quá sắc sinh, chẳng gắng tiến tu, sao biết xét tập) nhưng có nêu lên Trường Đoản, trông bờ mà tin, trông bờ mà ngăn, ngăn chưa hẳn mất Hiền, tin chưa hẳn được người. (Chỉ người khó biết, tự biết cũng khó) vả lại Trọng Ni tham tầm sự chỗ hành của các bậc hiền trí trong mấy muôn năm mà Lễ Nhạc, khiến kẻ sĩ trong trăm năm thực hành, cố nhiên chẳng rốt ráo (Trọng Ni dùng tài sinh của thiên túng. Lỗ Tương Công hai mươi hai năm, mười tám tuổi đến Tây Chu thăm hỏi, lễ bái, môn đồ có ba ngàn, có bảy mươi hai người thông đạt. Lỗ Ai công mười một năm, từ vệ trở về Lỗ, tu sửa Xuân Thu, biên soạn địch đạo, san dịch thi thư, xét định Lễ Nhạc, mà hiền triết của thời xưa rõ tận cùng một kinh, râu tóc bạc phơ chẳng được bờ đó, nên nói, ngửa đó càng cao, khoan đó càng chắc) huống chi thiện ác chẳng xa nhau, công một phải thì cũng một quấy theo đó, nên Trần Ty Bại, lấy Húy quốc ác làm đảng (Trần Ty Bại hỏi phu tử Chiêu Công biết lễ chăng? Tử đáp: Biết lễ. Hỏi: Quân lấy vợ ở Ngô là đồng, họ đâu biết lễ, Ty Bại nói: Tôi nghe quân tử chẳng có đảng, quân tử cũng có đảng ư? Cho húy nước ác là phải thì đảng quân biết Lễ quấy, nếu chẳng có đảng là phải, thì rõ ràng nước ác là quấy) Quý Khương Tử đem hỏi ngủ ngày là nghịch, mà trung chẳng hẳn cung, cung chẳng hẳn phó (đến) hiếu chẳng hẳn nghĩa, nay họ Thích ông gần Thiệu Sở hành cả ức đời mà muốn cho một thân một đời thực hành, thì chẳng thể được, bèn có trí mà không tiết (có tuệ giải mà không có tiết tháo) chất mà dốc đạo (phác độn mà thuần trực) càn thể khắp vật, chuộng hành chuyên đã, chỉ có thể mừng điều đã được, mà giận chỗ chẳng được, chẳng phải dựng mái hiên thì suy lữ mong đó (suy là rui, lữ là xà ngang, cây gỗ thẳng liền dài) sắp vô phế (tuy chẳng phải tài của rường cột cũng có thể dùng nhỏ) ngựa ký xứng đức đó mà chẳng xứng lực đó, chim phụng xứng tốt đẹp mà chẳng xứng chí, phàm sao hoàn bị ư (chí là hung dữ đánh nhau) Khánh nói: Khoảng của ngược Chu, Tĩnh ái mổ tim (Tĩnh ái can ngăn, Chu Võ cực lời kháng chỉ, chẳng toại ý bèn vào núi, cắt hại thân thịt, treo ruột trên cây, mổ tim mà chết, sau khi chết thân ngồi chẳng ngã) Linh Dụ thôi điệt, Tuệ Viễn bôn tang là (Bắc Viễn, chạy trốn nơi núi rừng, lánh đạo tang) Phổ Khoáng trâm hốt (Phổ Khoáng người xứ My thuộc-Phiền Xuyên, gặp lúc Chu Võ sa thải, đặt Thông Đạo quán, chọn ba trăm học sĩ tài giỏi, Phổ Khoáng vâng chiếu, nhưng cạo tóc đội mũ để ô-sa, đoán quyết như nước chảy, đến lúc
Phật giáo hưng thịnh lại thì xuất gia) ai là Hiền ư? Người chủ đáp: Kia đều nhậm khả năng của họ, Tĩnh Ái vì chẳng chịu gánh vác nên giết thân động tục, tuy không có ích ở đương thời, mà thật nêu rõ tội của vua, đó như thi gián mưu cho sau hối cải ân hận của cát, chẳng oán đó ư?)Vệ Linh Công thường sủng ái Di Tử Hà, Sử Thu mấy lần can ngăn chẳng nghe,, đến lúc chết khiến người nhà để xác dưới cửa, vua sẽ đến dự lễ tang, nếu hỏi thì mới nói Đại Phu lúc sống muốn tiến cử kháng Bá Ngọc, lùi Vi Tử Hà mà chẳng được, do đó chết chẳng thành tang, quả nhiên vua hỏi, bèn nhận việc đó, khiến dời thây vào vị trí trong nhà. Khuất Nguyên can ngăn Sở Hoài Vương chẳng nghe, bèn ôm chặt Cát nhảy xuống sông Mịch La mà chết, việc của Tĩnh Ái cũng đồng. Linh Dụ vận chuông trăm sáu (trăm sáu là bốn ngàn sáu trăm mười bảy năm làm một nguyên, trăm sáu năm gọi là ách của Dương Cửu, xuất xứ từ văn Tuyển Tam Quốc Danh Thần Tán) dùng gậy mà chặt (như để tang cha mẹ) không tang mà phục như bỏ nước mà mất, cho nên như vậy (năm Quý Tỵ tức niên hiệu Kiến Đức thứ hai diệt pháp, đến năm Giáp Ngọ phục hưng, năm Đinh Dậu vua băng, năm Tân Sửu nước mất. Tuệ Viễn nối pháp, tại mình lánh đời mưu tính còn, số chẳng chung ư? Hẳn đem thái bình trao đó, chỉ tự mình còn mà pháp mất, ở ta như chẳng mất (vì giáo hưng trùng diễn) Phổ Khoáng dùng buồn vui, cúi ngước cùng thời đẩy dời (làm diều năng bay, làm các năng lặn, tối thẹn hòa sáng ngầm xét hưng phế, dáng mạo tuy thay đổi mà khí phách chẳng thể đoạt, xưa kia Âm mất, mà ba người khác chí, Trọng Ni đều gọi là nhân ư (Vi Tử Khải thứ huynh, trước chạy Chu để còn của Tông miếu, Ky Tử gia phụ của Trụ, từ nước giả vờ rồ dại, thường can ngăn mà mổ tim, tuy khác hành mà đồng gọi là nhân) Khách nói: Muôn đức quy về Nhân, nhân không chẳng chết làm vô vi đợi sự trong của nước sông (tu hành kỳ hạn, đạo năm nào mới chứng) sao như nhấm vị Linh Anh, thấm đượm mây béo, nhẹ bước dưới thần đan, có thể leo lên trên tuổi lớn, thăng khỏi làm cốt thối của một hộp, thật là tính toán hay tốt của sống lâu, may mà sao gọi là ở ngay thẳng đợi hóa ư? Người chủ đáp: Sống lâu do tiên cốt, tiên cốt là trong giáo pháp ta gọi là xưa có gieo trồng gốc đức, tự chẳng phải nhiều đời đức gạt bụi đục, tu luyện tinh hồn, sao có thể dẫn do cả khô đốt đá, há có thể độ đời ư? Nên trường tang dần ở nơi thềm tiên, biển trước cứu đời làm sinh, trong Chu đời ở Đồng Bách, bởi Công chưa hoàn bị mà chẳng lên nơi mây trời, khắc xa thọ đó, nếu đều do trước học, sao chẳng chuyên chí ở họ Thích ư? Phàm hoàng đế cưỡi rồng biển, Liệt Tử ngự gió, vương triều bay giầy (Hiên Viên cỡi rồng tiên ở Đảnh Hồ, Liệt Ngự Khấu cưỡi gió mà đi, Trang tử Vương Kiều làm lá khiến hóa giầy làm chim phù mà cưỡi) kia trước có tiên cốt, là ở người đó. Như rùa có giới, hạc có cách, xưa bẩm khí vận chỗ đó thọ, chẳng phải giới của rùa, chẳng phải cánh của hạc, tuy đồng tộc đó mà chẳng được phương đó (như thuộc của thuồng luồng, lại như loài chim muông) nếu khiến bắt chước mà được thành là môn của Trọng Ni, bạn của Đức Hạnh, sống không có gì chẳng quý, biết không có gì chẳng rộng, sao chẳng tinh ý, cầu đến biến hóa để khắc bạn trọn đời ư? Chu Mục (cưỡi tám ngựa gặp Vương mẫu ở Dao Trì, có thể chẳng cầu thuốc của Trường sinh vũ hóa Tần Hoàng (Phương sĩ lên núi Bồng Lai hái thuốc, cuối cùng chết ở Hà Khâu) Hán Võ (ham đạo cầu tiên, cuối cùng về Minh Lý) Yến Chiêu phương sĩ có mấy người còn? Lầm mến mộ thì đông, chứng đắc là ai? Trải qua chỗ được chẳng nhiều so với chỗ mất. Lão Đan ngậm túy mang linh, lập năm ngàn văn trị ở nhà nước, đạo vị ngưng ở Thái Hòa, Chí đức bao gồm Thái hư, nên chẳng thọ năng thiếu để ẩn để hiền, còn như giá ly loan kẹp nhật nguyệt, dẫy đầy vũ trụ, ra vào sống chết, mượn thần dụng kia để rõ bày đạo đức, chẳng phải gọi là chẳng triệt tinh phì chẳng khiết tâm lự, chỉ do khắc ý cỏ cây, mà năng đóng khoái miệng kia tánh mạng của ruột thối đó, nên lão thánh nói: Dung của khổng đức chỉ có đạo là Tùng (khổng là rất, tùng là thuận, nói người rất có dung đức chỗ hành chỉ lấy đạo của hư cực là thuận) Thầy lấy đức nghĩa làm gốc, Nghi Du Phú lấy Trương làm ngọn, đó hoặc là bệnh gốc, ngọn sao lấy làm (đức hạnh là gốc, kỹ nghệ là ngọn) mà giáo lý ta tuy có hóa của thần tiên năm thông, đều do định lực mà sau mới thành, đời Tấn, Đơn Đạo thọ trăm tuổi (Cao Tăng Đơn Đạo khai, ưa thích đạo, thường ăn mở thông, cuối cùng kết quy vô thường), đời Lương, Tuệ ước ăn bánh bột thông hơn ba mươi năm, tuổi thọ gần như Kỳ Di (cũng là Cao tăng, Lễ Ký nói Kỳ Di thọ trăm tuổi) Đạo trường sinh chưa có nghe, chỉ đường đời ham tu ác đoản lầm hoặc, lầm hoặc nhưng chẳng tự quyết, giáo lý ta lấy bỏ giết hại thực hành thí thực làm nhân sống sâu, sao chẳng vâng ư? Đường đời ham bám chặt xấu nát làm hoặc, mê lầm nhưng chẳng tự quyết, giáo lý ta vì trừ nạn trao pháp làm nhân chẳng hoại, sao chẳng cố gắng ư? Còn như chỗ của đời nói muôn năm, như sớm chiều đồng hết ấy. Vận mới chưa từng không làm vật đến hóa, dài là hóa của ông đời nay, ngắn là hóa của đời trước sau, cùng chẳng hóa sao khác ư? (Trang Sinh nói: Sống là buồn của chết, chết là buồn của sống) nên các bậc thấu đạt xưa kia an thời mà ở, thuận chỗ buồn vui chẳng năng vào. Mạnh Tôn hỏi Dương Chu rằng: Có người đến đây ham sống quý thân, vì cầu chẳng chết có được chăng? Đáp lý không sống lâu dài, phàm sống chẳng phải quý chỗ năng còn, thân chẳng phải ham chỗ năng dày, vả lại, sống lâu làm gì? Năm tình đẹp xấu xưa như nay vậy, bốn thể an nguy xưa như nay vậy, việc đời khổ vui, xưa như nay vậy, thay đổi trị loạn xưa như nay vậy. Đã nghe đó rồi, đã thấy đó rồi, đã khắp đó rồi, trăm năm còn chán đó nhiều, huống chi khổ của sống lâu ư? (ở đời nếu chẳng tiến đạo, tu hành sống lâu cũng đâu làm gì) Khách nói: Tử Cống hỏi Khổng Tử rằng: Người chết có biết chăng? Khổng Tử đáp: Tôi muốn nói có biết, sợ rằng con hiếu cháu thuận ngại sống mà tiễn đưa chết. Tôi muốn nói không biết, sợ con cháu bất hiếu bỏ người thân đó mà chẳng hết tang, muốn biết có biết và không biết, chẳng phải gấp của nay, sau sẽ tự biết đó (xuất gia ngữ). Trọng Hiến Tử nói (Trọng Hiến Tử là Trọng Tôn Miệt) thời nhà Hạ, họ Hậu dùng đồ thề (minh khí) chỉ bày dân không biết, người Ân dùng đồ tế chỉ bày dân có biết, người Chu gồm dùng đó chỉ bày dân có nghi. Kinh nói về nhân duyên sắp hẳn cực sao? (Đây là việc nhân duyên ba đời, Nho giáo chưa rõ nên có câu hỏi này) người chủ đáp: Chết là hình rã mà tinh thần có đi, liên tục trong năm đường xoay lại không cùng (vì vô minh phát chi hành cảm ái thủ đượm nhuần, hiện tại mười chi nhân, vị lai hai chi quả, luân hồi không đổi) đây lấy sống kia làm chết, kia lấy chết đây làm sống (văn của Nam Hoa chết có sống là sống có chết, sống có sống thì chết có chết) nên làm quỷ thì có biết là chết chẳng làm quỷ thì không biết, mà quỷ có lớn nhỏ, lớn thì biết lớn, nhỏ thì biết nhỏ, cho đến như tại gò đồi xã tắc làm cương làm kỷ là lớn. Tại giọt tranh phòng bếp làm quỷ quái làm ủy xà nhỏ. Quý Lộ hỏi về thờ quỷ thần, cũng là chỗ Trọng Ni chưa đáp (chỉ nói chưa thể thờ người làm sao thờ quỷ) vì minh đạo tối tăm lo ngại càng sinh lầm hoặc của người đời Hà Thừa Thiên Tống nói: Sống phải có chết, hình vùi thân tan, như xuân tươi thu úa, bốn mùa đổi thay, sao có lại thọ hình ư? Thi nói: Ba hậu tại trời, nói thăng xa của tinh linh (luận thần diệt) Nhan Diên Chi nói nhường rằng: Nếu tinh linh thật khác với cỏ cây thì luận của thọ hình không còn giúp, gần do ba hậu hợp thiện báo sinh lên cõi trời, nếu nhọc có tinh linh còn không thể trạng, chẳng hay ở trời sẽ dựa vào đâu để đứng, đời Lương, hình thần diệt luận của Phạm chân chép: Tông Miếu Tế hưởng là đạo của Chu Khổng để kính. Thân Sinh Bá có yêu của khôi quái (Hồ Đột sang khúc ốc thấy Thân Sinh khiến đến ngự nói: Di Ngô đối với tôi vô lễ, tôi được thỉnh đến Đế sẽ lấy tấn con hèn Tần, nói xong bèn diệt sau Tuệ Công quả vì Tần được Trịnh giết Bá, sau chợt có mai vẩy mà thấy) tuy ở nhân gian có quỷ, tự là một vật của trời đất, như loài người, loại súc sanh chẳng phải người chết mà làm đó, Đương thời ban chiếu trăm quan tinh tường hiểu dụ, người đó ngu phản chẳng phải pháp của bậc thánh, chẳng thể giáo hóa. Dịch nói: Ngửa để xem thiên văn, cúi để xét ở địa lý, là biết cớ của u minh, nguyên thỉ trở lại chung, cho nên biết thuyết sống chết, tinh khí làm vậy, hồn dạo làm biến, cho nên biết tình trạng của quỷ thần.
Lời nói này gọi là thấu đạt vậy thay! Văn Tử xưng hình của hoàng đế có mỵ mà thần chẳng hóa, vì hóa của chẳng hóa thừa biến vô cùng. Diêm Lăng Quý tử thương đến Tề, con cả chết chôn ở khoảng đất Luy Bác (Luy Bắc là đất Tề, huyện Thái Sơn) Hỏm đó sâu chẳng đến suối, liệm dùng nghi phục đương thời nói: Cốt thịt kết quy về mạng Thổ, nếu hồn khí là biến không chỗ nào chẳng đến, Trọng Ni là bậc hiền (Trang Tử sắp chết, đệ tử muốn hậu táng, Trang Tử bảo: Ta lấy trời đất làm quan viên, nhật nguyệt làm liền vách, muôn sao làm châu cơ, muôn vật làm tư tống, ta táng đủ chẳng hoàn bị ư? Đâu thêm gì nữa? Đệ tử nói: Tôi sợ quạ diều đến ăn phu tử, Trang Tử bảo: Tại trên thì quạ diều ăn, tại dưới thì sâu kiếm ăn, đoạt kia cho đây sao thiên lệch vậy!
(Phục từ ân chế, tang do lễ thành. Hỏi tang cha mẹ và thầy, năm thứ phục nghi nên thực hành thế nào)
Hai ba người theo hầu tiến đến trước (môn sinh) khách lùi, phụ đỡ mà tiến (rút khuỷu tay để tiến) nói: Hạnh ba thừa hoặc được nghe vậy, lễ của ba đời chưa từng học (Hạ Ân Chu Văn chất chẳng đồng mà kỹ của trăm hạnh không gì lớn bằng hiếu, hiếu không gì lớn bằng đưa tiễn người chết. Có chết đã lại (đưa tang trở về, thiết đặt Kỷ Diên đáp lại Linh Phách, tận ái đó có tâm đảo từ) sống có tiết, phàm nêu bày các chung chung thì có thỉ để biết (Lễ nói: Mới chết người chủ kêu, anh em khóc, tiểu liệm tức vị ở nội tổ, cạo râu tóc, táng bậc sĩ hai ngày liệm, đều ba ngày chẳng ăn, ăn cháo sáng một vốc gạo chiều một vốc gạo, vốc là một phần trong hai mươi bốn phần, đã táng, người chủ ăn chay uống nước, chẳng ăn rau quả). Xin hỏi sao gọi là tang của Sa-môn với năm thứ nghị phục như thế nào (năm phục là Trảm thôi, Tề thôi, Đại công, Tiểu Công, Ti Ma) tôi mở kỹ buồn bã giây lát mà bảo đó rằng: Lễ của tiên sinh, chỗ biết của Lỗ quân tử, mới là họ Khổng đa năng, tôi chưa nghiên cứu đó xong, phàm Thiên-trúc phương tục chẳng đồng nhau (Thích tử đã y cứ giáo của Thiên-trúc, chẳng đồng với phương tục ở Trung quốc) chất cực mà nhỏ nhiệm (tục của Tây quốc, giản chất mà di lược. Truyện Nam Hải Ký Quy chép: Thiên-trúc thông minh tuấn lợi, Thần châu chẳng bằng Thiên-trúc. Lễ nghi pháp tắc Thiên-trúc chẳng bằng Thần Châu), xưa kia thuần của Hy nông Trung quốc thì biến, bởi chất cực mà văn, văn cực mà chất, bốn biển thì chẳng như vậy (Hạ ân pháp địa nên chất, chu pháp ở trời nên văn, bốn biển bất biến) Nay truy y tại hoa. Hoa thì có nghi, đó có thể đồng với dị vực ư? (Tiên vương Chế nhạc của bốn di, chẳng chế lễ của bốn di. Nay Thích tử đã ở Trung Quốc, chẳng thể đồng với dị vực) cho nên y theo số của năm phục, tượng tiết của thăng giáng, phỏng bàn giáo đó, lập dùng làm văn, còn nói Hiến chương có chỗ tổn ích hợp với tâm thiên hạ để đợi quân tử (nay y cứ năm phục mà tượng, trảm suy ba năm, Tề suy tròn năm, Đại công chín tháng, Tiểu công năm tháng, Ty-ma ba tháng, hoặc lên hoặc xuống để thực hành, như cần hợp nghi của thiên hạ để được trung dung, đợi quân tử tương lai cắt chế) nên tang cha mẹ là như tang bậc sĩ hoặc là trung mà được lễ (trong năm hiếu, y theo lễ của tang bậc sĩ thì được trung) táng bậc sĩ là trượng gian lý (Lễ nói: Tang của bậc sĩ, hai ngày liệm mà gậy khóc, liệm thì gậy khóc, quan (hàn) thì tập trượng) ăn cháo (ba ngày không ăn, ăn cháo uống nước) dựa lô ngủ chiếu gối đất (Lễ nói: Tang cha mẹ, chịu dựa lô chẳng xoa ngủ chiếu gối đất, chẳng phải việc buồn thì chẳng nói), tuy Sa-môn khổ tiết, giáng ở biếm ăn mặc, có lỗi với tang lễ đó, mà chịu tang hợp với sĩ hành, không thương tổn giáo của bậc thánh (hạnh của Sa-môn, vốn tự khổ tiết, nếu lại nhân tang, mà thêm ăn mặc nhiều, hợp với hạnh bậc sĩ, chẳng trái lễ luật, nên nói tang và dịch đó vậy, đâu đáng buồn). Nếu hẹp hòi dùng trong tục, buộc gấp là đức chẳng rộng, sao chẳng thương khiến thể gồm trượng, chân tục đều nêu, giảm mà có thương (nếu chẳng muốn tục lễ buộc kỵ, lo thiếu chân đạo, thôi mà chẳng trượng, thì chân tục không ngại, nghi đó tuy lược, mà ai lễ thì chẳng không) phàm bày phủ quỷ thiết Kỷ Diên chẳng cần dùng quỷ mà cha mẹ cầu, bởi nói lên sự buồn kích, kính đó hoặc là còn. (phủ quỷ là đồ cúng tế, Kỷ Diên là linh tòa, đặt là chưa hẳn dùng quỷ cầu đến cha mẹ, Bởi lấy chỗ của Kế tâm còn mà đối với ai kính có chỗ hướng về, biểu lộ tình cảm.) Thôi điệt thay cho đệ miện (thôi điệt là tang phục, đệ miện là triều y), Sa-môn đã chẳng thôi, vì sao điệt (thân đã chẳng thôi phục, thì đâu chẳng nên an điệt) hy thôi tuệ thường tiết ở tang nghi, Nho thì chẳng làm, huống chi họ Thích cao hơn (Lễ nói: Gai là chẳng thân, nắm ngọc thẳng gai, gai chẳng thêm ở biện, vì lành dữ khác nhau, tăng đã lìa tục chẳng đồng chế). Hoặc có chỗ chẳng lánh là thêm ở hiềm của dung dung (dung dung chẳng chánh, dáng vẻ chẳng lánh tục cười chê, thì có dung của yêu đúc, gièm chê chẳng phải chánh) chẳng phải y trảm không dùng gai cỏ mạo ở đầu (tang cha mẹ và thân giáo giới sư, v.v... có thể dùng mạo đầu) Ni thì còn có thể vậy, phàm lễ chẳng địch với công môn, công môn chẳng phục, tuy y trảm, trảm gai cỏ không dùng ở đầu (Khúc Lễ nói: Giày bao tráp uổng nhàm quan chẳng vào công môn, đều vì hung phục, nên tuy có tang cha mẹ, sư trưởng đều chẳng dùng) Tôn là trước như công môn (cũng chẳng mạo gai ở đầu) phải trai giới, không kêu vỗ lánh mọi người chê bai (chỉ nên đốt hương tu đạo phước đức mà giúp tiến vỗ về tâm) không cậy vì tang mà từ các việc thiện, cậy vì các việc thiện mà hạ thấp tang riêng, vì thật có nghĩa (đó có các việc lành như Bồ-tát giảng pháp sám hối trai giới, v.v... chẳng vì việc tang đó, nên trong phế bỏ vì các việc lành mà giết tang lễ không ngại) bấy giờ có rưới đất trải chiếu, sao nói là nhảy nhót mất ai của suy sụp (trai là tang của trảm, đất trời sụp đổ, đau cắt ai tình, đâu đợi trải chiếu rưới đất, sau đó mới nhảy nhót) tuy năm phục tôn ty đồng, mà tổn ty vì tuổi lớn đức cao chẳng gọi là chẳng biết lễ (tiên vương chế lễ của năm phục tuy đồng, nếu ty (nhỏ) mà chết, tại số của năm phục, với người tuổi lớn đức cao giáng đó cũng có thể) Phàm chí đạo hợp với chí ái, chẳng khóc chẳng nhảy nhót, chẳng phải bàn nghị của tượng nội (chế của khóc nhảy vốn theo tục tình, ngoài tượng quên tâm, đoái hoặc mến luyến chẳng phải có, Trang Tử nói: Sống của người là tụ khí thì làm sống, tan thì làm chết, nếu chết sống không đường thì tôi đâu phải lo gì, nên muôn vật là một) xưa kia Pháp vân chịu tang, gần đến hủy diệt (mẹ mất, hủy bệnh quá lễ, nhiều ngày chẳng ăn, gần như chẳng hơn nổi tang. Tăng Mân bảo rằng: Bậc thánh chế lễ, hiền giả cúi vâng, kẻ chẳng hiền mong kịp, hủy chẳng diệt tánh, còn xuất xứ ở sách Nho, huống chi Phật có vi chỉ, gần thì kính phụng sắc dưỡng, xa thì phát tâm Bồ-đề. Huống chi giặc ân ái, chẳng thể dung túng, mới cắt ai tình, dần hồi ăn cháo) Linh Dụ hầu thăm mẹ, nghe tang mà trở về (Linh Dụ là cao tăng thời đời, họ Hình, người ở Tùng Tư, Nam quận, ở Tương Châu rất lâu, chợt nghe mẹ bệnh đang ở tại Nghiệp Đô, nên đến hầu thăm, đến giữa đường nghe mẹ đã chết, bèn nói: Ta vốn đến thăm mẹ, nay mất sao đến thăm! Bèn trở về) quân tử lấy làm giũ lòng tuệ huấn, thì Pháp Vân vượt hơn, Linh Dụ chẳng bằng. Phàm lễ quá là cúi mà đến, chẳng đến thì kiểng chân là kịp, Pháp Vân mới gọi là Tôn đức thật, buộc tình vượt tục. Linh Dụ thì vị sùng sư biểu, hiến pháp không thủ, bàn nghị là cùng đó chẳng kịp đâu hơn, hơn thì dễ ép, chẳng bằng thì khó dẫn (ai quá thì có thể ép, chẳng bằng thì khó dẫn dắt người sau) nhưng bang của các hạ, lấy lễ nghi trông đức, ở bang đó biến tục đó, điều quân tử chẳng làm, tuy đời chuyên lập tiết, hiền giả đạt đó, như Tử Tạng Nguyên Nhưỡng (Hân, con của Tào Công, tự là Tử Tạng, thứ tử của Tuyên công, Tào Bá mất, chư hầu thấy Vương sắp lập, Tử Tạng từ chí trước có đó, thánh đạt tiết thứ thủ tiết xuống, mất tiết là quân chẳng phải tiết tôi, tuy chẳng năng đạt, dám mất thủ ư? Bèn chạy đến Tống, Nguyên Nhưỡng người Lỗ là bậc sĩ ngoài vật) đời chuyên loạn lễ, hiền giả lập đó, như hạng Tăng Sâm Tử Cao (Tăng Sâm tự là Tử Dư, khóc huyết ba năm chưa hề thấy răng, đều là người Lỗ đệ tử của Khổng Tử) nay thiên hạ phần nhiều nghĩ loạn, lễ ở đâu mà không lập? Xưa kia bậc hiền như Trúc Lâm, đến Đồ của Hồ mẫu phụ, kia là mất lễ cho là đạt (Trúc Lâm là Nguyễn Tịch có tang mẹ, Bùi Khải đến viếng điếu, Nguyễn Tịch xũ tóc đứng thừ chẳng khóc, say mà nhìn thẳng, Bùi Khải đã khóc xong bèn đi, có người hỏi Bùi Khải là khi điếu viếng, người chủ khóc thì khách mới làm lễ, Nguyễn Tịch đã chẳng khóc, sao ông lại điếu? Bùi Khải đáp: Nguyễn Tịch là người của phương ngoài, nên chẳng lễ chế, bọn ta là người tục, nên lấy hủy nghi tự giữ. Người thời bấy giờ cho là cả hai đều đúng. Hồ mẫu phụ là người Tề) Linh Dụ nếu cũng lấy làm đạt giả thì chẳng thầy chẳng trò, phải như kia chẳng cha chẳng con. Há sống thì chẳng bỏ ái cầu thăm, chết thì dốc cầu đạt đó ư (sống thì ân của vỗ về nuôi dưỡng chưa dứt, nên còn thăm viếng, chết thì đã đồng cỏ cây, chỉ có thể ngầm giúp) nên về sau là chẳng lường đức hạnh, chẳng kiện Linh Dụ mà thường làm Linh Dụ (kiện là ngang bằng, bằng con chưa thể được, huống chi chẳng bằng đó ư? Vì vậy tượng vật là tuy ngầm đạt huyền cơ, mà làm vật thường giữ, ở người thì năng người, ở trời thì năng trời, bởi người xứng có đạo thì chẳng lấy nghịch vật làm hoài bão. Xưa kia, Mục-liên khóc dâng thức ăn (mẹ của Mục-liên là Thanh Đề thuộc dòng họ Trường Trảo Phạm Chí, vì xan tham chẳng kính tin, bị đọa vào đường ác. Mục-liên chứng đắc đạo quả mang thức ăn đến cứu giúp), Mâu-ni khiêng quan tài (vua Tịnh Phạm băng, Đức Phật nâng quan tài mà an táng. Lại Di mẫu Phật là Tỳ-kheo-ni Ái đạo cùng năm trăm vị ni cùng nhập Niết-bàn trong một ngày. Khi ấy Ưubà-tắc chánh đạo dắt năm trăm vị, Bốn thiên vương dắt Di mẫu Phật đại ái đạo, Phật tự tại đến trước bưng lò đốt hương cúng dường, bảo các Tỳ-kheo: Các thầy giúp ta cúng dường thân nhũ mẫu. Bấy giờ, các Tỳ-kheo A-la-hán đều dùng sức thần túc đến núi Ma-lợi-chi dùng hương ngưu đầu giúp Phật làm lễ) chỉ bày người vết của cảm mến phàm năng chịu vết đó mà chẳng có vết đó, có thể gọi là chí (tang có bốn chế, có ân có lý tiết có quyền biến mà theo nghi có thể) kinh nói: Hiếu gọi là giới, là nghĩa gì ư? Bởi hiếu là lấy kính từ làm gốc, kính thì nghiêm thân, từ thì mến người, nghiêm thân thì chẳng xem thường muôn vật, mến người thì chẳng thương tổn sinh loại, phòng hoạn dứt trái, chẳng gì lớn hơn đây. Đó có lẽ chẳng do ở hiếu mà năng trì giới thì không có (giới lấy Từ làm gốc, lấy kính làm phụ). Vì sao chẳng hiếu thì vô thân, vô thân thì chẳng kính đối với trên, chẳng kính mà năng Từ đối với dưới, là việc chưa có. Luật nói: Vai mang cha mẹ đến nỗi đại tiểu tiện trên vai trải qua nhiều kiếp, còn chưa thể báo đáp một ngày sinh thành. Đã là Đại thánh giúp sinh dùng lực báo đáp, sao chết thì không thương? Nên trái với Linh dụ hoặc hiền, mến mộ Linh Dụ thì khinh rẻ (hạng người sau cao tiết chẳng bằng Linh Dụ mà muốn so sánh là chẳng phải chỉ có thể theo thường) chớ khiến giữ gìn danh giáo là, vì con cháu vào đạo, trái với hiếu để, trách ảnh hưởng đến luận này mà đượm, vài ba học trò nói: Tang chỗ thân, kính cẩn vâng nghe (đã nói về tang của cha mẹ xong) còn tang thầy thì thế nào? Đáp: Lễ nói: Tôn thờ người thân có ẩn mà không phạm (con làm cha ẩn thẳng ở trong đó) tả hữu đến dưỡng vô phương (tả hữu nghĩa là phương thường của giúp đỡ) phục vụ chuyên cần đến chết chịu tang ba năm (tang cha Trảm Thôi ba năm, tang mẹ Tề thôi ba năm, nếu cha còn thì đầy năm mà thôi, lánh cha là thôi. Trảm thôi là chẳng tiện, Tề thôi thì tiện đó như thường) Tôn thờ vua có phạm mà không ẩn bề (tôi lấy ngăn cản tranh cãi làm trung) tả hữu đến dưỡng có phương, phục dịch chuyên cần đến chết mới để tang ba năm (tại nghĩa của tôi sánh phương cha mẹ) Tôn thờ thầy không phạm không ẩn, tả hữu đến dưỡng không phương, phục dịch chuyên cần đến chết, tâm tang ba năm (tang thầy vốn không có tang phục, giới ở tại tâm) lại nói anh em khóc trong miếu, bạn của cha khóc bên ngoài miếu, thầy khóc ở chỗ ngủ, bạn bè khóc bên ngoài cửa chỗ ngủ, khóc thầy ở chỗ ngủ, đối với họ Thích thì khác với Lễ (cùng Nho lễ chẳng đồng). Thầy là gốc của đức nghề, chẳng phải đức sao lập, chẳng phải thầy sao dạy, tuy trên từ vương công đạt đến thương ưu (ưu là người nông, trường trở kiệt đắm thấy Tử lộ bừa mà không thôi nghỉ) đều là thầy nghiêm, mà họ Thích thêm nguyên do của giới sinh (các ông sĩ, nông, công, thương còn lập thầy, huống cho họ Thích cạo tóc nhuộm y truyền giới ư), nên có giới thì gọi là Sa-môn, không giới thì chẳng phải Sa-môn, từ giới mà sinh mới gọi là thật sinh, giới từ thầy trao (giới là Tỳ-nitạng, nghĩa là ngăn quấy dứt ác, đồng với tiếng Phạm là Tỳ-nại-da) cho nên xem thầy như cha,
(thầy vốn không phục nay đồng với cha) nước ngoài nói Hòa-thượng, Hán dịch là Lực sinh, nghĩa là nói có năng lực sinh ra giới pháp cho đệ tử. Nước ngoài nói A-xà-lê, Hán dịch là Quỹ Phạm, nghĩa là nói nghĩa năng giáo Quỹ Phạm. Loại này có năm, đó là cạo tóc, mười giới y chỉ Yết-ma, giáo thọ (Yết-ma nghĩa là tác bạch lúc thọ giới) khoảng đó hoặc vì rơi tâm mang cấm, tự ta mà bắt đầu, hoặc vì pháp thân tuệ học từ ta mà thành, nhưng ở đời lấy vua, cha, thầy ân đó nhất quán, cha sinh, thầy dạy, vua nuôi, nên có ba loại tang: Trí, phương và tâm (cha là trí tang, vua là phương tang và thầy là tâm tang) mà Họ Thị do giới pháp nên lớn (giới là gốc vào đạo, thầy là nhân xuất thế) chẳng phải chỉ khóc ở chỗ ngủ, nắm giữ ở tâm tang, ngay dây gai chẳng phải giày, mới cha trảm (phục của tang thầy đồng như cha, hiếu của trảm thôi hai mươi lăm tháng) chỉ chẳng hẳn trượng mà sau khởi khóc, như chẳng trở lại (nghĩa là một hết tiếng) chỉ mà chẳng đối (đây đều là lễ của tang cha, đối với tang thầy thì không hẳn như vậy) đối với các thứ khác thì như lễ (ngoài ra đều đồng với lễ tang cha) nay con của ủy hạng (ủy là cong, con của dòng họ thấp kém trong thôn xóm) kêu gào cao xanh, cáo xích khốc phạt, bỏi chẳng biết chê trách của cha (nay tăng có tang thầy kêu khóc gọi trời xanh v.v... đều chẳng phải Lễ, đối với cha có hiềm nghi, nên dứt bỏ đó là đúng) khí của xe đồ sộ linh thần minh đã chẳng dùng quỷ đạo cầu mong thầy, nay sao dùng vậy (thuộc về Đồ để, Thề đều không ích lợi) đời Ngụy, Đạo Đăng qua đời, Cao Tổ Hiếu Văn ban chiếu là: Thầy của trẫm là pháp sư Đạo Đăng chợt mất đi, đau xót xúc động chẳng thể thôi, chọn sửa thận trọng lễ tang chưa chỉnh liền đến, khiến chuẩn nghĩa thầy, khóc ở ngoài cửa (lễ trong thầy khóc ngoài của chỗ ngủ) đời Tùy, Đàm Diên tịch, Đế xót thương bãi triều. Tất vua trở xuống, trùm tóc đi chân đất theo tang mà khóc, đời sau chẳng thể khinh trọng đó, trụ sử kháng dứt quỹ nơi sa mạc, hoặc phơi thây ở làng Hòe, hạng đó không chỗ nghe (Lão Tử thấy Chu đức khóc ác bèn cỡi trâu xanh ra ải Hàm Cốc, theo hướng Tây đến sa mạc. Lại Trang Chu nói: Lão Tử chết ở làng Hòe, thuộc Phù Phong. Tần Dật đến viếng điếu kêu ba tiếng mà ra, từ đó, học trò ông với chế của tang phục chưa nghe ông nói) Lỗ, Tư Khấu chết, các học trò thắc mắc tang phục, Tử Cống bảo: Xưa kia Phu tử tang Nhan uyên, Tử lộ như tang con mà không tang phục, xin tang phu tử như tang cha mà không phục, vài ba ông đều điệt mà ra (chẳng làm phục mà thêm gai, tâm tang ba năm, văn của Đàn cung) mãi đến thời Hán Ngụy, tang thầy càng dốc, có dùng đến so với tang của cha, Lễ ngày nay mỏng bạc ít có miễn (miễn là tang phục). Xưa kia, Viễn Công chế tang bảy ngày, vì phàm tình khó, cắt giúp bày ai, quá thì ép thúc so với lễ (tăng vốn là giáo của tượng ngoại, vì phàm tình chưa dứt hẳn mới chế lễ bảy ngày để bày tỏ tình, nếu quá thì ép thúc Nho giáo) thời Tề, ẩn sĩ Lưu Cầu chết, đệ tử tuy bẩm thọ nội giáo, mà như tang cha không tang phục (Lưu Cầu ở Kinh Châu, sau bỏ áo mão chẳng làm quan, nhịn ăn mặc áo gai ở nhà tranh, lắng dứt sách vở thế gian, tinh chuyên cứu xét Phật lý, thuật nghĩa đốn ngộ, đương thời chẳng có ai quật nổi, chú sớ kinh Pháp Hoa, giảng kinh Niết-bàn, Đại phẩm, v.v... khoảng đầu niên hiệu Kiến Võ được nêu làm quốc tử bác sĩ, mất ở Giang Châu, mây trắng bồi hồi, mùi hương khác lạ tỏa khắp phòng, giữa hư không có vang vọng tiếng khánh, thọ sáu mươi tuổi. Các đệ tử chịu tang như cha mà không có nghi phục, Dữu Sằn nói: Văn làm khuôn phép (Phạm) cho đời, hạnh làm sĩ tắc, do đó ban tên thụy là Văn phạm tiên sinh) Ngài Tùy, đời Thiên Thai dạy không khóc lóc là nghi phục, đó là các nghĩa tùy thời. Phàm Lưu Cầu Cao Nhạn chẳng đoái hoài (khanh nắm (dê), đại phu nắm nhạn. Lưu Cầu lúc đầu làm lệnh Đang Dương, đổi là Nam thành, phất áo tự miễn năm bốn mươi hai tuổi, bấy giờ luận sánh đó như Hán Lưu, khước từ vinh hoa, chẳng đoái hoài lộc vị) hình chất đã để lại, chết của ở nay, chẳng phải nói là mới chết nếu khiến làm tang, còn kiểu so với Cao Nhạn, nên tổn nhân nghĩa để bày giản phác có chung, mà đệ tử theo luận bàn của Khổng môn, Thiên thai hơn năm mươi châu đều bẩm thọ quy giới, nếu theo với Khao Tố thì người nửa nước đều có tang phục, nên có thể ép mà theo phong của Thiên-trúc. Trọng Ni nói: Tang và Dịch sao thích (tang lễ nên đắc trung, nếu hòa với Dịch đâu đáng buồn bã) đây là ý khơi dậy thời thế rất sâu sắc, nay phong cách của Tần Lạc, mất thì để tang, Thập sư mà tịch, ai thương giáng sát? (thân giáo sư có thể đồng trảm thôi, bổn đầu giới sư có thể đô đồng Đại công, giáo thọ sư có thể đồng Tiểu công, Yết-ma sư trở xuống, thế pháp sư thập giới sư, bát giới sư, ngũ giới sư, y chỉ sư, thọ pháp sư đều là Ti-ma có thể) chẳng phải tang thì thôi, tang thì không khác? Nên giới sư có thể so với Đại công (tang phục chín tháng) giáo thọ như Tiểu công (tang phục năm tháng) ngoài ra thì Ti-ma có thể (ba tháng). Về bạn bè, theo Lễ nói: Quần cứ vào thì điệt, ra thì không. Bạn bè đều ở bang khác, thì chỉ thầy là tâm tang ba năm, bạn bè đầy năm, nên nợ bạn bè có tú thảo thì chẳng khóc. Ở nơi khác không có tang chế (hễ nói Dị Vực hay nước ngoài đều chỉ cho Thiên-trúc) chẳng phong chẳng thọ (phong là mộ đất) Vất bỏ giữa đồng trống (thí cho chim thú ở rừng lạnh) hoặc chất đống rồi đốt, (dùng củi đốt) hoặc ở vực sau nhận chìm, chỗ biếm là ít, tang kỳ không số (biếm là chôn giấu, hoặc vất bỏ hoặc đốt, hoặc nhận chìm, cũng không sự của kỳ hạn năm phục) như thời tiền cổ của Trung Hoa (đồng với thời thượng cổ) có muốn vâng theo đây mà bãi bỏ khóc lóc, vất bỏ tang chế, vì chẳng trái luật, tôi không cùng với người (thân ở đông độ, mà muốn lễ theo tây quốc thì chẳng thể) phàm sủy thực minh túc, đản kiên tiển chỉ, nhiễu quanh tức lùi, đều là phong tục khác (truyện Nam Hải Ký Quy nói: Ở Tây Vực dùng tay bốc cơm mà ăn, lễ bái kêu chân dùng lưỡi liếm, đản kiên là hở bày vai phải, tiển là gót chân trần, đi nhiễu quanh rồi lui ngồi đều là phong tục của Tây Vực, nay đều chẳng thực hành tang lễ, làm sao lại muốn vâng theo đó, Trung quốc chẳng thực hành, gặp tang sao muốn vâng thừa ư? Phàm ai khóc tang phục tạm chẳng phải tánh giới (chỉ là già giới chế ước) tuy theo ngũ thiên thì cấm, nhưng luật thì có nghĩa tùy phương, sao gọi là chịu tang, hẳn trái với thánh ý, xưa kia nơi song lâm đánh vỗ, Phật mở quan và dậy, an ủi mà chẳng trách, bởi xót thương kêu gào luyến mến, dốc ai kính đó (Đức Phật nhập diệt tại Câu-thi, đệ tử kêu gào vổ bữa, Phật mẫu Ma-da từ cung trời Đao lợi xuống, Đức Như lai từ trong kim quan dậy cho thánh mẫu được thấy, mà chẳng trách đệ tử buồn khóc kêu gào, vì muốn sâu dày tâm ai mộ đó. Hễ kính thì thực hành chí đó, mến thì tư duy giáo đó, giáo lập mà chí tuyên, đối với lý đánh vỗ thật là có được, Niết-bàn là giáo pháp rốt ráo, ở đâu chẳng vậy, nếu đem bỏ thân vất tục tập, pháp vô sinh phải quên tình dứt ái, nên chẳng thích nghi, làm sao rất sớm (khác chưa thực hành bèn muốn quên tình, sao sai nhầm vậy) tính thấy mão mà cầu thời dạ, thấy đàn mà cầu hào nhục ư? (thời dạ là gà, có công của ty thần, nay thấy trứng bèn muốn tìm gà, theo lý chẳng đúng. Hào là như Cưu, duyên theo sắc nhục làm dáng rất đẹp, phải dùng đàn mới được, nay thấy đàn bèn đòi hào dao là chẳng đúng, quên tình nơi cảnh mới hợp với đạo, nay tình chưa quên làm sao muốn vất bỏ tục ư?) Người mới hành chưa bước lên thềm thánh vị, chí nghiệp sánh gì, bởi một người bé nhỏ trong khu, sâu xa thì năng cắt ái, hễ chẳng mến người thân của họ thì lại mến người khác (chẳng mến người thân của họ mà mến người khác, đó gọi là bội đức) mà đối với nhà quyền thế nhuận ốc thì mơn mởn (mơn mởn là dáng mạo của cỏ) có chỗ nương tựa. Đó quên tình là chỉ quên ở danh giáo lễ nghĩa (nay thấy nhà tôi vất bỏ danh giáo, cho đó là Thanh văn, đắm trước hoàn toàn bèn quên bỏ phép, lại phép quý nhà của cải, đổi sắc mặt miệt mài) tức giận muốn hơn thua y phục ăn uống thường thường, chỗ nào mà quên? Tình đã chẳng hết, mến chẳng dứt hết, đâu đối với tang lễ mà muốn bỏ ư? Hoặc nói: Nếu khiến Sa-môn tùy phương làm tang lễ cũng được, tùy phương chẳng kính vương giả ư? (đã đồng với tục lễ, phương tiện nào đồng bái tiếp) Đáp: Chẳng đúng (là đáp chủng) vì sao? (là lại gạn) bái là ngoại sức, hiếu tự nội tâm, ép làm ngoại sức tổn nghi của khôn tổ, ép nội tâm đó, mất tánh ái kính, cùng cả hai đó ép, chẳng như buông cả hai, buông đó chẳng bái, thành tin giúp của vua tôi, buông đó làm tang. Thành hiếu để của nhân luân, nên nương trái khác, rõ ràng phàm nước ngoài ai thương cũng rất lắm, nên vua Ba Tư Nặc tang mẹ mà sợ sợ lo lo (vua Ba-tư-nặc nước Xá-vệ có tang mẹ mà thân để bụi đất lấm đầy) Đấng Đại thánh diệt độ mà bốn chúng huyết hiện, như hoa ba-laxà, Xá-lợi-phất nguội thân, các tầng trời cõi Vô Sắc rơi lệ như mưa nhỏ ngày xuân (cõi Vô Sắc hóa định quả sắc mà xuống hỏi han an ủy) há chẳng do sinh ta, đức-ta, tình đó dốc thiết, chẳng phải hình chẳng phải khuyến, chí phát ở trung, nên có đau khổ của Hạo Thiên Liệu Nga (xót thương cha mẹ khổ nhọc sinh ta, muốn báo ân sâu, như trời cao chẳng cùng, liệu là dài lớn, Nga là La Hạo, ở thời Chu U Vương, người dân đi lao dịch lâu, chẳng được nuôi dưỡng cha mẹ, như thấy nghĩa chẳng biết) ai của thăng đường mang tự (tự là tường đông tây, hiếu tử lên nhà mà lưng mang tường) chẳng mong khóc mà tiếng tự kêu gào, chẳng hu địch mà dáng mạo tự khổ, làm sao có thể dùng sức cao mà cưỡng ép, xấu hổ tục cầu biến sư? Xưa kia Tề Châu Tam Tạng (tức Nghĩa Tịnh) từ Tây Vực trở về, chuyên việc giảng, vời tình thưởng vàng sánh huấn đó, lấy làm khoát vải đen mà trái với thường thức, để tóc dài mà khác nghi cũ, đó cũng buộc thêm trần lao lại mắc gông cùm (…tóc đen dài, chưa hẳn hợp đạo) lại nói: Bỏ thánh giáo của Thích phụ, trọng tục lễ của Chu Khổng, đặc biệt cho Linh Dụ là người biết đạo. Trộm lấy, Sa-môn trong thiên hạ đều chẳng phải Linh Dụ, làm Linh dụ thì bước của Hàm Đan chẳng thành (Hàm đan tức ở quận triệu, gái đẹp thực hành được) được không chân tục, gồm cả tang, người xưa nói: Thánh đạt tiết, kế đó là thủ tiết, dưới nữa là mất tiết (Trang ngữ của Tào tử… ngữ phàm chẳng phải đạt chẳng phải thủ thì chẳng phải mất, thế nào? Vì vậy, chịu tang là lui ở gắng hành, khởi nơi suối lạnh nghĩ tu hương lửa của Khải Phong, phước của trai giới u hiển đều nhờ, thì sao trái với đạo ư? Nay có Toản phu chịu tang như không tang, ăn mặc an, nói cười vui vẻ, sao lại bội nghịch (gặp phải tang mà chẳng buồn, tôi lấy gì để xét? Có lánh của đất cũng có thuận hỏi đó, sinh thành tội gì, lương thảo đường ước, cha mẹ sắp mất, và đến sắp quyết biệt nhu bộ anh hiền (mộ đồng với con nít, hiền sánh tợ trẻ thơ) chẳng tương giao với người đời, đó đều càng xa, đó trông càng trọng, chẳng ăn ngũ cốc, còn đến như vậy, ăn ngon mặc nhẹ: cho nên thêm y cứ.
--------------------------------
(Khiển trách chỗ quấy gọi là có, nêu việc trái gọi là dị)
Hiền của Kiến Đức, tuệ chí như trộm (kiến là lập, tệ là che giấu, người lập đức, chỗ chứa ngậm rộng, lớn bưng bít đó mà như chẳng đủ) nhà làm ngụy, cả ngôn như lưu (cả là có thể kẻ làm ngụy, chỗ nêu bàn nịnh, nên hạng xảo ngôn ngợi khen) chấp hư làm có trang sức tà vạy, nhiễu loạn chánh chân, nêu chỗ đồng đó, rỉa rói chỗ chẳng đồng đó để cậy lấn rối ren, như mặt trời lên, bị mây ngăn che, như nước lắng trong bị gió nhiễu sóng, khó thay cùng cực (xảo thuyết loạn chánh) kinh chép: Xưa, có hai đệ tử, mỗi vị giữ gìn một chân của thầy, đều chẳng phải không giữ gìn (kinh Hiền Ngu chép: Xưa, có hai người đệ tử, mỗi vị giữ gìn một chân, đứa giữ bên chân trái chẳng có mặt thì bị đứa giữ bên chân phải đánh, giữ đứa bảo hộ bên chân phải chẳng có mặt thì bị đứa giữ chân bên trái đánh, chân thầy chưa tới một tháng mà đã bị nát tan, nay dụ như Đại, Tiểu thừa mỗi thưa đều quấy nhau) tức giận thì cùng đánh, tức giận chẳng thôi thì chân đó mất, nay dị thuyết, đều là ganh ghét mà hại, đối với thánh sư thì không chỗ đoái hoài. Đáng buồn thay! Từng thử luận đó là: Dáng mạo khác với tâm, tánh thành thói quen, Hạ-lý-ba hát, người hòa sẽ hòa hẳn đông (xưa, người nước là Lý-ba hát thì người lý họa theo rất đông, soạn thiên Bạch Tuyết, thì người họa theo rất ít) mắt cá Yến thạch xét đó thì ít (yến thạch tợ ngọc, mắt cá như châu) nên khiến hạng đuổi theo ụ đất tà nịnh đồng đàn (bạn tà thuyết đó như chó đuổi do) đều bênh chủ nó, sủa Nghiêu làm Thuấn, nay lấy lời chẳng kịp nghĩa thì làm dị thuyết, phân tích đó có đáng, thì gọi là người khiển trách, chặt gốc bít cực, hoặc mong ở được (chỗ nay nêu bày, mong tại chặt đó, lấp bít nguồn đó) chỉ ánh sáng lửa bó đuốc giúp soi, rồng lấy phụ chiếu, yêm lao vang gần, ngưỡng sấm sét mà giúp rung chuyển (lửa bó đuốc là lửa đom đóm, yêm lao là loài thú biển, cá kình thì tiếng vang khắp cả sông hang, nay đem đúc nó trên chuông, dùng hình cá làm chày đánh, lấy tiếng đó, nay Hòa-thượng Bắc Sơn khiêm nhường nói: Tuy muốn chặt gốc lấp nguồn để dừng tà thuyết đó, nhưng tiếc là tài trí của mình đồng như lửa bó đuốc, tợ nhỏ nhiệm bấy giờ, tiếng các hiền giúp để hỗ trợ, dùng tỏa sáng tượng). Đây thật là chỗ chứa của xấu ốm, từng có Thích thi ốc y (Thích thi là mặt mềm mại, ốc y là dáng cứng cỏi) riêng tôi nói: Lũ kia thạnh nay (nghĩa là bọn dị thuyết) e chẳng được ở ông, vì sao? (sợ vì chỗ thời thế kỵ nhiều dân lánh không tự lập hạng người dua nịnh rất nhiều) tôi nói: Thú trông lại cụp đuôi, cho nên chẳng bằng (chồn sắp vượt qua sông nếu sợ ướt đuôi, cho nên chẳng bằng) được nghĩa mà tổn thương cũng đâu nệ. Ngư phụ chuyên thi kẻ săn bắt hổ, đều là chí đó (sợ thì chẳng làm, cái gọi là bậc chí đức chẳng hòa với tục, công thành người là chẳng mưu tính đông nhiều).
Dị thuyết nói: Người Phong giới học: Thật thì tiểu trí, ải tình chẳng di (phong là kẹt, ải là hẹp, di là bằng, nói người trì giới hạn cục ở Tiểu thừa) xúc vật tránh lỗi, mất thân như bụi đất, hậu ý ở cỏ cây (xưa có vị Tỳ-kheo trì giới, đi đường bị giặc cướp y bát, giặc dùng cỏ để buộc, suốt nửa ngày mà vị Tỳ-kheo chẳng bứt đứt cỏ mà đi, sợ phá giới) đại sĩ quán xét đó như đường hiểm ác, chẳng bằng giúp đại đạo tôi, rơi tiết tôi, buông tâm tôi, chẳng nối võ chẳng nhướng mày, chẳng đói bụng, chẳng bệnh rau quả, tiêu dao trong sự uống ăn, thản nhiên ở trên hóa thực, sao chẳng vì tôi đến, ai có thể quyên mỹ hậu của cao lương thuần quảng, cùng hồn linh đời sau làm tàn khắc ty lệ ư? (đời này chẳng ăn ngon mặc đẹp hoa lệ, khi chết trọn làm quỷ ty tiện ư?).
Khiển trách rằng: Vì sao như vậy ư? Chẳng thẹn với người, chẳng sợ với trời, vừa ý nghịch thiện, tội chẳng gì lớn bằng. Giới là oai nghi (oai là có oai đáng sợ, nghi là có nghi đáng bắt chước) oai nghi là tiêu biểu của đức, Thi nói: Thục thận đó dừng, chẳng khiên với nghi. Lại nói: Ép ép oai nghi, chỉ góc của đức (đều trọng đạo oai nghi) nên nếu tức tu đồ, lấy đó làm phù ấn (tu là dài, qua đường dài, do giới năng giẫm trải, phù ấn là như công bằng ở đời nay) nếu giẫm trải qua nước lớn, dùng đó làm chiếc phao (luật chép: Như người muốn qua biển lớn, nhờ chiếc phao mà được qua, dụ như trì giới, phá một giới nhỏ, cũng chẳng thể vượt qua) như cưỡng chế ngựa, dùng đó làm hàm sách, như lúa mạ ngàn mẫu, dùng đó làm đất bằng, xe dê chỉ năm phạm (một là Ba-la-di, hai là Tăng-già-bà-thi-la, ba là Ba-dật-đề, bốn là Đề-xá-ni, năm là Đột-kiết-la, chỉ ngăn ngừa hai nghiệp thân, miệng) trâu nương chung ba nhóm (ba nhóm thân, miệng, ý) thiếu đầu đuôi thí như rồng quỷ (phá giới là phần nhiều sánh như rồng quỷ) hoàn toàn trước vượt qua trời, người. Chiếu soi như nhật nguyệt, đẹp như anh lạc. Do đó, cỏ tốt hộ nga (cỏ tốt là như trên, hộ ngỗng là xưa có vị Tỳ-kheo vào cung vua, thấy con ngỗng nuốt một viên ngọc, sau đó vua tìm ngọc chẳng được, nghi vị Tỳ-kheo ấy lấy, bèn hỏi, vị Tỳ-kheo ấy sợ vua giết con ngỗng nên chẳng trả lời. Vua sắp giết vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo cũng chẳng nói, đến khi con ngỗng đã nhả viên ngọc, vua biết chẳng phải vị Tỳ-kheo lấy, nên lại hỏi: Vì sao chẳng nói? Tỳ-kheo đáp: Nếu tôi nói sợ vua sẽ giết con ngỗng) có chết cũng không hai, đuôi rồng rơi nhạn, tinh thành nhất quán (như có vị Tỳ-kheo đến chỗ ở của rồng hiện thần thông đến cùng chẳng mất, người trì giới đến búng ngón tay ba lần, rồng bèn bỏ đi, luận Đại Trí Độ chép: Có vị Tỳ-kheo trí giới lúc ăn chỉ tâm niệm, thức ăn liền cảm hiện, nhạn đầu đàn biết vậy, khiến bầy nhạn gieo xuống đất muốn cúng dường làm thức ăn, vị Tỳ-kheo ấy biết vậy nên chẳng ăn) vả lại, tôi và ông đồng là nâu sồng, trên đầu không mũ, trên thân chỉ mặc vải xấu, bốn biển chỉ là một, không thích không mạc (thích là sâu dày, mạc là mỏng nhạt) sao chỉ chọn tuổi của ruộng tăng, ăn cúng của đốt lò (tăng từ đủ hai mươi tuổi mới thọ Đại giới, qua hạ đến đông, gọi đó là hạ lạp) nghi phạm chẳng nhiếp, đen trắng đâu khắc, (nay tăng chỉ lấy người niên lạp cao ở tòa trên mà nhận cúng dường, mà hoàn toàn chẳng biết tu nhiếp oai nghi, hạnh của bậc thánh chẳng gì bằng chuộng trai giới, tâm bậc thánh chẳng gì bằng chuộng từ kiệm, chẳng trai giới thì phỉ báng hạnh của bậc thánh, chẳng từ kiệm thì trái với tâm của bậc thánh. Báng hạnh trái tâm, thì tám nạn chẳng do bước mà đến (tám nạn là: 1: Địa ngục; 2: Ngạ quỷ; 3: Súc sinh; 4: Châu-cu-lô; 5: Trời vô tưởng; 6: Điếc mù câm ngọng; 7: thế trí biện thông; 8: Sinh trước Phật sau Phật. Đây đều làm chướng ngại thánh đạo) năm khổ chẳng đợi vời mà đến, đời này đời khác, cùng u hồn đời sau làm cửu sâu quả lớn (do thân này cùng phỉ báng, khiến hồn thức đời sau sa đọa mà chất chứa oán hận) nếu do đạo lớn rỗng không, hạnh nhỏ tổn đức, thì đối với Bồ-tát giới kinh làm sao có được (giới Tiểu thừa nếu chẳng giữ được, thì làm sao giữ được giới Bồ-tát, của Tiểu thừa vốn từ Đại thừa lưu xuất) do đó, như dáng mạo tợ hổ mà chất xứng với chuột, lạm hình ngựa đó (làm tăng chẳng thể giữ giới mà lại nêu Đại chê Tiểu, thật là loại hình chó chuột mà lạm chất của hổ ngựa) tuy muốn mượn ngôn từ, trốn lánh trách nhiệm mà thật văn tội đó.
Dị thuyết nói: Thiền là tâm học, tâm ngầm thần hóa, chẳng đi mà đến, sắp dừng lại chóng. Đó động như sóng vọt, đó tĩnh tợ vực lắng, phải nhận đó ở tự đắc, buông đó ở vô vi, sao hẳn ở yên với hình khô, lấy có đối đãi không? Hễ được thì là người trăm năm, còn chẳng được thì cũng là người trăm năm, nhục tông đồ, tiếm cao vợi, nhà cửa hoang tối (buông là đạt lý, chưa khởi sinh diệt mà dấu vết vượt Tỳ-lô, há chẳng tiếm cao vợi ư? Sắc tâm lẫn lộn, há chẳng hoang đó ư?) vỗ về đó ở thật thì ai tỏ ngộ, chẳng bằng vui ở cúi ngước, tạm vượt tự thể, chuông phạm giảng tụng lại vui ý ấy. Thiền đối với tôi không chỗ làm (ý trọng giảng xướng mà chẳng ưa thích thiền vị).
Khiển trách rằng: Phù phiếm luống dối: Dằn dặt nguy ngập (phiếm là sắc, du là xa, một khi nghe dị thuyết, thì huống dối phỉ báng của sắc cạn, tợ như tâm lự dằn dặt cao xa, lý thú sâu mầu, hoàn toàn trái với nguy ách, lý sơ thì nguy) đã thăng mà điên thật chỉ vì hối hận. Chỗ của năm đường chẳng buộc ràng, ba thừa do đây mà chống hoản (buộc ngựa là buộc xe lên dây. Người đạt lý không là năm đường chẳng thể trói buộc thân, ba thừa làm sao có thể nhiếp vị, siêu nhiên mà ra) tĩnh lắng ồn náo, bụi bặm ở thông trang, mở chốt sâu của linh quan (trang là đường lớn, xu là chốt cửa) mà chẳng trước đối với thiền học. Nên bậc sĩ tu đức nhàn tà, chưa từng không có thây ở, xác thực cho đến nơi vô vi (nhàn là phòng ngại, xác là chim non, vậy bậc sĩ quên tâm, đó ở thì như thây không, làm thức ăn đó thì như xác chẳng đua tranh, điềm nhiên mà thôi) có đó chẳng do đạo này, thì từ tưởng như ma, kế sự như lưu. Hình là tâm rong ruổi, khổ chung với tuổi tác, hoảng hốt bàng hoàng, (huy hu là mở mắt) bó buộc tư trừ (dáng bước chật vật). Sao yên ở đó, là có (nay những người xưng là thiền, chẳng thể vắng lặng, thân tâm rong ruổi theo cảnh chuyển đổi, sớm tối khư khư đâu thể gọi là yên ở?) chỉ thiền chung trong ngoài, vị khác Tiểu đại (thiền là tâm nhàm chán địa dưới mà dẫn tâm địa trên, chiết phục phiền não, khiến chẳng sinh khởi, làm sáu hạnh sự, quán chung nội giáo ngoại đạo, Đại thừa, Tiểu thừa các chỗ làm, chẳng phải chỉ là một lời một câu mà thôi) đều tùy theo tu chứng có cạn sâu (có gần phân căn bản lý sự, Đại thừa Tiểu thừa luận cạn sâu chẳng đồng) như ba con thú: Voi, ngựa, thỏ lội qua sông, bởi sự hứng vịnh của tiên thánh (Tiểu thừa dụ như thỏ, Trung thừa dụ như ngựa, Đại thừa dụ như voi, sâu cạn đều khác nhau) xưa khoảng đời Tấn đời Tống. Các vị Tam Tạng pháp sư từ Tây Vực đến phần nhiều dùng pháp thiền để dạy truyền, ung ung túc túc, im lặng mà thực hành, chẳng lấy làm lóe sáng nơi đời. Như Trúc Đạo Du định lực cao xa, tụng kinh ở non cao, bầy hổ đến lắng nghe, có một con hổ ngủ gật, Trúc Đạo Du dùng chuỗi châu như ý gõ đầu, nó bèn nghe, Cầuna-bạt-ma ngồi nhiều ngày chẳng dậy, đệ tử đến hầu, thấy sư tử trắng đứng tựa cột, hoa sen xanh mọc đầy khắp hư không, nên đứng giữa mưa mà chẳng ướt, giẫm trên bùn sình mà chẳng dơ, ở đời Ngụy có Bạt-đà truyền tâm ngộ cho Tuệ Quang, Tuệ Quang thiếu định lực, trọn lấy văn tự của Tam Tạng làm Quốc đại thống (Tuệ Quang họ Dương, người ở xứ Định Châu, Bạt-đà gặp mà lấy làm lạ, giữ lại cho xuất gia, thông minh không ai bằng, thời bấy giờ được gọi là thánh Sa-di. Ở đời Nam Tề được làm tăng quan, sau làm Tăng thống, có văn chương lưu hành ở đời) chỉ Tăng Điều đắc đạo của Bạt-đà, dùng tích trượng giải hổ, áo ca-sa hộ nạn (thiền sư Tăng Điều ở núi Vương Ốc thấy hai con hổ đấu nhau, dùng tích trượng mà tách chúng ra, mỗi con đi một ngã. Vào thời Cao Tề, có Lục Tu Tĩnh, v.v... tấu xin thử làm pháp với chư tăng, chưa cầu y bát của tăng chúng, v.v... xoay giữa hư không, tích trượng vọt bay. Đại Thống khiến Đàm Hiển ứng đối, kia lại chúc cầu cây gỗ lớn bay lên giữa hư không, bèn đặt áo nạp của Thiền sư Tăng Điều lên trên. Khi ấy, chú nguyện đó là pháp đều chẳng thể động, vua rất vui mừng). Lúc đầu, Tăng Điều nhập định chín ngày chẳng xuất, Bạt-đà bảo là: Từ Thông lãnh trở lại đây, thiền học là trên hết, ông là người đó. Cuối thời Đông Ngụy, Bồ-đề Đạtma bày bốn hành pháp, đầy đủ cả chân áo (bốn hành pháp là: Một là báo oán hạnh, hoặc gặp thương ghét đều cam tâm nhận chịu, đó là do ta xưa đã tạo tác, đều không oán đối. Hai là tùy duyên hạnh, nghĩa là đối với tất cả cảnh không vui mừng, không oán hận. Ba là vô sở tâm hạnh, nghĩa là không tâm kế có tham. Bốn là xứng pháp hạnh, tức lý tánh tịnh viên minh) truyền pháp cho Khả (tức Tuệ Khả, tổ thứ nhất) Tuệ Khả bị giặc chặt cánh tay, dùng pháp chế ngự tâm, như mới đầu không đau khổ, từng than về kinh Lăng-già là: Kinh này sau bốn đời sẽ biến thành danh tướng, rất là đáng buồn! (Tăng xán, Đạo tín, Hoằng nhẫn, Tuệ năng là bốn đời. Sau đó phần nhiều dùng danh tướng truyền tâm) từ Tuệ Khả đến Lục Tổ, chia làm Nam Bắc, đều dẫn mạnh đẩy yếu, đua nhau tranh công đức, nhưng muốn nói về ô nhiễm và hưng thạnh là, chánh nên xét ngôn hạnh đó (từ Hoằng nhẫn có Thần Tú là Bắc tông, Tuệ năng là Nam tông. Đá chẳng phải ngọc nên chẳng nhuận, vực sâu chẳng có rồng nên chẳng oai, kia có đạo là tâm rỗng rộng xa, nên tiếng của chuông trống, tức giận đánh thì võ, ưu lo đánh thì buồn, hoan hỷ đánh thì vui, chí đó biến là tiếng cũng tùy đó, chưa có bậc hiền đắc đạo nên chí trí mà nói thì là ngu. Xưa tôi quan sát thiền môn tịnh chúng, sùng mà chẳng tiếm, rộng mà chẳng nịnh, mà chưa từng dẫn kéo khác lạ, kinh ngại tục Chân nói là bậc sĩ đại trí nhàn nhàn (Hòathượng Kim chùa Tịnh Chúng ở đất Thục hiệu là thiền sư Vô Tướng, vốn là Thái tử thứ ba của vua nước Tân-la xuất gia tại chùa Nam ở quận Nguyệt Sinh nước đó, niên hiệu khai nguyên thứ mười sáu đến kinh đô, sau vào đất Thục đến Tư trung bái yết Sằn Công học thiền, vào đất Thục dừng ở chùa Tịnh Chúng, trao pháp cho học trò, là Thần Hội, lại có Nam ấn Tuệ Quảng, lại có An tăng, Lương tăng, v.v... đều y cứ thiền pháp) bèn lễ bái sát chân làm thầy, thưa hỏi mọi sự ở ý chỉ đó, mà người học vì chưa thấy ban thùy nhậm nhiễu của doanh manh (ban thùy là thợ giỏi, doanh là trụ, manh là nóc mái) chẳng gặp hòa hoãn, thứ bệnh của phổi ruột (hòa hoãn đều là bậc danh y xưa đời Tần) cẩu thả tại tự ngã tinh sưu mà thôi, nếu chỉ lấy việc bên ngoài làm bến bờ của tự lụy, giống như Bắc viên mà đến các Sở (viên là buộc ách của xe, sở là tại nam địa, nay người học chẳng thể tinh sưu soi suốt, chỉ cầu ngôn cú nêu thành tự lụy, như muốn đến phía Bắc mà đi về phía Nam, thì chẳng bao giờ đến nơi).
Dị thuyết nói: Thiền giả chẳng cùng cực so với thầy ta, thiền đó nói Thủ-lăng-nghiêm (tức Tammuội) từ Phật truyền cho Đại Ca-diếp. Đến Bồ-đề Đạt-ma đợi thầy ta, tâm và tâm trao nhau, còn các tông khác thì chẳng như ta (Tam Tạng pháp sư Bátla-mật-đế mang bộ kinh Phật đảnh mười quyển đến Quảng Châu dịch với Phòng Dung, xong dâng tấu Thiên Hậu nói đây mới xứng là ý chỉ Viên Đốn, đều là tông tượng của thiền).
Khiển trách rằng: Cát nhân ít lời, công phạt chẳng thường, huống chi chẳng phải công vọng, phạt người cát đó ư? Truyện phó pháp chỉ có hai mươi bốn vị, từ sau Sư tử, bốn vị như Xá-na, Bàtư v.v... đều là khúc thuyết của các nhà khác (ghi ở truyện bảo Lâm) Lại Tổ thứ hai mươi chín là Đạtma-đa-la, chẳng phải Bồ-đề Đạt-ma. Truyền pháp hiền thánh đó trong lúc lấy Thanh văn, như Cadiếp v.v... tuy là hồi tâm mà còn có tiểu trí (Cadiếp, A-nan, v.v... tuy được thọ ký ở Linh Sơn mà còn là tiểu thánh) đâu thể truyền Phật tâm ấn ư? Xưa kia, Thương-na-hòa-tu nói với Ưu-ba-cúc-đa là: Tam-muội của Phật thì Bích-chi chẳng biết, Tam-muội của Bích-chi, thì Thanh văn chẳng biết. Tam-muội của A-nan nay ta chẳng biết. Tam-muội của ta nay ông cũng chẳng biết, Tam-muội như vậy đều diệt theo ta, lại có bảy mươi bảy ngàn kinh bản sinh, mười ngàn A-tỳ-đàm, tám mươi ngàn Tỳ-ni thanh tịnh cũng diệt theo ta, nên truyền pháp là chỉ truyền lời đó, tiếp thừa pháp là rõ lời thấy tâm tức là đắc pháp (tuy nói quán trí mà chỉ truyền ngôn cú) đó như nghề đục đẽo vòng tròn, truyền nghề mà chẳng truyền diệu (Tề Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, Luân Thiên đẽo bánh xe ở nhà dưới, thích đẩy đục mà lên, hỏi Hoàn Công rằng: Xin hỏi chỗ đọc của ông là lời gì? Hoàn Công đáp: Lời của bậc thánh. Hỏi: Bậc thánh ở đâu? Hoàn công đáp: Đã chết rồi. Hỏi: Vậy thì chỗ đọc của ông là cặn bã của người xưa? Hoàn Công bảo: Quả nhân đọc sách Luân Nhân đâu được chê trách? Có thuyết thì rồi, không thuyết thì chết, Luân Thiên nói: Là bề tôi, vì vậy của tôi trông coi đẽo bánh xe, từ từ thì ngọt mà chẳng chắc, nhanh vội thì đắng mà chẳng vào, chẳng từ từ chẳng nhanh vội thì được đó nơi tay mà ứng ở tâm, miệng chẳng thể nói, có vài người con còn như vậy khoảng đó tôi chẳng dụ con của tôi, con tôi cũng chẳng thể nhận đó ở tôi, vì vậy tuổi đã bảy mươi mà già đẽo bánh xe, người xưa truyền cho đó chết rồi, nhưng điều ông đọc là cặn bã của người xưa). Đàn cầm của Sư Tương được đàn cầm mà chẳng được số (Trọng Ni ở đất Vệ, học đàn cầm với con Sư Tương, mười ngày mà chẳng tiến, con Sư Tương nói: Hãy học thêm, Khổng Tử nói: Tập nguyên do đó, chưa được số đó vậy có lúc nói: Tập số đó đáng thêm, Khổng Tử nói: Khâu tôi chưa đắc chí, có lúc nói: Tập chí đó đáng thêm. Khổng Tử nói: Khâu tôi chưa được làm người đó, có lúc nói: Chỗ tu lặng im nghĩ, chợt có chỗ vui vẻ, trông cao mà chí xa, nói: Khâu tôi được làm người đó, ủ rủ mà im lặng, xót xa mà lớn mắt như đối với dê, như đối với vua. Bốn nước tức Văn Vương ai làm đây, con Sư Tương lánh khỏi chỗ ngồi, kính bái rằng: Sư cái nói Văn Vương tiết tháo) nên có người tu tập lâu mà không thành, lại có người vừa phát tâm bèn chứng, lại có hạng nhỏ mà đắc, Anh tài chẳng ngộ, chỗ quý ở nơi ngầm hợp, chẳng hẳn ở nơi trao nhau, nhưng nay các môn đều thiền, mà xấu nơi biết Phật, thiền riêng mới một nhà ư? (Như chỗ truyền của các bậc tiên đức Trưởng giả đều có tông sư).
Dị thuyết nói: Đạt-ma đã phải truyền pháp khiến hai đệ tử đến đất Hán, bị người Tần đuổi tới Lô Sơn (tức Bạt-đà) nhân cùng Viễn Công dịch ra kinh Thiền Yếu, Đạt-ma nghe vậy bùi ngùi, mới tự ra khỏi đất Bắc, vượt biển đến đất Lương, người đất Lương chẳng kính tin lắm, nhìn về hướng Bắc có khí Đại thừa, bèn đến ở đất Ngụy (điều nói này là truyện Bảo Lâm và Cao Tăng Truyện khác nhau).
Khiển trách rằng: Ngôn từ mất ở chánh đáng, dẫn cong che thẳng, há gọi là trí ư? Chỉ môn của Tổ sư, thiên hạ quy về nhân, thiền đức tự cao, đâu đợi truyền pháp, sau đó mới bắt đầu làm Tông giáo ư? Mà có khảo xét năm tháng, vì Tỳ-kheo Sư Tử đã đáng đời Tề, Đạt-ma là Tổ thứ hai mươi chín, chợt ở đời Tấn, đâu mất lời ở năm tháng (đệ tử Đạtma bị đuổi ở đời Tấn, khoảng niên hiệu Hoằng Thỉ ở đời Tần đến cuối đời Tống là tám mươi năm, đời Nam Nam Tề được hai mươi bốn năm, cách nhau từ trăm năm trở lên, đâu được Tổ thứ hai mươi chín lại trước Tổ thứ hai mươi bốn đến một trăm hai mươi năm ư)? Có lời truyền Lỗ-bát Phù Đồ (Lỗbát là lời thi nhân sau Xuân Thu, Phù Đồ từ thời Tấn, Tống mới có) Hữu Quân Bát-nhã (tục truyền, đời Tấn, Hữu Quân Vương Hy có tự thân viết nhiều tâm kinh, rất nhiều người biết không Tâm kinh là do Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang dịch vào khoảng niên hiệu Trinh Quán thời Tiền Đường) kia vừa rồi biết bát tại Xuân Thu, vương ở Tấn Mục thì chẳng có lời ấy.
Dị thuyết nói: Đạt-ma sáu lần vượt qua, bị Bồđề-lưu-chi và Quang Thống lén bỏ chất độc vào thức ăn, năm lần vượt qua nhả ra, đến lần thứ sáu, chẳng nhả mà chết. Lại bảo với đồ chúng đó rằng: Tông ta đến đời thứ sáu mạng như sợi tơ treo, cho nên biết, sùng sơn đến Tuấn Hủ nhượng băng đó, kiều mộc đến kiên hạt trùng đó, nên khiến tổ ta chẳng xa có hại, trọn xót thương sau ta vậy (Bồđề-lưu-chi, Hán dịch là Giác hy, thông suốt Ba tạng, khéo vào Tổng Trì, chí ở hoằng dương diễn hóa, rộng lưu bố thấy nghe. Năm Kỹ Sửu tức niên hiệu Vĩnh Bình thứ nhất thời Tuyên Võ Đế đời Ngụy đến Lạc Dương, dịch kinh luận gồm ba mươi chín bộ một trăm hai mươi bảy quyển, chi chép bản thảo chất đầy một gian nhà, giỏi cả các tạp thuật, thường ngồi ở miệng giếng gội rửa giữa hư không, hoặc chú nguyện vào nước khiến tuôn vọt lên, rót mà lấy dùng, Luật sư Quang Thống là bậc tài giỏi một đời, huống chi là chủ Tăng Bính, đâu thể vậy ư? Truyện Bảo Lâm là sai nhầm rất nhiều, người học về sau nên phải xem xét).
Khiển trách rằng: Tà Phu liên can chánh, chánh rốt cuộc thành tà, Vong Sĩ bàn nói chân, chân trở lại thành vọng, thương thay bên trong mỉa mai Thích Đảng, vì danh lợi hại nhau mà có đến như vậy, ý kia cho là đức cao vật kỵ, sâu dụng tự bày (ý cho là Đạt-ma đức cao, Lưu-chi v.v... đố kỵ) mà chẳng biết tự thương, cũng do cùng cực, xưa kia thời Ngụy Chu diệt pháp, chiếu ban mượn cố tiên sinh ba lần phá luận, v.v... (tiên sinh Cố Hoan vậy) ác của lừa dối họ Thích phương Tây mà thật chẳng quá lắm. Thi nói: Người không tốt, oán nhau một phương, nghĩa là đó vậy, phàm tốt sắp giết hại ở nói dãm, thật tâm của kẻ khoái địch (như loại Bạch khởi chết bởi loại Đỗ Bưu) Cao đức nung ở Báng Phu, thật giúp khinh lời của ngoại đảng (đem giúp phỉ báng ngoại tông) đó nghe phỉ báng chẳng bít tai, đây cũng là hạng khen ngợi phỉ báng. Xưa những người có đạo, điềm nhiên vô cực, mọi tốt lành theo đó, nên hổ dữ chẳng chiếm cứ, chí điểu chẳng quặc (chỉ là đánh, quặc là bắt, chẳng dương oai mà bày dõng) huống chi là người ư, nếu sáu lầm vượt qua mắc độc hại, biết vẫn mà ăn, tâm bào tự chết, chẳng biết mà ăn, sao gọi là có đạo (đâu gọi là bậc thánh) Phàm Lăng Dương vụ thành, chưa nghe mắc ở chậm hiệp (Lăng Dương vụ thành, đều là người có đạo thuở xưa, còn chẳng làm độc hại). Há nơi không môn thì có đây ư? Nên khéo làm đạo là chẳng khiến người mến, mến rồi còn khiến người dứt bặt, huống chi khiến người hại mình ư? Lưu Chi, Quang Thống kia đều là các bậc đức hóa rộng mở, trời người trông ngóng, phụ hiền giúp thiện, chung mở mang phong giáo, như môn của Quang, mười người đức hạnh (học trò của Tuệ Quang, danh bày chẳng phải chỉ một) nay đây người nịnh đâu dám mỉa mai hủy hoại (Trọng Ni nói: Cho nên người ác gọi là kẻ nịnh) khiến gieo đến hổ báo, ai gọi là cùng trách, vả lại nghe tụng ta giống như người, xét mình làm nhân chẳng thể quả, làm nhân của người ác sao có thể quả ư (nhân là gốc quả cảm quyết đoán, quyết đoán là nghĩa, nay người ác dấy khởi mỉa mai phỉ báng đó văn chẳng phải ở tốt lành, đã chẳng thể xét quyết phải quấy mà tin, như thế thì nhân đâu có dụng của quả cảm) nên quân tử bên trong thứ mình để lượng người (đạo của quân tử là trung thứ mà thôi, xét mình độ người, đó là trung thứ) xưa kia Ngu Nhuế tranh giành ruộng còn thẹn với Tây Bá (hai nước Ngu, Nhuế tranh giành ruộng mà tố tụng, qua nhiều năm mà chẳng dứt khoát, mới nói với nhau rằng: Tấy Bá là bậc nhân, nên sang đó mà hỏi, khi vào cảnh vực đó thấy người cày nhường bờ, người đi nhường đường, Triều thần nhường vị bảo: Bạn tôi là tiểu nhân, chẳng đáng vào chầu quân tử, bèn nhường làm nhàn điền, Khổng Tử nói: Văn Vương đáng gọi là bậc Chí Đức, chẳng dạy mà theo) Sừ Nghê diệt giặc còn kính đối với Tấn Thần (Sừ
Nghê là hiệp sĩ vâng lệnh Tấn hầu đâm giết Triệu Tuần, Triệu Tuần sắp chầu còn sớm phục mà giả ngủ, Sừ Nghê thấy vậy bảo: Chủ của dân, chủ của giặc dân chẳng trung, mất lệnh vua chẳng tín, bèn xúc chạm cây hòe mà chết) thiền tổ chết ở mưu, chưa làm nhân đức (giả sử nói dối Đạt-ma chết bởi Lưu-chi, sao là người có đức? Lại nói Đại sư Khả bảo chẳng chết ở thành an, khiến dưới cây khô mà tiếp tục chết ở chỗ chận độc bởi Thiền sư Hòa, ở đây chê Tổ sư Khả quá lắm (Tăng Khả còn một tên là Tuệ Khả, họ Cơ, người xứ Hổ Lao, có thiền học, tôn Đạt-ma làm thầy, bị giặc chặt cánh tay, dùng pháp chế ngự tâm, chẳng biết đau khổ, vẫn đi khất thực như cũ. Hóa Công và Thiền sư Hòa đều là bậc danh đức ở đương thời, có nói Thiền sư Hòa dùng thuốc châm, Tuệ Khả phỉ báng đó rất lắm) Háo thắng là hẳn kình địch, há là Tổ sư háo thắng ấy ư? (Kình là mạnh, kẻ sĩ háo thắng cùng địch tranh nhau mạnh yếu, nên có sự ghét thương thù nhau, Tổ sư sạch niệm, mà lắng tâm, đó là không cạnh tranh với vật, đâu có ghét thương khiến hại ấy ư? Tin chắc sai nhầm của truyện). Xưa, Kỷ Tiêu Tử nuôi gà đá, hay khiến quên tâm khí trạng gà gỗ, bầy gà trông thấy đó khi miệt có chí đá nhau, Trù dung là người có đạo mà nhục với gà ư (kỹ tiêu tử làm vua nuôi gà đá, mười ngày mà hỏi đó rằng: Gà đã xong ư? Đáp chưa, mới hư kiểu mà trì khí mười ngày lại hỏi, đáp chưa, còn ảnh hưởng, mười ngày lại hỏi, đáp còn chóng thấy mà thạnh khí, mười ngày lại hỏi: Bao nhiêu? Gà tuy có gáy mà mình không biến, trông đó như gà gỗ, đức đó hoàn toàn, gà khác không dám ứng là trái lại chạy tại đó, ở gà có đạo, bầy gà con đời trông đó mà chạy, huống chi đối Với Tổ sư mà dám hại sao?) Nên ngói bay vì đánh người chẳng oán, xúc chạm của thuyền rỗng, là người không oán, kia vì sao như vậy? Vì vô tâm nên vậy, mà Tổ sư Khả đâu có tâm ư (Tuệ Khả đã vô tâm, thì chẳng nên hại) xưa kia, Tề bào khiên chặt cẳng, Trọng Ni bảo: Bào là trí của Trang Tử, chẳng như Thái, Thái còn năng giữ gìn chân (Tề khánh khắc thông ở tiếng, Mạnh Tử nhờ áo mà vào cung, Bào Khiên trông thấy báo với Quốc Võ Tử, Võ Tử gọi khánh khắc đến mà nói, Khánh Khắc cùng phu nhân tức giận, Tề Linh Công đánh Trịnh, Bào Khiêm giữ nước, phu nhân tố cáo đó rằng: Tướng chẳng nhận vua mà lập công tử Giác, vua bèn chặt chân. Trọng Ni bảo: Bao là trí của Trang Tử chẳng như Thái, há nay bị hại là có trí) Phật-đồ-trừng ở núi Thạch Lặc, như đá ném xuống nước, có một hôm, Thạch Lặc đòi Phật-đồ-trừng đến, muốn hại đó, Phật-đồ-trừng chẳng khiến mà được, bởi bậc thánh chẳng muốn chôn vùi người ở trong tội (nếu khiến được hại thì giúp đến địa ngục) tuy Đề-bà mổ ruột (Bồ-tát Đề-bà soạn Bách luận để phá ngoại đạo, về sao đệ tử chẳng còn, bị ngoại đạo mổ ruột, Bồ-tát trao y bát cho ngoại đạo, dạy cho chạy nhanh, đệ tử ta chưa đắc pháp nhẫn thì sẽ hại ngươi, sau đó quả nhiên đuổi bắt mà chẳng kịp) Sư tử chặt cổ (tổ thứ hai mươi bốn là Tỳ-kheo Sư Tử, bị vua nước Kế-tân chặt đầu mà cánh tay rơi rụng) đều vì ngoài nạn chưa giết, trong tâm như gắng, hoặc thuận hóa, chú giải đủ nghịch hóa, hoặc sống hóa đó chẳng đủ chết hóa, đều khiến bảo mà không oán, chẳng quy lỗi về có đức (đâu đem phi lý vọng thêm có đức) xem Tổ thứ sáu được tín y, như đạp hổ sợ cắn, Ôm Ngọc sợ bị hại (Ngu Thúc bảo: Chu ngạn nói thất phu không tội, Ôm Ngọc tội đó, tôi sao dùng đây, vì bị hại. Chu Chương đi đường, nghỉ bên đầm cỏ, nay lo người truyền sai nhầm, (Truyện Bảo Lâm chép: Ngũ Tổ thầm trao tín y cho hành giả Tuệ Năng, khiến chạy lánh đường hoang trống, nghĩ đến Nam Hải, gặp Pháp sư Ấn Tông, mới xuống tóc cho) Phàm đắc đạo là mất ngã, mất ngã là gồm mất cả muôn vậy. Y nào có đâu mà gìn giữ ở mình ư? (đạo vốn do tâm, đâu ở nơi y) phàm cừu là đạo tế ư? Hẳn chẳng cạnh tranh, chẳng tế ư? Hẳn không chỗ dùng (người nếu thấy đạo, nào mượn cừu bình, nếu chưa đắc đạo, được y làm sao dùng), tìm kim mộc để xét đuổi, sắp việc gì ư?
Dị thuyết nói: Nguyên do của tội phước, chỉ do tâm mà thôi, tâm diệt vô vi, đạo ở vô sự, chẳng lễ tán, chẳng giảng tụng là chân vô vi, chẳng cầu giới, chẳng gìn tội là chân lìa tướng, có nói có hành là tâm có chỗ biết, là pháp Thanh văn. (Giảng nói đọc tụng, thiền sư gọi là pháp Thanh văn, đều là hữu vi) do đó trừ tượng bày, bỏ kinh pháp mới xứng là đốn môn, như có chỗ nói ở tự lòng ta, gặp văn xén cắt, sao đợi chương cú sớ luận ư (thì nay gặp có hỏi đáp ngôn cú).
Chê trách rằng: Rất là đốn thay! Tuy dàn dựng tợ lời của bậc thánh chưa có, đạo của bậc thánh (cơ là gần, ngôn cú tuy tợ lời của bậc thánh. Đạo sở hành, chưa gần đạo của bậc thánh) phàm chỗ biết cùng ở đồng là đồng như mê, cùng nhược dị là nghĩa là mê ở nhược (nhược là ngươi, nay cùng ngươi đồng là thì cùng ngươi đồng mê. Nếu cùng ngươi dị thì là mê ở đạo của ngươi, kỳ chí lo buồn, mông nhu tin, làm sao có thể thôi ư? (kỳ chí là già lão, Mông nhu là trẻ nhỏ, lão túc là lo buồn, ngu trẻ là tin dùng, nên trọng ở đời) phàm vô vi là hư dung tịch bạc, không điều thiện nào chẳng làm (lìa ngại gọi là hư, chiếu suốt gọi là dung, vượt phiền gọi là tịch, điềm nhiên là bạc) như do lễ tán dệt khắc làm ngại, kia thấy hữu vi, chẳng phải ở vô vi (nếu vì lễ tán, đồ khắc tượng Phật, ngăn ngại ở vô vi thì là hữu vi, nay thấy có tướng này thì là hữu vi, chẳng phải vô vi) lìa tướng là chiếu đạt sắc tâm, không có tướng để được, bỏ mê đắm gọi là lìa (đối với tướng sở quán nếu không chấp trước, thì là thành tựu đạo lìa tướng) nếu vì chẳng thọ giới, xả bỏ trì hộ mà là lìa tướng, kia sẽ là chấp tướng, nào lìa tướng (nếu phải là trừ thọ giới dứt hộ trì mới gọi là lìa tướng, thì chấp trước tướng của trừ bỏ) pháp Thanh văn là nương thanh giáo của Phật, nhàm chán khổ mừng diệt, cô tuệ độc dĩnh (cô tuệ là trí đơn không dứt phiền não chướng, chứng được lý không, không khéo gồm tha (chỉ tu tự lợi) chẳng phải giảng tụng: hữu thanh là pháp Thanh văn (bởi mến mộ muộn chẳng thấu đạt nghĩa Thanh văn. Đốn môn là chẳng mượn tiệm của Nhị thừa, thẳng dây đường Vô sinh hành hóa khắp đều, khởi nghiệp rộng lớn, đây gọi là đốn (đây mới là đốn ngộ Đại thừa, chẳng do đường Trung tiểu) chẳng phải biến nhiên bặt chiếu, chê trách muôn điều thiện là đốn môn (đâu thể im lặng không tu, chẳng tạo một điều thiện mà gọi là đốn môn thì với châu ở phía Bắc Cu-lô, trời vô tưởng, v.v... đâu khác gì nhau) phàm giáo của bậc thánh, có duyên chẳng phải một, ứng biến muôn sai, hoặc nói lưu mà lý thẳng, hoặc đầu quyền mà cuối thật (nên Khế kinh là ứng căn cơ thể lại giáo, có đốn có tiệm, có thật có quyền, có bán có mãn, đâu thể chẳng tập mà biết) huống chi âm vận cổ huấn, phạm Hán ngư lỗ, phải bẩm thừa có tượng (học chẳng nhờ thầy, hẹp hòi ít nghe) tìm xem có công. Há đối với văn tự chưa biết, bèn chẳng nghĩ mà nói, chẳng lo mà đối, vọng giẫm hư huyền, lưu tục mà gọi đó là sâu mầu) hoặc dùng tài lực khen thưởng. Đến nỗi khiến đồ chúng đó tự yên vui (vì cung cấp thức ăn ngon dụ dỗ, bèn khiến thay nhau khen thưởng) như kia có chỗ biết được nhờ định lực, năng nói kinh Phật, sao chẳng dùng dị điển để thử, xem đó nhã nạp thế nào, thẳng cong tự rõ (nếu nói kia dùng định lực giúp thêm, chẳng học tự biết, thì có thể thử sách Nho mà hỏi thì biết có đáng chăng) Vả lại, hễ xưng là Nho mà chẳng truyền tập, cũng là chỗ bệnh của Hiền Nho (truyền chẳng tập là bệnh của tăng tử) hoặc nói: Khởi thiện động hành, càng thêm vọng đó, như mặt trời soi bóng, thêm củi bãi đảnh, thành mới đạo của chuyên đây, đâu là đạo của dứt diệt (nếu nói chỉ dùng đặt thiện lợi lấy làm hạnh môn chẳng hẳn giáo điển, thì lại chẳng đúng, vả lại giáo là bày đường tắt để vào thiện, chẳng tập làm sao biết, nay muốn hành thiện, chẳng dứt bỏ giáo điển, đó như treo mặt trời mà muốn bỏ bóng, đảnh sôi trào vọt mà lại thêm củi, nên biết là chẳng thể) nói kia bởi chẳng biết chấp sự tịnh mạng, dùng tiếng ngăn tiếng (nay dùng có kinh điển dẫn về để biết vô tướng, đó như chấp sự kinh điển dùng tiếng của kiền chùy kêu để lắng tiếng chúng, thầy thuốc dùng độc để dứt độc (nên kinh cũng gọi là Đề hồ, cũng gọi là thuốc độc, như thuốc độc của sói con v.v... vốn là thuốc độc, nay thầy thuốc bảo uống đó, lại có công năng trừ độc).
Dị thuyết nói: Tông triều đời Đường (con của Túc Tông thời Tiền Đường tên là Dự, đổi niên hiệu là Bảo Ứng) có thuyền khách lớn, xép dẹp lễ nhạc, đài tạ thế quý (đài là đạp, tạ là phô bày, còn nói là giẫm đạp) bện cỏ cửa vàng, ổ kiến vua ở, nên đối với đấng Chí tôn, sắc đó ngạo như, từ đó yết như (yết là thẳng ngay mà vô lễ) Tâm khí mạnh mẽ, giả sử không sinh tử, có thể gọi là thật có đạo ư?
Chê trách rằng: Đây mới xứng là dõng, chẳng xứng đạo, phàm dõng của bất nghĩa, mưu tìm đạo để tổn, đã chẳng thể tổn thì đạo đó có thể biết (thích dõng mà chẳng thích học đó là tệ, giặc lại dõng mà vô lễ thì loạn) từng có con của người quê kệch xưng cha nó có gân lực, có miệng trán lớn, ông cha lấy làm đức, các hàng Hương Hào sợ hãi, xóm làng lánh né, huyễn hoặc đó càng nhiều, lỗi lầm đó càng rõ. Hễ xưng là có đạo thì sắc ấm mà lời đượm, khí mềm mà tâm xa, tuy muốn tuấn điều ác của người (tuấn là sửa đổi) cũng ưu du mà phúng dụ, nên đối với người biết ta là bày ở biết, chẳng biết ta là bày chẳng biết (nước có đạo thì hành, nước không đạo thì cuộn mà ôm, lại dùng đó thì hành, bỏ đó thì ẩn giấu) chẳng vui mừng với người không biết ta, chẳng giận người không biết ta (người không biết mà chẳng giận) xưa kia bậc Đại thánh đến các nước, nhiếp phục voi suy hộ tài (Điều-đạt khiến vua A-xà-thế thả voi say hộ tài muốn hại Đức Như lai, Đức Như lai từ năm đầu ngón tay hóa thành năm sư tử, voi say liền quỳ phục) chế quỷ thần khoáng dã (lại quỷ khoáng dã thường ăn thịt trẻ con, một hôm bắt được một đứa trẻ, nó xướng Nam-mô Phật thì quỷ chẳng thể ăn, Phật hóa thành núi lửa vây quanh bốn phía, quỷ dốc hết sức lực mà chẳng thể ra được, bèn phát tâm quy hướng Phật, thề chẳng ăn thịt người), chưa hề sân nhục Ba-tư, mặt chẻ Xà Vương (Quốc Vương mỗi lần đến chỗ Phật hội, Đức Phật đều trước bảo: Lành thay, Đại Vương! Dùng lời mềm dịu như vậy để thăm hỏi) tuy đức tôn thần hóa mà chẳng tổn thương lễ của quốc quân. Trọng Ni đến nước Vệ, với trò chuyện Vệ Linh Công, thấy chim nhạn bay ngang qua, ngửa mặt nhìn sắc, chẳng nhìn Khổng Tử, Khổng Tử đi chỉ lánh nước Vệ, ông đó chẳng dốc lòng đối với ta, chẳng phải bày lời để tỏ chí, có nước như Tần Thỉ Hoàng, có tâm như Tần Thỉ Hoàng, mạnh như Tần Thỉ Hoàng, mà nhìn thẳng thiên hạ, một lần chầu Đường tuy đè kiểm, lại đất của Yên Dĩnh (Yên Dĩnh là nhầm, phải là huyện Yên Lăng thuộc Dĩnh Xuyên, Tần Thỉ Hoàng diệt Ngụy, sau chấp nhận đem đất ngàn dặm để đổi năm mươi dặm đất của Yên Lăng quân. Yên Lăng Quân sai Đường Tuy đi sứ đến Thỉ Hoàng. Thỉ Hoàng bảo: Quả nhân đem đất gấp bội mười lần để đổi, mà ngược lại với Quả nhân là thế nào? Đường Tuy đáp: Chẳng dám làm điều đó. Yên Lăng Quân Tiên Vương giữ đó, tuy ngàn dặm cũng chẳng đổi, chợt Thỉ Hoàng tức giận bảo: Ông có nghe Thiên Tử giận chăng? Dẹp thây trăm vạn, máu đỏ ngàn dặm. Đường Tuy nói: Đại Vương nghe Bố Y tức giận chăng? Dẹp thây hai người, máu đổ năm bước, là thiên hạ đơn sơ ngày nay đó, bèn đè kiếm đứng dậy, Thỉ Hoàng đổi sắc mặt mà bái tạ: Tiên Vương sao đến đây, là Quả nhân dụ. Tướng như nghễ trụ, về Bích của Hàm Đan, chẳng thể làm sao Dõng đó (nước Triệu có Biện Hòa Bích, Tần muốn đem mười lăm thành để đổi, Triệu sai Lạng Tướng Như dâng Bích, Tần Chiêu Vương được Bích mà chẳng cắt đất. Tướng Như dối nói là có vết, lấy lại chỉ đó, nhân giữ trụ chẳng trả, xin cắt đất mà chừng năm ngày mới nhận bích. Nếu vua cần gấp bề tôi, thì đầu bề tôi cùng Bích đều vỡ nát, vua sợ vỡ nát Bích mà chẳng dám làm hại, Bích trọn đem về Triệu) Lương Võ triệt bỏ chế độ của cung vi, cho phép Sa-môn du dạo, Hữu Ty cho rằng ngự tòa, chẳng phải chỗ Sa-môn nên lên, Trí Tạng chợt ngồi xổm đổi sắc mặt gằn tiếng bảo: Xưa bần đạo trước làm Ngô Trung cố Lang còn chẳng thẹn giường vua, huống chi Thích tử lại là Tổ Định Quang Kim Luân (là ta vậy, ta là con cháu của Định Quang Như lai) nếu Đàn Việt giết bần đạo, chẳng lo không có chỗ thọ sinh, nếu giao còn phương ngục thì chẳng ngại hành đạo, lưu tục lấy làm năng đạp qua bờ cao Thiên Tử, còn quân tử nhà họ Thích thì chẳng như. Lưới Hoàng nhà Lương đã thí (thí là rối) thứ sự rơi rụng, chỉ trừ một giường vua đáng nhận nhàn rỗi vậy. Lương Võ từng muốn ngự chế tăng quan, ban sắc người chủ khiến khắp ai chấp thuận thì đặt tên, lúc ấy không ai dám chống kháng, đến lúc sớ đưa tới Trí Tạng, Trí Tạng lấy bút khoanh tròn bảo: Biển lớn Phật pháp chẳng phải chỗ người tục biết, vua xem đó chẳng lấy làm để ý, thư viết: Dùng khoan để nhiếp chúng, dùng giản mà đi xuống, đây là hóa của Đường Ngu, phàm khoan mà dùng giản, giữ đó thì người an, khoan mà chẳng giản thì pháp đó loạn. Ngay đời Lương khoan mà chẳng giảm, chẳng loạn, sao đợi Trí Tạng kia, tuy may đó không pháp, há chẳng sợ giản thư đời sau ư? (giản là thư của sách).
Dị thuyết nói: Thầy ta ngồi kiết già, tâm ở trong định, điềm nhiên thoát xác, người sau buồn nghĩ xây tháp cao lễ tang lớn, cũng chẳng thạnh ư? (ta tức là các vị Tôn túc trong thiền môn, người học khoe việc ngồi mà thị tịch, xây tháp cao lễ tạng lớn).
Khiển trách rằng: Quân tử dụ ở nghĩa, tiểu nhân dụ ở lợi (dụ là hiểu) chỉ chỗ rõ ràng. Nếu chỗ đức hạnh đạt được, hoặc là ai buồn, vinh hạnh. Nếu quanh co dùng tanh hôi nhân đẹp ngói hợp, nắn kế sau đó, thì thêm nhiều hồn, sánh với tội của giả dự (nếu thật do liễu đạt, đi ở vô ngại thì có thể, nếu vốn chẳng phải chân thật, giả sử lấy vinh dự sau, nắm dối phàm tục, thì tăng thêm tội vùi lấp đó) phàm việc chẳng nghiêm sức thì chẳng tên, quá thí nổi dậy cạnh tranh (có đức mà chẳng rõ bày, thì mất sáng tỏ đời sau. Không đức mà nắn sức thì giẫm vào dấy nổi cạnh tranh) nên Sư Cố nói xa mà tìm ở nghĩa, Sư cố nói bộ cũng tìm ở nghĩa, chẳng phải cố là tin chỉ nghĩa là tin (tuy có lời của Cố mạng, cầu hợp độc mà hành). Xưa Tào hầu bảo Táng đơn sơ, Đại phu bảo: Nước có thường lễ, (xa là tiếm trên, kiệm là ép dưới, sám kiệm được vừa, là hợp với thường lễ) nhưng cỏ mạng mến thây, tuy muốn lợi với loài bay chạy mà thật không sao giết hại thây đó (Cao tăng Tuệ Thật dặn dò khách đem thây thí cho chim thú, nhưng đó thí ít chẳng đủ khắp, sao bằng khéo nguyện giúp rộng lớn ư? Lại phơi bày dơ uế đó, bày thây gọi là giết hại), ở lệnh đức là, nên bỏ ý này, tuy Viễn công thấy sắp qua đời, hoặc chưa ta khéo (Nam Viễn lúc sắp tịch bảo thả trăm con chim) phàm chết là tinh thần đi, hình chất đâu biết được (tạng thức đã đi thì đồng với vô tình) đứng và ngồi nằm cái nhỏ là hơn kém ư? Nên ở tại Kim Hà nằm nghiêng hông phải (Phật tại sông Kim Sa nằm nghiêng hông phải và nhập Niết-bàn) Tại Kê Phong lụy giai (tôn giả Ca-diếp vâng giữ pháp y ca sa của Như lai ở núi Kê Túc, đợi đến lúc Di-lặc ra đời vâng giữ pháp y ca sa rồi, làm mười tám thứ thần biến, tức sang núi Kê Túc ngồi kiết già nhập tịch, hóa lửa thiêu đốt tự thân) Tuệ Vĩnh đòi giầy mới đứng dậy (Cao Tăng Tuệ Vĩnh ngay trước giường tìm đôi giầy mà chết) Linh Duệ cầm quyển mà hóa (Cao Tăng Linh Duệ cầm quyển sách trên tay mà tịch) đều nhậm thời mà đi hết, chẳng phải mến mộ khác thường mà lừa dối tục (Đặng Ẩn Phong đứng ngược mà chết) xưa Cao Tăng Đàm Giám là người vãng sinh, ngồi yên mà tịch, đệ tử vẫn bày mà liệm, nay thì ngược lại. Định là mở cửa của Huyền Giải, vượt ra bờ vực sinh tử, chỗ nóng lạnh chẳng vào, chỗ đốt chìm chẳng kịp. Nếu ở trong định mà có chết, thì đâu khác, rửa xuân ngâm mà đốt ở lửa dữ, trang bị giáp trụ mà trúng tên độc ư? (Phàm lúc chết, phải ở tán vị) nên trước Phật sau Phật có các thánh đệ tử nhập định diệt tận, trải qua trăm năm, ngàn năm, ức muôn năm chẳng xuất định là chết. Tại nước Khư-Bàn-Đà, nước Chước-câu-ca, nước Ô-sát ở Tây Vực, nhân vị lậu tận hình nghi đô vĩ (đô là lớn) nơi núi non cao vợi, ngồi nhắm mắt rủ tóc, sét đánh núi đổ mà những người đi săn thường thấy có (theo Tây Vực Ký là lời tựa của Đường Tam Tạng hành ký) xưa, Triệu Tương Tử (vua Tấn không… con, con của Triệu Giản tử) đi săn bắn đốt núi rừng, có một người bay đi trong lửa, núi đá chẳng làm ngăn ngại, đó là hạng người nhập định (nhập định thì chẳng bay đi, nghi là các vị vận thần thông) đời Tấn, thần tăng Ha-la-kiết đã tịch, đệ tử chất cây gỗ như gò để thiêu, trải qua nhiều ngày mà chẳng hết, bèn chuyển đưa đến thạch thất, sau vài mươi năm, thì thấy khác với người sống, kia nhập thiền thứ tư, đã ở định cõi vô sắc, nên khiến cho miệng mũi không thở (từ thiền thứ tư cho đến cõi vô sắc địa, pháp không có phong đại chủng, nên xuyên vào hơi thở gió chẳng đi) chế độ tháp miếu, đời mất đạo ấy đã lâu, ở Tây Vực lấy tháp làm phương phần (tiếng Phạm là Tháp-bà, hoặc nói là Thâu-bà, Hán dịch là phần tháp, là lược, hoặc vuông, hoặc nhọn, hoặc tròn) đối với phàm thứ thì phong bít, như nhà của xứ này là (bốn phương) như hạ ốc là (bốn bên nhà lớn). Từ Luân Vương đến Đại thánh, mới dùng tầng cấp để bày đức biện danh (Luân Vương một tầng, Thanh văn bốn tầng, duyên giác mười hai tầng, Bồ-tát và Như lai mười ba tầng) từ xưa đến các vua đời Lương, đời Trần ít có người chẳng treo quan mà biếm phản, nhưỡng phong thọ, cho đến như thiết bày bi khiên (khiên là dây hạ quan, thời xưa lập đá dựng trên phần, có lỗ xỏ dây, dây dùng để hạ quan, gọi là biếm, về sau hoặc có người khắc dòng họ vua cha ở trên phải theo đường miệng, gọi là bia thần đạo. Thiên Tử gọi là Lăng, chư hầu sĩ đại phu gọi là Phần, thứ dân gọi là trũng, mộ chí chẳng vượt ngoài điển lễ, nay chư tăng lập tháp ký, bởi mô phỏng theo sự ấy) mở duyên đạo chẳng phải quốc vọng thì chẳng làm (ở trước phần làm toại lộ, đây đều là bậc sĩ của quốc vọng, lại có ai tru ai sách bi chí, chẳng phải đại sĩ thì chẳng như vậy. Thời xưa tăng không có ban tặng y tía sư hiệu, từ niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười một đời vua Hiến Tông, nhưng trước có ban thụy hiệu đó) sau thời nhà Chu, nhà Tùy, đua nhau chuộng tiếm phỏng, đó có cao hoa đổi thay, tệ so với thánh trước đó (gần đây thấy có Thiềm Bá chưa tịch mà tự bảo khắc đá xanh xây tháp lớn, dùng sắc mây nhiễu quanh, dùng hoa tòa hợp lại, bốn vua ngự giữ, tám rồng khiêng đỡ, trọn dùng vương nạn về tục chẳng được ở đó) hoặc tự lực lúc còn sống, hoặc dặn lại sau khi chết chẳng sợ tàn khốc của oan hồn, chỉ rong theo phí của tường liễm, sai nhầm chẳng gì lớn bằng. Xưa bệnh của tăng tử là cách, còn bảo bỏ đại, bày chẳng muốn tiếm (cách là gấp, trách là chiếc chiếu trên giường, cách âm là cực), Yến Bình Trọng nói với Quản thị là (nghĩa là chẳng phải mặt nói bình luận đó) đã chết, đâu tại ta ư? Thiêu đốt, vất bỏ, chôn đó lấp đó, phơi bày (cách an táng ở Tây Vực có bốn cách: Một là thả lưới nước, hai là dùng lửa đốt, ba chôn dưới đất, bốn là đem vào rừng Thi-Đà, Luật ngũ phần chép: Thây nên chôn cất) áo dùng củi mà vất bỏ ở các hang hốc (cách táng thời xưa, nhiều áo dùng củi, chôn cất đó giữa đồng hoang, chẳng bít chẳng dựng, bậc thánh dùng quan quách cải đổi đó, bởi lấy các lỗi lớn, xét công kỹ, Đào lệnh làm hòm sành, hạ hậu thánh dùng… Tức, lửa đốt chín gọi là Tức, người ân dùng hòm cây tử chôn, lại dùng hòm gỗ chôn đất tức. Viên văn nhận các quách đá, chỉ chỗ gặp nhau, mà con của ốc ngu (Trang Tử chỉ ở trong nhà chẳng ra mà ngu) chẳng biết phần của Đạo Lâm chẳng cao, mà Đái Quỳ ngợi khen. Cây của Thiệu Bá chẳng lớn, mà thi nhân vịnh (Thiệu Bá Thích từng ở dưới Cam đường sửa ngục bỏ, sau người Chu nhớ đức đó, chẳng nỡ chặt cây đó, nên thi nói: Che lớp Cam đường, chớ cắt chớ chặt, chỗ Thiệu Bá nhổ) chỉ chuyên tiếm nịnh, bèn khiến ở khoảng tầng tầng lớp lớp, như gò đống không hề bày kính, chồn, thỏ, rắn, thằn lằn làm nhà ở đó, chim kêu cáp tước sinh ấp ở trên, các kẻ tiều phu chăn trâu lên đó mà ca hát, người đi đường chẳng biết là ai, tôi lúc ở Lô Sơn, giảng xong mến mộ dư thừa, từng tìm tới hang rừng, thấy thì đọc xem đức hạnh đó, không một đáng cùng trở về. Do đó, sự dính mắc nghiệp, ẩn mà càng rõ, ít của đức soi rọi mà càng mờ tối, thật đáng buồn? (Tỳ-nại-da Tạp sự quyển hai mươi ba nói: Tỳ-kheo Bản Thắng lúc bình sinh nặng về sân, sau khi tịch xây tháp, La-hán Kiếp-bì-đức lầm nhận mà lễ bái, Ưu-ba-ly bảo đó, mới bảo năm trăm người hủy phá.) Trọng Ni nói: Đạo của quân tử mờ tối mà mặt trời rõ bày, đạo của Tiểu nhân soi rọi mà mặt trời mất, Thi nói: Ngầm tuy phục cũng rõ ràng của lỗ, đời gần đây nắm ống sáo ghi đó mà ít nghe đạo đức, nghê hạnh cao xa làm cao tăng, phần nhiều nhóm đồ chúng, kết nạp duyên dự làm cao tăng (vì người đời nay chẳng phải nghi người xưa, lý trí tức trung ở chùa phước cảm thỉnh xương ngón tay, Xá-lợi được đó, bèn soạn thuật bia thư, mười vị tăng được gọi là Cao tăng, như trên là rất lầm, đều là những hạng không ra gì, thật là lầm với các bậc có đức ở trước) hoặc ở đời ít có người hiền lương, hoặc tìm tòi chẳng tinh, phàm của cải để nhóm đồ chúng, xiểm nịnh đủ để kết nạp, kiểu tiết đủ để diên dự ư? Đây là muốn truyền đến người đời sau, vừa đủ để dụ lạm, hễ có ở hương (làng) thì hương hào là trọng, ở ấp thì ấp Duẫn là Trọng, ở châu thì châu tôn là trọng, cửa mười phòng, thì mười phòng xin nhà, nhà mười tụ, thì mười tụ xin quỹ, mà hoặc chưa đủ nói. Phải xưng kia trọng là, người nào vậy, vì sao vậy? (Trọng Ni nói: Người trong làng đều ưa thích thì phải xem xét, người trong làng đều ghét thì phải xem xét) đó hoặc tiểu nhàn bèn nịnh, cầu đạo, thì chấn đạt, quân tử liêm lại cũng là đức nghĩa, thì chìm mất (đạo Tiểu nhân lớn thì đạo Quân tử tiêu mất) mà người sau khen ngợi đó lạm tiến tu, danh dự phản phất, chẳng phải tính như trời trăng, cầu hợp ở quyền lợi, quên nhục mất mình mưu đẹp nghĩ lạ. Phải lấy hợp đó, đã hợp vậy, xứng mưu về nương, mưu dùng làm đảng để làm viện, dùng làm lối đường tắt gấp bội trăm thẳng, chê trách kia giản phác chẳng thể tiến thủ đó (cái gọi là dối tình giặc trí) đời Lương, Bảo Chí soạn Bộ Danh Tăng Truyện, Tuệ Kiểu san định mà sửa đó, nói là: Cao tăng lấy làm danh là khách của thật. Nếu thật hành ngầm sáng, cao mà chẳng danh, ít đức vừa thời, danh mà chẳng cao, danh mà chẳng cao là chẳng phải chỗ đáng ghi, mà Kiểu Công có thể gọi là Lương sử của họ Thích.
Dị thuyết nói: Người sắp chết, vắng lặng không thấy gì gọi là Chí đạo, chẳng do hiểm sợ, nếu thấy Phật, đến cho tướng là ma, thủ của tâm cũng, đâu khỏi ư?
Khiển trách rằng: Phu này (đây là chỗ thấy của kẻ thất phu) chưa gọi là ty khế, phàm chết là hình lìa thần vượt, vui mất khổ đến, tới đêm dài, giẫm làng không bờ, chẳng nhìn thánh nghi buồn thay mạc cứu, (mạc là không), cho nên ở Tây Vực, người sắp chết tiếng vang xoeng xoẻng, chẳng đợi ở xuân dung (ở Tây Vực lúc sắp qua đời thì khiến đánh chuông, bảo là khổ thú diệt, nay ở xứ này cũng vậy. Xuân dung là tiếng từ từ) khác kia lắng tưởng dứt loạn mà hồn có chỗ về. Lại dùng phướn buộc tượng, khiến tay nắm đó, bày tướng vãng sinh, đó là do xưa có tu ba thứ phước, xa lìa hậu báo, kim dung hoa mắt, đại quỳnh trao tay, kèn chuông hòa tấu, pháp tụng suốt năm, thật là ban cho lớn của Đấng Pháp Vương (đều là tướng của tịnh độ) hết hữu khổ ở thiên hạ, oán trách làm quỷ là, bởi quỷ do mình, nhưng pháp không chỗ thủ, thật quên chiếu của định dụng (định căn bản, lúc tâm chiếu cảnh chẳng vướng tướng năng thủ sở thủ) chẳng phải chết là mờ tối, sao quẩn kia mà cùng đây, đồng thời mà nói ư? (chẳng phải có thể đem chân tâm chứng lý mà muốn đồng thức mờ tối của sắp chết).
(… Các định khởi lên, mặt đất rung chuyển, kẹt còn dính đất, Phật bảo: Xá-lợi-phất thiền định, Mục-liên còn chẳng biết tên) Phú-lâu-na nghe trí tuệ ở đệ tử mà vì nói pháp biết (Phú-lâu-na-di-lani tử, Hán dịch là Mãn từ tử, từ mẹ mà bày tên, Mãn từ là họ mẹ) Đại Ca-diếp làm nối dõi dòng pháp mà riêng nổi tiếng Đầu-đà (Ẩm Quang Cadiếp là nam, người thành Vương xá, bỏ giàu sang, khất thực tự nuôi sống, tu hạnh Đầu-đà) Xá-lợi, Mục-liên v. v… soạn A-tỳ-đàm, mà Ca-chiên-diên chuyên hiệu là luận Nghị (A-tỳ-đàm, Hán dịch là Vô Đối pháp, tức là luận Tạng, Mục-liên, Xá-lợi đều soạn luận ấy mà chỉ Ca-chiên-diên được xưng là luận Nghị bậc nhất, cũng gọi là Ca-đa-diễn, dịch là chủng tộc hớt tóc, thuở xưa có vị tiên, ở trong núi đã lâu, tóc dài mà không có người cắt, có một vị tiên chuyên cắt tóc cho các tiên, nguyện hộ trì đến đắc đạo, từ đó về sau gọi là chủng tộc hớt tóc,
Tôn giả tức là tiếp sau đó) đây là hoằng chỉ của đấng Đại thánh, chẳng phải những chỗ khác chẳng gồm (do chuyên tốt đẹp được xưng) nhưng ở khoảng đó, hoặc có khuyên hộ, hoặc có cản trở, đều là hữu vi mà nói, nên Kiếp-tân-na riêng thấu cùng lịch tượng (Kiếp-tân-na, Hán dịch là phòng tú, bởi nhân cảm đó mà sinh, nên liễu rõ lịch tượng) Thủ-lung-na hồi nhiên tinh tấn (là Tỳ-kheo ức nhĩ, từ lúc mới sinh, chân chẳng giẫm đất, khi xuất gia rồi ban đêm hành đạo, dưới chân ra máu. Đức Phật cho nghe giảng nói dụ đàn cầm, phải khiến gấp mạn được sở nhân chứng quả) Đến như năm trăm, nếu dùng một hạnh mà cầu, thì không gì chẳng ở giáp mà chẳng phải ất, đó như khổng môn có ba ngàn vị thăng đường, bảy mười hai người nhập thất, nêu lấy bốn khoa mười triết, tuy tăng sâm chẳng nêu đức hạnh mà được gọi là hiếu để (đức hạnh, chính sự, văn học, ngôn ngữ là bốn khoa, nhan hồi, mẫn tổn, nhiễm ung, ngôn yển, Bốc Thương, nhiễm canh, Trọng do, Nhiễm hữu, Tể ngã, Tử cống là mười triết, Tăng sâm chẳng dự) họ Tả chẳng lên, văn học mà viết bút quốc sử (chẳng dự hàng mười triết, mà soạn thuật Tả Truyện, Tả Khâu Minh cũng là đệ tử của Khổng Tử) kính lễ ba trăm vị oai nghi, ba ngàn chỉ cao lập của Công Tây Xích (Công Tây Xích tự là Tử Hoa, rất có dung nghi, Khổng Tử nói: Buộc đai đứng ở triều có thể khiến cùng tân khách nói) nên phong giáo hai tông huyền phù ở đè nâng, xưa, ngợi khen Đại Ca-diếp thì gọi là đồng một giải thoát, chê trách Xá-lợi-phất tức nói chỗ chẳng thể biết (theo kinh Pháp Hoa chép: Dù cho các Tỳ-kheo đầy khắp các cõi nước ở mười phương đều như Xá-lợi-phất cũng chẳng thể biết được) các cõi nước ở mười phương chẳng phải chẳng thanh tịnh, riêng khen ngợi nước Vô Lượng Thọ, các bậc đại sĩ đều chứa từ bi, chỉ riêng hiển bày năng lực Quán Tự Tại. Đại sĩ ở núi Tuyết thấy tướng biết mạng chung (Đức Phật ở tại Câuthi nhập diệt, Đại Ca-diếp đang ở tại núi Tuyết thấy mặt đất rung chuyển, lại thấy ánh sáng, biết đâu hẳn là Như lai diệt độ, bèn trở về với chúng hội) Bồ-tát giả danh nghe nói thường trú bởi chẳng phải chỗ ích mà chẳng khéo việc đó, chẳng phải có thể lâu mà chẳng tuyên giáo đó (giả danh là mới phát tâm, nghe Đức Phật nói trú lâu ở đời không lợi ích gì. Kinh Niết-bàn chép: Sau ba tháng sẽ nhập Niếtbàn, bèn sinh buồn khóc, kinh Pháp Hoa chép: Nếu Phật trụ lâu ở đời, những người đức mỏng chẳng gieo gốc lành) đó là chỗ người truyền pháp chưa đắc, là khó ở đây. Phàm chấp văn để định nghĩa, nghĩa kết quy bít lấp, trách nghĩa để trái văn, văn sẽ bị hại (lìa văn xuyên tạc là hại văn). Hoặc học rộng mà lý chẳng thể tinh thông, hoặc tâm biết mà miệng chẳng thể nói. Hai hạng này thật là có (bởi không tâm đầy đủ ở một người) nhưng chỗ nói kinh đều xưng là bậc nhất, hẳn có ý chỉ. Phàm thâu biển ở chỗ người bị hoạn là (Sử Ký chép: Du phụ Biển Thước đều là thầy thuốc xưa) âm thảm quế tiêu là tốt (âm thảm là lạnh, quế tiêu là nóng nên là tốt) dương tháo băng tuyết là tốt (dương tháo là nóng, băng là lạnh, là tốt) mà pháp Đại y vương xót thương các loài có thân (Phật là bậc Đại y vương) dùng Bát-nhã phá danh tướng, dùng Pháp Hoa hội ba thừa, dùng Kinh Quang Minh đặt để ai sám, đều có mục đích mà chẳng ở thứ lớp (kinh Kim Cương dùng phá tướng gọi là tối thượng bậc nhất, kinh Pháp Hoa dùng hợp xe dê xe nai, trung tiểu ba thừa quy về xe trâu trắng lớn làm bậc nhất, kinh Kim Cang Quang Minh y cứ Bồ-tát Tín Tướng sám hối tất cả tội chướng là bậc nhất) mà kinh nói: Quốc quân mất đạo, ngọc chúc chẳng điều (bốn mùa hòa, gọi là ngọc chúc) mưa gió trái mùa dịch bệnh dấy khởi bởi ngôn từ của cảnh giới (như kinh Nhân Vương, kinh Kim Quang minh, v.v... cảnh là động, giới là ước). Vương: Dùng phong hóa đến dưới, phong đó nếu mờ tối, thì người biến thành xấu ác, đức mỏng họa dày, sao được Đại khang nên tiếm người đó, không cho giữ nước, thì mất lộc vị, như sự sụp đổ của núi (tiếm là giết hết, võng là không, Dân là tên núi, nếu vua vô đạo, thì trời giáng ương họa, giết hết hiền lương tôi trung, nước hoại như núi sụp đổ). Đây, đại thánh uyển mà thành chướng, như ở trong giáo cũng có tợ mà ý chẳng phải, nhưng yến ở ba tháng bảo tất cả chẳng được thấy, chỉ trừ một người cúng dường (Đức Phật an nhàn mà ở, trước bảo chẳng cho mọi người nhìn thấy), có Tỳ-kheo Hòa Tiên cùng sáu mươi vị tu hạnh Đầu-đà (chẳng thọ thỉnh, thường đi khất thực, ở trên núi, mặc áo thô xấu, ngồi dưới gốc cây, ngày ăn một bữa, chỉ giữ ba y, thường ngồi chẳng nằm, quán thây chết, chẳng ăn thịt, như vậy đều là hạnh Đầu-đà) đi thẳng vào gặp Phật, Phật biết ít muốn mà ngợi khen, trong đó như người chẳng phải ít muốn mới ngộ là ngồi yên, do chúng tôi, cùng dẫn nhau như Hòa Tiên mới được thấy Phật (Hòa tiên nhờ ít muốn mà thấy Phật, người nhiều ham muốn bèn dẫn nhau mà ít muốn) xưa nói chín bộ kinh, ngợi khen ở hóa thành, ở mà không thật, khi đến bảo sở (Phật nói giáo trung tiểu, gọi đó là quyền bày, như người muốn đến bảo sở, giữa đường tâm muốn lui vị đạo sư ở giữa đường hóa thành một diệt, phương tiện nói là bảo Sở, đợi nghỉ ngơi xong mới nói là quyền biến hóa, dẫn đó tiến đến Bảo Sớ, chín bộ Tiểu thừa giáo) ở lời nói như đồng mà ý đó thường chẳng đồng. Có lời nói trái mà ý chỉ hòa như kinh giáo giới. Tỳ-kheo bất đản, Đại thánh để lại trách đó, thành dụ kinh, đã đản, chẳng trùm hai (đản nghĩa là hở bày vai, thông là vai hai vai đều che, lại chẳng phải đản). Thu tử dùng Chánh ngôn, dường như trái với lấy bỏ chưa dụ (chưa biết có thể chấp) Phật nói hạnh cúng dường là đản, làm ruộng phước chẳng nên đản, chỗ quý là khéo thời, chẳng phải kiên bạch có thể lìa (lấy bỏ vừa lúc, tới lui theo quyền, chẳng phải như mài mà chẳng mỏng mới nói là chắc (kiên) nhuận mà chẳng thâm mới nói là trắng ư?). Từng bảo vua Tần Bà-sa-la rằng: Chớ buông tha Tỳ-kheo xấu ác, khiến ruộng tăng hoang uế, tội đó rất lớn như khoét ngàn mắt (chủ thành Vương xá) có lúc vì Tỳ-kheo phá giới như hoa chiêm-bặc héo úa, vương quan mặt sắc trắng, chớ được hình phạt, (kinh Di Giáo chép: Hoa Chiêm-bặc tuy héo, vẫn hơn các hoa khác, các Tỳ-kheo phá giới, vẫn hơn các ngoại đạo. Lại nói: Các Tỳ-kheo ta nếu phạm pháp vua, hoặc giết hoặc đánh, hoặc xé ca-sa, ép khiến hoàn tục, hoặc đuổi ra khỏi nước, như sống mà mổ ba ngàn đầu trâu, tội đó còn nhẹ, bởi vua quá nhân từ khiến người ngu tha hồ thắc (thắc là ngầm ác), quốc vương quá ác, khiến người uổng lạm, lo mất, trong đó bày hai kinh để phòng tổn, giới kinh mới đầu xoay vần can ngăn nhau, cuối cùng dạy chỉ tự quán thân (giới kinh lại chép tăng tàn có văn ba lần can ngăn, giới bảy Đức Phật lại chép: Chỉ tự quán thân hành, chớ quán làm, chẳng làm) vì thẳng mình mà chẳng thể thẳng người, chế khiến đều can ngăn, phạt thiện mà ham tố tụng, lỗi lầm là chế khiến trở lại xét ở chính mình, có sự chuyên ẩn mà nói thật, như KiềuPhạm-ba-đề làm rơi vài hạt thóc mà năm trăm đời làm trâu, kia lại phải có nghiệp trâu mà chỉ nêu rõ ở một việc. (tức Tỳ-kheo Ngưu Ty ở đời quá khứ nhặt một cành thóc rơi vài hạt gạo, mà năm trăm đời có chân trâu, miệng trâu, Đức Phật lo ngại người đời cười chê, nên bảo Ngài mãi trên tầng trời Ba mươi ba.) A-na-luật thí một bữa ăn mà chín mươi mốt kiếp thọ vui cõi trời cõi người (Hán dịch là Vô diệt, thiên nhãn bậc nhất) kia do duyên lành giúp nhau thành trong nhiều kiếp, nhưng do điềm từ một bữa ăn, ẩn ngọn mà xứng gốc. Như ở đời gọi là người giàu, ăn một tiền vàng, kia mới đầu dùng một tiền vàng, mà sau thành người giàu. Phàm đồng có mười hiệu, vì sao hơn kém, mà xưng bái ích có giàu nghèo ư? (đồng do mười hiệu thành Phật xưng lễ ở có thấy được ích lợi chẳng đồng) bởi nêu một lúc một hạnh, mà bày ở đây chẳng phải một (như phương Tây nghiêng về tiếp dẫn, còn Dược Sư nghiêng về cứu hoạn, v.v...) có lý mà chẳng phải nói quấy, như uống rượu, cầm giữ của báu nhất định chẳng phải Sa-môn (điều giới kinh cấm) thọ ký Đề-bà-đạt-đa một kiếp vào địa ngục (Đề-bà-đạt-đa gây ra năm tội nghịch, đọa vào địa ngục một kiếp, trọng tâm hai kiến, tội trọng giết người (như đặc khởi thượng phẩm sân tâm hại kiến, trọng ở nhầm ý hại người) tuy ở sự thì nhỏ, mà duyên tình thì lớn, đều là ngôn từ của bậc Chí thánh chê trách. Nên trong kinh chép: Ta nói người Tu-đà-hoàn được thành Phật, ông chẳng hiểu ý ta (y cứ hồi tâm tu hành mà nói) ta nói chẳng thành Phật, ông cũng chẳng hiểu ý ta (y cứ định tánh nguội thân chưa hồi tâm mà nói). Hoàng thánh chiếu soi căn cơ, co duỗi không nhất định, có khi dùng giáo khởi theo người nên trước nói người trời, sau dùng đế duyên mà tổn hoại (người trời nghĩa là năm giới mười điều thiện, v.v... đế là Bốn đế, duyên là mười hai duyên sinh) trước nói đế duyên, sau dùng Nhất thừa mà tổn hoại đó khiến bỏ xe dê, xe nai, hướng về xe trâu trắng lớn. Từ tổn đến vô tổn là trở về, nói Đại đạo có khi dùng giáo không theo người. Như Hoa Nghiêm hội trước các tiểu thánh ngồi tại tòa, chỗ thấy nghe mờ mịt (tám hội đầu, tuy tiểu thánh tại tòa mà chẳng thấy chẳng nghe, qua hội thứ chín mới thấy nghe). Có khi dùng người không theo giáo, như sơ chuyển pháp luân, mười hai ức chúng phát vô thượng đạo ý (Phật mới thành đạo, nói pháp cho Trưởng giả Đề-vị có mười hai ức chúng đắc vô sinh pháp nhẫn) nhiếp ngọn về gốc, vô lượng người, trời đắc pháp nhãn tịnh, phàm như, chẳng câu nệ sâu mà chẳng đạt vậy, xưa kia Trọng Ni chỉnh Xuân Thu, nêu bày khen chê, mà học trò dạo khắp xứ Hạ chẳng dám chỉ một từ, há chẳng vì trí chẳng bằng ư? Đến như hỏi nhân, hỏi chính, nghe hành này, những điều hỏi là một, mà chỗ bảo chẳng đồng (như luận ngữ) tuy muôn dòng đều thấm đượm mà chẳng vẩn đục nguồn đó, nên nói tin gần ở nghĩa, nói có thể xét lại (có nghĩa chẳng hẳn tin, có thể xem xét lại). Xưa kia, Đại Thục Thị (tức Mục-kiền-liên (thời xưa có vị tiên ở nơi núi vắng, thường hái lá đậu mà ăn, do đó lấy họ là Thái Thị, mẹ của Tôn giả là dòng họ đó) dự ghi bảy ngày sau sẽ mưa (dự ghi bảy ngày thường mưa mà chẳng mưa, thì Mục-liên quán sát chẳng tinh tế) trâu cái sinh nghé trắng, trọn dùng khắc sảng (lại ghi: Bà-la-môn có trâu cái sinh nghé, trán trắng mà đuôi cũng trắng, đây đều là tâm thô của Mục-kiền-liên) năm trăm vị Vô học đồng dùng thiên nhãn thảo luận trời đất, đều vài ba thuyết, bởi phân lý sự hoặc cũng trái, phàm mười hai phần giáo như đêm ngày có giờ, nóng lạnh có tháng, thuốc thang vị phân, thiếu thì ít lực, nhiều thì không cần (trên đây đều chẳng thể thiếu, pháp cũng như vậy) Bà-sa bảo là: Như Ba châu theo lịch bốn thánh đế số, nếu luận đó chẳng cùng cực (ba châu số bốn đế nghĩa là giảm duyên giảm hành quán) thì Đại thừa ta chẳng chướng tiểu quả, chúng Độc tử kia (thời xưa có vị tiên nhiễm trâu cái mà sinh, nên gọi là Độc Tử Bộ) hoặc chấp đó, mà người đều cho là tùy mắt sinh ngã. Tôi chẳng tin, nên Thiên Thân soạn luận Đối Pháp, chỗ y cứ có hai, bởi chẳng lấy một tông làm môn tận thiện (Thiên Thân vốn ở tông Hữu Bộ mà xuất gia, nói nghĩa nhiều tông kinh Bộ) pháp thắng đạo A-tỳ-đàm tâm luận, nói nếu sinh các phiền não là thánh nói hữu lậu. Đạtma-đa-la cho rằng chữ Sinh đó lạm ở diệt đạo, mới riêng soạn Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận rằng: Nếu tăng các phiền não là thánh nói hữu lậu. Vô Trước soạn luận Bát-nhã, Thiên Thân hai đó. (Bồ-tát Vô Trước soạn luận Kim Cương Bát-nhã Bồ-tát Thiên Thân cũng soạn nên nói là hai) dùng Bá Trọng, dùng thầy trò, dùng hạnh vị, Thiên Thân đều chẳng trước vậy (Vô Trước, Thiên Thân và Sư Tử Giác là ba anh em, người nước Lưu-lũ-sa-phú-la ở Bắc Thiên-trúc, Hán dịch là Trượng phu Thổ, là xứ Thiên Đế đánh là Tu-la, đều xuất gia với phái Tát-bà-đa, Vô Trước ngộ Đại thừa trước, lên cung trời Đâu-suất thỉnh Di-lặc giảng nói Du-già, sau khuyên Thiên Thân khiến ngộ Đại thừa) chỗ không đúng là, chỉ vì Vô Trước trí chướng chưa dứt mà tránh chẳng kịp nơi bụng ngựa. Thước có ngắn ở tấc ấy (trí chướng là chướng sở tri, Tả Truyện nói: Tuy roi đó dài chẳng kịp bụng ngựa, dụ cho Vô Trước tuy soạn luận, còn có chỗ chưa đến). Thanh Biện cùng các học trò thệ ở hang Tu-la-đợi hội Long Hoa thành đạo mới phỏng hỏi bốn bờ, nghĩa là nay Di-lặc chưa là biến tri vậy (Bồ-tát Thanh Biện dùng hạt cả đánh hang Ta-la, ẩn đợi Phật Dilặc ra đời, đem hỏi việc chưa hiểu, nay Bồ-tát Dilặc chưa là bậc chí thánh). Sau Đức Quang mượn Long Quân mà được thấy chỗ chẳng lễ bái. Lại lấy hình nghi để đòi (được đến Đâu-suất thấy Di-lặc mà chẳng lễ bái vì đó làm tướng người, trời) Trước kia tai Trung Hoa chưa có thuyết Nê-hoàn chưa thuyết Nê-hoàn thường trụ, chỉ nói thọ mạng lâu dài mà thôi. Viễn Công than rằng: Phật là chí cực, chí cực thì không biến, lý của không biển đâu có cùng ư? Bèn soạn luận Pháp Tánh (tức Tuệ Viễn ở Lô Sơn) La-thập thấy đó bảo: Người nước vùng ven chưa có kinh, bèn mờ tối hợp với lý, há chẳng diệu thay! Chỉ đạo sinh giảng kinh Nê-hoàn cho rằng người nhất xiển đề đều được thành Phật, các vi cựu học cho đến Tà Thuyết, bèn đuổi đến Hổ khâu, sau đó (đạo sinh) trụ ở Lô Sơn, đến lúc Bản kinh đầy đủ truyền tới, quả nhiên khéo léo khế hợp (kinh Nê-hoàn chép: Có một loại Xiển-đề không chủng tánh, chẳng bao giờ thành Phật, đến lúc kinh Niết-bàn phần sau truyền tới, thì nói tất cả chúng sinh đều được thành Phật, thật phù hợp với nghĩa của Sinh Công) Đạo Sinh mới lên pháp tòa, luận nghĩa vài phen, bụi bặm rối ren liền rơi rụng, ẩn cơ thuận hóa, Đạo sinh xưa chẳng chết, có đợi chờ nên vậy (khi kinh Đại Bản chưa truyền tới, Đạo sinh cố đợi chờ đó, nay đã đến mới chết, người thời bấy giờ gọi là Nhẫn tử sinh). Đạo sinh nay chết đợi đã xong. Xưa không có Sinh công giải thích thì rành rành Phật tánh ẩn đối với hạng của không biết. Đầu thời Tiền Đường, Huyền Trang Tây Vực, dùng hoa cầu thỉnh trước tượng Bồ-tát Quán tự tại, thưa rằng: Nếu tất cả chúng sinh thật có Phật tánh, thì xin cho hoa đã rải hãy treo nơi cổ Bồ-tát, liền đúng như nguyện. Nay là: Nếu khiến Huyền Trang có cái biết của Sinh Công thì lẽ ra chẳng nên có cầu chúc đó. Nếu như lời chúc đó chẳng tốt thì sẽ chẳng tin ư? Phàm, bói là quyết do dự định hiềm nghi, chẳng nghi thì sao bói? Dịch nói: Trong tâm nghi là Từ chi đó. Huyền Trang chẳng phải chi đó (chi là tán rải, Trang Công chẳng được có Đạo nghi tán). Nếu là vật mà như thế bởi vì dẫn vật làm nghi mới dẫn dắt tâm của người (Huyền Trang vốn chẳng nghi, sợ người sau nghi, nên bày ra như vậy để dẫn dắt, dẫn dắt lìa tán. Bên trong rơi tán là nghi tâm của đời sau). Đàm Diên soạn Niết-bàn sớ, lo chẳng phải hợp với Thánh ý, nên đặt sớ trước tháp xá-lợi, đốt hương thỉnh cầu chứng nghiệm sớ đó, cùng xá-lợi phóng quang suốt ba ngày đêm soi chiếu liên tiếp chẳng dứt, mà đồ chúng của Tịnh ảnh vẫn chưa hài lòng. Lớn đã chế nên, trọn đều xua bỏ. Phàm, vọng thư đã ngự chẳng nhờ tải toại (vọng thư là trăng sáng, trăng sáng đã lên, hành giả chẳng cần cầm đuốc). Ế hiệu đã giăng, sao mong riêng rưới (Ế hiệu là mây sấm, mây sấm đã giăng, nước ngọt đượm thấm khắp) mà nhà của cửa nẻo, hoa công đặc cử (ánh trăng tuy tỏa mà lan công còn chiếu), Lão của trại vườn, dây bồn đều rưới (rau lá căn tánh chẳng tưới). Vì ánh sáng xa chẳng rọi hóc hẻm, chợt mưa chẳng ướt tới gốc, mỗi mỗi chỉ lợi làm tốt đẹp. Bàn nghị lấy xa thì văn cú thích đáng, dài thì nêu rộng đủ. Học là đàn tốt đẹp, gồm thiện mà cầu đến, chẳng vì cảm linh, được Diên mà phế bỏ Viễn (Địch là bàn hặc. Bắc Viễn và Đàm Diên đều soạn Niết-bàn kinh sớ, Đàm Diên thì văn từ rộng đủ, Tuệ Viễn thì ngôn từ giản đáng, về sau phần nhiều lưu truyền bản Sớ của Tuệ Viễn, chẳng dùng bản sớ của Đàm Viên, vì có điềm linh phóng quang. Nên xưa nói: Tuy có trí của khế bình mà giữ chẳng nhờ đồ vật (Đỗ Dự nói: Khế Bình trí nhỏ, tuy chỗ trí nhỏ giữ chẳng thể nhờ người). Đó tại pháp nghĩa khéo. Nay có hành sự đều chuộng Trung Thiên làm tốt đẹp. Tiếng Phạm đều lấy kinh mới dịch làm chánh. Rõ ràng vua các nước khắp năm xứ Ấn-độ chế tác mỗi khác, huống chi năm tháng đời phong tục xưa nay trị loạn. Vốn là, đấng Đại thánh hễ đến nước nào đó, nhân việc mà diễn giáo, đâu được đồng luật độ một lượng cân kia (lượng là đấu, cân là xứng). Nên do-tuần Câu-lôxá, xa gần nói khác nhau (tám Câu-lô-xá là một dotuần, hoặc nói mười sáu dặm, hoặc bốn mươi dặm. Xa gần chẳng đồng nhau). An cư trị nhuận, dài ngắn có nhiều loại (An cư có bảy, tiền an cư là từ ngày 16 tháng 04. Trung an cư là từ ngày 17 đến ngày 15 tháng 05. Hậu an cư là từ ngày 16 tháng 05, phân bốn tâm niệm đối thú quên thành cập giới. Cập giới có bốn thứ: Một chân cập giới, hai chân chập giới, một chân cập lam, hai chân cập lam, cùng với trước thành bảy loại. Đối với năm chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa, Sa-di và Sa-di-ni. Tiền an cư, năm lần bảy thành ba mươi lăm. Hậu cũng ba mươi lăm, thành bảy mươi. Trung an cư, chỉ có tâm niệm đối thú, hai hai năm mươi, cộng thành tám mươi, An cư tâm niệm, nghĩa là riêng ở một mình không người tác pháp. Đối thú như thường, quên thành chợt quên, cho đến ngày mười bảy muốn rõ mới ghi nhớ cũng thành an cư. Trung an cư chỉ một tháng nên không có pháp này. Cập giới v.v... nghĩa là từ ngoài đến, chưa nói đến chùa, một chân vào cũng được) mà người đi chưa nên thấy khắp, người đến sao không ít biết. Tại sao muốn đem một đời để định giáo của Bậc thánh muôn phương ngàn xưa ư? Kinh nói: Nếu người sống trăm năm chẳng hiểu pháp sinh diệt, chẳng bằng sống một ngày mà được hiểu rõ. Có vị Tỳ-kheo được thầy dạy liền tụng rằng: Nếu người sống trăm năm chẳng biết con Hạc nước già, chẳng bằng sống một ngày mà được thấy nó. A-nan nghe vậy than thở đến đính chính, mà vị thầy kia không dạy đệ tử mình sửa đổi. Thầy là không ai lớn hơn Phật, về sau các người học, đều coi thầy mình là thầy, chẳng nương Phật làm thầy, nên có gom nhặt lời tương tợ, giữ lại tục chưa giúp đỡ, bỏ kinh tượng mà trước tự tánh, nói: Là Tông giáo của tôi, (như bậc sĩ ngôn cú). Nhà giải thích đó, đều xét lấy sớ luận, phát từ đoán lý, chẳng hề dùng kinh. Luyện chung việc đó, bảo: Tôi nhận thọ đó ở thầy tôi (nghĩa là nhà giảng nói. Thầy là có thể học của nhân, chẳng giữ sở học đó (phát minh ở thầy, biến thông do mình) chương cú có thể dùng làm nôm lưới chẳng phải giữ đó làm nôm lưới (nôm dùng để bắt cá, lưới dùng để bắt thỏ). Vì vướng học bít văn, có người đến chỗ đó (chẳng dùng văn hại ý). Bồi thần trung với chư hầu mà chẳng tin ở Thiên tử, thì vương hóa đánh nhau, gia lão trung với Đại phu mà chẳng tin ở chư hầu, thì cung thất nguy vậy (đó do bỏ văn kinh mà chấp chương cú). Nên đảng là hại trên vậy, mà kia chẳng phải nhân biết đảng đó. Chỉ nghiêm ái gìn giữ ở khoảng đó, danh dự lợi dưỡng còn ở trong đó, tổn đảng thì chỗ được chẳng ở mình. Xưa kia, Điều-đạt do năm tà mà rơi vào lửa dữ (Điều-đạt do năm tội nghịch mà đọa vào địa ngục) ở Tây Vực còn có người thực hành theo giáo đó, há chẳng phải trên biển có mùi hôi (mùi hôi dưới nách, nay gọi đó là mùi quạ) còn chẳng ở riêng, thật có mến mộ loại ấy vậy. (Người đều có bè đảng). Thiên tử kỳ kỳ dung dung (kỳ là kính, dung là dùng). Tiểu nhân ghét thiện, hẳn đảng rất lắm, (ghét điều thiện là đạo của bè đảng ác). Phàm là đời nay đều ẩn chẳng có khả năng đó, mà đối khả năng đó ác hơn mình mà tốt chẳng bằng mình. Phàm, vội vàng ở chẳng bằng mình là như khoe đen vàng với kẻ mù, đùa vui cung vi với kẻ điếc, chỉ luống nhọc. Nếu đem nhìn ly lũ nghe Sư Khoáng (Ly lũ trăm bước nhìn Thu nữ, Sư Khoáng nghe tiếng biết Hưng phế) thì kia có chỗ rõ, tôi được tất cả. Nên cao nghị Kỳ-đàm phải như đục tối mở cửa, sẽ có chỗ thấy. Còn việc khen chê chẳng nịnh, sùng tiếm khắc hiển (sùng là trọng, tiếm là phế, khen chê chẳng theo ở đời, đáng gọi là quân tử). Khắp đời như vậy đó, có chỗ nói là không đúng, khắp đời chẳng như vậy đó, có chỗ nói là đúng (chúng xấu sẽ xét, chúng tốt sẽ xét), như Vệ Linh Công hôn thắc, Trọng Ni lấy làm hiền quân, nhậm trí trao năng, chẳng mất xã tắc (hôn là mờ tối, thắc là ngầm ác, Linh Công tuy vô đạo mà chẳng mất, Vương Tôn Giả trị quân, lữ chúc Thi trị Tông miếu, Trọng Thúc Ngữ trị tâm khách, nên cũng lấy dùng người đó, được Phu Tử khen). Tạng văn trọng Uyên Tuệ, Trọng Ni cho là chẳng hiền, chẳng nhân chẳng trí, cả hai đến ở ba (tạng văn trọng có ba thứ bất nhân: Hạ triển cẩm, Thả nghịch Kỷ, Dối chức am, ba thứ bất trí: Phế sáu ải, tế viện cư, làm hư khí). Họ quản chín hợp làm công, giáng làm tiểu khí (Phụ Hoàng Công chẳng đến Vương Đạo, mà dùng Bá Thuật nên nhỏ đó). Tử Cống vì Lỗ Quân rớt ngọc gạt bỏ là không may (Lỗ Định Công mười lăm tuổi, Chu Ẩn Công đến chầu, cầm ngọc cao dung đó ngửa trông. Định Công nhận ngọc xong cho đó cúi. Tử Cống bảo: Dùng lễ mà xét, hai quân này đều có chết mất. Năm đó, Định Công băng, Lỗ Ai mới bảy tuổi, Chu Tử bèn trốn chạy, đều như lời đó nói). Do đó miệng là vườn từ, tâm là phủ trí, cất giấu là lăng của bất đức (Biều là vuông, lăng là nhọn, có trí là năng tròn), phát huy hoa của ngầm thiện mới đáng gọi là nhân luân bàn giám (bàn giám là gương soi). Thời nay, một kẻ sai lầm chẳng phải hòa là muôn kế, một kẻ lờn khen hòa là cũng muôn kế (tùy dòng theo khối là rất đông). Chỉ, chỉ là đều chẳng biết lý do thiện ác. Đó có môn bỉ tránh háo thắng, tự chẳng ẩn quát ngu thí đột kích bác (cho nên tập làm mâu thuẫn vì đồng bạn làm kình địch), như quái ném vào đá (quái là dùng cây dẫn đá, dùng kích đánh người, như chiếc lược ngày nay, chỗ gọi là ném bỏ) lấy làm năng bít địch cương trường, (âm dịch, đất ở biên giới) chẳng cớ chợt kỵ, ở chỗ chẳng cho thì chạy cắn chân, rất đáng sợ. (bè đảng tông đồ sinh ra hủy diệt lẫn nhau gọi là ác ấy muốn đó chết). Phàm Hoằng Nghệ là không hẳn răn, tinh thức là khó làm hòa hợp. Hoằng thì thời chẳng vì cần yếu, tinh là người ác dò xét (có hạnh của cao nhân, nên bị chê trách ở đời. Có lo nghĩ riêng là hẳn là kiêu ngạo đối với người). Chỉ chẳng thể dùng đó mà chẳng làm. Nay huyên học đồ (Huyên là loài nhỏ bay) đối với Sớ Luận Thiền Pháp đều kém người mà hơn mình, vì chỗ mình chưa nghe gọi là chưa nghe của người, vì chỗ mình chưa biết gọi là chưa biết của người, chẳng từng xem xét các bậc thầy, quyết rành chỗ đó chuyên. Vì vậy làm được chút thiện mà người ngu chẳng làm, trong khi đó thì đầy không lấy làm thêm (lộng lưới ở hạng người quê kệch, trống quạt hướng đến trong người ngu). Người mộng khi thức mới biết là mộng, người mê ngộ rồi mới biết là mê. Vừa khiến chánh xứ, ở trong mê mộng, người cho rằng mê mộng thì sẽ cấu tra (cấu tra là giận mắng). Xét qua chỗ chế soạn, ít có chánh ở Danh lý, như Tục Cao Tăng Truyện nói: Oanh võ chết gọi là diệt độ, đạo pháp mất, đời gọi là ngồi hóa trong định (tất cả tâm định không có tử sinh). Thập Công mất gọi là Hoăng (Thiên tử gọi là băng, như trời đất sụp đổ, chư hầu gọi là Hoăng như tiếng núi đổ. Nay hoặc sánh Thập Công với chư hầu). Huyền Trang đại xả sám, gọi đó là xả đọa (đọa là tên tội, đó là ba mươi Ni-tát-kỳ, như cất chứa y mười ngày nên hai người đối tay giả xả, gọi đó là xả, nếu quả mười ngày chẳng xả thì kết tội Ni-tát-kỳ, gọi đó là Đọa, nên nói là xả đọa. Nay xả tài sám hối, chỉ có thể gọi là xả sám). Bởi lưu tục cạn nhầm, chẳng kỵ bàn nói. Trọng Ni nói: Quân tử đối với lời đó không chỗ cẩu mà thôi (cẩu là cẩu thả). Nên Vệ Quân đợi con mà làm chánh. Tử bảo: Đúng vậy, chánh danh ư? (Vệ Linh Công vời Phu Tử, Tử Lộ hỏi: Nếu Phu Tử đến đất Vệ thì sẽ thực hành điều gì trước? Tử đáp: Trước là chánh danh của muôn vật, danh chẳng chánh thì lời chẳng thuận, lời chẳng thuận thì sự chẳng thành). Linh cán giảng kinh Hoa Nghiêm, soạn Hoa Nghiêm quán, lúc sắp tịch, nhạc trời đến đón rước, Linh Cán từ tạ chẳng muốn đi, chợt thấy nước lớn tràn đầy ngồi trong hoa sen. Kia truyền là như chẳng đạt, phàm, cung trời cũng ở trong Hoa Tạng (ý người nói là Linh Cán chẳng muốn sinh lên cõi trời, phải sinh về cõi nước của Chư Phật, thì chẳng thấu đạt Hoa Tạng bao gồm pháp giới há không có các trời ư? Bởi người truyền sai nhầm). Đàm vinh có vị Tăng hành đạo, thấy bảy Đức Phật trong ánh sáng, bảo rằng: Đó là Phật Phổ Quang Minh ở kiếp Hiền, nay dùng trăm kiếp tu tướng tốt, chân hóa cầu đó, như thật chưa được (sau Thập Địa mãn tâm Kim Cương định mới trăm kiếp tu tướng tốt, ngàn kiếp học oai nghi Phật, muôn kiếp học hóa hành, v.v... nếu là chân thân thì đâu cho kẻ phàm thấy, nếu là hóa thân thì sao có thể tu tướng tốt). Việc chẳng đáng ghi, lời chẳng phải là điển, đâu nhọc giản độc ư? (Sự chẳng y cứ theo xưa thì đâu đáng để biên thành truyện). Vì vậy, đại biện thì không lời, lời thì dẫn ý, ý thì có chỗ về, nên thấu suốt nhỏ nhiệm mà nói cốt yếu, hết từ mà chỉ kín mầu, đối với điều lừa dối thì không ghi chép(như lời tựa Tục Truyện nói: Pháp Tấn thực hành Thủy quán, người nhà lấy củi, thấy trên giường dây có nước trong đẹp, múc hai thạch đặt ở đó, chiều Pháp Tấn trở về cảm thấy đau lưng v.v... Đây là sai nhầm rất lắm. Vả lại, thực hành quán thì độc ảnh cảnh, chỉ là giả tưởng, nếu khiến người khác thấy thì thuộc về tánh cảnh. Đây là bàn nói của Tuyên Công Mạnh Lãng). Chấn động ở đời thì ghi, đó gọi là Táng Chuẩn, đối với Nho Lão cũng vậy. Nếu là bình nay xưa thật chẳng giấu, chẳng thể lấy tôn nghiêm xưng, chẳng thể vì Ty nhục phế, chẳng thể vì thân hậu đảng, chẳng thể vì chê bai mà ngược lại (hễ viết sử: Một là tài, hai là học, ba là quán, tự chẳng phải hạng huân cô nam sử, chớ phải nhậm đây). Kia ba Hoàn của Lỗ (Quý Tử, Trọng Tôn và Thúc Tôn đều là con cháu của Lỗ Hoàn Công) nhận biết đâu bằng Nhan Mẫn bảy hiền của Hán (dòng tộc của kim trương bảy đời quý thạnh, Tả Tư nói: Kim Trương dẫm nghiệp cũ, bảy đời đeo Hán điêu) tài đâu vượt qua Dương Mã (Hương Hùng tự là Tử Vân, thuật kinh Đại Huyền, Pháp Ngôn, Phương Ngôn, v.v... Tư mã Tương Như tự là Trưởng Khanh, soạn văn Phong Thiền, Văn Phú v.v...) có con xem hòm cây ngô đồng bốn tấc, biết chết mà chẳng muốn chóng mục nát, bói thương dẫn thi nhân hứng vịnh phát ra lời than của Khởi Mâu (Khổng Tử nói: Khởi Mâu là Thương), từ kim ngôn hà tốt, soạn thuật nhiều môn, Quảng bản, lược bản, Danh nghĩa chẳng đồng, Đơn dịch trùng dịch, có không sai khác (Tạng kinh có một dịch gọi đó là đơn, có vài ba trở lên gọi là Trùng dịch). Nên Đại Thánh khiến nương nghĩa chẳng nương ngữ, đây là sự soạn thuật của các bậc tiên kiến. Phật có tám âm bốn biện (tám âm: một là Thanh tịnh âm, hai là Nhu nhuyến âm, ba là Hòa thích âm, bốn là Đế liễu âm, năm là Bất nữ âm, sáu là Bất ngộ âm, bảy là Thân viễn âm, tám là Bất kiệt âm; Bốn biện là: 1/ Pháp vô ngại biện, 2/ Từ vô ngại biện, 3/ Nghĩa vô ngại biện, 4/ Tổng trì vô ngại biện). Vượt hẳn các hữu, duệ tâm xung chiếu, linh cáo chân nhã, mà người dịch dẫn tình cạn dễ, chương cú lậu mạn, đến nỗi khiến các hàng Tấn thân Phùng dịch (Tấn là cấp nón, Thân là đai lớn, Phùng dịch là Đại tụ nho phục) cùng trông lại ý có chỗ chẳng đúng (vì từ ngữ đó chẳng phải Điển Nhã, như An Thế Cao) khoảng đó thì có nhặt vỗ phần tố, gọt giũa văn tự, nói quá dẫm tục (như Trúc-Pháp-Hộ, Chi Khiêm, v.v... dịch các kinh, văn hoàn toàn như thể soạn thuật). Lý trái tinh mật, rất mất cách ngôn của bậc thánh, Khó vậy thay! Xưa nay tuyên dịch, đều suy tôn môn hạ của Thập Công chất văn phồn giản, nhã được chỗ đó, mở quyển thuộc vậy, xót thương Phong xưa. Thường đặt để ý ở người dịch là y cứ bản Phạm hay y cứ chuốt gọt ư? Như phẩm Pháp Sư trong kinh Pháp Hoa, La-thập chẳng ghi ở đầu, phẩm Phổ Môn thì xà-na tiếp dịch ra phần cuối (ở đây văn kinh Diệu Pháp Hoa thiếu, văn Chánh Pháp Hoa và thêm phẩm đầy đủ), trong đó cũng có lầm làm văn, như Chân Đế phiên dịch Câu-xá, nói: Thấy pháp có thì chẳng đắc. Huyền Trang dịch ra Bà-sa, thêm mười sáu chữ (đại Tỳ-bà-sa, chỉ có chỗ dịch Câu-xá của Tam Tạng Pháp sư Chân Đế trên, thêm văn đó gồm mười sáu chữ). Cho nên biết, lời chẳng gọt giũa, chỗ ấy chưa khế hợp. Đạo An lấy ba chẳng dễ năm lỗi lầm, rõ ràng phê bình phiên dịch, khéo diệu tận cùng tinh tế then chốt (vì Văn Phạm khó hiểu, Thánh ý sâu xa, từ chỉ nhã đáng, đó là chẳng dễ. Chẳng khéo Thánh chỉ chương cú lọt mất, ngôn từ hoang uế, là lỗi lầm). Đời sau chẳng thể nghiên cứu ý chỉ đó. Báu làm cân, độ lấy làm từ, chẳng do trung sinh như chẳng nghe (sinh là nhìn thẳng, vì xưa phiên dịch văn kinh chẳng nhuận, bèn chẳng thể xét cứu, nhưng không có chỗ ngộ giải, như chỗ An Thế Cao phiên dịch). Vả lại, Nho là giáo của xứ này, từ Khoa Đẩu làm hai Triện: (Xưa có sách khoa đẩu, về sau có Đại triện Tiểu triện. Chu Tuyên, Vương Thái Sử, Sử Lưu tạo Đại Triện, Lý Tư đời Tần, v.v... tạo Tiểu Triện, Trình Mạo tạo Lệ Thư, v.v...). Triện biến thành Lệ, lại trải qua thời Tần diệt văn có lẽ là sai thiếu (Thỉ Hoàng ba mươi tuổi, nhân các sinh, đều luận về việc nhà Tần, mới thiêu đốt sách chôn học trò, diệt hủy điển tịch của đời trước). Tam Hoàng Ngũ Đế lấy bỏ khác thuyết. (Có chỗ nói: Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Hoặc nói là Phục Hy, Thần Nông và Hoàng đế. Ngũ đế là: Thiếu Hạo, Hiên Viên, Đế Khốc, Nghiêu và Thuấn). Lỗ Luận, Tề Luận, thứ lớp các thiên đâu nhất định (Lỗ Luận hai mươi thiên, Tề Luận hai mươi thiên, khoảng đó thứ lớp lại chẳng đồng). Lễ ký cùng Xuân Thu, Ai Công viếng điếu Khổng Tử, thêm bớt ai phải (Khổng Tử chết, Lỗ Ai Công đến viếng điếu. Lễ truyện văn đó sai lẫn nhau) Gia Ngữ với Đàn Cung, Trọng Ni trao đàn cầm khảng khảng thiết thiết, văn đó đâu đồng (Đã Tường mà cầm, Lễ Ký, gia ngữ, văn đó chẳng đồng). Nên chỗ lãnh của Mạnh Trang, mất lời lấy ý (Mạnh Kha tự là Tử Dư, viết sách mười bốn thiên, Trang Chu viết sách mười quyển, đều là ngụ ngôn lập ý, chẳng thể chấp văn chất nghĩa). Chỗ Mã Trịnh ghi chú, văn tự sửa đổi lẫn nhau (Mã Dung tự là Quý Trường, người ở xứ Bắc Hải; Trịnh Huyền tự là Khang Thành, cũng người xứ Bắc Hải, đều ghi chú Thi Lễ Luận Ngữ, đều có chỗ khác nhau). Huống chi năm xứ Ấn-độ khác ngữ, các bộ tông trái (có sáu Tông mười một bộ khác nhau. Lại Đại Tiểu thừa không tánh đều khác nhau). Từng gặp hạng vô đạo (thời Chu Ngụy hủy diệt) kinh vị khó riêng, dịch Phạm thành Hán, đó có thể một ư? Phàm dùng thủ đánh chuông (thủ là trúc nhỏ) chẳng tận cùng âm vang đó. Dùng ống rỗng lén nhìn trời chẳng đạt bờ mé. Đem phàm đạt thánh, sao rõ suốt sâu mầu đó, nhưng chẳng thể chẳng y cứ lực của thủ, nghe mà hòa đó, theo bờ của ống rỗng để xét ngằn mé, dốt hết suy nghĩ của phàm, tinh rành nghĩa lý, mà bậc sĩ của truyền pháp ghét chỗ sâu xa của nhầm lẫn, vì tin thực chí đạo chẳng người của thiên (thấy sự mênh mông của văn tịch, thấy đồng khác của các bản, khiếp sợ mà chẳng nghiên cứu, đây là tệ của người học). Kia dùng dao trụ côn đằng (côn là đeo, đằng là vá, cái gọi là đánh kinh ấy). Phát ra từ miệng vàng làm văn định. Đùa vui giũa gọt làm lỗi kinh điển đó, chê cười thảo luận là Thế trí biện thông (đây là kẻ sĩ của truyền tâm, lấy giảng giải là làm lỗi của mê đắm vị kinh điển, thảo luận là có bệnh Thế trí biện thông). Trọng Ni nói: Quân tử vị chỗ chẳng khả năng đó mà sợ người (vì tự mình chẳng có khả năng mà kính người có khả năng). Tiểu nhân vì chỗ chẳng có khả năng đó mà chẳng tin người (tự mình đã không khả năng, mà lại chẳng trọng chỗ hiểu biết của người). Nên quân tử nuôi lớn người có tài, tiểu nhân thì ép người để lấy hơn, mà ở đời có ẩn vết nép sẹo, trang bày trí, trùm đậy xấu xa, trộm Hư dự của Huyền tượng, giữ kín tình tối để tự lừa dối (vốn chẳng phải uẩn thức, bèn gọi là sư tượng, tình nhiều võng mạo, thường sợ nêu lên nghiên cứu). Đặc chẳng biết khát, cực thì uống nhiều, nghi sâu thì ngộ xa, kia là tiếm phu (các gọi là phu của tiến dịch). Hoặc nói: Khơi vết của tiền hiền, thì vật không vết ở giáo (vì giải thích thẳng chân lý thì đối với vật không kẹt, lấy đây bài xích tiền hiền). Nhật thì chẳng như thế. Thần Nông biện trăm cỏ chẳng phải muốn đưa ngươi đến chỗ thuốc độc, Kỳ-bà bàn nghị giam thạch, chẳng phải gọi là bại người ở ngũ tạng (Phật nói kinh chẳng phải muốn người đọa) chẳng lẽ Nam Hoa ngạn cơ Khổng, thì nhà nhà không có sáu Điển (Trang Chu chẳng thực phải ở Chu Công Khổng Tử, sáu kinh hà chẳng hành ư). Ban thư bình mã sử thì nhà nhà không sử ký ư? (Ban Chu Hán Thư chẳng phải Mã Thiên Sử Ký). Xưa kia, Thiên Thân soạn Câu-xá, Chúng Hiền soạn Bão mà chẳng đúng. Thiên Thân đổi tựa đề là Thuận Chánh Lý, hai luận đều mở mang, khiến kẻ phàm phu lại khơi tìm ngay thẳng bỏ mờ tối, nói rành tinh thô mà lấy bỏ (Bồ-tát Thiên Thân soạn luận Câu-xá, Luận sư Chúng Hiền soạn luận Câuxá Bão để bẻ dẹp, như mưa bão làm hư lúa mạ, đến công kích Thiên Thân, Thiên Thân đều lánh đó mới gởi trình chỗ soạn luận, Thiên Thân xem đó, đều thuận nghĩa của mình, do đó sửa thành luận Thuận Chánh Lý).
---------------------------------
(Nói về nghiệp thiện ác báo ứng chẳng sai lầm).
Làm thiện thì trời ban trăm thứ tốt lành, là giúp đức (Hoàng Thiên không thân, chỉ có đức là giúp). Làm điều bất thiện thì trời giáng trăm tai ương, dốc dâm (dâm là lỗi, trời là phước thiện, họa là dâm). Nên, thuận lý, khác loại sinh ái, huống chi là Thánh hiền ư? (Như Rồng thần khâm phục v.v...) nghịch lý vậy thì chí thân còn dấy binh, huống chi quỷ thần ư? Trang Tử nói: Làm điều bất thiện, ở trong sự hiểu rõ, người biết được mà giết. Làm điều bất thiện ở trong mờ tối, quỷ biết được mà giết. Thi nói Nghiệt của Hạ Dân, chẳng phải giáng từ trời, nói do tự mình (họa vốn không có cửa, chỉ người tự vời lấy). Trọng Ni bảo Ai Công rằng: Còn mất, họa phước do mình mà thôi. Chu Tụng nói: Sợ oai của trời, ở thời giữ đó. Cháu của vua A-dục ở Tây Vực là Phất-sa-mật-đa, xuống dưới sân bàn luận rằng: Tôi làm sao lưu danh lại chẳng mục nát ư? Các quan bảo: Phải như Tiên vương xây dựng tám mươi bốn ngàn (84000) ngôi tháp, không như vậy thì ngược lại, danh tuy có tốt xấu mà đều chẳng mục nát. Vua bảo: Ta không có oai đức để tiếp nối Tiên vương, phải xây dựng lời bàn luận sau, bèn xem thường lời dạy răn của Hoàng Tổ,... kỷ của Dịch Di luân (Di là thường, luân là lý, là lý của Đế vương thường thực hành hằng ngày). Đốt pháp dơ (âm bị) tháp kiền lưu thích chúng (kiền lưu là giết), trời sầu người oán, chẳng biết làm sao tàn khốc, tuy có Thánh hiền mà chẳng thể trái. Lên núi Nam kia, tự cầu khỏi hại, bạn của dứt tâm, máu chảy thành sông (giết hại đạo nhân). Đầu chùn kiêu mục đích là thưởng, phủ không có ngày trống, chính phú do đó mà cạn kiệt (mưu bàn có được đầu của chư tăng là thưởng cho Vua càng tức giận, lại bày giết ngược, dẫn sư đến tháp răng Phật, chết dưới núi Đồi Sơn. Vào đời Hán Hoàn Linh, Phạm Kim làm tượng Phật, gặp lúc nước loạn, để lại hố lấp vùi hoang. Ngô Tôn Hạo sai Vệ binh sửa vườn cấm, họ gặp được, bèn khiến đặt ở nhà xí, ngày mồng 08 tháng 04, đái trên đầu tượng (tiểu tiện) mà bảo: Rưới đảnh cho ngươi. Vua tôi cùng nhau cười vui. Bỗng chốc khắp thân thể sưng bỏng, chỗ kín rất đau, độc thống năm chỗ bên trong, tiếng ai thương vang tỏa bên ngoài. Sai người bói quẻ, đều cho là vì xúc phạm Đại thần. Tôn Hạo mới chạy khắp các vị thầy thuốc nổi tiếng, có thêm mà không bớt. Người trong cung tin Phật, bảo đó là Phật, Tôn Hạo bèn thỉnh tượng đi tắm rửa, sớm tối di úy (Di là kính), cúi tảng gõ trách (trách là giường, tảng là trán. Nghĩa là dập đầu xuống giường), tỏ bày tội trách mình, mọi người chung quanh nghe vậy, xót xa rơi lệ. Trong gây lát (có đỡ phần nào). Dốc tâm nghiêm khiết trai giới, sau mới yên vui. Ngụy Hạ Hách liên Bột bột Hung nô, chiếm cứ Sóc Hán, giăng cờ Rồng, vận phục Đế vương, tôn cao đức mình, mờ tối Đạo của bậc thánh, bảo: Bột là Phật; Ta là Phật đây, bày tượng Thánh ở sau chỗ ngồi, khiến các Sa-môn chầu nhóm lễ bái mình. Trời phạt kẻ có tội, nổi sấm sét đánh chết. Nên sấm là linh vật, tựa linh khí để làm oai (Vương Sung Luận chép: Sấm là khí âm dương xung đột nhau mà làm tổn hại vật, nên Dương khí cực mà sinh ánh sáng v.v... nhưng sấm có Thần, là sứ của trời, gìn giữ sự nghiêm tịnh, giận ghét kẻ xấu ác, nương khí dương mà hành, tựa mây mưa mà động, mùa đông thì tàng trữ sâu độc, dùng khí Dương thâu tàng đó). Phàm khí âm dương, buông thì an mà tỉnh, chứa thì ùn mà giận, có lúc ghét xấu ác mà rung chuyển nơi cây đất để cảnh răn mọi người. Đối với đó mà chẳng kỵ thì tứ hại (tứ là buông phóng, kỵ là sợ. Nếu đối với nhìn không hề kỵ sợ, thì sẽ nhanh chóng hại đó). Đời Tống, Tạ Hối trấn tại Kinh Châu, gặp Sa-môn Tăng Xướng xây tháp trong thành, thế đất hẹp trũng, tự thân lo liệu. Hậu lao tửu thực, khiến buông lung oai dũng, trống nghiêm răn oai, không ai dám chẳng tiến tới trước, khua đánh đả hoại (đa là rơi đổ, còn gọi là hổ. Hoại âm là quái, là cố hoại, không tổn mà riêng hủy hoại). Khám tượng rơi đổ, bỗng chốc có gió bão, đầy trời mây móc làm mờ tối đất trời, khiến lạnh cả gan mật. Tạ hối bị bụi đất lấm thân, dùng tay phủi bỏ, mà da dẻ theo tay rơi, tan vỡ lỡ loét, khắp thân không còn dáng mạo da thịt. Cuối cùng vì phản mà gia tộc bị giết chết (Tạ Hối tự là Tuyên Minh, người ở xứ Dương Hạ quận Trần, dung mạo khôi ngô, khéo nói cười. Ở thời Văn Đế nhà Tống, làm tướng quân Lãnh Quân ở Kinh Châu. Mục Phản Triệu Đàn Đạo tế xét đó, binh lính ở bến bắt đưa về Nghiệp đô, chém tại đô thị. Thời Chu Thế Tông, họ Sài dùng tượng Bồ-tát Đại Bi tại Trấn Châu để đúc thành tiền Chu Tông Nguyên bảo. Về sau, khắp thân thể họ bị lỡ loét mà chết, đây cũng thuộc về loại đó). Cho nên, tạo tội lớn là Thiên hạ chẳng điếu (Điếu là thương xót). Mới đầu giúp sức đó dẫn tràn họa đó, họa cùng cực thì đổi thay. Lúc đầu Samôn Pháp Mẫn hết lời can ngăn mà chẳng nghe, (răn Tạ Hối), về sau vì đó mà soạn luận Hiển Nghiệm. Thời nhà Ngụy, Thái Võ lấy mũ trụ của khung lư (khung lư là phan phướn mà trướng) nhân nhờ thời vận, lâu sau có Hà Lạc (Đó vốn ở dưới núi Tiên Tỳ, ở đời làm Quân Trưởng, xưng là họ Thác Bạt, thời Tấn Võ dần thông trong nước. Đến lúc Hoài Mẫn bị Lưu Diệu giết hại, thì lúc đầu đóng đô ở Vân Trung, sau dời về Bình Thành, lại dời tới đất Nghiệp. Đến thời Hiếu Văn Đế thì dời tới Hà Lạc, bèn đổi họ là Nguyên). Thôi Hạo chấp chính Tố truy y đến chỗ Thái Võ nói là: Phật hóa không ích lợi mà có thương tổn nhân dân, chẳng bằng phế bỏ là lợi lớn của nước nhà. Ngày khác dưới đài bốn phương như Trường An, năm khác có lệnh sau, nơi nào có Đồ tượng Sa-môn tất cả đều trừ dẹp. Từ đó chẳng được mùa. Thôi Hạo chuyển xác ấy (xuyết xa chế, văn trước đã giải thích). Thái Võ mắc bệnh dịch, mà pháp lệnh khoan thí (thí là buông thả). Đã dứt rồi trở lại (đến thời Văn thành thì lại hưng thạnh). Trị quốc là: Lấy quan lớn làm tay chân, lấy quan nhỏ làm tai mắt (may mà được sủng ái thì gọi là bế). Chưa có chi khiếu tà mà thân thể chẳng bệnh hoạn, buồn thay mạng lớn chưa khuynh, chưa hề thỉ ngộ. Đã khuynh mà ngộ, phương mê nào khác (khuynh là nguy ách, mạc là không. Thỉ là trước, phương là chánh. Đến nguy ách mà ngộ, cùng chánh mà mê có gì khác nhau. Niên hiệu Hội Xương thứ năm thời Võ Tông nhà
Đường, sa thải hủy diệt. Đến năm thứ sáu thì khắp thân thể bị ghẻ lỡ mà chết. Trước là lý đức dụ bày mưu, sau là Tuyên Tông bị biếm đày đến Nhai Xuyên mà chết). Nhưng có họ Tiễn Thôi, Thái Võ dấy khởi ở luận của Vô Ích (Đỗ Quang Đình soạn luận Vô Phật, cuối cùng mù cả hai mắt mà chết). Ý Thôi Võ lấy việc săn bắn, uống rượu, đam mê thanh sắc, đài tạ, khắc táng ở nước nhà (chỉ vì các thứ ấy làm tan nát nước nhà, chẳng vì hủy phế mà tan nát, bèn cho đó là vô ích), mà lúc đầu làm ích lợi đó ư? Tăng Tử nói: Người khéo làm lành, phước tuy chưa đến mà cách họa đã xa. Người chăm làm ác, hung tuy chưa đến mà cách họa rất gần. Đông Bình Vương đời Hán nói: Làm lành là rất vui. Tấn Lạc Quảng nói: Trong danh giáo tự có việc vui. Phàm, đó là chí ngôn, chưa hề chẳng phải không có ích lợi, mà chỉ là chẳng phải chỗ biết của hạng Hạ sĩ. Than là ở đời không người Hiền Trực Khiến Thôi như vậy. Mới đầu buông thả, vợ của Hạo vốn họ Quách, tụng kinh Bát-nhã, Hạo lấy kinh đem đốt ở chỗ hầm xí. Đến lúc sắp hành hình chuồng xe đưa đến phía Nam thành, mười người vệ sĩ tiểu dãi trên đó, tiếng kêu gào thét, nói: Đây là quả báo ném bỏ kinh. (Xuất xứ từ Lô cầu Kim Cương kinh Nghiệm). Luận chép: Kẻ tà kiến nhẹ lúc sắp chết tiếp tục làm lành, lành ấy tiếp tục (thiện là tâm tịnh tín, Đức tin là cội nguồn quả đạo, là mẹ sanh ra tất cả mọi công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành. Duyên lực dứt thiện là lúc đọa vào địa ngục tiếp tục, nhân lực dứt thiện là lúc chết đọa vào địa ngục tiếp tục). Tại Tây Vực, Luận sư Vô Cấu Xưng đến trước Tháp Chúng Hiền Cáo với u linh, thỉ hủy Đại thừa (thỉ là thề) phá luận của Thiên Thân. Nói xong, tâm phát cuồng, lưỡi thè ra, chỗ ông chết, bỗng đất nứt ra và bị vùi lấp, mãi đến nay mọi người nhìn thấy, đều chúng chúng (chúng chúng là sợ hãi), ai có thể không thương ư? Samôn Tuệ Thiếu nghiên cứu học thuyết Tiểu thừa, tiếng tăm vang khắp Giang Hán, nghe tượng Vương Triết giảng Tam luận, chê bai rằng: Tam luận nói về không, mà người giảng chấp không. Sau đó, thì lưỡi dài ra ba thước, tai mũi đều rỉ máu. Bèn tinh thành cầu sám bảy ngày mới trở lại như cũ. Có An Tuệ, vào niên hiệu Vĩnh Gia đời Tấn ở Lạc Dương, dùng lụa vàng viết tay một bộ Đại Phẩm thành một quyển gồm mười bản. Vợ của Chu Trọng Trí người họ Hồ mang một bản qua Giang Lăng, bị lửa hàng xóm thiêu đốt, chẳng kịp lấy kinh ra, chỉ buồn khóc như bệnh bỉ lửa đốt, bèn ở trong tro tàn tìm được kinh không tổn khuyết một chữ. Sùng tà là dập đầu mà tin. Bản kinh ấy đến đời Lương Võ còn cất giữ tại ngự các, lúc gặp loạn Hầu cảnh thì không biết lạc ở đâu. Kinh Niết-bàn bản Bắc đời Tống (do Trở Cừ Mông Tốn dịch) mới đầu lưu hành tại Nam Đô; Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, Tạ Linh Vận chú sớ bản đó ngôn từ mở rộng, nương bản Nê-hoàn lại thêm nhuận sắc, sữa chữa giải thoát (tức kinh Niết-bàn bản Nam). Ban đêm Tuệ Nghiêm mộng thấy vị Thần cầm gậy sắt, màu đỏ lớn tiếng hỏi tội, bèn kinh ngộ mà sanh lo lắng, toát mồ hôi hoảng sợ, nhòm họp cùng bàn luận, muốn tìm lại bản trước. Các vị thức giả cản ngăn, bảo là: Đây là vì muốn răn người sau, nếu như cẩu thả trái ngược đâu cho tức thời mới cảm. Ngày khác, Tuệ Nghiêm lại mộng thấy nói: Ông do mở mang kinh điển rất tinh chí, sau này sẽ thường thấy Phật. Cuối đời Tấn, có Hồng Dự đúc tôn tượng trượng sáu. Hồng Dự bị bắt giam nơi phủ Thừa tướng, trì tụng kinh Quán Âm, mộng thấy tượng đưa tay xoa trên đảnh đầu, bảo: Có sợ chăng? Hồng Dự đáp: Tự nghĩ sẽ bị chết, sao không sợ được. Bèn thấy trước ngực tượng mầu Đồng tan cháy sôi sục. Đến lúc sắp hành hình, gặp phải xe trâu của giám quan bị hư, lại hẹn ngày khác, có lệnh từ Bành thành đưa tới, tội của Nguyên Dự (Bành Thành là Tống Võ, Nguyên Xá). Tỷ mở khuông tượng trước ngực đúng như điềm mộng (tỷ là kịp, tiêu là vọt). Thời Đông Ngụy, Cao Hoan làm Thừa tướng, có người cháu là Kính Đức, người phu dịch của lính nhà đến trấn nhậm biên cương, tạo tượng Quán Thế Âm bằng đá, chí thành không hai. Về sau, Kính Đức bị liên lụy bởi tội của kẻ khác, thật phải tử hình gần tới lúc hành hình, lúc sáng sớm có vị tăng bảo rằng: Ta trao kinh cho ông, đến giờ Ngọ chỉ tụng đủ ngàn biến thì khỏi. Vừa nói xong vị tăng ấy bèn biến mất. Kính Đức nghĩ mắc phải thân họa, nên chí thành trì tụng chẳng biếng lười, vừa đủ thì pháp quan đến hành hình, giơ dao lên đều gãy, chỉ nghe xoang xoảng như tiếng vang chạm đá. Kính Đức bị cúc (cúc là cùng vấn) nói là không, tức tượng ứng ư? Quan sai đến nghiệm xét, cổ tượng đá quả nhiên có mấy vết. Họ Cao ghi chép kinh đó, mà Đề là Kinh Cao Vương Quán Thế Âm. Tôn Khanh nói: Thế của báo ứng, đều theo loại mà đến. Lời đó thật đáng tin cậy! Nếu người xưa nêu đức để ngăn ác, bày họa để hoằng dương điều thiện, khiến người chẳng cho ác là không thương tổn mà chẳng bỏ, chẳng cho thiện là không lợi ích mà chẳng làm. Chỉ nghiệp lý là nhanh hay chậm (thuận sinh báo, thuận hậu báo là chậm, thuận hiện báo là nhanh). Kỳ hạn của báo ứng ở xa hay gần, tình lự sinh ở dốc lòng hay không dốc lòng, tổn ích sai ở khinh trọng, mà số lành dữ thuộc về ảnh hưởng, nên lưới trời sơ sài mà chẳng lọt, âm phủ mịt mờ mà rất sáng. Vu Công cửa cao mà đợi đóng (Vu Công Định Quốc Trí Sử cao cửa nhà đó mà bảo người rằng: Tôi có trông coi ngục không riêng tư, con cháu sẽ hiển đạt). Nghiêm mẫu quét mộ mà đợi giết chết (Nghiên Diên Niên làm Hà Nam Duẫn hành pháp tàn khốc, người mẹ thường ngày quét mộ mà bảo: Con tôi hành pháp tàn khốc, tôi sắp đợi nó giết). Đâu sai lầm ư! Người cũng có nói: Gieo trồng chẳng thấy nó lớn, có lúc rất chỉ lệ, chẳng thấy khuyết, cuối cùng tiêu quyết sâu dày đó (chỉ lệ là mài đá. Hành vi của người sẽ tự có quả báo, thiện ác hợp nhau, giống như hình và bóng, tiếng và vang.
(Chi Hành trong ba đời gọi là Nghiệp, trưng đòi cầu lý gọi là Luận).
Giác Hoàng có nghiệp trí lực (Phật có tịnh nghiệp vô lậu, tám thức bốn trí, v.v... lại bày trong tướng môn có chín nghiệp báo: Một là con gái Phạm Chí là Tôn-đà-lợi phỉ báng Phật; Hai là con gái của chiên-già-sà buộc khúc gỗ ở bụng phỉ báng mang thai với Phật; Ba là Đề-bà-đạt-đa xô núi đè Phật; Bốn là cây thương gỗ đâm chân Phật; Năm là vua Lưu-ly hại dòng họ Thích mà Phật cũng nhức đầu; Sáu là nhận lời Bà-la-môn A-kỳ-đạt-đa thỉnh Phật chín mươi ngày ăn lúa ngựa; Bảy là gió lạnh động lưng Phật đau nhức; Tám là sáu năm khổ hạnh; Chín là vào xóm Bà-la-môn khất thực, mang bát không trở về. Lại trước sau Đông chí tám ngày đêm rét lạnh đòi y. Lại gặp lúc nóng bức bảo Anan đứng sau hầu quạt, v.v...) Buồn thay! Có sinh khác dáng khác tiếng khổ vui ngu trí tôn ty thọ yểu, nên rất rõ bày nghiệp lý. Dụng mở người cảm (vì khởi kiến khác loại, tạo nghiệp khác loại, chịu báo khác loại) Chỗ của Tiểu thánh chẳng bằng, huống chi chẳng phải bậc Thánh ư? Mà có kẻ trù trướng phẫn chất (trù trướng là lừa dối, phẫn chất là tức giận) tự cho rằng được một, thấy người chẳng bằng ta, các gọi là Mạng, chẳng phải do nghiệp (có một loại trái đó, luống chẳng tin nghiệp báo, đều nói thiên mạng). Lễ nói: Thiên mạng gọi là Tánh, được là tự phải, chẳng được cũng tự cho là phải, vì nghe Thiên mạng (ngoại điển gọi nghiệp là Thiên mạng. Khổng Tử nói: Mạng. Phàm tánh mạng dài ngắn đều từ chỗ trời đó đổ xuống). Trọng Ni nói: Sắp hành của đạo vậy ư? Là mạng vậy, sắp phế của đạo vậy ư? Là mạng. Công Bá Liêu như mạng đó sao? (Công Bá Liêu người nước Lỗ, hủy báng Trọng Ni nơi Thúc Tôn Võ Thúc Thu Tử nên có lời ấy). Tử Hạ nói: Sống chết có mạng, giàu sang do trời (sống chết là nghiệp báo chung, giàu sang là nghiệp báo riêng). Lỗ Công muốn thấy Mạnh Tử (Lỗ Bình Công sắp thấy Mạnh Kha, vì đó là hiền đức). Bế nhân tàng thương hủy báng ở công mà thôi, Mạnh Tử nghe vậy bảo: Trời vậy (Mạnh Tử nói: Ông chẳng thấy ta tại vì mạng trời chưa hợp, chẳng phải tàng thương chẳng thể ngăn được. Nên biết do nghiệp nên chẳng như vậy (lấy duyên nghiệp làm Thiên mạng). Vả lại, bậc nhân là Khắc Kỷ, kẻ bất nhân là hại người. Bậc nhân nguy rất lụy cờ, kẻ bất nhân an quá úp bát (chứa thiện ương cựu như hạng Tỷ can, làm ác vừa gặp như hạng Tào Tháo) họa phước miệt trưng đó như tai mắt. Nên Đường Ngu là hạng Thánh đức chỉ tự một mình giúp thiện truyền Thánh. Nói: Nghiêu vì Đan Chu chẳng ra gì mà dứt, nhân Thánh thạnh minh nói: Thuấn vì Thương Quân chẳng nói dối mà dứt) Lệ U hôn dâm mà vận dài bảy trăm (bạo ngược vô thân gọi là Lệ, bít trệ chẳng thông gọi là U, đều là Chu Vương, tuy hôn vẫn còn dài số đời) Tam Hoàng lăng tiếm, đời cầm Lỗ Chính (Quý Tôn thượng khanh, Thúc Tôn trung khanh, Mạnh Tôn hạ khanh) Di Ngô khuông phụ, dòng bặt sử Tề (Di Ngô là Tề Quản Trọng, giúp Hoàng Công chín hợp chư hầu, tôn giúp vương thất, tiếng nước Tề không người nối dõi).
Tao làm Thiên vấn (Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên, trước thuật kinh Ly Tao, nên gọi là Tao Nhân có Thiên Vấn). Ban phú Thông U (ban cố tự là Mạnh Kiên, soạn bài phú Thông U, thương hiền lương chẳng dùng, đều tại trong văn tuyển) Lý Thôi vận mạng đó chẳng ở đây ư? (Lý Tiêu Viễn có luận Vận Mạng). Nên cửa của Kim Tiên, đó ai nói được? Do vậy, các lời sư sư, như yêu lệ mượn lưỡi (trước có kẻ thù trướng thuật đó đều nói là Mạng, chẳng phải là nghiệp, sau đó tiếp tin, như truyền của đồng bóng lừa dối là yêu lệ). Khiến các quân tử đại phu nghe được, còn như vất bỏ khung cửi (mẹ của Tăng Sâm đang dệt, có người đến báo Tăng Sâm giết người. Mới đầu, mẹ chẳng tin, lại báo lần hai, mẹ sinh nghi, báo lần ba mẹ vất bỏ khung cửi mà chạy. Vì Tăng Sâm là người nhân từ hiếu thuận. Người báo chẳng qua ba lần, mẹ còn tin đó. Nay đây lời chẳng phải kinh, người truyền chẳng qua ba lần, các hàng Đạt nhân quân tử cũng phải tin, huống chi kẻ khác ư?). Bấy giờ có những vị vén y bày vai phải, xịu mặt chẳng vui, đi giày mài mũi nhọn, sắp chém nghi ngờ (bấy giờ có Thích tử vén y bày vai phải, thấu suốt nghiệp lý, thấy mê lầm đó, bèn mài mũi nhọn gương trí dẫn quyết lưới nghi đó) bảo: Nếu xưng là mạng chẳng gọi là nghiệp, đó là tệ mà cũng cố (tệ là bít lấp, cố chấp). Nghiệp là sinh ở vận động vận động tức là nghĩa phát hành. Động có trái thuận, (thiện và thiện là thuận, ác và thiện là trái) thành ở thiện ác (phước nghiệp là thiện, chẳng phải phước là ác) thiện ác nung đúc nơi báo thí (thí giới thiện tương ưng, giết trộm hợp khoảng ác), sau đó có tánh mạng cùng thông sinh (ở ngoài báo chung có cùng thông, nghèo giàu ngắn dài, thông minh mờ tối, xinh đẹp xấu xa đều gọi là Nghiệp báo riêng). Chỉ nghiệp của cơ, vận có ở khinh trọng mà báo của tánh mạng có cơ nay sau (thuận hiện nghiệp gọi là thành trọng, thuận sinh nghiệp thuận hậu nghiệp, gọi hậu thì khinh). Hẳn như chẳng mượn ở nghiệp, mà thọ mạng chỉ trời, thì đạo trời nào đến phú mạng mà chẳng đồng đều dày mỏng (nếu người, v.v... đều do mạng trời, tại sao đạo đó chẳng đồng đều) nếu nghiệp hẳn chỉ vận động, chẳng thể vời mạng, thì cúng tế đâu có phước, hung bạo đâu có thương tổn (nay vì hành xưa trước quyết định vời lại, gọi là nghiệp. Thiện ác hiện cảm, gọi là mạng. Nếu chỉ có nghiệp thì hợp với duyên xưa, cảm không dời đổi thì đâu được hiện thấy, cúng tế là được phước, hung bạo là chịu ương họa, đều chẳng phải chỗ nghiệp xưa cảm, cúng tế là chỉ ngầm giúp mà thôi. Hung bạo cũng là thuận hiện báo riêng). Thi nói: Dàn bìm rậm rạp, bày nơi cành nhánh, đâu con Quên tử, cầu phước chẳng hồi. Lời ấy sao bày ư? (Thi, đại nhã chương cuối của Hạn Lộc. Hạn là tên núi, Lộc là chân núi. Lấy chẳng trái đạo của Tiên tổ cầu phước mà đối. Hồi là trái). Nhưng nghiệp đời trước có định, chẳng định, mà cảm tánh mạng đời nay có biến, chẳng biến (nghiệp ở thời báo có định và chẳng định, tánh mạng có biến, chẳng biến. Nếu thuận thì hiện biến làm rắn, v.v... báo riêng thì biến mà báo chung thì chẳng biến). Nghiệp đó nếu nhất định, mạng của chỗ cảm xác thật là chẳng thay đổi. Nếu nghiệp đó chẳng nhất định, mà mạng của chỗ cảm thì có thể tổn ích (như nhờ thiện lực chuyển trọng, khiến ác nhẹ v.v... cũng vậy). Nhưng nghiệp đời nay có định, chẳng định, mà khiến tánh mạng chỗ cảm của đời trước có biến, chẳng biến.
Nghiệp đó nếu định, năng sửa đổi nhân xưa (nghiệp như thiện có công năng sửa đổi điều ác của đời trước). Mạng chẳng nhất định khiến có cùng thông (mạng chẳng định, gọi là Biệt báo, vốn vì ác nên cùng, nay do thiện lực sửa đổi đó nên thông). Nghiệp đó nếu chẳng nhất định thì một sao chẳng thái (nghĩa là chẳng nhất định có thể sửa đổi). Phàm như Xá-lợi-phất, A-na-luật gặp Phật làm pháp y, gặp Kỳ-bà làm thế y mà chẳng dứt sạch sái xưa (sái là bệnh, như Xá-lợi-phất bị Huyết Lỵ) thầy thuốc bảo hãy uống ngó sen, bèn sai Mục-kiền-liên đến hồ Mạn-đà-la lấy ngó sen để ăn. A-na-luật bị hỏng mắt, v.v... đều là nghiệp xưa). Nhan Hồi, Mẫn Tổn gặp Khổng Tử là bậc đức hạnh, gặp chư hầu toàn chuyên hiền trí mà chẳng dứt bỏ được nghèo nàn, yểu mạng, bởi mạng của chỗ cảm đời trước nhất định, nên đời nay hành thiện chẳng thể được ích (Nhan Hồi, tự là Tử Uyên, đệ tử của người Lỗ, con của Nhan Lộ, nhà nghèo khổ, ba mươi tuổi chết. Mẫn Tổn, tự là Tử Khiên cũng người đất Lỗ, có hiếu hạnh nhà nghèo khó, gặp phải mẹ ghẻ bức khổ, làm phí tể của nhà họ Lý). Bạt-nan-đà nhà giàu có tiền vàng đến mấy ức). Vua A-dục tán khốc mà oai mạnh (vua A-dục giết hại vô độ, xây dựng địa ngục, v.v... mà oai phong chấn động cả góc biển, gặp được Sa-môn Cúc-đa cảm hóa, xây dựng tám mươi bốn ngàn ngôi tháp). Họ Quý ra quân chết dưới cửa sổ (Quý Hoàn Tử đuổi ra Lỗ Chiêu Công Âm chết ở Càn Hầu mà nhiếp cúng tế, cuối cùng được chết ở nước Lỗ). Đạo Chích ăn nem ruột mà được thượng thọ (Đạo Chích làm giặc, ngày ở Đông lăng giết hành nhân lấy tim gan làm nem, Khổng Tử chẳng thể cảm hóa, cuối cùng bị chết). Bởi mạng của chỗ cảm đời trước đã nhất định, đời nay làm điều bất thiện mà chẳng thể tổn (đây do xưa có nghiệp thiện, hiện ác chẳng thể ngăn). Mạt-lỵ dâng thức ăn được làm phu nhân của Quốc vương (Mạt-lỵ phu nhân, Thích quan Thứ sinh rất xấu, vua cha chẳng muốn thấy, bèn dò hỏi thở than cúng dường Phật, niệm tụng chẳng nghỉ, Phật vị hiện thân, biến đổi được đoan nghiêm. Vua Ba-tư-nặc lấy làm phu nhân). Ván thuyền nhường chết mà thần biển trao mạng (luận Đại Trang Nghiêm chép: Có vị Tỳ-kheo đi biển bị gió đánh hư thuyền, có vị Tỳ-kheo tuổi trẻ được tấm ván thuyền, thấy vị Thượng tọa bị chìm, nghĩ rằng: Phật dạy kính trọng bậc Thượng tọa, bèn nhường tấm ván cho thần biển thấy vậy vui mừng, đều đưa ra khỏi biển mà được sống còn). Triệu Tuần xót thương Ế Tang (Triệu Tuyên Tử ra thấy Ế Tang người đói, hỏi bèn trả lời là không ăn đã ba ngày, liền lấy thức ăn giúp đỡ. Về sau, bị Tấn Linh xuýt chó cắn, Ế Tang Linh liền giết cho đẩy xe cứu đó mà ra). Phiếu mẫu xót thương đối với Hoài Âm (Hoài Âm hầu Hàn Tín, chưa gặp đói lắm, thấy mẹ già đãi tơ đến đó, mẹ cho ăn, về sau giúp nhà Hàn, được phong, Hoài âm hầu. Mẹ đã chết, mở phần mộ đặt ngàn vàng vào đó), đều là nhất định của thiện nghiệp đời nay vậy, mạng của đời trước chẳng định, nên năng biến suy theo thạnh (từ Mạtlỵ trở xuống đều là thuận hiện nghiệp thiện). Tiều khách chỉ gấu mà cánh tay rơi (Kinh Luật Dị Tướng chép: Có tiều phu vào núi gặp lúc tuyết lớn rất lạnh, có con gấu trắng cắp đưa vào hang, đến lúc tuyết tan thì xuống núi gặp người thợ săn, cầm dao dẫn đó chỉ nơi gấu ở, vừa đưa tay chỉ đó, thì cánh tay cũng rơi mất) Tỳ-kheo ăn thịt mà lủng ruột (có người đuổi Dê chạy vào chùa, thấy vị Tỳ-kheo chỉ cho mới bắt giết Dê lấy thịt ăn, vị Tỳ-kheo ăn rồi, khắp mình mẩy dưới da chạy xuyên lủng ruột mà chết, xuất xứ từ luận Biện Chánh) Lý Khắc bị giết ở Thí Quân (Tấn Hiến Công sủng ái... có mà đuổi các công tử, giết thân sinh Thái tử lập nhà Tề. Lý Khắc giết đó, người trong nước lại lập Trác Tử. Lý Khắc lại giết mà đón Di Ngô lập nên, là vì Tuệ Công. Tuệ Công đến từ Tần, bảo với Lý Khắc rằng: Ông giết hai vua và một đại phu, nghĩa là Tuân Tức, mới tự sát, vì Tuệ Công xét khảo đó). Trương Lộc sinh chí với Ngụy Tướng (Trương Lộc tức là Phạm Tuy, cùng Tu Giả vào Tần, Tần rất vui mừng. Tu Giả trở về gièm pha với Ngụy Tề, Ngụy Tề mới uống rượu, kế đánh gãy răng, thả trong nhà xí, sống được bèn trốn chạy vào Tần, đổi xưng là Trương Lộc, Tần bái làm tướng, về sau mưu tính thâu lấy Ngụy, Ngụy Tề khiến Tu Giả phụng sứ
Trương Lộc, mới khiến Tu Giả làm lừa. Nhưng nay lấy Ngụy Tề, Ngụy Tề bỏ chạy đến chết, cuối cùng mất ở Ngụy), đó đều là nhất Định của nghiệp bất thiện đời nay (đây đều là thuận hiện nghiệp, báo của bất thiện), mạng đời trước bất định nên năng hóa còn làm mất (gốc ngọn thọ đời trước hết làm nghiệp đời nay khiến hết mà thọ hiện quả). Đề-bàđạt-đa hại bậc Thánh chảy máu chân (xô đá núi làm tổn thương chân Phật). Phá tăng luân phải chịu đọa Nê-lê một kiếp, bởi nhất định của nghiệp bất thiện mới sinh (cũng là thuận theo hiện định nghiệp bất thiện). Vua A-xà-thế giết cha, thấy ở Phật, tin ở pháp, khỏi khổ lớn của không chọn lựa (vua A-xàthế giết cha là vua Tần-bà-sa-la, địa ngục khổ thấy thân bị lở loét dữ dội, bèn quy tâm hướng về cầu Phật, Phật dùng ánh sáng soi chiếu mà ghẻ lở được lành, lại nói pháp cho nghe, được khỏi khổ địa ngục. Vô Trạch là tên địa ngục, tức vì chẳng phân thiện ác). Bởi chẳng nhất định của nghiệp bất thiện mới sinh (nhờ sám hối mà tội diệt, đây là thời báo đều chẳng nhất định, nên nghèo yểu của Nhan Hồi, Mẫn Tổn là trả lại nhân bất thiện ở xưa, đức hạnh đó có thể làm báo thiện cho đời sau, giàu sang sống lâu của Quý Chích, là đáp lại cái nhân nghiệp thiện thuở xưa, còn nghịch bạo đó có thể làm trọng khổ của đời sau, thật chẳng đáng nghi ngờ. Phàm thuốc chẳng quy thù là một, mà vinh tiện đều khác (quy là da nứt nẻ, có người bán thuốc để chữa trị, lành rất hay, Nam nhân mua phương thuốc đó đem về dâng lên vua, gặp lúc chinh chiến cần dùng, nên rất được lộc đó, xuất xứ từ Trang Tử). Tước đất của chư hầu là một, mà hưng vong chẳng đồng (Tần Thỉ Hoàng tước đoạt đất của chư hầu mà chẳng phong, quân Hán đến đất Tần, không cứu đó mà mất. Lệ thực đó thấy Hán Vương khuyên khiến phong đất cho chư hầu, lúc Trương Lương đến, vội ngưng bỏ, ở trong màn mượn gân làm thẻ để viết lời đó mà chẳng thể được, bèn chẳng phong, quả nhiên nhà Hán hưng thạnh). Thật do có vận khéo vụng mà tánh mạng có thể đổi và chẳng thể đổi, cho nên quân tử biết chẳng thể đổi của tánh mạng mà vui trời biết mạng, tiểu nhân chẳng biết thì dẫm mình tháo động (chẳng biết đạo, không lấy làm quân tử), vì vậy họa phước an nguy có thể thấy rõ ràng. Nghĩa là lành dữ thường lý, do mạng chẳng do vận, đây chẳng đủ đoán (vận có chẳng phải thái, cát hung do người). Phàm mùa đông cỏ phủ lấp mà chẳng chết, đâu từng chẳng do vận ư? (Do vận dụng mà có thể khỏi). Có vì tánh năng thì mạng chung do vận chẳng do mạng, đây cũng chẳng đủ đoán, (cơ bèn cậy vận động chẳng tin xưa, nghiệp thì cũng chẳng thể). Phàm mùa lạnh, cây tưới mà chẳng tươi, tươi là thấm đượm, như cây bách già cũ nhiều nước đâu khiến được tốt, bởi vì lực cứng) nào từng chẳng do mạng ư? Phàm cả hai đều tin đầy đủ, mới được gọi đó là thấu đạt sâu xa. Vì vậy, tin có vận thì tin của nghiệp, tin có mạng thì tin của quả (vận là nghiệp nhân, mạng là nghiệp quả). Tin vận mạng mà chẳng tin nghiệp quả đó thì nào khác nghe sáng ba chiều bốn thì giận, mà nghe sáng bốn chiều ba thì mừng ư? Trang Tử nói: như nói dời sáng ba chiều bốn thì cả bầy khỉ đều giận, tức nói sáng bốn chiều ba thì cả bầy khỉ đều mừng, mà chẳng biết danh khác nhưng sự đồng). Nên các bậc Tiên Thánh Nho xứ này tuy chẳng bày nói ở nghiệp quả mà ngầm đem vận mạng khiên, khiên là nhất định, vì vận mạng ngầm định nghiệp lý). Danh khác mà nghĩa một. Dịch chép: Biết có, đó là thần ư? Họ Trang nói: Muôn vật ra ở cơ. Âm Phù nói: Tâm sinh ở cơ, tử ở cơ (vốn làm vật thấy vật mà có sinh. Tâm năng phát cơ, mắt sáng thấy cơ. Tâm sinh tử ở nơi vật, cơ của thành bại thấy ở mắt. Trương Trạm nói: Cơ là trước hết của các hữu, chỗ tôn sùng của Động. Cơ là nhỏ nhiệm của động, bởi nó ở nghiệp vận. Hoặc nói: nghiệp dấy ở động, báo đó lý đồng đều, sao có khinh trọng, định và chẳng định ư? (Chỗ phát nghiệp là đồng, sao có thọ báo khinh trọng, v.v... chẳng nhất định ư?) Đáp: Tâm có mừng giận, sự có ân khốc (tâm hành của năng phát có chẳng đồng), nên hình chẳng nhẫn đối với sắc. Sính cháy bỏng đối với tâm (Vô đạo của trụ, cải đổi hình của nóng bỏng, hành ngược của mổ chẻ, đây là trọng của nghiệp). Mà Thư chép: Hựu quá không lớn, hình quá không nhỏ (hựu là buông tha, chẳng vì tội lớn mà chẳng tha, chẳng vì lỗi nhỏ mà chẳng giết). Kinh nói: Dù viên sắt nhỏ cũng chìm dưới nước, dù bát sắt lớn cũng nổi được, chớ cho là thế (nghiệp tuy trọng mà hối mạnh cũng khỏi, nghiệp tuy khinh mà chẳng sám cũng phải chịu). Lại nếu đem ba nghiệp ba thời hợp lìa làm tám (thân miệng ý đơn gọi là lìa, ba nghiệp cùng chung v.v... gọi là hợp. Hai thứ ly hợp gồm ba nghiệp ba thời làm tám, ba thời ba đời), gồm thì trọng, sai thì nhẹ(ba nghiệp đồng phát gọi là trọng, chẳng đồng phát gọi là nhẹ) khinh thì chẳng nhất định, trọng mới nhất định. Do đó, Bình-sa chết đói bởi nghịch tử (Bình-sa tức vua Tần-bà-sa-la) họ Thích chết bởi Hung Vương (tức vua Lưu-ly) Nghiêu thông minh mà Hồng Thủy (nước lớn mênh mông, bát ngát Hoài Sơn, dân dưới Tương lăng mê mờ v.v..., Thang nhân đức mà đại hạn (Thang do nhân đức mà có thiên hạ, bảy năm đại hạn, cầu nguyện nơi rừng sâu, v.v...) Trương Nghị, đơn Báo đem dưỡng cầu sống, đều chẳng thể sống (Trương Hựu vốn người đất Tề là kẻ lo sợ cẩn thận, thấy cửa cao treo sổ thì không ai chẳng chạy, năm bốn mươi tuổi vì bệnh nóng nhiệt bên trong mà chết, lỗi này so với tháo trệ bên ngoài. Đơn Báo là người đất Lỗ, ở nơi hang núi uống nước, chẳng dùng Dân chung lợi, tuổi đã bảy mươi mà có sắc mạo của trẻ thơ, chẳng may bị Hổ đói ăn thịt, đây là trệ ở bên trong. Báo dưỡng bên trong, Hổ ăn bên ngoài. Nghị dưỡng bên ngoài, bệnh tấn công bên trong, đều là cầu sống mà chẳng được sống). Bạccâu-la, Chu Hậu Tắc chẳng lấy dưỡng cầu cống, đều ngược lại sống, bởi định của vận mạng (Bạc-câu-la, Hán dịch là Thiện Dung, có thí một trái Halê-lặc, suốt chín mươi mốt kiếp chẳng bị bệnh đau đầu, gặp mẹ kế dùng phương tiện giết, trải qua năm nạn mà chẳng chết, sau khi xuất gia, mắt chẳng nhìn người nữ, thân chẳng vào chùa ni, chẳng vì người nữ nói một câu pháp. Vua Vô Ưu biết đó là người ít muốn bố thí tháp đó một tiền vàng, vọt lên khỏi đất mà chẳng nhận. Chu Hậu Tắc là con của Đế Khốc, do Khương Nguyên sinh ra, sinh ra mình đầy lông, bèn bị vất bỏ ở lối hẹp núi lạnh rừng sâu. Ba lần vất bỏ mà chẳng chết, do đó đặt tên là khí (vất bỏ). Thiện bá Chủng Sĩ Nghiêu, đến mười lăm đời, Tôn Văn Vương được thiên hạ). Gió dữ thổi mà được cứu giúp (có người đi buôn ra biển gặp phải gió dữ thổi tấp vào nước quỷ La sát, đều niệm Phật mà được khỏi). Phú-la chánh mà từ tạ hẳn (có vị Tỳ-kheo thấy Luân vương oai thế nên kính mến, đêm ngày siêng năng mong cầu, Đức Phật lo ngại đó chẳng được giải thoát, sắp rơi mất phước Thiên luân, bèn vì sửa Phú-la, Phú-la là giày ủng lớn, nghiệp luân vương mất). Tang Cốc chẳng phải họa của Ân Tông (Ân Thái thú lấy con của Y Duẫn là Y Trắc làm tướng, Tang Cốc cùng sống ở triều, nhất thả đại cung sợ mà tu đức. Tang Cốc chết ba năm, Trùng Dịch mà đến là mười sáu nước, mới gọi là Trung Tông) Huỳnh Cảm đẩy lùi tai ương của Tống đô (sao Hỏa thấy phần dã của Tốn, Cảnh Công buồn mà tu đức, sao hỏa bèn thối ba nhà; Văn Vương, Tích Vũ Vương ba tuổi (tuổi là thọ. Vũ Vương nằm mộng thấy thượng đế chín tuổi, Văn Vương ban cho đó ba tuổi nên thành chín mươi ba tuổi). Tần Mục tha Mạnh Minh mà lại chết, bởi vận mạng chẳng nhất định (tướng của Tần là Mạnh Minh đi đánh Tấn hai lần, qua sông chẳng lợi, Tận Mục tha cho, sau đốt thuyền mà suy, Tấn chẳng ra, mới rửa nhục trước mà trở về). Lấy việc người của Liệt Khảo Lý đây, há nói là không nghiệp ư? (Đây đều là việc nghiệp lý rõ ràng). Đó có cậy Trọng Huyền là, lấy làm nhạn bày lông dê quỳ sữa, quạ đen chim trắng, gai nhọn răng vuông, mùi lan vẫn hôi kia là số tự nhiên (vì đây đều là nghĩa tự nhiên mà ngoại đạo chấp), đâu do nghiệp ư? Người Trọng không vỗ chiếu bảo rằng: Chẳng đúng, Lão Thánh nói: Tự nhiên là đạo. Chí Đạo cùng muôn vật đồng thể, nên nói muôn vật tự nhiên (muôn vật cùng Chí đạo chẳng tức lìa), tức nói: Một âm một dương, đó gọi là đạo (đạo là vắng lặng không tự thể, thần không phương mà Dịch không tự thể, tại âm lấy sinh, tại dương lầy thành, nên nói một âm một dương gọi là Đạo) Họ Trang nói: Tại ngói sỏi, tại đề bại, chẳng phải cho là muôn vật không nghĩa của nhân duyên (vì chạm mắt đều là Đạo) Bẩm tánh mạng là, nghiệp vận làm nhân duyên (hữu tình: Đều nhờ nghiệp xưa huân tập làm nhân duyên) ở ngoài vật là lấy khí số làm nhân duyên, (vô tình là nương căn chủng làm nhân, khí số âm dương làm duyên). Cho nên Nhạn Dê trưng bày bởi nghiệp tập (nhạn bay dê quỳ, toàn do nghiệp tập)... gai cầu đó ở nước đất (mượn nước đất làm duyên tăng thượng) qua trở lại mớm, kiêu trở lại mổ, bởi dư tập của hành thuận nghịch ở đời trước, quýt tốt ở Nam mà chanh tốt ở Bắc, bởi tuỳ chỗ biến của trung thổ (trồng ở Giang Nam thì thành quýt, trồng ở Giang Bắc thì thành chanh) nước thì thấm xuống, lửa bốc lên, kim theo da, mộc cong thẳng, thổ viện lúa mạ, thủy mặn, hỏa đắng, kim cay, mộc chua, thổ ngọt, nhân năm khí thành năm chất, toả làm năm vị, ngưng làm năm sắc chảy thành năm âm, sau đó lẫn lộn. Cương như cứng mềm, chỗ bẩm có khác, muôn tượng sinh ra, đâu khác nghĩa nhân duyên ư? (trên đây đều là nghĩa trong Văn Hồng Phạm) nếu lại trách vì gốc của tạo hóa thì âm dương làm sao lập bày, mà cưu mang phức tạp, giả sử đem vàng thấy khác, cung vi phân nghe thì tàn khốc (nếu mỗi mỗi nghiên cứu đến tận cùng, thì phẩm loại đó rất nhiều). Muôn vật bắt đầu ở Thái cực, không nhân duyên gặp nhau xúc loại thành tượng, chẳng sinh mà sinh (muôn vật vốn chẳng sinh, duyên hợp mà sinh) sinh ở bất sinh (đạo vốn vô sinh, muôn vật nương đó mà sinh) âm dương vô tâm (tạo đó chẳng phải ngã, Lý Tự Huyền Ứng, nên nói là vô tâm). Trời đất không có công (Lão Tử nói: Trời đất chẳng có nhân, lấy muôn vật làm chó nhồi bông). Bậc thánh chẳng tể (nên nói dứt thánh bỏ trí, cướp lớn bèn dứt Họ). Lão nói: Không danh là bắt đầu của đất trời, có danh là mẹ của muôn vật (không danh là gốc của Diệu đạo, quyền cùng trời đất. Có danh là đượm sinh muôn vật, nên gọi là mẹ). Họ Trang nói: Đống lớn ợ khí gọi là phong (Văn Như Hải nói: Đống lớn là tự nhiên, ợ là nhả, khí là mạo) do đó trước tiên của tượng đế chẳng thật có mà có bắt đầu. Nếu lại tránh lấy ngoại vật xúc khí lưu hình, mạng bên trong cũng do nghiệp nào đó (ngoài nói như nhân vô tình đánh chạm, mạng trong mà khởi ghét thương, đâu là nghiệp ư?) thật chẳng đáng so sánh, phàm vật ngoài vô tâm, vô tâm thì nghiệp, mạng bên trong thì mang tình, ân tình thì nghiệp khởi, nên bay ngói và ném ngói đều đến người thì có giận và chẳng giận, sao ở đây không riêng biết ư? (Lưu Tử nói: Bay ngói đánh người, thuyền rỗng chạm mình, tuy có tâm ganh ghét mà chẳng oán, vì kia vô tình đánh cá vậy) có chỗ nói: Nghiệp thiện ác, báo thí sẽ đến, nên kinh Dịch nói: Nhà chứa nhóm điều thiện sẽ có thừa niềm vui, nhà chứa nhóm điều bất thiện sẽ có thừa sự tai ương, sao Cổ lai sinh Thuấn, Thuấn lại sinh Quân, thuyền lại sinh Võ ư? (Cổ Ngu khờ mà sinh Thuấn thánh, Thuấn bậc thánh mà sinh Quân chẳng ra gì, Huyền hung bạo mà sinh Võ thánh, nghĩa này thế nào?). Đáp: Bậc thánh nêu lý trời là lập giáo, nói thì nhiều mà chẳng nói thì ít, nói là thuận mà chẳng nói là trái (bậc thánh nêu tốt lành ương ác, là thường lý của đất trời. Lại nói thì thuận, chẳng thể nói thiện chiêu với ác, đâu dẫn dắt vật ư?) nên Công Lưu kịp Vương Quý khắc sinh thánh nối dõi, còn Văn Vương đại tạo ở Chu Bang (Chu là từ hậu tắc bá chủng, đức tỏa muôn dân, đời Công Lưu giữ quan đó, chẳng chứa lâu Tây Nhung đến niên hiệu Quý Lịch sinh Thánh tử, Văn Vương sinh Võ Vương, mà được thiên hạ gồm ba mươi bảy đế, hơn tám trăm năm, vì đều là dòng chứa thiện, lưu tỏa an vui) Phất Phụ đâu bằng chánh, khảo phụ khắc xa nhân đức, đến Trọng Ni quang định văn giáo (sau nhà Thang, con nhỏ mở đầu Phong Tống, đến Phất Phụ đâu nhường vị cho Lệ Công. Nhân ban cho họ Khổng. Đến chánh khảo phụ ba, mạng càng thêm cung, đời tu nhân đức, đến Khổng Tử thì chứa thánh nhiều, năng tỏa sáng văn giáo đó) vì thế khảo xét, lịch tượng lúc trao người là trinh chỗ đó, tiếp thức hằng ghi (trinh là chánh, thức là dụng, lịch tượng nhật nguyệt năm sao là bảy chính) đó hoặc mới nhiễu thố loạn biến hóa làm hung, chỉ thành thì tai ương khác. Nếu lại hoặc gì tiếng chẳng thay vang, hình chẳng mậu ảnh (mậu là đổi hình chẳng thể nơi ảnh) sao có ông cha tạo tác mà con cháu phải chịu quả báo (tự làm tự chịu, mỗi chẳng đều nhau) thì nghĩa có thể được rõ ràng, phàm thiện ác theo loại giúp nhau, mà chẳng thay nhau, mà chẳng thay nhau, nên người trước dùng phước tạo tác, đời sau dùng phước nối tiếp, chẳng phải không phước mà làm con cháu đó, người trước dùng họa gậy tạo, đời sau dùng họa tiếp nối đó, chẳng phải người không họa mà làm con cháu đó, nên rồng hợp với mây, hổ hợp với gió (rồng ngâm thì mây nổi, hổ gầm thì gió sinh) núi đồng đổ mà chuông cảnh động (chuông ở điện Hán rung động, núi đồng ở Thục sụp đổ, tợ loại tương ưng) tro lau tiêu mà dừng nguyệt khuyết (Hoài Nam Tử nói: Tuỳ tro lau mà vầng trăng khuyết, ghi chú là: Vì lấy tro lau vầng trăng khuyết một mặt đó, thì vầng trăng cũng khuyết) bởi số của ứng hợp (vì loại tương cảm). Thường lý vì tán dâm nhượng khấu, thương sinh phá sản, mới gọi là tội của thân (thường lý là bỉ tục, nhượng khấu là trộm cướp, nên dâm, đạo, sát đều là thân nghiệp hành) lời xấu lừa dối lấn phạm quân thân, mới gọi là tội của miệng (ngữ tập). Cơ lự vô pháp, ngầm độc ôm ngược, mới gọi là tội của tâm, ngũ thường không giữ, ở tục đối với trung hiếu chẳng hành, xuất gia đối với từ bi chẳng dày, thề sống ở nhỏ nhiệm chứa nhóm mà thành hình, thì là tội (nước giọt tuy nhỏ, dần đầy chum lớn) thường lý vì theo vật mà hại thân, tôn mô kình quỵ (tôn mô là lễ bái, kình là chắp tay, quỵ là ngồi kiểu người Hồ) mới gọi là phước của thân, tụng lời tán pháp, vui người tiến mình, mới gọi là phước của miệng, ghét thương bặt dứt, kỵ khắc chẳng vào, mới gọi là phước của tâm, chẳng hề biết chỗ thi thố của tay chân, chỗ đến của nói bàn, chỗ trải qua của suy tư, dấy ý giới ích, khởi nơi tuệ tâm, xét tội vẫn nặc (nặc là sám hối) thì gọi là phước, cho nên ngũ cốc chẳng đổi, chủng đó trăm hành, chẳng trái ngược báo đó, Trọng Ni, Trang sinh nói: Di Tề nhân từ mà chết đói (Bá Di, Thúc Tề, Liêu Đông Cô Trúc con của hai vua, cha chết nhường ngôi trở về Chu, nghe Võ Vương đánh Trụ, gõ đầu ngựa mà can ngăn chẳng nghe, bèn ở ẩn tại phía Nam Thủ Sơn, chẳng ăn gạo thóc của Chu, cho đến đói chết) Vĩ Sinh tín mà chìm chết (Vĩ Sinh và cô gái cùng ước hẹn dưới cầu, chưa đến mà nước lũ dâng tràn, sợ thất tín nên chẳng chuyển dời đến nổi chìm chết) Ngũ Tư Trung mà gục khiến chết (Ngũ Viên tự là Tử Tư làm tướng đất Ngô can ngăn Phù sai chẳng lấy Tây Thi, vua chẳng nghe theo, bèn gục xuống kiếm mà chết, Việt Âm thâu tóm Ngô) vì thế việc ngoài không tất (tất là chuyên, là định) đó là lạm danh hại đức, mất đạo Trung Dung, chẳng gọi là vì thiện mà chuốc hoạ. Xưa kia Đại Sĩ ngồi dưới đạo thọ đánh phá thiên ma, là nghiệp đó (Đức Như lai ngồi dưới cội Bô-đề thành đạo, phá bốn thứ ma, đó là: Ma trời, ma năm uẩn, ma phiền não và ma chết) ở nơi hang núi rửa máu chân, là nghiệp đó, đến Tân Châu, ăn thóc ngựa, là nghiệp đó, nên nói báo nay thì khéo đáp nghiệp xưa đâu mất. Lễ nói: Tử hạ an táng con mình mà mắt mù, Tăng tử điếu rằng: Tôi nghe nói bạn bị mù mắt cho nên khóc. Tăng Tử khóc Tử Hạ cũng khóc nói: Trời ơi! Tôi vô tội, tăng tử tức giận bảo: Thương đã thế, sao ông không tội được (thương là tên của Tử Hạ) tôi và ông tôn thờ Phu tử ở khoảng Thù Tứ, lui mà già ở trên Tây Hà (đất của Hoa âm) khiến người của Tây Hà nghi ngờ ông là Phu Tử, đó là tội thứ nhất, tang nghiêm thân của ông mà khiến dân chưa có ai hay biết, là tội thứ hai, tang con ông mà ông bị mù mắt, là tội thứ ba, (một là chẳng xưng thầy, hai là đối với nghiêm cha mẹ ân bạc, ba là đối với con mà sâu dày là tội) mà nói sao tự cho là không tội ư? Phàm như họ Tăng mới gọi là thấy tâm trời đất, biết mầm mống của họa phước, Thạch Đài Trọng chết (là con cháu của Thái phu Thạch Trước nước Vệ) không có Đích tử, có sáu thứ tử, bói lý do làm nối dõi (cát là theo) tắm gội đeo ngọc là điềm (tâm đều trong sạch cầu mong là điềm tốt) năm người tắm gội đeo ngọc, Thạch Kỳ Tử bảo: Ai có giữ tang của nghiêm thân mà tắm gội đeo ngọc ư? Chẳng tắm gội đeo ngọc (tâm vua đã biết lễ), Thạch Kỳ Tử Điềm người Vệ, lấy quy làm có biết, cho nên biết là nghiệp lý ngầm ẩn sâu mầu, nhà Nho nói đời này, nhà Phật có ở cả ba đời, một căng một dùn phạm vi thiên hạ đầy đủ, trong kinh cũng nói: Giết lầm có quả báo lầm, có vị Tỳ-Kheo ở núi, đạp nhầm một con kiến, kiến chết mà heo rừng chạm đá đổ lăn, Tỳ-kheo ấy cũng chết nhầm ở đó, mà đời có sắc tuy nhân mà hành trái với lời nói tuy đượm nhuần mà tâm bí (bí là hiểm, cái gọi là sắc lệ mà bên trong nói mềm mỏng, Ngụy mà biện) huyễn thanh danh, mạo lợi lộc, biết thiện lại tệ, kỵ ác mà bè đảng, xả người mà gấp mình, giúp cao yếu thấp, lực hành tiếm hiền, sợ tội mà đổi dáng, phá rách hành sự, mở bày mong báo đó, đều chẳng thấy công đó lỗi lầm cùng mài rửa, ân hại cùng giúp, bậc thượng trí xét ở mình, còn trung trí tìm ở người và hàng hạ trí thì mịt mờ, đều gọi là tổn ích tự nhiên, phàm Lý Quảng chẳng phong hầu (Lý Quảng người xứ Lũng Tây, hiệu là Hán Phi tướng quân, tay khéo bắn chẳng phát nào trật, từng bắn Thạch Hổ, ứng dây đàn mất lông, đánh Phiên giết hại rất lắm. Do đó cuối cùng chẳng được phong hầu) Bạch Khởi chết ở Đỗ Ngự (Bạch Khởi là tướng nhà Tần, khéo đánh hố trống, Triều hàng chết bốn mươi vạn, cuối cùng chết ở trạm Đỗ ngự) Ngu Hủ cùng triều ca (ngu kinh ở Hán khéo giữ ngục, hủ là con cháu đó, hủ tấu với đế lấy ba quận ở Ung Châu làm tỉnh Truân Điền, cuối cùng chết một cách bất ngờ) tuy giữ tiết tháo trung thành với chủ mà đều phải công hại vật, nên đến ngày chết mới thức tỉnh sai lầm trước đó!
---------------------------
(Khám đất tượng đắp là Phật bảo, quyển vâng pho đỏ là Pháp bảo, đầu tròn áo vuông là Tăng bảo, đây là đạo Trụ trì)
Phủ quỷ trở đậu (bình, thớt) (đều là đồ đựng vật cúng tế ở tông miếu) chế độ văn chương, làm khí của lễ, thăng giáng trên dưới, chu toàn hạt tập (hạt là áo cừu tức thượng phục. Lễ nói: Tập là chỗ trên cửu chẳng công hẳn thêm hạt lẽ cừu trắng áo gấm để hạt đó) là văn của lễ, chuông trống quản khánh (chuông vàng trống da quản trúc khánh đá) vũ thược can thích (vũ là bảng tước, thược giống như địch mà có ba lỗ, đây là lễ của Văn Thuấn, con là Thuấn, thích mà ngọc, thích thú phủ, đây là lễ của Võ Thuấn) là khí (đồ vật) của nhạc, co duỗi cúi ngước, chuế triệu thư tật, là văn của nhạc, đặt đó thì lễ nhạc phế, thêu, viết, hoạ, khắc, tài hương án pháp, là khí của đạo đức, cắt tóc hở vai, bái nhiễu thiền giảng trai giới là văn của đạo. Thí đó thì đạo đức mỏng (thỉ là phế, vi là yếu núp, nói Phật lên cung trời Đạo-lợi ba tháng (Phật Đản sinh mới bảy ngày, thì phu nhân Ma-da sinh lên cung trời Đạolợi, đức Phật lên đó trải qua mùa hạ vì mẹ mà giảng pháp) vua Ưu-đà-diên (vua Nam Hải) nghĩ nhớ ngâm vịnh lo chẳng về. Mục-kiền-liên đem ba mươi hai người thợ lên chiêm ngưỡng tướng tốt, khắc gỗ tử đàn làm tượng, vua cùng dân cả nước đều được đối diên với thần, phát khởi việc làm tượng bắt đầu từ đó, Đức Phật mới thành đạo ngồi dưới thọ vương, giả nhân dâng thức ăn (Đức Phật mới thành đạo, Trưởng giả Đế-lý-phú-bà dẫn năm trăm người cưỡi xe đi buôn bán đến dưới núi, mưa gió rất lớn, thần núi bảo rằng: Đức Như lai thành đạo, nên đến đó cúng dường. Họ bèn đến núi), thỉnh cầu chỉ bày tạo phước, Đại thánh trao cho móng tay và tóc, bảo về nước xây tháp, việc phát khởi tháp miếu, bắt đầu từ đó, Đức Phật thành đạo được mấy năm, hóa lực phong hành, đến núi Tượng Đầu, vào thành Vương Xá (Hán dịch là Thượng Đệ, do Bình-sa thống lãnh) vua Bình-sa dẫn các hàng sĩ thứ trong cung, ngự đến chỗ đồng trống, nhân đem vườn Trúc-xa-lan-đà làm bảo xá cúng Phật (Ca-lan-đà, Hán dịch là Hảo thanh điểu, xưa có vị vua đi săn bắn, ngủ dưới gốc cây, con rắn lớn ở đây bò ra sắp chích nọc độc vào vua, chim đó kêu buồn để thức tỉnh vua, do đó mà xả bỏ khu vườn ấy cho chim nương ở, nay vua xả thí để xây chùa, có nơi nói: Ca-lan là chuột là sai. Phật bảo chư tăng ở, việc xây dựng già-lam bắt đầu từ đó, chánh pháp có hai: Đó là giáo và chứng, giáo là vốn trì thuyết, chứng ở tu hành, chẳng trì thì chân văn thiếu, chẳng nói thì chí lý bị lấp bít, chẳng tu thì hạt giống thánh dứt bặt. Nên ngài Thế Thân nói: Pháp không lâu mau, tùy ba người trú thế, (kinh sư, Luật sư, Luận sư là ba người. Lại trì, thuyết chứng là ba người). Người còn thì pháp còn, người mất thì pháp mất, có chỗ cho là: Chánh tượng ngàn năm, Mạt pháp gấp mười lần, đây chỉ nêu đại hạn đó, bày hưng táng đó nơi thiên hạ. Hoặc cho rằng đại thánh nói có chúng như pháp thuyết giới thì pháp ta trụ, do luật sư trì luật, nên Phật pháp trụ, thọ năm ngàn năm (giới kinh nói: Nếu chẳng giữ giới cấm, dụ như chỗ nên Bồ-tát, như lúc mặt trời lặn, thế giới đều tối tăm) đây là nêu lợi ích để bày khuyên. Nên kinh, luật, luận là giáo bản của trụ trì, tăng trì thực là công liệt của trụ trì, chuyên giáo mà pháp chúng thạnh, tuyên công mà kim giới trị, nên khiến chí đạo thuần ý, ngưng vị chẳng tan, như đại canh đó ở đảnh (tế canh của tông miếu, chẳng đặt để năm vị, nên Tả Truyện chép: Đại Canh chẳng đặt để). Linh thần ban chỉ, đây là pháp độ của trụ trì, trời ba học khổng, dương đức như lông chim hồng (khổng là rất lắm, như là nhẹ, nói chỗ tập quang hoa như lông chim hồng nhẹ bổng.) người nghĩ phục đạo thiện nên năng lâu dài, muốn cho phong chân mối huyền lấy lấn lướt ở thiên hạ, lại chẳng thể được, ở Tây Vực, trị sự tăng gọi chung là: Yết-ma-đà-na Hán dịch là Duy-na, cũng lấy Duyệt chúng mà gọi. Nước kia khắc hạn ở khuyết vị, thánh xưa nêu hiền thì người nhân kế đó (Duyna là chưởng sự tăng, ở Tây Vực cầu đó rất khó, phần nhiều giao cho người hiền làm, kế là lấy người nhân tiếp đó) mà thánh của Trung quốc chẳng hiển bày ở thánh, chỉ đức chỉ hạnh, tìm cầu đó ở mình ư? Đối với người không thường, người khinh vâng, thật thì có khuyết (nếu dùng hạng người chẳng thường và khinh dễ tin làm khuyết thì không có thỉ chung) đã ngu phúc tốc (tốc còn âm là tẩm, cũng là loại quả bại. Nên cho kẻ phu không tốt lành đảm nhận khiến hạ dân hoá độ, thà làm nhóm cướp ở rừng chầm (chủ trông coi ruộng tăng, chẳng phải người tài khí, chỉ tham cầu hưởng lợi, chẳng chuyên tu tập, như nhậm quan vị, chẳng phải người đó châu huyện chẳng an bình, thà ở với trộm cướp nơi rừng chầm, cũng chẳng hơn đây) lúc Đức Phật tại thế, Tôn giả Ẩm quang thống nhiếp đại chúng ở Linh Sơn, Thân tử tới nơi Trúc Lâm, Đạpbà-ma-la mới mười sáu tuổi đắc quả La-hán, sau đó tự tư duy thân chẳng bền chắc, xin việc tri tăng, đức Đại thánh xót thương đó thật nguyện (nguyện là cẩn nguyện) bảo tăng sai, đã khẩn thiết với chức đối ăn mặc đau đáu chẳng rỗi cấp, trước vật sau mình, dẫn dụ huyền lữ (dụ là hòa, huyền lữ là tăng) lưu toả tiếng tăm khắp tám phương, hoàng giác vừa ý đó mới ngợi khen, bảo rằng: Đệ Tử ta vì tăng mà trông coi phòng nhà đồ nằm, sai theo thứ lớp thỉnh thực, Đạp-bà-ma-la là bậc nhất, tại Kế-tân có trưởng giả Đạt-ma-đa-la là người thổi nếu ở tăng trù, có hai vị Tỳ-kheo khách từ xa muốn bày siêng năng, ban đầu chẳng biết tôn giả, bèn đến trước mặt hỏi: Đại thánh tôn đức nay hiện ở đâu? Đạt-ma chỉ và bảo: Ở nơi phòng tối thượng của tôi, hai vị Tỳ-kheo theo lời dẫn sang, mà Đạt-ma vội dùng thần lực đến chỗ mình ở trước, hai vị Tỳ-kheo đến sau, ngầm nhận biết là chỗ đã gặp trước đó, kính lễ dưới chân rồi hỏi rằng: Đại đức tiếng tăm vang khắp Diêm phù, sao tự thân làm việc thổi nấu (đơn là đốt, lớn là tân (củi), nhỏ là chưng) làm việc nặng nhọc ở nhà xí này ư? Đạt-ma vị nhiên bảo (vị nhiên là than thở) ông đã có hỏi thì tôi đâu giấu được: Tôi đã nhiều đời kiếp chịu khổ sinh tử, hiểm nạn lâu dài, đã suốt năm trăm đời làm chó, chỉ được ăn no hai bữa, huống chi các đường ác khác. Nếu khiến cho đầu tôi đốt cháy, tôi đều đốt đó, huống chi đốt lửa này và các chi khác ư? Tại Trung Hạ (Trung Hoa) vào đời Diêu Tần, người bỏ tục thì mười nhà có đến một nửa, La-thập vào quan, học đồ doanh lương (doanh lương là lộng sọt) chẳng xa ngàn dặm mà đến cả ba ngàn vị, do đó lập Đạo Khế làm tăng chánh. Tuệ Viễn làm Duyệt chúng (tức Duy-na) Pháp khâm, Tuệ Bân trông coi tăng lục (bạ thư, như nay là tăng phán) cấp xe kiệu kẻ lại, tăng chánh trật tự đồng như Thị trung, ngoài ra có sai biệt, tại Chấn đán (Trung Hoa) đây có tăng quan, bắt đầu từ đời Tần, thời Ngụy lập giám phước tào, lại đổi làm Chiêu huyền ty, đầy đủ có quan thuộc, để quyết đoán việc tăng thời Chu Tề đổi làm sùng huyền thự (Bắc Chu, Hậu Chu, như công đức ty) thời Đông Ngụy, Cao Tề còn thống đó, thời Tống, Tề, Lương, Trần còn chánh đó, lại chùa ba quan (như nay là Tam Cương) thuộc về thống chánh. Nhà Tùy thế nhà Chu, mở mang Phật pháp rất thạnh, các vị Tam tạng trong nước được chia ra an trí ở mười thống, nay quốc gia bãi bỏ Thống, lập hai Lục, (trông coi kinh ấp, Tăng lục trông coi kinh thành, các châu bên ngoài lập riêng Tăng chánh) Tam cương đặc biệt lấy đức vọng tìm người. Tháp ở nước Lam-ma là xưa cùng các nước chia Xá-lợi mà xây dựng, qua năm tháng lâu xa đất đai hoang phế, chỉ có voi rừng ngậm hoa dâng cúng, dùng ngà ủi dọn cỏ dơ, dùng vòi quét rưới, có vị Sa-môn du phương cảm việc đó, bèn phản giới làm sách cần, sửa sang nền móng cũ, đốc thúc nhiều người chung làm đến cùng (phản giới là xả giới, sách cần là Sa-di, vì sao? Vì có giới thì cuốc đất chặt cây bày đất đốt lửa đều là phá giới nên chẳng thể làm việc sửa sang đó). Đời Tấn có Tằng Tôn của đạo kính vương Hữu quân đến núi Nhã Da xây tinh xá Huyền Lưu, phản giới như việc ở Lamma, nên người nhân làm thiện, thiên hạ đồng đó, kẻ bất nhân làm điều bất thiện, thiên hạ cũng đồng đó, (người tốt lành làm thiện chỉ ngày không đủ, người hung dữ làm điều bất thiện cũng chỉ ngày là đủ) Thôi Tuệ Nguyên dựng chùa ở Võ Lăng, sau khi chết, dưới núi Võ Đang có người thấy đó thần sắc rất khoan khoái, gởi lời với chư tăng trong chùa rằng, chớ để cho nghiệp chùa bị hư phế, từ đó giữa hư không y theo thời khắc mà có tiếng khánh (nay núi Vụ Trung ở Ngang Châu đất Thục, và chùa Kim Các ở Bành Châu, giữa hư không đều có tiếng chuông khánh, tán tụng, v.v...). Tại Quảng Châu, Pháp Hiến xây chùa ở núi Tạng Vi, có hai đứa trẻ dắt tay nhau, ngâm ca rằng: Tạng Vi có đạo đức, hoan lạc mới Vị ương (vị ương là Tần cung), ca xong bỗng nhiên biến mất. Thần do thành cảm, đạo bởi thần giúp, chẳng thành tâm sao có đức, chẳng phải thần sao giúp được, nên chỗ trinh ứng tốt lành càn gắng ở chưa tốt lành, thời Tề, Chu ngang đến chỗ quán cũ của Lôi Thứ Tông ở Chung Sơn xây chùa Thảo Đường, hoặc gọi đó là Sơn Tỳ, thỉnh cầu Tuệ Ước làm chủ chùa, Tuệ Ước cho rằng ấp ở tuy gần mà tiêu điều ngoài vật, ngầm thưởng tổ thành, bèn có ý trọn đời ở đó. Chu Ngung ngợi ca rằng: Sơn Tỳ ước chủ, khắp thế gian trong sáng, thời Lương Võ xây chùa Quang Trạch, ban chiếu mời Pháp Vân làm chủ chùa, sáng lập tăng chế, nhã có khuôn phép về sau, Pháp Vân có hiếu đức, lại dùng nghiệp hành tiếp nhận điều tốt lành của trời, đội ân sủng của nước. Hiếu là tôn thờ người đã chết như tôn thờ người còn sống, nghĩ người thân như chẳng muốn sống, Tăng tử vì tôn thờ người thân nghe chịu tang của người thân, nước uống chẳng đổ vào miệng suốt bảy ngày, chất củi cao để nghĩ nhớ người thân, khóc huyết ba năm, chưa từng thấy răng (ý nói khóc không tiếng như huyết đổ ra, cười nhỏ nhiệm nên chẳng thấy răng) nếu Pháp Vân không có sự nhường nhịn của Tăng Mân thì chết bởi chẳng nổi chịu tang (pháp Vân chịu tang mẹ, gần như hủy diệt, tăng Nâm khuyên dỗ đó mới chịu ăn uống) Sa-di Tuế Đàm suy nghĩ kinh Pháp Hoa, từng đến chỗ non sâu dựng đá làm thính chúng, nắm cành thông mà giảng, nên về sau đầu tiên có ra kinh ấy, tuy có lắm sư nhưng khó thể sánh bằng, từng ở tại một chùa khi đang giảng, thì cảm được hoa trời như tuyết rơi đầy giữa hư không mà bay vào nhà, lúc giảng xong mới biến mất, bấy giờ có vị tăng nguyện muốn được như Pháp Vân, mộng thấy vị thần răn bảo: Pháp sư Vân ở thời Phật Đăng Minh đã giảng kinh này, ông nên mau thố ý đó(thố là bỏ) chớ mong việc chẳng hy vọng, nay cuối thời pháp môn, mọi người hướng về ý đó (đều thú hướng về ý mình) các bậc tiền triết để lại ví dụ, người sau nào đoái hoài, trái với đức, hướng tới lợi, luôn xem thường trụ như cao du thì đút lót cầu ty đó (siêm là nhìn trộm, dùng tiền của cầu chủ vụ, đã được rồi thì nắm vào đó mà công phù sướng ở hữu vị, bèn khiến cho chuyên mong mỏi hấp tấp chẳng nghiêm túc tăng mạng, rối ren trật tự sáu hòa, lấn lướt công của chín nhận, đến các kho lẫm chứa khóm trống không, ruộng hoang đã xanh (đây là nói đem việc chùa thường trú vụt nhiên khiến phá hoại đến nỗi ruộng hoang phế, bèn mưu tính cầu lui khỏi, hoặc là mưu tính cớ già, hoặc cáo từ bởi bệnh, phủ tự chẳng hề xem xét điện tối, kiểm xem gian trực (Hán Thư âm nghĩa nói: Thượng Công gọi là tối, Hạ Công gọi là điện, gian là tà, trực là chánh) vội vàng thì toại trái thuận, đến nỗi khiến hạng giảo phu được kế rất lắm, vã lại hàng thủ nhĩ kia (thủ nhĩ là bạn nhỏ) ở tục còn đợi nhân trị, há xuất gia thì năng vì vật đặt để trị ư? Chỉ chùa phủ mới đầu lấy của cải mà tuyển chọn, mà kia mang tội cũng trọn lấy của cải mà khỏi, hoặc chỗ chúng chẳng tệ, xưng tội đó để tố cáo mà loan truyền đến chủ ngục, vả lại, phải trái lại vùi lấp đến người tố cáo nơi lý (Tệ là ngăn che, phả là nghiêng lệnh, mới đầu cầu làm chủ trì, dùng của cải mà cầu, đến sau xâm chiếm lại dùng của cải mà cầu khỏi, hoặc bị tăng tố tụng đến quan, quan cũng vì tình may trái lại buộc tội người tố cáo, đây đều là trong công nuôi lớn xấu ác) chưa hề dụ đến phủ ấp, đã tịch điền nghiệp đó bày làm đình lữ (dụ là hiểu, tịch là vay mượn, xưa kia mười một là thuế, dân cày ruộng mười mẫu, công mượn sức đó cày một mẫu làm cống thế đình, thật lữ trăm thì tiến cống) hoặc vì phương ngoài cầu tìm, hoặc vì bay đi nhìn đó (công phù đoái hoài tăng lữ, hoặc cho là các bậc phương ngoài vượt tục, hoặc cho là thần tiên tiên cao sĩ trông nom, thì nên chọn bậc hiền đảm nhậm) đến nỗi ngoài chính hoá, chẳng có chọn hiền khuyến khích người có tài năng, giúp đỡ sửa sang (vì công phủ cho là người của ngoài vật mà chẳng trị đó! Là khiến cửa phước đổ vỡ, người thần than thở, được chẳng phải có đất mà lọt mất oai tuệ đó ư? Thứ truy đến ngục buộc nơi công phủ, tội đầu chúng (chúng tăng có tội khiến công phủ chỉnh sửa, là tội của tăng) đầu chúng chuyên lý, hào thế cản trở là tội của quan tục (ruộng tăng vô cớ bị nhà công xâm chiếm là lỗi của người làm quan) có hai tội mà chẳng tu xét thì loạn sao dứt được, có mượn quan tịch của họ Thích, khuôn ngăn pháp âm của ruộng tăng, nhọc làm cho bằng, chim đạp lắc đầu, lấy ở yên buông thõng mình (hoặc chủ trì viện xá, hoặc trông coi ruộng rẫy, hoặc giảm tăng chúng, xâm tổn của thường trú, buộc gá vào Châu huyện, nương cậy hình thế, thiết bày đề phòng, khiến người luận tụng chẳng được thắng đó. Sau đó yên xe, trang sức tôi tớ, chim đạp lắc đầu, rất là được ý) được chí toại tánh, đó tại ta mà thôi, chùa có tổn ích chẳng xua chẳng đuổi, chùa có của cải gieo trồng chẳng tự thân chẳng gần, chùa có chuông khánh kẻ chẳng ra gì chẳng đánh, chùa có sân cửa, chẳng quét chẳng rưới, đối với của cải cũng khó khăn, chỉ cầu mà thôi (chỉ cẩu thả mà thôi) đây mới là cục bướu treo của pháp tộc, là biền chỉ của nhân lưu. (Năm ngón tay lại mọc thêm một ngón, gọi đó là biền chỉ, là vô dụng, nay lấy đây để dụ). Người là xuất gia chuyên lấy hành pháp làm hình dung, chẳng lấy mưu cầu lợi làm hình dung, nên năng tùy trời cao thấp, tại chỗ lợi ích vật, như Nam huân mà hoà muôn phẩm, như phước của thương tinh một phương (sao giác gọi là sao thọ, cũng gọi là sao lão nhân, là tinh của thương long, thấy là có phước) sao chỉ khí ngắn vụt gió, lực cản ngựa chạy, dõng nơi an mình, liêm ở thủ thiện ư? Nên người bậc trung mến mộ dưới xâm lấn mà thành tục (vì tập để thành tánh) khiến người khuôn hoằng thống lý, trọn ít hạng đó, phàm cuối thời Hạ Ân, đến đâu đều giết chết không ai chẳng hóa thành ác, thời Đường Ngu, đến đâu đều phong, không ai chẳng hóa thành thiện (dân của Kiệt Trụ nhà gần có thể giết, dân của Đường Ngu nhà gần có thể đóng) nay đại pháp sắp vùi lấp, chúng ta theo du (du là mỏng bạc, lại là cẩu thả) không ai chẳng hóa thành kẻ chẳng ra gì, đó hoặc mời vừa đến phù nguồn giáo, xóa bỏ mối tệ, sơ thưa sóng đạo, đóng thuyền làm cầu) lại lưới chốt lưới của chi mua (Chi tuần, v.v... mua chuộc Tuệ Viễn) đuổi tìm cơ cầu của vân ước (học trò của Pháp Vân, Tuệ Ước) hẳn cũng chẳng phải chỗ nay chuộng, hoặc có nghiệp hạnh mỏng bạc sùng khí vọng vi chương (như nay người học trò mạng một kinh một luận, hoặc các vị ngâm vịnh uẩn thức, v.v...) tụ họp đó có lợi thì không chỗ từ tạ, đối với việc chúng thì nói là phòng ngoại đạo, bẻ ý của duy trì, chợt làm từ nơi trang sức (phải làm đến từ để cầu được khỏi) đây là bẻ mũi nhọn của tộc bào, chưa ném mũi nhọn lương bào (Trang Tử nói tộc bào mới học mổ trâu, sẽ bẻ gãy mũi nhọn đó, nếu dưới mắt Lương Bào không toàn trâu thì gọi là ném mũi nhọn không hề bị tổn) quân tử chẳng trọng, đây chẳng như đó (chẳng vuông tròn) bậc thượng thiện như nước, đây chẳng như nước đó, đạo trời học là trước ở thực hành mà sau giữ đó hành ngại mới giữ, giữ thông thì hành, đang hành mà giữ, gọi là uốn nắn, kẻ trộm thứ quan làm lý, biết hiền trao vật báu, xét phỉ báng tỏ bày oan (được người thì xét phỉ báng, không trệ ngại thì tỏ bày oan) bỏ cẩu thả chuyên ban tuệ, đây có sáu là: Giúp sanh dân đến rốt ráo, mà biểu pháp của sư vong trấn giữ phương ngung, sao chẳng hàng đó như vậy ư? Đến như khuấy buộc người hiền có tài năng, phân lao nhọc chiết ty, chẳng đượm nơi mình, không trái với chúng, trăm lỗi đều quy về mình, các điều lành đều nhường cho người, ân trước cho người có công, sau bố thí một cách bình đẳng cho người, khiến hành ở chỗ thân, sau cùng đến khắp chỗ sơ, tâm thường thương ghét, sự đồng đều tốt xấu, nổi trôi như thuyền chẳng buộc, thong dong như dạo như đùa, đâu được chẳng là đạo ư? Thời nhà Ân thì có đại phu, thời nhà Chu có trụ sử, thêm Tất viên lại (Bành tổ, Lão Tử và Trang Tử) đều là những bậc của lộc vị, tại đục thì như châu ngọc bỏ vào nước, được ân sủng thì như gió lướt cỏ, đều hề lấy việc bên ngoài là ghé cặp ở đạo đức ư? (hoà quang là đồng trần). Xưa, Khổng Miệt bị ấp oán bởi ba lỗi (Khổng Miệt là con của anh Khổng Tử, cùng Khổng Tiện đều tôn thờ Khổng Tử, Khổng Tử qua Khổng Miệt mà khởi đó là: Ông làm quan thì được gì và mất gì? Đáp: Chưa có được gì, còn mất thì có ba thứ: Vương sự như điếc, sao học tập được, là học chẳng tỏ sáng, bổng lộc ít tiền cháo, chẳng bằng thân thích, là cốt nhục càng xa, việc công nhiều gấp, chẳng được viếng tang thăm bệnh, là đạo bạn bè khuyết, có ba lỗi này) Mật Tử tiện làm ấp, mừng bởi ba điều được (Mật chẳng bằng, Khổng Tử đến hỏi, đáp: Chỗ được là có ba: Mới đầu nói nói nay được mà hành, là học càng tỏa sáng, bổng lộc cung cấp đủ cả thân thích, là cốt càng thân gần, tuy có việc công mà gồm để viếng tang thăm bệnh, là bạn bè càng tin gần nhau, Khổng Tử bùi ngùi khen: Quân tử thay như người! Nước Lỗ không có quân tử, nay sao lấy đây). Trọng Ni khen bằng như quân tử chẳng phải có của Khổng Miệt, buồn thay! Chất của có luỵ, trăm năm đời người, ở phàm thì mượn chùa Quan, ở thánh thì thuộc chùa Tiên, ở chùa Quan sao từ chối lấy việc người để ở đó ư? Đó có chùa Tiên mà tôi chẳng thể đến (như tại núi Vụ Trung ở huyện Đại Áp, thuộc Châu Ngang có năm trăm vị La-hán ở, núi Tam Học có Đền thánh, núi Nga My có Bồ-tát Phổ Hiền, v.v... lại như truyện Cảm Thông, có vị tăng mất tên đến chùa Tiên Trúc Lâm) xưa kia Trúc-pháp-du đến Thiên Thái, Viên Thông ở Xích Thành đến Nghiệp Đông, Tuệ Bảo ở Thạch Cổ nghỉ nhờ nơi Nham Thật (đều là chùa Tiên) không ở đâu chẳng có sư trưởng có oai nghi, sắp muốn gởi hình kia chẳng cho ta ở lại, nên trong nhân gian thường nghe rừng sâu cách vách tiếng chuông khánh phạm hưởng, đèn thần, tượng lạ, đây có thể nêu bày, tăng ở mỗi nơi thuyết giới, ngày giải hạ chẳng được không thanh tịnh trang nghiêm pháp vũ, cả chúng giúp đỡ, nghiễm nhiên ở trước của bậc thánh. Luận Nhập Đại Thừa nói: Mười sáu vị Đại La-hán như Tân-đầu-lô, La-hầu-la, v.v... vâng thừa di cố, bèn đi khắp cõi người (sau Phật diệt độ, ở nước Kế-tân, vua Thắng Quân, tôn giả Nan-đềmật-đa-la vì đó nêu ra mười sáu vị Đại A-la-hán) đời gần đây ở quận Tử Đồng có đại trưởng lão luật sư họ Hồ cũng là người cảm thông, quận Nam Bỉ có núi Linh Thứu, Hồ lãnh đồ chúng mà nhập hạ an cư thuyết giới, ban đêm số người thì đã nhất định mà số thẻ thường quá, chúng chẳng biết vì sao (tăng thường lấy đêm rằm và đêm cuối tháng, sai một vị tụng giới kinh, phải phát thẻ, trước tăng số có bao nhiêu vị, Sa-di bao nhiêu vị, khiến biết số thẻ ít nhiều) đến cuối mùa hạ, có vài vị Sa-môn người Hồ ra khỏi núi, đến mé đường vẫy tay chào giã biệt với người trồng lúa, Luật sư nghe vậy vội chạy theo, đồ chúng đó bốn vị rong ruổi, họ cách thì chẳng xa nhưng chẳng được thấy, Tâm của bậc thánh là từ tâm ngã nhân, linh của quỷ quỷ thần từ linh của ngã nhân (chí thành cảm đến thần minh)
Tuệ Tuấn mắc giảng ở nơi không có nước, sắp chuyển dời đồ chúng, thần núi cho là nhả dòng nước lớn (như chùa Tuệ Nghĩa ở Tử Châu không có nước, có Sa-môn Thần Hiểu niệm tụng kinh Kim Cương trong bảy ngày, đến kỳ hạn quả nhiên đào được dòng suối, nay vẫn hiện còn) tăng phạm thuyết giới, ban đêm đến nghỉ lại ở chùa khác, quán thụ nghĩa là phế bỏ việc đó, Linh Kỳ tức giận mà xô ngã. Đó thật cùng điều chẳng thể tiếm. Đời Lương, tăng Tuệ Siêu làm Đại Tăng chánh, khéo vui với sơn thủy, tiếng của cây thông vang đến mấy dặm, ở thì lắm nhiều trẻ nhỏ tôi tớ, trông vương hầu còn chẳng bằng, huống chi Tăng Chánh phải chánh ở mình để làm chính, chẳng phải liêm thì làm sao có ở chánh ư? Đạo đạt đến làm Tăng chánh ở châu Nam Duyên, bãi nhậm chỉ có năm bó nên giấy sao liêm cùng ô trược không khái nhau (khái giống như bình, bình là đấu hộc) Tăng Mân chẳng lập đại hội bảo với môn nhân, đệ tử rằng: Đại hội tuy có công của một thời khởi phát, tôi thiếu thốn tay chân sức lực, gạo củi rau nước, giẫm đạp rưới đốt, tổn hại lắm nhiều như nhờ sức lực của quan, sai sử làm tuy đông nhiều, cùng khó hết ý nên tôi chẳng làm, có người bàn rằng: Tĩnh là khéo động, động là khéo tĩnh đó, đó là bậc giúp khắp (hình tháo khéo tĩnh chất là đạo của ái cương. Lại như nghĩa dùng khoan giúp mạnh) nếu tĩnh mà hành tĩnh, thì thứ tâm vắng lặng, đức chẳng tỏa sáng (vì vết đó ngầm ẩn) nếu ở động mà vượt quá động thì vật lý đượm rõ, đạo đức phù Ngụy. Nên bậc Hiền là đi giữa động tĩnh, đến bên ngoài có không, gồm muôn thiện của vô vi, không thiện chẳng làm. Cung thất của đại Võ nhỏ xấu mà tận lực với thành trì, ăn uống rau lá mà rất hiếu với quỷ thần, đâu khéo tay chân chai cộm mà cẳng chân không lông ư? (Hạ Võ trị nước,... cẳng chân không lông, Vĩ Chiêu nói lông trên cẳng chân là lông nhỏ) bởi chẳng riêng an đó, mà muốn đem công thí cho cả thiên hạ vậy, Thiện Đức con của Trưởng giả tạo lập hội thí lớn (kinh Duy-ma-cật nói). Bậc thánh vui vẻ mà dạy dỗ, bày lớn giúp đỡ nhiều phước cùng tâm xa, an vui vô cùng, nên ở Tây Vực có Bát-già-vu-sắt (tức hội cúng lớn) bậc thượng trí thực hành, chứa nhóm mà năng tán, kết quy ban cho về mình, kết quy của cải về người, trần tích tải khắp thật thì gồm tốt lành (Trần Hoàn Tử đậu âu phủ chung thí lớn cho dân đều cùng khắp, về sau được nối dõi nhà Tề). Bậc đại sĩ làm lợi ích chúng sanh, tuy hại ở mình cũng không lẫn tránh, huống chi chẳng phải hại ư? (Bồ-tát tu hành, thân làm núi thịt cá gạo, muốn đi đường lớn, sao nhìn đường nhỏ) nếu vì hưng công mà tổn hại vật mạng thì cờ tháp đất cây nghi tượng ăn mặc các thứ có ra là tội của ai ư? Xá-lợi-phất đi khất thực, quán trùng giữa hư không, như ngựa chạy mau, như thóc trong bình, bèn trải qua nhiều ngày bỏ ăn, đấng Đại
Thánh bảo rằng: Phải nhìn bằng mắt thịt sẽ ăn được, Linh Dụ răn học chúng rằng: Không sang hèn không lớn nhỏ, đều nói tên mình, gọi kia là nhân giả, dứt bỏ mắng đánh, trái hẳn khiển, kia sao bày đến ở đây ư? Đây hoặc có thể truyền mà chẳng thể nối tiếp, Thi nói: Ta ôn hoài minh đức, chẳng lớn tiếng mà dùng sắc (ý nói văn nương chẳng nói lớn tiếng mà dùng nhan sắc, lại nói: Chẳng hay chẳng biết là thuận tắc của đế) Trọng Ni nói: Thanh sắc đó ở cuối người vậy (ra oai khoe sắc, đây là bậc hạ) chẳng dùng hình luật mà bình trị, ở đời đều chuộng, chỉ vì người thời nay sợ oai mà khinh thường đức (oai thắng ân) bậc thánh còn bệnh đó, Thi nói: Nếu Quân tử giận, loạn thứ chóng tan (nói quân tử nếu giận thì chúng loạn đó hẳn vỡ tan). Lại nói: Vua giận bừng bừng, viện chỉnh lữ đó, ý nói dùng oai dừng loạn, ngựa tốt thì nhờ hàm buộc, chim đẹp thì nhờ cắt chải, gỗ tốt thì nhờ mổ khoét, chưa hề có việc bỏ ở đây mà năng tự đặt để tốt đẹp, Dịch chép: Tiểu nhân chẳng hổ thẹn chẳng nhân, chẳng sợ, chẳng nghĩa, chẳng thấy lợi thì chẳng khuyên, chẳng bày oai thì chẳng trừng, nhỏ trừng mà lớn răn (trừng là trách, nghĩa là tội, trách thương hại tổn khí, mà bèn lớn răn làm phước, lợi của dấy công) cho nên ngự chúng phải là đạt nhân ở lúc chưa hiển, hình nhân ở chưa loạn khiến người ngửa trông oai tuệ cố gắng mà chỉ sợ. Có thể gọi là mở đầu cho thiện, đầu tiên đã lập, im lặng như năm khí tuyên nhau, tám gió mở bày, đông đúc đáng vừa, ngôn hành có chương, tuy có tý phốc (tý là mắng trách, phốc là đánh bằng gậy) mà không dùng đó, ấy gọi là thiện chung. Người ít có chung mà Linh Dụ có tiếng tăm chung (chỉ cho Linh Dụ làm được, người khắc ít làm được) quán phàm tuy thẳng đánh nhục mà khiển ra khỏi chúng, hoặc thì cũng đã quá lắm (khiển là trách phạt, như nay trao y bát ra khỏi nhà) kinh chép: Sát sinh này là quả báo của sát sinh, địa ngục này là quả báo của địa ngục, luật mở dạy trao hủy lười chẳng phạm, là nghĩa gì ư? Bởi muốn dùng hình mong ở không hình. (đây là tội phạm cẩn thành, khiến đó chẳng phạm) nên ngợi khen điều thiện thì dụ cho thiện, bày nêu ác thì lấp ác, dụ dỗ La-hầu-la, quát mắng Điều-đạt việc ấy chẳng đúng ư? (La-hầu-la là con của Phật, Điều-đạt là oan đối của Phật) mà bậc nhân tha thứ ở tâm, kẻ giảo tha thứ ở miệng, người nhân là bậc trung thành cho nên tha thứ ở tâm, kẻ giảo là quỷ quyệt nên tha thứ ở miệng (bậc nhân là trung thành, nên tha thứ tại tâm kẻ giảo hư dối nên tha thứ ở miệng) ở tâm thì đi theo vật đến lợi ích, ở miệng thì hư bại vật uốn nắn từ, người thời nay nhỏ ngu nghe ở miệng mà chẳng biết ở tâm, dùng mặt mềm mại làm từ tuệ (xảo ngôn khiến sắc đủ cung kính: Là người đều vui thích) dùng hạnh cao mà cưỡng ngạo, kia chẳng biết di lệ của nhà Chu (Cơ Chu loạn chúa) hạ đường mà chầu chư hầu, ngu ngơ mà tước mà tước, viên đế hiên viên là thầy của khởi đánh loạn, chẳng được cho đó là vua của vô vi (viên đế đánh họ cộng công, Hoàng đế đánh Sy Vưu) Làm thầy là lợi ích ở pháp, sao nói thương xót người (Tuất là ưu lo, lợi giúp chẳng vì hại mà chẳng làm, dụ như như người vì nước nhà sao sợ bởi đánh giết ư) nhưng vì ở đời có dự của tích kiểu ế trực đức ty giá trạng điên từ bi, thạnh đảng của kính mến tanh nồng khiến kẻ không tiết tháo thì hành mất mình, khuôn phép việc đó (khiến hạng thiếu trinh so sánh mình so sánh mình mà làm) trái lại vì lòng từ của Đại thánh mà chẳng thêm ở ta, bèn khiến năm thứ ngựa ác bảy loại trị người rơi hẳn dưới đất, nay giáo ta thúc thế (thúc thế là cuối đời) pháp đồ nhiều nạn, bạn gian giúp loạn, như sự bền chắc của bào tang (bào là mọc rậm rạp) muốn do tôi thẳng phải độ có thể chẳng thận trọng căn cơ, cũng là giáo của bậc thánh, xưa khách Tam tạng thấy không tội che giấu, nhường mà theo đổi (theo luật, Tỳ-kheo phạm tội tăng tàn, thì cho ở riêng mười ngày, gọi là Ba-lợi-bà-sa, ý nói tỉnh tội, mười ngày chưa mãn, lại phạm tăng tàn chẳng che giấu, bèn nói đã phát lộ thì chẳng nên Yết-ma làm tội che giấu, có Tam Tạng khách thấy như thế, bèn trách nhường, do đây mới theo mà sửa đổi) Xá-lợiphất gặp Yết-ma phi pháp (xưa, trong già-lam các tịnh nhân nam nữ lớn nhỏ, bốn vị Tỳ-kheo làm pháp Yết-ma khiến họ giá thú, Xá-lợi-phất biết đó là phi pháp muốn cản ngăn, trước đến bạch Phật, Phật bảo: Ông không nên ngăn cản, một chẳng thể quở trách nhiều, lại vì kia đông mà ông ít, sợ phản lại khiến hại, do đó bèn im lặng mà chẳng ngăn). Đó là do công Lưu lánh nước Địch, yếu mà dùng đức (công lưu là con cháu của Hậu Tắc, Hậu Tắc tôn thờ Nghiêu được phong Thai làm tắc quan, chẳng ra khỏi huyệt, mất quan trốn ở tây ngã, đến công lưu lại sửa chức đó, người Nhung tham đất ấy bèn đuổi, đến Thái vương thì dời đến đất Bân ở phía nam Kỳ Sơn, Văn Vương thọ lệnh, Võ Vương đánh Ân mà có thiên hạ) Văn Vương phạt sùng sư, cưỡng mà lấy loạn (sùng là nước của chư hầu, sùng hầu Phí Trọng là bề tôi tai mắt của Trụ, chẳng tu đức, nên Văn Vương dấy binh đánh đó, lúc nắng hạn, quân dấy khỏi mà mưa) đều mở mang biến thông tinh chiếu. Đó có mưu chẳng đạo tài, tạo phước chẳng nhanh chóng, sùng đài thấp mà đổi làm, hoa dong xấu mà bày nguy (dùng của cải bởi xâm ngược tạo việc của bình cấp, phòng nhà ruộng thoáng, gác chuông hoa rạng) của cải do uổng lạm, sự tham mạo, thật là tội phước chẳng bù nhau, Phóng sinh là thương xót kia sắp hiển tặng (Tề sắp giết trâu thệ chuông, Tuyên vương bảo dùng dê đổi, Mạnh Tử bảo: Vương keo lận một con trâu, Vương nói: Chẳng nỡ thấy nó chết. Bảo: Vương chỉ thấy trâu đó, chưa thấy dê, quân tử đối với cầm thú, thấy nó sống mà chẳng nỡ thấy nó chết, nghe tiếng nó kêu mà chẳng nỡ ăn thịt nó. Vì vậy quân tử chẳng gần kẻ nấu bếp) gặp mà còn đó, đó gọi là phước đời đời. Xưa Triệu Giản Tử ngày mồng một tết thì phóng sinh, người trong nước đua nhau bắt vật dâng lên, ân kia sinh đến hại thì chẳng bằng không phóng thả. Nên duy trì là tính đức chẳng tính lợi thì do đức mà lớn, tính lợi chẳng tính đức thì đức do lợi gọt vót, than ôi! Pháp đã suy đồi, kiếp cùng vẩn đục, thánh phàm cách biệt, trời rồng ẩn ngầm, quỷ mỵ tác oai, chánh tà khó phân rõ, cầu nguyện chùa tháp để trấn giữ lại, mượn trinh triết để gánh vác, đâu chỉ đài hương che ảnh, pháp cúng trơn-da, hưng vong chẳng hệ thuộc ở phổi ruột, cười nói tự vui sớm tối, điềm nhiên chó trắng qua lỗ hổng (chó trắng là mảy bụi qua khung cửa) truân tịch chìm hồn (truân là dày, tịch là đêm, trọn đêm tức là đêm dài sinh tử, Sở Tử nói) truy điền không công của một ruộng, thiết vi có khổ của trăm tội, lắng nghe lý này, ai chẳng lạnh tim chua mũi ư? Chỉ vì lưới huyền rối ren từ lâu, vườn xanh xanh rộng, bản tịch cất nơi vương phủ, tỉnh phú đưa về quận huyện, chữ dâng đón rước, như sợ của ấp tư, đối với tôn lại, cho nên liêm nhu, lánh sắc lánh lời, mà chẳng ở vậy (khiết mình để lánh Châu huyện) ngu ác là phí sức của mà không ích, ruộng vàng hoá thành nhánh gai, thật thì nguyên do của hoạn, phàm như vậy bởi đem phế nhà chùa nơi phủ huyện, sao chỉ cười ở hai Võ ư (phủ huyện lấn cày chẳng nhường hai võ). Nên đến với dân là ở biết người do an người, nên xét ngôn hành, đối với thiện đó là thì bẻ eo mất lễ của thềm bậc, vả lại dùng sức viện giúp chẳng phải thì nên giáng, khiến quân tử tiểu nhân chẳng đồng ngày, thật thì kỳ làm tươi tốt, trải vàng trông như có thể đợi, do đó sự hưng khởi của chùa miếu, hưng thạnh hữu đạo, nên vào cảnh đó từ nước lớn đến tử nam, cờ miếu sửa sang, tăng đồ nghiêm trang thì cũng là vì thấy thanh tịnh của tục chính. Ở Tây Vực, thường trụ cung cấp sự ăn mặc cho tăng, vì sản sinh của ruộng vườn là do ở người cúng thí, đâu thí chỉ luận ở ăn mặc ư? Phàm tăng ăn uống theo giờ đánh chuông mới ăn, tuấn thì quy về tăng chẳng phải mình có (Tuấn là dư thừa, chứa thức ăn thừa là phạm giới) cõi khác chẳng dùng pháp chẳng thông, của cải ba thánh vào ra hữu ty, chẳng phải thì có lận (tài sản của Tam bảo do Điển tọa trông coi, không có mà giấu cất là lận), thế lực vua tôi cầu mong đầy đủ, cố khước từ chẳng chẳng được, giặc cướp người dữ dốc lực chẳng thể cưỡng, cuối cùng trái với ước muốn, tăng bị bệnh không thuốc thang, tuỳ mình có mà cung cấp, còn nếu nghèo khổ không có áo mặc thì tuỳ của cải mà sắm sửa, y phục của người chết thì theo họ đã an táng rồi mà sung vào của chúng tăng (nếu có tài sản của Tam bảo thường trụ chứa nhóm đó dễ bị giặc cướp hoặc pháp vua đoạt lấy, chư tăng nghèo bệnh, hoặc nghèo không áo mặc, sắm sửa y phục cung cấp cho đó, sau khi tang chết thì sung nạp vào của tăng thường trụ) nếu có người làm việc nặng nhọc, thì dùng y phục, thức ăn mà bồi bổ (như nay người chủ sự riêng cho thí lợi) nên trong luật gọi là loại phước lợi ích, mà người nhậm việc, mỗi việc chẳng phải chuyên, nêu hẳn chúng tăng, hỏi chúng tăng không thường thì nên lập tri pháp, nên trong luật gọi là người xử phân (như nay người chủ đứng đầu chùa viện) nếu đem vật chẳng phải ta có mà buông tâm tán mất, sự đó tự lỗi ta, hỏng nghiệp mất công, cưu làm tính ăn, lượng địch không tiết (cưu là nhóm họp, lượng là cân đong, thước tấc không pháp) đến nỗi khiến thương tổn tài sản của chúng, chức ty đây lại chịu tội. Xưa, Sa-môn Gia-xá thấy chùa tăng trên biển lấy máu mủ làm thức ăn, dùng đồ vật đánh nhau, bởi vào thời Phật Ca-diếp đồng ở một tịnh vũ, có khách tăng đến mà tức giận cất giấu thức ăn. Đời Tống, Pháp Phong chết làm quỷ không ăn, đi rảo quanh chùa phát ra tiếng lừa đói, vì chuyên nhậm việc chùa khắc bạ ở Lâm Ngang, vị tăng họ Tôn thấy thân như nhà xí bưng bát ăn đồ phẩn uế, bởi gặp năm mất mùa cắt thìa bớt cháo, Trí hoài chết làm kẻ tớ của chúng vì chùa bày mượn người nên vậy (như ở chùa Thánh Thọ, Sa-môn Thanh Huấn niệm tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mỗi lúc đến nơi Tống chung, thì đối với người sắp xếp thức ăn đòi lấy rượu thịt và sắc đem về, một hôm chợt mất tiếng, trải qua cả năm chẳng thông thức ăn dần dần không thông nước uống, tự bảo là đọa vào loài quỷ đói) soi rọi minh vận này, sao chẳng là trưng.
Truyện Cao Tăng gồm mười khoa (một là dịch kinh, hai là giải nghĩa, ba là tập thiền, bốn là nói về luật, năm là hộ pháp, sáu là cảm thông, bảy là di thân, tám là đọc tụng, chín là hưng phước, mười là tạp khoa) lấy trụ trì làm hưng phước, tôi thường khảo xét hành sự thật đó thì có phước hưng, xưa kia tôi nghe các vị phạm tăng hỏi thầy tôi rằng: Đồi Dung Hấn sở hẳn tốt nướng áo duệ là ở ư? Hoa hiên ỷ sơ hẳn an bằng tháo tuyết là ở ư? Tiếc thay nay nghiệm như chẳng hư! Lại nói Phật-đồ-trừng xây dựng hơn tám trăm chín mươi ngôi chùa, Thiên Thai xây dựng ba mươi lăm ngôi, nay tôi chẳng thể xây một hai ngôi, bởi chẳng phải phu (chẳng phải trượng phu) nhờ ở các người, nhân giọt lệ tiếp ngươi, tại tôi cuồng hoặc, chẳng chịu gánh vác (Thượng Thư nói: Người cha đó chẻ củi, người con đó chẳng chịu gánh vác) khiến thử ánh sáng còn lại gửi chứa hạnh khó khăn, làm pháp cân tựa, thẹn trông mây giữa trời, thảm thương mãi mến mộ!
(Dị học là học bên ngoài, tập giải của dị tông giúp cho chỉ quy của bản giáo)
Người là pháp khí rộng lớn hư thọ là tốt, người tâm xa thì thấy nghe làm vui (Lễ nói: Ngọc chẳng giũa chẳng thành vật dụng, người chẳng học chẳng biết đạo lý. Khổng Tử nói: Ngày biết chỗ đó mất, tháng không mất khả năng đó, ôn cũ biết mới, có thể tôn làm thầy, là tốt đẹp). Nên đấng Đại thánh là các bậc triết vương xưa mừng vui khen ngợi tài rộng trọi là trí cao thương, khiến đầu tròn chân vuông, hiền ngu ở nơi riêng biệt (người mà chẳng học như mặt tường đứng, da của hổ báo như da của chó dê) sư Tá-bà-đa (là tông của Tiểu thừa ở Tây Vực, Hán dịch là Quảng giải sư, rộng thông mẫn trí, dẫn lợi pháp hoá, trong mười hai thời cho phép để một thời học bên ngoài, nên đối với Tông đó phải phân biệt được nội ngoại, khéo giải luận nghĩa, Đàm-vô-đức bộ (Hán dịch là Pháp (cảnh bộ, tức từ Hoá Địa bộ phân ra) tục nghệ chú thuật vì ngại mình hại, dùng cả nhàn tà mở học chẳng phạm (tông đó lập năm tạng: Một là luật, hai là kinh, ba là luận, bốn là chú, năm là Bồ-tát tạng) kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng ngợi khen Bồ-tát là: Nghĩ nhã tài sâu vua trong văn, ca múa bàn nói được chúng mừng (quyển mười bốn) Luận Đại Trí Độ hiển bày kết tập, La-hán đức nói: Đọc tụng ba tạng, biết kinh sách trong ngoài, ngoại đạo có mười tám thứ sách lớn, cũng đọc biết hết (tức luận Tỳ-già-la, Phệ-đà, v.v...) xa xem gió trước, bậc thánh đều chẳng hạn cục chỗ biết, bỏ điều thiện nhỏ, gần thì sùng văn đức, xa thì thành chủng trí (huân tập để thành chủng tánh). Xưa có vị La-hán chẳng biết nghĩa của muối đỏ, các tục ngoài đảng lấy làm cười chê (tại thành Xá-vệ, Bà-la-môn Pháp Dự thường thỉnh tăng thọ thực, hỏi về nghĩa đó, người đáp được thì tự cho là thức ăn ngon, người chẳng đáp được thì khiến người dưới cho thức ăn dở, vì vậy các Tỳ-kheo đều chẳng được đến nhà đó, nhân đến chỗ Phật, cách Phật không xa có vị Tỳ-kheo La-hán Pháp Dự bèn hỏi: Sao gọi là muối đỏ? Muối có mấy thứ? Tỳ-kheo ấy bảo: Tôi biết ông là Pháp Dự, khinh mạn Tỳ-kheo, nay lại làm phiền tôi, muối chỉ là muối, nghe Tỳ-kheo nói vậy rồi, mịt trong tâm mờ đến chỗ Phật. Phật bảo: Tỳ-kheo này chưa học với thầy, nên chẳng thể hiểu đáp về muối, có Tỳ-kheo tên là Phất-hy-lô, Phật bảo đến hỏi nghĩa muối, Tỳ-kheo bảo: Muối có hai nghĩa: Một là chủng vị như nước biển lớn đồng một vị mặn, hai là tánh vị thì có muối đen muối đỏ, muối Tân-đầu, muối Bạt-già, muối Tỳ-lãm, muối Ca-già, muối Tư-đa, muối Tỳ-ca, lược nói còn hai thứ là muối sống và muối rang đó là nghĩa muối. Pháp Dự nghe xong vui mừng mà lui) bởi ra từ nhà mục nát, thì phàm phu sinh tử mạo thay, chẳng bằng (mạo là xa. Đại thánh ra vườn nhà cũ kỹ hư nát, còn ở phàm phu sinh tử chẳng thể bằng) nói việc bên ngoài thì thánh trí giải thoát, hoặc chẳng như phàm phu (chỉ dùng một hành một trí, dứt hoặc chứng thánh ở chỗ biết chưa khắp, hoặc chẳng bằng phàm phu) hái đống phù ở kỹ tử, buộc vũ nghi ở hồng hộc, săn văn thể ở hổ báo, thì ở vật có mấy (cơ là gần, đống là phù, gần với kỹ tử, Vũ Nghi gần với hồng hộc, văn thể gần với hổ báo, vì loại đó tìm có thể được) La-hán biết khắp thì chẳng thể (bốn gia giai đoạn hạnh còn như phóng mũi trên trong tối, hoặc trúng hoặc chẳng trúng huống chi hàng Tiểu thánh ư?) xưa có người ở vùng ngoại ô thành Vương Xá chẳng cho rằng Đại thánh có trí biết khắp muôn vật, nên đem những sự hèn xấu thô mục để hỏi, Đại thánh thương xót các việc ấy mà trình bày, mục tộc kỳ lạ nghe đó hớn hở kính tin, nhân đều hợp với đạo (Nan-đà chăn Trâu, cho rằng Phật sinh nơi cung vua, xuất gia thành đạo chắc chắn chẳng hiểu việc thả trâu, Vậy đâu thể gọi là biết khắp. Bèn đến hỏi Phật, Phật vì đó giảng nói kinh Thả Trâu một quyển, đều là việc của chỗ an dưỡng bốn mùa, dòng họ đó vui mừng xuất gia, đều được đạo quả) nên đệ tử họ Thích bên trong xét mình, đối với môn tấn tu đáng học mà không học, đáng biết mà không biết thì kết tội không học chẳng hiểu biết. Sở học của Tây Vực gồm có Năm minh (một là Thanh minh, nghĩa là giải thích văn tự, hai là y phương minh, nghĩa là y thuật bói toán, ba là công xảo minh, nghĩa là tất cả nghề nghiệp, bốn là Nhân minh, tức ba thứ tông, nhân, dụ, định ra tà chánh, năm là Nội minh, nghĩa là thấu đạt nhân quả, rốt ráo chân tông) đó là thuộc tha-tất-đà, đây gọi là Thanh minh, là một trong Năm minh, vì đó rộng ghi thanh giáo các pháp, mà tục điểm kia gồm nói là: Tỳ-hà-yết-la-lặc-noa xưa gọi là luận Tỳ-già-la, đại số có năm như năm kinh ở xứ này: Một gọi là Chương Tất Đàm, lấy thành tựu cát tường làm nghĩa, có đủ nơi người mới học, vốn lấy bốn mươi chín chư tương thừa thành mười tám chương, gồm có hơn muôn chữ, gồm có hơn ba trăm bài tụng, mỗi bài tụng gồm bốn câu, mỗi câu tám chữ, gồm ba mươi hai chữ, tương truyền do trời Đại tự tại nói (văn này tương truyền tại Tây Vực, nay chẳng thể biết hết) hai là Tô-tát-la (tức Tố-tát-lãm, Hán dịch là Khế Kinh, tức giải kinh của Thanh giáo) là chánh kinh căn bản của tất cả thanh minh, lược giải thích yếu nghị, có một ngàn bài tụng, do tiên Hồngnho-bà-nễ thời thượng cổ soạn, người đó được Đại tự tại hộ trì, mặt có ba mắt, ba là Đà-đô có một ngàn bài tụng, chuyên công hiển chữ, như kinh trên (cũng như kinh trên là căn bản của Thanh minh) bốn là Tam-khí-la, là nghĩa hoang sơ, cứng cỏi, ý như mở mang điền mẫu, gồm có ba chương, mỗi chương đều có ngàn bài tụng (có ba thiên) rộng hiển bày thanh vận hợp thành thể chữ (như ở xứ này có bốn thanh như trắc, v.v..., là trước tiên của học) năm là Bí-lật-để-tôn-đát-la, tức là giải thích Tô-đát-la (có bốn thứ trên là chánh kinh, dưới đây đều là giải thích), trong đó diệu nhất có mười tám ngàn bài tụng, giải thích bản kinh đó (là giải thích bản kinh trên) là do Xà-da-điệt để đại học sĩ soạn, người ấy là đầu tiên của nước này (vào niên hiệu Trinh Quán vua Võ Đức thời Tiền Đường) đến Tây Vực chẳng học tập ở đây, với chỗ học đồ đó vậy! Trong đó còn có Bí-lật-để-tô-đát-la giải thích hai mươi bốn ngàn bài tụng, do học sĩ Bát-điên-tổ-la soạn đây lại hiển bày kinh trước (giải thích chánh kinh ở trước) lại có luận Ha-lợi-phạt-trí hai mươi lăm ngàn bài tụng, nói rộng về nhân sự thanh minh, hưng phế của các nhà, (như Thư sử ngày nay). Tức lấy người ấy làm con mắt của luận, tất cả sách này ở khu vực khác pháp tục thông học, mới đầu là có biết (dị vực tức các nước Tây Vực) luận sư ở phương kia, trước có Long Mãnh, Đề-bà (Long Mãnh tức là Long Thọ, con nhà Phạm Chí ở Nam Ấn-độ, soạn luận Đại Trí Độ gồm mười muôn bài tụng, Đề-bà người xứ Nam Ấn-độ, tài vượt mọi người, trong nước có đúc tượng trời Đại Tự Tại bằng vàng cao hai trượng, dùng pha-lê làm mắt, đề-bà đục lấy, mộng thấy thần đòi mắt, bèn đưa tay móc mắt trả lại, bèn khuyết một mắt, xin xuất gia với Long Mãnh, sau bị ngoại đạo giết chết, Mã Minh là thầy của Hiếp tôn giả, vốn là ngoại đạo, vì vua Nguyệt Thị nói pháp, ngựa rơi lệ hý buồn, lại có thuyết nói lúc chào đời các con ngựa đều kêu hý nên đặt tên là Mã Minh) kế có Vô Trước, Thiên Thân (người Bắc Ấn-độ, ra đời khoảng sau Phật diệt độ chín trăm năm) Tăng Hiền, Thanh Biện (Tăng Hiền còn gọi là Chúng hiền, Thanh Biện soạn luận Chưởng Trân, dùng hạt cải đánh hang Tu-la, đợi Di-lặc ra đời mà hỏi nghĩa) gần đây thì có Trần-na, Hộ pháp, Pháp Xứng, Giới Hiền, Sư Tử Nguyệt, An Tuệ, Tuệ Hộ, Đức Quang (Giới hiền thì Pháp sư Huyền Trang thời Tiền Đường lúc đến Tây Vực còn gặp) không ai chẳng đầy đủ nội điển, ngoại điển, đại sĩ nói Mã Minh soạn ca từ Thái Tử Tô-đạt-noa (Thái Tử thích bố thí xả việc nam nữ, v.v...) và thơ bản hành (nói về việc Phật thành đạo, v.v... cùng Phật ở sở hành tán, nay đều ở trong tạng) Long Thọ đem đại thư gửi Bà-đa-bàhán-na nước Nam Ấn-độ, người ở xứ đó đều tụng vịnh (như văn tuyển của xứ này) lấy làm hoa mà điển, trong đó có Ma-đát-lý-chế-đà được Phật đã thọ ký trước rộng bày tán kinh. Mới đầu soạn bốn trăm bài tụng, tiếp theo soạn năm trăm bài tụng, Vô Trước và Thế Thân là những nhà tu từ ở Tây Vực, không ai chẳng khen ngợi cung kính, noi theo điều tốt đẹp (Luận ngữ chép: Toản (khoang đục) đó càng chắc, ngửa đó càng cao, tổ tập là noi theo thầy, là tổ tông, học tập) tại nước Thân-độc đó coi Bà-la-môn là trên hết, chẳng tính cùng ba chủng tộc (Bà-la-môn vốn là con cháu của Phạm Thiên, đức tôn vậy, Sát-đế-lợi chỉ là quý, nên đều chẳng bằng) vì thế có bốn sách Vi-đà, có tới mười muôn bài tụng (Một là A-do, Hán dịch là Phương Mạng, nghĩa là Y Phương, v.v... hai là Thù-dạ, nghĩa là Tế Tự, là sách vậy; ba là Bà-ma, nghĩa là lễ nghi mười tướng âm nhạc đấu pháp các sự, v.v... bốn là A-đạt-bà nghĩa là chú thuật, v.v... đều do Phạm Thiên nói ra, đều truyền trao bằng miệng, chẳng viết ra trên da, hay lá bối (bảy tuổi đến cầu thầy, miệng tụng học, học thành làm thầy của nước nhà) ở nước ấy tương truyền rằng: Có học pháp thông minh: Một gọi là phúc thẩm sinh trí (nghĩa là suy tìm đạo lý, xem xét nghĩa vị) hai là hiển bày tự mẫu (từ chữ sinh chữ, từ tiếng sinh tiếng) an thần ở trong tuần tháng suy tư như suối vọt, nếu không có pháp này thì không lấy gì để tụng các lời như khơi bắn, xưa kia Phật-đà-da-xá, Cầu-na-bạt-na là hạng người đó, mới đầu Da-xá đến đất Tần, sắp bày việc phiên dịch, người Tần thử đó, đem trao sai Tịch Dược Phương và các sách, nội trong ba ngày đọc tụng xong, Cầu-na đọc tụng hơn trăm muôn lời, các vị Tam Tạng pháp sư ở các nơi, ít có vị nào chẳng đến, tại Hoa Hạ (Trung Hoa) từ dòng họ Toại nhân ngửa trông đầu cực để định phương danh (Phục Hy là thuần độn của dân, chỉ biết mẹ, chẳng biết cha, chỉ biết che trước chẳng biết che sau, đói thì cầu ăn, no thì bỏ thừa, Thái Hạo hàng phục giáo hóa, nên gọi là Phục Hy ngước nhìn thiên văn, cúi xét địa lý dể nói về phương vật) Bào Hy dùng đó để hoạ bát quái, tạo thư khế đến như ba phần năm điển tám sách chín khâu, đều là sách vở để lại của người xưa (Ba phần là sách của Ba Hoàng, Năm Điển là sách của Năm Đế, tám sách là sách về tám quái, chín khâu là chí của chín châu) như chỗ đọc của sở ỷ thị (thời Sở Linh Vương, tả sử ỷ tướng năng đọc Ba Phần Năm Điển Tám sách Chín Khâu) đến lúc Trọng Ni san thi định lễ nhạc, tán dịch đạo, tu Xuân Thu, dựng lại phong tục đã đổ hoại (nhà Chu từ thời U Lệ, theo hướng đông dời về lạc ấp, chư hầu chuyên đánh nhau, lễ nhạc đổ nát. Lỗ Ai công mười một tuổi, phu tử từ đất Vệ về lại đất Lỗ, mười bốn năm gặp được Kỳ Lân, bèn sửa Xuân Thu, san Thi, định Lễ, chấn chỉnh phong tục đã đỗ nát, nên có sáu kinh (Xuân Thu, Lễ Ký, Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Nhạc Âm) nên Khổng Tử nói: Ôn nhu đôn hậu thi giáo (chẳng học thi không lấy gì để nói) sớ rộng biết xa là thư giáo (đạo của Chánh Vương nói) Quảng Bác dịch lương là nhạc giáo (tình của Hoà Dân, khiết tịnh tinh vi là dịch giáo (cùng lý tận tánh) cung kiệm trang kính là lễ giáo (an trên trị dân) thuộc từ tỷ sự là Xuân Thu giáo (chánh đạo của khen chê, sự loại gần nhau) Tả Thị Quốc Ngữ (Tả Thị Minh đem việc Xuân Thu chưa hết nghĩa đặt quốc ngữ để lấy lẫn nhau) Sử Ký của Mã Thiên (Tư Mã thiên bị tội giam trong nhà nuôi Tằm, nhân đó tu chỉnh Sử Ký cho đến thời Hán Võ gồm một trăm ba mươi quyển) từ thời Hán Ngụy về sau đều có thư chí (Ban cố có Tiền Hán Thư một trăm hai mươi quyển, Tư Mã Bưu có hậu Hán Thư tám mươi quyển, Trần Thọ có Tam Quốc Chí, v.v... sách vở các nước rất nhiều) gồm cả trăm họ đầy đủ nơi mục của Kim Mã Thạch Cừ (đều là phủ của sách Hán Tạng, lại gần đây, có kinh Tịch Chí, Tây Tề của họ Ngô, Đông Tề của họ Mẫu, đều thấy trong mục lục). Còn về khởi đầu của Văn Chương là Ca Ngu Tụng Ân, cho đến Chu Đức Hạ Suy thi nhân rất thạnh. Sau thi nhân thì Tao Tống Biến ở Phong Nhã (Tao là Khuất Nguyên, Tống là Tống Ngọc) đều là thi nhân của sáu nước. Cổ Mã Dương Ban dần biến ở Tao (Giả Nghị, Tư Mã Tương Như, Dương Hùng Bang Cố). Cho đến An Biến ở Giả Mã (thời Hán Hiến đế) Tấn Tống đã giáng, hàm thiều chẳng tiếp (Hàm thiều là nhạc của Nghiêu Thuấn) khoảng thời Tề Lương, văn vẻ nối nhau (Tỷ Ước, Lưu Hiệp, Nhậm Phưởng, Tạ An, v.v...) sáu thư của Phương này (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thành, chuyển chú, giả tá) định chỗ ra của văn tự, nên cùng Đại Triện thì chẳng mê lầm văn tự. Xứ kia có sáu thích (một là trì nghiệp, hai là y chủ, phân ra y sĩ, ba là tương vi, bốn là đái số, phân ra đồng y sĩ, năm là lân cận, sáu là hữu tài) nói về nhân của danh đề cho nên cùng tận thế ngữ, điển ngữ thì đối với danh đề hữu đắc (tất cả danh đề chân tục thế đế đều dùng sáu thích mà nhiếp, không gì chẳng biện nhận Tông chỉ ấy) ngoài Khương Tăng Hội, Chi Đạo Lâm, Trừng Thập, Ân, Viễn, học trò của La-thập có bốn vị thánh (Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ) đời Lương có Tăng Hựu, đời Chu có Đạo An, đời Tùy có Ngạn Tông, đầu thời Tiền Đường có Tịnh, Tuyên, Lâm, Khái (Tuệ Tịnh, Đạo Tuyên, Pháp Lâm, Minh Khái) không ai chẳng suốt rành bản giáo, hiểu thấu kinh sử, nghiên cùng từ bút, đều chuyên việc soạn thuật, rất mực khuôn phép, tiếp nối (đều là những vị cao tăng dịch kinh trong khoảng niên hiệu Trinh Quán) Lễ nói: Nghe rộng biết nhiều mà nhường đôn, khéo hành mà chẳng biếng lười, gọi là Tăng quân tử. Chi Độn chú giải Thiên tiêu Dao của Trang Tử, khách như Hy Huyền đề cao thấu đạt, Tuệ Tịnh soạn Anh Hoa Tập (thi tập) các bậc văn vẻ ngợi ca soi xét, do vậy bày chánh trời người, chiết trung sư luật, văn trường pháp uyển, đời nào rộng hay, từng có vị khách nghe nghĩa thật tướng của Viễn Công qua lại thời gian đổi đời, càng thêm vị nghi ngờ, Viễn Công bèn dẫn nghĩa của Trang Tư làm liên loại, mọi người lầm hoặc mới ngộ, từ sau thời của An Công, nghe Viễn Công chẳng phế bỏ sách thế tục, khoảng niên hiệu Nguyên Gia đời Tống (Văn đế) ngày Tỵ (mồng ba tháng ba) xa giá đến Khúc thủy, bảo Tuệ Quán cùng các sĩ triều phú thi, Tuệ Quán ngay chỗ ngồi dâng trước, khoảng niên hiệu Kiến Đức thời Chu, Trần Chu Hoằng Chánh đến sính hỏi mưu đàm sĩ, Đàm Diên đầu tiên ứng đó (thời Võ đế nhà Chu) đại giá đích thân đến thích điện, Đàm Diên ngồi tại chiếu ép nâng, người trần trải áo, cúi đầu bái nghe (trải bày khăn áo đảnh lễ mà nghe) nhân dàn bày thi thơ gồm mười bài Giản Diên, Đàm Diên dùng vận đó đáp hoà, như đã tụng rành từ trước, kia mới đắp vẽ tượng Đàm Diên đưa về Trần (Chu đóng đô ở Trường An, Trần đóng đô ở Kim Lăng) sớm tối hướng về phương Bắc kính lễ, gọi là Bồ-tát Đàm Diên, phàm ở đời lấy dung từ đức hạnh khó dùng cầu đầy đủ nhân, khó nói khuyết chân, có thể gọi là rành rành khó cùng làm nhân (nhưng dung của Tử Trương, từ của Tử Trách, đức hạnh của Nhan Hồi mỗi có khác) Linh Dụ lúc mới xuất gia, thầy bảo tụng kinh, tay cầm quyển mà nói trước rằng: Tôi đối với ba Tạng cho, đến Nho giáo, rất mong thông hiểu, không để du chí đó (du là biến đổi) từ đó học toả anh tài đương thời người đời gọi là Bồtát Linh Dụ, Lương Võ lúc lớn tuổi, ban chiếu bãi bỏ đạo pháp (Hoằng Minh Tập chép: Lương Võ lúc đầu sùng đạo, đến niên hiệu Thiên giám năm thứ hai bỏ đạo trở về Phật, có văn từ đầy đủ) xem thường cả Nho giáo, kia hoặc lo ngại người đắm sâu chẳng trở lại (bậc thánh khiến tập ngoại điển chỉ giúp biết đó, nhưng lo ngại thành rồi đắm mê đường tà) hoặc chánh mất cùng cực đó, số của sắp mất (nếu mất chánh thì mê lý). Hễ có ích đối với sinh dân, Đại thánh chưa hề vất bỏ (giáo của Nho đạo đều lợi ích cho người, vì vậy giáo tôi chẳng hẳn trừ bỏ). Nên trong kinh nói: chẳng hoại tục đế mà kiến lập chân đế, hai giáo kia là hành của Nhân Trí cũng là quả báo của người trời, như thanh hư ít muốn nhân hiếu trung tín, đều là hạnh của trời, người, chỉ báo trả ở trời người là bậc thềm để vào cửa đạo, sao hẳn bỏ mà khinh thường đó? Bậc thánh chẳng riêng tư ở mình, đâu vì mình chẳng muốn mà thí thiên hạ ư? (Chẳng thể vì mình chẳng muốn mà khiến thiên hạ đều vất bỏ). Nay trọng Danh giáo, kia còn không thân sơ, trọng Lễ nhạc kia còn không có vua tôi, trọng luật lịch kia còn mờ nóng lạnh, trọng hình pháp kia còn loạn di điển (di là thường, tức điển pháp), trọng khiêm nhường kia còn khuôn tiếm cạnh, trọng đạo đức kia còn chuộng phù ngụy, huống chi thêm đó khiến người hai giáo sau hỗn độn như chim thú (nếu người chẳng học tập hai giáo thì nào khác chim thú) mà muốn đem vô sinh để dạy răn ư? (Nho đạo còn mờ tối, huống chi bày cho chân lý). Hễ muốn đẹp xinh đen vàng trước phải sạch trắng, muốn hợp đạo đức trước trải qua nhân nghĩa, nên đại thánh lưu lại giáo pháp đã hai ngàn năm, mà người Trung quốc vì trước có hư vô nhân trí của Khổng Lão, mà sau biết giáo pháp Tinh Chân. Hồi hướng sùng phụng là nhà nhà như mặt trời giáo pháp. (Hiếu Kinh nói: Chẳng phải nhà đến mà mặt trời thấy đó). Người của bốn Di, chẳng phải chỗ kịp của hai giáo, đến nay còn chẳng thể trai giới huống chi thần thức có thể dạo chơi trong Tám giải ư? (Tám giải thoát quán, tên gọi như trong có quán ngoài không sắc, v.v...) Nên Thích giáo nhờ hai giáo làm tiên khu (dẫn trước), mà Lão giáo nói tự nhiên là tên gọi tương tợ chân như. Nói muôn vật tự nhiên, nghĩa là đạo của tự nhiên cùng muôn vật là một (muôn vật là sự pháp hữu vi, tự nhiên chân lý vô vi. Sự pháp muôn vật cùng chân lý vô vi chẳng tức chẳng lìa vậy), chẳng phải muôn vật chẳng do nhân duyên (chẳng nói muôn vật chẳng từ nhân duyên mà sinh) gọi đó là Tự nhiên. Nay các người nói chưa đạt (hạng người dị chấp) mới hủy nghĩa nhân duyên của nội giáo, vọng phát huy lý tự nhiên, đây là Vực đồng kiến với cùng ngoại đạo ở Tây (như ngoại đạo Tự nhiên nói: Ai gai nhọn khắc họa cầm thú, ai đào sông biển cùng dòng ngòi, bão gió chợt nổi dậy, trở lại tự định muôn pháp phải biết đều tự nhiên) đâu gọi là hai hóa của Ca-diếp ư? (Kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh chép: Lão Tử là do Ca-diếp hóa thành) mà ở môn Thù Tứ lấy nhân làm chí hạnh chẳng phải đạo đức thì hẳn trước ở nhân. Nên tuy do vậy có thể khiến trị phú của ngàn thừa (phú của chư hầu, có thể khiến Tử Lộ trị. Đỏ cũng có thể khiến Thúc Đái lập ở Triều (Công Tây Hoa có thể khiến làm quan Thông sứ lập triều cùng Tân khách nói). Sở Tử Văn không có sắc của Tam Tỵ (Sở Lịch Duẫn, họ Đấu, tên Cốc, tự Ô Thố, ba quan làm Lệnh Duẫn chẳng ưa thích, Tam Tỵ bỏ chức cũng chẳng giận. Chính của Lệnh Duẫn phải cáo với Lệnh Duẫn mới). Trần Văn Tử bỏ ngựa của mười thừa, tìm nhân xưng. (Trần Tu không, bấy giờ Thôi Trữ giết vua, Văn Tử bỏ bốn mươi con ngựa mà chạy ác). Chỗ Trọng Ni chẳng cùng (Khổng Tử đều nói: Chẳng biết nhân đó mà rõ Đạo nhân đó là khó). Kia nhân vậy là chung cả trăm hạnh, hiệp ở một đức (đức của chuyên một) chưa có chẳng lý do. Nhân mà rộng lớn. Tại năm xứ Ấnđộ gọi là Bồ-tát, ở chín châu gọi là người nhân. Bởi người năng từ tuệ, từ tuệ năng nhân, Bồ-tát là cực hạnh của hành nhân. Quân tử dần được môn đó. Nếu Lương Võ chẳng do hai giáo, đâu được làm quân tử Nho mà đến nơi Đại phương ư? (Phương là đạo, nếu nói Lương Võ chấp cục, thì đâu được gọi là quân tử Nho mà đến với Đại đạo?) Nay vì người luận hẳn bày thế của Tôn Ngô (Tôn Võ Ngô khởi đều là tướng tốt của sáu nước, đều có trước thuật Binh thư khéo giỏi đánh trận. Nay luận nghĩa là cùng địch leng keng, như thế đánh của Tôn Ngô). Người học giới hẳn dốc tiết của Nhan Liễu (Nhan Thúc Tử ở một mình, có thiếu nữ đang đêm mưa gió phòng sụp đổ tìm đến ngủ nhờ. Thúc Tử chống cự chẳng thôi, ra khỏi phòng khiến đó vào nhà. Liễu Hạ Tuệ họ Triển tên Ly, Thực ấp Liễu Hạ thụy là huệ, đêm lạnh vợ chẳng kịp Quốc môn, Liễu Hạ Tuệ đem áo che đắp, đến sáng mà đi, chẳng phạm lỗi hạnh của nam nữ chẳng hành). Hạng nương thiền hẳn mộ cao của Sào Do (Hứa Do Sào Phụ đều là cao sĩ đời vua Nghiêu, Nghiêu sắp thiền vị, ghét đó mà rửa tai ở ẩn, chẳng ra làm quan). Hạng duy trì thì nghĩ biến của Tề Lỗ. (Hạng gìn giữ giềng mối hẳn phải đổi thay giúp dẫn, như Tề một biến đến Lỗ, Lỗ một biến đến Đạo) nên trì ngoại giáo để cặp dụ, trông nội pháp để khơi chí, cũng ác có hại (ác là sao, mới đầu dùng ngoại giáo dẫn dắt, sau dùng nội giáo chỉ dạy cũng nào có hại). Leo cây là tranh cao, đào suối là tranh sâu. Chẳng có nhu trước sao làm dũng sau, chỉ họ Lương tuy rất tin, mà chẳng xét còn mất khi xưa, thức hằng sự đó (thức là dùng) chợt muốn đổi vật theo đạo để cùng tánh của vật, chẳng vui đông dã rốt cùng, ngự mà kết cục ở an lành (Nhan Hồi thấy Đông Dã cuối xe biết đó sẽ bại, vì ngựa đó chưa điều tốt, đã cưỡi thì quả nhiên xe hư mà ngựa tổn thương). Thường đọc văn dứt rượu thịt, từ quá hơn Phật, khinh thân vay pháp, việc hơn Đế vương (ba lần xả thân vào chùa, làm tôi tới cho chúng, bề tôi lo đủ trăm muôn tiền xin chuộc đó ở chúng tăng, im lặng mới trở về, tuy cúi mình làm tòa ngồi cũng chưa hơn đây, đâu chắc như vậy!) Vả lại ban bảo ở Lỗ gấm lụa chẳng được có hình của cầm thú, mà ghét cắt rọc, khởi ý giết hại tổn thương, (sợ thương tổn Đạo Nhân thứ). Đây tuy được phương thuật của Dưỡng Hổ, mà cũng dè răn người có tâm giết hại (Mục Chánh Lượng ở thời Chu Tuyên Vương khéo nuôi dưỡng Hổ, lấy sinh vật của chẳng cho làm nhân giết đó mà tức giận, chẳng lấy toàn vật cho đó làm nát hoại mà tức giận. Đói no theo giờ, đạt tâm tha thứ đó chẳng nghịch ý đó, chẳng khiến nó mừng, mừng lại chắc chắn tức giận, tuy muốn dứt tâm giết hại mà vụt sinh niệm giết đó. The lụa vốn không có tướng giết, nay gượng khởi ý nghĩ giết, đây là từ không bày có, cũng là nghĩa dạy người có tâm giết hại). Tông miếu giao tế, dùng bún làm hy sinh, chẳng làm thì chẳng làm, sao lừa dối cha ông ư? Mà đều có mắc trái đó (lấy bún làm thịt thì thành lừa dối, chẳng làm thì lại mắc lỗi với cha ông). Ông do truy mà tiếp nối, chẳng xét gian si, thức bày khoe ngạo, đề trên khiếu đường Tố phủ, đặc biệt chẳng biết là dụ dịch đến cướp (nay có người tự đắm mặc nâu sồng đến hiển vinh, chẳng biện rành thiện ác, rỗng buông tuồng ngạo nghễ, mà lại gồm lấy việc của tổn bỏ Thượng giáo, đề rối ren trên tường vách vải chắn, có thể gọi là tự chuốc đến Bàn Cật (xưa, vào thời nhà Chu, Đạo An soạn luận Nhị Giáo, đời Tùy, Ngạn Tông soạn Luận Thông Cực. Buông tuồng tâm mắt, ra vào huyền áo, giả lập khách chủ, trước bày nạn ấy, sau mới giải thích. Đem thám trách dị đảng, chanh gai đường tà, làm pháp liệu thản (trước giả lập Dị tông, cật nạn bản giáo, sau mới trả lời, dự bị chỗ thấy của Dị Tông). Nhưng ở đời sau, Lý Trọng Khanh, v.v... được xuyên lủng đó làm trộm, ẩn chỗ thông đó, diễn chỗ khó đó, để chế luận mười dị, chín mê, v.v... dối lừa chỗ kia chẳng biết đó (đều là hạng người tà kiến ở thời Tiền Đường, dùng sự học hỏi cạn cợt lừa dối, chẳng thấy luận của Đạo An, Ngạn Tông vậy). Tế Hủy từ đó, há chẳng phải hai kẻ mưu thuần mà lại gặm cắn (đều do hai ông soạn luận phòng ngại nhỏ nhiệm, lại gặp trộm đồ để kích nhau), đem an mà mua nguy, chỉ luận đây chưa xong. Tà nạn chưa dứt, phàm các bậc tiên vương dùng cân đấu bỏ trộm, mà người lấy đó ở trộm (đặt kiếm là ngầm vì giết giặc, nay giặc lại được lấy dùng) dùng binh khí để dứt giết hại, mà người lấy đó ở giết hại, nên chỗ phòng ngại vượt nhiều, chỗ vốn vượt xa. Ôi, khó thay! Nhưng giữ Bản giáo là chất phác thì có thừa, người gồm Dị học đua tranh thì có thừa, chẳng phải quân tử chẳng dùng nghiêm cẩn cùng cực (nếu giữ Bản tông, có thể tự chất phác, nhân tập học Dị tông, bèn nhiều cạnh tranh, như gồm cả Dị tông ngoại học mà khiêm cẩn, thì đáng gọi là Tăng quân tử), nên các bậc Hiền triết nói: Học đó ở thân, như Nhĩ như Nhạc, phàm nhĩ (bánh bột) dùng giấm thịt muối mai. Tề mà khiến hòa. Tế mà chẳng kịp, tiết lộ lỗi đó, mà sau hưởng đó. Năm tạng trung bình (tế là thêm, tiết là bớt, đây là Tề Hầu cùng Lương Khâu chiếm cứ Đài Yến Thuyên. Yến Tử đối từ của Tề Hầu. Tả Truyện thứ hai mươi bốn văn có khác chút ít). Nhạc dùng kim thạch ty trúc vận đó khiến hài hòa (kim là chuông, thạch là khánh, ty là cầm sắt, trúc là tiêu, bầu là sinh tranh, thổ là viên, cánh là trống, mộc là chỉ ngữ gọi là tám âm), tiết sắp thừa sót, bắn chỗ dân đó (sau của năm tiếng, chẳng cho phép đàn, thì có nhiều tay tiếng dâm, nên bắn tiết đó) mà sau nghe điều đó là Năm khí chánh (khí của năm hành). Nếu chuyên ở một vị một âm, thì ở vậy sao lấy. Xưa kia Tuệ Viễn soạn luận Sa-môn bất kính, chỉ muốn nêu lý mình mà chẳng hủy Nho đạo. Người đến ở nay nhân ban cho đó. Thời nhà Chu, Đạo An soạn luận Nhị Giáo, quên công chỉ lỗi, lời phát tâm đấu. Vũ văn thị lén nhìn, được đâm Hổ của Biện Trang Tử (xưa, Biện Trang Tử thấy hai con Hổ đấu nhau vì giành ăn. Sắp chết, người nhà can xin để xem nó đấu. Lớn thì sẽ bị thương, nhỏ thì sẽ chết, sau đâm đó có thể một phát mà được cả hai. Quả nhiên đúng vậy. Nay Đạo An cùng ngoại tông hủy nhau đều cùng cực dấu vết đó, Chu Võ được mà lén nhìn và dùng mưu đó), nhưng Đế Ung cậy oai (Ung là tên của Chu Võ. Đế lên ngôi vào niên hiệu Võ Thành năm thứ ba, đến niên hiệu Kiến Đức năm thứ hai thì phế hủy Phật giáo, Đạo giáo, đến niên hiệu Đại Thành năm thứ nhất thì băng. Hủy diệt từ năm Quý Tỵ đến năm Mậu Tuất), chẳng tin chẳng lắm ở Hoàn Huyền. Mà hoàn thì phục, Chu thì chống cự (Hoàn Huyền sắp khiến Tăng bái và sa thải trừ bỏ, Viễn Công dâng thư mới ngưng, lại soạn luận bất bái). Há chẳng vì tài thức sâu cạn mà có thể biết. Chỉ thời có kẻ chẳng học, tâm trí mù điếc, cậy ngu bạc đó như heo như dê, rất ngang trái chạy theo. Xem nơi trí nghề, lớn mặt mà cười đó, cho là dính mắc văn tự, sánh quá núi Đại, chưa nói là nặng (đó là hạng bình thường ngu tối cạn cợt như heo như dê, vụt lấy tập học văn tự làm quá hơn núi non). Các bậc Tiên thánh cho là Tăng bầy dê, chẳng quá lắm ư? (Kinh luật gọi là Tăng dê câm). Lại có kẻ cuồng quyến, vất bỏ Bản giáo, tạm xem phần tố, dạo diễn bên trong khi thường, như heo dính sình, sạch sẽ thì kỵ (cuồng quyến là dạo rảo mà chẳng trúng. Họ có từ Thân mến Đạo, cắt ái làm tăng, mà chẳng biết tự gắng tiến tu, toàn vất bỏ giáo điển, chuyên tâm tập học bên ngoài, ngâm vịnh phong tao, mà đối với bản giáo lại sinh khinh thường. Nên các bậc cao đức thấy vậy kỵ như vật dơ, cái gọi là cô phụ các bậc Tiên thánh, không ích lợi cho đàn việt sắp đọa ba đường ác, tự chuốc lỗi ấy). Như các vị Tuệ Lâm, Tuệ Hưu đời Tống, (hai vị ấy đều là Thi Tăng ở Giang Biểu, đối với Đạo Đức thì không có. Tuệ Lâm từ học chóng nổi trội, làm chỗ thưởng thức của Thái Tổ (Thái Tổ là Lưu Dụ), thường lên ngồi một mình trên giường, Nhan Diên rất ghét tài đó, thán trách chẳng bằng lòng đó rằng: Đây là tòa của Tam đài, đâu thể khiến hạng hình thừa ở đó ư? Tuệ Lâm biếng lười khinh mạn, tự cho là hiền nhân. Thầy của Tuệ Lâm là Đạo Uyên là người có học hạnh, vua Văn Đế rất quý trọng, thường đến nhà Phó Lượng, Tuệ Lâm đang ngồi đó, Đạo Uyên đến mà chẳng đứng dậy kính lễ, Đạo Uyên đổi sắc mặt tức giận. Phó Lượng đánh Tuệ Lâm hai mươi roi. Sau soạn luận Hắc Bạch, so sánh sáu Độ và năm giáo đều thực hành, tin thuận và từ bi đều lập, trong đó tự có nhiều thương hủy. Hà Thừa Thiên cho rằng Tỳ-kheo Tuệ Lâm chóng sinh thấy lạ. Nhan Diên cho đó ở trong nhà mà dò xét đó khuyết lại làm trộm hại đạo pháp, làm sao đất có thể dung ư? Về sau phạm tội tại Giao Châu, tức giận mà chết. Nhưng Phó Công đó là phạt quân tử ư? Chẳng vì mình mến vui bạn đảng quá mà mất hình luật, thật là giáo của Trúc vật. Tiểu nhân thì không như vậy, cùng bề tôi đó mà trái ngược vua, khen ty tiện đó mà xem thường tôn quý. Vả lại, vui chỗ lợi của mình mà lại quên xấu xa lớn. Tuệ Lâm làm văn, danh trùm các vị thượng tài, mê đắm tửu sắc mà không nghi pháp (ở Thục có Sa-môn Khả Bằng cũng vậy, chết ở Nghịch Lữ mà thây bỏ nơi đồng hoang). Hiếu Võ vì hạnh ô uế Sa-môn bèn ban chiếu buộc hoàn tục, bổ nhậm làm Dương Châu văn học, theo việc mắc hoạn mà bất đắc chí, cuối cùng ở cú dung lệnh. Có Sa-môn Minh Giải, Thiên thập lầm thư đan thanh cho là tuyệt nghệ, thấy người hậu học mang cặp mà gọi là lừa con. Khoảng niên hiệu Hiển Khánh (đời vua Cao Tông thời Tiền Đường) chùa Tây Minh hoàn thành, ban chiếu khiến Linh Nhuận chọn người có đức hạnh ở đó. Các Quan liêu đề cử Minh Giải. Nhuận Công bảo: Công, v.v... là Quốc khí, Danh thần mở lời chẳng dễ thích nghi tâm, giới định tuệ học tăng trưởng ruộng phước, đâu chấp nhận nêu hạng họa sư rượu thịt để đáng Hồng Ký? Minh Giảng nghe vậy rất lấy làm oán hận, Vua ban chiếu trưng bày bốn khoa chẳng kể tăng tục, bèn ứng thí đỗ đạt, mừng vui nói: Nay được bỏ da lừa. Sau làm quan không thành, đói lạnh bị bệnh sắp chết, thấy mười người dị hình cầm đuốc cháy đỏ mà rước, là điềm chẳng lành. Nên lượng của tiểu nhân có nghề của quân tử, chưa hề chẳng điên lật bại nhục, thật trời ban cho chẳng lành. Đó như voi cuồng đốt đuôi (lấy bó lau buộc ở đuôi ngựa mà đốt, khiến nó chạy đạp kẻ địch, gọi là toại tượng) giận gà giúp cánh (Quý Hậu ở gần chỗ đá gà, họ Quý dùng vàng tháp giúp cánh ga, họ Hậu dùng vàng làm khoảng cách hai nhà, nhân đó đánh nhau đến loạn lạc) chỉ thêm hại đó. Nên Dịch nói: Phụ lại cưỡi khiến cướp đến (Dịch giải quẻ sáu mươi ba hào từ, nói ở chẳng phải vị đó, giẫm chẳng phải chánh đó, cưỡi hai vác bốn để dung thân là giặc cướp đến, chỗ tự mình khiến nên). Nói tiểu nhân chẳng đáng có trộm nghĩ đoạt đó, chẳng phải riêng tài nghệ do đó, nhưng mạo cũng chưa từng chẳng vậy (chẳng phải tài đó mà có nghề đó là vì điên đảo, chẳng phải tài đó mà có mạo đó, cũng khiến điên đảo) nên Dương Hóa tượng Khổng Tử (bề tôi ở nhà họ Quý tại đất Lỗ tên là Dương Hóa dáng mạo tợ Khổng Tử mà hại họ Quý, vì làm loạn chạy ra khỏi đất Lỗ nên Khổng Tử từng đến Khuông, bị Khuông vây bắt, lầm nhận là Dương Hổ, vì Dương Hổ từng hung bạo đối với Khuông). Hạng Tịch như Đế Thuấn (Hạng Vũ. Thuấn mắt có hai con ngươi, Hạng Vũ mắt cũng có hai con ngươi) đều là văn độc trạng hổ, mà cuối cùng tàn mới thọ. Nay vì Thích mà chẳng dùng Đạo, chỉ dùng Nho học mà nghe kia, bởi cắt tóc một người tục, đó có thể khiến được trọn lâu dài ư? (Gần đây có vị thi tăng ở núi Vân Đảnh tên là Chiêu Phù khinh Phật hủy người, lao đầu xuống sông mà chết, ở Đông Xuyên có Sở Loan tự thắt cổ mà chết, Bình Ưng chết nơi nhà khách, Lãnh Nhiên bày đói đỏ đất mà chết. Quy Phù suốt năm ung nhọt, đều là những kẻ khinh mạn) xưa kia ở đời Tấn, Đạo Bảo sắp cạo tóc làm thơ rằng: "Mới biết nước muôn dặm, phát từ nguồn Lạm Thương". Thật là ý đạo chợt nhiên. Các hàng thức giả cảm lời đó mà khuyên tiến, đó là làm Văn Phu Đạo, Huề làm y, Đào Thổ làm khí (Đạo huề là ca sa, Đào thổ là bình bát). Khiến người mặc mà giữ gìn. Điềm nhiên vô vi, sau đó lấy kinh luật làm dây mực, lấy văn chương làm nhuận sắc, đó năng chẳng nghĩ dung phục mà thần phước gì ư? Thi nói: Duy Đề ở Lương, chẳng ướt cánh nó, kia con của nó, chẳng xứng y phục đó (Đề là chim Ô trạch, Lương là ngư Lương, nay chim trạch ở Lương mà ướt cánh nó là chưa nghe việc đó. Đây là Thi Bản Thứ Tào Cộng Khéo dùng tiểu nhân lên tước vị đó, chỉ sạch y phục đó vui chơi mà thôi, không có tâm trị nước, như Đề Ô ở tại Lương. Nay Thích Tử chẳng có tăng hạnh mà ở trong ruộng tăng cũng vậy). Tôi từng thấy các người xuất gia là đọc sách làm văn, chỉ biết tục tình mà chẳng biết gì ngoài khác, đến lúc mắc bệnh thở gằn, lệ tràn hoen my, oán lầm ngày trước, chừng đó tuy hối tiếc mà có thể đuổi kịp chăng? Thương thay! (Ở đất trải vàng, nhận ăn của Đàn việt, mặc áo của tín thí, mê đắm Phần Tố, chẳng việc tiến tu, tự cậy tài rộng, khinh thường hiền thiện, miệt thị bản giáo, lấy làm bỏ vật. Đây là Tỳ-kheo tặc trú, một mai gió đuốc thổi đến, có thể chẳng bận rộn chăng?) Nhưng có ôm khí Lâm
Lang, rọi dáng voi rồng, núi cao bụi trần đã rộng lại sáng, dốc chí ham học, mở sách tìm cầu những điều chưa nghe, chuyên thấm đượm tốt lành để sùng đức đó. Còn như quán sát Di Thúc nhường nước, được lòng nhân đó. Làng gọi là hơn mẹ, Tăng Tử không vào, được tâm hiếu đó (Tăng Sâm là người chí hiếu, hạnh thứ có hơn mẹ làng, Tăng Sâm ghét danh đó mà chẳng vào). Liễu Hạ Tuệ viện ở một mình được lòng trinh đó, Nhan Thúc Tử từ người nữ ở gần, được cẩn thận đó. Tôn Thúc Ngao tước càng cao, thân càng thấp hèn (thân làm Sở lệnh Duẫn mà thường khiêm nhường hạ mình), được phòng ác đó. Chánh Khảo Phụ ba lần bảo trốn tường (Chánh Khảo Phụ là Tổ của Trọng Ni, Tống Quân bảo một lần mà cúi, kế bảo mà khom lưng, bảo lần thứ ba leo tường mà chạy), Mạnh Chi trở lại chẳng đánh được nhường đó (Mạnh Chi tức Trắc, Lỗ và Tề đánh nhau, Lỗ bại, Mạnh Chi trở lại chạy mà điện sắp vào cửa nước, người trong nước nêu công đó, đánh ngựa đó bảo: Chẳng phải dám sau, ngựa chẳng tiến tới, chẳng muốn lấy công đó, nên nói được nhường đó). Liệt Ngự Khấu chẳng nhận thóc của Trịnh Tử Dương, được biết khó khăn (Liệt Ngự Khấu người đất Trịnh, nhà nghèo, có vị khách nói với Trịnh Tử Dương. Trịnh Tử Dương đưa thóc cấp cho, Liệt Tử kính bái mà chẳng nhận, người vợ thấy vậy vỗ tim bảo: Thiếp nghe vợ con của người có đạo đều được an vui, nay bị khó khổ đói khát, vua ban cho, tại sao tiên sinh không nhận?-Đáp: Vua chẳng tự biết, vì có người nói mới cho tôi, là tội của tôi. Về sau, quả nhiên Tử Dương gặp khó khăn) Viên Tinh Mục ói nhả thức ăn của Hồ Khâu Phụ, được ghét ác đó (Viên Tinh Mục đi xin ăn đến Hồ Khâu Phụ, Khâu Phụ chẳng dùng chén mà cho thức ăn. Tinh Mục ăn xong, hỏi: Ông là ai?-Đáp: Tôi là Khâu, người của Hồ Phụ. Hỏi: ngươi có phải trộm không? Bèn ói ra mà chết. Người của Hồ Khâu là trộm, ghét đồ bất nghĩa đó). Tạ An mừng giận chẳng lộ ra sắc mặt, được lượng đó (Tạ An, tự là An Thạch, làm tướng của Hiếu Võ Đế thời Đông Tấn, Phù Kiên dẫn trăm vạn chúng đánh Tấn, Tạ An cũng không sợ, Đến lúc Tạ Huyền, v.v... phá được đó, Tạ An cũng chẳng mừng vui. Thật đáng biết lượng). Vương Kính Chi từ Võ ở nhà cháy, được xem xét đó vậy (Võ, Bộ, Vương Nguyên Độ tự là Tử Kính, con của Tấn Hữu Quân, nhà đó bị cháy, Tử Kính áo mão thông dong mà đi ra). Đái Quỳ chẳng trống đàn nơi nhà Vương, được thanh cảnh đó (Đái Quỳ và Đái Ngung là hai anh em đều giỏi đánh đàn, cả hai đi dạo đến nhà họ Vương, có mời Đái Ngung trổi trống đàn, Đái Ngung liền nổi trống, mời tới Đái Quỳ, Đái Quỳ bảo người Sứ rằng: Chỗ trống đàn của Quỳ tôi chẳng phải là lệnh nhân của nhà họ Vương, bèn đạp nát đàn trước mặt người sứ, tức sự hơn kém của hai Đái có thể biết). Họ năng châm chước một tốt lành ở tự thân để tỏa sáng ở cốt mục nát, huống chi gần đó ư? (Quân tử chóng mất nơi đời mà danh chẳng xưng, học như chẳng kịp còn sợ mất). Khổng Tử nói với Lỗ Ai Công rằng: Người có năm hạng, có người dung có người sĩ, có người quân tử, có người Hiền, có người Thánh. Người dung là tâm chẳng làm khuôn phép cẩn thận lúc sắp qua đời, miệng chẳng nhả lời cách huấn (cách là pháp, Tả Truyện nói: Tâm chẳng là nghĩa đức, thì kinh gọi là Ngu, miệng chẳng nói lời trung tín gọi ồn ào, chẳng chọn hiền, chẳng gá thân, chẳng lực hành để định chí, thấy nhỏ tới lớn mà chẳng biết mục đích, theo vật như dòng, mà chẳng biết chỗ chấp đó. Đây là người dung, người sĩ là tâm có chỗ định, tính có chỗ giữ, tuy chẳng năng tận đạo thuật, hẳn có suất (suất là thuật, là theo), tuy chẳng tốt lành khắp trăm thiện nhưng hẳn có xứ, cho nên trí chẳng chuyên nhưng nhiều hẳn xét chỗ biết đó, lời chẳng chuyên nhiều, hẳn xét chỗ gọi là, hành chẳng chuyên nhiều nhưng hẳn xét chỗ do đó. Trí đã biết, lời đã nói, hành đã do, thì như tánh mạng, hình hài chẳng thể thay đổi. Giàu sang chẳng đủ để ích lợi, nghèo hèn chẳng đủ để tổn hại, đây là người sĩ. Người quân tử là nói hẳn trung tín mà tâm chẳng vọng (không có tâm dối vọng). Nhân nghĩa ở thân mà sắc không đánh (không tự kiêu), tư lự thông minh mà từ chẳng chuyên, dốc hành tin đạo mà tự cố gắng chẳng nghỉ, dầu đèn như sắp có thể vượt mà chẳng bao giờ kịp. Đây là người quân tử. (Dầu đốt là dáng chẳng tiến, Việt là vượt qua, quân tử tuy năng làm đáng quý, đáng tin dùng mà chẳng thể khiến cho quý mình, tin mình, dùng mình. Vì vậy, xấu hổ chẳng tin, chẳng xấu hổ chẳng thấy tin, xấu hổ chẳng hay, chẳng xấu hổ chẳng thấy dùng, chẳng dụ ở ngợi khen chẳng oán phỉ báng, dẫn đạo mà hành). Người hiền là, đức chẳng vượt qua nhàn (nhàn là pháp). Hành trúng dây thước, nói đủ pháp với thiên hạ mà chẳng thương tổn ở thân, đạo đủ giáo hóa trăm họ mà chẳng thương tổn ở gốc (nói khắp thiên hạ mà không lỗi miệng, hành khắp thiên hạ mà không oán ác), giàu thì thiên hạ không uyển tài (ngắn dài kinh gọi là uyển tài uyển tích, nay có nương oán thiên hạ mà không oán ác, gọi là dùng nghĩa được). Thí thì thiên hạ chẳng bệnh nghèo (bệnh là hoạn), đây là người Hiền, Bậc Thánh là đức hợp trời đất, biến chung vô phương, cùng thỉ chung của muôn sự, hợp tự nhiên của thứ phẩm, bày Đại đạo đó mà bèn thành tình tánh, sáng đồng trời trăng, hóa hành như thần. Hạ dân chẳng biết đức, trông thấy chẳng gần (trăm họ dùng thường ngày mà chẳng biết). Đây là bậc Thánh. Công nói: Lành thay! Ông chẳng phải là hiền thì quả nhân tôi chẳng nghe lời này. Nay năm hạng người này làm Tăng của năm nghi, thật ra đều chẳng trái gốc. Nếu khiến cắt rọc Tôn ty đó, mài gọt tình tháo đó, bỏ đây lấy kia, đổi người dùng làm Sĩ Quân Tử, đổi Sĩ Quân Tử làm Hiền thánh, thì Tăng của thiên hạ đều là Cao tăng. Nên tượng của đẽo đá khắc cây khuôn vàng. Đá thì đá, cây thì cây, vàng thì vàng. Chẳng phải biến hóa thì chẳng thể đổi gốc thái đó, mà người có sinh mà biết, có học mà biết. Chỉ có biết thì chẳng khó ở chuyển đổi (đổi dung thành trí, đổi phàm thành thánh), chỗ khó đó là do chẳng biết. Ở đời cho rằng Bàn-đặc chẳng học mà chẳng gọi đó là vô đạo
(bình sinh chỉ tụng nửa bài kệ mà đắc quả Thánh. Kệ tụng là: Giữ miệng nhiếp ý thân chớ phạm, hành như thế là được độ). Thiện Tinh học rộng mà chẳng gọi là lập một đức (Tỳ-kheo Thiện Tinh vốn họ Thích, thông minh dối làm quỷ Bạc-câu-la để dọa cho Phật sợ hãi mà đọa vào địa ngục) ấy là chẳng đạt. Bàn-đặc là bậc Thánh, Thiện Tinh là người dung, Bàn-đặc chẳng học mà sinh biết, Thiện Tinh tuy học mà chẳng biết. Nếu khiến Bànđặc không sinh biết thì chẳng phải thánh, Thiện Tinh có học biết thì chuyển thiện. Sinh ra đã biết, thì ngàn năm không có một người, học mà biết thì đầy khắp thiên hạ. Nếu lấy một của ngàn năm nói phế bỏ ở thiên hạ là, chẳng phải chí của bậc Thánh, huống chi học để giúp sinh ra đã biết. Nếu vàng đó có lệ (lệ là mài, tánh vàng tuy bén mà nhờ ở mài). Thuyền đó có tiếp (tiếp là mái chèo, Thượng Thư nói: Như Tế xuyên dùng ngươi làm thuyền chèo) chỉ lợi và nhanh, vật chẳng thể thêm. Xưa, Trọng Ni nói: Quân tử chẳng thể chẳng học, Tử Lộ nói:
Ở Nam Sơn có loại trúc chẳng mềm mà tự thẳng, chặt mà dùng bắn, thấu nơi da tê, lấy đó mà nói học để làm gì? Khổng Tử bảo: Buộc mà vẫy, bịt mà gắng, nó vào há chẳng càng sâu ư? (Nhân bịt vẫy mà càng sâu). Tử Lộ kính bái nói: Nên cây do dây mà thẳng, đất tự nước mà bằng. Vua dùng người vật, chưa có ai chẳng học mà tự đạt đến kỳ công biết đạo. Người chẳng học, đó giống như bức tường (không thấy gì), người học rộng chẳng ra khỏi cửa mà biết khắp thiên hạ, mới đầu tôi nghe nói, tâm còn ở thân xem thường đó, đối với chỗ không học thật như che mắt, với chỗ biết xa thật chẳng do chân. Nên vực của có sinh (vực là sườn bờ) quý ở có học đã học, quý ở biết và đã biết, thì kính mến soi chiếu rộng của Đại giác, thành có ngày của biết khắp, nên ngày qua tháng lại còn sợ mất, Phật đà khẳng khái, trọng thư dưới màn, tiếc thời gian bóng chẳng trở lại (Huân Trọng Thư đọc sách ba năm dưới trướng, chẳng nhìn vườn rau, Phật-đà như trên đã chú thích). Xưa kia, Hoàng Bá (là Tướng đời Hán) cùng Hạ Hầu Thắng đồng ở dưới ngục. Bá muốn theo Thắng học kinh, Thắng từ chối vì bị tội sắp chết. Bá nói: Sáng nghe đạo, tối chết cũng thỏa mãn. Thắng gọi là Hiền bởi lời nói đó, bèn nhận đó lại đổi thay, giảng đọc chẳng biếng lười (Hán Chiêu Đế sắp bàn nghị lập miếu Võ Đế làm Thế Tông. Thắng tấu Võ Đế xa xỉ giết hại chẳng nên lập miếu, bèn bị tội hủy báng Tiên vương, cùng Hoàng Bá đồng bị bắt, Bá bèn cầu theo học. Được tha đều khỏi). Thường Đề cầu pháp với Pháp Dõng, (Bồ-tát Thường Đề nói ở kinh Bátnhã) dùng hài cốt đặt hương hoa, gồm đợi ở cửa cung, suốt bảy năm, có chỗ nghe khác. Ở tôi thì ít chí, thật học mà biết, chẳng đủ giáo biết. Khốn đó nơm nớp khẩn cần thẹn luống qua đời nay (từ đây trở xuống, là Bắc Sơn tự thuật). Có soạn Họ Thị niên chí, Biên niên tự sự chuyên thành rừng chầm (Niên Chí ba mươi quyển, lại soạn Pháp Hoa Huyền Tiên mười quyển, Nhị Chúng Sơ Học Nghi Luật Tân Sớ Yếu Quyết, mười quyển, Thức Tâm Trừng Quán Câu-xá v.v... luận sao tất cả hơn trăm quyển). Lời của một nhà Bỉ dã, Kinh Bộ ấp khấu loạn mà mất. Bỉ vì học không thầy cố định, bèn hiểu rõ chỉ thú của ba giáo tham huyền, chọn lọc mà ghi chép, đến tuổi già thần nhọc, chẳng cùng tận chỗ chí muốn mà có bảo với chúng tôi rằng: Trời trăng đã qua, già suy đã đến. Cái thích văn tự ư? (Cái là sao chẳng, thích là buông bỏ), tôi hoãn nhĩ mà cười (hoãn nhĩ là dáng cười) nói: Điều ấy tôi chẳng biết. Nay tôi tự muốn thật nghĩa của phục tinh, đâu từng tính lợi mà tiến, độ xỉ mà phế ư (xỉ là tuổi). Bỏ học mà thần rỗng, thì khéo có sự bổ ích, chẳng thì nghe lời ồn náo, không như tụng lời làm ưu (Thính ngôn là lời trần tục, nhọc làm huyên náo. Tụng ngôn là lời của Điển nhã, nghe nơi kinh tế, ưu là thắng). Nhưng Pháp Hoa thật gần gũi (kinh Pháp Hoa chẳng chấp nhận gần gũi văn bút thế tục, chữ nghĩa ngoại đạo), Hoa Nghiêm trách người học rộng, vì sợ phong chỗ ưa thích (phong là dính mắc). Kín bày ngăn ngại đó gọi là chẳng vậy: Là đồng tử Thiện Tài kia trải qua một trăm mười thành quách làm gì.
(Nói về Phật giáo đối với ngoại tông có người tin, có người chẳng tin)
Phía Tây của Đại Hoang (Vương Kỳ của Thiên tử cách năm trăm dặm là Điện phục, năm trăm dặm nữa là Hầu phục, năm trăm dặm nữa là Hoản phục, năm trăm dặm nữa là Yếu phục, năm trăm dặm nữa là Hoang phục. Hoang phục cách chốn kinh đô hai ngàn năm trăm dặm, ngay chỉ ngoài Đại hoang, cảnh vực ở cực Tây), Thân-độc khác phong (tức phong hóa của trời Tây, có khác với Trung hoa). Lúc đầu thời Thái cổ, chí Thánh chưa sinh (cái gọi là Như lai) có tiên ngoại đạo, làm đầu Tông giáo ở đời, thì Tăng-già vệ thế (thời đầu có ngoại đạo Tăng-già lập nghĩa hai mươi lăm đế, ngoại đạo Vệ Thế nói sáu cú nghĩa, v.v...) khoảng giữa thì Lục sư (một là Bất-lan Ca-diếp, hai là A-di-mãn, ba là Cù-da-lũ, bốn là Ba-hưu-ky, năm là Tiên-tỷ-lô trì, sáu là Ni-kiền-tử), về sau thì có đến chín mươi lăm thứ (tức là ngoại đạo Uẩn lìa Uẩn chấp ngã v. v…), trông cao núi chầm, mưu kinh địch của ta, sắp nguy hại chánh pháp, tiến thực Huyền lư, xâm lấn cảnh chân, chặt phá cầu thuyền, tuy giúp đó nhiều, chẳng bằng tôi ít. Vì vậy, Xá-lợi-phất một nêu nhọc độ sai hết ốm (đàn là hết, tức ngoại đạo Thắng Luận, vì Tiên này thân hình xấu xí nên ban đêm ra ngoài khất thực, gọi là Hưu Lưu, vì Ngũ Đảnh Tử lập sáu cú nghĩa, sau hóa thành đá, bị Bồ-tát Trần Na phá, một tiếng gầm mà đá nát vụn) nên lấy thẳng đánh loạn, miệt có chẳng tế, chỉ mạn lũy đã cao, mác tà khó rạp, rừng rậm thổi nhóm, bến mê đông vào, khiến cho biển khổ sóng cả vỗ tràn không ngằn mé, đường hiểm lữu chước, dệt cùng chẳng ký (chước là khí cụ bắn chim, lữu là dụng cụ bắt cá, ký là đốn là nói người tu hành chẳng đến). Bậc Thánh lấy đó làm bệnh, quần sinh vì đó trọn thương. Ôi! Sao chẳng như thế? Từ phía Tây Bạch mã Phạm văn đưa đến cống lạc (niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười đời vua Minh Đế thời Hậu Hán, Cadiếp Ma-đằng cùng Trúc-Pháp-Lan dùng Bạch mã chở kinh tượng đến đất Lạc), tin hủy thay nhau thổi bùng, vua tôi bất nhất (bấy giờ, ở Ngũ Nhạc, Đạo sĩ Chữ Thiện Tín v.v... cầu tỷ thí, thiêu đốt kinh tượng). Vả lại, màu mỡ của vực xa, chín phục gọi là Hoang biểu, tục của Đoài Phương, bốn biển ngắm làm người nhung (chín phục là chín châu, Đoài Phương là Tây quốc), mà kia lại cho rằng Trung quốc phong lược làm Nho bang, vùng ven phía Đông Thông lãnh là biên duệ. Tình người đều xem trọng nơi họ ở, mà khi ngạo đối với bang khác, đều nói Phật sao chẳng sinh tại Trung quốc (người Chấn Đán tự cho đất này là nước trung tâm). Tương truyền nói: Tại Trung thiên ngày Hạ chí, lường ảnh mà hết phô bày (ngày Hạ chí ở Trung Ấn-độ Tây thiên, tàn cây giữa ngày không bóng, bởi được giữa ngày của Diêm-phù đi chánh ở trên, nên kia xưng là trung tâm. Ở xứ này tuy Thiệu Bá tương trạch Chu Công đến dựng (bản đô của nhà Chu ở Cao Kinh, Thiệu Công tương trạch ở giáp nhục, chu Công đến thành chu tạo dựng, nay là Lạc kinh), mà Chu Lễ nói: Chức Đại Tư đồ cảnh của Nhật chí một thước năm tấc (Lạc Kinh tuy là trung tâm của Chấn Đán, giờ ngọ ngày Hạ chí, tàn cây còn có cảnh dài một thước năm tấc, thì riêng địa phương khác càng nhiều), gọi đất đó là chỗ hợp của giữa đất trời, chỗ giao của bốn mùa, chỗ hội của gió mưa, chỗ hòa của âm dương. Trăm vật gò an, mới xây dựng vương Quốc. Nay ở huyện Dương Thành, Hà Nam được là giữa của Trung Hạ mà bóng lại có thừa. Đó chẳng tại Dương thành thì lại quá một thước năm tấc, mà trời cao ngàn dặm dưới đất một tấc. Nên đây, ngoài Tây Vực cả ngàn dặm, lại Nhung hạ làm bang, xưa nay đâu nhất định, y lạc hóa thì làm Nhung (Tả truyện chép: Có Nhung của Y Lạc, lại có đánh Nhung của Lục Hồn, đều ở tại Lạc), Ngô Việt biến đổi mà làm Hạ (Ngô Việt vốn là Di, mà Công tiễn phu sai đều làm bá chủ Trung Quốc), nên chí thánh nương theo thời, vốn chẳng hạn cục phương tục, chỉ lấy Đại thiên Diêm-phù làm nội địa, đáng ở đây thì ở đây, đáng ở kia thì ở kia, đâu vì văn võ chẳng ở tại Lạc thì chẳng phải vua của thiên hạ ư? (Văn Vương ở Tây Nhung, Võ Vương ở Kỳ Hạ) mà Tây Vực thời Không Luân Vương, chia thiên hạ làm bốn chủ: Đông lấy người làm chủ, chánh do lễ nhạc phát xuất từ xứ này. Nhân nghĩa trùm cả tám hoang, gọi là trung chẳng phải do đất. Thời Tống, Hà Thừa Thiên hỏi Tuệ Nghiêm rằng: Nước Phật dùng lịch gì? Tuệ Nghiêm đáp: Ở kia, ngày Hạ chí ở giữa không có bóng. Ngũ hành chuộng thổ đức, tám tấc là một thước, một lượng đáng xứ này mười hai lượng, kiến thìn làm đầu năm (Tuệ Nghiêm đích thân đến Tây thiên trở về nên hiểu rõ việc này) và xét hạch phân chí (xuân thu phân, đông hạ chí). Bạc thực tú độ a hành âm dương mới lấy làm vậy, chỉ vì các vị Tam Tạng Pháp sư từ Tây Vực đến vượt biển trùng dịch, trải qua lắm hiểm nạn, khinh thường trăm chết mà đạt đến một sống, đã đến mà chẳng biết làng nước ở đâu. Hẳn đáng buồn vậy, phiên dịch chỗ đó, so lại với điển của Hoàn Trung đã trái, xem nghe càng ngược, muốn khiến kẻ chứa chất mù tối, trái phong chẳng phải thảo, đi ngược nước thấy bờ chạy, chỉ thêm tức giận, thật lại khó (vì các Pháp sư phiên dịch đến đã xa vời, chẳng thấu đạt ngôn ngữ của xứ này, đến nỗi khiến Từ có chất phác mà văn chẳng trôi chảy hoa mỹ, như kinh do An Thế Cao dịch, v.v... người chẳng rõ, nghịch bèn trái nhau, càng thêm sự báng bổ, thì là chưa thể). Ủng môn Chu Thừa Mạnh Thường tao tiết thê cảm làm trống đàn đó, đàn một trổi mà nước mắt tuôn rơi, chẳng biết chỗ cùng cực. Ung Môn là đất Tề, Mạnh Thường là Điền Văn con của Tề Công, Chu Thừa làm trống đàn, đàn trỗi mà lệ chẳng thể ngưng rơi) những kẻ tà ngu nhân cơ hội Vương hầu nghi ngờ mỏng manh. Vì đó thổi bùng, hễ mở miệng thì chê trách phỉ báng dao động. Chẳng phải ta vậy (đây là nói về những kẻ khinh hủy tôn giáo, nhân làm quan của thời chính, đối với giáo tôi có sự nghi ngờ, nhân khiến cổ vũ ở miệng lưỡi để hủy báng, đến nỗi khiến tâm các vị Vương hầu xoay lại mà tin), là vì nhờ kia vị trọng tài lớn, lời nói và việc làm là chỗ y cứ của chúng sanh, hành làm thời hiến (Phật pháp giao cho vua tôi, phàm kẻ tại viên quan tài học, nhờ để hộ trì, chỗ ở Tam bảo rất nên viên phụng, quý tài lớn vị trọng đó để hoằng hộ Tông giáo. Chuẩn là dây, hiến là pháp). Thuận là dụ dịch, trái thì kích bác (dịch là dẫn dắt, người tin thuận thì vỗ vai mà dẫn, người chẳng tin thì kích bác mà trách) khiến người yếu biết chỗ về, ăn dâu mà tiếng tốt (Hoàng oanh ăn dâu mà tiếng hay, như nghe pháp mà kính tin) là Phật pháp được bền chắc của thành vàng hồ thang (nhờ Tôn Quan làm ngoại hộ thì Phật pháp có sự bền chắc của Thành hồ), mà công kích thì không gì chẳng bại, như luật mất thầy (Nếu có ngoại đảng công kích, không gì chẳng tự nhiên mà sụp bại). Cái khó của họ Thích mà họ Thích chẳng trái đó, là sao (người ngoài hỏi có nạn giáo của họ Thích, mà dẫn giáo của họ Thích đáp đó, mà chẳng thể trái lánh khó đó là có nguyên do gì?) Thí như Âm Khiên ở mùa, mặt trời soi rọi. Dương Khiên ở mùa, mưa lớn đổ xuống(mưa lâu là mất mùa của âm, thì phải quang tạnh mới giải nắng hạn lâu, mất mùa của Dương thì phải mưa ngọt mới giải đó). Nếu âm giúp ở âm, Dương giúp ở Dương, thì nước của chín năm hạn của bảy năm chưa đủ nhiều (Nghiêu có nước chín năm Thang có hạn bảy năm). Nên các bậc Hiền Đức xưa kia không vị sao oai, không thưởng làm sao có vui, không giải thích làm sao tin, chỗ đó đáp chống, phần nhiều lấy Thích giáo làm chứng, trái lại nhờ y cứ đó (đáp nạn nếu chuyên dẫn giáo mình làm chứng như dùng âm giúp âm, Âm giúp âm, dùng dương giúp dương) vì vậy di khéo lắng tĩnh bạo lại mê thủ loạn, dẹp bỏ biện luôn của Công Phủ Long (di là bình, thủ loạn là lấy làm hơn, Công Tôn Long là người đất Triệu, Ngu hương từ dùng Hàm Đan xin phong Bình Nguyên. Long dùng biện nhanh chóng can ngăn mà dừng, người sau nói: Long có biện luận của Bạch Mã,) dứt hủy của họ Thúc Tôn. Thúc Tôn Võ Thúc hủy báng Trọng Ni, Tử Cống nói: Phu tử chẳng thể hủy, hiền của người khác là khâu lăng, hiền của phu tử là trời trăng, chẳng thể được vượt qua) tuy có phương bào chẳng như phục miện (phục miện là Nho sĩ có người hủy phu tử thì có khả năng đối đáp. Đâu thể Thích tử phương bào gặp người hủy thầy mà không đối đáp được, có thể chẳng xấu hổ ư? Hẳn nhờ ở học, phương bào là áo ca-sa) xưa kia Hà Thừa Thiên soạn luận Đạt Tánh, Nhan Diên bắt bẻ, đồng thời có Nhan quang lộc là triều sĩ đời Tống, có Văn Thường ưa uống rượu) Phạm chuẩn tạo nghĩa hình thần diệt, thẩm Ước chất vấn (đều là hiền sĩ đời Lương, văn ở trong Hoằng Minh tập) nên sài lang chẳng phải sư tử thì chẳng chế phục được rắn heo chẳng phải Mạc-da thì chẳng dứt, mà kinh gọi là người ngoài viện triển như (triển là viện, giả tín tâm làm ngoài trao, xét như ở đây) thì chẳng mất danh. Than ôi! Có trời đất, có sinh thành, có người tin, có người chẳng tin vậy (đã trời đất tạo hóa thì có muôn vật nhân luân, bèn trong nhân luân có người tin có kẻ chẳng tin, vì tình chẳng đồng). Tin đó như Hán Hiển Tông (tức Minh Đế, chúa thứ hai thời hậu Hán) Pho Võ Trọng (tức Phó Hựu) Ngô Đại Đế (tức Tôn Quyền) Chi và Hám (Chi Khiêm và Hám Dịch) Đông Tấn đến lúc thọ chung đến Vương mông, Hy Siêu, Hứa Tuân, Tạ Thượng, v.v... Tống Văn Minh, đến Tông Vương, Hà Nhan, v.v... Ngụy Tông Cung, Nam Tề
Lưu Cầu, Lương vua tôi đào ẩn cư (Đào Cảnh Thuần, tự là Ẩn Cư, hiệu là Trinh Bạch tiên chủ) Nhan chi thôi đời Bắc Tề (đây đều là những người tin sâu) chẳng tin, như Tấn Thái Mô (tự là Đạo Minh, thời Đông Tấn, Đông đế bảo làm bài tụng tán Phật, kiên quyết chẳng theo, bèn nói phỉ báng
Phật, dưới sân an ủy khỏi làm thứ dân) Ngụy Triệu Vương Độ, Tống Chu Lãng, Ngu Nguyện, Ngụy Trương Phổ Tế, Lý Dương, Dương Huyễn Chi, Tề Lưu Trú, Lương Tuần Tế (đây là những kẻ thật tâm hủy giáo chẳng tin) Phàm tin là lắng một tâm soi cùng muôn hóa, hoặc chưa sót chỗ còn, phải báo cầu thí, trọng lý nhân duyên, dốc tâm kinh giới, lùi tàn khốc không nạp hoàng, tiến tốt đẹp đặt hàm quang (hoàng là khang, như đặt nơi khang) chẳng tin là: thần dụng chẳng phải hư, biết thô nghĩa đục, hoặc ghét cờ tháp cao phí, pháp tịch rộng sâu, tăng ở sảng khải (sảng khải là cao sạch) pháp đồ quý lớn, sư giận của mình (sư là buông) trái với lời của Dương, ngựa chạy chẳng kịp lưỡi, vùi lấp đảng tà. Buồn thay! Nhưng có hơn người tin là như Tề Văn Tuệ Thái Tử Cánh Lăng Vương, Lương cao tổ,
Trần Văn Đế Tuyên. Ngụy Văn thành, Hiến văn, Hiến Văn, Tế Cao Dương (tức Bắc Tề, ở đây nói các người tin, v.v... đều thấy ở Hoằng minh tập). Hoặc mở diễn kệ vàng, hoặc xả bỏ ngôi báu, hoặc cho dân vào đạo, hoặc dốc của nước xây chùa (Nay Đại Tống đây, hoàng đế tạo Đại tạng kinh bằng chữ vàng chữ bạc mấy tạng, khắc tạng kinh ấn hơn mười ba vạn bản, nâng cấp chùa viện trong thiên hạ, mỗi năm từ Bộ ban Diệp độ tăng hơn tám ngàn vị. Thái Tông mới lên ngôi độ thiên hạ hệ trướng đồng tử xuất gia). Đó có quá ở chẳng tin là, như Thác Bạt (Ngụy Võ Đào), Vũ Văn (Chu Võ), Thôi Hạo (hậu Ngụy), Phó Dịch (đầu thời Tiền Đường) vì tai hoạ ương nghiệt nắng hạn sao chổi. Họ có Quân chủ bàn nghị và sa thải. Đây thật sạch sẽ tốt đẹp, chẳng phải của kẻ chẳng tin. Xưa kia, Hoàn Huyền giáo nói (giáo là lệnh): Sa-môn có năng bày thuật kinh cáo, giảng nói nghĩa lý, giới cấm tu chỉnh, đủ đề tuyên nghi đại hóa. Đó có trái với đây là, hẳn khiến bãi đạo, Viễn Công gửi thư nói với Hoàn Công là: Phật giáo bị lấn lướt, uế tạp lâu ngày, mỗi ngày một tìm đến, ôm hận đầy lông, thường sợ vận ra chẳng phải ý, luân tư gần kịp (Luân tư là dần thấm). Trộm thấy thanh trừng các đạo nhân giáo thật ứng bản tâm. Phàm, kinh do vị phân, thì đục trong khác thế, cong do thẳng chánh, thì bất nhân tự xa, mạng lệnh đây đã hành thì hai lý đó được, sau đó khiến các kẻ ngụy sức dứt mượn đường của đạo. Người ôm chân không phụ ghét ganh của tục. Đạo tục giao thông. Tam bảo lại hưng thạnh (xưa sa thải gồm có hai ý: Một là vì sùng trọng giáo môn, ghét sự thâu lạm đó. Nên trừng thải gian ngoa, chuyên khiến thanh tịnh. Tống Thế Tổ, Vương Độ, Nhan Viên Thi, Chu Lãng, Ngu Nguyện, Trương Khổ Tuệ, Lý Dương, Vệ Nguyên Tung, Cố Quán, Na Tử Tài, Cao Đạo Nhượng, Lô Tư Đạo, trong đời Cao tổ thời Tiền Đường có hai mươi bốn vị. Hai là vi ghét ganh xương hiển nguy thân cắp oán, nên phải trừ dẹp để thỏa sướng cõi lòng, Ngụy Thái Tổ, Chu Cao Tổ, Thái Mộ, Lưu Trú, Dương Huyễn Chi, Tuân Tế Chương, Cừu Vu Đà, Lưu Tuệ Lâm, Phạm Duẩn, Phó Dịch, Vương Văn Đồng mười một người, thật tâm hủy diệt) Huyền giáo do đó chẳng bằng Lô Sơn, phàm huyết thai ăn hạt là; tin và chẳng tin đâu có hai, chỉ người hủy bỏ chánh khí của năm tài, hẳn gìn giữ ở chánh tánh chánh mạng (Bậc hiền là bẩm thụ thanh khí của Năm hành) khắc soi mậu hành (rõ được hạnh của khuyên gắng) đó nhờ ở ruộng phước, nên mới tin. Bẩm khí lạnh hẹp hòi quá khứ (phức là ngang ngạnh) diệt mất lý trời, đó nhờ họa mất nên chẳng kính tin. Nếu khiến Đường Ngu Nguyên Khải, Hạ Ân Y Phó (Đường Ngu là Nghiêu Thuấn, Nguyên Khải là mười sáu tướng, Hạ là Võ, Ân là Thang, Y Duẩn truyền thuyết) mười loạn của Chu (loạn là trị, Thái Công, Chu Công, Triệu Công, Tất Công, Nam Công đánh mất nên Sinh Thái điên, Diên Thiên Văn mẫu mười) ba kiệt của Hán (Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín) ngước nhìn Kim Dung, cúi nghe ngọc trụ thì chưa từng chẳng tin, dấy nói động của năm bên trong, các hữu kia sao như vậy, bởi làm thiện chỉ ngày chẳng đủ (các vị này tuy chưa gặp thánh giáo, nếu gặp thì tâm rất kính tin) nếu khiến Kiệt Trụ Trang, Chích, Dương Hóa, Tử Tạng thấy mà như mù, nghe mà như điếc (là Kiệt hạ, là trụ ân), Trang Kiêu là giặc ác sở Thục, Đạo Chích là giặc dữ ở Lỗ, Dương Hóa con của Quý Hoàn nhà làm bề tôi bạo ngược ở Lỗ, Tử Tạng là Trịnh Tử Tạng, mù nghe thiện, chẳng đủ hóa) kia sao như vậy? Bởi người hung dữ làm điều bất thiện cũng chỉ ngày chẳng đủ, chỉ sống đó có bờ mé, thể chẳng phải vàng đá, vui chẳng đủ chí, buồn nối tiếp đó, lão thánh xưng thân là đại hoạn, Trọng Ni than kề vai như mất (phù sinh trôi nhanh, đâu đáng quý) mà Thích giáo khác gì, thành tâm chuyên tổn, lấy phước làm đầu, mà ở họa trước hết, thật cái gọi là lỗi của năng ác chẳng năng thiện. Nếu kia thật có, tuy muốn tự tuyệt, nào tổn thương ở trời trăng ư? Như chỗ giáo môn kia nói: Nhân quả thật vốn có, ngươi buông hủy đó cũng vào năng tổn thương đạo đó, Tử Cống nói: Người tuy muốn tự tuyệt, nào thương tổn ở trời trăng ư?) nếu kia quả thật không, mến mộ Lập Hư Thiện, đủ để xa hại (như chỗ Phật giáo nói sự của nhân quả vốn không, rỗng cầu khen thiện cũng đủ xa hại) phàm hư bỏ giết còn hơn đồ điếu, hư nghĩ tài còn hơn trộm cướp, hư sạch mình còn hơn đục lạm, Duy Bạ chẳng tu (nghĩa là chẳng trị khuê môn) huống chi ai biết đó hẳn chẳng hư thay, mà Thích giáo nói trộm của hóa của, ăn thịt hóa thịt, hại chẳng hóa cần mắt lãnh (hóa là mua bán đổi chác, nay thí tài cho người khác thì cũng sẽ nay hại người thì sẽ bị người hại, là đạo của giao dịch. (Lãnh là cổ) nếu khiến chẳng hóa, thiện thì thật (thật chẳng trộm chẳng giết v.v... gọi là tự làm thiện, việc đó là thật) lời nói đã thật, người đó đâu dối ư? Phật-đồ-trừng, Hành Nhạc Tư đại có khả năng thấy xa nhiều đời (đều được quán xét trước) Chi Lâm, Đạo An có khả năng biết rộng học nhiều,
Lưu Di Dân, Lưu Cầu cung cờ chẳng đoái nhìn (đều là cao sĩ đời Tấn, là từ vinh đó, xưa kia chiêu mộ tài sĩ là dùng cung và cờ) Hứa Tuân, Tông Cửu lam lũ suốt năm. Há Phật pháp không thật đó, mà năng khiến kia lập chí chẳng giúp ư (đây đều là bậc hiền minh, tình đâu sai lầm). Xưa, khoảng đầu niên hiệu Võ Đức, bề Tôi lớn chẳng mưu, bề tôi gần mong chỉ (thời Cao Tổ, Phó Dịch cho rằng: Nhà Đường xuất phát từ họ Lý, lấy Lão Tử làm Tổ, bèn sàm tấu, khiến trừng thải) lấy đế hệ xuất phát tử Huyền Nguyên, văn minh rộng lớn cùng thiên hạ đều một, sắp hại giáo ta, ong bò cạp lại có độc, bối cẩm có chương (bối cẩm là từ ngữ văn sức) chỉ đế thời thông minh, trọn vãng du tệ (võng là không, du là chỗ, tệ là mờ tối, Phó Dịch v.v... tuy phiền hoặc thánh, mà thông đế không chỗ tối tệ) kia ganh ghét chẳng khắc phu của Ngạn thánh (quyên là tham, tật là ganh, khắc là thắng, Ngạn thánh, Pháp lâm Đạo tuyên v.v... Phó Dịch tình tuy tham ganh mà trọn chẳng thể thắng kia). Dung phần đức đó, không chỗ thấm da (phần là cứng, dùng hung đức khiến cho thấm đượm, mà da nhậm trông ngắm bên ngoài, chẳng thể thực hành) mặt trời cao sáng, sắp rụng lại nâng, du vân mờ mịt, đã tan lại chóng (mặt trời Phật lặn mà lại sáng, mây tuệ tan mà lại nhóm) thật có linh của Tông miếu xả tắc thời Tiền Đường, khắc giữ ở phước của con cháu lê dân, phàm đất trời bang vực, lấy nguyên mục tư (trời sinh muôn dân, dựng lên trông coi) dùng quỷ thần tuy đó (tuy là an, thần là thông minh, chánh trực, phước thiện, họa dâm) nếu người làm vua mất lý thì linh thần xả bỏ (thần là Ni phó, họ Vũ văn hủy diệt Phật pháp, thần ni thấy thiện thần đều trở về Tây, sau quả nhiên nước mất, gần đây họ Sài hủy tượng Đại bi bằng đồng tại trấn Châu, cuối cùng mắc bệnh dữ mà chết) chẳng giữ ở núi sông, núi sông chẳng yên, thì tai họa làm vậy, nên trời trái với thường, đất chuyên chở yêu, người mang ân loạn, lúa mạ dịch bệnh (núi đổ sông cạn, muôn sao mất độ, đất động núi gầm, giặc trộm đua nổi, yêu quái dẫy đầy, nước cạn, khô khan) cúng tế làm sao có. Xưa kia Kiệt Trụ Chu U (Kiệt Hạ Quý sủng ái Mạt Hy, Trụ Ân Tân sủng ái Đát Hỷ, Chu U sủng ái Bao Tự, đều vì sắc đẹp hôn loạn triều chính mà mất thiên hạ) ao rượu rừng thịt, làm kỳ kỹ dâm ô để vui chơi phụ nữ (Trụ có ao rượu rừng thịt, núi rượu gò nem, có hình phạt thiêu đốt, chặt cẳng người tội, moi tim người hiền, mổ bụng phụ nữ mang thai, v.v... làm điều trái ngược chẳng hợp với thần kỳ, huống chi núi đổ sông động, sao băng quỷ khóc, huống chi cắt trừ thiện đạo, muôn linh không nương, há được phụng hót nơi giao, ngọc chúc làm điều đó, thềm Thái như đá ư (đời Nghiêu chim Phụng làm ổ nơi gác, bốn mùa điều hòa gọi là ngọc chúc) đến thời cao nghiệp, Sa-môn Tuệ Tịnh, pháp Lâm ghé nghỉ ở Nho Vọng Ngạn, dao hoa điệp thúy (thúy là văn năm sắc, tử đối với phản) vàng tấu hài hưởng, mang đức ân đó, dùng nghĩa cưỡng đó, ngâm mài muôn phủ, nghiêng úp hang ổ, có môn hạ điển nghi lý sư chính, soạn luận nội đức thông mạng chánh tà gồm ba thiên nêu chỗ lầm hoặc, so sánh rõ gọt bỏ (văn ở Cổ Hoằng Minh Tập quyển mười bốn) văn mà có chứng cứ rất đầy đủ, đó làm đủ vì tỳ tán chân môn, mở rộng huyền cực, đời sau trông xem nên ngậm miệng bít vực, chẳng còn nghi ngờ phỉ báng, chỉ văn ngầm ẩn hàng phàm phu cạn cợt chẳng biết (đời gần đây có luận Quy Chánh và Thích Giáo Phế Hưng Ký v.v... cũng là việc đó) vả lại, tôi trung con hiếu nên kiêu phước phòng hại (kiêu là cầu) để giữ gìn quân thân, cung kính cầu nguyện cúng tế, tinh cần thuốc thang, đâu hẳn biết có không ích mà cố chuyên (chỉ như Tần Hoàng ham đạo, Hán Đế cầu tiên, hoặc vàng bạc uổng đốt tụng lộc cuối cùng có thành gì) Đo lường không thương tổn mà cố phạm, Lễ chép: Nghi sự không chất, như Thôi Hạo dẫn mình chuyên đoán, để đưa tặng thích của quân thân (Ngụy Võ vì bệnh dữ mà chết, Thôi Hạo mổ thây đó) sao được Thôi, gọi là trung hiếu ư? Nay có kẻ phùng tâm còn muốn dự Thôi, sao họ mờ tối (dự là hứa) giẫm vết của quỷ, đâu được hại, nếu lấy từ thời Đông Hán về trước ở đời chưa có Phật, nước nhà tự yên, nay nên trở lại xưa đó (điệp này là người ngoài cật nạn) thì Nghĩa Hiên về trước chưa có văn tự, thiên hạ theo tánh (Hy Hiên về trước chưa có văn tự, đế đạo vô vi tự lý) cơ khổng dần thấm, người dùng gông cùm (cho nên bó buộc tây chân) đến cả sai trác (sai là nhỏ chết, trác là lớn chết, thì nay là bệnh Dịch lệ, Tần Chánh chôn lấp, cũng đâu có tội (Tần Chánh là Thỉ Hoàng ở ngôi ba mươi bốn năm, bác học thuần ở Việt Tần, khiến phong con em làm chư hầu. Lý Tư nói: Các trò chẳng thầy xưa mà học xưa chẳng phải hai đời các thứ chẳng được Tần Ký thì đều đốt hủy, các người có cất giấu thi thư và lời của trăm nhà hiền triết đều đốt bỏ, người làm kệ thi thư thì giết chết) nếu dùng người của bốn di tất dặc ăn ngon (tất là lưới thỏ, dặc là dùng chỉ tơ sống buộc mũi tên mà bắn chim, phu tử dặc mà chẳng bắn đêm) sao làm thí giới (người của bốn di lấy giết hại làm cày cấy, làm sao có việc thí giới ư) mà đời nối tiếp khung lư (khung lư là phướn trướng) thì dân của bốn di đâu từng có giáo của cơ Khổng, thực hành lễ nghĩa mà vua tôi cha con nối tiếp, vì thế Cơ
Khổng cũng có thể phế bỏ (từ thời Đông Hán về trước, không có Phật Pháp, nước của bốn di không Nho giáo, nước của bốn di cũng tự xử lý, nếu Phật giáo có thể phế bỏ, thì Nho giáo cũng có thể phế bỏ) nếu lấy bình thí giúp nhà cấp người đủ (nghĩa là thí khắp cấp đủ) thì chẳng hẳn ở nơi trai giới, thật cũng ruồng đuổi người đó đồ thán (nếu chẳng trì trai giới mà thí thì do giết, trộm, dâm, v.v... mà ban cho người đó). Tâm từ ban cho Tông miếu chẳng sửa, thì chẳng được ban cho người đó) phàm tâm từ cho, Tông miếu chẳng sửa, chẳng được gọi là Hiếu. (Từ tuy kịp dưới mà kính chẳng bằng Tổ, đâu gọi là hiếu ư) nhiều vật buông ác, hương hỏa chẳng tu, chẳng được gọi là phước (như giết ngựa tế trời, v.v...) việc đó không hiếu không phước mà mong người an vui vững chắc, như ôm gốc mà đợi bóng râm (gốc là phần thừa của cây đã chặt, giết mạng cầu phước, như nương cây không lá, đâu có bóng râm) nếu cho Phật không hình hưởng, chẳng nên thờ cúng, thì Giao Tế Tiên Vương Tiên Công ai có thấy nghe mà dốc lễ đó ư? (cha ông cũng không nghe thấy, sao cố tế cúng)? Nếu cho quỷ thần chẳng thật, các bậc tiên nho chỉ dẫn người kính đó, thì sao lo Phật giáo chẳng thật mà khiến người làm lành ư? Chỉ kẻ phỉ báng làm ác chẳng đầy, chẳng đáng sợ nghe, người nghe nghe ác chẳng thỏa lòng, chẳng đủ để nương theo hủy báng, lỗi đó đều đồng, mà đời của hơi hám ồn náo, mến thì lớn tốt lành, xấu ác thì dày tội lỗi. Có họ Ngu, tông của nhân hiếu, cấp trủng lấy biến của Bình Dương, chẳng phải tiếp nhường mà lấy (Cấp Trũng Thư chép: Thuấn bắt tù Nghiêu ở Bình Dương để đoạt vị đó, chẳng phải thọ thiền, nay thấy có thành Tù Nghiêu) Y Duẩn bày nêu của người thần, Cấp Trũng lấy đồng cung phản đánh bèn lại hạ chính (Y Duẫn làm tướng Thái giáp, Thái giáp chẳng nghe lời dạy của Y Duẩn, Y Duẩn thả đó ở đồng cung, ba năm sau chợt đổi lỗi đó mới về lại vị đó, để trọn đạo nhân thần. Nay Cấp Trũng Thư nói: Y Duẩn thả Thái giáp ở đồng cung, Thái giáp từ trong hang lỗ ngầm ra giết Y Duẩn mà tự lập, so với văn của thượng thư hoàn toàn khác) hễ chẳng phải luận của kính đình, thì làm sao có thấu cùng ư? Nên phải theo Nghiêu điển ân thư mới có thể là kinh, Trọng Ni nói: Công Kích ở mối khác, đó là hại (các nhà xuyên tạc, hại ở chánh nghĩa) vì sao chẳng như vậy ư? Xem xét xưa nay soạn chế (văn chương nội giáo) phần nhiều trước biếm Chu Khổng mà hàng Lão Trang, cho là năng văn (như lời tựa nhân sớ, v.v... đây là nguyên do của mở cửa nhận giặc trộm, buông thứ cho bọn địch kỳ đảng (kỳ là giáo, thí như buông thứ đạo kiêm chẳng phải Nho giáo thì là giáo, đạo và Nho kết đảng làm trao). Một kẻ cướp còn chẳng thể đùa bỡn, huống chi kết xung của hai kẻ cướp ư? Khiến địch quả nhiên đến, mạnh mẻ hùng dũng lấy ngu cứng làm can lỗ, lấy chê trách làm mâu mác, tấm tức bừng giận, chứa can thử nhai (thử nhai là tức giận) đến nỗi khiến ngu thì xiên mà biến, nhân thì mãn mà tật (xiên là cười, biến là múa, hạng hạ ngu nghe thì cười, mãn là sầu hận, bậc hiền nhân thấy mà ghét) sắp muốn cổ xúy mà dập đè, Bỉnh vũ mà đến (thí như muốn cổ xúy thế lực mà dập đè, nắm vũ để chiêu vời đó, đều chẳng thể được) thật khó có thể, phàm tiết một ngoạn lửa ở hang, lúc đầu dùng nắm cỏ đốt nơi cung thất. Một là phu bội ngược, mới đầu phàm ngu đã lên trách thánh hiền (lửa của bếp lò năng nghệ cung vi, phỉ báng của tà phu, đâu sợ Thánh Hiền ư?) sao không khéo thận trọng (không gì chẳng vậy, tại sao chẳng nói năng thận trọng)? Cổ ngữ nói: Hành vô lễ sẽ tự kịp (kính người thì người hẳn kính mình, lấn lướt người thì người cũng thù mình) xưa, Lã Bố (hạ tướng của Tào Tháo thời Ngụy) Cưởng Viên Hoán khiến viết thư trách mắng, Lưu Bị trách rằng: Chỉ có đức có thể nhục người chẳng nghe dùng mắng. Kia hẳn quân tử ư? Vã lại chẳng hổ thẹn lời nói của tướng quân, (đạo của quân tử phạm mà chẳng bắt chước) kia thật là tiểu nhân ư? Lại ý của tưởng quân thì nhục ở đây chẳng ở kia, nên chim cùng dường thì mổ lại, thú cùng đường thì cắn lại(Thiết Văn nói: Tranh giữ vật) người cùng đường thì lừa dối, ngựa cùng đường thì chạy trốn, khiến cho mổ trốn chẳng đến được, đó chỉ là thượng trí ư? Vì vậy nay giáo tôi rõ ràng chẳng của di, ai chẳng đảng hành ta xem thường, tuy tỏ vẻ vui ở ngoài mà thật ruột thắt ở trong (di là thương, hối là mạn, tượng giáo đã bị lấn lướt, ai chẳng bạn thổi, là hối mạn. Bậc sĩ của Nho đạo ngoài tuy kính thuận trong kết ruồi ganh) chỉ quả hành dục đức, ngầm dựng im hóa, chẳng thích sở đoản kia, vui sở trường kia, trăm hoặc một đó, nếm mùi đạo ta, tự nhiên xoay chỗ (đối với hai giáo kia chỉ thực hành ân đức, nêu sở trường của giáo kia, nối chẳng đủ của giáo kia, trong trăm người hoặc gặp một người, vị đạo là xan phong, tự nhiên quy tâm. Hễ đến nước Lõa hình thì cởi xiêm mới hợp (Võ đến nước Lõa hình vui vẻ cởi áo, bởi thuận theo tục đó) vả lại người nay là người của xứ này, Nho đạo là giáo của nước này. Tục đó dù biết cũng chẳng thêm gì cho ta, cũng cô mỗi A-tỳ cửa đó (A-tỳ là bằng đảng, cô là vả lại) dãi bày sừng chống, đâu được chẳng đẹp mà theo, xinh mà lo lắng, hoảng mà dời đổi, khiến vui mà phục sao, đâu ở lời thường thù tạc ư (cái gọi là giỏi đánh không trận, giỏi đóng không cửa) nếu vì kia nói bất chí thì người rất lo. Bất chợt dời tiết nói đạo của tôi, nhưng bậc thánh cũng đều đương cơ ngự vật, như Phật nói phước trời người cho Đề vị nghe, mà Đại thánh đâu chẳng muốn khiến người đến tịch diệt hết ư? Chỉ ở thời đó chẳng làm lời (giả sử nói chí giáo, chẳng hợp căn cơ đó thì chẳng lợi cho người). Lão thánh đó đâu chẳng muốn cho đến xung mạc hết ư? Kinh gồm hai thiên (đạo đức hai thiên) được nói gồm biện trị ở nước nhà, giúp cứu đời đó chẳng cùng ép phế (tuy tựa đề là đạo đức, mà chẳng bỏ pháp trị nước) Trọng Ni đâu chẳng muốn người đến hoàng đạo hết ư? Chỗ sửa sáu điển, gồm còn Bá Vương, sắp bào cử mà không sót, nên phú đảo chẳng gì lớn so với đất trời, biến hóa chẳng gì lớn đối với bậc thánh, mà thật hai giáo đó đối với ta tán mà chẳng hại. Tôi đối với hai giáo, bao gồm mà có kết quy, sao gọi uống rượu ngon chẳng ganh, nếm cặn bã là ganh (chí nhân quân tử khác đường mà đồng về, kiêu bạc tiểu nhân là chẳng phải a đảng) chỉ người phần nhiều chẳng tự tin mình ngu, mà đối với có thể nhầm mà vui mừng (chẳng biết mình ngu mà điều chẳng bằng) chưa biết đan bích, khéo ép nâng văn vẻ, chưa biết nghiên mực, khéo chê khen triện lệ, chưa biết lễ nhạc, khéo lên xuống pháp độ, chưa biết cung vũ, khéo thưởng phạt âm luật, đó có chiêm tôi, từ này năng không có vưu sự tham học của ta thì thuyền Hoằng là thích hợp. (Trực là tránh, chiêm là thấy, sợ người sau thấy ngữ lục tham huyền mà trách ở mình, nay bởi tự tôi lấy vừa tánh tình mà soạn) chẳng dám gọi là ở quân tử, đàn cầm của Chiêu Văn (Văn Như Hải Vân đều là những vị khéo giỏi về đàn cầm thuở xưa) phải quấy cả hai đều đến, sao chẳng cổ xúy ư? (chẳng vì người phải quấy mà chẳng cổ xúy) phàm Đãi đại phu năm mươi, biết bốn mươi chín năm quấy (Vệ đại phu đệ viện, tự là Bá Vương thấy người cày hỏi, trâu cày cũng là trâu vì sao có sức mạnh? Người cày chẳng đáp, đuổi thẳng trâu đến chỗ xa, đáp rằng: Hai trâu đều có sức mạnh, đáp chẳng bằng, sợ có oán Đệ Viện nói: Một nông phu còn sợ hai con trâu oán, nay ta năm mươi biết quấy của bốn mươi chín năm) Khổng Tuyên Phụ sáu mươi năm biết năm mươi chín năm quấy, như Toản Yên Kỳ cùng Hạp Cửu mà thôi (hạp là nắp hòm) Tề quân treo thưởng để đợi can ngăn, lo mất ở trị (Tề oai vương treo thưởng rằng: Có mặt can ngăn quả nhân thì nhận thưởng trên, viết thư can ngăn thì nhận trung thưởng, bàn tán phỉ báng thợ triều thì nhận hạ thưởng) Hán tướng biếm tước để dứt can ngăn (Tiêu Hà lấy đất trong vườn bán cho người buôn, Cao Hoàng rất tức giận, Hà bèn cởi mũ dời gót để xin tội, Đế mới thả) xét đó năng giữ. Tuy lấy bỏ chẳng đồng mà đều có thích nghi, đó có trở ta tham Nho đạo, (trở là hoại) ta đối với ai kia thế nào, vượt tục khinh quan (vì kia có nhiều nước, có phong tục cắt tóc văn thân) Tề mua giày hèn (Tề Cảnh Công khéo chặt chân người, Yến Tử nhà ở gần chợ, công đổi mà chẳng chịu, Công hỏi: Ở gần chợ mà biết sang hèn chăng? Yến Tử đáp: Gót quý là giày hèn, Cảnh Công từ đó là tỉnh hình). Đâu chẳng phải lợi của mình mà mất hoa của quân tử (học để trang sức thân, chẳng thể mình không ích lợi mà phế bỏ. Đạo của quân tử trang sức thân ư?) xưa ngựa của Khổng Tử sút dây giẫm phá lúa má của người nhà quê, người nhà quê đuổi từ cửa Tử Cống, nhận từ của ngữ nhân (Tử cống là bậc tài tình, ngữ nhân là kẻ nuôi ngựa, mà người nhà quê bỏ lời của Tử cống chẳng cho lại ngựa, mà nhận lời của ngữ nhân mà trả lại ngựa, vì loại đó hợp nhau). Bởi người hèn chẳng ưa thích hiền bàn lâu dài. Khổng tử nói: Xưa kia họ quý Tôn tặng ta ngàn chung thóc mà giao lợi ít thân, kính thúc ở nam cung tặng ta cỗ xe mà đạo lợi hình, nên đạo tuy quý, hẳn có thời mà sau trọng, có thế mà sau hành, là sự ban tặng của hai người thì đạo của khâu sắp phế. (phu tử mới đầu sắp ra đất Lỗ, Sính Chu hỏi lễ, họ quý tặng ngàn chung thóc, Hy Tử họ Mạnh tặng xe, bèn khiến ý tử, kính thúc ở Nam cung theo thầy mà tôn thờ Trọng Ni, và học trò thưa hỏi có tới ba ngàn người). Xưa Đức Đại thánh sắp nhập diệt, bảo với vua và đại thần khắp các nước (Như lai sắp nhập diệt, đem giáo pháp và việc nội hộ Tỳ-kheo giao phó cho vua tôi có sức lực) cũng như đạo của Trọng Ni. Tây Vực không sang hèn già trẻ, ở đó người Tẩu tri ngạn (Vĩ Chiêu nói: Lão mà có đức gọi là tẩu, trí hơn ba trăm người gọi là Ngạn) đều gọi là Ưu-bà-tắc, mẹ và vợ đều gọi là Ưu-bàdi. Hán gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Đào thần năm giới, gần thiện thờ thánh, ở tục ngắm tốt đẹp. Các bậc tiên thánh cũng giao phó giáo pháp, khiến dốc sức kiêm đạo, như Tu-đạt-đa, Tỳ-xá-khư xem vương hầu là bậc á. Xưa, Tôn Quyền chưa đạt nguyên do của giáo đem hỏi Hám Trạch (là đại sử lệnh đời Ngô). Trạch đáp rằng: Tôi xét biết Phật là Đấng pháp vương Vô thượng, chỗ về vương của các thánh, giáo gia tất cả (gia là trùm khắp), xa gồm muôn tượng, sâu đồng biển lớn, chẳng chọn hạng nhỏ, chiếu cùng trời trăng, chẳng hiềm sao đuốc (hiềm là ngăn trở), gặp xúc thì hóa, gặp vật thì thừa (xúc là đối, thừa là chở, như chuông lớn đợi đánh, tợ thuyền lớn mà chở nhiều). Trên cõi trời, trong loài người, tự tại tôn quý. Dù trời có công che khắp, đất có sức chở khắp, đều là Chư Phật kiến lập khiến nên. Tống Văn Đế hỏi Hà Thượng Chi và Dương Huyền Bảo (Thượng Chi là quan Thị trung đời Tống, Huyền Bảo là Lại bộ lang trung) rằng: Trẫm từ nhỏ đọc kinh chẳng nhiều, ngày tỷ lại càng không rảnh (tỷ là gần đây). Nhân quả ba đời chưa phân biệt mà đặt vào lòng, lại chẳng dám lập dị, chánh vì các khanh thời tục, sanh ra kính tin. Phạm Thái (là Xa Kỵ tướng quân) và Tạ Linh Vận, đều xưng văn điển sáu kinh vốn lấy cứu tục làm chính, hẳn cầu chân áo tánh linh, đâu được chẳng lấy kinh Phật làm chỉ nam ư? Gần đây thấy Nhan Diên Chi bắt bẻ luận Đạt Tánh, Tông Bính cật nạn luận Hắc Bạch, nói Phật pháp mênh mông, rất là danh lý, đều là mở dẫn ý người, đều khiến khách khắp nơi đều cảm hóa đây, thì trẫm khoanh tay ngồi yên đến thái bình. Lại có việc gì? Thượng Chi tâu: Hạng người dằn dặc, phần nhiều chẳng tin pháp, vì bề tôi ngu tệ lại sau khen phủi, chẳng dám cán đáng, còn các bậc anh tài đời trước thì chẳng cô phụ minh chiếu. Trung triều đã xa (tức Tây Tấn), lại khó biết hết, từ khi vượt sông về sau (tức thời Đông Tấn), Vương Đạo, Chu Khải, Sưu Lượng, Vương Mông,
Tạ Thượng, Hy Siêu, Vương Thản, Vương Cung,
Vương Mật, Quách Văn Cử, Tạ Phu, Đới Quỳ,
Hứa Tuân, Phạm Uông, Tôn Xước, Trương Huyền, Ân Khải, v.v... (đều là hiền sĩ đời Đông Tấn), hoặc mũ lọng của tể phụ, hoặc vũ nghi của nhân luân, hoặc đặt tình ở giữa trời đất, hoặc chống vết ngoài mây khói, đều bẩm chí quy y, chỉ tâm sùng tín, khoảng đó thì tỷ đối là có Lan, hộ, khai, tiềm, thâm, Độn, sùng, thúy (tám vị đều là cao tăng). Đều ở trong dấu vết Á hoàng, đều là người chẳng lường (hoàng trung là bậc thánh). Pháp sư Tuệ Viễn nói: hóa của họ Thích, vô thí chẳng thể, thương đạo hẳn tự nguồn giáo cứu tục cũng là chân yếu. Trận tìm thuyết này, có khế hợp lý mầu. Vì sao? Làng có trăm nhà mà có mười người giữ năm giới thì mười người thuần cẩn, ấp có ngàn nhà mà có trăm người tu mười điều thiện thì có trăm người hòa mục, gìn giữ phong hóa này để khắp hoàn khu, biên hộ ức ngàn, thì người nhân từ có trăm muôn, phàm hành được một điều thiện thì bỏ một điều ác, bỏ một điều ác thì dứt một hình luật, dứt một hình luật ở một nhà, muôn hình luật dứt ở đất nước, thì lời của bệ hạ nói ngồi yên đến thái bình là đó. Nên Phật-đồtrừng đến đất Nghiệp, Thạch Hổ, giết hại, giảm nửa thành trì, tháp báu phát ra ánh sáng, Phù Kiên dùng chày cưa chấm dứt (Thạch Hổ là hậu Triệu, Phù Kiên là Tiền Trần). Mông Tốn phản cắn bất kể thân thích, ngược như Hổ Lang (thơ Cừ Mông Tốn Bắc Lương đời vốn là người Hồ, xem khắp các sách, hiểu thiên văn, giết Hà Nghiệp tự xưng là Lương Châu Mục, sau vào Cô Tàng, lên ngôi lấy hiệu là Tây Hà Vương), cuối cùng cải ngộ thành người thiện (tai vị được ba mươi năm, dịch kinh Niếtbàn). Đạo nhân pháp kiến năng lực tịch muôn người, gần loạn hà vị, mặc trói chịu chết, để đến sư ách, đây chẳng phải là chỗ nội giáo khắp cùng ư? Khi ấy, Dương Huyền Bảo Tiếp tâu: Thầm sợ Tần Triệu luận thuật cường binh, tôn Ngô hết kế thôn tính, sắp không lấy ở đây. Văn Đế bảo: đây chẳng phải khí cụ của chiến quốc, thật như lời khanh. Thượng Chi tâu. Phàm lễ ẩn dật thì chiến sĩ biếng lười, quý nhân đức thì binh khí suy, nếu lấy Tôn Ngô làm tâm chí ở cắn nuốt, cũng không lấy đạo của Nghiêu Thuấn, đâu chỉ Phật giáo mà thôi ư? Văn Đế vui mừng bảo: Họ Thích có khanh cũng như Quý Lộ của họ Khổng, cái gọi là lời xấu ác chẳng để vào tai. Xưa, Mâu Tử, Hy Gia Tân, Tông Bính, Chu Hạo Chi, Lưu Hiệp đều hợp đạo khống nho, nương theo kinh làm huấn, cảnh răn đường của Pháp Vương, hiến công được xấu xa, mà ngôn hành kia đâu do hình khuyên mà thôi? Đời Ngụy, từ niên hiệu Thái Diên năm thứ năm bắt đầu xảy ra bệnh sốt rét, niên hiệu (Thái Diên năm thứ năm tức năm Kỷ Mão, Bắc Lương bắt đầu diệt Phật pháp) Niên hiệu Thái Bình Chân Quân năm thứ bảy tức năm Bính Tuất chấm dứt giết hại. Năm đó là niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi ba đời Tống. Tháng hai năm Nhâm Thìn tức niên hiệu Chánh Bình năm thứ hai đế băng, Thái Tử Hoảng chết trước (bắt đầu đế Nam Chinh, có người sàm tấu Thái Tử Hoảng hành dâm trong nội, Đế tức giận, Thái Tử Hoảng lo sợ mới mưu tính phản nghịch. Đế biết, nhân đó dối chết, sai người gọi Thái Tử Hoảng đến, dùng lộng sắt mà giam, đánh ba ngàn gậy, sau mới giết). Ngô Vương lên ngôi đổi niên hiệu là Vĩnh Bình, tháng mười một năm đó thì băng (niên hiệu Chánh Bình năm thứ hai, Ngụy Thái Võ bị Thường Thị Tông Ái giết hại, Cảnh Mục Thái Tử Quang lên ngôi, đổi niên hiệu là Vĩnh Bình, Tông Ái cũng hại, lập Cảnh Mục Tử Tuấn hiệu là Văn Thành Đế, đổi niên hiệu là Hưng An) Văn Thành Đế lên ngôi, đổi niên hiệu là Hưng An, là phục hưng (lại khôi phục hưng thạnh Thích giáo). Chu lấy niên hiệu Thiên hòa năm thứ tư tức năm Kỷ Sửu bàn nghị sự hưng phế. Đến niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba tức năm Giáp Ngọ thì giết hại khắp nơi, lúc đó tương đương với niên hiệu Thái Kiến thứ sáu thời Trần Tuyên Đế (Chu Võ tên
Ung, Phật giáo Đạo giáo đều hủy từ đó) niên hiệu Tuyên Chánh năm thứ nhất, tức năm Mậu Tuất, đế băng, Thiên Nguyên, nối ngôi, tức là Tuyên Đế, Húy là Bân, con trưởng của Võ Đế, thâu thuế vào chợ mỗi người một đồng tiền. Đến Lạc Dương, ngựa trạm cách bốn trăm dặm, Hoàng hậu mới giá mà đi, đi sau là tội, tự xưng là Thiên Nguyên hoàng đế, Hàm Dương nước biến thành máu) đến năm Kỷ Hợi, đổi niên hiệu là Đại Thành năm thứ nhất, mùa xuân lại hưng thịnh. Chỉ mạng trời chẳng ở thường. Vì Võ mở hạ mạng, vì thang mở ân mạng, đó sắp mất, vì Kiệt Trụ diệt (Võ tự họ tên Văn Mạng, Thang họ tử tên Thiên Ất. Kiệt là cháu mười bảy đời của Võ, Trụ là cháu ba mươi đời của Thang) chỉ có chí đạo chẳng ở thường, vì Hán Ngụy đầu tiên, vì Tấn Tống mở rộng, đó sắp mất, vì hai Võ diệt. Ý trời vì muôn vật bất nhất, việc ngoài đâu hẳn phước là năng hưng, họa là năng diệt, chẳng hưng đâu có phế, chẳng phế đâu có hưng ư? Xưa Huyền Cao chết ở Giao Nam, qua đêm đệ tử mới đến, bèn ngồi dậy bảo rằng: Đại pháp ứng hóa, tùy duyên thạnh suy, lý thường vắng lặng, chỉ nghĩ thương các ông, chẳng bao lâu lại phải như ta, các ông sau khi chết, pháp sẽ hưng thạnh lại! (đạo nhân Huyền Cao, là thầy Của Thái Tử Hoảng nên bị chết ở Bình Dương, ánh sáng soi chiếu về chùa. Đệ tử nhận biết mới xin lại thây, thây đưa về đến chùa, bèn ngồi dậy bảo các đệ tử, về sau quả nhiên đại pháp diệt). Đầu niên hiệu Hưng An đời Ngụy (tức năm Giáp Ngọ, thời hoàng đế Văn Tiên), Cao Tông ban chiếu rằng: Làm đế vương thì phải cầu phụng minh linh hiểu rõ nhân đạo, đó năng ban giúp sinh dân lợi ích các loài, vì trước còn bày phong liệt đó, cho nên Xuân Thu mừng lễ Tông minh, tế điển nghi tộc công thí (Lễ nói: Công thí ở dân thì cúng tế, nhạc khắp nơi thì dân cúng tế, năng ngự đại nạn thì cúng tế đều được v.v...) huống gì Thích giáo Như lai, công của Đại thiên, Tuệ khắp Cảnh Trần. Tầm sinh tử là khen đạt quán, xem văn nghĩa là quý diệu môn, giúp cấm luật của chính hóa, lợi ích thiện tánh của trí nhân, dẹp bỏ đám tà, mở bày chánh giác, nên từ đời xưa đến nay không ai chẳng sùng chuộng, cũng là chỗ nước nhà ta tôn thờ. Thế Tổ Thái Võ hoàng đế, mở rộng bờ hoang, đức đượm xa khắp, Sa-môn đạo sĩ khéo hành thuần thành, như hạng Tuệ Thủy (Tuệ Thủy chân trắng hơn mặt, người đời gọi là Bạch túc A-luyện-nhã, thời Ngụy Thái Võ dẹp trừ Thích giáo, ban lệnh ai lấy được đầu của chư tăng thì được thưởng vàng. Tuệ Thủy đứng nơi cửa nước, người nào đến thì cho đầu, trong quan thưởng cấp chẳng rỗi, do đó mà ngưng) không có nơi xa nào chẳng đến, phong nghĩa chiêu cảm nhau, luôn luôn như rừng, cao sâu nơi núi biển, quái vật lắm nhiều, các bọn gian dâm được dung nương gá, ngay trong chùa viện mà có hung đảng vì vậy tiên triều nhân tỳ vết đó mà thề giết kẻ có tội, hữu ty mất yếu chỉ, tất cả cấm đoán.
Hoàng đế Cảnh Mục thường luôn bùi ngùi (phụ vương của Văn Tuyên Đế tôn xưng là Cảnh Mục), gặp lúc việc quân việc nước quá nhiều, chưa rảnh tu chỉnh lại, vì trẫm tiếp nối ngôi vị vua đến muôn bang, nghĩ thuật chỉ trước để làm hưng long đạo nay. Nay ban khắp các châu thành quận quyện nơi đông người ở, mỗi nơi được dựng một ngôi chùa, mặc tình của cải đồ dùng, chẳng hạn định thời gian. Như đó có người kính mến đạo pháp muốn làm Samôn, bất kể già trẻ, xuất xứ từ gia đình lương thiện, tánh hạnh trong sạch, làng xóm rõ ràng thì cho xuất gia, châu lớn được năm mươi người, châu nhỏ được ba mươi người, đủ để cải hóa xấu ác đi đến tốt lành, hiển dương truyền bá đạo giáo. (Trên đây là chiếu văn phục hưng Phật giáo của hoàng đế Văn Tuyên thời hậu Ngụy). Đầu đời nhà Chu diệt pháp, sau đó lập Thông Đạo quán, chọn lựa môn nhân có tiếng tăm trong Thích giáo và Lão giáo gồm một trăm hai mươi vị mặc y đội mão nắm hốt mang giày, xưng hiệu là Thông Đạo Quán Học Sĩ. (Vệ Nguyên Tung tâu đặt như vậy), khắp nơi mọi người cắt tóc để râu. (tức các vị cao tăng), Đế bèn cười, tháng giêng niên hiệu Đại Thành năm thứ nhất, Thiên Nguyên ban chiếu rằng: (Tuyên đế) dựng lớn Huyền phong, Tam bảo tôn trọng, đặc biệt nên tu kính, pháp hóa rộng khắp, lý đáng quy sùng, trong hàng Sa-môn kỳ cựu chọn bảy người đức hạnh thanh cao đến phía Tây điện chánh võ an đặt hành đạo, qua tháng hai thì đổi niên hiệu là Đại Tượng năm thứ nhất, ban sắc chiếu rằng: Phật pháp rộng lớn từ ngàn xưa đều tôn sùng, đâu có chìm ẩn, bỏ phế chẳng hành, từ nay về sau, từ hàng Vương Công trở xuống cho đến thứ dân đều nên tu sự, biết ý trẫm như vậy. Bèn ở hai kinh mỗi nơi xây một ngôi chùa, ngoài ra ở các châu quận chưa cho phép chung. Ngày mồng tám tháng tư ban chiếu: Phật giáo từ lúc hưng khởi cho đến nay đã trải qua nhiều năm tháng, nói về chí lý thật tự khó rõ, chỉ vì thế gian dần hồi mỏng bạc mà chẳng nương Phật pháp, đến nỗi khiến pháp thanh tịnh biến thành dơ đục, Cao tổ Võ hoàng đế phế bỏ mà chẳng lập, chính vì như thế, nay trẫm tình còn chỉ đạo, nghĩ hoằng pháp thiện mới chọn lựa luyện hạnh, cung kính theo lý này, khiến hình phục chẳng sửa đổi, đức hạnh vẫn còn, kính bày đạo tràng muốn hành pháp thiện, từ hàng vương công trở xuống đều nên biết rõ. Đến ngày hai mươi, lại ban sắc tuyển chọn các vị sa-môn ý đức trinh khiết, học nghiệp cao rộng trong hàng kỳ cựu, gồm một trăm hai mươi vị, chớ cắt tóc hủy hình đến chùa Trắc Hỗ, vì nước nhà mà hành đạo, mọi thứ cần dùng do của công chu cấp. Sa-môn nhậm Đạo Lâm trải qua hai đời cao tổ Thiên Nguyên, can ngăn tấu nỗi có nghi thức, đế vui vẻ mới nói, luôn xoay mắt nhìn. Đại pháp tiếp nối hưng thạnh, người đó rất có công (Chu Võ, niên hiệu Kiến Đức năm thứ hai phế hủy hai giáo, tức niên hiệu Thái Kiến năm thứ năm đời Trần Tuyên Đế, cũng là niên hiệu Võ Bình năm thứ tư thời hậu chủ Bắc Tề, niên hiệu Đại Định thứ mười hai vua Minh Đế, đời Hậu Lương. Năm đó là năm Quý Tỵ). Tùy văn lúc còn ngầm ẩn, có Thần Ni Trí Tiên bảo rằng: Phật pháp sắp diệt, tất cả thần minh nay đã về phương Tây. Con sẽ làm cha lành khắp thiên hạ (tức Tùy Văn Đế), nên trùng hưng Phật pháp, thần linh trở lại đây. Tĩnh đế trẻ nhỏ, dùng Tùy Công phụ chỉnh, muốn cho sa-môn trở lại như cũ mà chưa thể được, đến lúc đổi mạng nhà Chu (Chu tĩnh đế húy là Diễn, con trưởng của Tuyên đế, lên ngôi đổi niên hiệu là Đại Định, dùng Tùy Công Dương Kiên làm Thừa tướng, phục hưng lại Phật giáo, Đạo giáo, làm vua được một năm, trốn đến đất Tùy ở trong cung riêng, vâng phụng làm giới quốc công, thực ấp muôn hộ, tất cả đều y theo Chu chế. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ nhất, đế băng vừa tròn chín tuổi), bèn ban lệnh cạo tóc, như Đàm Diên, Linh Dụ, Tuệ Viễn, v.v... đều chẳng mất người đó. Đầu thời Tiền Đường. Cao Tổ hỏi các quan rằng: Phó Dịch có nói: Phật giáo vô dụng, trẫm muốn theo đề nghị đó, không biết ý khanh như thế nào? Ngụy Công Bùi Tịch bước tới tâu: Thần nghe Tề Hoàn Công cùng Quản Trọng và Bào Thúc, Ninh Thích, v.v... uống rượu mà đi. Hoàn Công bảo Bão Thúc rằng: Nên vì quả nhân mà chúc, Bão Thúc bưng rượu mà chúc rằng:
Nguyện cho vua của tôi không quên ra đất Cử (Tề Công tôn Vô tri làm loạn, Tiểu Bạch trốn ra đất Cử, người Tề giết Vô tri, sau đó, Bão Thúc giúp Tiểu Bạch vào lập làm Hoàn Công), Nguyện Quản Trọng không quên bị Lỗ trói (Tề loạn, Quản Trọng cùng Tử Củ trốn sang Lỗ, người nước Lỗ thâu nhận, gặp Tiểu Bạch vào trước, bèn đánh Lỗ bại, mới giết Tử Củ, mà sinh trói Quản Trọng, đến Bão Thúc cởi mở đó ở Cảnh) Nguyện Ninh Thích không quên Phạn Ngưu (Ninh Thích sứ xe ăn cơm tại Ngưu Hạ, thấy Hoàn Công gõ sừng mà ca hát, Hoàn Công bèn dùng đó) Hoàn Công rời khỏi chỗ ngồi mà cảm tạ rằng: Quả nhân cùng vài ba đại phu không hề quên lời của phu tử! Thì xã tắc của Tề không phế. Lời này thường suy nghĩ từ lâu. Xưa kia bệ hạ mở lập nghĩa sư, chỉ nương nhờ Tam bảo, nói là an ngôi cửu ngũ, thề nguyện mở mang huyền môn, nay bệ hạ lục hợp quy hưởng nhân từ, giàu có khắp bốn biển, muốn thâu nhận sự cuồng giản của dịch (tức Phó Dịch) mà hủy phế Phật tăng. Đây thì thiếu đức tin xưa của bệ hạ, tỏ bày lỗi nay của bệ hạ. Nguyên nguyên thất vọng (nguyên nguyên là lê già), lý chẳng thể, cho nên biết, hiền của văn võ hẳn trời thửa buông, chẳng phải chỉ bề tôi của xã tắc, thật cũng là bề tôi của Pháp Vương. Đã làm hộ vệ cho nhà vua, cũng là bình phiên ở Thánh giáo, hễ là trưởng dân hành trước ở một làng, trí sinh ở một quan, bày đức của tiếng cây gió, làm giảo ngưỡng cửa si manh, dân manh kia nào có biết được. Nêu thẳng bày nơi các công, dân kia cho đó là thẳng vốn không đặc biệt soi xét ủy hơn hàng thượng lưu, đâu được chẳng xét động đó, thận trọng ngôn từ đó, rõ bày niềm tin đó. Lễ nói: Nghiêu Thuấn dùng nhân mà chăn dắt thiên hạ, mà dân theo. Kiệt Trụ dùng bạo mà chăn dắt thiên hạ mà dân cũng theo, lại nói: Dưới tôn thờ trên, chẳng theo chỗ khiến, mà theo chỗ hóa. Trên tốt là vật, dưới hẳn có rất nhiều. Nay thứ khẩu lem lém (âm điệp, tiếng nịnh nọt) bệnh ở chẳng tin. Tâm tôi mờ mờ lẫn cả giận, sao làm tín ư? Tin có ba thứ: Có trí, có ngu và có đảng, trí thì chọn vật, người vui soi xét đó, như Thuấn nêu cao đào, Thang nêu Y duẩn. Với bậc nhân thì đến, kẻ bất nhân thì xa. Ngu và Đảng thì mọt đục thương tổn. Ngu chẳng hiện rõ ở trên ngực, đối với tin chỗ đó như hưu hầu mà quan đó (xưa kia Hạng Võ giết mổ ở Hàm Dương, đốt phá cung quyết, ba tháng lửa chẳng tắt, mà về Hạ Bi, quân tử của Tần có lời nói rằng: Làm của Hạn tịch như Hưu Hầu mà quan! Mến mộ tượng rồng mà sợ rồng thật (Diệp Công ăn rau ở lá, họ Thẩm, tên là Gia Lương, tự là Tử Cao, ham thích rồng nên học vẽ, cửa nẻo phòng nhà có cả. Trời vì thấy rồng thật, nên thấy đó mà kinh sợ, cuối cùng bị chết). Lấy cuồng thả làm Tử Đô (Tử Đô có dung mạo rất khôi ngô, cuồng là đồng, thả là ngữ từ. Thi nói: chẳng thấy Tử Đô mới thấy cuồng thả. Thi đây nghĩa là nói Thích Trịnh chẳng gọi là Hiền). Lấy đại thiên làm La-hán (Đại thiên là tăng của nước Thổ-hỏa-la, gây năm tội nghịch. Vua Võ Ưu cúng dường, tôn là La-hán). Cái may của tiểu nhân, chẳng may của quân tử (chẳng nên dùng mà được, dùng gọi đó là may, nên dùng mà chẳng được, dùng gọi đó là chẳng may). Đảng thì mất hiền và ác (nên quân tử chẳng đảng), gìn giữ gian hại thiện, bội loạn không pháp, khiến ngựa của phục sương mà bị kỵ đánh ở hung độc (ngựa của xa bàng) mà ẩn trốn là loạn chẳng sâu của núi rừng. Hai kia là chân, nếu dẫn kéo then chốt của tin và chẳng được tin. Bắc Sơn, người nhà quê ngắm nhìn ngôn từ văn vẻ của tôi (nghĩa là đó của chỗ ở) mà bảo: Là đạo đức thì ở kinh. Ngoài có sáu điển trăm họ, đủ để dạo thần vui mắt, ngồi ngay thẳng để im lặng tư duy, nay mới mở bày nghiêm xét giản độc nhẹ nặng tinh hồn. Khuôn phép đàng hoàng, đố hết vậy thôi (tự có điểm tịch nội ngoại, đâu cần khư khư soạn đây). Tôi cất giữ mà mất chứng cứ, từ từ suy nghĩ mà đáp rằng: Đường trưng chẳng đủ để hẹp nơi sông hồ, mà chẳng cưu mang ở lau đậu (chẳng thể vì hẹp nhỏ đó mà bèn chẳng sinh ở lau đậu). Bồi đắp chẳng đủ để thấp ở hành hoắc mà chuyên chỗ ở chanh gai (hành hoắc là Nam nhạc, bồi lũ là gò đống, chanh gai là nhọn). Muôn vật xưa nay đều có phần, xưa kia Dương Hùng thấy biết ở Quân Sơn. (Dương Hùng tự là Tử Vân, ưa thích xưa cũ, có phỏng thuật Chu Dịch, thảo Kinh Thái Quyền mười quyển. Trương Bình Tử thấy bèn bảo: Chỉ có thể che đậy chum tương. Đến lúc Hoàn Đàm thấy bèn bảo: Có thể so với Thánh. Về sau, uất làm đại thú lục tích ghi chú đó). Tả xung được ngợi khen ở Hoàng Phủ (Tả Tư tự là Thái Xung, soạn phú tam đô, nhà cửa giếng cẩu, đều có giấy bút, được... phú thành của chuế thư, Hoàng Phủ Mật trông thấy mà ngợi khen, dưới đô xưng gọi là giấy quý). Ngu trí chẳng che giấu, cũng đâu có nhất định? Gặp và chẳng gặp thương xót mẫn tôi (hề là sao, mẫn là nghĩ thương). Tầm Dịch tu trước, xa mến mộ nhận biết trước (tức mến mộ Tử Vân, Thái Xung vậy). Gá kia... ngõ hầu thiện đạo, khắc phụng thành gà, còn lợi một nửa, đã chẳng phải học trò chúng tôi, suốt ngày ăn no, thì trời cao đất dày đâu từng thiển ư? (nếu người chẳng học thì suốt ngày ăn no, không hề dụng tâm, đâu biết trời cao đất dày ư? Thiển là dáng mặt dày dặn, cũng chẳng lấy không biết làm thẹn). Cục tích thay! (dáng vẻ thân tâm lo sợ)
---------------------------------
Bẩm học tứ tử tán thuật.
Sa môn húy Tuệ Bảo ở Thảo Huyền Đình, tự là Quan Dụng, họ Vương. Người ở huyện Huyền Võ, thuộc Đông, gia đình đời trước vốn tập học Nho tổ, hoặc bày lực sắp xếp, hoặc cao chuộng việc đó, sáng rỡ khổ... chẳng đủ rõ ràng. Đai sư xuất gia từ thuở bé, hai mươi tuổi thọ giới, dạo rảo biển học, lấy truyền diễn làm... nhã luận, từng lên tòa ẩn cơ, bảo người chung quanh rằng: Tôi xem qua sử tăng, cao nghiên tinh cứu trong ngoài, sau đó năng vào đời lập giáo, ra loại nhổ dây, cách chiếc luân nhậm trọng đến xa xôi, chưa nghe trước đó, mới ở ngoài sự giảng tạp, rộng xem các sách, sâu nơi đại dịch Xuân Thu, cùng cực người trời, rõ ràng khen chê. Các bậc danh hiền đương thời đều ứng phục cầu học đến cửa, đều nói là lên nơi Long môn, toản Tam Quốc Giản Yếu Chí mười quyển, từ đầu đến cuối chuốt gọt lắm nhiều, tản mát của Trần Thọ. soạn Cẩm Phụng Nang mười quyển ẩn phát Thánh Hiền, lời hay khéo hành, không sót vượt kinh Trích Đề mười quyển, Tài chương các hành sử gia móc sâu sách ẩn, năm vị tử ba, ngữ luận, ngọc khê tân các bốn mươi quyển, ca hành yếu kiên thân tâm yếu định, niệm phải từ nhẫn lượng phải thoáng rộng.
Ngày mười lăm tháng tám năm Bính Tý, lịch đời Minh Trang Mặc Lâm Hạn Nguyên Biện Trì tụng.
--------------------------------
Điện trung thừa trí sĩ Khâu Tuấn soạn.
Hiến Tông đời Đường, lên ngôi năm đầu, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa. Bấy giờ văn chương hoàn hảo, loại như lân loan cầu hổ, lan quế châu bối, vọt mầm tinh sương, tràn khắp vũ trụ, như Hàn Thối Chi, Liễu Tử Hậu, Nguyên Vi Chi, Bạch Cư Dị, Lưu Võ Tích, Lý Quán đều dùng tài nhọn đến vơi tạo hóa, thí tợ Tôn Ngô khởi tiễn đang thời Chiến Quốc tranh thắng của võ dũng quyền thuật. Khâu Tuấn ở Hà Nam, thường xem Sử truyện và di biên đô đều bùi ngùi hưng cảm, tiếc chẳng được đuổi tìm chân tay, tháng giêng năm nay, bị đuổi về ở đất Hấp, bị bệnh nên ngụ ở tại Võ Lâm cạnh chùa luật Tịnh Trụ. Một hôm, Sa-môn Duy Hiền mang lễ đến biếu tại chỗ ở chật hẹp. Vừa thấy, ân nghiễm thanh thúy, nghi có chỗ chất chứa mà đến, chợt cùng đó trò chuyện thì chí khí lanh lợi, sắp muốn phát bỏ cảnh chiếu, mênh mông vô ngại. Học thư dịch phong nhã, Xuân Thu rất xác thực, huống chi bản giáo? Chợt từ trong tay áo đưa ra sấn biểu năm biên, lại nói: Đây là do Thần Thanh đệ tử của Thiệu Trúc ở Đông Thục soạn thuật, đặt tên là Bắc Sơn Lục, đầu tiên là Ngãi Nho, đến cuối là Ngoại Tín, gồm mười sáu thiên, giữ kỹ đã ba kỷ, sợ mất truyền bá, chung phạt của tệ thiện. Xưa kính mến quân tử công ở đạo đó, chẳng nịnh hót ở thế thái, khác nhặt lấy đó có thể chăng? Tuấn bèn nhận, đêm đó chẳng đến gối nằm, chong đèn để đọc, trọn ba cổ, xét đại khái. Lấy lập không tịch làm gốc, muốn thiên hạ phái về nơi hang lớn. Hội kinh thuật của Lão Tử, Khổng Tử các thuyết của Trang, Liệt, Tuấn, Mạnh, Quản, Yến, Dương, Mặc, Ban, Mã, rong ruổi trong đó, y cử muôn ngã rẽ mà đến một đường chánh. Kỳ đó thì như núi, thuần đó thì như vực, biến đó thì gió sấm, bình đó thì quyền hành, khôi hoằng đó biện bác rất lắm như vậy. Than ôi! Từ năm Bính Tuất thuộc niên hiệu Nguyên Hòa, mãi đến năm Giáp Thân tức niên hiệu Hy Ninh thứ nhất đời Tống, tất cả hai trăm sáu mươi ba năm, mà đại Nho xưa kia miệt một câu gọi là dùng Bao Bí ở thần thánh là sao? Bởi chuyên chỗ giữ đó chẳng dám dùng kinh Toại Sinh lầm lỗi mắng nhục, chẳng phải ganh ghét tài năng đó. Nhưng Tuấn Sinh ở thời Thái Bình. Lão còn phế bỏ, thiếu kém trí lực để giúp Thiên Tử, không lợi tuệ để cứu sinh nhân, chỉ tu luyện để làm cho thân đó bền chắc, thiền định để đồng trần. Nên Lỗ luận chép: Ta thì khác đối với không thể, không chẳng thể ở ngày nay, vì thế mừng sư duy hiền hạnh nghiệp cần chỉnh, năng nhổ người xưa, thực uất ở đời khác, không vạch lấy để trang sức mình, sau đó bọn áo vá nách, ai chẳng thăm mặt ở cửa của Trâu Lỗ ư!
Mùa đông tháng mười hai, năm Đinh Dậu, ghi ở cuối quyển. /.