TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2115 - ĐÀM TÂN VĂN TẬP

Sa-môn Khế Tung ở Đông Sơn, Đàm Tân, Đằng Châu soạn.

MỤC LỤC

SỐ 2115 - ĐÀM TÂN VĂN TẬP

QUYỂN 11

ĐỀ LỜI TỰA (gồm 13 bài)

LỜI TỰA TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG ĐỊNH TỔ ĐỒ

LỜI TỰA LỤC TỔ PHÁP BẢO KÝ

LỜI TỰA NGỮ LỤC CỦA HÒA THƯỢNG LƯƠNG Ở NGŨ PHONG TẠI MINH CHÂU

LỜI TỰA VÕ LĂNG TẬP

LỜI TỰA NGUYÊN TÔNG TẬP

LỜI TỰA DI THẠCH THI

LỜI TỰA THƠ MƯỜI BÀI VỊNH PHÁP VÂN

LỜI TỰA THƠ PHÁP HỶ ĐƯỜNG

LỜI TỰA SƠN TỲ ĐƯỜNG

ĐỀ TỰA THÚ HIÊN

ĐỀ TỰA DU SƠN XƯỚNG HÒA THI TẬP

LỜI BẠT DU SƠN XƯỚNG HÒA THI TẬP

ĐỀ TỰA GIỚI NGUYỆT THƯỢNG NHÂN ĐỔI CHỮ

ĐỀ TỰA CHU CẢM CHI ĐỔI CHỮ

ĐỀ TỰA ĐƯA TIỄN DIÊU GIÁ BỘ ĐỀN TẦM DƯƠNG

ĐỀ TỰA THƠ ĐƯA TIỄN QUÁCH CÔNG PHỦ TRIỀU PHỤNG

ĐỀ TỰA BÀI CA ĐƯA TIỄN BÍ THỪA VƯƠNG TRỌNG NINH

ĐỀ TỰA THƠ TIỄN ĐƯA CHU CẢM CHI VÀO KINH

ĐỀ TỰA THƠ TIỄN CHU CÔNG TẾ

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA BÍ THƯ CHU CẢM CHI TRỞ VỀ PHƯƠNG NAM

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA LÂM DÃ PHU TÚ TÀI TRỞ VỀ TRIỀU DƯƠNG

ĐỀ TỰA BÀI CA ĐƯA TIỄN SƯ PHẠM TÀI CÁT VỀ THIÊN THAI

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA PHÁP SƯ CHÂN TRỞ VỀ LÔ SƠN

QUYỂN 12

CHÍ-KÝ-MINH-ĐỀ (gồm 12 bài)

VÕ LÂM SƠN CHÍ

DU NAM BÌNH KÝ

GIẢI THÍCH TÊN ĐỘC TÚ THẠCH

BÀI KÝ ĐẠI TẠNG CHUYỂN LUÂN Ở THIỀN VIỆN SÙNG THỌ TẠI VÔ VI QUÂN

BÀI KÝ CÁC THIÊN PHẬT Ở THIỀN VIỆN SÙNG PHƯỚC TẠI CHƯƠNG CHÂU

BÀI MINH SONG CÁC Ở LẶC ĐÀM. (và lời tựa)

BÀI MINH THANH HIÊN. (và lời tựa)

BÀI MINH NAM HIÊN. (và lời tựa)

BÀI MINH CHIẾC NGHIÊN CŨ. (và lời tựa)

ĐỀ Ở VÁCH TƯỜNG ĐÌNH HÀ HƯƠNG CỦA THUYÊN THƯỢNG NHÂN TẠI TÂY HỒ, TIỀN ĐƯỜNG

BIA VĂN TRUNG TỬ

KHÚC KÝ HẠNH NGHIỆP CỦA CỐ ĐẠI PHÁP SƯ TỪ VÂN-VÕ CÔNG Ở CHÙA THIÊN TRÚC TẠI VÕ LÂM-HÀNG CHÂU

QUYỂN 13

BIA-KÝ-MINH-BIỂU-TỪ

BÀI MINH THÁP CỐ HÒA THƯỢNG CẦN CÔNG Ở THIỀN VIỆN TƯ THÁNH TẠI TÚ CHÂU

BÀI KÝ ẢNH ĐƯỜNG CỐ HÒA THƯỢNG XIÊM Ở THIỀN VIỆN TƯ THÁNH TẠI TÚ CHÂU

BÀI MINH THÁP ĐẠI SƯ PHỔ TỪ Ở LINH ẨN

BIỂU VĂN THÁP CỐ ĐẠI ĐỨC HẠNH THIỆU Ở CHÙA BẢO THẮNG TẠI NÚI THẠCH BÍCH-HÀNG CHÂU

AI TỪ TRÍ CHÍNH THỊ LANG TRUNG SƠN CÔNG

AI TỪ LÝ HỐI THÚC THÔI QUAN

AI TỪ CHU THÚC TRÍ

THUẬT XÁ LỢI HÀNH ĐẠO Ở CHÙA TINH NGHIÊM TẠI TÚ CHÂU

ĐỀ Ở VÁCH TƯỜNG ẢNH ĐƯỜNG VIỄN CÔNG

ĐỀ SAU TRUYỆN MAI PHƯỚC

BIÊN GHI CUỐI TRUYỆN VĂN TRUNG TỬ

BIÊN GHI SAU LÝ HÀN LÂM TẬP

BIÊN GHI SAU TRUYỆN GIA CÁT VÕ HẦU

BIÊN GHI SAU TRUYỆN PHẠM TUY

NGỢI CA TRUYỆN ĐOÀN THÁI ÚY THỜI TIỀN ĐƯỜNG

NGỢI KHEN HIẾU THIỆN

TRUYỆN LỤC THIỀM

TRUYỆN HÀN KHOÁNG

BÌNH SÁCH CỦA THANH CÔNG Ở BẮC SƠN

BÌNH VỀ VIỆC THIỀN TỔ TUỆ KHẢ TRONG TỤC CAO TĂNG TRUYỆN THỜI TIỀN ĐƯỜNG

QUYỂN 14

PHI HÀN TỬ

LỜI TỰA

BÀI MỘT

QUYỂN 15

PHI HÀN TỬ

BÀI HAI

BÀI BA

BÀI BỐN

BÀI NĂM

BÀI SÁU

BÀI BẢY

BÀI TÁM

BÀI CHÍN

BÀI MƯỜI

BÀI MƯỜI MỘT

BÀI MƯỜI HAI

BÀI MƯỜI BA

QUYỂN 16

PHI HÀN TỬ

BÀI MƯỜI BỐN

BÀI MƯỜI LĂM

BÀI MƯỜI SÁU

BÀI MƯỜI BẢY

BÀI MƯỜI TÁM

BÀI MƯỜI CHÍN

BÀI HAI MƯƠI

BÀI HAI MƯƠI MỐT

BÀI HAI MƯƠI HAI

BÀI HAI MƯƠI BA

BÀI HAI MƯƠI BỐN

BÀI HAI MƯƠI LĂM

BÀI HAI MƯƠI SÁU

BÀI HAI MƯƠI BẢY

BÀI HAI MƯƠI TÁM

BÀI HAI MƯƠI CHÍN

BÀI BA MƯƠI

QUYỂN 17

THƠ CỔ LUẬT

THƠ BA VỊ CAO TĂNG

TRÚ CÔNG Ở TRÁP HAY THANH TÚ

TRIỆT CÔNG Ở VIỆT NHƯ BẢNG TUYẾT.

TIÊU CÔNG Ở HÀNG SÁT MÂY XANH.

TIỄN ĐƯA BÍ THƯ CHƯƠNG BIỂU DÂN.

Ý XƯA (có năm bài)

BÀI MỘT

BÀI HAI

BÀI BA

BÀI BỐN

BÀI NĂM

ĐẾN LONG SƠN PHỎNG TÌM ĐẠO SĨ LÝ TIÊN SƯ

CẢM NGỘ. (có chín bài)

BÀI MỘT

BÀI HAI

BÀI BA

BÀI BỐN

BÀI NĂM

BÀI SÁU

BÀI BẢY

BÀI TÁM

BÀI CHÍN

NHỚ CÁC KHAI SĨ NGẦM Ở NÚI KIÊM THỊ -VIỆT TRUNG

NGÂM THU SỚM

CÁC HIỀN GIẢ NGHỈ ĐÊM Ở NÚI, PHÚ VỊNH ĐƯỢC MÂY CHIỀU DƯỚI HANG

CHIẾT GIANG CHIỀU TRÔNG

ĐỀ CHÙA KÍNH SƠN

LANG THỊ LANG TỪ QUAN

TẢO MAI TRONG NÚI.

BƠI THUYỀN KHE NHÃ DA

THƯ MAO CÓ ĐÌNH CHƯƠNG VIÊN

SƠN ĐÌNH CHIỀU XUÂN

TỰ TẶNG

NGÀY HẠ KHÔNG MƯA

GHI NHỚ CUỐI NĂM

ĐI SỚM TRONG NÚI

CHIỀU VỀ TRÊN HỒ

CUỐI XUÂN GỬI BẠN SANH

GỬI NHỚ THIỀN SƯ NGUYỆT Ở NÚI LẶC ĐÀM

TIỄN ĐƯA KHÁCH VỀ BẮC KHUYẾT, LÀM GIỮA ĐƯỜNG

THƯ VẬN VÔ BIỆN ĐẾN THỪA THIÊN TÁI MẠNG

SƠN XÁ CHIỀU VỀ.

ĐỌC SÁCH

TIỄN ĐƯA LÔ ẨN SĨ VỀ LÔ SƠN.

TÚC SỰ VỀ LẠI NÚI NAM BÌNH

VÀO NÚI THẠCH BÍCH

TỰ VUI TẠ CHỖ BIẾT TRONG NÚI

GỬI THỪA THIÊN NGUYÊN LÃO

GHI RĂN

NGUYÊN NHẬT

BIÊN THUẬT SÁCH XONG, NGHĨ TRỞ VỀ NAM, GẶP KHÁCH TỪ PHIÊN NGU ĐẾN, NHÂN PHÚ THƠ NÀY

RIÊNG THƯỞNG SUỐI LẠNH, GỬI XUNG HỐI THƯỢNG NHÂN

KHIỂN HỨNG TAM TUYỆT

GHI CHÙA LỤC HÒA-NAM SƠN

TRONG MƯA NGÀY HÀN THỰC

DẬY SỚM

ĐỐI CHIM KHÁCH

GỬI NGỘ XUNG MAI

RỬA BÚT

ĐẾN NÚI ĐẠI TỪ, GHI Ở VÁCH TƯỜNG CỦA TRÚ THƯỢNG NHÂN

THANH KHÊ

QUYỂN 18

ĐÔNG SƠN, SA-MÔN KHẾ TUNG LÊN

CHƯƠNG AN-DƯƠNG BÀN TIẾP VẬN

SA-MÔN DUY NGỘ Ở THẢO ĐƯỜNG-TIỀN HỒ TIẾP VẬN LÊN

ƯỚC HẸN XUNG HỐI ĐẾN NGHỈ Ở TINH XÁ ĐÔNG SƠN THIỀN TỰ ĐÃ GHÉ TRƯỚC (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

ĐẾN PHỎNG HỎI VĨNH AN THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN GHÉ TRƯỚC (Duy Ngộ)

TIẾP VIỆN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

NGHỈ ĐÊM Ở PHƯƠNG TRƯỢNG VĨNH AN, THƯ TRÌNH THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA (Duy Ngộ)

MỪNG CÔNG TẾ XUNG HỐI ĐẾN THĂM (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

ĐẾN LINH ẨN GẶP MƯA, TRÌNH PHỔ TỪ VÀ HAI THI ÔNG (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

CÙNG CÔNG TẾ XUNG HỐI NGHỈ TẠI LINH ẨN ĐÊM TRỜI LẠNH (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

SỚM QUA THIÊN TRÚC TRÌNH MINH TRÍ VÀ HAI LÃO ĐỒNG ĐI. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

ĐÙA VUI BÊN CẠNH NAM GIẢN, TRÌNH CÔNG TẾ XUNG HỐI (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

ĐẾN CHÙA THIỆN THƯỢNG THIÊN TRÚC TRÌNH ĐÔNG SƠN, TRỌNG LINH, XUNG HỐI (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

CÙNG CÔNG TẾ, XUNG HỐI ĐẾN THIÊN TRÚC, KIÊM GIẢN TRÌNH THIỀN LÃO BÁ CHU (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

DỪNG NGHỈ THIÊN TRÚC, LẠI TẶNG THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN VÀ XUNG HỐI. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA (Khế Tung)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

NGHỈ TẠI CHÙA THIÊN TRÚC, PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI TRÌNH HAI LÃO. (Dương Bàn)

ĐỒNG PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI (Khế Tung)

ĐỒNG PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI (Duy Ngộ)

TIỄN ĐƯA CÔNG TẾ VÀ XUNG HỐI XUỐNG NÚI, KIÊM GIẢN DỪNG GHÉ LÝ TƯ VĂN (Khế Tung)

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

DẠO NÚI VỀ GẶP MƯA TRÌNH TRỌNG LINH, XUNG HỐI (Dương Bàn)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

TRONG NÚI NHỚ LẠI LÃO ĐÔNG SƠN (Dương Bàn).

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Khế Tung)

LIỀN ĐƯỢC CÔNG TẾ XUỐNG NÚI, GIỮA ĐƯỜNG BÀY HAI THIÊN BỈ TƯ KHÔ CẠN VÂNG HÒA CHẲNG RỖI TẠM XIN BÃI XƯỚNG

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

XUỐNG NÚI ĐẾN GIỮA ĐƯỜNG GỬI THIỀN SƯ VĨNH AN

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

CÔNG TẾ VÀ XUNG HỐI XUỐNG NÚI, NGÀY SAU DÂNG GỬI

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Duy Ngộ)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Khế Tung)

CUỐI NĂM VỀ LẠI TÂY Ổ GỬI CÔNG TẾ VÔ BIỆN

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Biện Nguyên)

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

GỬI THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN. (Dương Bàn)

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Khế Tung)

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP (Khế Tung)

GỬI KHUYÊN XUNG HỐI CHÓNG HÒA CHUYẾT THẬP

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Duy Ngộ)

NĂM MỚI MƯA SUỐT KHÔNG NGƯNG, GỬI CÔNG HỐI, KIÊN GIẢN VÀ HIỀN LỆNH CƯỜNG CÔNG

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

TRỘM THẤY THƠ MƯA LÂU CỦA TRỌNG LINH LẠI NÓI Ý TÔI VÀ CÔNG TẾ NGÂM THEO, LIỀN TIẾP VẬN VÂNG HÒA

LẠI TIẾP NGUYÊN VẬN. (Chí)

LẠI TIẾP VẬN DÂNG GỬI CƯỜNG LỆNH (Khế Tung)

LẠI TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Chí)

QUYỂN 19

PHỤ LỤC TRƯỚC THUẬT CỦA CÁC SƯ LỜI TỰA

LẠI TIẾP LỜI TỰA

THƠ LỄ THÁP THIỀN SƯ KHẾ TUNG

THƠ VIẾNG ĐIẾU THIỀN SƯ KHẾ TUNG.

TÁN THÁN ĐẠI SƯ MINH GIÁO.

ĐỀ THIẾP VIẾT TAY TÁN THÁN THIỀN SƯ

BÀI MỘT

BÀI HAI

SỚ TRÙNG KHẮC ĐÀM TÂN VĂN TẬP

HẬU TỰA TRÙNG KHẮC ĐÀM TÂN VĂN TẬP

 


QUYỂN 11

ĐỀ LỜI TỰA (gồm 13 bài)

LỜI TỰA TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG ĐỊNH TỔ ĐỒ

Bồ-đề Đạt-ma thật là Tổ thứ hai mươi sáu trong giáo của nhà Phật, cũng như Đại Ca-diếp là người trực tiếp tương thừa từ Đức Thích-ca Văn Như Lai. Lưu truyền đạo đó đến Trung Quốc, năm tháng thời đại tích chứa lâu xa, phả điệp sai lầm rối ren, mà người học ít biết không thể suy rõ gốc thật đó, lẫn lộn dị luận xưa nay lắm nhiều vậy. Tôi bình sanh lấy đó làm hoạn nạn lớn, vừa khảo xét phải quấy đó, để làm chánh Tông Tổ đó. Sách đó vừa ra mắt, gặp ban biểu đồ Tổ sư truyền pháp trao y, trải bày đến cùng thiên hạ. Nhưng người học Phật tuy đều vinh hạnh đó, vẫn còn nghe oánh ngời chưa hiểu ý trên. Tôi nay đây trộm nói cùng người có nhận biết rằng: "Phật tôi đem cốt yếu của chánh pháp làm tông của một Đại giáo, dùng kín truyền nhận làm Tổ của một Đại giáo. Tông đó là Đạo nguyên của Thánh Hiền, là Diệu bản của sanh linh. Tổ đó là Đại Phạm của muôn đời học Định tuệ, là chân nghiệm của mười hai Bộ thuyết.

Từ khi sách truyện loạn lạc đó lan tràn, thiên hạ nghi ngờ đó cả trăm ngàn năm vậy. Nay Hoàng thượng là bậc Đại Thánh đặc ban Biểu đồ để làm chánh Tông Tổ đó. Nhưng Thánh nhân giáo Đạo hẳn Thánh nhân mới hay chánh đó. Đó đâu chỉ may mắn lớn của sanh linh trời đất vậy. Tôi cố chẳng trốn lánh trách phạt, tiếm vượt ngu vọng đó, dám mê mờ chế dẫn việc cũ của sách đó, suy diễn ý của Đại Thánh, ngưỡng ghi chú ở Tổ Đồ, cũng là chỗ trước gọi là ban Tổ sư truyền pháp trao y ấy vậy. Nhưng mới đầu đó loạn lạc Tổ Tông tôi, thiêu đốt lầm hoặc người học trong thiên hạ, chẳng như ở "Phú Pháp Tạng truyện". Chánh Tông tổ đó để dứt đoạn tranh cải của muôn đời thì không gì như ở "Thiền Kinh". "Thiền Kinh" đã lưu xuất trước "Phú Pháp Tạng truyện" sáu mươi hai năm, thỉ chung đều biên ghi đầy đủ, hai mươi tám vị Tổ đã thấy ở đời nhà Tấn. "Phú Pháp Tạng truyện" khuyết sau niên hiệu Thái Bình Chân Quân (440-451). Đời vua Thái Võ Đế-Thác Bạt Đào (424-452) thời Bắc Ngụy phế hủy Phật giáo vậy, chỉ nói có hai mươi bốn đời Tổ sư thấy ở thời nhà Ngụy. Vừa lấy "Thiền kinh" để nghiệm xét, mà "Phú Pháp Tạng truyện" quả thật đó sai lầm vậy. Như kinh Đại Niết-bàn, luận Đại Trí Độ cùng lời tựa đó vậy. Dùng ý để tìm cầu đó, mà ý chỉ vi diệu của Phật còn vậy. Hoàng Thượng dục tâm cao diệu, riêng được ở ngoài ngôn ngữ, đó là thiên tư Phật ký thác vậy. Nên đó phát huy Thiền tổ nhã cùng kinh hợp, thích nghi ban trải muôn đời trọn làm đoán định. Các hàng Phật tử Tam học, tuân theo đó mà kính ngưỡng, thiên hạ chẳng lại nghi ngờ vậy. Xếp bày của Biểu Đồ đó, từ Đức Phật Thích-ca Văn, xuống Đại Ca-diếp, đến Thiền sư Đại Giám. Lục tổ ở Tào Khê, cả thảy ba mươi tư vị. Lại vì các bậc Hiền của Nho giáo và Phật giáo, họ nói Tông Tổ tôi vốn có chứng cứ, mười vị xếp bày ở chung quanh chư Tổ, kính cẩn cùng theo Truyền Pháp Chánh Tông Ký đó đến cung quyết tấu dâng. Mảy trần vấy bẩn Thần quyến, chẳng nhậm lo sợ rất lắm. Kính ghi lời tựa.

LỜI TỰA LỤC TỔ PHÁP BẢO KÝ

Bài này tức do Thị lang làm phụ

Căn cứ Đường Thư nói: Cuối thời Hậu Ngụy có vị Tăng hiệu là Đạt ma vốn con vua nước Thiên Trúc, vì hộ pháp nên xuất gia, đi vào Nam Hải, chứng đắc Diệu pháp của Thiền tông từ Đức Phật Thích-ca Văn tương truyền, có y bát làm chứng ký, vì đời cùng trao nhận. Đạt-ma mang y bát theo đường biển đi thuyền mà lại. Vào Nam Lương, đến vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550), vua Võ Đế đem việc Hữu vi mà hỏi, Đạt-ma không giảng nói, mới đến Bắc Ngụy ẩn ở chùa Thiếu Lâm tại Tung sơn, đem Pháp đó truyền trao cho Tuệ Khả. Tuệ Khả truyền trao cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền trao cho Đạo Tín, Đạo Tín truyền trao cho Hoằng Nhẫn, Hoằng nhẫn truyền trao cho Huệ Năng, mà lại truyền xuất cho Thần Tú. Huệ Năng tính từ Đạtma đến Trung Quốc tức là đời thứ sáu, nên thiên hạ gọi đó là Lục Tổ.

Pháp Bảo Ký là do Lục Tổ giảng nói Pháp đó vậy. Pháp đó là Đại Bản của sanh linh, nào là người, là Quỷ thần, là muôn vật, bèn cùng thanh minh quảng đại đó rối ren mà khác lạ. Lục Tổ mới xót thương đó, mới dẫn dụ người, muốn người tìm cầu đó, tức tâm đó mà trở lại với Đạo vậy. Nhưng người nói tánh mạng ở trong thiên hạ có lắm nhiều vậy. Như họ nói đó rất rõ ràng, lý đó rất xác đáng, suy đó thảy tường tận, mà nhà Phật chứng đắc đó vậy. Như họ chỉ bày đó rất thẳng, hướng đến đó rất tắt, chứng đắc đó rất gần, mà Lục Tổ đối với nhà họ Thích lại chứng đắc đó vậy. Lục Tổ đối với giáo Đạo nhà Phật có thể gọi là cốt yếu thấu đạt vậy.

Nay Thiên Tử viết Thiện Các Ký, nghĩa là đem bản tánh chứng ở Liễu nghĩa, tức là chưa có bỏ Đạo của Từ phụ ở Lục Tổ, nối dõi thiện tâm của chư Phật vậy. Kỳ vĩ thay! Chỉ bậc Chí Thánh mới có khả năng biết chí Đạo vậy. Nhưng thuyết của Lục Tổ, tôi vốn kính trọng đó, lo hoạn đó bởi sự thêm bớt của thế tục, mà văn tự hẹp hòi, rườm rà xen tạp, gần như không thể khảo sát. Gặp có Sa-môn Khế Tung làm Đàn Kinh Tán, nhân đó tôi nói cùng Sư Khế Tung rằng: "Nếu có khả năng chánh đó, tôi sẽ vì xuất tài của, khắc bản in ấn để rộng lưu truyền". Trải qua hai năm, Sa-môn Khế Tung quả nhiên có được Bản cổ của Tào Khê mà hiệu đính đó, khắc thành ba quyển, rõ ràng lời của Lục Tổ lại chẳng sai vọng, mới bảo thợ khắc bảng để gom tập Thắng sự đó.

Ngày mười chín tháng ba năm Chí Hòa thứ ba (1056) thời Bắc Tống. Kính ghi lời tựa.

LỜI TỰA NGỮ LỤC CỦA HÒA THƯỢNG LƯƠNG Ở NGŨ PHONG TẠI MINH CHÂU

Mới đầu, Đức Phật Thích-ca Văn, ngoài kinh giáo ra, đem Đại Tam muội bảo cùng đệ tử cao túc là Đại Quy Thị trao truyền đó. Nhưng chẳng phải không liên quan đến kinh giáo, bởi chỗ mở sáng của kinh giáo vậy, đem dùng ấn chánh hết thảy pháp môn quyết định làm Tông cực của Diệu giác. Mãi đến Bồ-đề Đạt-ma tiếp thừa Đại Quy Thị làm

Tổ đời thứ hai mươi tám mới truyền đến Các Hạ. Ở Các Hạ, đến Tổ thứ sáu ở Tào Khê truyền đó. Trải qua thời thế đó, chưa tập học thuần thục các Tổ sư, như tựa kinh để luận người học chưa hẳn thuần dùng chân yếu để chỉ bày đó. Bậc chí nhân đời sau thân gần có mà thích nghi đó, bèn dùng ngay đó mà phát người, nên chỗ làm người đó chẳng dùng kinh nói, nên người chương cú trong thiên hạ nghe oánh ngời, cho đó là trái với Kinh mà lập dị, vì chẳng phải vậy.

Ôi! Đó đâu biết, phàm biến mà thông đó rất khế hợp với kinh. Nhưng người học không dễ thấu đạt đó. Thấu đạt đó lại khó kế tiếp đó, kế tiếp đó lại khó biện rành đó. Như người đều họa vẽ rồng mà chưa từng được thấy hình rồng thật, đến lúc có người đem rồng thật chỉ bảo cho đó mà ở đời cũng không tin, bởi trong thiên hạ, người biết rồng hiếm ít vậy. Nay ở đời, ai chẳng nói Đạo, rối ren đều truyền, chỗ truyền ấy có thấu đạt, có cùng không? Đâu có thể hết được chỗ biện đó ư? Nên tôi thường âu lo hỗn loạn đó, Đạo chân thật làm người bệnh nặng, chỉ thẹn núp mà chẳng thể giăng bày đó vậy. Hiện nay, chỗ tôi biết có Lương Công ở Ngũ phong là bậc Thiện tri thức vậy, càng mừng mà nói đó. Lương công cũng vui mừng tương đắc, bèn đưa bản Ngữ lục cho tôi xem, đọc đó có nhiều điểm phát huy kỳ diệu, chỗ gọi là khéo biến mà thông ấy vậy. Lương Công nhận thọ từ Thiền sư Viên Từ Minh. Từ Minh được truyền kế tiếp từ Lâm Tế, Lâm Tế là được truyền từ Đại Tịch-Đại Trí. Lương Công đây thích nghi với Thiền là bậc thầy vậy. Như đẹp xinh của tu khiết đó, mà ấp người bốn phương thạnh xưng đó, thì đây chẳng phải lại luận bàn.

LỜI TỰA VÕ LĂNG TẬP

Hòa thượng Tuệ Viễn do có đạo phong mà vang danh vang khắp bốn phương. Trong khoảng niên hiệu Thiên Hy (1017-1022), Càn Hưng (10221023) thời Bắc Tống, tiếng tăm người rất vang động, ngài học ở bốn phương chẳng kể xa gần thảy đều quy hướng như nước cuồn cuộn đổ về. Tôi thuở nhỏ có nghe đó, mà hận không biết người đó, về sau đến đất Ngô, được biết điều đó từ hai Samôn Cần và Xiêm. Xem đó phát diễn rõ ràng tường tận, ứng đối thứ tự, ngôn ngữ thảy đều văn vẻ. Chẳng dùng phàm gần tạp xuất, tuy vào Đại kinh Đại luận, mà tựa cứ như văn trị thế, thuyết của Lão Tử Trang Chu mà chẳng nghi ngờ. Nhàn rỗi nghiên cứu chỗ kết quy đó, mà cùng Phật Pháp áo diệu tợ như không thể dùng trí tận cùng thần mà sáng tỏ đó. Ngõ hầu đó ư? Mới đầu, Đại sư Đạt-ma đem tâm ấn của Phật đến Trung Quốc, gặp Thiên tử Nam Lương (Võ Đế-Tiêu Diễn 502-550) đắm trước Hữu vi, không xét rõ lời đó, Đạt ma bèn theo hướng Bắc vào Tung Sơn, quay mặt vào núi, trọn ngày ngồi im lặng suốt chín năm. Đến lúc nghi ngờ của người Hoa Hạ hơi cởi mở thì đạo của Đạt-ma mới được lưu truyền vậy. Đời sau, lại có các cao tăng dùng Thiền quán đó để lưu truyền. Lại nữa, người học ở đời sau không hiểu biết xa rất tin truyền là làm lời ấy vậy. Cũng chẳng tư duy đó quá lắm vậy. Đạo của Đạt-ma, đâu chỉ có Thiền quán mà thôi vậy. Phàm, Thiền là tĩnh, Quán là quán tưởng vậy. Thánh nhân chỉ dạy người mới học khiến họ Tĩnh tư lự để quán Đạo đó vậy. Như chỗ truyền của Đạt-ma tiếp thừa từ Đệ tử Cao túc của Phật là Đại Ca-diếp. Xưa kia, Đức Như Lai lúc sắp diệt độ, đem chánh pháp nhãn tạng có thể dùng ngôn ngữ để phát ra, mà không thể dùng ngôn ngữ để thấu đáo, nên bảo Đại Ca-diếp dùng Tâm để truyền. Chỗ gọi là chánh pháp ấy là nguyên do lưu xuất của Đại giáo, là nguyên do tỏ sáng của các kinh. Người chứng đắc đó, tuy dùng muôn vàn đầu mối mà nói đó nhưng điều nói đó chưa từng xen tạp. Người không chứng đắc đó, tuy dứt tuyệt ngôn ngữ mà giữ đó, nhưng chỗ giữ đó chưa từng không lầm hoặc vậy. Nay điều nói của Hòa thượng, nghĩa là chứng đắc chánh pháp đó vậy. Thiền quán sao có thể cùng tận đó? Hòa thượng được lưu xuất từ đời thứ ba của Đại sư Vân Môn. Đại sư Vân Môn được lưu xuất từ đời thứ tám của Thiền Sư Đại Giám. Than ôi! Cách Thánh nhân càng xa, người học nghi ngờ lầm hoặc sai lầm. Ngay thời của Hòa thượng, cách Đại sư Vân Môn chưa đầy trăm năm, riêng ôm chánh pháp cùng người đó chung trông mong, cứng rắn dẫn dắt người học dùng chánh pháp nhãn tạng đó để chánh truyền trao cho người học đó. Thật như được dừng để chấm dứt chạy cuồng. Đó đối với giáo Đạo mà đức cũng thấu đáo vậy. Sau khi Hòa thượng đã thị tịch, các chúng đệ tử gom nhặt lời của Hòa thượng, lấy chỗ đất nơi Hòa thượng ở, mà đặt gọi tên là "Võ Lăng Tập".

Ngày hai mươi tháng mười năm Nhâm ngọ (1042) thuộc niên hiệu Khánh Lịch (1041-1049) thời Bắc Tống. Kính đề tựa.

LỜI TỰA NGUYÊN TÔNG TẬP

Thiền sư Cần ở Tượng Quận, gom tất cả thuyết của Thiền học và Bách gia, tham tầm mà nhón rút điểm rất thấu đáo của lời đó. Tiếp làm thành sách của một nhà. Do từ Đức Thích-ca Như Lai mà xuống đến Vân Môn, đệ tử truyền y cả thảy có ba trăm ba mươi người, nói có sáu trăm hai mươi tắc, cả thảy hơn một vạn tám ngàn từ. Khi sách hoàn thành, bảo không đầy đặn tên mà đề tựa đó. Đại chỉ vì không theo ngôn ngữ sanh chỗ giải hội. Người bình thường giản đơn kính nhiệm chẳng mất tông đó làm được đó vậy. Nên nói Thiền sư CầnNguyên Tông chứng pháp từ Viễn Công-Đức sơn, ấn khả ở Trường Công-Tam Giác.

Trường Công và Viễn Công đều là Pháp tôn của Đại sư Khuông Chân vậy. Vân Môn tiếp thừa từ Thiền sư Tiến-Vân Phong, Vân Phong tiếp thừa từ Tuyên Giám-Đức Sơn. Đức Sơn tiếp thừa từ Thiền sư Tín-Long Đàm. Long Đàm nối dõi từ Thiền sư Ngộ-Thiên Hoàng. Thiên Hoàng nối dõi từ Đại sư Thạch Đầu. Thạch Đầu tiếp nối từ Hòa thượng Tư-Lô Lăng. Hòa thượng Tư thọ pháp từ Lục Tổ tức là Thiền sư Đại Giám. Mở rộng Đạo do Bồ-đề Đạt-ma hoằng truyền, nên người học Phật trong thiên hạ tôn quý đức đó. Như Khổng Tử tiếp thừa Chu Công mà khua động Đạo của Nghiêu Thuấn, Thánh nhân cử dụng đó sở dĩ gọi là giáo vậy. Đại dụng không thể rốt cùng, tức văn tự lấy làm đến. Tới lúc chủng trí sai biệt, Pháp môn muôn khác, lại sợ người đa văn ở đời sau sai lầm, khốn khổ người học không kịp, nên Đức Thích-ca Như Lai đem ngay chánh pháp trao cho Đại Ca-diếp, tuy chỉ bày ngôn thuyết đó mà không vết tích văn tự. Bồ-đề Đạt-ma cách Đức Như Lai hai mươi chín đời, nhận thọ đó rồi đưa đến phương Đông. Mới đầu mọi người chẳng hiểu, thời đó đều đuổi bỏ. Kịp lúc truyền đến đời Thiền sư Đại Giám, lại rất kính tin. Người học hướng theo, như nước cuồn cuộn đổ về. Ôi! Cuối thời Tượng Pháp, cách Thánh nhân càng xa, người học xuyên tạc mê mất Đạo chân, Thiền sư vì rất lấy làm than thở đó, nên làm mẫu tông cực đó, ngõ hầu có chỗ chánh vậy.

Ngày Rằm tháng mười năm Tân tỵ (1041) thuộc niên hiệu Khang Định (1040-1041) thời Bắc Tống.

LỜI TỰA DI THẠCH THI

"Di Thạch Thi" tức là tảng đá được khiêng về mài giũa xinh đẹp của Quân tử vậy. Tảng đá ấy lúc đầu vất bỏ bên vệ đường, tuy nó quý lạ, to lớn nhưng khả quan, mà người đi đường chẳng đoái hoài. Sa-môn Vô Biện suy nghĩ lấy mà hiển bày đó, mới dùng thợ khéo tính chẳng sùng triều, bèn đặt để đến nơi sân nhà. Cao vút trống như núi cao, trước nhìn ao trong, sau râm cây tốt, hai bên càng mở rộng ba ngôi nhà đề tên là: Thạch Diên, Chiếu cổ và Thiền yến. Đến đó khiến người chợt nhiên mà u tư, từ đó người khoe cùng bảo người trông xem rảo lại, đẹp xinh của Đá một sáng sớm bèn hiển bày. Sa-môn Vô Biện lại làm thơ để ca ngâm đó. Các Hiền sĩ Đại phu cùng chư vị các phương khéo giỏi thơ cũng theo mà phú đó. Hẳn muốn tôi làm lời tựa, nhưng mọi người đều có sự đắm thích, mà có nhã có tục, có Dâm có Chánh. Nhìn vật đó thì Hiền của người đó có thể biết chăng? Nếu Đá đó là vật, tánh nó cứng mà chất nó chắc, hình nó tĩnh mà chế nó vuông. Vuông ấy là tợ như Quân tử cương chánh mà không cẩu thả. Chắc ấy là tợ như tiết tháo Quân tử chẳng thay đổi vậy. Cứng ấy là tợ như Quân tử hùng nhuệ mà đứng vững vậy. Nhưng tên của Di Thạch lại càng đẹp xinh ấy vậy. Ngoài ra phong cự tợ như Hiền nhân nghiêm trọng mà túc vật vậy. Bên trong đó trống rỗng tợ như chí nhân hư tâm mà hợp Đạo vậy. Nay Sa-môn Vô Biện dùng Đạo tôi làm Thiền giả, Sa-môn cũng dùng bút mực cùng các Nho nhân giao du, đem đá đó dựng lập nơi sân, sớm trông chiều nhìn, hẳn muốn nhờ sáu thứ dùng làm Đạo đức có ngoài giúp thưởng, tháo tu đó im lặng xét vậy. Đến lúc đọc thơ đó, tìm cầu nguyên do làm ý đó thì chưa cùng từng đây chẳng hợp. Nhưng, Sa-môn Vô Biện tâm đó xa như vậy mà cùng thế tục đó đùa vui với thật, cố nhiên chẳng đủ cùng trông mong. Các ông đẹp xinh mà thi phú cũng chẳng thích nghi ư? Thơ đó có bao nhiêu bài, đều là Hào phú của thơ ấy vậy, trông nhìn đó có thể thấy, đâu phải chỗ thấp kém có thể thảy đều bình xét.

Ngày... tháng... năm..., Tôi kính đề tựa.

LỜI TỰA THƠ MƯỜI BÀI VỊNH PHÁP VÂN

Trú thượng nhân ở Pháp vân sửa chỗ ở tại Tây Hạ đề là Thúy Việt Đường, vì đó đẹp của núi rừng che râm mát vậy. Cửa nhà xoay hướng Bắc bình thản, đề là Lăng Nhai Môn, chỉ bày đó nhân cao hẳn giẫm chánh vậy. Mới đầu đó vào đường tắt của rừng, đề là Tiêu Nguyệt Kính, nêu cao chỗ tiện lợi đó vậy. Thông với suối nước đó, đề là Hạ Lương Tuyền, tức là quý sự tưới mát nóng bức vậy. Để phô bày tâm địa sáng ngời của Tăng xưa trước, nên đề là Hoa nghiêm Tháp, nhằm biểu đức người đó vậy. Chỉ ngọn núi đó cao vút, đề là Tiêu La Lĩnh. Lấy vui vẻ với việc hoang dã, đề tên Đình đó là Ánh Phát đình, tức lấy nghĩa Vương tử kính núi sông cùng ánh phát vậy. Đặt cốc của núi đó là Dương Hải Đảo, là riêng mừng vui quả ấy vậy. Bảng hiệu lầu các đó đề là Thanh Ẩn Các, lấy chỗ đó có thể tĩnh lặng ấy vậy. Đến hiên trúc tịch, đề là Tu Trúc Hiền, tức phỏng tiết tháo đó vậy.

Mười bài vịnh đó là thuộc ở Tịnh xá Pháp Vân. Pháp Vân gá ở trong núi Đại Từ, cách đô thành khoảng mười dặm, phía Bắc trông nhìn suốt tận Chiết Giang, phía Nam trông nhìn hồ Tiền Đường, trải qua nhiều lớp sườn núi, chợt nhiên men theo khe lội suối, tiếng nước lạnh lạnh, mây cây mịt mờ, sống như từ bên sông hồ đến núi, mà Đại Từ rất là sâu tối. Pháp Vân sân nhà tiếu sái rừng núi cuộn quanh, sầm uất tươi tốt, so với các chùa khác ở núi Đại Từ thì đó lại là tuyệt xuất ấy vậy.

Xưa kia, Lại Bộ lang công làm Thị lang trí chính trở về quê hương, phần nhiều thích rảo bước các danh sơn, rất vui thích ở đó, lấy đó là trú xứ cao giẫm vậy. Cứ mỗi lần đến thì dừng ở cả tuần cả tháng vui vẻ mà quên trở về. Lại Bộ là người danh đức xông tỏa khắp thiên hạ. Đã vui thích ở đó, mọi người cũng văn vẻ theo mà mến chuộng đó. Nên cảnh thắng Pháp Vân bèn vang tỏa khắp xa. Trú Thượng nhân còn lấy làm chưa hết vẻ đẹp của núi sông đó mới càng đề cao mười cảnh đó, chăm chăm dẫn các Thi nhân ngâm vịnh đó. Các hàng tiên sanh tấn thân, cùng các Danh Tăng ở Ngô trung nghe đó đều vui cùng làm Phú, tranh nhau lưu xuất từ kỳ câu lạ, mà phong vận như tuông ra vàng đá leng keng, khởi tư duy trong lắng nơi người. Chỗ gọi là thắng khái là càng vang càng tỏa, đem truyền đó mà không cùng vậy. Nhưng cảnh vật ẩn mất hay hiện bày cũng do sự ôm kỳ cặp dị của người. Ẩn hiển hay cùng thông hẳn có thời số. Cảnh của mười bài vịnh như thế, bày trải trong núi hẳn cũng lâu xa vậy. Bỏ đặt mà chưa từng hơi phát.

Nay Trú Thượng nhân khua động đó, mà thơ các bậc Hiền tỏa sáng đó. Há số đó cùng hội cũng có thời vậy ư? Nên, Hiền giả tuy trọn đời ẩn đó, bởi thời mạng vậy, cũng chẳng đủ may mắn đó. Thượng nhân đã vui được thơ của các vị đó, đặc biệt giao tôi làm lời tựa. Nhưng không có nghĩa là có thể nói cùng tận đẹp xinh của thơ đó ấy vậy.

LỜI TỰA THƠ PHÁP HỶ ĐƯỜNG

Có người khéo giỏi việc, khắc thơ Pháp Hỷ Đường đem truyền tỏa đó, mà Tịnh Nguyên thượng nhân dự biên đó, tiếp đem việc ấy nói với Tiềm Tử tôi rằng: "May mắn chí ông đó vậy!" Phàm Pháp Hỷ đường là một thất nhỏ, ở của Thiền sư Quảng-Bảo Nguyệt vậy. Quân tử khéo đem Pháp Hỷ đó mà tự xử, nên làm thơ mà ca ngợi đó vậy. Thơ đó phàm có bao nhiêu bài là do các Tiên sinh tấn thân, cự công vĩ nhân làm nên vậy, cao vượt thù tuyệt chẳng thể được mà bình luận vậy. Như Bảo Nguyệt sống tâm tốt đẹp, ngụ chữa bệnh để mở lớn hạnh đó, Chương Biểu Dân biên thuật đó rất rõ ràng vậy. Tôi chẳng phải luận nữa, chỉ lần lượt phát mở chỗ gọi là Pháp Hỷ ấy. Phàm, Pháp là Đạo, Hỷ là vui tiện. Đạo hẳn là chánh của trời người. Người mà chẳng tiện Đạo, sao có thể làm Tâm vậy? Phàm, sống chết là đại biến của con người vậy, nếu chẳng phải tiện Đạo, thì không thể ở ngoài biến đó làm chí Thần trọn vẹn vậy. Vinh nhục thạnh suy là biến của việc người, chẳng phải tiện Đạo thì không thể thuận biến đó để đến phần an vậy. Ghét thương lấy bỏ là biến của tình người, chẳng phải tiện Đạo thì không thể lý biến đó để đến tánh thắng vậy. Nên có nghĩa là Đạo không gì chẳng còn nhất quán ở trong ngoài vậy. Chỉ Thánh Hiền thường dùng Đạo ngưng lắm, sống đó chẳng loạn, chết đó chẳng bạc, ra đó chẳng biến đổi, ở đó chẳng phiền muộn, nghèo bần đó chẳng khốn cùng, giàu sang đó chẳng tham đắm, núi rừng ấy, triều đình phố chợ ấy, chỉ Đạo là chỗ tiện vậy. Tục chẳng đoái hoài Đạo mà lục lục lấy biến tệ đó. Than ôi! Xưa nay đâu thiếu vậy thay? Bảo Nguyệt người đất Hàng, nước đó đất an lạc, phong tục dùng xa xỉ cùng cao, người lớn phương phục, cơ hồ quên Đạo mà hướng theo chỗ chuộng đó vậy. Bảo Nguyệt am thất đó trải qua giữa khoảng chợ giếng, mới kiều nhiên riêng tu lạc của Pháp Hỷ. Đó đâu chỉ chuyên tự vui đó mà thôi vậy, đó sắp có chỗ học đòi mà khuyên đó ư? Thơ phú các vị ấy thật là đẹp xinh đó vậy.

Ngày mồng tám tháng mười một năm Tân sửu (1061). Tiềm tử đề tựa.

LỜI TỰA SƠN TỲ ĐƯỜNG

Thiền sư Trí Nghiêm-Nam Tông làm chủ Tinh xá Khánh Thiện, mà ấp nhân thích nghi đó, gần một năm mà chỗ ở đã tu sửa, Bạch Vân Đường người cũng làm mới đó. Lại đem thư mời đồng bạn đó là Khế Tung tôi nói: "Tôi dùng thất hư tiếng trống để tiếp đãi ông". Gặp lúc tôi mới chuyên ý Thiền tập, biên thuật sách, năm đó bèn đến thăm xem, cửa nhà chiếm nửa ngọn núi, nhưng ra sau chỗ ở đó, cửa sang xoay hướng Nam mở rộng. Phía trước trông các núi liền nhau chập chồng quanh co, cùng với Thiên Trù mây cây mà cùng tỏa sáng, như thấy bức họa đẹp tiêu nhiên khởi phát tư duy sâu thẩm nơi người. Tôi vui vẻ ở đó trải qua cả năm, tâm rất tự đắc, mà việc trần giảm ít. Ngày càng thanh tịnh, nhân nghĩ tên chỗ ở cũ lấy nghĩa rất gần, liền bảo lấy hiệu Sơn Tỳ mà thay đổi đó. Sơn Tỳ là lấy hiệu nơi ở của Cao tăng Huệ Ước thời nhà Lương. Xưa kia, Sa-môn Huệ Ước với đức hạnh cao vời, Thiên Tử rất kính trọng, mà Chu Ngung ở Nhữ Nam mới tạo dựng chùa Sơn Tỳ tại Chung Sơn và thỉnh mời Sư đến ở đó. Nên ngày mà Chu Ngung làm xinh đẹp Sơn Tỳ, Sa-môn Huệ Ước ở mà Thanh phong tràn đời. Như Sa-môn Huệ Ước đáng xưng gọi là bậc Hữu Đạo của chúng tôi vậy. Chúng tôi đáng nên kính mộ đó, kẻ ngu sao dám sánh cùng người đó vậy. Lấy Sơn Tỳ đó để đặt hiệu của Đường, thành thật muốn chỗ đó cũng được như Huệ Ước vậy.

Ngày ba mươi tháng giêng năm Đinh hợi (1047), thuộc niên hiệu Khánh Linh (1041-1049) thời Bắc Tống. Đề tựa.

ĐỀ TỰA THÚ HIÊN

Chỗ ở của Từ Hóa đô Tăng chánh là tại Bắc Hiên, ở Tịnh xá làm nơi sâu cùng, nơi cửa sang khác rất là rỗng sáng. Tĩnh lắng có thể để yên, an có thể để nghỉ, vừa tiện để Từ Hóa vui thích đó, muốn Tiềm Tử tôi đề tên mà nêu cao đó. Tiềm Tử tôi nói với Từ Hóa rằng: "Rõ tánh Sư, mọi người đều có thích, mà thích của ông vui mừng gần Đạo. Đó gần như ngõ hầu ư? Tĩnh là chánh, sáng mới soi, hư rỗng mới dung, chỗ làm sâu thẳm mới thanh. Tuy phương trượng đó phòng thất bao bọc chung quanh, chí đạo thì thanh phong hạo khí sáng cả đất trời, suốt cả xưa nay. Diệu thay! Ở đời nhân gian mà tuyệt ra sâu thẳm, chẳng hẳn ở tại núi xanh mây trắng, vắng vẻ rỗng thoáng không ngằn mé, chẳng hẳn ở đời phô bày phương ngoài vậy. Thượng nhân ưa thích đó, đã có thú của chí đạo, mà Tiềm Tử tôi mới dùng chữ Thú Hiên để đặt tên Bắc Hiên đó, mà văn đó càng phô bày chỗ chuộng tâm chí thanh thắng của Từ Hóa. Tiềm Tử tôi là Khế Tung ở Mạnh Lăng vây".

ĐỀ TỰA DU SƠN XƯỚNG HÒA THI TẬP

Tùng sự Dương Công Tế cùng Xung Hối Ngộ thượng nhân đến thăm hỏi Tiềm Tử tôi. Ngày hôm sau lại mời tôi đến ở nghỉ tại Linh Ẩn, lại ngày mai nữa đến ở Thiên Trúc, bèn dừng nghỉ tại Thiên Trúc vậy. Ba người vừa vân du vừa ngâm vịnh được ba mươi sáu bài thơ. Công Tế mời Tiềm Tử tôi đề lời tựa ở đầu. Tiềm Tử tôi nhường lại Công Tế mà nói: "Tôi không dám dẫn trước kẻ sĩ của Triều đình". Công Tế nói: "Đây là núi rừng, chỉ luận Đạo chẳng luận Thế". Tiềm Tử ghi lời tựa chẳng phải nhục vậy. Tiềm Tử tôi nói: "Vâng! Tôi sẽ làm lời Tựa". Nhưng Công Tế và Tiềm Tử tôi kết bạn vốn người Nho người Phật khác nhau vậy.

Người tiến tới Quan sĩ, cùng kẻ thối lùi ẩn tàng lại càng khác vậy. Nay cùng nhau ở đây bởi do bên trong đó có chỗ hợp mà như vậy. Công Tế cùng Xung Hối do ham mê thơ nên hợp, cùng Tiềm Tử tôi vì ưa thích núi nước nhàm tiện nên hợp. Tiềm Tử tôi cũng có phần do thơ mà cùng hợp với Xung Hối. Mà Xung Hối lại vì mến thích núi nước nên cùng hợp với tôi. Phàm, trở về núi nước, phong vị đó đạm nhạt lại tĩnh lắng. Trong thiên hạ ưa thích đó có được bao nhiêu người? Nên tôi thuộc được hợp đó thường ít vậy. Vừa thong dong trong núi, gặp gỡ đó cũng là khó có được. Nên ăn khớp đó lóc cóc đó trọn ngày trông nhìn cùng nói nhau là hầu như quên cả hình tích đó, không biết ai là Phật, ai là Nho nữa!

Ở thời nhà Tấn, Vương Tạ Hứa Tử vì vui thích núi nước nên kết bạn với Chi Đạo Lâm; ở thời Tiền Đường, Bạch Công Ẩn Lô phụ cũng dẫn bốn Thích tử làm bạn phương ngoài. Ý đó há chẳng vậy ư? Hợp với Đạo đó có thể chợt nhiên ư? Mây và Rồng quý do khí hợp, gió và hổ quý vì tiếng hợp. Thánh và Hiền quý vì thời hợp. Vua và tôi quý vì Đạo hợp. Người học quý vì Đạo của Thánh nhân hợp. Trăm thợ khéo giỏi quý vì công việc hợp. Côn trùng quý vì loại đó hợp. Chẳng cùng hợp, tuy Đạo như Trọng Ni, Bá Di cũng không chỗ hợp ở đời vậy. Thiên hạ sao được chẳng trọng chỗ hợp đó ư? Vừa rồi, hai ông đó lại đã bức thúc hết năm, cảnh núi rậm rà vì ý Xuân. Nhưng thay tạ cùng đoạt chợt râm chợt sáng tạnh. Sáng thì mây trắng mốc xanh văn vẻ như vậy, chiều thì băng thừa tuyết ánh như vậy. Suối bay lạnh lạnh như tuông ra vàng đá. Rừng tối hương mai hoặc ngưng hoặc tan, cây có chim hót, suối có cá bơi. Mà hai người đó đam mê núi nước thì chỗ ưa thích càng được, đam mê nhân tiện thì tình đó càng vui. Thắng khí thắm khắp mà lại phát u hứng ưu du cuộn quanh, ngoài ra ngâm tiêu tự nhiên. Tuy người bên cạnh thấy đó, không biết sở dĩ họ làm vui vậy; khách ngồi tiếp đó, không biết sở dĩ họ làm được vậy. Riêng Tiềm tử tôi sắc xanh che phủ, may đi cuối đó, mà nói với đó rằng: "Vui của hai ông chẳng phải chỗ vui của thế tục, được của hai ông chẳng phải chỗ được của thế tục vậy. Đó là khiết tịnh tiêu diêu, việc vượt ngoài đua tranh trần lụy vậy, trọn đó có thể vậy". Nhân bình thơ đó mà nói: "Thơ của Công Tế là Thiệm, Thơ của Xung Hối là Điển. Như Lão lệ nhã kiện thì khí đó cách cùng cao vậy". Tiềm Tử tôi thì im lặng, vì đối với thơ là chẳng chuyên, tuy nhạt yếu bệnh vụn đó, xa chẳng kịp hai ông, đâu có nghĩa là hết không ý đối với hứng vậy!

LỜI BẠT DU SƠN XƯỚNG HÒA THI TẬP

Công Tế mới đầu cùng Tiềm Tử tôi ước giao làm lời tựa và lời bạt tập thơ. Tiềm Tử tôi chẳng tự biết lượng, đã mở đầu mối đó. Công Tế mới khiêm nhường, chẳng lại làm đó, nhưng ý của thơ, lời tựa nói chưa hết. Mới đầu Công Tế thấy thơ gặp tuyết ở trong núi của Tiềm Tử tôi, mến đón lẽ đó cùng riêng đến nói là Tiêu lệ có phong của Cổ nhân, bèn khí khái rút thơ trong tay áo Xung Hối mà tìm đó, ý lưu lại trong núi cùng cực thực quanh co. Tiềm Tử tôi cũng vì Công Tế đã vui mừng thích ý phi thường đó. Lại chẳng tự bó buộc giữa hai bên vui mừng cùng Du vịnh. Tiềm Tử tôi là Thiền giả ít vì tư lự loạn lạc, ở Ngô Trung hơn hai mươi năm, tủi nhục các Sĩ Đại phu vân du theo vài lần vậy. Như Cố Thị lang Lang Công đến trông nhìn đó rất sâu dày. Lang Công lại do thi danh mà hiển bày trong thiên hạ. Tiềm Tử tôi kính phụng hòa xướng đó, cũng chẳng thuộc loại phóng tứ ngày nay, mà chẳng tự cẩn trọng đó. Nhưng Tiềm Tử tôi tuy hẳn bình sanh lớn lên muốn mong ở cao giãn nhã tố, như Chi Đạo Lâm, Tuệ Viễn ở Lô Sơn làm người phương ngoài, lo lắng sức chẳng đủ kịp đó. Tuy nhiên già vậy mà tôi cùng các vị phương bào chịu cùng vui mà theo cùng vân du đó, được mấy người vậy ư? Công Tế là nhà Nho tài tuấn cùng với tôi khác giáo mà cùng ân cần tốt lành như thế, đây chẳng cùng cần vân du và ngâm vịnh thì ai cùng vân du ư? Xướng hòa gồm cả thảy có sáu mươi bốn bài. Mới đầu ở trong núi vân du ngâm vịnh mà thành được ba mươi bảy bài, sau đó giả biệt nhau, mà các ông vẫn nghĩ nhớ gởi nối tiếp Xướng vịnh qua lại được hai mươi bảy bài, đều biên ghi đó làm thành Tập vậy.

Ngày mồng năm tháng hai năm Kỷ Hợi (1059) thuộc niên hiệu Gia Hựu (1056-1064) thời Bắc Tống, Tiềm Tử tôi lại ghi đề.

ĐỀ TỰA GIỚI NGUYỆT THƯỢNG NHÂN ĐỔI CHỮ

Thượng nhân tên là Hiểu Nguyệt tự là Trúc Khanh. Tôi cho là chữ đầu đó nghĩa không xứng đáng, không thể dùng làm Huấn nghĩa, nên dùng Công Hối để đổi đó. Tên dùng chữ Nguyệt, bởi lấy cái nghĩa cao sáng đó vậy. Nhưng sáng không thể trọn sáng, hẳn nhận chịu đó vì tối (Hối). Nhật nguyệt trọn sáng, thì đạo của ngày đêm chẳng thành, nên nhật tối ở Âm mà Nguyệt tối ở Dương vậy. Trời đất là chí minh (sáng cùng tột) của Nhật Nguyệt ấy vậy. Thánh Hiền sao có thể trọn nhọc sáng đó ư? Thánh Hiền trọn sáng thì Đạo của động tĩnh, tiến thối hẳn không đủ Pháp ở thế gian vậy. Nên Thánh Hiền thời xưa trước sáng ở Hữu vi mà tối ở Vô sự vậy. Thuấn sáng ở chánh trị mà tối ở được người, vì nhường thiên hạ. Văn Vương, Kiến Ky Tử sáng so cùng cửu trù mà tối ở đại nạn. Chu Công sáng ở Phụ tướng mà tối ở thành công. Khổng Tử sáng ở văn của Xuân Thu sáu kinh mà tối ở Lữ nhân. Nhan Tử, Mạnh Kha, Tử Tư, Dương Hùng đều cùng cao vọng mà sáng tối ở đời sau vậy. Nên sự nghiệp đó rất lớn, đạo đức càng dương tỏa, làm Pháp ở đời mà muôn đời truyền đó.

Nay thượng nhân là người có khí thức, sáng ở làm học biết Đạo, đó sắp có chỗ tối ư? Thượng nhân chúng tôi ấy cùng sự vật ở thế tục xa vời chẳng tương tiếp, lại càng nên tối vậy. Tôi đối với Thượng nhân là người xưa cũ vậy, cách biệt nhau mười năm, cuối cùng được pháp từ Lang Da, lại gặp ở Ngô trung, xét xử tâm đó không tịch, hay ngoài nơi thân thế mà chẳng lụy được mất phải quấy đó, thật chỗ gọi là hay hướng hối ấy vậy. Chữ (= Tự) đó dùng Hối (= Tối) ước cũng phát tích từ áo nghĩa đó vậy. Một sáng sớm vì Đạo trở về thăm thấy chỗ thân quen, đòi văn làm giả biệt, nên đầu tựa dùng chữ đó mà tặng ấy vậy.

ĐỀ TỰA CHU CẢM CHI ĐỔI CHỮ

Chu Quân mới đầu tự là Cảm Chi, tôi cho rằng nghĩa đó chưa cùng cực, xin dùng chữ Thành Chi để đổi đó. Chu Quân tên là Ứng, nhưng muôn vật không gì lấy theo loại tương ưng mà chẳng thể ứng, chẳng đồng loại vậy. Chỉ người thành thật mới có trời đất khác loại tương ứng. Nên thành thật ứng là công của ứng vật vậy, còn loại ứng là tư của ứng vật vậy. Tư thì ít được, mà công thì ít phu. Quân tử xấu hổ mất chỗ ở một vật, cho nên Quân tử quý thành thật ứng thiên hạ vậy. Thành thật ấy là nghĩa của Chí Chánh vậy. Dịch nói là "Trung Phù". Trung phù tức là trung chánh ấy vậy. Dùng nhu đó mà chánh bên trong, dùng cương đó mà chánh bên ngoài vậy. Huống gì dưới mà thuận với được Đạo đó của Âm Dương vậy. Suy ở nhân sự thì có thể do giáo Đại tín. Thiện nói là hóa bang vậy, heo cá tốt, tin đền heo cá vậy. Trung phù do lợi trinh mới ứng với trời đất vậy. Nghĩa của Thành (thành thật) cũng chẳng là Chí (thấu đáo) ấy ư? Chu Quân mới đầu tôn thờ cha mẹ thì người trong làng ngợi khen hiểu đó, đến lúc làm quan thì liêm minh, trải qua Quan phẩm phàm một Bộ một Úy. Người đó nếu là Samôn áo vàng, Nho sĩ áo trắng đều vui mừng nhân đức đó. Đó nếu chẳng phải đem Thành thật mà đãi vật thì sao có thể thiện đó như thế ư? Mà Chu Quân nhọc ở Huyện Lại trải qua hơn mười năm, tự chẳng đó thấm khắp ngưng trệ mà cẩu thả tiến cử ở biết mình. Hỏi đó thì nói là mạng vậy. Quan sĩ mắc bệnh chẳng làm chính, đâu miệt mài ở người biết. Đó lại thấy thành thật đó thấu đáo vậy. Chỗ gọi là Thành đó cũng chẳng thích nghi ư? Đã mới đầu Chi mà lại cuối cùng cũng Chi. Chi đó nghĩa là Thành vậy. Thiên hạ vì thành thủy chung do đó lớn dày mà cao sáng. Thánh nhân vì thành thủy chung do đó lưu truyền pháp của muôn đời. Tuy nhiên, Thành của Quân tử suy ở chỗ tự đắc đó, tạm thời họ giàu sang vậy, chẳng vì kiêu dật. Họ già vậy chẳng gì rối ren tám chín mươi. Họ uống rượu mà chẳng vì say loạn. Đoán đoán ở "thủy" đó là phải, ở "chung" đó là phải, thì Đạo của Thánh Hiền được chỗ truyền vậy. Đức của Chu Quân sắp chẳng khuyết mà được trọn vẹn đó vậy. Tên đó vang ai có thể diệt mất? Tôi cùng với Chu Quân đều là người phương Nam, lại đặc biệt bạn lành cùng nhận biết sâu sắc mà lại rõ ràng vậy, nên nhân chữ dùng làm tên tự mà gắng gỏi đó.

ĐỀ TỰA ĐƯA TIỄN DIÊU GIÁ BỘ ĐỀN TẦM DƯƠNG

Giá bộ Diêu Công sắp đến Tầm Dương, trên đường hẳn ngang qua đất Yến (Yến là quê hương của tôi). Tiềm Tử tôi muốn nhân người theo đó mà gởi thư. Người bác họ tôi là Lý Chủ bộ Diêu Công, chẳng do hiền đó mà tự cao, mới lại gởi thư nhiều trang, rất mực ngợi khen Tiềm tử tôi khéo dùng bút, rộng xem Lục kinh mà biên thuật sách, phát huy pháp đó để chánh người học trong Nhị giáo. Cho rằng, tuy như các Đại thiền Cự Sư ở thời xưa trước, chưa có ai toàn vẹn như Tiềm tử. Đó rộng mà lại lớn vậy. Diệu Công đó cấp dẫn người làm thiện, muốn khiến họ đạt đến thấu đáo vậy. Tiềm tử tôi không cho như vậy, há quả như vậy ư? Tuy nhiên, mới đầu Tiềm tử tôi biên thuật sách Nguyên giáo, tâm đó thành thật làm cho kia chấp văn tập lý ấy vậy (Chấp văn là Nho giả, Tập Lý là Thích giả, tập dùng tục ngữ để dụ Pháp đó. Đó là thư của Diêu Công gởi lại nói vậy). Cả hai đều tệ Đạo mà chẳng tự phát minh, vừa muốn cứu đó vậy. Sách đó đã lưu xuất, tuy bốn phương vừa truyền, mà học trò người văn thì vui với văn của tôi, người không phải văn thì chẳng biện rành đạo của tôi, cũng lại chẳng thấy chỗ hướng đến thấu đáo của Tiềm tử. Tiềm tử tôi riêng không có học trò, cùng giảng cầu còn ngơ ngác, âu lo Đạo đó chưa rõ ràng đối với người vậy. Đạo của Tiềm tử tôi là Đại bản của sanh linh, là rốt ráo (= Chí) của làm thiện trong thiên hạ. Nếu gốc đó không tỏ sáng thì chí đó chưa xét, người trong thiên hạ muốn chỗ kết quy đó là gì? Kẻ sĩ hành đạo sao nhẫn mà chẳng xót xa ấy ư? Nên Tiềm tử tôi thường chẳng trốn lánh sự chê cười của lưu tục, mới đem sách đó mà cầu thông ở các bậc Thiên Tử, Tể Tướng Hiền Sĩ Đại phu, là bởi vì đó vậy. Nhưng các hàng Tiên sanh tiến thân đều biết, tâm của Tiềm tử tôi như vậy có được bao nhiêu người ư? Diêu Công mới nói là pháp sở đắc của ta như đó vậy, chỉ chỗ làm lại như vậy, dẫn nêu Cao tăng cự sư của thời xưa trước để cùng so sánh đó lại như đó vậy. Há chẳng phải vì đó mà biết mình ư? Cùng biết đó sâu chăng? Diêu Công mới đầu dùng Đại thần tiến cử, tự mặc áo vải đi chân không, chẳng do khoa thường mà thẳng đất cao vào Quan, văn chương tài nghiệp trác việt hơn người có thể biết. Nay lại ra Tầm Dương, Tầm Dương thuộc phương Nam vậy. Tiềm tử tôi người phương Nam, tập học biết được núi nước phong tục rất rõ ràng, hãy vì ông mà nói đó. Lãnh ngoại, từ phía Đông của Ung Quản, phía Tây của Triều dương, phía Nam của Quế lâm, phía Bắc của Hợp phố bao quanh vài ngàn dặm, nước nhà chính giáo khắp đủ, tức sương mốc tuyết mống đó thấm đượm đã nhiều, khí bệnh dịch tiêu mất chẳng phát. Dân tốt vật quý ngày một xuất hiện, phong thổ đó ngày một đẹp xinh. Cây hương rừng quế hoa báu quả kỳ (Hoa báu quả kỳ là người phương nam xưa trước xưng gọi), danh phẩm khác lạ liên tiếp tốt tươi mà quanh năm chẳng tuyệt. Như Ngô, Đăng, Dung, Tầm, một số quận đều men sông. Núi Ngũ Đái, núi rất đẹp xinh, sông rất trong sạch, có động phủ Thần tiên, có lầu quán nhà Phật. Thôn ấp thành quách trông liền nhau, mà người khói cuộn quanh sớm thôn tối dương, đang trời đất lắng tạnh thì khí tượng đó thanh thấu như tranh họa đồ. Nhưng tục đó chất phác, người đó thuần hòa, ít tranh tụng mà biết ngấm dần ảnh hưởng phương. Tôi biết Diêu Công trị dân đó, thì hóa của Nhân nghĩa đó dễ hành, đến cảnh đó thì chí thanh minh đó càng được. Diêu Công tâm thông, lại hay dùng đại đạo tự thắng. Sự thuyết phục giáo của Tiềm tử tôi cũng nhờ đó mà càng được lan truyền vậy. Đợi công phân sắc chiếu trở về lại phương Bắc, sẽ cùng một số người được đạo này. Có bao nhiêu người đó ư? Đường sá trên dưới, khổ nhọc của thuyền xe, ngài nên tự tiện lợi, tự thận trọng đó.

ĐỀ TỰA THƠ ĐƯA TIỄN QUÁCH CÔNG PHỦ TRIỀU PHỤNG

Quách tử mừng vui đạo của Tiềm tử tôi, muốn giúp đỡ để chánh tu từ lập thành đó, Tiềm tử tôi có thể đáng chăng? Quách tử là học trò của Tiên sanh tiến thân, mới riêng có khả năng nhấc lên đạp phong của Cao thế. Khá trọng, khá thẹn! Tôi nói chẳng đủ để cùng giúp đó. Nhưng Quách Tử tuấn sáng thiên tài vượt phát, thuở thiếu thời thì hay làm ca ngâm, tiếng nhiều trăm ngàn lời mà khí đó chẳng suy, thể đó bình đạm. Vận điệu vút cao xưa, cách lực ưu thiệm. Nhiều nhiều càng công, ngậm muôn tượng ở đầu ngòi bút, động đó thì từ cú kinh xuất mà không cùng. Cùng khách người nghe lời tụng đó, tuy cả ngàn từ hẳn ghi nhớ, ngữ vận thanh xướng như tuông ra vàng đá, khiến người kinh động mà ưa thích đó. Tuy như Mai Thánh Du, Chương Biểu Dân lấy làm quý (cuối cùng) Thái

Bạch phục sanh dùng thơ trang bày đó. Khắp bốn biển chín châu các bạn đồng học chưa ai biết Quách Tử là hạng người gì, các Công khanh Triều đình ai từng thấy thạnh của Quách Tử như vậy ư? Phàm, rùa, rồng, lân, phụng, đó cũng là vật vĩ kỳ vậy, khiến nó ghé đính nơi bàn đất, gá nơi gai gốc, thì đó là chỗ tiếc của Quân tử. Tôi sợ Quách Tử hết phải quấn quanh, ngoài ra hư dối cùng đời chìm nổi, nhân lúc giả biệt nên làm thơ phú để cầu chúc đó:

"Đá trắng tạc tạc
Chứa mỹ phái ấy
Quân tử đạo tôi
Quân tử đó vui,
U nhàn rờn rờn
Khua dáng đẹp ấy.
Thục nhân chẳng hiện
Thục nhân chẳng khuyết
Chỉ là tấc vuông
Làm gốc của đó
Trái đó vật lay
Cùng đó vật loạn
Lắng đó gom đó
Lắng lắng buồn buồn
Nước nào trong lắng chừ!
Khá sức khá rửa
Núi nào thầm lặng chừ!
Khá nghĩ khá tiện,
Sao thiếu ở yên
Sao thừa làm đầu".

ĐỀ TỰA BÀI CA ĐƯA TIỄN BÍ THỪA VƯƠNG TRỌNG NINH

Năm trước có sắc chiếu cử Bí tỉnh Vương Hầu đến chấp tể huyện Phù Phong. Vương Hầu vì chịu tang cha tại Thiển thổ, nên xin đợi phong dựng mà sau sẽ đến Quan. Triều đình tốt đẹp đó có con đạo, theo đó lại bảo là: "Lễ xong phải vâng mạng đến Triều đình". Bấy giờ các hàng Nhân sĩ ở Tiền Đường mến mộ Vương Hầu làm quan có tiếng tăm nên cùng nhau bàn nghị rằng: "Phù Phong là đất Tần, mới làm Nhung Địch kinh động, đâu nên đến đó. Chẳng bằng Thiên Tử đưa Vương Hầu lại cho nước ta". Người nhận biết chẳng phải đó thì nói: "Đó là tình của người thường, chẳng phải nghĩa là biết Hiền ấy vậy".

Phàm, Vương Hầu là bậc Hiền mà có khí thức, đọc sách tham tầm Đạo của văn võ, phát khảng khái lập đại tiết, mới đáng làm gương cho Đại hình của nước nhà, dẫn giết trừ hung xu để trị từ lý thái bình. Đó hẳn phấn nhiên để so sánh tài năng đó. Há chịu tục lục theo mọi người, tạm lánh khó khổ, để tìm sự yên ổn nơi đất lắng? Hoặc nói: "Triều đình vì Vương Hầu lâu khuất ở nhũng cục, tạm phát Hiền tướng đó để nhận hiển quan ư? Trong năm Tân Tỵ (1041) đang lúc nắng nóng, quả nhiên từ Tân Định lại sắp đến kinh đô, trên đường ra Tiền Đường, Tiềm tử tôi nhân ca ngợi ý người bàn nghị, nên lấy làm bài ca riêng rằng:

"Chí của Hiền hào chừ!
Thoát lược chẳng buộc
Gắng cao xa vời chừ!
Tục đâu dễ biết.
Thích thảng Đại tiết chừ!
Gặp việc không đổi thay,
An thật bại danh chừ!
Quân tử xấu hổ làm
Cửa trời rành biết chừ!
Cung điện sâm sai Vương
Hầu Chứa chí chừ!
Sắp phát kỳ trong não,
Biển Tần mênh mông chừ!
Lũng thọ y y Vương
Hầu đến ở chừ!
Quyết đi chẳng từ
Ban kia một Ấp chừ!
Khiến dân nhọc mệt
Cũng nuôi Đức kia chừ!
Vùng ven Thanh Tần.
Đang yêu khí lớn chừ!
Cảnh vận thêm sáng
Công danh cùng lớn chừ!
Ngàn năm tốt tươi".

ĐỀ TỰA THƠ TIỄN ĐƯA CHU CẢM CHI VÀO KINH

Cảm Chi vì chịu tang cha nên nghỉ việc Quan, mướn thuê nhà ở Tiền Đường để ở ba năm. Tuy không vác đá chất chứa, chưa từng bước chân đến nhà quyền hào, để tiếng tăm đó đến cùng, tiếp đón giao du, dùng bằng thành thật, không cậy dùng tài, nên các người tương giao đó hoặc là kẻ Sĩ Đại phu, mà dưới đãi cả người trong xóm làng, biết hay không biết thảy đều xưng Hiền với người đó. Nhưng đó chưa đủ để biết Cảm Chi ấy vậy. Phàm, hành đã tự tin, thì Đạo đó chẳng vọng cùng người biện giải. Đến như cùng đạt cũng không vượt đáp tiết nghĩa, đó cũng là Thường đạo của Quân tử ấy vậy. Bởi các hàng lưu tục khinh thường ương bướng chẳng thể giữ đó, nên họ kết quy xinh đẹp ở Cảm Chi ư? Như Nhân nghĩa của Cảm Chi xuất phát từ Thiên tánh đó, đọc sách làm học thức độ sáng xa, luận Lễ nhạc Hình chính xưa nay. Ý chỉ đó đáng chăng, không có gì chẳng phải, khiến đó đắc chí hành ở một ấp một châu, một nước nhà trong thiên hạ, hẳn có thể chính nghĩa, ban ân cho trăm họ, khiến người không oán vọng, đâu chỉ tự tín mà có tận cùng làm Hiền ư? Thuở nhỏ, tôi cùng Cảm Chi biết nhau rất sâu sắc, thường bùi ngùi không sức lực để trải bày đó. Nay Xuân Phục khuyết, lại điều ra làm quan tại kinh đô, mong cũng sắp trở lại Lô Phụ, tiếc đó vì cách biệt xa vời, nhân làm bài thơ để giải bày tư tưởng quyến luyến rằng:

"Cùng ông rong chơi chừ!
Tâm tôi thênh thênh
Cùng ông giả biệt chừ!
Tâm tôi thêm lo buồn,
Ông cất bước đi chừ!
Xuân thủy mênh mông
Trời xanh chín tầng chừ!
Mây khuyết thênh thang,
Khí trông hào hoa chừ!
Tiếp cánh liệng bay
Hoài đức riêng tới chừ!
Ai người cùng dương,
Gạo quý như ngọc chừ!
Củi tợ cành Quế Kinh
Quốc chín hưu chừ!
Sao làm chỗ giúp
Giang Nam tháng năm (05) chừ!
Cỏ Dao bờ dậu
Sớm về lại chừ!
Yên tương tư đây".

ĐỀ TỰA THƠ TIỄN CHU CÔNG TẾ

Ngày trước, Tiềm tử tôi ở Tầm Dương, Công Tế thuở nhỏ theo học chỗ bạn tôi là Chu Thúc Trí. Chuyên học mà trầm lắng rõ hiểu, nói năng không phát vọng, chẳng đồng như các bạn học. Tiềm Tử tôi thường nói cùng Thúc Trí rằng: "Tầm Dương núi sông khí tượng thanh thuần, thích nghi ung đúc ở người đó. Học trò ở đây, trong các người con của nhà họ Chu, nghi rằng Công Tế được đó vậy. Tôi thấy Công Tế học ở chỗ thành vậy". Đến lúc Tiềm Tử tôi giả biệt Tầm Dương hơn mười năm, quả nhiên nghe Công Tế đổ đạt Tiến Sĩ, sau đó lại nghe do Hiền giám ty Lý Công tiến cử nên được chấp tể tại Kiến Đức, chưa đầy một năm mà khắp đường xá lan truyền làm Hiền lệnh. Mùa thu năm trước nhân có việc đến đất Hàng, mới quyền Tiền Đường, bèn được lui tới trong núi, thấy Công Tế trị dân ít dùng lại thuật, phần nhiều dùng Nhân nghĩa. Thấy việc cung kính mà chuyên cần, hành đã đoan chánh lại liêm khiết, cùng người tương giao lâu mà càng kính, chưa đầy tháng trời mà người ở Hàng châu tự nhiên cùng ngợi ca. Tiềm tử tôi trộm mừng, may mắn ứng nghiệm của lời tôi nói xưa trước vậy. Nhưng ngợi ca Thúc Trí là bậc sĩ có đạo vậy. Bình sanh rất ưa thích dùng nhân nghĩa đến với người kích động giũa mài phong tục đó. Buồn tiếc Thúc Trí đã sớm qua đời, không thấy được sự dựng lập của Công Tế ngày nay. Tuy nhiên, Công Tế đem lại vốn tự được, đâu phải là ngu dốt nhờ ở Thầy Hiền khéo dẫn dắt hỗ trợ đó ư? Gặp Tiềm tử tôi mới đầu lấy truyền Đạo làm chí, chỗ tích chứa chưa tỏ bày. Công Tế lúc bình sanh sức làm do tôi khua động đó. Công Tế vừa thành thật lại chuyên cần, tuy các bậc tài sĩ kháng khái ngày xưa trước cũng chẳng qua đó vậy. Sắp giả biệt, ý mông lung rất cảm mến đó, mới làm bài thơ để tặng Công Tế đi đó. Lời thơ rằng:

"Khí tốt ngùn ngút chừ!
Tại như thân của người,
Tôi xưa xem ông vậy!
Cao khác chẳng bạn đồng
Nghiệm dấu vết trị vậy!
Nay đã tỏa sáng rực
Buồn thầy của ông chừ!
Không thấy phong Quân tử.
Sắp phải biệt ly chừ!
Ven sông Rảo bước song khuyết chừ!
Ngàn dặm Đế tòa rực rỡ chừ!
Cửa ông nghiêm sâu
Gắng tự tiến tới chừ!
Chớ để chìm cạn".

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA BÍ THƯ CHU CẢM CHI TRỞ VỀ PHƯƠNG NAM

Từ Hàng Châu cách giao đất rộng, ra Giang Nam ụ trạm dừng nghỉ năm sáu ngàn dặm. Chuyển đi bằng đường biển gặp gió thuyền đi được mỗi ngày ngàn dặm, không vậy thì dừng lạc đến đảo khác trải qua cả tháng năm dài, nên người từ phương Nam đến đất Ngô thường lấy đó làm khó khổ. Nay có khách ở Tiền Đường đã thấy hai mùa Xuân vậy, thấy người lại tự phương Nam có phần hiếm ít. Tháng ba năm Canh thìn (1040), có người khách vì Chu Úy (Chu Cảm Chi) đến bảo với tôi rằng: "Úy đến nhận phong người vậy. Ông sao thấy đó ư?" Một sáng sớm tôi đến nhà đó, gặp lúc Úy đi vắng, trở về trong lòng cứ mãi áy náy không yên. Vài ngày sau, quả nhiên Chu Úy dẫn theo tùy tùng hỏi tìm đến nơi tôi ở. Vào Thất cùng trò chuyện việc quê hương rành rẽ trong sáng cả tai mắt. Bình sanh như nói xưa cũ, gắng gỏi mà chẳng thể dừng nghỉ, áo ôm bằng phẳng, thấy đó làm người có Đại thể. Tới chiều tối mới dẫn đi, tôi mới lấy làm lạ đó, nói với người có nhận biết rằng: "Úy dùng văn từ phấn phát lời thề, chẳng phải do Tiến Sĩ được Quan không làm vậy". Thường tứ cử khuất ở Hữu ty mà chẳng biến đổi tâm đó. Đến lúc được đó, cũng chưa từng vì chỗ làm Quan xa so với nhà mà nhường Quân mang. Do vì kinh đô như quê cũ, nghinh đón người thân đó mà đến ở Tiền Đường. Đường xa cả muôn dặm, chẳng vì lộc mỏng bạc chưa lắm có sức làm nhọc, ở Quan quá liêm khiết, tuy nước uống hẳn muốn mua. Phàm, Kẻ sĩ lo lắng không có tiết tháo, chẳng lo lắng không lập. Tạm sáng sớm gặp phải việc phải làm mà chiều tối mất chỗ giữ đó. Gà gáy ngâm nga, cỏ thi thích tạm dung chẳng rãnh, đáng chỗ lợi thì tranh giành, chỗ không lợi thì khước từ, cách làng xóm chưa tới trăm dặm, thì trọn ngày ân hận tỏ vẻ nữ nhi, lại sao mong danh tiếng lớn, vết tích hay rực rỡ soi sáng thiên hạ đến đời sau như Chu Úy ấy ư? Gìn giữ tiết tháo đó, thủy chung chỉ một, cũng chẳng thật khẳng khái Đại trượng phu ư? Tôi nghe các bậc già lão xưa tương truyền rằng: Phương Nam toàn Dương có được người khí khái chân chánh đó, hẳn cứng mạnh trung chánh mà thông minh. Tôi đối với Chu Úy đều là người ở phương Nam vậy, riêng chỉ khiếp nhược mờ tối không một khéo để tự phát tánh thuốc đó, lại chẳng thể hiển nhiên cao tạ cùng vật bàn bạc ở một đời. Thấy Chu Úy như vậy mà chẳng thẹn chỗ sanh đó ư? Nhân vì khởi phát tình quê cũ, há chẳng phải chỗ Trang Chu gọi là cách người càng xa mà nghĩ tưởng người càng sâu ư?

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA LÂM DÃ PHU TÚ TÀI TRỞ VỀ TRIỀU DƯƠNG

Ở đời ngợi ca Triều Dương có nhiều Quân tử, mà giòng họ Lâm rất thạnh. Tôi mới đầu gặp thân phụ của Dã Phu làm Điền tào ở Hàng Châu. Trông thấy đó rộng sáng thuần túy sức hành Đạo xưa làm chính, chẳng so le trang sức việc quan lại, mới tin người ngợi ca đó không dối tốt lành vậy. Lại gặp quan Phạm Dương, Lô Nguyên Bá nói về Dã Phu kính trọng thân phụ rằng: "Tiên sanh Tốn là người vừa mới sanh mà biết vậy. Học sáu kinh, tham tầm trăm nhà, thảy đều hay nghiên cứu tận cùng, bao nhiêu Đạo của Thánh nhân, cao vợi tự đắc. Vì cho rằng Dịch là Đạo đủ cả Tam cực, tích chứa của Thánh nhân, riêng bệnh giòng họ Dương Hùng muốn sáng tỏ đó mà cao vời ấy chưa thấu đáo. Nhân trứ thuật Thảo Phạm sắp vì làm Đại minh thủy chung của Dịch Đạo vậy. Lại cho rằng, hưng vương là lễ nhạc làm lớn nên lại trứ thuật sanh lễ nhạc để chỉ bày mới đầu của Đế Vương trị chính. Vốn làm Nho chẳng miệt mài ở giàu sang, mà cao tiết xa vời, tìm phong giáo của Thánh nhân xưa trước". Tôi lại càng tin sự hưng thạnh của giòng họ Lâm ấy, có thật tại vậy. Đến lúc Điền Tào mãn hạng sắp đến dưới khuyết. Mà Nguyên Bá theo phương Nam trở về, Tôi cũng theo hướng Đông đến Cối Kê. Qua hai năm sau, tôi lại đến Hàng Châu. Lại nghe Điền Tào cảm mắc bệnh ở kinh đô, ông có đến ở để tang ba năm, Dã Phu quả nhiên nâng đỡ di cốt về an táng ở quê nhà, đi thuyền theo Ngô giang mà lại. Ngày khác tôi đến viếng điếu đó, Dã Phu, Bá Trọng đều buồn cảm gầy ốm, gần như không giằng nỗi đau buồn đó. Đến lúc hiếu sự đã xong, Dã Phu lại nói cùng tôi rằng: "Ông sao ca để tặng tôi trở về?" Tôi nhân nghĩ suy giòng họ Lâm ở Triều Dương là rất thạnh. Ca làm sao hết được đẹp kinh đó, chẳng như dùng từ mà trải bày đó. Tôi nghe, trời xanh Hiền giả nên dùng thay thơ trời, khiến phụ cùng Đạo của trời đất, đó là Hiền giả nên sống thọ lại hiển bày địa vị có thể vậy. Nhan Uyên chết yểu, Bá Ngưu cảm bệnh, Mạnh Kha trắc trở, Tuân Huống, Dương Hùng lạc chớ ở thời, Giả Nghị, Đỗng trọng Thư vài đồng bạn cùng trông mà chẳng may mắn. Không biết vạn vật là trái ý nào ư? Như nhân đức của Điền tào Nam an, trí thức của người em đó, minh đức chưa đến tuổi hai mươi đã đại thí, mà chết đều đủ tuổi. Tuy kẻ Sĩ minh triết nghe đó, ai chẳng lấy làm lầm hoặc ư? Hoặc cho là tuổi thọ của giòng họ Lâm chẳng ở tự thân đó mà ở con cháu đó ư? Nghe Dã Phu dùng mũi nhọn lóc thịt đùi vế để trị bệnh cho cha, muốn cha lành khỏi bệnh mà trọn không như chí ý. Quân tử cho đó là thuần hiếu vậy! Dã Phu tạm có thể đốc suất Bá Trọng đó giẫm trải Nhân hiếu của Điền Tào, đồng chí học của Tốn Tiên sanh, thì tuổi thọ của giòng họ Lâm đó sắp có ở thuần dốc, thật tỏa sáng càng lớn ở sau. Nguyên Bá cũng là có đạo ấy vậy, đối với Dã Phu làm anh em rễ, tạm cùng đó xây dựng gắng gỏi danh tiết, thì thạnh của giòng họ Lâm tốt đẹp vậy. Đâu chỉ sáng rỡ ở Triều Dương trong ngày nay, mà sẽ tỏa ngời khắp thiên hạ ở đời sau ấy vậy!

ĐỀ TỰA BÀI CA ĐƯA TIỄN SƯ PHẠM TÀI CÁT VỀ THIÊN THAI

Phàm, làm Phật là tu đạo xuất thế, nhân dùng thanh tịnh tự giữ, chẳng giao tiếp với thế tục. Chẳng phải vì giáo dục đó suy ở đời khuyên ở người, đâu thích nghi cùng ở nơi nhân gian rong ruổi ư? Đại sư Phạm Tài thuở thiếu thời dùng thơ ngâm ca ở chốn Kinh đô, sau về Thiên Thai cùng chuyên cần tu đạo với tôi, mong một sớm mai nghĩ đem Phật sự khuyên các hàng Tiên sanh tiến thân. Năm trước đến ở Hoài Điện, Triết Tây, gặp gỡ các quan khanh Đại phu có tiếng tăm đối với người đều vui theo việc đó, chẳng những đến số trăm. Đó nếu chẳng phải tinh thành dốc chí suy tôn ở nơi chân giáo Diệu đạo của Thánh nhân, thì sao có thể được các hàng Quân tử nhân hiền đông nhiều như vậy ư?

Than ôi! Tôi là người có vào ra nơi cửa nhà người quyền hào, rảo bước đến đường thế lợi, đức chẳng đủ để khơi phát niềm tin của người. Nghi ngờ nhưng mà chẳng nói, hủy hoại mà chẳng biện bày, ngâm nga chỉ hang huyệt quỷ quyệt, cùng lấy Phật làm đùa vui. May nhan sắc đó gá nhờ sự thế đó, để tạm lợi của một thân mình, đến chết chẳng đoái hoài giáo đạo là kia nghe Phong của Đại sư, thích nghi gì làm Tâm ư? Tôi lấy làm lớn lao thay! Chỗ làm của Đại sư Phạm Tài Cát, nên có lời ca để tặng đó trở về. Ca rằng:

"Như ông lại chừ!
Hiền tuấn cùng nghinh
Như ông về chừ!
Thắng sự báo thành
Sắc xuân đẹp chừ!
Gió Xuân nhè nhẹ
Nắm áo mây chừ!
Rảo bước đi xa
Thiên Thai vút cao chừ!
Khí tượng trong lành
Nghi thân thưởng tiện chừ!
Thôi bày phù danh,
Kia theo lợi quên
Đạo chừ! Thời tình lưu tục.
Đã mất bọn tôi chừ!
Sao đủ cùng bình luận!"

ĐỀ TỰA TIỄN ĐƯA PHÁP SƯ CHÂN TRỞ VỀ LÔ SƠN

Tôi xa rời Tầm Dương năm năm, mà Pháp sư Chân Công từ Lô Sơn đến gặp ở Tiền Đường. Nghe Pháp sư mới đến, vừa mừng vừa kinh sợ, bởi Pháp sư từng chẳng đoái hoài chỗ được của Tể tướng, vén áo vượt hào vào trong núi. Pháp sư thề trọn đời không đặt chân đến cảnh tục, nay vì sao mà lại vậy? Đến lúc cùng trò chuyện, mới biết Đại sư tính làm tháp Phật, chẳng phải vì việc thường mà đổi thay chí nguyện đó. Tôi ở tại Tầm Dương thường cùng Chu Thúc Trí bình luận người vật, cho rằng Đại sư thanh khiết, có thể đem Đạo đó dạy răn người học, Thúc Trí rất lấy trọng lời nói cùng suy, nên cùng tôi kịp đến Quách Thúc Bảo, Bùi Trường Ngôn, vài lần đến nhà đó, đắp đổi làm thơ ca để tán dương đẹp xinh đó. Đại sư cùng vui vẻ cùng đức, nay ra vài ngàn dặm, lại cùng đó gặp vui vẻ gần nửa năm. Tiếp lời nói đó càng văn vẻ, đạo đó càng thân gần, hợp nghĩa dốc thuần, gấp bội trăm lần so với lúc đầu. Đang mùa Thu tháng tám, mà Đại sư do vì mưu tính việc, nhóm tập bảo dẫn dắt thuyền muốn đi. Mọi người ở Hàng Châu kính mộ cúi đầu cầu xin ở lại rất khẩn thiết, cuối cùng Đại sư cũng dẫn đi không đoái hoài. Tôi đi khắp bốn phương, riêng cách biệt Tầm Dương, quyến luyến như nghĩ nhớ nước nhà của cha mẹ mà chẳng thể quên, bởi vì ở đó có Quân tử nhân hiền, dốc thuần thành thật, tin ở giao du, dùng Đạo đức mà cùng thấm đượm. Lại vì sửa Lộ Điện, bên tả đó cao vút hiểm trở, khí tượng đó sâu thẩm âm u, khiến người đến thưởng ngoạn đó có chí cao trong thiên hạ. Nay Đại sư Chân lại trở về vậy, tôi vướng bận việc chẳng được đồng đi, chỉ tư duy cao vời rối ren nơi lồng ngực: Nhân, Đại sư vì ta mà tạ Quân tử Tầm Dương, cùng thấu đạt vinh thúy", nhọc thân hình tôi, tính nghĩ được mất, muôn mối nhọc tâm tôi. Nhân sanh vừa như một giấc mộng, sao dài cùng vật bàn bạc ở đời. Đó nên tham tâm nơi Đạo Phật, lắng gạt Thần minh đó. Đại sư Chân là người dẫn Đạo đó, nên bảo đó đáng đi vậy.

QUYỂN 12

CHÍ-KÝ-MINH-ĐỀ (gồm 12 bài)

VÕ LÂM SƠN CHÍ

Núi đó phía Tây bắc Di Hàng, đường đó theo hướng Nam bắc bên cạnh hồ mà vào. Từ phía Nam ra cửa phía Tây, theo hướng Xích Sơn, vượt mạch lãnh yên chỉ. Từ phía Bắc ra cửa Tiền Đường, leo lên tảng đá chỗ Tần Vương, neo thuyền qua hai núi Tầm Vọng và Tinh Đình, dần đến núi Đà Hiện, dừng lại rồi theo phía tả đi vào cửa Tùng Viên Công, đến cầu Hành Xuân. Từ cầu đi về phía Tây thông liền đường rẽ phía Nam. Qua cầu Hành Xuân gần hai dặm thì đường của hai phía Nam bắc gặp nhau, thưa thớt có dân ở nghịch lữ, người đi đường có thể dừng nghỉ. Lại theo hướng Tây đi khoảng hai dặm, vào cửa hai chùa cặp cầu Hợp giản. Qua hai cầu Hợp giản và Long Tích, từ đình Tử Vi, Chu Nhai, men khe cửa đá đến đình Lãnh Tuyền, rồi đến chùa Linh Ẩn, có dòng nước trong lắng, bờ đá vây quanh, quái lạ như khắc vót chợt thấy sảng nhiên vậy. Từ cầu Hợp giản theo hướng Nam đến đình Canh Khúc Khuỷu và có khe lớn Tân di. Từ cửa chùa Thiên Trúc nhìn về phía Tây, núi chướng chập chồng cùng ánh ngời, như không có cùng. Chùa Linh Ẩn từ đầu thời nhà Tấn vốn là Thiền lâm vậy. Chùa Thiên Trúc là nơi giảng pháp ở thời nhà Tùy. Núi đó khởi hợp ra Mục Thấu. Từ Hàng Châu về phía Tây nam là Phú Xuân, về phía Tây bắc khống ngự Dư Hoàng, ngoằn ngoèo tràn lan liền vài trăm dặm, đến Võ lâm bèn tỏa rộng như dẫn hai bên bờ vai. Phía Nam dọc đến non Yên Chi, phía Bắc trải đến non Đà Hiện, phía Bắc ngọn núi đó gió nổi lên, gọi là Cao phong, trùm Tháp bay mà bít cả ngọn Linh ẩn ấy vậy. Phía Đông của Cao phong gọi là đảnh núi Bình phong. Lại về phía Đông nữa gọi là Tây phong (thuộc phía tây của Quận), lại về phía đông nữa gọi là đảnh núi Đà Hiện (Tục gọi Đà Uyển là nói sai lầm vậy). Từ Cao phong về phía Tây gọi là Ô phong, lại về phía Tây nữa gọi là Thạch Duẫn, lại về phía Tây nữa gọi là cửa đá Dương Hải, lại về phía Tây nữa gọi là Tây Nguyên (cũng gọi là Tây Am). Rẽ ra phía phải của Tây nguyên gọi là Thạch Nhân. Phía nam của ngọn núi đó nổi cao mà sầm uất gọi là Bạch Viên, phía tả ra trước của Bạch Viên gọi là Hương Lô. Càng tới trước mà dọc theo khe gọi là Hưng Chánh, phía hữu rẽ ra trước của Bạch Viên mà mây cây rậm rạp, gọi là Nguyệt Quế; phía Đông của Bạch viên là đảnh núi Yên chi; phía Tây của Bạch Viên là Sư Tử. Lại tiếp về phía Tây nữa là Ngũ Phong, lại về phía Tây nữa là Bạch Vân, lại về phía Tây nữa là Ấn Tây. Theo phía Nam của Ấn Tây hướng tới trước chạy quanh co ở trong của Võ Lâm gọi là Vô Ngại, lại tới trước nữa gọi là Thiện Trụ. Cùng với Thiện Trụ mà đặc biệt nổi cao gọi là Kê Lưu (tục gọi là kê lung, tức sai lầm vậy). Phía Tây của Kê Lưu gọi là Liên Hoa, có ngọn núi cao ngất gọi là

Ngọc Nữ. Phía Đông của Liên Hoa gọi là đảnh núi Phi Lai, tức Sa-môn Huệ Lý người xứ Tây Vức nói đó là một đảnh núi nhỏ từ núi Linh Thứu ở nước

Tây Vức bay lại (Phi Lai) ấy vậy. Xưa kia có nhiều Linh Tiên ẩn ở đó, mới gọi là Bạch Viên mà nghiệm đó. Nam Bình và Thiên Trúc ở phía Bắc ngăn che Linh Ẩn. Đảnh núi đó có Cầu Đá thiên nhiên theo hướng Tây đi qua, bên trong đó có hang động vậy. Động thì có động Long Hoằng là ngắm nhìn về phía Bắc. Phía sau theo hướng Đông đi ra gọi đó là ngầm suốt cảnh lạ tuyệt. Từ Triết Giang xuống quá Võ Lâm, nhưng Nam bắc nối tiếp cao mà nổi, những núi lớn có cả trăm ngọn, phần nhiều không có tên, trong đó chỉ hai mươi bốn ngọn có tên. Cách phía trong thành mười hai dặm, bao quanh cũng như thế. Từ thời nhà Tần nhà Hán mới gọi là Hổ Lâm, vì đó là nơi nương náu của giống Hổ trắng. Đến thời nhà Tấn gọi là Linh Ẩn, tức dùng sự tích bay lại xưa cũ vậy. Đến thời nhà Đường gọi là Võ Lâm, là do trích kỵ Húy vậy, hoặc gọi là Thanh Lâm Nham, Động Tiên ở, cũng là biệt hiệu của Võ Lâm vậy. Nhưng dáng núi đó khéo đẹp, khí tượng thanh thấu, mà các núi khác chẳng sánh kịp với sự hùng tráng nổi trội cao cùng cực, gần như cùng với Hành Lô La Phù khác vậy. Núi đó đến khoảng tháng tám tháng chín, mỗi đêm mưa tạnh trăng tỏ thì trời mưa Quế thật, tướng trạng như hạt ngô đồng. Dòng nước đó chảy về phía Nam thì gọi là Nam giản, chảy về phía Bắc gọi là Bắc giản. Từ cầu Hợp giản đến dấu vết của ngọn núi Bạch Vân phải vượt qua tám cầu, trong đó có bảy cầu đá và một cầu cây gỗ. Bắc giản từ cầu Long tích đến dấu vết của ngọn núi Tây nguyên phải vượt qua bảy cầu, trong đó có bốn cầu đá và ba cầu cây gỗ. Nguồn Nam giản bên sườn của ngọn núi Bạch Vân theo hướng Đông đổ xuống gặp các khe rẽ khác, vượt qua phía Tây cầu thứ tám lại theo phía Đông đổ xuống, gặp khe Hề Gia chảy vào khe Tân Di, ra cửa ngăn quanh co chảy theo hướng bắc đến cầu Hợp giản. Nguồn Bắc giản từ bụng của ngọn núi Tây nguyên, theo hướng Đông đổ xuống qua cửa Đảo Đằng Vân, cặp cửa Đảo Phong Thọ tràn đến dưới cầu thứ năm, xâm qua dấu vết ngọn núi Phi Lai, chảy quanh lại phía Tây Đảo, sóng sánh động ở tẩy rửa, Đầm chứa nước ở bãi xoáy, đến phía Đông bãi nhỏ (cũng còn gọi là suối Noãn) nước sóng sánh dưới đình Lãnh Tuyền, trải qua khe Hô Viên Thạch môn, ngầm kích đến Phục Long Hoằng, qua dưới cầu Long tích, theo hướng Đông đổ xuống, cùng với Hợp giản. Lại theo hướng Đông đổ vượt qua hai dặm, qua dưới cầu Hành Xuân, ra bến Linh Ẩn vào Hồ Tiền Đường, xưa trước gọi là suối Tiền Nguyên ra núi Võ Lâm tức là đây vậy. Khe suối ở hai phía Nam bắc tuy lắm nhiều, nhưng phần nhiều không tên gọi, song đều nhóm họp ở hai khe suối. Đó đều từ Nam giản mà vào thì gọi là Nam Đảo (Người phương Nam cho rằng Cốc là Đảo, Cốc âm là Dục vậy). Còn đều theo phía Bắc giản mà vào thì gọi là Bắc Đảo. Mà phía Bắc cùng có sáu đảo rẽ, đó là Linh Ẩn, Sào Dương, Bạch Sa, Đại Đồng, Đằng Vân, Tây

Nguyên. Ở sáu đảo đó đều là có Tịch xá nhà Phật, đó là Tinh xá Linh Ẩn, Bích Tuyền, Pháp An, Tư Nghiêm, Biện Lợi, Vô Trước, Vô Lương thọ, Định Tuệ, Vĩnh An, Di Đà, Cát Tường, Tây An, có cả thảy mười ba Tinh xá (khuyết mất tên một Tịnh xá). Trong đó có mười Tinh xá ở Chi Đảo, còn ba Tinh xá bị hư phế, ba nơi đó là vườn nhà. Phía Nam chánh Đảo cũng có chi Đảo, đều có Tinh xá, đó là Tinh xá Thiên Trúc, Hưng Thánh, Sùng Thọ Giảng Tụ, Khánh Ninh, Vĩnh Thanh, Kim Phật, Đức Trừng, Phước Quang, Thiên Trúc Tùng Tông. Xưa kia Bồ-tát Quán Thế Âm đã ứng hiện ở đây, người cầu xin đều linh ứng, nên gọi là Vĩnh Ninh. Cả thảy gồm mười Tinh xá, trong đó có năm ngôi tại Chi Đảo, còn năm ngôi bị hư phế, ở đó là vườn nhà. Chánh Đảo và các đảo đều có người dân sinh sống xen tạp, nơi hư hủy đó cơ hồ muốn thành thôn dã, nhưng không sườn núi khai khẩn, chẳng chăn nuôi trâu bò dê heo, đất nước chẳng lắm dơ bẩn, con người ở đó không chuyên việc săn bắn, lấy việc hái chè tự làm nghề sống. Nhưng đồng của họ là phong khiết tỉnh thuần thắng thời xưa trước, chưa từng hổn tạp vậy. Tục đó tại Nam Đảo là tận cùng đến đảnh của ngọn núi Bạch Vân, ở Bắc Đảo là đến Tây nguyên, từ sườn bờ núi phía Tây hướng đến phía Tây giản, phía Nam thông liền với Nam giản.

Từ phía Nam núi đó ra, gọi là Nguyệt Quế, là Phục Tê, là Đan Tĩnh, là Vĩnh Thanh, là Yển Tùng, là Thông Minh, là Ỷ Tích. Nguồn suối như thế có bảy, trong đó: Nguyệt Quế tại chùa Thiên Trúc, Phục Tê tại đảnh ngọn núi Tây Lai, chảy rỉ chẳng thường, còn năm nguồn suối kia đều ở Chi Đảo. Phía Bắc của nguồn đó ra gọi là Lĩnh tuyền, là Thao Quang, là Bạch Sa, là Thạch Duẫn, là Bạch Công, Trà Tĩnh, là Vô Trước Yển Tùng, là Vĩnh An Bắc Nguyên, là Di Đà Tây Nguyên, là Đằng Vân Thượng Nguyên Tây Am. Nguồn suối ấy gồm có chín, trong đó chỉ có Lãnh Tuyền là ở ven giản, còn tám nguồn kia đều ở tại chi đảo ở phía Nam. Di tích của người xưa ở đó, như là Cát Đảo của Cát Huyện (Chánh tự lánh hủy triều) thời nhà Ngô; Chu Tĩnh của Cát Hồng thời nhà Tấn; Đài Phiên kinh của Tạ Linh Vận thời Tiền Tống, Tháp cốt Phật do Chân Quán nêu dựng ở thời nhà Tùy, Thảo đường Đầu Đà Đạo Tiêu thời Tiền Đường. Ở tại Bắc đảo, có nhà của chín vị sư lục lệ thời nhà Hán, Cửu Đá Phục Hổ của Cát Hồng thời nhà Tấn, Tư Chân Đường của Hứa thời nhà Tấn, Yếu Tịch Nham của Huệ Lý thời nhà Tấn, Đình Tạ Khánh của Đỗ Sư thời nhà Tấn, Đài Phạn Viên của Trí

Nhất thời Tiền Tống, khe suối Hồ Viên, tượng đá của vua Giản Văn Đế thời nhà Lương, giếng nấu trà của Bạch Cư Dị thời tiền Đường, Đình Viên Quân của Viên Nhân Kính thời tiền Đường. Ở hai đảo có cả thảy mười sáu Sự tích, từ xưa đến nay tương truyền, tuy tên gọi còn mà sự tích đã dần mất, không thể căn cứ mà ghi chép đầy đủ. Núi đó không có cầm thú quái dữ, chỉ có cây gỗ Sào cấu là cây rất lâu xưa. Tùng Quân dược vật quả qua đều như các núi khác, chỉ có chè ngon, cùng như ở Linh Sơn nơi sanh loại cây Tỳ Bà, Hoa quế, tỏa phát hương thơm kỳ lạ vậy.

DU NAM BÌNH KÝ

Do từ bờ sườn núi leo lên trăm bộ, theo hướng Đông thì đi đến đình Tễ Vân, theo hướng Tây thì đi đến ủ lũ, qua cửa đá nhỏ đến đình Tích Thúy. Từ đình Tể Vân càng về hướng Đông đến động U Cư, phía Đông của động thì rừng sâu cỏ tốt. Từ đình Tích Thúy càng về hướng Tây thì vào khoảng rừng trúc, che râm rậm rạp, gần như không thể tính kể; có tòa đá trải bao quanh, bên trong có thể hàm trượng. Từ đình Tích Thúy về hướng Đông quanh co mà lên đến đình Phát U, thấy thành quách Tiền

Đường như nhìn ở lòng bàn tay. Rời đình Phát U mà theo hướng Đông đến đình Bạch Vân. Từ đình Bạch Vân về hướng Đông, chi phần khuyết tắt, chỗ đến đều vào rừng trúc tươi tốt, không biết đến tận cùng đó vậy. Từ đình Phát U lại quanh co mà lên, sườn bờ La mạn lục giẫm vượt hiểm nguy lên đến trên đảnh của núi, mỗi lúc trông nhìn khắp bốn phía đều thông thoáng vậy. Ngô giang, Việt Trụ nghiễm nhiên tại trong tròng mắt. Núi đó khống ngự phía Tây thành Phụng Hoàng, lệch theo hướng Nam chạy lên trên Hồ. Cao thấy Linh Thứu mà cúi tiếp Tư Sơn. Đại ước từ bờ sườn lên đến đảnh, nham thạch đều kỳ lạ, hình trạng quái ngụy trong đời không có, như người vật bay chạy, nhảy vọt luôn luôn đến tận mây khí, rầm rầm tương giao ngăn bít ánh sáng, thật như là thần Quỷ giao linh, ngàn biến muôn hóa lóa tâm mắt người. Hoặc nghe nói núi đó mới đầu vất bỏ cỏ hang tươi tốt, tuy Tiều Tô Thụ Tử cũng chẳng chịu đoái hoài, ùn đống đắp đồi còn sợ chẳng được cùng đó so sánh. Một ngày nọ, có người khéo giỏi việc biết được, mở mang khai phát đó. Người ở Hàng Châu đến trông thấy, không ai chẳng kinh ngạc quái lạ, cho là trời sụp đất nổi, đều hận do vì được đó quá muộn. Mọi người vân du tham quan từ đó suy cao, núi đó tuy tầng Hồ ngàn, hang muôn hóc chẳng ra bên hữu đó. Đến như kinh ấp tiếng tăm, mà Hiền sĩ Đại phu đều vui thích đến đó. Nên người có lại Giang Đông mà không đến núi Nam Bình thì không thể được. Tôi nhân nghĩ thiên hạ khắp bốn phương, những bậc Sĩ có đạo, mờ mịt ở đời cùng hàng thế tục nổi chìm, đầu tiên đến Nam Bình cũng lắm nhiều vậy. Kia những người có đạo hẳn ôm ấp tài đức kỳ dị cao vợi khác loại khiến gặp biết chính mình dẫn dắt mà khua động đó, nhờ đó giúp cùng đạo của Thánh nhân mà hình nghi nhân luân cũng chẳng lớn lao ư? Khả quan cùng với núi đá du vật, lại không thể đồng trong một ngày mà nói vậy. Tôi ham thích núi nước rất lắm vậy. Mới đầu đến thấy núi Nam Bình, vừa mừng cho rằng: Một lần đi không lấy làm nhàn chán tâm tôi, chẳng như nương náu nơi rừng chầm, thường vân du đến cảnh đó. Nên năm nay vui đến dừng nghỉ lại ở đây, mỗi ngày hẳn sách trương riêng đến, đến nơi sâu thẩm đó, tư lự dung lên, chí của thiên hạ thông; đến nơi rỗng thoáng ấy, tư lự vượt lên, việc của thiên hạ vượt thấy; đến nơi nói cùng cực sâu mà lắng ấy, xung thoáng ngưng lắng, thần cùng đạo hợp, cưỡi hạo khí gội thanh phong, đào thải đó, hớp nhấm đó, như ở mới đầu của muôn vật. Do vậy tôi ghi lại lời chí đó, để chỉ bày tương lai những người có mến mộ như tôi mà vân du đến đó vậy!

GIẢI THÍCH TÊN ĐỘC TÚ THẠCH

Tôi đã gọi là Độc Tú Thạch, còn Chương Biểu Dân cho rằng tên đó chưa xác đáng, lại dùng thơ để bình giải đó mà đổi là Độc Quái Thạch. Chương Biểu Dân khéo giỏi văn, dùng nghĩ đó hẳn là xa, nhưng nghĩa Độc Tú của tôi cũng chưa từng nói với người. Nhận được luận đó, chỗ thế tục gọi là Quái, hẳn vì đó quái dị các thứ hình trạng cũng như người vật cầm thú ấy vậy, nên làm thế. Như vậy thì đá ở Bình Sơn đầy hang tràn hóc, không gì chẳng như người vật cầm thú ấy vậy. Đâu riêng một tảng đá mà gọi đó là Quái ư? Phàm, Độc Tú Thạch có nhô trội và mũi nhọn sừng sững riêng đứng ở phía Đông nam của núi, đoan trang chẳng cùng các đá khác vây quanh phụ, rất tợ như Nhân sĩ đoan chánh ôm đạo tự xử, chẳng vì sự thế làm bạn đảng. Phàm là vật bẩm thọ tú khí mà sanh thành, chỗ dựng lập đó hẳn cao vượt ngoại, đồng loại ấy. Chỗ tôi nói là Độc Tú Thạch là ý nó nung đúc từ Tú khí mà có thể dựng lập chẳng cùng đồng loại đó phụ hòa sáng lệ. Cốt yếu Thi nhân ca ngợi để phô bày đó, bởi muốn có chỗ cảnh tĩnh vậy. Nếu dùng Quái Thạch mà gọi tên đó, thì mọi người kia có thể nói đó, nào đợi không đầy đặn mà gọi đó ư? Không thôi, tôi xin theo ở Độc Tú Thạch.

BÀI KÝ ĐẠI TẠNG CHUYỂN LUÂN Ở THIỀN VIỆN SÙNG THỌ TẠI VÔ VI QUÂN

Đại tạng Chuyển Luân ở Tinh xá Sùng Thọ hình thành, nhân lời chúc của Sa-môn Nguyệt ở chùa Thiên Trúc nên vì ghi chép đó. Căn cứ thư đó nói: "Viện Sùng Thọ tịch thuộc Vô Vi Quân, là nơi cao ráo của trong thành. Xưa trước; Sa-môn nghĩa Hoài ở đó giảng nói pháp, nhóm tụ đồ chúng mến mộ đó. Đồ chúng đã đông lại thạnh, mà kinh giáo khuyết thiếu, khó khổ họ không chỗ đọc xem. Cho nên có Trương Củng Thanh Hà cảm đó, vội vàng cùng đốc suất người trong Ấp xuất tiền của thuê mướn thợ, tính lường biên tả Tam tạng giáo điển của Phật giảng thuyết xưa trước. Mà Sa-môn Nghĩa Hoài vì sứ mạng khác đã qua lại bảo Sa-môn Tịnh Nhân hiện nay đến kế tiếp đó, và Trương Củng càng cùng chúng Tăng trong viện đó nói là: "Từ nguyện,... chung sức hẳn thành việc đó". Thế mà là Sa-môn Tịnh Nhân lại bảo Sa-môn Xử Nhân... tìm thuê thợ làm Đại tạng Chuyển Luân để tôn trí kinh đó. Nhưng Tạng phải có Điện thờ, dùng các phòng thất để bao quanh Điện, gồm tất cả bấy nhiêu gian. Bên trong tôn trí tượng Phật và pháp khí, vàng ngọc chiếu sáng đều nghiễm nhiên khả quan. Tiền sử dụng đó hết bảy trăm vạn. Phàm Đại tạng Chuyển Luân, chẳng phải chế độ của Phật, mới do Di nhân Đại sĩ Truyền Hấp ở thời nhà Lương thực hành đó, thật là lấy nghĩa của chuyển Pháp luân vậy. Ý đó muốn người đều dự ở Pháp. Pháp ấy là Đại bản của sanh linh, là Diệu đạo của chư Phật. Chư Phật do đó mà Đại minh, quần sanh vì đó mà đại muội. Thánh Hiền là suy sáng ở chính mình mà chánh sự mờ tối của người, nên lấy dụ của Tam tạng để dụ ở đây vậy. Chỗ kết quy của Ngũ thừa là kết quy ở đây vậy. Nhưng lý đó sâu mầu, nghĩa đó rộng lớn, gần như chẳng phải mọi người khái nhiên mà liền được, nên càng tàng đó mà chuyển đó, hãy khiến hỗ trợ luân mà chuyển tạng, muốn gồm cả chúng đó đều được, dần nhiễm Phật pháp mà dự thắng duyên đó, thì đối với Đạo đó ngõ hầu ư? Đó cũng là một mối của chí nhân nhiếp hóa quần sanh vậy. Ý đó xa mà lớn vậy. Nay Sa-môn Tịnh Nhân theo mà thành công hiệu đó. Điểm còn đó há chẳng thấu đáo ư? Có thể biên ghi vậy.

Ngày mồng mười tháng sáu năm Chí Hòa thứ ba (1056) thời Bắc Tống. Kinh Ký.

BÀI KÝ CÁC THIÊN PHẬT Ở THIỀN VIỆN SÙNG PHƯỚC TẠI CHƯƠNG CHÂU

Lễ bộ Thái thường Thôi sai sứ tự thông chạy đến Hàng Châu gởi thư cho tôi nói rằng: "Các ở Sùng Phước đã hoàn thành. Kính mộ Trọng Linh nên ghi chí đó". Mới đầu, tôi không dám làm đó, từ từ suy nghĩ: "Thái Thường Thôi là Đại phu Công danh, từng vì ta giúp trang trải "Sách Phụ giáo" ở Kinh đô, đối với ta rất là cao nghĩa. Nay lại đem Thắng sự khác phó thác cho ta, ta đâu nên trái ngược đó ư?" Bèn dẫn việc đó mà biên ghi rằng:

Sùng Phước là ngôi Tinh xá lớn ở phía Nam Chương Châu, tăng chúng thường có năm trăm vị nhóm tụ chung sống thư thái vậy, tôn sùng Đại Tỳ-kheo Hiển Vi làm trưởng lão. Sa-môn Hiển Vi thống nhiếp ở đó vừa mới năm năm, mà phòng nhà lớn nhỏ thảy đều chỉnh sửa hoàn bị. Mới đầu tại phía Đông chỗ ở đó có đất bị hõm, Sa-môn Hiển Vi với ý cho đó là hình thắng có thể dựng xây Các thờ Phật, mới dẫn Vương Văn Ác cùng mưu tính đó. Mới đầu chẳng biết làm sao, có người khách lại nói rằng: "Nay trong núi nước đang tràn đầy, các thứ gỗ tốt tích chứa từ lâu đều nổi ra ven sông, đó đủ để làm thành ấy vậy". Sa-môn Hiển Vi lấy làm cảm hội, bèn xuất hết tiền của chùa được hơn trăm vạn. Vương Văn Ác lại cúng thí hỗ trợ hai mươi lăm vạn, kẻ Tăng người tục trong châu đó không dưới ba mươi vị, mỗi mỗi cùng hổ trợ khuyên các người lạc thiện trong xóm làng xuất của cải, hợp lại khắc chạm tôn tượng ngàn Đức Phật ở Hiền kiếp, năm trăm vị Ứng chân, và họa vẽ Tôn tượng năm trăm vị Ứng chân. Bắt đầu từ tháng mười một năm Giáp ngọ (1054) thuộc niên hiệu Chí Hòa (1054-1056) thời Bắc Tống, sai các thợ thổ mộc cấp bách lo làm không ngày tạm nghỉ. Qua đến mùa Thu năm sau thì Các đó hoàn thành, cao vợi chín tầng, lấn vượt giữa hư không, cầu bay nguy nga, đình nổi bên cạnh. Các tôn tượng họa vẽ đều đã hoàn thành, bèn nghinh thỉnh mà tôn trí vào bên trong. Tôn tượng Đức Phật Thích-ca, Di-lặc, Dược Sư thì tôn trí chính giữa; tôn tượng ngàn đức Như Lai tôn trí trước sau và hai bên. Phía dưới Các cũng dùng Tôn tượng Đức Phật Thích-ca, Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, các Thánh mà tôn trí bên trong. Tôn tượng năm trăm vị Ứng Chân và mười sáu vị Đại Thanh văn thì tôn trí ở bốn phía.

Khoảng đầu niên hiệu Gia Hựu (1056) thời Bắc Tống, có Dương Sức người ở Long Nham đến phía Nam của Các đó làm Đại A-la-hán, men theo hiên vũ phòng thất bao quanh đó đầy đủ các pháp sự, nhưng quy mô đó rất tráng lệ. Người Mân lấy làm kỳ vĩ đó, cho rằng "Các đó bao trùm cả lầu quán của người Mân chúng tôi vậy". Như ngàn Đức Như Lai trong Hiền kiếp là cùng với Đức Phật Thích-ca Văn trước sau đồng xuất hiện tại đời nhân gian vậy, cùng với trời đất quần linh vạn hữu mà làm thắng duyên rộng lớn ấy vậy. Nhưng Thánh nhân duỗi tượng cùng với đời sau trong thiên hạ, hẳn muốn người trời đó quán tượng để tánh ở không tượng, tiếp đến là muốn họ trông thấy tượng để phát thiện tâm đó, và tiếp nữa là muốn họ chiêm ngưỡng tượng để trị thắng duyên đó. Tánh ở không tượng gần thấu đạt vậy, phát khởi thiện tâm là do ảnh hưởng đạo vậy, và dự Thắng duyên là dân lớn thiện vậy. Ba điều đó tuy ở công có chút ít sai khác, đến lúc họ sẽ đến đời sau thành đức thì chỉ một vậy.

Thư của Thôi Công nói: "Sa-môn Hiển vi là người cao hạnh, hay cùng người làm việc ưu thắng, mọi người đều vui mà theo đó, được kỳ đặc làm Các thờ Phật đó, ý vừa hợp với chỗ gọi là Thánh nhân duỗi giáo vậy", thì điều ngợi khen của giòng họ Thôi ứng nghiệm vậy. Người ở phương Nam nên biết Tâm đó không có nghĩa là Sa-môn Hiển Vi không việc thổ mộc mà khéo xa thế tục vậy. Kia những người vận mặc phương bào ở đời sau có chỗ tạo dựng, cũng nên xem Pháp ở Sa-môn Hiển Vi vậy.

Ngày ba mươi tháng bảy năm Kỷ hợi (1059), tức năm Gia Hựu thứ tư thời Bắc Tống. Sơn xá Vĩnh An thuộc chùa Linh Ẩn, kính ghi.

BÀI MINH SONG CÁC Ở LẶC ĐÀM. (và lời tựa)

Đại Trưởng lão Hiểu Nguyệt, tự Công Hối thống lãnh Thiền giả ở Lặc Đàm suốt mười lăm năm. Đạo đó đã truyền, lại muốn tu sửa Tinh lô, có đệ tử là Cư Tấn bèn đem ý của thầy mà khuyên người trong làng xóm san sẻ vàng để cúng thí xây dựng Các ở bên tả của sân chùa, chùa cũng xuất tiền của để hỗ trợ đó. Lại khuyên lương phụ của giòng họ Lã nói là "giòng họ Hồ và giòng họ Trâu cúng thí mười vạn Tiền để xây dựng Các tại bên hữu của sân chùa". Bên hữu thiết trí tôn tượng Phật Di Lặc, bên tả đặt chuông của giòng họ Phù. Lại có cối xay mật thạch làm vọt đường phía trước Các dài hơn mười trượng, phí dây tiền hơn năm mươi vạn.

Đến tháng hai năm Canh tý (1060) thuộc niên hiệu Gia Hựu (1056-1064) thời Bắc Tống thì hoàn tất, việc trang họa đó lạc thành. Cư Tấn mới nhân thầy đó mang thư đến cầu nhờ tôi làm bài văn chí đó. Nhưng tôi cùng với Công Hối nhã tố cùng đức sâu dày tốt lành, mà tâm của Công Hối làm Các, tôi biết đó vậy. Ý của Công Hối là ở đạo chứ chẳng phải ở Các. Các là ngụ ý đó vậy. Phàm, vào đạo, không gì trước sự thấy nghe. Nay làm tượng ở Các đó là để chánh chỗ thấy của người, làm chuông ở Các đó là phát chỗ nghe của người, muốn họ ngay thấy mà minh diệu, ngay nghe mà chóng giác. Tức chẳng tại ngôn ngữ, chẳng nhờ văn tự mà đột nhiên riêng được, cùng với tông hoằng truyền ngoài giáo tôi hợp vậy. Tâm của Công Hối hẳn là như thế, nếu không vậy thì Công Hối đâu phải nhọc việc thổ mộc đó vậy.

Lặc Đàm là nơi chốn núi sông thanh thắng, là nơi chốn Di tích của các Đại Thiền đức Đạo Nhất và Mã Tổ. Đạo của Nhất Công là giáo của nhà Phật làm Đại chí, Công Hối ở đó là có là có chỗ làm, lại hay lợi ích suy đạo đến người, đó đối với Nhất Công mới bắt đầu có chỗ khua động vậy, mà cùng các Sĩ Phu cúng thí làm phước làm thắng lợi, há có thể lường được ư? Tốt lành thay! Công Hối, lại nhàn thông sách trị thế Thánh nhân, thức đó tinh thông, đối với các thiền giả ngày nay rất là hiền hào, nên vì Các đó, mà làm bài minh rằng:

"Chỉ Các chuông ngân, chỉ Các tượng nghiêm
Tượng chánh thấy đó, chuông phát nghe đó
Chỉ thấy chỉ nghe, mới chánh tánh đó
Chớ bảo Đạo xa, chỉ nháy mắt đó
Chớ bảo nghe xa, tại khua động đó
Chỉ Các chỉ cây, tôi có chỗ ngụ
Chỉ chuông chỉ tượng là Thần giúp đó
Tìm người học đó, nên biết thầy đó
Cẩn trọng thấy nghe, chớ bảo nhọc làm".

BÀI MINH THANH HIÊN. (và lời tựa)

Cao thức Thượng nhân mở mang hiên vũ phía Nam Tinh xá, được hết cảnh đẹp của núi sông mà sáng sủa đáng vui mắt. Võ Công Tô Tử lấy làm đẹp xinh đó mới đặt tên là "Thanh Hiên". Về sau, các bậc Hiền sĩ đại phu phần nhiều đến đó thưởng ngoạn mà đề thi phú ngâm vịnh. Thượng nhân mới đem ý đó bảo Tiềm tử tôi làm bài minh đó. Đã không thể từ chối, tôi mới nói cùng Thượng nhân rằng: Trời đất muôn vật không gì bằng chẳng có đục trong. Khí tượng đó đều có thể cảm người mà làm chánh làm loạn. Phàm trong của trời đất đó cảm người ấy cung kính. Trong của Thánh nhân đó cảm người ấy trang nghiêm. Trong của thời thế đó cảm người tu chỉnh, trong của núi sông đó cảm người ấy tỉnh sớm. Trong của Trời đất và thời thế là hóa công. Tôi không được mà phỏng bàn nghị. Phàm, trong của Thánh Hiền sông núi đó có thể suy đó để làm lợi ích cho đời vậy. Vừa rồi, Thượng nhân mở rộng Hiên đó, hội tụ các Tĩnh của núi, cái trong của nước đó để đãi người đến tưởng thưởng, làm tâm họ mở mà thần họ sáng, tư lự chẳng lại quá tệ, đó cũng là lợi ích cho người lắm nhiều vậy. Hoặc có mở sáng Tâm thần đó mà trở lại Thái thanh chí tĩnh, thì ý làm Hiên đó càng được vậy.

Tiềm tử tôi nhân vậy mà làm bài minh đó rằng:

"Trời đất muôn tượng, có đục có trong
Chỉ trong cảm người, người đó chánh vậy
Chỉ đục cảm người, người đó loạn vậy
Chỉ trong chỉ chánh, mới tốt Đức đó
Chỉ đục chỉ loạn, mới đượm ác đó
Xét thay! Quân tử, chọn chỗ vừa thời
Răn thay! Quân tử, thận trọng lúc vui
Hiền đó chỉ sáng, cảnh đó chỉ trong
Có núi cao vời, có thể dứt tình
Có nước lắng trong, có thể ẩn hiện
Đã sạch mới chí, đã trong mới Thần
Chỉ trong chỉ sạch, mới làm rất tiện
Chớ hẹp ở Hiên, đó là vui thưởng
Chớ bảo vật ngoài, đó là Thần giúp
Chỉ trong (= Thanh) chỉ Hiên, chỉ chỗ mượn Đạo
Khắc cần là ý, Thượng nhân kia vậy".

(Nguyên trong Tập không ghi tên, khả như vậy.

Nay đây nói là Cao thức tức là ngụ ý vậy).

BÀI MINH NAM HIÊN. (và lời tựa)

Nam Hiên ở tại hướng chánh Bắc của núi Nam Bình, núi đó cùng cánh chẳng tới vài trăm bộ. Tựa Hiên đó để trông xem cỏ cây muôn vật, không một mảy may ẩn khuất. Mưa tạnh núi sáng trong sạch, phát màu xanh biếc soi tận gối chiếu. Lúc mùa Hạ thì cảnh gió vụt vụt chẳng vẫy mà tự lại, lúc mùa Đông thì ôm cả vầng Thái dương sáng rỡ vẫn lạnh buốt. Khách có quấn quanh ngoài ra nhàn tản không chỗ dùng ở đời, được trọn ngày cúi ngưỡng nơi khoảng không gian ấy, luôn luôn khăn áo. Hiên rỗng thông, thần khí hạo nhiên, như ngoài trời đất mà riêng lập. Phàm, những bậc Đạt Quán xưa trước không ai chẳng quý được chỗ tiện việc, tạm có thể để chánh tự lự, khiến tốt xấu hối hận chẳng hại đối với Đạo. Tuy tranh cỏ thềm đất mà lấy làm hẹp hòi. Đào Uyên Minh nói: "Tiêu ngạo dưới Đông hiên, hãy lại qua đây sống". Đó chẳng phải được chỗ tiện ư? Tại Nam Hiên, tôi ở nơi gian sau của nhà khách, Sa-môn Oai chẳng cho là Ngu Quán ở đó, gặp việc muốn dẫn đi, nghĩ Nam Hiên nhờ đó toàn ngu tợ được chỗ tiện. Tuy chủ nhân lấy việc sai sử đó, còn tạm rảo mạng, huống nhục dùng đức, nghĩa mà tiếp đó, đâu có thể dùng Nam Hiên khinh lìa? Với Bài minh rằng:

"Nhìn Nam Hiên ấy sao nép ngưỡng rụt rè
Ta phát kia đẹp,
Kia vừa ta ngu
Ta và Nam Hiên cùng phải".

BÀI MINH CHIẾC NGHIÊN CŨ. (và lời tựa)

Lúc tôi còn ở quê nhà, có Đạo sĩ Mã Tri Chương là bạn nay đã qua đời làm tặng tôi chiếc nghiên Đoan khê. Đến lúc tôi vân du khắp bốn phương, chiếc nghiên ấy cũng cùng theo đi, tới nay đã mười bốn năm vậy. Mã Tri Chương không may qua đời sớm. Than ôi! Mã Tri Chương làm người có Tín nghĩa, ham thích học vấn sáng sạch, chuyên giữ chí tiết cao, chưa toại chí đó mà trời đoạt mất mạng sống. Trông nhìn chiếc nghiên, luôn luôn tưởng thấy người đó, nên gìn giữ nó mà chưa từng tạm bỏ. Lúc này đang là tháng Chạp năm Khang Định thứ nhất (1040) thời Bắc Tống, vì làm bài minh rằng:

"Như người đã mất, Đạo giao đã vậy Vàng đá mà Tâm, nhìn đây báu đây. "

ĐỀ Ở VÁCH TƯỜNG ĐÌNH HÀ HƯƠNG CỦA THUYÊN THƯỢNG NHÂN TẠI TÂY HỒ, TIỀN ĐƯỜNG

Khí tượng ở Tây Hồ chẳng như những nơi khác, sáng sớm ánh ngời, chiều tối mờ mịt, ảm đạm trong ánh, không lúc nào chẳng tốt đẹp. Núi che lầu các, vàng biếc giao díp mắt, Hoa sen tranh gió, thoảng hương thơm khắp bốn phương, đầm ấm chợt lóa mắt như cảnh khác. Nhưng bởi tâm người trong đục cảm vật mới vậy. Mà người làm Đạo sao được chẳng chọn chỗ ở đó? Thuyên Thượng nhân tụng kinh ngâm thơ, tập thảo Thánh thư, mở mang đình Hà Hương, nhờ Cảnh Hồ mà giúp thanh tâm, hướng mến mộ đạo có thể thấy vậy.

Ngày hai mươi lăm tháng Chạp năm Kỷ Dậu (1069) thuộc niên hiệu Hy Ninh (1068-1078) thời Bắc Tống. Tiềm tử tôi kính đề.

BIA VĂN TRUNG TỬ

Phàm, thiện của thiên hạ còn ở đạo của Thánh nhân, Lý của thiên hạ là còn ở tài của Thánh nhân. Có tài đó mà không có đạo đó thì giáo không kịp hóa vậy. Có đạo đó mà không có tài đó thì hóa không kịp giáo vậy. Nghiêu Thuấn được đạo của Thánh nhân ấy vậy. Võ Thang Văn Võ Chu Công được tài của Thánh nhân ấy vậy. Nên nói: "Phu tử Hiền vượt xa so với Nghiêu Thuấn vậy". Trọng Ni qua đời hơn trăm năm mà có Mạnh Kha làm, tuy chẳng kịp Trọng Ni mà mở đầu ở Trọng Ni ấy vậy. Mạnh Kha qua đời mà có Tuân Khanh Tử làm. Tuân Khanh Tử qua đời mà có Dương Tử Vân tiếp nối đó. Tuân Khanh Tử và Dương Tử Vân tán thán đối với Trọng Ni ấy vậy. Giáo chuyên mà đạo chẳng nhất, Mạnh Kha làm kế tiếp đó. Cách sau Trọng Ni hơn ngàn năm mà sanh ở thời nhà Trần nhà Tùy, hiệu là Văn Trung Tử, mới đầu đem mười hai sách tham thời chủ chí, thấy chẳng thể cùng làm, mới muốn ôm mà nghĩ nhớ đó. Trở về phần bắc khua động lớn giáo đó, một tiếng sấm mà bốn biển tầm theo tiếng đó. Có cả ba ngàn học trò tìm lại, mất mát đối với Trọng Ni ấy vậy. Bấy giờ thiên hạ mất Đạo, chư hầu Khanh Đại phu chẳng thể tu đó. Riêng Văn Trung Tử khởi động đốc suất dùng lễ để chuyên chánh người cứu vật, thường nói: "Thiên hạ có Đạo của Thánh nhân ẩn tàng vậy, thiên hạ không Đạo Thánh nhân hiển bày vậy". Trái ngược một không vết tích, tầm thường chẳng ẩn tàng ư? Nhân hai để cứu tế, có thể không hiển bày ư? Xưa kia chính của hai Đế ba Vương chánh mà chưa ghi nhớ, chính của chư hầu ngũ bá mất mà chưa biện rành. Trọng Ni dùng văn làm sáu kinh đầy đủ để giáo hóa ở đời sau vậy. Sau hai triều đại nhà Hán có thiên hạ, xen tạp dùng Vương Bá để trị, đến lúc chánh của chính đó ngõ hầu vậy. Thời nhà Ngụy Tam Quốc cho đến thời Nam Bắc Triều rối ren mà nhân đạo mất đến tận cùng. Người đã giao không thể truy tìm, người mới lại còn có thể phỏng nào. Đạo của Tiên Vương tốt tươi gần tỏa sáng nơi đất, Văn Trung Tử âu lo đời sau không pháp, nên lại nói: "Ngàn năm trở xuống có trị nghiệp của Trọng Ni, tôi không được mà nhường đó vậy". Nên gom nhặt chính của thời nhà Hán nhà Ngụy và của Lục Đại, văn đó làm kinh tiếp tục rộng giáo hóa ở đời sau vậy. Chẳng phải có Đạo của Thánh nhân, tài của Thánh nhân mà ai có thể cùng như vậy ư? Đối với Trọng Ni của Văn Trung Tử, như Nhật mà Nguyệt ấy vậy, thời tiền Đường hưng phát được.

Hàng đệ tử đó phát huy kinh của Văn Trung Tử để trị thiên hạ, thiên hạ bèn thấu đạt ở chánh, Lễ nhạc chế độ đốt sáng, suốt bốn trăm năm sánh như hưng thạnh ở thời Tam Đại. Ôi! Trọng Ni đã qua đi mấy trăm năm, giáo đó mắc họa ở thời nhà Tần, các đệ tử thực hành giáo đó mà làm Quan sĩ chẳng qua chỉ làm Bồi thần ở các nước. Đệ tử của Văn Trung Tử làm Thiên tử, Thừa tướng, giáo đó truyền bá mãi đến ngày nay, sao thạnh đó thay! Chỉ bày cao xa đến như thế vậy. Trời ấy dùng đức của Trọng Ni gá ở Văn Trung Tử ư? Tôi không được mà biết đó. Đọc thế gia của Vương thị, mừng thích chỗ được của Văn Trung, lớn vậy thay! Nên ghi lời bia rằng:

"Sau sáu kinh chừ!
Trị đạo chẳng tinh
Đại luân rối ren chừ!
Quyền quất hưng hành
Văn trọng làm vậy
Sóng đổ lắng trong
Sáu kinh tiếp tục vậy
Thiên hạ hóa thành
Khổng Tử như ngày sống
Văn Trung sáng cả hai
Rộng xa cả muôn đời
Chẳng đâu cùng kinh".

KHÚC KÝ HẠNH NGHIỆP CỦA CỐ ĐẠI PHÁP SƯ TỪ VÂN-VÕ CÔNG Ở CHÙA THIÊN TRÚC TẠI VÕ LÂM-HÀNG CHÂU

Pháp sư húy Tuân Thức, tự là Tri Bạch, vốn người giòng họ Diệp ở Ninh Hải, Quận Lâm Hải. Mới đầu, thân mẫu là Vương Ảo khất cầu linh nơi Quán Thế Âm xin sanh một con trai. Một đêm nọ mộng thấy trong phòng nhà đó sáng sạch, có bé gái xinh đem minh châu trao cho, bèn nuốt mất. Đến lúc sanh Pháp sư vừa mới bảy tháng đã hay theo mẹ xưng niệm Quán Thế Âm. Lúc vừa mới trưởng thành, chẳng vui cùng người anh làm nghề buôn bán, bèn trốn ngầm tìm đến núi Đồng Dịch nơi Samôn Nghĩa Toàn cầu xin xuất gia. Đêm trước đó, Sa-môn Nghĩa Toàn mộng thấy có một Đồng tử đến ở bên tả tôn tượng Phật chùa ấy. Ngày hôm sau, thì Pháp sư đến, tức mộng ấy vừa nghiệm vậy. Năm mười tám tuổi, Sư xuống tóc, năm hai mươi tuổi thọ giới cụ túc tại chùa Thiền Lâm. Năm sau, Sư tập học luật tạng ở Luật sư Thủ Sơ. Đang lúc Quận hiệu của Đài mới hưng thạnh, các tiên sanh cho rằng pháp sư là người tài tuấn sáng suốt, thường dùng thơ muốn pháp sư theo Nho nghiệp, pháp sư bèn phú vịnh mà đáp đó. Thơ đó đại khái là: "Chân không là Tuyển trường, Đại giác làm Quan vị". Thế rồi, vào chùa Quốc Thạnh, đến trước tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền, pháp sư đốt ngón tay thề nguyền học theo giáo pháp Thiên thai. Từ Cổ Tráp, pháp sư tìm đến nơi giảng tịch của Đại sư Nghĩa Thông ở Bảo Vân, giữa đường mộng thấy một Lão Tăng tự xưng "Tôi là Văn Thù Hòa thượng" vậy. Đến lúc gặp Đại sư Nghĩa Thông thì thật đúng là vị tăng đã gặp trong mộng, Pháp sư bèn phục ứng giữ lễ thọ học, chưa bao lâu mà sở truyền của tông Thiên Thai, do chỉ vị ngôn đó, Pháp sư thảy đều thấu đạt, trí giải vút cao vượt ngoài đồng bạn. Gặp đến ngày tưởng niệm Tổ sư Trí Giả thị tịch, Pháp sư bèn tự đốt trên đảnh đầu trọn ngày, dùng sức thề nguyện hành Tứ thiền Tam muội, nhân đó nói kệ để kiểm hiệu sự chí thành đó (Thơ kệ đó đều thấy có ở Văn Tập, ở đây đều lược không biên ghi). Đến lúc Đại sư Nghĩa Thông đã thị tịch, pháp sư liền trở về Thiên thai. Do vì khổ nhọc nên thường mắc bệnh ẩu ra huyết, Pháp sư tự cho là hẳn phải chết, nên cứng rắn vào Phật thất nơi gò linh, dùng chú pháp tiêu phục mà tự nguyền rằng: "Nếu Tứ giáo hưng hành tại nơi tà thì bệnh này phải lành hẳn, còn không như vậy thì nguyện vất bỏ mạng tại đây". Vừa mới đến đêm thứ hai mươi mốt, bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo là: "Tuân Thức không bao lâu nữa sẽ chết". Pháp sư càng chẳng biếng lười, đến ngày thứ ba mươi lăm, bèn thấy thây chết đầy trong phòng thất, Pháp sư cũng chẳng lầm hoặc giẫm đạp đó mà hành đạo, thây chết đó bèn ẩn mất. Đến ngày thứ bốn mươi chín, Lễ sám đã xong, lại nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "Chư Phật trong mười phương tăng thêm phước thọ cho ông". Đêm đó đang lúc mơ ngủ, hoảng hốt thấy một người to lớn cầm chày Kim cang phỏng giằng nơi miệng, Pháp sư kinh hãi mà tỉnh giấc, bệnh ấy bèn tiêu suất. Khả năng tuấn biện của pháp sư càng phát, âm thanh dung mạo thần sắc đẹp xinh hơn so với ngày thường. Pháp sư rất cảm kích càng muốn theo việc ở đó, bèn biên thuật sách đề là "Quán Âm Lễ Văn". Vừa mới đề bút, liền có vị Tăng kỳ lạ đưa đến quyển sách tên là "Tự Ý Thú". Pháp sư so với bản mình biên thuật đại khái tương đồng.

Khoảng đầu niên hiệu Thuần Hóa (990) thời Bắc Tống, pháp sư vừa mới hai mươi tám tuổi, Tăng chúng cầu thỉnh pháp sư kế thừa pháp tịch của thầy tại Bảo Vân, truyền giảng bốn bộ kinh lớn (Pháp Hoa, Duy Ma, Niết Bàn, Kim Quang Minh). Qua nhiều năm, một sáng mai nọ có con Lừa đang mang thai của nhà họ Thí đến nằm dưới tòa, như có ý muốn nghe pháp, sau đó qua thời gian bốn mươi ngày, lúc nó mới sanh thôi, con lừa con ấy quả nhiên có ý như người, cũng chẳng lạ ư?

Năm Bính Thân (996) thuộc niên hiệu Chí Đạo (995-998) thời Bắc Tống, pháp sư nhóm kết kẻ tăng người tục có sự kính tin tập hành hạnh nghiệp Tịnh Độ. Biên thuật sách, đề là "Thệ Sanh Tây Phương Ký", lại phỏng theo Phổ Hiền mà làm "Niệm Phật Tam muội". Pháp sư ở tại Bảo Lâm mười hai năm, mà chưa từng qua lại nơi nhà người thế tục. Tự may được Bồ-tát Quán Âm ngầm vì tán thán, mới bảo người thợ dùng gỗ Chiên-đàn làm tượng Đại Bi, tượng khắc xong bèn mang đội đó. Pháp sư lại soạn bài văn gồm mười bốn Đại nguyện. Về sau, người thợ có sự sai làm gãy mất chỗ nắm cành dương, pháp sư cung kính mà lo sợ đó, liền tự nhận lấy, chẳng nhờ keo dán mà tự nhiên dính hợp như cũ.

Năm Hàm Bình thứ ba (1000) thời Bắc Tống, ở quận Tứ Minh gặp phải hạn hán, mọi người trong quận mong cầu có mưa, Pháp sư bèn dùng thỉnh "Quan Âm Tam muội", và ngầm ước nguyện nếu qua ba ngày không mưa thì sẽ tự thiêu đốt. Đến kỳ hạn quả nhiên có mưa, dân chúng trong quận sống lại tươi tốt. Thái Úy lấy làm lạ mới liền dựng Bia ghi lại sư việc ấy.

Năm Hàm Bình thứ năm (1002) thời Bắc Tống, Pháp sư trở về lại Thiên Thai, muốn theo hướng Đông vào Bình Cư, mà đồ chúng càng đông nhiều, mới liền đến Tinh xá Ích Hoàng tại Tây Dương, căn cứ theo kinh, tạo Đại tượng Phật Vô Lượng Thọ, cùng đốc suất tu pháp "Niệm Phật Tam muội", trước thuật thuyết "Tịnh Độ Hành Pháp". Tại Ấp độ đó trước kia có Dâm Từ, pháp sư đều vì xét theo pháp để chánh lạm hưởng đó triệt bỏ. Có nơi gọi là miếu Bạch Hạc, dân chúng rất thần tượng đó, tranh nhau dùng muôn sinh mà cúng tế, Pháp sư bèn dẫn dụ mọi người đó, khiến biến đổi thức ăn bằng máu huyết thành thức ăn chay tịnh. Đến lúc Pháp sư cùng mọi người đi thuyền đến Bạch Hạc, mà sóng gió bão bùng nổi dậy, trong ý mọi người cho là Thần làm nên vậy.

Pháp sư liền hướng về miếu mà giảng nói duyên giới giết hại của Phật, mà sóng gió ấy bèn lắng dứt. Về sau, Pháp sư bảo Thần đó thọ giới của Phật, từ đó về sau, việc cúng tế bằng muôn sinh bèn dứt tuyệt. Pháp sư lại trứ thuật sách đề là "Dã Miếu Ký" là cùng Thần hiệp ước, mà dân chúng mãi đến nay vẫn y theo đó vậy.

Năm Đại Trung Tường Phù thứ tư (1011) thời Bắc Tống, gặp Chương Tuân Công, vừa làm Long Quan, lãnh tất cả chư tăng theo Hạ chế, mới bảo làm Tăng chánh, mời Pháp sư vào Tinh xá Cảnh Đức ở quận đó, giảng "Đại Chỉ Quán". Mùa Hạ năm đó hoàn tất, có ba Sa-môn mặc áo nạp tự nhiên mà đến xin dự giảng tịch Vu lan bồn, vừa tiếp mời ngồi, mà chợt nhiên không còn trông thấy.

Pháp sư từng vì duyên sự ưu thắng khác, vừa trên đường ra Hoàng Nham, có một con heo vội chạy lại nhiễu quanh chỗ xe của Pháp sư rồi (...) đó là heo tránh người giết mổ mà lại vậy. Pháp sư bèn bồi thường trị giá đó và bảo người giết mổ thả nó, đồng thời bảo đưa về nuôi tại chùa Diệu Hỷ, đặt cho nó tên là "Ngộ Thiện". Phàm, Quả hưởng đức của heo, người tà sao đó thay?

Tại Thiên thai có chùa Xích Sơn cao sáng mà gần biển, Pháp sư từng bảo mọi người là: "Ở đó nên dựng xây ngôi tháp". Mọi người làng đó vui thích nghe đều nói: "Trên đảnh núi đó thường có ánh sáng tỏa chiếu trên mặt biển, giữa khoảng ánh sáng đó lại thấy ảnh của ngôi Phù Đồ cao bảy tầng. Nhưng chỗ ánh sáng đó soi chiếu đến bốn mươi dặm, đều là cầu mành lưới của người găng bắt cá bao quanh đó". Pháp sư biết phát sáng đó là muốn có cảnh răn, nên càng khuyên chúng hẳn đáp đó. Đến lúc việc đó bắt đầu làm từ nền móng khai phá đất quả nhiên có được hộp đá. Đến lúc tháp thành cũng làm bảy tầng ứng với điềm trước đó vậy, mà dân ở đó chẳng còn làm nghề chài lưới vậy.

Pháp sư vừa mới trăm ngày tu sám tại núi Đông Dịch, gặp lúc đó nắng hạn, nước chẳng cấp dùng, pháp sư mới ra ngoài phòng nhà đứng trông nhìn, bỗng nhiên dùng tích trượng gõ một cái, mà suối đá theo đó mà nước chảy tràn. Nay ở Đông Dịch gọi là "Thạch nhãn tuyền", tức đó vậy.

Mới đầu, người ở Hàng Châu muốn thỉnh mời Pháp sư theo hướng Tây vượt đến giảng pháp. Tuy kẻ Sứ qua lại thỉnh mời suốt bảy năm, mà Pháp sư chưa từng theo đi. Đến lúc Sa-môn Tề Nhất ở chùa Chiêu Khánh dẫn cả đồ chúng lại thỉnh mời, Pháp sư mới theo đến. Lúc đó là đã mười hai năm vậy. Trước kia, Pháp sư từng mộng thấy ở trong Thai mẹ mười hai năm, so tính lại Pháp sư rời khỏi Thiên thai để vào Hàng Châu đó, mới là ứng nghiệm của mộng ấy vậy. Đến Hàng Châu, mới đầu Pháp sư dừng ở tại chùa Chiêu Khánh, giảng thuyết xiển dương Đại nghĩa, người học hưởng mộ đông nhiều như nước trút đổ vào đầm. Phong tục của Hàng Châu, quen thói dùng rượu và thức ăn ngon tiếp đãi lúc tang lễ, Pháp sư đặc biệt dùng thắng duyên mà dẫn dụ đó, tục đó đều chuyển hóa, cải đổi tất cả các thứ tanh nồng thành chay tịnh. Nhân đó, Pháp sư biên thuật văn đề là "Giới Tửu Nhục Từ Tuệ Pháp môn", để chánh việc đó. Người xứ đó đến nay vẫn còn kính chuộng vậy.

Qua năm sau, người ở Tô Châu cho là Châu đó đáng nên đón rước, Pháp sư đến Tinh xá Khai Nguyên, ngày đêm chuyên giảng pháp hội, nhóm tập đông nhiều các hàng tăng tục đến nghe Pháp. Có thể gọi là ban ngày muôn người ban đêm ngàn người. Số người đó không uống rượu ăn thịt gần hết cả thành ấp. Các quán rượu tiệm thịt rất chẳng bán được vậy. Pháp sư bèn nói với mọi người đó là: "Tổ của ta là Đại sư Trí Giả để lại thư nói sáu điều hận của Tấn Vương, trong đó thứ nhất là vừa vì Pháp tập động chúng là hoạn phòng ngại quan làm. Nay, tôi đức mỏng, sao có thể đáng ở đây lâu? Nên đi vậy". Xong, Pháp sư liền trở lại Hàng Châu. Lúc đó là năm Ất Mão (1015) thuộc niên hiệu Đại trung Tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống vậy. Thứ sử Tiết Công Nhan liền thỉnh mời Pháp sư đến ở Tịnh xá Linh Sơn. Xưa trước, pháp sư từng vui thích cảnh thắng đó, đã có ý theo đó, đến đây mới thật vừa với tâm nguyện sắc son. Chỗ đất đó là nơi do tăng Chân Quán xây dựng chùa Thiên Trúc ở thời nhà Tùy, đến thời Tiền Đường thì Samôn Đạo Tiêu tiếp thừa đó. Nhưng thời nhà Tùy nhà Đường đã qua bốn trăm năm mà di tích của Quán Công tiêu mất, gần như không thể thấy gì nữa. Pháp sư y cứ theo Cựu Chí, tham tầm trong khoảng cỏ hoang xanh rợp quả nhiên có được các dấu hiệu đó, Pháp sư bèn dùng Thi phú để làm bia ghi lại đó, đó là bắt đầu mưu tính trở lại Thiên Trúc vậy. Mới đầu, ở phía Tây chùa đó có chỗ trồng cây cối, khô rụi chỉ còn trơ gốc, đến đây mà trở lại tươi tốt, bởi là chứng nghiệm của chùa ấy làm lại vậy, nhân đó mà đặt tên đó là "Trùng Vinh Cối". Lại lấy Thạch thượng mai nơi cửa động Hương Lâm. Gốc của núi đó trong bụng trúc, mặt đá. Trúc cùng với cây cối là bốn mốc mối của Thiên Trúc. Pháp sư làm bốn bài thơ ghi về thắng dị đó. Pháp sư ở chưa bao lâu mà người đến học đông nhiều, mới liền ngay phía Đông của chùa xây dựng am Nhật Quán, soạn thuật "Thiên Trúc Cao Tăng Truyện". Bổ khuyết thuyết "Tam muội Hành pháp" của Đại sư Trí Giả để chánh người học.

Năm Đại Trung Tường phù thứ chín (1016) thời Bắc Tống, ở Thiên Thai có Sa-môn Chánh Tuệ nghĩ đến Kinh đô đem tên của Pháp sư mà tấu trình, bèn ban tặng Pháp sư pháp phục sắc tía, sau đó lại thỉnh mời Pháp sư đến giảng ở chùa Thọ Xương. Bãi khóa giảng, Pháp sư trở lại núi Đông Dịch, bảo cùng đồ chúng ở đó rằng: "Linh Sơn là chỗ tôi chọn trọn đời ở đó, đến kinh thành xong, tôi sẽ trở về lại đó". Sau đó, Pháp sư nắm bút viết lên vách tường một bài ca dao dài để từ biệt Đông Dịch, trở lại Thiên Trúc.

Phàm, mùa Hạ thì Pháp sư cấm túc, khuyên răn đồ chúng hành trì "Kim Quang Minh sám pháp", mỗi năm lấy bảy ngày bảy đêm làm lịch trình. Cung Bảo Mã Công đã già yếu lại kính phụng Phật, rất mến mộ lời của Pháp sư, Pháp sư bèn thuật làm "Tịnh Độ quyết nghi luận". Mã Công khắc bản in lưu truyền. Đến lúc Vương Văn Mục công bãi tướng võ yên Hàng Châu, nghe cao phong của Pháp sư, nhân Lý minh Châu cần muốn thấy gặp ở phủ xá. Khi đã thấy, Vương Công lấy làm kỳ lạ đó, vài ngày sau bèn dẫn các hàng liêu thuộc phỏng tìm Pháp sư ở trong núi, và liền thỉnh mời Pháp sư giảng pháp. Pháp sư mới giảng "Pháp Hoa Tam pháp Diệu Nghĩa". Tài biện của Pháp sư phát ra trong lắng, khiến mọi người thảy đều chăm chú. Vương Công nói: "Đây, thật chưa từng nghe vậy". Pháp sư bèn nêu dẫn bản mạt của giáo nghĩa Thiên Thai, vì muốn xiển dương đó. Vương Công chấp nhận vậy. Sau đó, Pháp sư tấn bày trở về lại chùa, và được sắc ban tên hiệu của Thiên Trúc. Vương Công viết bảng đó, Tôn Quân bảo vậy, Vương Công mới đem Tây Hồ tấu xin làm Hồ phóng sanh, cũng là Pháp sư dùng ý Hộ sanh của Đại sư Trí Giả nói mà động đó vậy. Vương Công đó ra duẫn ứng thiên mới cảm chút bệnh, mộng cùng thấy gặp Pháp sư mà bệnh đó liền lành, mới gởi thư đến nói rõ việc ấy, và cho là bình sanh gặp gỡ có thắng duyên, mới từ Giang Ninh lại đón mời pháp sư đến phủ xá, hỏi pháp, lưu ở lại ba tháng. Vương Công mới đầu muốn làm tượng Tăng già, phỏng dịch mà chưa thành quả, Pháp sư mới vì đó suy Bồ-tát Quán Âm ứng hóa biến tri, không phương mà chỉ bày đó. Trước đó, Pháp sư từng mộng cùng Vương Công ở trong Tháp Phật, có Lão tăng nắm linh vàng mà phân cho hai người, lại nói đó để nghiệm vừa luận. Vương Công nói: "Thật, nghĩa là của Kim Lăng vậy". Đã tạo tượng hoàn tất, dâng trao đến Pháp sư, nhân đó, Pháp sư soạn "Tử Châu Đại Thánh Lễ văn" để tôn phụng việc đó. Vương Công lại cùng Tần Quốc phu nhân cúng thí hơn sáu trăm vạn tiền để làm Đại Điện của chùa đó. Pháp sư làm lại chùa, là từ Hoàng gia cùng Vương Công vậy. Đặc biệt có chỗ cảm, bèn gom tập lại giáo nghĩa Thiên Thai, soạn văn "Tứ thời lễ Phật" để khuyên đồ chúng đó hành trì. Muốn để báo đức, gặp tiết Càn nguyên, Vương Công đem đạo hạnh của Pháp sư tấu trình, bèn sắc tặng Pháp sư hiệu là Từ Vân. Từ đó hai vị cùng nhau giao du làm bạn phương ngoài càng thân, hình ở Thi thơ đông nhiều vậy. Như có trứ thuật: "Viên Đốn Thập Pháp yếu", "Quán Pháp Đồ chú", "Nam Nhạc Tư Sư Tâm yếu kệ"... đều do Vương Công làm vậy. Đến trong niên hiệu Thiên Thánh (1023-1032) thời Bắc Tống, Vương Công trọn đem giáo bộ Thiên thai, tấu trình dự vào Đại Tạng. Thiên Thai tông Bắc truyền, là do sức lực của Pháp sư và Văn Mục Công vậy.

Mới đầu, Chương Hiến Hoàng hậu vì Pháp sư huân tu chuyên chí, nên trong khoảng niên hiệu Càn Hưng (1022-1023) thời Bắc Tống, đặc biệt sai sứ mang vàng lụa hai lần đến trong núi, vì nước nhà mà tu sám. Pháp sư bèn biên thuật văn nghi

"Hộ Quốc Đạo tràng" mà tấu dâng, xin cùng bản giáo đó đưa vào Đại tạng. Qua năm Thiên Thánh thứ nhất (1023) thời Bắc Tống, Nội thần Dương Hoài Cát đi sứ phương Đông, lại tặng Pháp sư nhũ hương. Lúc giả biệt, Dương Hoài Cát cho là Pháp sư khéo viết nên cầu xin bút tích, Pháp sư liền viết một bài thơ mà tặng, Dương Hoài Cát bèn tấu trình. Năm sau lại tặng một trăm lượng bạc, cúng dường trai phạn ngàn vị Tăng trong núi. Nhưng thời đó các hàng Sĩ khanh Đại phu nghe mỹ phong đó mà vui thích thắng duyên đó, như Tiền Văn Hỷ, Dương Văn Công, Chương Tuân Công, và các Công Khanh khác đông nhiều, sợ bới xích tên mà chẳng đều ghi. Pháp sư nhàn nhã từ bút thuần chương, có phong thái của Thi nhân. Trong các văn đó có viết như "Kim Viên Tập", "Thiên Trúc Biệt Tập", "Linh Uyển Tập". Nhưng Pháp sư tu khiết tinh khổ, đã vài lần tự đốt các ngón tay, mà còn lại một vài ngón vậy, nhưng đến lúc Pháp sư nắm bút biên ghi, tinh mỹ rất được thể của Chung Vương. Ở Linh Sơn, mùa Thu khi tạnh mưa, thường trời mưa hạt Quế tử (Hạt Quế), Pháp sư mới làm bài thơ "Quế Tử Chủng Quế", Thượng thư Hồ Công thấy mà chịu tưởng thưởng đó. Mới cùng Tiền Văn Hỷ Công nối tiếp đó, Hồ Công lãnh quận Tiền Đường, cúng thí vàng để làm ba cửa chánh của chùa đó.

Pháp sư lãnh dẫn chùa đó đã lâu, từng muốn thôi nghỉ, Sứ Quân Lý Công... liền nhóm hội người trong quận khổ cầu Pháp sư ở lại. Lại qua hai năm, đến tháng giêng năm Thiên Thánh thứ chín (1031) thời Bắc Tống, đang lúc giảng kinh Tịnh Danh, chưa bao lâu, Pháp sư chợt trông nhìn mà bảo đồ chúng đó rằng: "Xưa trước, ta ở tại Đông Dịch cũng giảng Kinh này, từng mộng thấy Tôn giả Kinh Khê ở trong thất trao cho quyển kinh, đến lúc mở xem thì ngày đã ẩn mất vậy. Nay ta gần rốt cùng ở giảng đây vậy". Một ngày nọ, quả nhiên Pháp sư cùng đồ chúng mà quyết biệt rằng: "Ta ở hai chùa tại Thiên Thai và Hàng Châu đây đã bốn mươi năm, lớn ý dùng ý mười phương, luôn chuyên truyền tư, nay giao phó giảng tịch, nên theo chí của ta". Liền bảo cùng đệ tử lớn của mình là Sa-môn Tổ Thiều rằng: "Ông phải tiếp nối đạo tôi, tôi đem lò hương phất trần này trao cho ông, chớ làm người sau cùng đoạn mất giống Phật, ông phải cố gắng đó". Rồi, Pháp sư bèn làm thơ tạ ba duyên (nghĩa là Tạ tuyệt đồ chúng, bè bạn và bút nghiên vậy) bảo người học khắc lên đá để nêu bày đó.

Qua mùa Thu, ngày hai mươi tám tháng tám, một mình Pháp sư đến Thảo Đường ở Đông Lãnh của chùa mà tự ẩn. Đến ngày mồng tám tháng mười năm sau (1032), Pháp sư hiện tướng cảm chút bệnh, chẳng dùng thuốc thang, bảo lấy bài thơ mà pháp sư từng hòa thơ Hối Tích của Lưu Di Dân người nhà Tấn, sửa đổi câu kết ở đó là: "Bay không dấu tự tuyệt, chẳng tại núi xanh xanh", và bảo bào gọt vách sườn mà khắc đó. Qua chiều ngày hôm sau, Pháp sư lại bảo: "Báo duyên tôi hẳn hết, đâu dám quên Di huấn đối với các ông ư?". Pháp sư lại vì giảng pháp để khuyên răn đồ chúng đó. Qua chiều hôm sai nữa, Pháp sư bảo thỉnh tôn tượng Phật A Di Đà để chánh làm chung đó. Cơ đồ còn muốn có chỗ khẩn đảo, lại đem tôn tượng Quán Thế Âm ứng mạng, Pháp sư bèn đốt hương, chiêm ngưỡng tôn tượng mà khấn chúc rằng: "Quán Thế Âm tôi, khoảng trước chẳng đến, khoảng sau chẳng đi, mười phương chư Phật đều trú thật tế, nguyện trú nơi thật tế này, ghi nhận con đốt một nén hương... " Hoặc có người hỏi pháp sư quy tịch về đâu? Pháp sư đem "Tịnh Độ Tịch Quang" mà đáp đó. Đến trống canh ba đêm đó, Pháp sư đoan tọa an nhiên thị tịch.

Trước đó, pháp sư tự chế một chiếc quan tài, đề là "Hà sáp" (chiếc giường dài xa) và ghi minh rằng: "Người học chuyên kính phụng chí trước của Thầy đó, hẳn nằm Linh thể đó ở Hà Sáp". Qua bảy ngày sau, hình tướng dung mạo của Pháp sư hoàn toàn nghiêm khiết như lúc bình sanh. Pháp sư hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi Hạ lạp. Ngay đêm Pháp sư thị tịch, trong núi thấy có một ngôi sao lớn rơi xuống trên Thứu phong, sáng rực, có màu sắc hồng phát chiếu đến phía trước chùa. Pháp sư độ đệ tử như Hư Bối có cả trăm người, còn trao giảng thọ pháp như Văn Xương. Các thương nhân thì chỉ được hai mươi vị, còn người đến cửa cầu học chẳng những cả số ngàn. Đến ngày mồng bốn tháng hai năm sau (1033), nghinh phụng Hà Sáp về an táng dưới ngọn núi Nguyệt Quế thuộc phía Đông chùa, gần bên cạnh tháp Cao tăng Chân Quán thời nhà Tùy.

Lờ mờ biết Thiều Công đã ba mươi năm, về sau, nhân cùng vân du trong núi mà tôi càng thân. Thiều Công về già thuần trọng, cũng là một bậc Pháp sư Danh đức vậy, từng đem Thực Lục của Đại Pháp sư (Từ Vân) nhờ tôi biên chép. Mới đầu, tôi tự cho mình văn tuệ, không dám cán đáng. Đến lúc nhờ tấu thư làm pháp đã chứng hiệu trở về, mà Thiều Công đã vật nên mới cảm khái. Nay Sa-môn Biện lại đem bản ghi chép những gì thấy biết gởi đến, mong thành tựu ý nguyện của thầy đó. Sa-môn Biện xét ngay thẳng khéo tiếp nối, lại là bậc đệ tử Hiền của Minh Trí vậy. Gặp tôi lánh lời vừa đi trong núi, dặn dò đó càng ân cần, nhìn lại trái mạng với Tiên sư đó, nên hãy căn cứ theo Thiều Công, Thực Lục mà luận bàn thứ tự đó. Bảo đề là "Khúc Ký", bởi khúc chiếc chi ly mà ghi việc đó vậy. Nhưng Đại sư Từ Vân là người thông triết kiên minh, nên đem Phật pháp đó mà tự dựng lập, cao vợi, thủy chung chẳng suy, tuy các bậc Cao tăng xưa trước cũng không hơn vậy. Ở đời so với Cao tăng Chân Quán, chẳng phải vậy ư? Phong giáo Thiên Thai càng thạnh ở tại Ngô Việt cũng nhờ từ đức của Pháp sư Từ Vân vậy. Tôi buồn hận không kịp thấy người đó vậy!

Ngày Rằm tháng chín năm Quý mão (1063) thuộc niên hiệu Gia Hựu thời Bắc Tống, tiện đang ở tại vườn Long Du phía Đông, cửa Kinh Đô, kính ghi.

QUYỂN 13

BIA-KÝ-MINH-BIỂU-TỪ

BÀI MINH THÁP CỐ HÒA THƯỢNG CẦN CÔNG Ở THIỀN VIỆN TƯ THÁNH TẠI TÚ CHÂU

Tháng tám năm Nhâm Dần (1062) thuộc niên hiệu Gia Hựu (1056-1064) thời Bắc Tống, người ở Tú Châu nghinh thỉnh cốt thân Cố Hòa thượng Cần Công về tôn trí bảo tháp ở núi An Lạc tại Dư Hàng. Từ mới đầu, đệ tử bẩm pháp của Cố Hòa thượng, là Sa-môn Tỉnh Văn, bậc Nho giả ấy nghe An Viễn mách bảo, mới nhờ Khế Tung tôi biên ghi làm bài minh đó.

Hòa thượng húy là Thạnh Cần, vốn giòng họ Ta, nhưng vì không tìm được gốc ngọn của giòng họ đó, bèn theo giòng họ Thích, là người ở Thọ Dương thuộc Tượng Quận. Hòa thượng đồng chân xuất gia, giữ lễ tôn thờ Thiền sư Duy Tề ở núi Bạch Dung tại Quận tượng. Trong niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1008-1017) thời Bắc Tống, do tụng kinh trúng thi, bèn được xuất gia xuống tóc. Và cũng năm đó (?), Hòa thượng thọ giới cụ túc tại chùa Diên Linh ở Quế Quản. Trở về lại Bạch Dung thì gặp phải Thầy vừa thị tịch. Hoàn tất việc Tang lễ, Hòa thượng bèn mạnh mẽ theo hướng Tây vân du phỏng tìm bậc Sư tông. Hòa thượng bẩm tánh thuần ý sâu dày, xưa trước vốn có Đạo thức. Lúc còn trẻ nhỏ do tự phát minh, tham học các bậc Thạc sư lão thiền ở các châu Hành, Tương, Yên, Dĩnh, mà riêng rất thấu đạt Huyền chỉ nơi Hòa thượng Viễn ở Đức Sơn. Mới đầu, Hòa thượng đem Ngữ cú của Vân Môn đến thỉnh cầu Hòa thượng Viễn quyết trạch, tuy ân cần thưa hỏi suốt cả ba tháng, nhưng Hòa thượng Viễn vẫn chưa từng biện giải chút ít. Ý muốn để cho Hòa thượng tự khế ngộ vậy. Một sáng nọ, đã tỏ ngộ rồi, đến Hòa thượng Viễn xin chất vấn. Vừa thấy mặt, Hòa thượng Viễn bảo: "Ông đã thấu triệt vậy!". Đương lúc ấy, Hòa thượng chóng cảm thấy tự thân bay vượt giữa hư không, chẳng thấy phòng thất làm ngăn ngại. Trở lại chỗ đứng đó, tức khắp thân mình mồ hôi toát đổ như mưa. Hòa thượng ngộ đạo linh nghiệm như thế đó. Trước đó, Hòa thượng từng tham học ở một vị tăng khác, được trao truyền hành tập pháp Thiền định An Ban. Mới đầu trao pháp đó, Hòa thượng ngồi ngay chiếu đất, đốt lửa trên đảnh đầu trước vị thầy đó, bèn có ánh sáng khác lạ bắn vọt lên, tròn đỏ rực như mặt nhật. Ánh sáng dập tắt rồi, mà nguyên vẹn không tổn hại gì. Vị thầy ấy bảo: "Ông là pháp khí tối thượng thừa, hãy cố gắng đó, nếu không do đây tự hết vậy". Hòa thượng có sự cảm thông, lại như thế đó. Về sau, mọi người tham học thiền mới ùn ùn hưởng mộ, đến Triết Tây xen lẫn dấu vết ở núi An lạc tại Dư Hàng.

Khoảng đầu niên hiệu Hoàng Hựu (1049) thời Bắc Tống, Gia Hòa Thái thú Niếp Công, đã nhiều năm nghe đạo phong của Hòa thượng, vì dẫn dắt người trong quận nên cầu thỉnh Hòa thượng nhậm lãnh đồ chúng ở đó. Trải qua mười hai năm, người ở Tú Châu bất kể Hiền ngu, nam nữ đều cảm mộ phong đức ấy mà chuyển hóa lớn. Bạn đạo thường ngày đến pháp hội đó không dưới vài trăm, phòng ốc tự viện hoàn toàn sửa sang, Tăng chúng luôn đầy đủ, mà ở Tú Châu có Thiền Cư là do tự Hòa thượng hưng khởi vậy.

Đến ngày Nhâm dần, tháng năm, năm Canh tý (1060), tức năm Gia Hựu thứ năm, Hòa thượng hiện tướng cảm chút bệnh, an tọa đoan nghiêm, nói kệ mà thị tịch, hưởng thọ sáu mươi tám tuổi, bốn mươi hai Hạ lạp. Đến ngày Kỷ dậu cũng trong tháng năm đó, tuân theo giáo mà trà tỳ, có được xá lợi năm sắc, văn vẻ sặc sở không thể tính kể. Đệ tử do Hòa thượng hóa độ, có như Sa-môn Tông Ích nối dõi pháp đó mà lãnh chúng ở một phương. Ngoài ra còn có các vị như "Tỉnh Văn, Hữu Xướng. Lúc bình sanh, Hòa thượng từ gom nhặt những ngữ yếu xưa trước biên ghi thành sách, đề là "Nguyên Tông Tập". Mà về sau các học trò mới lưu truyền đó. Nhưng Pháp sở đắc của Hòa thượng, thật là bí yếu của chư Phật, là sở tông của quần sanh, là sở truyền của chư Tổ ấy vậy. Chẳng phải nói hay nín mà có thể thấu đạt vậy, nhưng chẳng phải nói hay nín lại không thể hơi phát. Nên Hòa thượng đợi người tiếp chúng tuy ân cần dạy răn, mà nói đó thường giản đơn, cơ duyên đó chẳng phiền khuôn vết lớn, yếu Đạo đó là từ đức vào người rất sâu. Cho nên, Hòa thượng thị tịch, người ở Tú Châu khắp thành đều gào khóc, như chịu tang người thân vậy.

Các vị ấy cho rằng, Khế Tung tôi đối với Hòa thượng đạo giao cùng biết rất rõ ràng sâu sắc được chỗ xuất xứ đó, mới đem văn giao phó. Tuy cố nài nỉ nhưng trọn chẳng được chối từ. Xin ghi lời minh rằng:

"Chỉ cốt đặc viên, chỉ Đạo cũng vậy
Chẳng sanh chẳng diệt, không thiên không lệch
Chế tiểu Di Thạch Lặc, mà đây Pháp thường truyền".

BÀI KÝ ẢNH ĐƯỜNG CỐ HÒA THƯỢNG XIÊM Ở THIỀN VIỆN TƯ THÁNH TẠI TÚ CHÂU

Thiền sư cảm bệnh, tôi từ Hàng Châu đến thăm hỏi thuốc thang, Thiền sư thường ngoái nhìn mà bảo: "Tôi già yếu lại bệnh tật, đó hẳn đã vậy, chết lại phiền lụy đến các ông đào bới mà chôn lấp. Ông nên vì tôi mà ghi chế nối dõi pháp đó", và bèn trao cho tôi nguyên do đó vậy. Tôi trở về lại Hàng Châu chưa bao lâu thì quả nhiên Thiền sư thị tịch. Người học chẳng đều thiêu đốt mất đó, cuối cùng không được mà tạo dựng tháp đó. Nên tôn trí Danh tích của Thiền sư ở Ảnh Đường, nhờ Trưởng lão Thiền sư Cần hiện nay khắc đá để lưu truyền đó.

Cố Thiền sư húy là Khánh Xiêm, tổ tiên xưa trước vốn người xứ Kiến Dương, giòng họ Phạm. Giòng họ Phạm nhiều đời thường là sĩ tộc, thân phụ và ông nội của Thiền sư đều làm Quan sĩ, chẳng lại phải biên ghi vậy. Mới đầu, Thiền sư nhân thân phụ làm quan mà sống ở Cối Kê, đến lúc thân phụ qua đời tại quận Hải Diêm, Thiền sư bèn cùng thân mẫu gìn giữ gia sản nên ở tại Tú Châu. Khi ấy, Thiền sư vừa mới năm tuổi, mà khí mạo tốt lành xông tỏ, thân mẫu lấy làm lạ đó, nên bảo theo Samôn Tử Chiếu ở Tịnh Hạnh, tức nay là Tinh xá Tư Thánh, mà cầu xin xuất gia. Qua hơn mười tuổi, được xuống tóc, thọ giới cụ túc tại chùa Linh Quang, tập học các kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác ở giảng sư, sống giữ thuần tố trong suốt mười năm. Qua tuổi rõ ràng, Thiền sư liền rộng vân du phương ngoài, tham vấn khắp các Thiền yếu, lại trải qua mười năm mới trở về. Mới đầu tại Tú Quận chưa từng có Thiền Cư, tiếp đãi người đến cũng có chỗ khuyết thiếu. Nhưng khi Thiền sư đã trở về, mới một mực đổi thay viện đó, chuyên cùng chúng ở dẫn dụ đồ chúng đó, tức như Thiền quy của các Viện chủ ở mười phương vậy. Khi đồ chúng đã có phần ổn định, Thiền sư bèn dựng lập am riêng ở nơi vườn rừng, thuần hành hạnh Đầu đà, chẳng ra chẳng vào lại suốt mười chín năm. Tuy vận mặc áo xấu, ăn thức ăn dở, như tự thấy yên ổn như vậy, sống không sao. Gặp cố Thiền sư Thanh ở Tuyết Đậu đến nơi am của Thiền sư mà nói: "Lành thay! Nhân giả, mới đến vậy thay!". Nhân đó nêu bày hết pháp sở chứng đó, mà Thiền sư Thanh rất phải đó.

Cuối cùng cũng tiếp thừa ở Thiền sư Thanh.

Đến trong niên hiệu Thiên Thánh (1023-1032) thời Bắc Tống, Quận thái thú Trương Công mong mỏi Thánh cao đó, mới trở lại Phương trượng để cử hành Thiền. Nên sự việc đó đợi cố Hàn lâm học sĩ Diệp Công Đạo Khanh dùng trong Duẫn lãnh quận, thấy mà càng vui mừng bèn tôn kính làm Trưởng lão, bảo truyền Pháp đó. Qua hai mươi năm trọn dùng vật cũ đó.

Than ôi! Thiền sư sống ở đời bảy mươi sáu năm mà sáu mươi hai hạ lạp. Thiền sư dẫn trị viện đó, từ lúc trẻ khỏe đến tuổi già suy suốt bốn mươi sáu năm. Đối với người rất trang nhã, đối với chính mình rất liêm ước, ăn uống tự dụng thảy đều thuần tố tiết kiệm, chẳng hợp với trụ đương thời, cho nên các học trò cho là khó mà ít thân gần. Chỉ các Sĩ Đại phu trong Thiền sư nghiêm tu tinh khiết nên chẳng nhẫn đem các thứ rượu thịt tanh nồng làm rối loạn Thất đó.

Trước đó, tại Ngô Trung, chư Tăng tọa pháp mất hẳn thứ tự, liền dùng thế cao thấp, chẳng lại dùng giới đức để luận, Thiền sư bùi ngùi, từng vài lần gởi thư đến Quan cầu xin xử lý. Người đời đều chẳng ngó ngàn thuyết đó, mà Thiền sư chưa từng tự ngăn cản. Đến lúc Diệp Công Đạo Khanh chuyển vận Ngô Việt, Thiền sư lại gởi thư đó, mà Diệp Công chấp thuận, bèn chánh chỉnh việc đó ở tại Quận. Thế rồi, Tăng chúng ở Tú Châu quả nhiên suy tôn Thiền sư ở tòa cao. Mới gặp lại, bèn liền tụ tuyệt, nối gót chẳng dùng tục gần mười lăm năm. Nhưng cũng là thiên tánh công chánh tha thiết đối với Hộ pháp vậy.

Xưa trước, Thiền sư từng cùng nói với tôi rằng: "Tôi không khả năng đem Đạo ban thí cho vật, Đức hạnh cũng chẳng đủ đáng trông, thật lấy làm thẹn với Thánh nhân xưa trước vậy. Tạm nhẫn nhìn loạn Pháp đó là càng thẹn nữa vậy". Tôi liền nói lại với Thiền sư rằng: "Chẳng hẳn phải khiêm nhường vậy. Tông môn Tào Động là Đạo diệu của thiên hạ, mà người học hiếm ít thấu đáo. Mười hai hạnh Đầu đà là hạnh rốt ráo của xuất thế, là chỗ khó của bọn chúng tôi. Hay vì pháp mà phấn phát, chẳng đoái hoài tự thân, cũng là việc khó thể làm của người. Với ba điều đó sư điều được mà hành đó, sao lại thẹn ư?" Thiền sư bảo: "Tôi đâu dám được như thế". Tuy nhiên, tôi tầm thường lấy khải mà ngợi ca đó đối với chúng tôi, bởi muốn đó có chỗ khuyên vậy. Thiền sư đã thị tịch đến nay, năm Kỷ Hợi (năm Kỷ Hợi (1059) (tức thuộc niên hiệu Gia

Hựu (1056-1064) chứ không phải là Hoàng Hựu.) thuộc niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054) thời Bắc Tống, thật đã năm năm rồi vậy. Buồn thay!

BÀI MINH THÁP ĐẠI SƯ PHỔ TỪ Ở LINH ẨN

Pháp sư húy là Ấu Mân, vốn giòng họ Diệp, người xứ Ngọc sơn-Tín Dương. Từ thuở bé thơ Pháp sư đã có chí xuất tục. Xin cùng song thân, được chấp thuận, Đại sư bèn vào Lan nhã Hưng Giáo thuộc trong ấp đó, nương theo Sa-môn Tĩnh Đàm cầu xin xuất gia. Sau khi đã thọ giới cụ túc, Đại sư mới vân du khắp bốn phương phỏng hỏi đạo. Đến Hổ Lâm ra mắt Thiền sư Huệ Minh, chợt nhiên có đạo khí, Đại sư bèn liền phục ứng giữ lễ làm học trò, dốc lòng học pháp đó, việc pháp không khó dễ, đủ lấy làm thường đó vậy. Lâu sau, Thiền sư Huệ Minh bảo Đại sư trông coi việc chùa đó. Sau đó không lâu, chùa gặp phải nạn lửa đốt hại lan tràn hết mới tính chỗ mất mát đó, những người đồng sự lấy làm nguy ách đó đều lo buồn là họa. Đại sư mới bảo đó rằng: "Tôi không coi việc chùa, tất cả tội đều tại tôi, riêng mình tôi nhận chịu đó, các ông chẳng hẳn phải lo sợ vậy". Quan lại quả nhiên không vào chùa xét hỏi Đại sư, mà bắt người giữ việc nấu bếp vậy. Đó há là chỗ người xưa nói gặp nạn không tạm khỏi đó ư? Sau đó, Thiền sư Huệ Minh thị tịch, hoàn tất việc tang lễ, Đại sư liền dẫn đồ chúng đó mà bảo: "Bản phủ thỉnh Đại Trưởng lão Huệ Chiếu Thông Công trú trì chùa đó, để kế thừa Thiền sư Huệ Minh". Chỗ bao gồm là để trông coi chùa giúp đó, nên chung sức cùng làm lại chùa đó, chưa đầy mười năm mà dựng xây phòng nhà sừng sửng có hơn ngàn gian, lại hùng vĩ hơn so với xưa trước.

Trong khoảng niên hiệu Khánh Lịch (10411049) thời Bắc Tống, triều đình dùng tiến cử đó mà ban tặng Chương phục, về sau lại ban tặng hiệu là Phổ Từ. Đến lúc Trưởng lão Huệ Chiếu thị tịch, Đại sư đang cảm mắc bệnh nặng, cũng gắng sức bệnh mà lo việc lễ tang đó. Mới đầu, Trưởng lão Huệ Chiếu sắp thị tịch có để lại Di thư, đề cử Đại sư tự thay thế. Quan phủ nghi ngờ việc ấy, chẳng chấp thuận, để Linh Ẩn đổi thay đề cử vị Tăng làm chủ việc chùa đó. Đại sư phụng sự vị Tăng đó càng cung kính, không mảy may tâm niệm bị lận hiện bày nơi dáng vẻ và tiếng nói, nên mọi người càng mến đức đó. Bấy giờ Tri phủ Long Đồ Quý Công biết đó, mới đem lên Tinh xá Thiên Trúc, bảo Đại sư làm Trưởng lão ở đó. Đến lúc Quán Văn Tôn

Công mới bắt đầu làm Tư Chánh Đại học sĩ đến Hàng Châu, đặc biệt vì chuyển dời Đại sư trở lại làm chủ chùa Linh Ẩn. Mới ngày đầu tiên, Đại sư giảng Pháp, các hàng Công Tôn Đại Sư áo mão sang quý đến dự chẳng những cả trăm người, dự hội đốt hương, nghe Đại sư giảng Pháp, và các hàng Tăng tục già trẻ sang hèn chen vai mà đến có cả muôn người. Ngày đó, tiếng người, vết xe đầy tràn cả núi cốc. Hưng thạnh của Pháp tịnh đó sống lại như thế vậy.

Đại sư bẩm tánh khoan dung bình thản từ thứ, cùng người bao gồm mà phần nhiều đều dung nhiếp mà người cũng rất tốt lành đó. Nên Đại sư ở chùa đó vừa mới sáu năm, mà chùa càng tu, chúng càng Tĩnh. Đại sư độ Đệ tử được hai mươi ba vị.

Đầu tháng mười một năm Ất hợi, thuộc niên hiệu Gia Hựu (1054-1064), (trong niên hiệu Gia Hựu không có năm Ất hợi, và năm Ất hợi (1035) hay (1095) thì hẳn là không phải), bỗng nhiên Đại sư cảm chút bịnh mà nằm. Trước lúc thị tịch một ngày, Đại sư cùng nhờ nói sắp giao việc chùa và trông coi Thiền đức hiện nay, ngữ khí rõ ràng chánh xác như ngày trước bình thường không suy yếu. Đến ngày mười ba, lúc gà gáy, Đại sư thức dậy súc miệng rửa mặt, hỏi giờ khắc rồi mới ngồi yên mà thị tịch, thọ sáu mươi mốt tuổi với bốn mươi mốt Tăng lạp. Mãi đến ngày hai mươi chín tháng đó (11) mới nhập tháp trong tường thành của chùa, ngay hướng Bắc của khe suối Hô Viên. Nhập tháp xong, biết Đại sư đem Hành trạng đó cầu nhờ soạn văn mà làm bài minh đó. Nhưng pháp đó trong Cao Tăng Truyện xưa trước phàm chúng tôi đối với giáo phó đó có Đức của ngôn từ và người có công đó mới biên ghi đó. Như nay, Linh Ẩn là một ngôi chùa rất danh tiếng trong thiên hạ, hẳn trong Phật pháp chúng tôi vì đó mà buông giữ vậy. Than ôi! Đại sư Phổ Từ ở chùa đó lúc bình sanh có công hiệu như vậy, há chẳng phải là đối với Pháp có công ư? Nên tôi chẳng nhún nhường mới dẫn nêu việc đó mà biên ghi vậy. Và xin ghi lời minh rằng:

"Chỉ công ở Pháp,
Chỉ Đức ở Pháp,
Pháp đã chẳng sanh,
Thắng duyên đó đâu có dứt ư?"

Chỉ thạnh thiện của Đại sư thường vậy, chẳng hết chẳng đổ, đoán có thể thấy vậy".

BIỂU VĂN THÁP CỐ ĐẠI ĐỨC HẠNH THIỆU Ở CHÙA BẢO THẮNG TẠI NÚI THẠCH BÍCH-HÀNG CHÂU

Chùa Thạch Bích cách Hàng Châu ba mươi dặm, chạy theo Long Sơn mà về hướng Tây, sâu thẩm mà vào cốc tối. Có vẻ đẹp của khe suối Thạch nham, tuy khí tượng ở đó trong lành, mà người đời chưa từng biết đến. Từ khi Đại đức Hạnh Thiệu và người anh là Pháp sư Hạnh Tĩnh ở đó, thì tôn ấy mới lan tỏa, cũng là đất do người mà hiển bày vậy.

Đại đức húy là Hạnh Thiệu, vốn giòng họ Thẩm, người xứ Tiền Đường thuộc Hàng Châu. Mới đầu, thân mẫu mộng thấy được vị Dị Tăng cho viên xá lợi, bèn nuốt đó, nhân vậy mà mang thai. Đến lúc sanh ra Đại đức, tỏ tánh thuần mỹ chẳng như những trẻ nhỏ khác, không thích ăn thịt cá, ham mê nghe Phật sự. Vừa mới mười hai tuổi tìm đến Thiền sư Diên Thọ-Trí Giác cầu xin làm đệ tử, song thân bèn chấp thuận đó. Đến lúc đắc giới Cụ túc, Đại đức chuyên luyện thông luật bộ. Đương lúc ấy, Quốc sư Thiều ở tại núi Thiên Thai, đạo phong vang vọng, Đại đức mới vén áo tìm theo đó. Quốc sư Thiều vừa thấy gặp mà liền mến quý, bèn bảo Đại đức đến học pháp Tam Quán ở Pháp sư Hy Tịch tại Loa Khê. Nhân đó, cùng người anh là Pháp sư Hạnh Tĩnh đều tôn thờ Pháp sư Hy Tịch giảng cầu Đại nghĩa. Ở đó chưa bao lâu, mà sở học đã thành tựu, bèn trở về lại Hàng Châu, tức tu bổ lại chùa cũ đó. Sau đó, Đại đức cũng nhường chùa ấy cho Pháp sư Hạnh Tĩnh làm Hội giảng chúng. Pháp sư Hạnh Tĩnh cùng Đại đức đều xuất gia từ Thầy Trí Giác, mà Đại đức làm Pháp huynh, còn pháp sư Hạnh Tĩnh làm anh thế tục. Pháp sư Hạnh Tĩnh là do tố đức tự phát, trước đó sáu mươi năm, tuy các bậc túc học danh tăng vẫn đều suy tôn đó là Cao nhân. Đương thời nên làm chỗ nương tựa của người học. Đến lúc Pháp sư Hạnh Tĩnh chuyển dời giảng ở chùa khác, mà Đại đức lại đến ở Thạch Bích, trong suốt thời gian năm mươi năm đó, gìn giữ tiết tháo ở núi rừng đó, chưa từng tạm đến trong xóm làng lân cận, giữ thân tu khiết. Những người có sự nhận biết đều ngợi ca đó là thanh ước. Một sớm mai nọ, Đại đức hiện tướng cảm chút bệnh. Đến đêm sau đó ba ngày, căn dặn đồ chúng đó. Mới đầu nhóm chúng uống trà, cùng trao khí rồi, bèn ngồi mà thị tịch. Lúc đó Đại đức thọ tám mươi tuổi, sáu mươi tám Tăng lạp.

Qua hai mươi năm sau, tôi mới đến Thạch Bích, gặp đệ tử của Đại đức là Sa-môn Giản Trường, mới nghe được Đạo phong đó. Sa-môn Giản Trường cũng là người giới khiết, hay gìn giữ khuôn phép xưa trước đó, bèn cùng người em đồng học là Sa-môn Giản Vi cố đem bài chí về tháp Đại đức giao phó cho tôi. Tôi từng nói đó rằng: "Điều trong giáo nói: "Nhân sanh khó gặp là vài đầu mối, mà Thiện Tri thức lại rất khó nữa vậy". Nên sách thế tục nói: "Người Hiền thiện, tôi không được mà thấy gặp đó vậy. Được thấy có thường, đó có thể vậy". Người Hiền thiện thật khó gặp đó vậy.

Như Đại Đức xuất gia ở Thọ Công (Diên ThọTrí giác) học pháp ở Tịch Công (Hy Tịch). Thấy biết ở Quốc sư Thiều Công, Thiều Công là người chẳng thể lường vậy. Kỳ tiết dị đức, Đạo hạnh tỏa khắp, mà Thọ Công và Tịch Công cũng là bậc có Đạo của chúng ta vậy. Thiên hạ đâu có thể được nhiều. Như Đại đức lúc đầu gặp mà thân gần tàn rụi đó, giả sử được một lần thấy đó, đã rất tốt lành vậy, huống hồ nhân nơi người mà được Pháp ư? Vẽ Đẹp như thế nơi Đại đức có lắm nhiều vậy. Đại đức lại là anh em với Pháp sư Hạnh Tĩnh, đồng chuyên học thân gần đạo, nương náu tự dưỡng ở núi rừng, đó là vẻ đẹp của bình sanh đáng nên biên ghi vậy. Tháp đó ở trong vườn thuộc phía Tây của chùa, nên dùng bút mà biên ghi Biểu văn này vậy. Ngày mười một tháng hai năm Quý tỵ (1053) thuộc niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054) thời Bắc Tống vậy.

AI TỪ TRÍ CHÍNH THỊ LANG TRUNG SƠN CÔNG

Cố Thị lang Trung Sơn Công, ngày hạ táng tang lễ có người khách cảm đức xưa trước của Thị Lang mà làm Ai từ để phô bày ý vậy. Nhưng, khách vốn là người nhà Phật. Ngoài để lại hình chất mà bên trong dung chứa tình ngụy, không tiện có chỗ cảm mà Ai đó vậy. Bởi không nhẫn thấy Hiền nhân đó qua đời mà đạo của Quân tử càng hiếm ít. Than ôi! Đó chẳng thôi, hãy mượn Ai mà từ đó. Tuy nhiên, công đức của Thị lang ở người, danh và tích có Thái sử truyền bá đó, mà người ấy chưa hẳn đều biết gốc Công đức của Thị lang là thấu đạt (chí) ấy vậy. Chỗ gốc của Thị lang là Thành thật vậy. Nên mới đầu, Thị lang tu thân phụng sự song thân, mà người trong làng xóm đều học theo đó. Đến tuổi Trung niên ra làm Quan ở Triều đình mà giữ tiết tháo lớn chẳng biến đổi, mà Thiên tử luôn đề cao đó. Đến lúc tuổi già, dùng Lễ cáo lui, phô bày bậc thầy của các Sĩ Đại phu mà thiên hạ ứng nghi đó. Nhưng hành đạo của kẻ sĩ ở đời, phần nhiều mới đầu nhạy bén mà giữa chừng lười biếng, trước phải mà sau sai quấy. Có ai như

Thị Lang tiến thối trước sau không mất một mảy may. Bởi Thị Lang tu thành thật sâu dày ở gốc mà khiến nên vậy. Thị Lang đã từ tạ bỏ đi Hiên niệm, lại càng lấy sự Thanh tịnh mà dưỡng thọ mạng đó, nên lờ mờ tủi nhục sự giao du của Thị Lang, cũng là thân gần biết được đạo đức của Thị Lang sở dĩ thấu đạt, lại rõ ràng có thể ở pháp ấy vậy. Than ôi! Tủi nhục đoái hoài chờ đợi của Thị Lang khác lạ vậy, chẳng lại còn thấy vậy. Xin ghi bài Từ:

"Lông vẫy tốt nhiều vậy, chỗ Rồng phụng bày.
Rồng chẳng thể ẩn vậy, Phụng chẳng thể suy
Nhân luân chỉnh chỉnh vậy, chỗ Thánh Hiền nhờ.
Thánh chẳng thể mất, Hiền chẳng thể tiệt.
Người đã lão thành vậy, đã cùng Hóa...
Điển hình tuy còn vậy, đâu thể gần nhìn.
Đêm dài tối mịt vậy, lại sáng lúc nào
Thần minh đi rồi vậy, vắng vẻ nào biết.
Đạo đức trải đời vậy, chỗ các Tâm suy
Thanh bạch truyền nhà vậy, đời đời đáng theo.
Ngũ phước quý trọng vậy, Thị Lang được đó
Thời phân riêng khó vậy, ai cùng bằng rộng,
Người thọ trăm năm vậy, Thị Lang muốn đủ
Con hiếu cháu thuận vậy, sao hẳn thêm buồn
Chỗ tôi buồn thương vậy, Hiền giả ít đượm
Thuần thành chẳng nói vậy, đạo Quân tử nhỏ
Muôn loại phân luân vậy, tà chánh cùng quấy.
Riêng đừng lẽ đi vậy, không ai trù theo,
Gió Thu se se vậy, sương trắng lả tả.
Cỏ cây linh lạc vậy, gò đồi cao vợi
Linh xa riêng cử vậy, cờ đỏ vút bay
Nhìn đây biệt ly vậy, mờ mịt dài xa!"

AI TỪ LÝ HỐI THÚC THÔI QUAN

Lý Hối Thúc ở Lũng Tây qua đời, có người cho biết tin đó. Nghe vậy tôi vô cùng xót thương, vã lại, có chỗ cảm vậy. Hối Thúc là người có tuấn tài, vốn do khí lực của tài đó mà tự hào kiệt, nên đối với văn chương biện luận không lắm suy nhường. Tháng hai năm trước, dẫn dắt thí sinh đến nơi Thất tôi cùng trò chuyện, trọn ngày mà chẳng thể rời đi. Thường nói là: "Xưa trước gọi là Phương bào bình thúc. Tôi nay trông nhìn sư chẳng đủ sách vậy, bèn tự bùi ngùi cùng biết đó muộn". Đến lúc được chuyển thư nhường đó quá ngợi khen, lại nói: "Mới nay, trong thiên hạ, người Hiền mà có thức được mấy ai ư? Ở Trọng Linh sao lại nhường?

"Sau đó có vài lần cùng trò chuyện, suy khiến ở khoảng giao du, kỳ hẹn sắp trở lại kịch luận. Tuy nhiên, tôi chẳng phải người đó, châm chước ý mến thương đó, há chẳng có nghĩa đó biết tôi ư? Cách biệt đi một năm, chí mới hùng mạnh, đâu tỏ ngộ đó chợt nhiên mà đã mất ư? Người xưa đem đời sống con người mà sánh ví tợ mây nổi rồi chợt nhiên tan, không thể gìn giữ lâu bền. Như thế nên tin đó vậy.

Xin ghi lời Từ rằng:

"Trước nghe Hối Thúc chí khí hùng
Nay nghe Hối Thúc chợt chẳng còn
Mới biết chưa tin tiện hẳn vậy
Định nghe bất chợt lòng tự thương.
Lòng thương Quân tử sao tha thiết
Nghĩ ông chưa trải tấm lòng son
Hiền lương chẳng toại chết theo việc
Đáng tiếc trách Tiên tài diễm còn.
Lục Cơ anh em đều mất sớm
Chi Lan rơi rụng sao cùng mong
Nhà cao mẹ cha tóc phủ áo
Ban ngày dằn dặc buồn chưa tan.
Nhớ ông năm trước đến Thất tôi
Chỉ chỏ nói cười tiếng rẽ rành
Người nghe sợ khen nào tuyệt đến
Quấy quấy phải phải cùng chăng tàng.
Đương lúc vâng vậy rất tương đắc
Thanh sắc khảng khái lắm du dương.
Mới bảo Bình Thúc chẳng đủ sách
So le tự ngại nào dám đương
Mây trắng có kỳ còn cùng đợi
Đâu ý hồn đi thành mênh mông.
Triết nhân từ xưa hiếm người thọ
Lý trời vì sao chẳng thể lường!"

AI TỪ CHU THÚC TRÍ

Chu Thúc Trí tên là Trắc, vốn người xứ Tầm Dương, Cửu giang. Từ tuổi nhỏ đã thông minh mẫn ngộ, đọc sách hay nhớ kỷ, từ sáu sách Dương Mạnh, cho đến Sử của Tư Mã, thuyết của Lão Trang, liệt ngự khấu, và kinh nhà Phật tôi, trải qua mắt bèn thông hiểu đó. So sánh xưa nay, viện dẫn việc cũ, động có điển cứ, từng kinh hãi người nghe. Tất cả đều phục cao luận đó, làm văn học Dịch hệ Từ, cao kỳ rất khéo, thẹn với đua tranh, vội vàng chẳng đổi giữ gìn đó, nên danh chẳng nhờ gá lắm, giao du bè bạn thường vì phận nhà nghèo khó, thêm nữa song thân già nua nên cố gắng đó. Đến ngoài bốn mươi tuổi, mới dùng tài năng khéo tốt khắc đẳng cử, sau đó báo với Hữu ty, trở về quê nhà chuyên đem Đạo đó dạy dẫn người sau. Tại Giang Châu, phong tục cướp bóc khinh rẻ, người đó ít thể trang chỉnh, mà Thúc Trí khảng nhiên ở với quê nhà, mà hàng hậu học sanh sau chẳng dám tứ ý phóng túng.

Tháng tư năm trước, được con của Thúc Trí nói rõ Phục thư, lại nghe Thúc Trí đã qua đời từ tháng bảy năm Quý mùi (1043). Than ôi! Tôi từng cùng Thúc Trí kết bạn, phàm có bàn luận chẳng vì Đạo cùng khế hợp, chưa từng mở miệng nói lời đó. Trung chánh của giao Đạo, tự cho là người xưa chẳng thấu đáo như vậy. Tới lúc đến Ngô Việt chẳng cùng gặp nhau đã sáu bảy năm. Ngày đêm mênh mông, nghĩ trở về lại Tầm Dương, mến mộ phong thái của Tuệ Vĩnh, Tuệ Viễn, Tông Bích, Lưu Di Dân, cùng với Thúc Trí đều già lão cùng ở dưới rừng. Kịp đến tin đây, tôi chẳng trọn giúp việc ấy. Than ôi! Giao đạo đó đã vậy ư? Buồn thay! Người đó không còn thấy lại nữa, nên lời Từ đây để ngợi ca đức đó vậy. Xin ghi lời Từ rằng:

"Núi của Sông chừ! Khang Lô rõ linh
Nước của Sông chừ! Cửu giang trong vắt.
Hợp khí đó chừ! Sanh người tinh anh
Ông được đó chừ! Đã thông lại minh,
Đạo đức tu chừ! Khí thức rộng lớn
Trọn chẳng bày chừ! Đoạt hóa đời lắng
Thọ của ông chừ! Khiến danh chẳng hủ
Phước của ông chừ! Học hỏi giàu có
Nhân nghĩa gia truyền chừ! Con cháu giữ báu
Ai bảo đã qua chừ! Chẳng sáng đời sau.
Sông Bồn nỗi trời chừ! Duyên lắng lăn tăn
Đá trắng cỏ xanh chừ! Ngày chiều sâm sai
Như người chẳng về chừ! Muôn xưa ly biệt
Cùng trông gò mộ chừ! Ngàn dặm y y".

THUẬT XÁ LỢI HÀNH ĐẠO Ở CHÙA TINH NGHIÊM TẠI TÚ CHÂU

(Tiếng Phạm gọi là Xá lợi, Trung Hoa gọi là Thân Cốt).

Đạo hẳn có chỗ nghiệm, chẳng có chỗ nghiệm, ai thấy Đạo đó thấu đáo (= chí) hay chẳng thấu đáo ư? Xá lợi của Phật, là nghiệm của Đạo ấy vậy. Phàm, Đại chí (thấu đáo rốt ráo) của Đạo hẳn suốt cả nhân thần sống chết mà Diệu đó. Thánh nhân dùng Diệu đó thì ở trong u tối mà hay hưng hiển, ở nơi trong sáng mà hay biến không, cho nên Thánh nhân mới sanh đó vậy. Khéo tốt lành đời mà không tốt lành, mới chết đó vậy. Ngầm Thần mà dùng Thần, Xá lợi là phô bày cả trăm đời mà nghiễm nhiên, công hiệu linh đó, thì thiên hạ chẳng thể lường, há chẳng phải làm của Thần đó ư? Nay, phàm chín phái triết học và cả trăm nhà dùng Đạo đó mà làm, đó là thiên hạ rối ren, nghĩa là Đạo đó thì cùng với Phật chưa từng khác vậy. Xét nghiệm đó thì thiên hạ không có vậy. Tranh giành tôn quý bậc thầy đó thì cho là Phật chẳng đủ. Cùng Thánh nhân đó mà so sánh thì chết của người đó vậy, chưa trọn ngày mà hình thối rả, chưa trọn năm mà cốt mục nát. Thần đó thì mênh mang, sao có ở hốt hoảng. Há đạo đó cũng có chỗ chưa đạt đến so với Phật ấy ư?

Xưa kia, Phật pháp mới lưu truyền đến trong thời nhà Hán, mà người Hán chẳng rõ biết, truyền đến trong thời nhà Ngô mà người Ngô chẳng tin thực. Họ đều chuyên theo Nho Lão mà chống cự đạo ta, nên Tôn giả Ca-diếp Ma đằng, Sa-môn Khương Tăng Hội đem xá lợi để nghiệm đời Phật, từ đó hợp nhiên mà hưởng ứng theo. Phàm, Đạo xa vậy, mà nghiệm gần vậy. Quán gần vậy là phát đó vậy, quán xa vậy là thấu đạt đó vậy. Thấu đạt đó là Thánh nhân, dùng nghiệm quán Đạo thì thô hay diệu có thể xét vậy. Dùng Đạo để quán Thánh nhân mà lớn nhỏ có thể thấy vậy. Người cũng có nói: "Giáo đó có việc lớn không thể nghĩ bàn". Càng biết Phật làm Đại Thánh nhân, chẳng vậy đó ư? Nhưng trông thấy xá lợi trong thiên hạ xưa nay có lắm nhiều, có cuộn quanh giữa hư không mà bay liệng, có không duyên mà cớ mà đến, có phát sáng tỏa chiếu đồng như nhật nguyệt, có chẳng thể thiêu đốt, có chẳng thể vỡ nát. Xá lợi của hành đạo như vậy ngày đêm triển chuyển mà chẳng dứt, mà thiên hạ chưa từng thấy vậy. Bưng pháp đó cung kính thì Khánh đạt càng chuyển, như cùng ý người mà cùng ứng khác ư? Đẹp xinh thay! Vật của chí Thần cũng chẳng hẳn lớn vậy, nghiệm của chí đạo chẳng hẳn nhiều vậy. Xét đó mới đầu đặt để thì nói được đó ở Ngô Việt, nên Quốc sư Thiều Công bởi được ở Nhạc Dương của Lương, Vương Tiêu xét chỗ truyền đó ấy vậy. Thế mà Tiên Vương của giòng họ Tiền bên trong nơi khánh đạt vàng dùng tháp đồng nhỏ mà phong bịt đó đặt để ở chùa Linh Quang (Tên cũ của chùa nay) gần cả trăm năm vậy. Thiều Công là bậc chí nhân, gọi xá lợi đó, một là Hành Đạo, một là Nhập Định. Nhập Định là bí ẩn mà không thể thấy. Hành Đạo là giúp tháp mà trang bày đó. Đó há chẳng vì chư tăng đời sau không khuôn phép đạo mà tục bạc ít tin, sẽ cũng có chỗ khuyên mà phát đó ấy ư? Nên thuật ý đó bảo chúng tôi dùng hiển bày.

ĐỀ Ở VÁCH TƯỜNG ẢNH ĐƯỜNG VIỄN CÔNG

Sự tích của Viễn Công, người học tuy thấy mà ít có thể cùng tận đó, khiến đời chẳng rõ ràng trông thấy đức của tiên Hiền, cũng là lỗi quá của người sau vậy. Tôi đọc "Cao Tăng truyện", "Liễu Xá Ký", và các bản ghi lục mới cũ ở Cửu Giang, rất mến mộ Viễn Công, gồm có sáu việc có thể dùng để khuyên vậy. Lại nên nêu dẫn để giải thích đó, xếp đặt nơi ảnh đường để chỉ bày lại là: Lục Tu Tĩnh là một học giả dị giáo, mà đưa tiễn qua Hổ Khê, đó chẳng vì người mà bỏ lời thề vậy.

Đào Uyên Minh là người đắm say rượu chè, mà lại cùng kết giao, đó là gạt bỏ tiểu tiết mà lấy thấu đạt đó vậy. Cao Tăng Bạt Đà vì hiển dị bị ruồng duỗi mà mời lại cùng ngợi khen đó, bởi trạng có nhận biết mà nắn sửa tật Hiền vậy. Tạ Linh Vận vì tạp tâm chẳng giữ, mà kết quả chết bị luật hình, bởi biết khí đó mà cẩn trọng việc chung cùng ấy vậy. Lô Tuần muốn phản, mà lại nắm tay cầu xưa cũ, bởi tự tin đạo vậy. Hoàn Huyền khua oai, mà chống kháng lại khuất, bởi có đại tiết vậy. Phàm, từ xưa đến nay, nhân tình không ai chẳng sợ oai mà tạm khỏi, quên nghĩa mà lánh nghi ngờ, ham sanh mà mờ tối sự thật, bạn đảng với thế lực mà nhẫn chịu cô quạnh, trang sức hành vi mà sợ lụy, tự mình phải mà quấy với người. Ai có đạo tôn quý một đời làm Hiền, làm thầy chịu vì phiến ngôn mà theo người đó ư? Ai có xưa trước bẩm thọ thắng đức làm hạnh sáng sạch, lại chịu giao du với kẻ say sưa mà cao chuộng thành đạt đó ư? Ai có khuất cúi sự tôn quý của người lễ tiếp khách bị xua đuổi mà bày tỏ Hiền đó ư? Ai có chống kháng kẻ sĩ thạnh danh chẳng cùng đối với giáo mà khắc toàn chung ư? Ai có nghĩa chẳng lánh họa thuần hóa xưa cũ mà tin đạo ư? Ai có gặp phải oai phong của Tướng soái đang lúc giết phạt bạo ngược, mà giữ đạo chẳng nhiễu loạn, toàn tiết ư?

Đó, nên Viễn Công có thức lượng xa lớn riêng vượt ngoài xa nay vậy. Như phù trì mang đội chí giáo mở lớn Thánh đạo, cứu giúp trời người đó, chẳng phải nhờ mới có thể tận cùng Thánh đó ư? Hiền đó ư? Kỳ vĩ lớn lao thay! Ôi khí lục hợp phong thanh danh vang của Viễn Công vậy. Sắc thu của bốn biển rung động trong thần núi, thanh cao của Viễn Công vậy. Người, Tăng, Rồng, phụng cao vái tiếp Sào Hứa, tức phong phạm của Viễn Công vậy. Mây trắng núi đỏ cây ngọc cỏ Dao là nơi ở của Viễn Công vậy. May được sau Viễn Công mà sanh sống, tuy mến mộ đó mà lại bàn luận, chiêm ngưỡng di tượng đó, cúi đầu kính lễ, nguyện đem văn tệ ghi đề ở vách tường phòng thất.

ĐỀ SAU TRUYỆN MAI PHƯỚC

Ban Cố nói: "Mai tử Chân từng làm Nam

Dương úy bất đắc chí, bèn tự dẫn đi biến đổi họ tên để làm Giám môn ở Cối Kê". Lại nói: "Tiên đi, nên sau đó người nói". Chẳng qua là cho rằng, Tử Chân hay dùng Tiên Úy làm Lại Ẩn, khéo cùng thời thế nổi chìm, luôn luôn dẫn việc đó làm úy là mỹ ngôn, cũng là chỗ không rõ ràng của người học vậy. Nhỏ nhen thay nói vậy.

Tử Chân là người lỗi lạc có tiết tháo lớn phấn phát, chẳng đoái hoài tự thân, trung với nước nhà, lo âu cho thiên hạ ấy vậy. Đang lúc triều đại nhà Hán mất chính lý, gốc ngọn đều trái ngược, Tử Chân giận ghét tà thần dùng việc trộm lộng quyền lớn, nên phát tức dâng thư luận về Đại thể đại yếu của nước nhà, hưng hành lễ độ lên dùng người tài tuấn hiền lương. Tuy xúc chạm bọn gièm pha dua nịnh mà không chỗ lánh kỵ, nhưng từ khí thẳng thắng, ý muốn cảnh động chúa ở đương thời. Tuy thư từng dâng tấu mà chưa trọn chẳng tỏ hiểu, cuối cùng đất đổ ngói vở, khiến đương thời tạm hơi dùng lời nói đó, mà xã tắc của Cao Tổ (?) chưa hẳn táng mất.

Than ôi! Tử Chân ở địa vị cuối Cửu phẩm, triều đình không một để ý viện dẫn lên, cứng rắn phấn phát chí trung dũng mạnh quá người, nhả từ hỗ trợ nguy ách của nước nhà, đi ngược vảy rồng mà tìm đến miệng Hổ; chẳng trên bước chân mà họa đến thân đó. Thế mà còn chẳng lấy làm sợ hãi, thật khảng khái đại trượng phu vậy! Ôi! Xưa nay những người đọc sách làm học, ai chẳng ôm khí tự thấy làm anh hùng ở khoảng bằng du. Như có một lời trái ngược, chẳng hợp ý đó, hẳn liền phát hận mắng rủa, hận chẳng thể giết đó như thù. Đến lúc đó đứng nơi Triều đình, thấy có bất nghĩa, tuy đại chí ở hại giáo hóa thương phong tục, lấy đó chẳng thiết đối với chính mình. Tuy thấy như không thấy, tuy nghe như không nghe, luôn luôn theo mà nịnh nọt đó. Nếu đó hư bại thì chụm miệng mà cười đó. Đây nghe phong của Tử Chân, nên làm Tâm thế nào? Tử Chân qua đời ở cuối thời Tiên Hán, đến nay trên dưới có hơn ngàn năm, đối với Huyện úy chưa có như Tử Chân ấy vậy, hay có mà chưa nghe thấy ư? Tôi thường đau khổ vì ở đời không biết đạo của

Tử Chân, đức của Tử Chân, nhọc đề cao được Thuật Tiên đi đó, nên ghi đề từ vậy.

BIÊN GHI CUỐI TRUYỆN VĂN TRUNG TỬ

Đọc "Vương Trách Tập" của Đông Nghiệt Tử, mới biết Vương thị giả thật có sáu kinh của Khổng Tử, biết Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Lý Tĩnh, Đỗng Thường, Ôn Ngạn Bác, Ngụy Trưng, Tiết Thâu, Đỗ Yêm... quả nhiên đều là đệ tử của Văn Trung Tử ấy vậy. Đọc "Đường Thư", "Truyện Vương Bột", mới biết Văn Trung Tử là Tổ của Bột, quả thật từng làm Nguyên Kinh. Vương Trách chết năm Trinh Quán thứ 18 (664) thời tiền Đường, cách đời của người anh đó rất gần, hay nói việc ấy vậy. Xót xa thay! Các ông Phòng, Đổ, Ôn, Ngụy, Vương Bột đều không viết một chữ để truyền Hiền của Văn Trung Tử! Mà "Tùy Thư mất ghi chép đến đời sau, nên cho việc của Văn Trung Tử chẳng đủ tin. Đến lúc Hàn Tử nổi tiếng văn chương, Học sĩ trong thiên hạ tôn Hàn là Hàn Dũ, chứ không xưng là Văn Trung Tử. Lý Cao lại xem thường sách đó, so sánh như gia giáo của Thái Công, mà người học chuộng chẳng lấy Văn Trung Tử vậy. Nhưng Vương thị hay tiếp tục sáu kinh của Khổng Tử, chuộng Á của Khổng Tử vậy. Hàng thức giả nên đem đạo của Thánh nhân so sánh mà chánh đó. Đạo của Văn Trung Tử đó nếu cùng Khổng Tử hợp là nối dõi của Khổng Tử, mà có và không của sách truyện chẳng đủ làm tin. Tình ghét thương của người thời nhà Tùy muốn khinh miệt Thánh hiền đó có thể được ư? Mạnh Kha há không nói: "Tận tin biên ghi chẳng như không biên ghi". Tôi thấy Trung thuyết đọc Thơ đó nói: "Bốn danh năm chí", đọc Thư nói: "Bốn chế bảy mạng". Nguyên kinh thì nói: "Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần mất vì họa nước nhà đó, mà khéo lập pháp đó, có đạo của Thánh nhân". Than ôi! Không thấy Lục kinh đó, hãy ghi đây để lại người học.

BIÊN GHI SAU LÝ HÀN LÂM TẬP

Tôi đọc: "Lý Hàn Lâm Tập" thấy thơ Lạc Phủ đó có hơn trăm bài, ý đó là tôn trọng nước nhà, làm chánh nhân luân, trác nhiên có phong của Chu Thi, chẳng phải nhọc ngâm vịnh tình tánh oái ẩu cẩu thả tự tiện mà thôi. Rõ ràng, đương thời Tiền Đường có thiên hạ đến đời thứ năm, Thiên Tử (Duệ TôngLý Đán 685?) ý lắm Thanh sắc, hình như chấp chính hơi cởi mở, để bọn gian tà được vào trộm lộng quyền bính, gặp binh giặc Lộc Sơn phạm khuyết, mà Minh Hoàng đến Thục. Rõ ràng, Mẫn Thiên Tử thất thủ khinh bỏ Tông miếu, nên làm biệt ly xa để giết đó. Đến lúc làm "Thục Đạo Nan", vì giết cường hoàng của chư hầu, làm "Lương Phủ Ngâm" thương Hoài Trung mà chẳng thấy dừng; làm "Thiên Mã Ca" buồn thương vất bỏ tài hiền mà không ghi lục công đó, làm "Hành Lộ Nan" ác gièm pha mà không được cùng tận thần tiết đó, làm "Mạnh Hổ Hành" phẫn hận Hồ lỗ loạn Hạ mà nghĩ an Vương thất, làm "Dương Xuân Ca" để răn Dâm lạc không tiết, làm "Mã Tê Khúc" để tránh ham Sắc mà không ham Đức, làm "Chiến Thành Nam" để chê hết binh lính không tốt. Như thế đó không thể thảy đều nói và phóng bỏ đi. Còn làm "Thu Phổ Ngâm" mang rõ ý người chủ chẳng trọn hoài mong. Cuối cùng vất bỏ ở khoảng giang hồ, bèn quanh co. Ngoài ra, khinh đời đánh uống quá say, ngụ ý ở pháp của Đạo Sĩ, nên họ giao du xem tặng đưa các thợ tạp dùng thuyết của Thần Tiên. Phàm chỗ làm của Tánh là chỗ đến của Chí. Tiểu nhân thì dùng ngôn từ, Quân tử thì dùng thơ. Do ngôn từ và thơ để cầu chí đó thì Quân tử và Tiểu nhân có thể cùng tận đó. Như thơ của Lý Bạch vậy. Như vậy mà Tánh đó cùng với chí há là Tiểu hiền ư? Như đương thời thủy chung người đó tận cùng tài đó mà dùng đó khiến lập công nghiệp, sau biết quả đó không thể vậy. Đời gần đây nói Lý Bạch thanh tài quá khí, chỉ trích tiên nhân. Đó đâu hẳn vậy ư? Nhìn thơ đó thể chế tài tư như núi rung biển động, cao vợi mênh mông không thể cùng cực. Nếu đương thời được dự gạn lọc của Thánh nhân có thể tham Nhị nhã, nên cùng phong hóa của nước nhà mà truyền đó đến vô cùng, mà Ly Tao, Tử Hư chẳng đủ để cùng sách.

BIÊN GHI SAU TRUYỆN GIA CÁT VÕ HẦU

Khổng Minh lúc mới đầu tự thân cày ở Long Trung, từng tự so sánh với Quản Trọng, Lạc Nghị. Người thời bấy giờ chẳng có ai hẹn được, chỉ Bình Từ Thứ ở Thôi Châu lấy làm vậy. Tôi khảo xét sự tích Khổng Minh, đó là lấy chí công của thiên hạ để làm tâm, muốn chinh phạt Ngụy là để dựng lại xã tắc nhà Hán, cùng hợp với Quản Trọng ở chỗ là tập hợp chư hầu thành một để giúp thiên hạ. Lạc nghị chẳng giết cử tức thành Mắc chi, muốn chuyên dùng Vương Đạo một kết quy thiên hạ. Đạo đó đâu khác ư? Lưu Bị ba lần đến mới thấy gặp. Khổng Minh mới cùng Lưu Bị họa kế, sao đó khéo vậy! Đến lúc quân Lưu Bị thất bại, tự thân trốn đến Hạ Khẩu mà Khổng Minh đến nói với Tôn Quyền, được binh lính tiếp viện, đánh phá Tào Tháo ở Xích Bích. Đó cùng với Lạc Nghị nói Thiệu Sở Ngụy, khiến Thiệu hám Tần vì đánh lợi của Tề, mà Nghị đều được binh lính của năm nước Sở, Ngụy... đánh Tề, phá đó tiếp tế hướng Tây. Mà tài lược đó kỳ vĩ cùng Lạc ngang bằng vậy. Dẫn các quân từ phương Bắc đổ vào Hán Trung, đến lúc sắp phát hành, dâng sớ, cùng với Lạc Nghị báo gởi thư của Yến Huệ, trung nghĩa đó đồng loại. Chỉ gặp chủ đó trong thời khó, chẳng như đắc chí của Quản Trọng vậy. Giả sử Khổng Minh gặp thời thạnh, trời chẳng đoạt tuổi thọ đó, được dùng việc đó thủy chung, khôi phục lại nhà Hán mà bình nhất thiên hạ, hưng sùng Vương Đạo, thì Quản Di, Lạc Nghị gần như chẳng kịp vậy. Tiếc đó khinh dùng mã súc bèn bại ở Nhai Đình, hại việc hay đó. Nhưng Gia Cát Khổng Minh hiền hào tuấn kiệt còn lầm mờ ở biết người như vậy, huống người chẳng như Khổng Minh mới khinh tin ư? Người lợi khẩu mà dùng đó cũng chẳng dễ ư? Răn đó thay! Răn đó thay!

BIÊN GHI SAU TRUYỆN PHẠM TUY

Mới đầu, Phạm Tuy cải đổi họ tên, tự xưng là Trương Lộc tiên sanh, vào đất Tần nói với Tần Vương, chỉ điều lỗi của Nhưỡng Hầu là tướng của Tần. Tần Chiêu Vương bèn đuổi Nhưỡng Hầu, thâu ấn tướng đó. Và liền bái Phạm Tuy làm tướng, hiệu là Ứng Hầu. Ứng Hầu nhậm dùng Trịnh An Bình, sai đem binh lính đi đánh Triệu. Ứng Hầu lo không biết tính chỗ ra đó, mà Thái Trạch mới từ hướng Tây vào Tần ra mắt Chiêu Vương, sai người tuyên lời cảm giận Ứng Hầu. Ứng hầu phục nói đó, mới cử Thái Trạch. Ứng Hầu nhân đó lấy cớ bệnh từ tạ xin trao ấn lại. Phạm Tuy đã hết làm tướng, Tần Chiêu Vương bèn phái Thái Trạch làm tướng. Thái Trạch làm tướng Tần được vài tháng, hoặc có người ghét ganh, sợ bị giết chết, sau đó cũng lấy cớ bệnh xin trả lại ấn tướng đó. Trang Tử nói: "Một con ve sầu mới được chỗ râm mát đẹp mà quên thân nó. Con Bọ ngựa báo ngăn che mà bắt đó. Thấy được mà quên hình nó. Con chim khách khác theo mà được lợi. Thấy lợi mà quên thật đó". Trang Chu xót xa mà bảo: "Ôi! Vật hẳn cùng lụy vậy". Đó cùng với Phạm Tuy, hai ba ông cùng khuynh mà cùng đoạt, có gì khác ư? Muốn điều muốn của người, người cũng muốn đó. Ai nói là có thể hẳn gìn giữ giàu sang đó ư?

NGỢI CA TRUYỆN ĐOÀN THÁI ÚY THỜI TIỀN ĐƯỜNG

Thái úy Đoàn Tú Thật trước tiên bị người dùng việc đoạt đi Binh quyền mà không oán hận, đến lúc cứng rắn phấn phát hòm sách đánh giết Chu Thử. Chẳng đoái hoài một cái chết, mưu đồ chỉ còn Vương thất. Xưa trước xưng gọi đó là Bề tôi của xã tắc vậy. Lại nói là giết thân để thành nhân, lại nói là gặp nạn không tạm khỏi, mà họ Đoàn đều được đó vậy. Người nói hoặc lại bảo là: "Đoàn Thái Úy nhỏ bé yếu đuối, động mà chẳng nghịch vậy, rất thuộc loại Nho giả". Đến lúc phấn phát đánh tù phản tiếng mắng gằn vút mà khí quen muôn phu, mũi nhọn sáng hoắc múa máy trước mặt mà chọn chẳng biến đổi sắc mặt. Có gì mạnh hơn vậy ư? Mạnh như gió thổi, xe như sấm sét đánh, khẳng khái hùng vĩ vượt cao ngoài xưa nay. Thái Sử Công nghi ngờ Điền Hầu ở Họa Đồ, tin có đó vậy. Than ôi! Phần lớn xưa nay nhân tình được thạnh của quyền thế, chẳng khua động chủ thì kiêu, thời đến khí mất đó thì oán, mong chẳng thể tự còn, luôn luôn mưu tính làm không khuôn phép. Như Thái úy Đoàn Tú Thật là được đó mà chẳng lấy làm may mắn, mất đó mà chẳng làm oán hận. Thành và bại chỉ tại lúc chưa quyết mà vì chết theo Vương Thất, phỏng theo Hoài Âm Hầu, Hàn Tín thì Hiền đó xa vậy.

NGỢI KHEN HIẾU THIỆN

Thiện của Thánh nhân lấy người làm thiện, người đó hẳn là hiếu thiện. Cản trở thiện của người để tự thiện, người đó hẳn là ghét thiện. Người hiếu thiện, đạo đó hẳn rộng, người ghét thiện, sống đó hẳn nhục. Hiếu thiện thì người thiện trong thiên hạ vui dùng thiện đó báo, nhóm tụ thiện của thiên hạ lấy làm hạnh. Đạo đó cũng chẳng rộng lớn ư? Ghét thiện thì người thiện trong thiên hạ tuy sợ nghe chỗ thiện đó, bưng bít thiện của thiên hạ lấy làm ngôn từ. Sống đó cũng chẳng nhục ư? Thuấn là người hiếu thiện thời xưa, Nhan Tử cũng là người hiếu thiện thời xưa. Thuấn ấy là Thánh nhân của thời xưa vậy, ở ngay đời của Nghiêu khắc đều làm hiếu, chung chung lại chẳng cách gian, thiên hạ chẳng kết quy ở Chu mà kết quy ở Thuấn, mà thiên hạ đều có thiện đối với Thuấn ấy vậy. Đến lúc họ nghe một ngôn từ thiện thấy một hạnh thiện, như khơi sông ngoài chảy sầm sầm chẳng thể ngăn cản vậy. Nhan Tử là Hiền nhân của thời xưa, sống đương thời của Khổng Tử, ôm đạo của Thánh nhân cùng ở nơi hẻm hóc hẹp hòi, người chẳng kham ưu lo đó, mà Nhan Tử chẳng đổi niềm vui đó, ngõ hầu ư? Thánh nhân sở dĩ ngợi khen đó, mà thiên hạ đâu có thiện đối với Nhan Tử vậy. Đến khi họ nghe một điều thiện của người thì chăm chăm phục ứng.

Như nay chỗ gọi là thiện nhân, tôi chưa thấy có như Thánh Hiền của Thuấn và Nhan Tử vậy. Thiện đó chưa hẳn là thiện đối với người trong thiên hạ. Đến lúc họ nghe thiện của người, ai chịu chảy xiết mà hành đó, cũng ai chịu chăm chăm mà phục ứng. Người theo mà bưng bít đó có đó, người biện rành hẳn hình ở ngôn từ, người vụng chạt hẳn hình ở sắc. Hoặc thiếu mà ngợi khen đó người đó vậy. Chẳng phải tình cùng bằng đảng thì chẳng làm vậy. Than ôi! Muốn danh đó chẳng nhục, họ có thể được chăng? Rộng lớn của đạo đó vậy, có thể được chăng? Người thời nay không như thời xưa xa vậy. Nên gọi hiếu thiện, nếu không phải người của

Thánh Hiền thì không thể hiếu thiện vậy. Tận cùng trời đất, phô bày đến muôn đời, chỉ có Thuấn và Nhan Tử mà thôi vậy. Tuyên bày ở đạo và danh đó, truyền đó đến vô cùng vậy.

TRUYỆN LỤC THIỀM

Lục Thiềm người xứ Đàm Tân, Đằng Châu, do khéo giỏi thơ văn nên tiếng tăm vang tới tận Sở Việt. Trong bài vịnh Bộc Bố, viết rằng:

"Linh nguyên người chẳng lường,
ngàn thước treo đầu mây.
Sắc núi nhuốm không được,
Thần Công cắt cũng khó
Hạ phun Quyến điểu ngưng,
Thu vẩy Đẩu ngưu lạnh
Đợi đến ngày mênh mông,
làm sóng đổi khéo xem."

Đó, các Thi nhân rất ngợi ca, mà làm khách chết ở núi Tư Không thuộc Du Huyện. Thuở nhỏ, tôi đến Hành Sơn, gặp Cao Lãng là người ẩn dật nói với tôi rằng: "Xưa trước Lục Tiên sinh là người Ấp của ông, mới thời đầu nước nhà, nhà họ Liêu do làm thơ rất hưng thạnh, mà Thi nhân khắp bốn phương mến mộ nhà họ Liêu nên đến Hành Sơn rất đông nhiều". Riêng Lục Tiên sinh làm thơ phần nhiều là câu cú cảnh răn, tuy mến mộ Liêu Dung cũng cùng suy cao, nhưng Lục Tiên sanh chẳng chỉ khéo giỏi thơ văn mà thôi, còn hiểu biết đại khái về Vương Bá, cũng đợi có chỗ khó gặp, nên trong ngôn ngữ thơ đó thấy có chí ý, như hai câu cuối của bài Vịnh trên nói "Đợi đến ngày mênh mông, làm sóng đổi khéo xem". Thường quấn khăn áo vải, khéo nắm cao tiết, đến đâu, đóng cửa tự ở, chẳng chịu cùng người thường giao tiếp. Tôi nghe phong thái đó lại tán thán đó là: "Lục tiên sinh người cùng Ấp, hay khéo dùng thơ, vượt cao ngoài đồng bạn, đó cũng Hiền vậy, mà phụ đạo giữ tiết, chẳng làm a dua đời cẩu thả hợp, mà muốn tự có chỗ khó gặp". Tuy Khổng Mạnh còn chẳng được chí đó mà sống vậy, cũng chẳng khéo ư? Nhưng trong thiên hạ, như Lục tiên sanh theo chết nơi gò hốc là hạng nào?"

TRUYỆN HÀN KHOÁNG

Hàn Khoáng tự là Nhiếp Sanh, là một ẩn sĩ vậy. Hoặc có người nói là con cháu của Hàn Thông ở thời Ngũ Đại. Đầu thời Bắc Tống, gia đình đó bị phá tán, Hàn Khoáng đang còn bé nhỏ, có người trộm giấu mà dưỡng nuôi. Đến lúc hơi biết số phận gia thế mình, Hàn Khoáng cũng bèn tự trốn mất ở xứ Dương Việt, chỉnh tề to lớn. Lúc tuổi trẻ nhậm hiệp túng rượu đánh kiếm. Một sáng nọ cảm ngộ, liền nghiêm khiết thân vén áo, vân du khắp Danh sơn, mến mộ Đạo gia, bỏ ăn dẫn dắt, làm người trầm lắng cương nghị, ít nói, lo lắng nhưng có khi xa, cam chịu ăn mặc xấu dỡ. Đến ở đây, bèn liền đóng cửa, chẳng giao tiếp với người đời. Các Quan tôn quý như Thứ Sử túng cầu đó, mà chưa từng có cho thấy gặp, hoặc hơi thấy gặp chỉ một lần bái tiếp, bèn tự dẫn chẳng lại cùng trò chuyện. Thuở thiếu thời, tôi biết Hàn Khoáng ở Nhạc Mê, người đó đã già, lặng lẽ, chẳng vọng nói việc gì. Nhưng người nhiều vui thích cao nghĩa đó mà tự khuyên. Mới đầu tôi cho Hàn Khoáng là cây gỗ vụng về ít văn vẻ, khi vân du đến Hồng Tĩnh thấy chúc từ đó hoàn hảo khả quan, nghe bình sanh đó rõ ràng hơn càng tin, đó có đức mà có ngôn từ vậy. Cuối đời, cùng Hàn Khoáng mất ở Tương Đàm vậy.

BÌNH SÁCH CỦA THANH CÔNG Ở BẮC SƠN

Tôi xin bình phẩm rằng: Cao tăng Thần Thanh ở thời Tiền Đường không ưa thích Thiền giả, tự tôn quý tông của chính mình, mới viết sách mà chèn ép đó, bảo là: "Truyền pháp Hiền Thánh đó chỉ là Thanh văn, như Ca-diếp... Tuy nói là hồi tâm, mà còn là Tiểu trí, đâu có thể truyền Tâm ấn của Phật ư?" Lại dẫn trong Truyện Phú Pháp tạng nói: "Xưa kia, Thương-na-hòa-tu bảo Ưu-ba-cúc-đa rằng: "Tam muội của Phật hàng Bích-chi không biết, Tam muội của Bích-chi hàng Thanh văn không biết, Tam muội của các Đại Thanh văn thì các Thanh văn khác không biết. Tam muội của A-nan nay ta không biết, Tam muội của ta nay ngươi cũng không biết. Như vậy, Tam muội đều theo ta diệt. Lại có bảy vạn bảy ngàn kinh Bản Sanh, một vạn A-tỳ-đàm, tám vạn thanh tịnh Tỳ-ni cũng theo ta diệt".

Có vậy thay! Thần Thanh nhọc bày điều ưa ghét của chính mình mà không biết rất sai lầm về tiên Thánh. Mới đầu tôi thấy sách của Thần Thanh, thấy so sánh luận bàn về Tam muội đó tuy văn từ không đẹp, bởi vì khéo ghi nhớ kinh sách, chẳng khác biệt nghĩa lý nguyên do mà chẳng tức quấy đó. Đến khi khảo xét về thuyết của Thiền tông đó, gặn hỏi vài phen, liền gom nhặt điều chuộng của lưu tục, và việc dẫn sách truyện lại không được rõ ràng đó. Mới đầu tôi cho đó chẳng phải là chí luận, nên chẳng đủ mà lưu tâm để ý. Tôi mãi nghĩ suy điều nói là "Ca-diếp... đâu có thể truyền Tâm ấn của Phật", đúng rất là nói cuồng. Sợ điều đó thiêu đốt làm mê hoặc thế tục, tăng thêm sự bới móc nhau của hàng sanh sau học cuối không thôi, mới cùng chánh đó, chẳng phải ham thích biện luận vậy. Phàm muôn sự thì lý làm gốc đó mà vết tích là làm ngọn đó. Người thông gốc đó nên được nhiều đó, người bó buộc ngọn đó nên nhiều mất mát đó. Như truyền pháp có cả vài mươi Thánh hiền, tuy chỉ bày đồng là Thanh văn mà đâu nên vì Thanh văn đều cùng tận đó ư? Trong kinh nói: "Nay Ta có chánh pháp Vô thượng..., thảy đều đem phó chúc cho Đại Ca-diếp". Cuối cùng lúc nói kinh Đại Niết-bàn, Phật truyền nói: "Nay Ta có các Pháp Đại từ Đại bi Tứ thiền Tam muội vô lượng công đức mà tự trang nghiêm, mà Tỳ-kheo Ca-diếp cũng lại như thế". Lại nói: "Ưu-ba-cúc-đa là Vô cấu tướng hảo". Phật lại bảo "Tăng-già-nanđề là Đức Như Lai Bà-la-vương ở thời quá khứ giáng tích làm Tổ". Đồng loại như vậy có nhiều lắm, há chẳng phải Thánh nhân muốn phù trì pháp đó cùng nhau tôn kính mà hiện bày làm lớn nhỏ ư? Trong kinh Lăng Nghiêm nói có ba hạng A-la-hán: Một là Đắc quyết định tịch diệt Thanh văn A-lahán; hai là Tăng tu Bồ-tát hạnh A-la-hán; ba là Ứng hóa chỗ Phật hóa A-la-hán. A-la-hán đó vì bản nghiệp thiện căn, sức phương tiện, nên hiện cõi nước chư Phật. Nên như Đại Ca-diếp truyền pháp vài mươi Thánh hiền, há chẳng phải là A-la-hán ứng hóa chỗ Phật hóa ư? Nhưng chỗ Phật hóa là nên có Tứ thiền Tam muội vô lượng công đức cùng Đức Như Lai không khác vậy. Chẳng khác so với Đức Như Lai mà truyền Tâm ấn của Phật, ai bảo đó không vậy ư? Như Thương-na-hòa-tu nói: "Tam muội của A-nan thì ta không biết, Tam muội của ta nay ngươi cũng không biết". Đó là sợ có chỗ ức dương vậy, chưa thể gọi đó hẳn vậy. Trong kinh nói: "Vào Viễn hành địa đã được vô lượng Tam muội". Phàm, vào Viễn hành địa, tức từ là Bồ-tát Thất địa vậy. Bồ-tát Thất địa còn có thể được vô lượng Tam muội, mà hóa Phật há đều không thể vậy? Nhưng chỗ truyền Tâm ấn của Phật cùng các Tam muội khác, nên khác ngày mà nói ư? Phàm, Tâm ấn là Diệu bản chủng trí của Đại Thánh nhân. Các Tam muội khác là Trí tuệ do Diệu bản phát ra, đều do Tam muội mà xưng đó vậy. Tâm ấn tức như trong kinh nói là Tam muội của Tam muội Vương ấy vậy. Chỗ truyền của Như Lai là Tam muội đó vậy. Thần Thánh cho là các Tam muội khác ư? Còn chỗ đó gọi là "Bảy vạn bảy ngàn kinh Bản Sanh, một vạn A-tỳ-đàm, tám vạn thanh tịnh Tỳ-ni cũng tùy theo ta diệt". Điều đó, tôi chưa thấy ở các sách khác, chỉ riêng Truyện Phú Pháp tạng nói. Đó còn hoặc nghi ngờ vậy. Giả sử khiến sách ấy không sai lầm, sợ chẳng phải cho là Truyền pháp Thánh hiền đó chẳng thể nhậm trì mà ấy vậy. Đó hẳn vì quần sanh đời sau có duyên phước lực càng kém yếu mà chẳng hơn giáo đó. Cho nên diệt đó, mới còn mất của Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt Pháp cũng tùy theo đời mà pháp có ô nhiễm hay hưng long vậy. Nào từng vì hoằng pháp Thánh Hiền đó mà khiến chánh hay mạt ư? Than ôi! Người học chẳng cầu kinh, không tận cùng lý, động sai lầm ý của Thánh nhân làm thuyết đó. Tuy khéo giỏi biên ghi liền việc của muôn đời, cũng đâu ích gì ư? Thư nói: "Ghi nhớ học của hỏi, chưa đủ để làm Thầy người" nghĩa là như Thần Thanh ấy vậy.

BÌNH VỀ VIỆC THIỀN TỔ TUỆ KHẢ TRONG TỤC CAO TĂNG TRUYỆN THỜI TIỀN ĐƯỜNG

Bình rằng: Trong Tục Cao Tăng Truyện biên soạn ở thời Tiền Đường nói: "Tuệ Khả gặp giặc nên chặt tay cho". Tôi xin biên ghi rằng: Sao kỳ lạ vậy ư? Tôi xét trong văn Bia, Pháp Lâm nói: "Đại sư Tuệ Khả đứng trong tuyết qua vài đêm, chặt cánh tay, đập dập thân mình để mong cầu khai thị". Nhưng người làm Tăng truyện cùng đồng thời với

Pháp Lâm, thuyết của Pháp Lâm hợp với sách Thiền, mà Truyện trái lại đó. Há chẳng phải gom nhặt nghe đó chưa thấu đáo ư? Ước cũng theo tà thuyết mà vọng, chẳng phải đó ư? Nên sách đó chẳng đủ để bình xét vậy.

QUYỂN 14

PHI HÀN TỬ

(Phần Thượng, gồm 30 bài và Lời tựa)

LỜI TỰA

Phi Hàn Tử là người dùng điều sai quấy để mổ xẻ kinh điển, rồi bắt thiên hạ phải làm theo, phải quấy như tục dùng thương ghét để cùng công kích nhau vậy. Nếu là bậc chí Thánh chí Hiền ở đời hẳn tin điều tôi nói đó là không cẩu thả vậy. Sách này gồm ba mươi bài, chỉ hơn ba vạn ngôn từ.

BÀI MỘT

Hàn Tử nghị luận bó buộc lại cạn cợt, không kịp chí Đạo của Nho để có thể biện. Mới đầu, tôi thấy đề mục đó là "Nguyên Đạo, Từ thị", trong đó nói: "Nhân và Nghĩa làm định danh, Đạo và Đức làm hư vị". Xét ý đó, chánh dùng nhân nghĩa việc người hẳn có, mới nói Nhân và Nghĩa làm định danh. Đạo đức vốn không duyên do Nhân xử trí vậy, mới nói Đạo và Đức làm hư vị. Đó nói là đặc biệt riêng Hàn Tử nghĩ đó chẳng tinh tường vậy.

Phàm, duyên Nhân Nghĩa mà đặt để Đạo Đức, nếu chẳng phải Nhân Nghĩa tự không có Đạo đức vậy. Được hư vị đó, quả nhiên có Nhân nghĩa, vì do dùng đủ Đạo Đức, đâu là Hư ư? Đạo Đức làm Hư vị, là Đạo không thể nguyên vậy, sao hẳn gọi là Nguyên Đạo? Thuấn Điển nói: "Kinh phu bày Ngũ giáo". Nghĩa là Nhân, nghĩa..., ngũ thường vậy. Hàn Tử quả nhiên chuyên Nhân nghĩa, nên đề mục sách đó là Nguyên giáo có thể vậy. Đó cũng là Hàn Tử không biết khảo kinh vậy. Trong đó, nói "Bác ái" đó gọi là Nhân, Hành mà thích nghi đó, gọi là Nghĩa. Do đó mà đến vậy, đó gọi là Đạo. Đủ ở chính mình không đợi ở ngoài đó gọi là Đức. Phàm, Đạo Đức nhân nghĩa bốn điều đó là đầu mối lớn của Thánh nhân lập giáo. Đó trước sau thứ tự có nghĩa có lý, sao có thể cải đổi? Tuy Đạo Đức đó nhỏ, như Đạo gọi là tài nghệ, Đức gọi là Hành thiện, đó cũng Đạo đức đặt để trước. Kia nói Đạo của Nhân nghĩa là kia lại tán thuyết, lấy nói đó bèn khiến Đạo ở thứ vị dưới vậy. Từ xưa chưa từng có bốn điều đó liền xuất mà Đạo Đức ở sau đó vậy. Khúc Lễ nói: "Đạo đức và Nhân nghĩa chẳng phải Lễ thì không thành". Thuyết Quái nói: "Hòa thuận Đạo Đức mà lý ở nghĩa". Luận Ngữ nói: "Chí ở Đạo, y cứ ở Đức, nương tựa ở Nhân và giao du ở Nghĩa". Lễ Vận nói: "Nghĩa là phần của nghệ (nghề nghiệp) là tiết của Nhân. Hiệp ở Nghệ, giảng ở Nhân, được đó là cường mạnh". Đó nói rõ giao du ở Nghĩa là Thánh nhân dùng ý chỉ thâm sâu của Nghĩa vậy. Dương Tử nói: "Đạo dùng dẫn dắt đó, Đức dùng được đó, Nhân dùng người đó, Nghĩa dùng thích nghi đó". Lão Tử tuy là Nho giả chẳng lấy xưng đó, mà Nho cũng nói: "Hết Đạo sau mới dùng Đức, hết Đức sau mới dùng Nhân, hết Nhân sau mới dùng Nghĩa. Khai Đạo thông trước". Giải thích về khai thông, như trong Hệ Từ nói: "Khai vật thành vụ". Lại nói: "Thông chí của thiên hạ", là đó vậy. Do khai thông mới được lý đó, nên Đức là phần thứ đó (tức sau Đạo). Được lý làm thiện, dùng Ân ái ban ân huệ vật, mà Nhân lại phần kế đó. Đã Nhân lại Ái, hẳn quyết đoán hợp nghi, mà nghĩa lại là phần kế đó. Đạo đức Nhân nghĩa cùng Nhân mà có đó, gốc ngọn nghĩa lý đó như vậy. Thánh nhân làm kinh, định trước sau đó, bởi còn Đại nghĩa đó vậy.

Nay Hàn Tử xoay ngược kinh, trước Nhân

Nghĩa mà sau Đạo Đức, ức đoán nói so sánh Đại khai thông được lý, chẳng phải là điên đảo hẹp hòi quanh co vô vị ư? Nhưng, Đạo đức của Nho hẳn có nhỏ có lớn vậy. Nhỏ như nghĩa riêng ở trong Khúc Lễ, một thuyết nói Đạo nghĩa là tài nghệ, Đức làm hành thiện ở chính mình. Phải vậy, lớn như Hệ Từ nói một Âm một Dương đó gọi là Đạo, kế tiếp đó là Thiện vậy, Thành đó là Tánh vậy. Người nhân thấy đó gọi đó là Nhân, người trí thấy đó gọi đó là Trí. Mọi người sử dụng thường ngày mà không biết, nên Đạo của Quân tử hiếm ít vậy. Thuyết quái nói: "Xưa kia Thánh nhân làm Dịch, dẫn dùng Lý của thuận tánh mạng. Đạo của lập Thiên gọi là Âm và Dương, Đạo của lập Địa gọi là Cương và Nhu, Đạo của lập Nhân gọi là Nhân và Nghĩa". Trung Dung nói: "Thiên mạng đó gọi là Tánh, nương theo Tánh đó gọi là Đạo, tu Đạo đó gọi là giáo". Phải vậy, Hệ Từ lấy ở Âm Dương đó mà Diệu đó làm Đạo, người thì bẩm nhận Đạo để thành Tánh. Người Nhân người Trí tuy nhờ ở Đạo mà thấy Nhân thấy Trí, bèn trệ chấp ở thấy của Nhân và Trí. Mọi người tuy thường ngày sử dụng ở Đạo mà mịt mờ không biết là Đạo. Nên Đạo của Thánh nhân hiển bày sáng tỏ làm Diệu ít vậy. Nhưng Đạo của Thánh nhân đâu chỉ ở Nhân Nghĩa mà thôi vậy. Thuyết Quái dùng lý của tánh mạng, tức lý chí của chí Thần vậy, trời đất muôn vật không gì chẳng cùng đó. Nên Thánh nhân làm Dịch trọng Quái, thuận theo lý đó, mới lập Đạo của Thiên, Địa, Nhân-tam tài. Thiên đạo vốn ở đầu thì có Âm có Dương, Địa đạo thành hình thì có Nhu có Cương, Nhân Đạo tình tánh thì có Nhân có Nghĩa, là nhờ ở Đạo mà có đó vậy. Trung Dung cho rằng, tuân theo Tánh đó, mới gọi đó là Đạo, tu trị Đạo đó, mới gọi đó là giáo, giáo tức là nhân nghĩa ngũ thường vậy. Đó, đâu phải Đạo chỉ ở nhân nghĩa? Mà trước của nhân nghĩa quả thật không Đạo ư? Như, Thuyết Quái, như Luận ngữ, như Biệt Nghĩa của Khúc Lễ, như Lão Tử, Dương Tử, điều họ gọi là Đạo Đức, đều là Đại Đạo của đây vậy. Nhưng Đạo Đức đó ở Lễ thì Trung Dung thật rõ ràng vậy, ở Thư thì Hồng phạm Hoàng cực vậy, ở Thi thì Tư duy không tà vậy, ở Xuân Thu thì là Đạo của Liệt thánh Đại trung vậy.

Khổng Tử nói với Tăng Tử rằng: "Sâm mè! Đạo ta chỉ một mà suốt đó". Tăng Tử nói: "Đúng vậy!" Lại nói với Tử Cống rằng: "Chẳng phải vậy, Ta chỉ lấy một mà xuyên suốt đó". Chỉ có Tăng Tử do học trò hỏi đó, mà Tăng Tử cho rằng học trò đó là nhỏ chưa đủ để phải nói hết, nên dùng Đạo gần để dẫn dụ đó, mới đáp với học trò đó là "Đạo của Phu Tử là Trung Thứ mà thôi vậy". Bởi Tăng Tử dùng điều gọi là Trung thứ của Trung Dung, ý cách Đạo không xa, mà các hành Hậu Nho không thông hiểu, liền lấy Trung Thứ bèn làm nhất quán, đó là sai lầm vậy. Hệ Từ nói: "Động của thiên hạ, Trinh phu nhất". Lại nói: "Một đặt để mà trăm lo toan". Lễ Vận nói: "Lễ hẳn gốc ở Thái nhất". Trung Dung nói: "Đó làm vật, không hai, đó sanh vật ấy chẳng thể lường". Lấy đó mà so sánh và liệt bày thì sao được dùng Trung Thứ mà liền làm Nhất quán đó ư? Nhan Uyên bùi ngùi than rằng: "Ngưỡng đó mà càng cao, khoan dùi đó mà càng cứng chắc, trông nhìn đó ở trước mà bỗng nhiên lại ở sau". Phu Tử dần dần khéo dẫn dụ người. Nhan Tử chánh cho là Thánh nhân dùng Đạo Nhất quán đó để dạy người, dần dần vậy có thứ tự đó, đó là làm Thiện tiến khuyên đối với người vậy. Đó, rõ ràng Thánh nhân chỉ dùng thành thật sáng tỏ Đại Đạo khai thông nhất quán làm giáo đó. Nguyên làm các Thiện là gốc của trăm Hạnh. Trung Dung nói: "Trung ấy là Đại bản của thiên hạ". Há chẳng vậy ư? Đến đây tạm ba bản kinh lược, chánh hai điều Nhân nghĩa đó uyển chuyển làm Đạo Đức đó. Đó đối với pháp của Thánh nhân, há chẳng khuyết ư? Trung Dung nói: "Đạo đó chẳng hành, Ta biết đó vậy. Người Hiền vượt quá mà kẻ ngu chẳng kịp". Đây nghĩa là người của Hiền trí chợt nhiên Đạo mà sở dĩ làm quá vậy. Bọn ngu xuẩn bất tiếu xa đạo mà sở dĩ làm chẳng kịp vậy. Hàn Tử quên gốc, há chẳng làm quá ư? Khinh mất Chí Đạo làm Nguyên Đạo, muốn biện minh Đạo là cũng lầm hoặc vậy. Điều Hệ Từ nói Nhân và Trí đó là vì mê mờ Đạo, chấp trệ thấy đặt để đó, là Đạo của Thánh nhân suy ít, chẳng đủ để hiển bày. Như Hàn Tử hạn cục nhân nghĩa mà làm Đạo Đức đó, chánh là chỗ lo hoạn của Hệ Từ vậy. Phàm, Nghĩa là Thiện của Tình ấy vậy, đối với Đạo đức làm thứ, vì tình thì ít có, hẳn chánh mà chẳng mất. Nên Luận Ngữ nói: "Đại đức chẳng vượt quá nhàm, Tiểu đức ra vào, có thể vậy". Lại nói: "Sắc lấy người mà hành trái ở đó không nghi ngờ". Biểu Ký Tử nói: "Cùng Nhân đồng công mà khác Tình". Cùng Nhân đồng công, Nhân đó chưa thể biết vậy. Cùng Nhân đồng quá, sau đó, Nhân đó có thể biết vậy. Trang Tử nói: "Cửa của chư hầu mà nhân nghĩa còn vậy". Đó muốn riêng dùng nhân nghĩa mà làm, có thể được ư? Nhưng Tử Cống, Tử Hạ làm người Hiền của Nhân nghĩa, còn có quá và chẳng kịp, huống gì đó chẳng như Tứ và Thương, đời sau có thể tính hơn. Đó sao được chẳng nghiên cứu Đại Bản và giáo nhân, đó dùng Đạo đức mà chánh làm Thiện đó ư? Trung Dung nói: "Đạo đó chẳng Hành vậy". Phàm, đó là Thánh nhân xót thương họ chẳng cùng chí Đạo chí Đức mà dạy người vậy.

Hoặc nói: "Hàn Tử trước là Nhân nghĩa mà thứ đó là Đạo đức, bởi chuyên việc người mà muốn riêng khác ư? Phật và Lão là Đạo đức hư vô vậy". Xin nói: Xưa kia, Thánh nhân làm Dịch vì chánh ở Đạo trời việc người, mà hư vô là rất nguyên đó vậy. Nếu khác Đạo của hư vô, thì mười Dực sáu mươi bốn quẻ là chẳng phải sách của Nho. Phục Hy, Văn Vương, Khổng Tử... chín vị Thánh nhân của Trị Dịch cũng chẳng phải Sư tông của Nho vậy. Khổng Tử chẳng phải Sư tông của Nho ư? Quả thật vậy thì Hàn Tử chưa từng đọc Dịch. Dịch chính là Đại kinh của Nho. Chẳng biết Dịch mà cho là Nho của Thánh Hiền, tôi không tin vậy. Đó nói: "Lão Tử đó tiểu nhân nghĩa chẳng hủy đó vậy". Họ thấy là nhỏ vậy, vì ngồi đáy giếng trông nhìn bầu trời, nên nói trời nhỏ, đó chẳng phải tội của trời vậy. Nhưng Lão Tử nói: "Mất Đạo sau mới dùng Đức, mất Đức sau mới dùng Nhân, mất Nhân sau mới dùng Nghĩa, mất Nghĩa sau mới dùng Lễ". Đó là răn chớ hủy Nhân nghĩa nhỏ vậy. Bởi vì Đạo đức cùng với Nhân nghĩa làm Thị có Long có sát, mà công đó có ưu có kém vậy. Phàm, sáng tỏ đó chẳng như dùng Lễ vận so sánh. Khổng Tử nói: "Hành của Đại Đạo là thiên hạ làm công". Chọn Hiền cùng khả năng giảng tin tu hòa mục, nên người chẳng riêng thân với người thân đó, chẳng riêng con với người con đó. Lại nói: "Mưu tính đóng bít mà chẳng hứng, trộm cướp loạn giặc mà chẳng làm, nên ngoài thông mà chẳng đóng bít. Đó gọi là Đại Đồng". Vậy đó há chẳng phải Đại Đạo cùng với Đức làm Trị mà ưu ư? Lại nói: "Đại Đạo nay đã ẩn, thiên hạ làm nhà, mỗi tự thân với người thân họ, mỗi tự con với con họ". Lại nói: "Vũ, Thang, Văn, Võ, Thành Vương Chu Công, do đó trọn đó vậy. Sáu quân tử đó chưa có bất cẩn đối với Lễ ấy vậy". Vì đắm trước nghĩa đó, vì khảo tin đó, đắm trước đó có quá. Hình Nhân giảng nhượng, chỉ bày dân có thường. Nếu có chẳng như vậy tại chấp đó đi, chúng lấy làm ương. Đó làm Tiểu Khang, đó há chẳng phải Nhân nghĩa làm Trị đối với Đạo Đức là kém ư? Như thế nào riêng Lão Tử mà Nhân nghĩa nhỏ ư? Hàn Tử sao họ chẳng tự, chợt kinh Nho mà chê trách Lão Tử ư? Lại nói: "Điều Lão Tử gọi là Đạo Đức... là bỏ Nhân và Nghĩa nói đó vậy. Riêng nói của một người vậy". Đó là nói của Hàn Tử, do đó rất bất công vậy.

Phàm, điều nói của Lão Tử là Đại Đạo vậy. Đạo quả thật riêng ư? Điều nói của Đại Đạo là đâu riêng Đạo của Lão Tử, bởi Đại Đạo của Tam Hoàng Ngũ Đế vậy. Hàn Tử không biết, nhọc thấy Đạo gia Lão thệ tự vì các hạng đó chẳng đồng như Nho, muốn chèn ép đó mà ấy vậy. Phàm, phân chiết Lão thị làm Đạo gia đó, mới đầu phát khởi của từ sách giòng họ Tư Mã, mà Ban Cố trọng. Như Lão Tử đó thật là Nho nhân ở thời xưa trước vậy, ở thời nhà Chu làm Sử chủ tạng thất, phần nhiều biết việc Thần pháp của Thánh nhân. Nên Khổng Tử đối với Lễ thì nói: "Tôi nghe ở Lão Đam", là bởi Lão Tử thường tham tầm sách của Tam Hoàng Ngũ Hoàng mà được yếu chỉ của Đại Đạo đó, mới tự biên thuật sách để phát minh đó. Hàn Tử chẳng thể lường gốc tề ngọn, nhọc muốn bài bác đó mà chuyên lấy các Nho danh, cũng chẳng trái ư? Lễ Vận nói: "Hành của Đại Đạo cùng Anh Khâu của Tam Đại chưa kịp đó vậy, mà có chí vậy". Trịnh Huyền giải nói: "Đại Đạo nghĩa là thời Ngũ Đế". Nhưng các sách khác phần nhiều nói Đại Đạo là Hoàng Đạo, mà riêng Trịnh Huyền giải nói là thời của Ngũ Đế vậy. Ý đó vì cho là: tuy Hoàng cùng với Đế, Đạo đó cùng thông nên vậy. Trong Ngũ Đế bản kỷ thì Hoàng Đế là đứng đầu đó. Nhưng Hoàng Đế cùng với Phục Hy, Thần Nông, đó thật là Tam hoàng, mà kinh sử chỉ làm Đế là bởi Hoàng Đế cùng với vương xưa cũng là thông xưng vậy. Nên Trịnh Huyền giải nói, thời của Ngũ Đế, mà Hoàng ở trong khoảng đó vậy, chỉ Hoàng Đế là Tam Hoàng ở đầu của Ngũ Đế mà bao gồm cả Nghiêu Thuấn. Tuy gốc ngọn nhỏ khác, mà Đại Đạo chỉ một vậy. Hệ Từ nói: "Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn rủ áo xiêm mà thiên hạ bình trị". Đó là ấy vậy. Khổng An Quốc nói là: "Sách của Tam Hoàng làm Tam Bí, tức nói về Đại Đạo vậy. Sách của Ngũ Đế làm Ngũ Điển, nói về Thường Đạo vậy". Khổng An Quốc là người Dĩnh Đạt, Chánh nghĩa đó nói: "Hoàng ưu so với Đế. Đạo đó chẳng chỉ có thể thường hành mà thôi. Lại Đại so với Thường, nên làm Bí vậy". Đó nghĩa là đối liệt bày vậy. Tuy nhỏ có ưu kém đều là Đại Đạo, đều có thể thường hành, cũng dẫn "Hành Đại Đạo" của Lễ Vận cho là thời của Ngũ Đế làm chứng đó. Nhưng sách của Tam Hoàng và Ngũ Đế chẳng rốt ráo (chí) so với Dịch. Đem Dịch cùng với Lão Tử so sánh, mà Đạo đó đâu khác ư? Như Hệ Từ nói: "Động của thiên hạ chánh phu nhất ấy vậy". Mà Lão Tử nói: "Vương hầu được một lấy làm thiên hạ chánh". Đó là Đại lược vậy. Nếu khảo xét lý của Vô tư Vô vi và thuyết của Âm Dương biến hóa, hai sách đâu chẳng đều vậy. Nên Ban Cố nói trong Hán Thư rằng: "Các hàng trong Lão thị, bởi xuất phát từ Sử Quan". Lại nói: "Hợp ở khắc nhượng của Nghiêu là khiêm khiêm của Dịch". Nghĩa là ở đây vậy.

Thuở thiếu thời, tôi nghe ở người lớn nói: "Lão Tử là tiếp thừa ở họ hàng Hoàng Đế ấy vậy". Đến lúc thấy Trang Chu, Quảng Thành Tử nói: "Đắc Đạo tôi là trên làm Hoàng dưới làm Vương". Càng tin Lão Tử thật xuất phát từ Tam Hoàng Ngũ Đế ấy vậy. Đó rõ ràng Đạo Đức của Lão Tử thật là căn bản Đạo Đức nhân nghĩa của Nho từ thời Tam Hoàng và Ngũ Đế ấy vậy. Rõ ràng vậy, đâu xuất phát ở thuyết riêng của một người là Lão thị ấy ư? Hẳn vì Lão Tử làm quấy thì Dịch và Lễ vận có thể thiêu đốt vậy. Rõ ràng vậy. Văn Vương, Khổng Tử thì làm chùy Đề nhân nghĩa ấy vậy. Phàm, khéo biện luận của Tiên Nho ai sáng cùng Mạnh Tử? Thời của Mạnh Tử, sách của Lão Tử lưu xuất có hơn trăm năm vậy. Mà Trang Chu lại cùng Mạnh Tử đồng đời. Nếu đó có thể bài bác thì Mạnh Tử đã bài bác đó vậy, đâu đợi đến các Nho sĩ đời sau biện luận đó ư? Tư Mã Thiên nói rằng: "Đạo của Lão Tử ước mà dễ tháo, việc ít mà công nhiều". Nho sĩ hoặc chẳng vậy, gièm pha Hoàng Lão trước mà sáu kinh sau, là cũng không biết ý đó vậy. Sách của Thái Sử Công, Khổng Tử tức làm Thế gia đó, Lão Tử tức làm Liệt Truyện. Đó đâu có nghĩa là tôn quý Lão thị ư? Bởi vì Đạo của Lão thị là từ gốc của Nho vậy. Sở dĩ trước đó là chánh muốn tôn quý gốc đó vậy, chẳng phải cẩu thả trước người đó vậy. Nói của Tử Trường nhỏ mà lại xa vậy. Hàn Tử không thể tư duy sâu và rõ ràng xa đó, liền ở nơi Tiên nho, mới nói: "Chu Đạo suy sụp, Khổng Tử ẩn một, tai họa lửa đốt ở thời nhà Tần, Hoàng Lão ở thời nhà Hán, Phật ở thời nhà Tần, nhà Tiền Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Ngụy, nhà Tùy". Đó nói Đạo Đức nhân nghĩa là không vào ở Dương Tử thì vào ở Mặc Tử, không vào ở Mặc Tử thì vào ở Lão Tử, không vào ở Lão Tử thì vào ở Phật, vào ở kia thì ra ở đây. Vào là Chủ đó, ra là Tớ đó. Vào là giúp đó, ra là làm dơ bẩn đó. Than ôi! Sau đó nói chẳng khiêm tốn như vậy? Đó nói ra vào làm tớ làm dơ, nghĩa là ra ở Dương Tử và Mặc Tử ư? Hay là ra ở Lão Tử và Phật ư? Lão Tử và Phật đâu khiến người ác hèn như vậy ư? Phàm, Phật Pháp ở nhà quả thật là dùng Tâm thành thật để vào Đạo. Còn chỗ ra đó, xa thì thành Hiền thánh thù thắng, chỗ ra đó gần thì là thân là Tâm khiết tịnh từ huệ làm Thượng thiện nhân, ra ở nơi xóm làng thì người kính đó mà không dám khinh đó. Đó cũng là mục kích trong nhân gian, chỗ thường thấy vậy. Đâu có ra làm tớ làm dơ làm nhục đó ư?

Thời xưa trước có các bậc Đế Vương mà vào Phật Pháp. Từ thời Đông Hán đến thời Tiền Đường không thể tính kể hết. Như vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời tiền Đường đến chùa Sùng Phước, phát nguyện xưng là Hoàng Đế Bồ-tát giới đệ tử. Vua Huyền Tông (Lý Long Cơ 712-756) thời tiền Đường, chuyên việc Phật thanh tịnh, phụng sự huân tu đó. Đó cũng là từ Phật giáo mà ra, nào có là tớ là dơ bẩn ư? Hàn Tử nhọc vì vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương làm quá, mà không biết nhục đối với Tổ tông ở triều mình. Đó đâu có thức lự ư? Nhưng việc của vua Võ Đế thời Nam Lương, trong Nguyên giáo tôi tuy thuận tục mà có phần bình luận đó nhưng chưa từng luận quá. Như so sánh đó xả thân, đối với tục thì tôi, đối với Đạo thì là Đức. Chẳng phải nhân tình đó liền biết, chỉ trời đất thần minh mới biết đó vậy. Nên ngay lúc vua Võ Đế thời Nam Lương xả thân mà đất làm rung động, đó rất là việc phi thường, mà Sử thần không biên ghi, làm cho đời sau càng không biết. Nên biết ý của vua Võ Đế thời Nam Lương là u thắng, đó phát chí hẳn chẳng đồng như chỗ làm của hàng phàm phu bình thường, chưa thể lấy hàng tôi tớ mà nhìn thấy đó vậy.

Hàn Tử đã quấy nhiễu bài xích Dương Tử, Mặc Tử, Lão Tử và Phật như vậy, mà thuyết của bậc thấy đó lại nói: "Khổng Tử dùng Lễ kính bái Lão Đam". Đó độc ở Mặc Tử thì nói là: "Khổng Tử hẳn dùng Mặc Tử, Mặc Tử hẳn dùng Khổng Tử, nếu không tương dụng, thì chẳng đủ làm Khổng Mặc". Đó là, như Giáng châu Mã Phủ quân hành trạng nói: "Tư Đồ Công qua đời, chích cánh tay ra máu biên ghi kinh Phật có hơn ngàn ngôn từ, để cầu Phước báu". Lại nói: "Chịu tang có hơn hạnh của người đời, đó xưng là Đại Điên tương tự". Cao nhàn cũng đều suy thuật ở Phật pháp vậy. Hàn Tử sao phải quấy đó, chẳng định trước sau đó cùng trái ngược như vậy ư? Đó chẳng chỉ tự lầm hoặc mà cũng là sai lầm lụy đến người học ở đời sau vậy. Lão Tử và Phật quả nhiên là phải, mà Hàn Tử là quấy vậy. Các hàng hậu học không biện rành, nhọc thấy Hàn Tử là bậc Đại Nho mà đó lại khéo giỏi văn chương, mới cùng mến mộ mà quấy đó, rồi cho Dương Tử, Mặc Tử quả nhiên là quấy mà Hàn Tử là phải đó. Các người học cũng cùng so sánh mà phải đó. Phàm, lấy phải mà làm quấy thì là phá hoại thiện tâm của người, lấy quấy mà làm phải thì dẫn dắt người học quấy, phá hoại mỹ phong thuần thiện truyền đến đời sau. Sai lầm người đó sở dĩ làm tâm quấy việc nhỏ vậy, tổn hại âm Đức mà ngầm thêm sai quá đó. Nếu chẳng ở nơi thân thì hẳn ở nơi Thần cùng với con cháu họ, đời sau cũng đáng sợ vậy. Nho có phụ, Hàn Tử đó nói: "Khổng Tử chỉ học Lễ ở Lão Đam vậy, chẳng phải học Đạo đó vậy". Xin nói là: Không phải vậy. Lễ cũng là Đạo vậy. Nhạc ký nói: "Đại lễ cùng với trời đất đồng tiết". Lại nói: "Trung chánh không tà là chất của lễ vậy". Lễ Vận nói: "Lễ hẳn gốc ở Thái nhất". Phàm, Trung chánh, Thái nhất là chất gốc của Lễ vậy. Nghi chế trên dưới, văn của Lễ là ngọn vậy. Nếu Thánh nhân chỉ học văn ngọn mà không nghiên cứu ở chất gốc, sao làm Thánh nhân ư? Chỉ Thánh nhân hẳn có khả năng văn chất gốc ngọn đầy đủ biết mà xét cử đó vậy. Người học không biết Tăng Tử hỏi Khổng Tử học lễ cạn cợt ở Lão Đam ấy vậy, mà không biết sử ký nêu rõ sâu và Lão Đam truyền trao Khổng Tử hỏi lễ ấy vậy. Hàn Tử kia tuy học văn ngôn của Nho, đâu biết sở dĩ của Lễ như vậy ư? Đó nói: "Nghe xưa trước làm dân có bốn hạng, nay làm dân có sáu hạng. Ngày xưa, giáo đó chỉ có một, nay giáo đó có đến hai. Nghệ nông chỉ một nhà làm mà ăn thóc gạo có cả sáu nhà. Thợ chỉ một nhà mà dùng dụng cụ có sáu nhà. Buôn bán chỉ một nhà mà nhờ cậy đó có sáu nhà. Làm sao dân chẳng khốn cùng mà sanh trộm cướp vậy". Phàm, điều gọi là giáo, đâu cùng trời đất đều xuất hiện mà định số đó ư? Đó cũng là do Thánh nhân thích thời hợp nghi mà làm đó, để giúp ở trị thể ấy vậy. Nhưng xưa nay đổi thay biến chuyển mỗi lúc càng sai khác. Chưa hẳn một giáo mà có thể hợp nghi khắp cả muôn đời vậy. Xưa kia, Thuấn ở cuối thời của Ngũ Đế, thời đó dần bạc bẽo, người đó dần dối ngụy, Thánh nhân hợp nghi đó, mới thiết bảy ngũ giáo, định chế ngũ hình, mỗi mỗi bảo quan làm chủ đó, mà khế hợp làm Tư đồ, chuyên bày trải ngũ giáo, bèn để lại đời sau khiến đốc suất người làm Thiện, mà thiên hạ có giáo bắt đầu từ đó vậy. Đến đời của Chu Công lại đang thời của Tam Vương, thời đó càng bạc bẽo, con người càng dối nghị mà thiên hạ càng khó trị. Thánh nhân hợp nghi đó, bèn mở rộng giáo pháp đó mà đầy đủ đó. Thiên hạ gọi đó là giáo của Nho từ Chu Công khởi dậy vậy. Sau đó Khổng Tử thuật mà biên ghi đó thành sáu sách là Thi, Thư,..., mà giáo của Nho càng khua động ở cuối thời nhà Chu. Chính của Tam đại càng tệ, Thiện nhân cậy thuật mà phí trí, kẻ bất Thiện mượn pháp mà làm ngụy, thiên hạ tổn hại sai sử sống, thương tổn tánh mà không biết tự trị đó. Lão tử hợp nghi với thời ấy, lại đem thuyết Đạo Đức của Tam Hoàng, Ngũ Đế để cứu tệ hại đó, mà thiên hạ bèn có giáo của Lão Tử vậy. Ở thời Tiền Hán, Hậu Hán thấy cuối thời nhà Chu thì càng mỏng bạc càng hư ngụy. Hiền cùng với ngu sai sử ở trí và đối, rối ren cả một nửa, muôn một tuy tập học ở thuyết của Lão Tử, mà không thể rất thông ở tánh mạng có diệu. Suy Thần minh đi lại cứu đời càng mê mờ, chỉ nguyên nhân của sống chết đó vậy, thiên hạ bèn có giáo của Phật vậy. Dương Tử nói: "Phàm, Đạo chẳng phải thiên nhiên ứng thời mà tạo, tổn ích có thể biết vậy". Đó đâu chẳng vậy ư? Phàm, từ các thời Chu, Tần, Hán, Ngụy, mỏng bạc và hư ngụy đó ngày càng lắm nhiều, đều tích trữ ở thời của đời sau. Trời đó hoặc nhờ là Phật giáo để ứng việc đó, muốn cùng đó mà cứu đời vậy. Không như vậy, sao trời người cùng đó cảm ứng lâu dài mà hưng thạnh như vậy ư? Hàn Tử chìm đắm ở xưa không biết biến, mà chẳng tỏ ngộ Phật giáo thích thời hợp dụng, mới lo toan Lão Tử và Phật thêm ở nơi Nho, hẳn muốn như ở thời Tam Đại mà không đó. Đó cũng vì ông ta không tư duy lắm vậy.

Phàm, ở thời Tam Hoàng không có giáo, thời Ngũ Đế không Nho. Đến lúc họ có giáo có Nho, mà thời thế người việc chẳng như xưa trước. Giả sử như ngay ở thời Hạ Võ, hoặc có người nói là Trị của thời xưa vậy. Có hóa mà không giáo, hóa thì dân hóa thuần. Tôi muốn như ở đời của Tam Hoàng dùng hóa mà chẳng dùng giáo. Đang lúc không có giáo đó, có thể đang thời của Chu Tần cũng có người nói làm Trị của thời xưa trước dùng giáo đó đơn giản. Làm Trị của nay, dùng Nho đó phiền tạp, phiền tạp thì dân khổ nhọc. Mà giả sử tôi muốn ở thời của Nhị Đế dùng giáo mà không dùng Nho, đang lúc đó không Nho có thể được chăng? Nhân vì thời đó mà chọn lựa đó, không thể không giáo không Nho hẳn ấy vậy. So sánh đó với thuyết của Hàn Tử, muốn thời của đời sau không có Phật không có Lão, nào khác gì ư?

Hàn Tử nói: "Nay nói đó, sao chẳng làm vô sự của thời Thái Cổ". Đó cũng là như trách người mặc áo cừu lúc mùa Đông rằng: "Sao không làm sáo vải mà thay đổi đó?" Trách người ăn lúc đói rằng: "Sao không làm uống để thay đổi đó?" Hàn Tử, đó cũng biết đời sau không thể chuyên dùng Đạo của thời Thái Cổ mà gièm pha nói đó. Và đó là không biết hợp nghi của thời vậy, mới càng đến đời sau mà Hàn Tử muốn không có Phật và Lão Tử. Sao làm là tự trái phản không biết đó hợp nghi của thời ư?

Đâu có chỗ bằng đảng mà ấy vậy, gần muốn tệ mà đặc biệt không thấy ư? Như, chế của bốn hạng dân phí, của sáu nhà ăn dùng, thì trong luận nguyên giáo tôi đã nói rõ ràng, nay lại lấy việc gần mà so sánh đó. Từ thời nhà Chu nhà Hán trở lại, trị thiên hạ đuổi đến ở Vương Đạo, thì ai sánh cùng như vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời tiền Đường? Trong suốt thời gian đó, Phật giáo và Lão giáo đó rất thạnh, người đó rất đông nhiều, thực dụng đó rất rộng lớn, mà khắp nước nhà đoán ngục tốt mỗi năm chết không quá ba mươi người. Phía Đông đến biển, phía Nam đến Lãnh ngoại, đêm đều ở bên ngoài, nhà không đóng cửa, lữ hành chẳng mang theo lương thực. Còn trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) dưới đời vua Huyền Tông (Lý Long Cơ 712-756) thời tiền Đường, thiên hạ trị bình, gần như ở thời niên hiệu Trinh Quán (627650) trước vậy, mà làm của Phật giáo và Lão giáo càng thạnh. Đó đâu phải không có người của Phật giáo và Lão giáo ư? Mà thiên hạ ở thời Tiền Đường đâu có tham muốn cướp bóc dứt tuyệt? Như vậy tôi cho rằng dân khốn cùng và trộm cướp chỉ bởi thời và chính đó, chẳng phải do Phật hay Lão mà khiến nên ấy vậy. Nhưng Phật giáo tạm có thể vất bỏ đi thì hai vua đó ở thời tiền Đường đã dùng thế đó mà vất bỏ lâu rồi, sao được để đến người đời sau rầm rầm nhọc lấy lời trống không mà cùng nhau bới móc vậy?

Hoặc có người cho rằng: "Hàn Tử khéo giỏi ruồng ruổi Phật và Lão mà công đó ngang bằng như Vũ". So sánh lời trống không đó thật công hiệu, không là khuất đối với Vũ ư? Lời nói của kẻ cuồng sao đó chẳng nghỉ vậy? Đó nói: "Nay Pháp đó hẳn dứt bỏ, mà vua tôi dẹp, mà cha con cấm đạo cùng sanh dưỡng đó, để cầu điều gọi là Thanh tịnh tịch diệt ấy vậy". Đó là do Hàn Tử ghét Phật giáo người xuất gia trì giới bèn oán trách với ngôn từ đó. Phàm, người xuất gia tu đạo đâu tàn khốc như vậy ư? Người xuất gia là bỏ tục theo chân. Bề tôi được xin ở vua, cha chịu mạng người con đó mới đáng, chẳng phải phản đi mà nghịch bỏ vậy. Người Trì giới chỉ muốn học trò họ khiết tịnh hạnh Dâm tham đó. Trụ giới thì dung chánh ngẫu đó, chẳng phải tất cả đều đoạn tuyệt đạo cùng sanh dưỡng của người vậy. Nhưng làm lụy của Tình dâm lụy làm cẩn trọng. Các giáo dạy người thận trọng Dâm mắc mứu Dục. Không Dục mà thiên hạ còn rối ren vậy, nếu như chìm đắm ở Dâm tham đến nổi mất tâm vùi thân ấy vậy. Hàn Tử nào hẳn sợ người không cưới gã của nam nữ, thấy người tịch cốc, vội lo đó bèn tuyệt giống của năm thứ thóc lúa, không là quá lo lắng ư? Phàm, Thanh tịnh nghĩa là Diệu trạm của tánh đó, Tịch nghĩa là chí tĩnh. Diệt nghĩa là diệt lụy của tình cảm đó, chẳng phải lấy cái nghĩa gọi là ngoan tịch tử diệt vậy. Phàm, người xuất gia trì giới, Phật dùng Đại quan đó vậy. Thánh nhân xem rộng chung ở Nhân gian trời đất chồng vợ thường luân muôn mối đều do tình ái mà thành, đều một nỗi giả như mộng. Tham đó, đắm đó, khổ đó, vui đó, vinh đó, nhục đó, mắng bảo đó, tệ đó, Ân ái đó, phiền não đó, cho đến đều bất chợt, làm đại giả đại mộng đó. Không biết họ làm đại hoạn, mà Diệu của Đại minh chí chánh thật ở mất vậy. Xuất gia là xa trần tuyệt tục, thần chuyên tư nhất, hẳn dễ giác dễ tu. Thấy thân là vô ngã, sao đắm trước? Thấy tâm không ý, sao tham? Thấy các sự hữu vi chẳng đủ bền chắc, sao mắng bảo? Cho nên Đại minh vậy, chí chính vậy. Thắng đức có thể được mà Thánh Đạo có thể thành vậy. Ngữ nói: "Ông tuyệt bốn thứ mẫu ý, mẫu hẳn mẫu có mẫu ngã". Lão Tử nói: "Sở dĩ tôi có hoạn nạn lớn bởi vì tôi có thân, như tôi không có thân, làm gì có hoạn nạn?" Hai điểm đó cùng với pháp xuất gia nhà Phật nhân đó tương tợ. Đó chỉ vì Đại Thánh nhân đều biết mà rốt ráo đó, khiến Thánh nhân chỉ mắng bảo đời mê mờ như bọt bóng nổi tan, không biết vượt ra một đời sanh tử hư dối. So với người phàm sao xa vậy? Nên Khổng Tử ít nói đó, bởi nhỏ nhiệm còn ở sách đời vậy? Đó nói rộng, sáng tỏ lớn, nghiên tầm cực diệu thực hành mà công hiệu đó. Nếu đợi như giáo của Phật xuất thế hợp nghi làm ấy vậy. Đó, có thể dùng minh số mà xét vậy. Nay Phật vì người xuất gia trì giới, đặc biệt muốn cảnh răn nỗi giả đại mộng của đời, nêu cao nghiệp chướng của người mà trị Đại hoạn của Sanh tử đó. Mà Hàn Tử trái lại lấy đó làm hoạn nạn, gá mượn áo dày mũ trụ đó, ngăn chướng đó mà cứng rắn bài bác Phật, cho rằng Phật dối ngụy quấy nhiễu đời ta đang trị bình. Đó là Hàn Tử vì tự mình không thấy mà vu cáo điều thấy của người. Tình tệ như thế gia quá lắm vậy. Phật còn gì để nói? Di Thư nói: "Xưa trước có mộng, người cả nước đó đều lấy mộng mà cho là giác. Đến lúc có người thật giác mà dẫn dụ họ, mà người ngụy giác đó trái lại đều mắng: "Sao ông dùng mộng mà khi dối chúng tôi ư?" Người thật giác đó chỉ im lặng, không còn gì hơn". Đó rất cùng loại với Hàn Tử chống cự Phật vậy. Trong Thơ, Hàn Tử nói: "Chớ lo việc đời với việc mình, phải đắm nhân gian sánh cùng mộng". Đó hẳn

Nhân ở Đại Điên vừa hơi tĩnh, mới tin có ngoài hình hài dùng Lý tự thắng mới bắt đầu vậy. Tuy nhiên thuyết trước đó đã truyền, muốn nói hối hận nào còn kịp ư! Lại nói: "Than ôi! Đó may mà chẳng xuất hiện sau của Tam Đại, chẳng thấy truất phế ở Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử vậy. Đó cũng vì chẳng may mà chẳng xuất hiện trước của Tam Đại, không thấy ở Chánh ở Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử vậy". Đó là Hàn Tử nghi vậy không đoạn. Quân tử gặp việc tức dùng Lý mà xét quyết đó, sao hẳn cậy nhờ người xưa? Giả sử Hàn Tử vào ra làm văn võ, gặp phải việc lớn của nước nhà còn nói: "Đâu chưa thể truất phế, chưa chánh ở Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử". Do dự thì việc lớn đó qua mất vậy, sao dùng làm văn làm võ ư?

Phàm, trăm hạnh thanh khiết thân cấm, không gì chẳng xuất phát từ Trai giới. Mọi điều Thiện thấu đáo chính, không gì chẳng ra từ chính Tâm vậy. Phật pháp đại khái dạy người trai giới chánh tâm, không ác nào chẳng đoạn, không thiện nào chẳng giữ. Đời nay và đời sau đang có Thánh Hiền tự dùng Đạo Lý đó biện luận, sao hẳn Văn, Võ, Chu Công..., họ đã chết, chánh đó truất phế đó mới lấy làm tin ư? Nói về Tánh mạng của sách Nho, thì Trung Dung nói rất là rõ ràng. Ở Trung Dung, Khổng Tử đặc biệt nói: "Chất nạn ở Quỷ thần mà không nghi ngờ, trăm đời vì đợi Thánh nhân mà chẳng lầm hoặc". Chất nạn ở Quỷ thần mà không nghi ngờ là biết trời vậy, trăm đời vì đợi Thánh nhân mà chẳng lầm hoặc là biết người vậy. Đó hẳn là đợi Đại Thánh nhân biết rõ Tánh mạng mới biên giải Trung Dung uyên áo đó mà không lầm hoặc vậy. Nhưng từ Khổng Tử mà tương lai trăm đời vậy. Chuyên lấy Tánh mạng làm giáo, chỉ Phật là Đại thạnh ở Trung Quốc. Khổng Tử trưng bày đó cũng đợi Phật lấy làm chứng ư? Không như vậy, trăm đời đây lại có Thánh nhân nào ư? Có thuyết rất thạnh nào về Tánh mạng mà qua Phật ư? Đó rõ ràng Khổng Tử chánh Phật cũng đã công hiệu vậy. Hàn Tử sao hẳn nghi ngờ đó? Lại nói: "Đó là Đạo gì?". Xin nói: "Đó, điều tôi gọi là Đạo, chẳng phải như vừa rồi chỗ gọi là Đạo của Lão và Phật vậy. Nghiêu lấy đó mà truyền cho Thuấn, Thuấn lấy đó mà truyền đến Vũ, Vũ lấy đó mà truyền đến Thang, Thang lấy đó mà truyền đến Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử. Khổng Tử truyền đến Mạnh Kha, Mạnh Kha qua đời không được truyền đó vậy.

Xét cứ văn đó của Hàn Tử là cho rằng: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Kha là chín vị Thánh Hiền đều nối tiếp tương kiến ở đời dùng nhân nghĩa mà cùng truyền trao vậy. Như Vũ và Thang, Thang và Văn, Võ, Chu Công; Chu Công cùng Khổng Tử; Khổng Tử cùng Mạnh Kha, sao được cùng thấy thân gần mà cùng truyền trao bẩm nhận ư? Buồn cười cho Hàn Tử đã căn cứ kinh truyện nào liền nói như vậy ư? Mạnh Tử nói: "Từ Thuấn, Vũ đến Thang cách hơn năm trăm năm. Từ Thang đến Văn Vương cách có hơn năm trăm năm. Từ Văn Vương đến Khổng Tử cách hơn năm trăm năm. Từ Khổng Tử mà đến nay (thời Mạnh Tử) có hơn trăm năm". Từ Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Kha, niên đại và đời cùng cách nhau xa vời đã như vậy, mà Hàn Tử chẳng nhìn lại Điển tịch, nhọc tôn trọng sở quyền mà muốn họ nói đó. Thắng mạnh mà không tỏ rõ điểm không thật của văn đó, được chẳng gọi là mạn loạn đó vậy, mà lời nói của Hàn Tử có thể còn tin ư? Luận Ngữ nói là Nghiêu đem thiên hạ truyền đến Thuấn, mới bảo đó rằng: "Bàn tính với Thuấn ông, lịch số của trời tại nơi thân ông, xứng đáng nắm giữ khuyết Trung". Thuấn cũng đem bảo cùng Vũ, mà Nghiêu, Thuấn, Vũ cùng trao đó vậy, chưa nghe chỉ truyền nhân nghĩa mà thôi. Đến như đời của nhà Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Kha, cũng đều dùng Trung Đạo Hoàng cực để cùng chiêu mộ mà tương thừa vậy. Trung Dung nói: "Thong dong Trung Đạo là Thánh nhân vậy". Mạnh Tử nói: "Trung Đạo mà lập, người có khả năng theo đó". Há chẳng vậy ư? Như đó chẳng tu thành, chẳng Trung chánh, người đó quả thật là nhân nghĩa ư? Như họ thành thật là trung chánh, quả thật mất Nhân nghĩa ư?" Hàn Tử sao chưa biết, phàm Thiện có gốc mà sự có yếu vậy, khuôn phép ngưng trệ nơi vết tích, chẳng rốt ráo Đạo sâu mầu của Thánh nhân ư? Hàn Tử thuyết vài mối đó, đại khái chỉ suy từ nhân luân thiên thường cùng với Pháp của Nho trị thế, mà muốn hẳn phá Phật thừa và Đạo giáo. Than ôi! Hàn Tử đợi giữ việc gần của nhân dân mà không thấy lý xa của nhân sanh, há mờ tối bên trong mà theo bên ngoài ư? Phàm, vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ nhờ ở thần mà sanh sống. Thần đó thói quen của Thiện ác mà cùng Thần đều biến, Thiện thì sanh nhân luân, ác thì sanh loại khác. Người đó có theo pháp hay chẳng theo pháp đều tệ một đời, mênh mông chưa từng biết thân họ đời nay sở dĩ như vậy. Cho rằng sống hẳn chết, chết mà bèn diệt, mới phóng túng tham dục khoái lạc ở một đời đó. Tuy bên trong tự khi, cũng chẳng biết thẹn đối với Thần minh vậy. Đến lúc Phật pháp dạy người, bên trong xét chẳng diệt, hẳn dùng Thiện pháp tu tâm, cốt yếu đời đời họ chẳng mất ở nhân luân, càng tu Thập Thiện bởi lấy ở Thiên luân, người ấy mới biết sở dĩ của việc muôn đời đó vậy.

Trên dưới hơn ngàn năm tại Trung Quốc mà không có Hiền ngu, không có sang hèn, cao thấp, bèn hợp nhiên dùng thuyết của Phật mà tự hóa. Như chưa toàn thiện mà cẩn trọng tội, kính trọng phước, tin có minh báo, thì đều biết Tâm đó không thể khi, đó thuộc gần như khắp thiên hạ. Nay khắp thôn xóm chỗ thấy nơi nơi, giả như Phật ở trên thành cao tường lớn, mở rộng cửa đó mà cùng người thông đồng qua lại đó. Như ở trong phòng rất tối, mà đất cao cửa song lên thì người ở trong và ngoài đều sáng rõ vậy. Sánh dùng Thi Thư mà vào Thiện, thì dùng thuyết của Phật để vào càng rộng càng lớn vậy. So dùng Lễ nghĩa tu thân, danh xứng với đời, mà dùng Thiện để tự tu bên trong nhập Thần thì thân thiết vậy, càng sâu càng xa vậy. So sánh đó chẳng phiền thưởng phạt ở nhà tự tu, đó cốt yếu giảm bớt hình pháp ở nước nhà mà ngầm hỗ giúp chính trị. Đó công hiệu nhiều vậy. Đây chẳng căn cứ mà không tỏ ngộ vậy. Còn kia giác ngộ phù sanh, cho rằng sanh tử là huyễn là mộng, mà xuất gia tu hành nghiêm khiết, dùng Đạo đức đó để báo cha mẹ làm trọng, chuyên cần của ngon ngọt làm khinh. Đó cũng là muôn phần trong sanh nhân mà một đó mới ấy vậy. Tuy nhiên, còn chế cho họ giảm bớt phần ăn mặc để nuôi dưỡng song thân đó, chẳng chấp nhận họ bỏ mặc cha mẹ vậy. Phàm, thiết giáo của Phật như vậy, họ đối với đời là Thiện ư? Hay là ác ư? Họ đối với nhân luân có mở mang lợi ích ư? Hay không tế ích ư? Họ cùng với Trị Đạo của Nho, Lý giáo đó có thuận chăng? Hàn Tử thuộc loại nên tham cứu sâu mà xa rõ đó. Giáo của Lão Tử, tuy pháp đó dần sâu mầu, nhưng so với Phật thì không bằng. Như họ dạy người vô vi, vô dục, điềm đạm, khiêm hòa, bởi xuất phát từ Đạo của Tam Hoàng Ngũ Đế, sao có thể cùng với Dương Tử, Mặc Tử gạt phẳng mà bài bác đó? Khổng Tử dùng Đạo Trung Chánh của Liệt Thánh, đoan chánh của thiên hạ làm Lỗ Xuân Thu. Họ thiện với người thiện đó, họ ác với người ác đó, chẳng hẳn ở Trung Quốc và Di Địch vậy. Xuân Thu nói: "Từ đánh Cử, Từ vốn là Trung Quốc ấy vậy". Đã bất thiện thì Di Địch đó. Nói người Tề người Địch cùng thề ở hình, người Địch vốn người Di Địch vậy. Đã thiện tức là Trung Quốc đó. Thánh nhân tôn quý Trung Quốc mà xem thường Di Địch, chẳng phải ở biên cương lãnh thổ mà cùng với người đó vậy, tại vì họ gọi là Thích Lý vậy. Nên nói: "Quân tử đó đối với thiên hạ, không vừa vậy, không chớ vậy". Nghĩa đó cùng sánh, như Pháp của Phật so ở đời Thiện, có thể gọi là Thuần thiện Đại thiện vậy. Ở tại Trung Đạo, đó có thể cùng ư? Có thể chống cự ư? Nếu chẳng dùng Trung Đạo của Thánh nhân mà chọn lựa thiện ác đó, chánh lấy bỏ đó, là người tầm thường riêng tư của thương ghét, không pháp, sao đủ nói ư?

QUYỂN 15

PHI HÀN TỬ

(Phần Trung)

BÀI HAI

Mới đầu thấy Nguyên Đạo của Hàn Tử, chỉ lấy Nhân nghĩa làm Đạo Đức, tôi cho rằng Hàn Tử như vậy là tuyệt nhiên, không biết Đạo đức của Nho vậy. Sau đó thấy luận "Bất Nhị Quá" của Nhan tử nói: "Thánh nhân ân chánh tánh của căn Thành minh, chánh Đức của Trung Dung". Lại dẫn ở Trung Dung nói: "Tự thành minh, gọi đó là Tánh, tự minh thành gọi đó là giáo". Lại nói: "Đều có nghĩa là không thể vô sanh ở tâm đó mà chẳng phô bày đó ở ngoài". Khảo xét đó ở Đạo của Thánh, thì sai lầm quá vậy. Phàm, Thành minh của Trung Dung, thật là cội nguồn của đạo đức, nhân nghĩa, trăm hạnh của Thánh Hiền vậy. Như thế, Hàn Tử hẳn cũng biết có Đạo đức của Thành minh-Trung Dung, cớ sao Nguyên Đạo vất bỏ đó mà không nói vậy? Cho rằng, người chẳng đủ biết Đạo đó ư? Cho rằng người hẳn chẳng thể chợt vậy ư? Hoặc đem dấu Thiện mà chẳng nói hết ư? Quân tử hẳn không thể dấu Thiện vậy. Đó hẳn Hàn Tử nhọc thấy Thành minh đó, Trung Dung đã nói mà Tâm chưa thông Lý đó ư? Nhưng Lý rất nhỏ nhiệm sâu mầu, tinh xét mà chẳng thấu đáo vậy. Trong số bảy mươi hai học trò của mình, Khổng Tử chỉ nói riêng điều đó cùng Nhan Uyên mà thôi, đó gần như ngõ hầu ư? Mà Nhan Tử thấu đáo đó, nên đó nói ít sai quấy. Nay Hàn Tử suy gốc ở Đạo đức Nhân nghĩa của Thánh nhân cùng người sao còn? Văn tự đó trước không mà sau có, tự cùng trái loạn. Đó có thể gọi là đã thấu đáo rốt ráo ư? Tâm chẳng đạt Chí Lý của Thành minh trung Dung, tuy càng biên thuật sách, có thể truyền lấy làm pháp ư?

BÀI BA

Hàn Tử lấy điều Khổng Tử gọi là "Chỉ có bậc Thượng trí và hàng Hạ ngu không chuyển đổi". Cùng với điều gọi là "người bậc trung trở lên có thể dùng nói trên vậy, và người bậc trung trở xuống, không thể cùng nói". Hàn Tử lấy Thượng ấy làm Tánh, mà biên thuật "Nguyên tánh" nói: "Phẩm của Tánh có ba, và điều dùng làm tánh đó có năm. Đó là gì? Phẩm của Tánh có ba bậc thượng, trung và hạ. Bậc Thượng ấy là chỉ Thiện mà thôi vậy; bậc Trung là có thể nói mà thành thượng hoặc hạ vậy; còn bậc Hạ ấy là chỉ ác mà thôi vậy. Điều dùng làm tánh đó có năm là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín. Người bậc Thượng đó chủ ở một mà hành ở bốn. Người bậc trung đó ở năm, một ấy chẳng ít có vậy thì ít kịp vậy, họ đối với bốn ấy hổn độn. Người bậc Hạ đó ở năm vậy, trái lại ở một mà bội nghịch ở bốn. Nói người bậc Thượng ấy là Thiện vậy, nên hay hành đạo của năm đó. Người bậc Trung là có thể nói làm thiện làm ác vậy, họ ở năm tuy chẳng lắm có cũng có thể tiến mà kịp đó vậy. Người bậc Hạ là ác vậy, họ ở năm là trái ngược mà chẳng thể làm đó vậy. Tánh đó ở Tình thấy phẩm đó, Tình đó ở phẩm cũng có ba bậc Thượng Trung và Hạ. Sở dĩ làm tình đó là có bảy, tức: mừng, giận, buồn, sợ, thương, ghét. Muốn bậc Thượng đó ở bảy ấy, động mà ở trong đó. Bậc Trung đó ở bảy, có chỗ lắm nhiều và có chỗ không có, nhưng mà cầu hợp chung đó vậy. Bậc Hạ đó ở bảy, mất cũng lắm, thẳng tình mà hành vậy. Nhưng, Hàn Tử nói thiện và ác như vậy, cũng đồng như điểm nói của Phật và Lão, mới đặc dị thuyết đó.

Phàm, Tánh đâu ở Phật và Lão ư? Mà người trong thiên hạ đều được, bởi Đạo của Chí Công ấy vậy. Sao có thể riêng đó mà ức thuyết ư? Ôi! Hàn Tử ghét Phật và Lão bèn dẫn đến dùng tánh mạng đó mà nói quanh co, sao quá thương ghét lắm vậy ư? Điều mà Khổng Tử nói "Chỉ bậc Thượng trí và hàng Hạ ngu không chuyển đổi" là nói có tài trí và thông minh, đồng thời ngu tối mà không biết của người vậy, chẳng phải nói về Tánh, Phàm, trí đó và ngu đó là thế thông bít của Tánh, chẳng phải gốc ngọn của Tánh. Còn tánh là tức ở vật linh mà có biết ấy vậy. Nay người linh trong thiên hạ, nhưng lợi đến thì biết chạy theo, hại đến mà biết lánh trốn, ai chẳng vậy ư? Đâu có riêng khác thượng hạ ư? Chỉ chỗ biết đó có xa gần, khả năng đó có ít nhiều, đó bởi thế thông bít mà khác vậy. Điều trong Luận Ngữ nói "Tánh tương cận" tức là nói Tánh đó thì đồng vậy; nói "Tập tương viễn" tức nói nhân học tập đó thì người có thiện ác khác biệt vậy. Sau đó mới nói chỉ bậc Thượng trí và hàng Hạ ngu là chẳng chuyển đổi, đó cũng là tiếp thừa hợp ý nói trước vậy.

Nghĩa là người chẳng tập làm bất thiện, điều đổi thay dễ, đó chỉ là bậc Thượng trí cao tài vậy.

Chẳng tập làm Thiện mà rốt cùng chuyển đổi cũng chỉ là hàng Hạ ngu tuyệt ngoan ấy vậy. Ngoài ra, không ai chẳng do sự học tập mà làm thiện làm ác vậy. Đó cũng là Thánh nhân thuần dốc ở khuyến giáo mà hóa đó vậy. Phàm, Thượng ấy là Thánh nhân, Hạ ấy là ngu nhân, Thiện ác là tốt xấu vậy. Tốt xấu cùng sanh đều sanh, mọi người đều có đó, há Thánh nhân chỉ có tốt mà ngu nhân chỉ có xấu ư? Nếu nói Thánh nhân và ngu nhân đều có tốt xấu, là thiện ác quân bình vậy. Đâu phải bậc Thượng chỉ là thiện, kẻ Hạ chỉ là ác ư? Hàn Tử hẳn cho rằng Thượng trí và Hạ ngu không chuyển đổi là người của bậc Thượng và Hạ tánh thiện ác đó mỗi mỗi đã định vậy. Sao Khổng Tử đã nói "Tánh tương cận, tập tương viễn". Nghĩa là tánh người chẳng sai vội. Lại nói chỉ bậc Thượng trí và hàng Hạ ngu là không chuyển đổi, nghĩa là thiện ác của tánh người, mỗi tự cố định. Đâu có lời nói của Thánh nhân mà trước sau chẳng cùng xứng, mà trái ngược như vậy. Không chỉ chẳng cùng xứng mà ước cũng chẳng phải chỉ bày giáo vậy. Cho rằng, lời nói của Thánh nhân là trái ngược có thể được chăng? Hàn Tử đọc sách chẳng tìm cầu ý của văn đó như thế nào, mới liền mạnh lời đó bèn lấy làm lập ngôn. Phàm, Nhân nghĩa Ngũ thường là Thiện của Tình người ấy vậy, mà Hàn Tử không xét biết, mới nói: "Sở dĩ làm tánh là có năm, đó là nhọc thấy Ngũ thường xuất phát từ nơi tánh mà bèn lấy làm tánh, rất không biết chỗ xuất phát của tánh ấy đều là tình vậy. Nay xin hỏi người ấy rằng: "Ông cho nhân ái trong Ngũ thường cùng với Ái của ái ố (thương ghét) trong Thất tình là đồng hay dị ư? Hẳn người ấy sẽ đáp là đồng vậy. Lại hỏi: Hiếu (ưa thích) của Hiếu Nhân nghĩa trong Ngũ thường, cùng với Hiếu của Hỷ Hiếu (vui thích) trong Thất tình là đồng hay dị ư? Đó hẳn đáp là chẳng dị vậy. Như thế, điều Hàn Tử nói là Ngũ là Thất, là thiện là ác há chẳng đều là tình ư? Đắm trước ở tình mà mới đầu xử đặt bên ngoài của tánh. Bậc thầy của Hàn Tử đó chánh là Khổng Tử vậy. Muốn làm sách, sao được chẳng xét lời của Thầy đó, mà sau mới phát ra liền làm sai lầm ư? Ý của Thánh nhân là như vậy. Nói tánh của Khổng Tử là nói nhân sanh mà tánh của trời tĩnh lắng, do cảm vật mà động dục của tánh vậy. Lại nói: "Tịch nhiên bất động", là do cảm mà bèn thông thiên hạ đó. Phàm, Nhân sanh mà tĩnh lắng, tịch nhiên bất động, đó đâu phải là tánh của người chỉ tịch chỉ tĩnh, nào từng có thiện có ác có phẩm đó ư? Phàm cảm động mà động dục của tánh, cảm mà bèn thông thiên hạ đó, há chẳng phải tiếp ở ngoài vật mới thành tình của thiện ác đó ư? Trung Dung nói: "Mừng, giận, buồn, vui chưa phát, gọi đó là Trung: phát mà đều Trung tiết, gọi đó là Hòa". Trung ấy là Đại bản của thiên hạ, Hòa ấy là đạt đạo của thiên hạ, đó cũng là thấy đủ ở nơi phần của Tình và Tánh vậy. Than ôi! Thánh nhân xưa trước họ nói tình tánh công hiệu rõ ràng như vậy, mà người đời sau chẳng tuân theo, đua tranh chuyên khác mà cẩu thả làm thuyết đó. Tuy muốn cầu khác lạ so với Phật và Lão, rất không biết quá trái nghịch lời nói của Thầy đó, mà làm loạn cả Đạo của Thánh nhân vậy! Dịch nói: "Lợi trinh chính là Tình Tánh ấy vậy". Nghĩa là Tánh là chánh, Tình là tà vậy. Hẳn dùng Tánh chế Tình mới là Trung chánh vậy. Về sau, người học mới không biết tánh đó, mới làm cuồng, làm nghịch, làm tà, làm nịnh, làm tham, làm hoặc, ít có người thành đức tánh ấy vậy. Đâu kham lập ngôn ban giáo, mới lại dùng tình dùng tánh chẳng biện rành chân ngụy mà truyền đó. Với người như thế, tôi sợ là ngu phu càng lầm hoặc vậy. Đạo của Thánh nhân sắp phế hủy vậy!

BÀI BỐN

Hàn Tử làm nguyên nhân, nói: "Hình ở trên Nhật Nguyệt muôn sao đều là trời vậy. Hình ở dưới cỏ cây sông núi đều là đất vậy. Mạng ở hai khoảng Di địch cầm thú đó đều là người vậy". Nếu nói vậy, tôi gọi cầm thú là người có được chăng? Nói chẳng phải vậy, chỉ núi mà hỏi đó có phải núi chăng? Nói núi có thể được vậy. Vì núi có cỏ cây cầm thú đều khắp có vậy. Chỉ một ngọn cỏ của núi, mà hỏi đó là núi ư? Nói núi thì không thể được vậy. Nên Thiên đạo loạn mà Nhật Nguyệt muôn sao chẳng được hành đó. Địa đạo loạn, mà cỏ cây núi sông chẳng được bình đó. Nhân đạo loạn mà Di Địch cầm thú chẳng được tình đó. Trời là chủ của Nhật nguyệt muôn sao, đất là chủ của cỏ cây sông núi, người là chủ của Di Địch cầm thú vậy. Chủ mà phô bày đó, chẳng được Đạo làm chủ đó vậy. Cho nên Thánh nhân chỉ một trông thấy mà đồng Nhân, dốc gần mà cử xa. Ôi! Hàn Tử cớ sao nói đó mà không biện rành vậy? Cho rằng: Hàn Tử khéo biên thuật sách, tôi không biết vậy. Kia ý họ cũng thuộc loại nào ư? Tế Thống nói: "Phàm, nhân sanh ở giữa khoảng trời đất, đó đều gọi là mạng. Muôn vật đó chết đều gọi là chiết, còn người chết gọi là Quỷ". Như Khổng Tử nói là chiết là Quỷ, bởi phân rành đó vậy. Người và cầm thú cỏ cây khác nhau vậy. Hàn Tử nếu nói vậy, tôi gọi cầm thú là người có được chăng? Nói chẳng phải vậy. Chỉ núi mà hỏi đó là núi ư? Nói núi có thể được vậy, vì núi có cầm thú cây cỏ đều khắp đó vậy. Muốn dùng riêng cầm thú đó và người, mà văn không phân rành, mà dùng dụ chẳng xác đáng. Ý của Hàn Tử, đó thật cho rằng người cùng với Di Địch cầm thú đều đồng Đạo của tánh mạng đó vậy. Chẳng thẳng nói đó mà hẳn muốn khác với thuyết của giáo khác vậy. Nhưng Hàn Tử như vậy mà khác, cũng như Thư Công phú mao nói: "Sáng ba mà chiều bốn, sáng bốn mà chiều ba". Quả nhiên sao có thể làm khác ư? Đó nói: người là chủ của Di Địch cầm thú, đó lại là hổn loạn mênh mông mà chẳng đủ để làm răn bảo vậy. Hàn Tử nếu cho rằng người là chủ của huyết khí, Di Địch kia cũng là người vậy, tự có thể làm chủ đối với cầm thú vậy. Sao được nói như cầm thú mà làm chủ đối với người ư? Nhưng cầm thú cũng chẳng phải người làm chủ đó vậy. Muôn loại mỗi mỗi tự có chủ của nó vậy. Người tự chủ đối với người lớn trong loại đó. Cầm thú cũng là tự chủ đối với vật lớn trong loại đó. Trong thiên hạ nào có cầm thú quen lờn với người mà làm chủ đó ư? Hàn

Tử kia nếu giúp đối với cầm thú Di Địch, cùng tôi đồng tánh mạng đó, muốn người chẳng phô bày đó vậy, làm nguyên nhân đó, đáng nên nói người là đồng sanh đó của cầm thú Di Địch vậy. Đồng sanh mà phô bày sanh đó không được, do đó làm Đạo của sanh vậy. Như thế thì ngõ hầu có thể ư?

BÀI NĂM

Hàn Tử làm Bản Chính, nói: "Chính của Chu, văn đó đã tệ vậy, đời sau không biết tiếp thừa đó để phô bày lớn về tiên cổ, bèn biên thuật của một thời làm sáng tỏ chỉ bày cho dân. Mới đầu, dân lầm hoặc giáo, thuyết của trăm nhà nổi dậy". Lại nói: "Nghe ở người thầy bảo: "Quân vương thời xưa từ trời xuống mà hóa đó, chẳng chỉ bày Đạo của họ sở dĩ hóa đó. Đến lúc Đạo ấy tệ thì lại đổi thay, chẳng chỉ bày Đạo của họ sở dĩ đổi thay đó". Chính dùng phải được, dân dùng phải thuần. Họ làm đó là biết chỗ Dao phế của giáo đó, đè ép hư dối quái lạ mà thỏa sướng Hoàng Cực. Nép phục văn mạo mà chuộng Trung chất, mịt mờ Thiên vận, sâu thẩm Thần hóa, Đạo đó hành hầu như đã vậy ư?"

Hàn Tử với thuyết đó há chẳng phải nhàm chán vì quá xấu của văn. Làm giáo đó có vết tích ấy vậy. Nhưng nói đó tợ như muốn thiên hạ như chính của Tam Vương dùng văn chất cùng cứu. Lại như muốn thiên hạ như Tam Hoàng dùng Đạo giản dịch lấy làm hóa. Nói đó không đầu mối bé nhỏ, khiến người học lầm hoặc đó. Hàn Tử nếu muốn như chính của Tam Vương, thì Tam Vương sao được chẳng chỉ bày Đạo của họ sở dĩ chính đó ư? Nếu muốn vô vi như Tam Vương, đó mịt mờ ở Thiên vận, sâu thẳm ở Thần hóa, thì thuộc loại như điều Lão Tử gọi là Đạo đức đó ấy vậy. Như Quân Vương thời xưa từ trời xuống mà hóa đó, mà chẳng chỉ bày Đạo của họ sở dĩ hóa đó là chẳng gì thạnh so như Tam hoàng Phục Hy, Thần nông, Hoàng Đế ấy vậy. Tam Hoàng là sư tông của Đạo Lão Tử. Hàn Tử đang chê cười Lão Tử cho rằng, Đạo đức đó mà làm lời nói riêng tư của một người vậy. Nếu thuyết của Lão Tử quả thật là riêng tư thì điều nói của Hàn Tử sao được làm công ư? Hàn Tử làm sách sao chẳng xét khảo, chẳng tư duy mà như vậy, khiến người học lấy gì khảo xét mà làm Pháp?

BÀI SÁU

Hàn Tử làm Nguyên Quỷ, cho rằng: Như Đinh Dân đó có phải lúc vậy, nên Nguyên Quỷ làm để biện giải đó vậy. Ôi! Quỷ sao hẳn nguyên ư? Khiến Dân không biết Quỷ đối với chính đâu tổn hại gì? Khiến Dân biết Quỷ, đối với giáo nào có ích gì? Quân tử thời xưa dùng Đạo biện hoặc để chính bình yêu, như thế mà thôi vậy. Xưa kia ở thời nhà Ân, chính tệ mà Dân đó dùng Quỷ, Tiên Vương lo lắng mà giết đó, vì Quỷ nghĩa là họ có lắm oai nghi tợ như phụng sự quỷ thần ấy vậy, huống lại là Nguyên Quỷ. Thật dùng Quỷ mà chỉ bày cho Dân, đâu phải pháp của Tiên Vương ư? Ngữ nói: "Chưa thể phụng sự người sao có thể phụng sự Quỷ thần?" Hàn Tử nói như thế chẳng chỉ trái nghịch đối với Đạo của Tiên Vương, ước cũng là mê mờ không hiểu ý của Khổng Tử. Sai lầm quá lắm như thế thay!

BÀI BẢY

Hàn Tử làm Hoạch Lâm (gặp được Kỳ Lân) giải rằng: "Lân xuất hiện hẳn có Thánh nhân đang tại vị, Lân vì Thánh nhân mà xuất hiện vậy. Thánh nhân hẳn là biết Lân, Lân quả thật không làm điều chẳng tốt lành". Đó nghĩa là Lân vì Khổng Tử mà xuất hiện. Khổng Tử biết Lân, Lân làm điều tốt lành, để giải thích về người ở xưa trước cho rằng

Lân làm điều không tốt lành ấy vậy. Điều Hàn Tử cho như thế sao đó chưa biết kinh vậy? Lân sở dĩ xuất hiện ở thời Xuân thu, nếu chẳng thể phát minh ý của Khổng Tử làm Xuân thu, thì dùng gì để giải hiểu Lân? Phàm, Lân, người học cũng có thể biện giải đó vậy. Khổng Tử là bậc Thánh nhân, đâu chỉ có thể biết Lân vậy? Nói Lân cho là Khổng Tử xuất hiện, là cẩu thả dùng lấy vọng thuyết của tạp gia, không kinh chứng cứ sai lầm luôn vậy. Hàn Tử vì biết Thánh nhân ca ngợi Lân, thì chẳng nhọc vì đó xuất hiện hay không xuất hiện vậy. Xưa kia, Khổng Tử nhân Lân mà làm Xuân Thu, bởi vì Lân, Phụng... tứ linh đại khái hệ thuộc với Vương Chính. Nên Lễ Vận nói: "Thánh nhân làm thì Tứ Linh lấy làm súc". Ở thời của Khổng Tử, nhà Chu dần suy, Vương Đạo đã tuyệt, có Lân mà không có Chính, Thánh nhân cảm vậy, bèn vì cứu giúp để còn ở Vương pháp, nên sách đó đã phát khởi ở đời Bình Vương mà tuyệt bút Hoạch Lân, mà Đổ Dự chú giải "Hoạch Lân", thuyết đó sức nát chẳng quyết.

Đã nói: "Lân là điềm tốt lành của Thánh Vương". Lại nói: "Thời đó không có Minh vương, cảm điềm tốt lành mà không ứng". Đã không có Minh vương, lấy gì để cảm Lân xuất hiện đó ư? Đó bởi Đổ Dự không có khả năng khảo xét ý xuất hiện hay không xuất hiện đó vậy. Trong Lễ Vận, Khổng Tử nói: "Chính của Thánh Vương đại thuận nên Phụng và Kỳ Lân đều ở nơi giao thủ, Quy và Long ở nơi cung chiêu". "Giao" nghĩa là nó chẹt ở Vương thành; "Thủ" nghĩa là rừng cạn của cây củi. Nghĩa là sở cảm của Đại thuận thì Lân Phụng chỉ như vật nuôi dưỡng vậy. Đó nói ở gần nơi khoảng cây củi của giao vậy. Đó cho là xuất hiện của Lân là như vậy. Tả Thị nói: "Tây thú đại dã hoạch Lân". "Đại dã" là đầm lớn của Lỗ vậy. Ở đó hoang vu xa rộng hiểm tuyệt, thấy mây mộng của Sở, thấy khắp đất của Ngô, đều là chỗ mà thiên Hạ gọi là mười tẩu ấy vậy. Nhưng núi sâu đầm lớn hẳn là nơi loài vật khác lạ ẩn phục. Lân không may bị người Lỗ tìm tòi mà gặp đó, đâu phải cảm mà tự xuất hiện ư? Nên tôi nói rằng: Lân chưa từng xuất hiện, hẳn nghĩa là đó làm xuất hiện của Lân vậy, thì trong Lễ Vận lời nói của Khổng Tử là sai lầm vậy. Thánh nhân đâu sai lầm vậy ư? Kinh nói: "Tây thúc hoạch Lân". Lân chẳng tự nhiên mà xuất hiện có thể biết vậy, bút tích của Thánh nhân như vậy, chẳng phải nghĩa là thiện đó vậy. Xuân Thu phàm xưng là "hoạch" tức là chẳng dạy riêng ở "Đắc" (= Được), bởi nghĩa là binh lính cứng mạnh được thắng vậy. Kinh nói: "Hoạch" là hệ của Tấn hầu ấy vậy". Nay nói "Tây thú" là bởi ghét đó chẳng phải thời mà phô bày vật vậy, nói "Hoạch Lân" là có gièm pha vậy. Với dị nghĩa là nói Khổng Tử sửa kinh Xuân Thu, lập ngôn làm pháp của Tố Vương, Lân mới ứng đó. Hoặc nói, hưng là làm tốt lành, mất là làm ương họa. Nghĩa là, Lân làm phù hợp điềm lành vâng thọ mạng của đời sau. Đó đều không thấy biên ghi ở trong kinh truyện. Nếu vì ức đoán lựa chọn, rất không đủ để lấy đó. Nghĩa là Khổng Tử làm Tố Vương, đó lừa dối Thánh nhân quá lắm vậy.

BÀI TÁM

Hàn Tử dùng ba sách tự dâng tiến cầu dùng ở Tể tướng. Tôi đọc đó, chưa từng chẳng lấy làm than thở. Ở đời cho rằng: Hàn Tử như bậc Hiền kế tiếp Thánh mà xuất hiện vậy. Tôi cho rằng: Thánh Hiền tiến thối nói nín cử động đều có sư pháp, chẳng nên cùng kẻ sĩ tầm thường đồng chìm nổi vậy. Kẻ sĩ thời xưa đều muốn dùng, chẳng phải Lễ đó chẳng cùng dùng đó. Quan Sĩ ở thời Tam Đại dùng thiên hạ mà tự nhậm, không ai như Y Duẫn, cuối thời nhà Chu, âu lo thiên hạ, không ai như

Khổng Tử, ở thời Chiến Quốc, muốn hành Đạo đó, không ai như Mạnh Kha. Tuy nhiên, đều dùng Lễ sính mà làm chính, chẳng nghe dùng sách tự cử mà yêu cầu dùng đó vậy. Lễ nói: "Nho có vật quý tốt ở trên chiếu để đãi sính, sớm tối gắng học để đợi hỏi, ôm hoài trung tín để đợi cử, dùng sức làm để đợi lấy". Ngữ nói: "Phu Tử ôn lương cung kiệm nhượng để được đó. Cầu của Phu Tử khác với cầu của mọi người ấy vậy". Trần Tử nói cùng Mạnh Tử rằng: "Quân tử thời xưa làm quan thế nào?" Mạnh Tử nói: "Chỗ đến có ba, chỗ đi có ba. Nghinh đón đó rất mực cung kính, vì có Lễ. Nói năng dẫn dắt, thật hành nói năng đó thì đến. Lễ mạo chưa suy, nói năng chẳng thật hành, thì bỏ đó đi... " Phàm, Thánh Hiền thời xưa đợi mà chẳng cầu vậy. Đợi như vậy mà chẳng cầu, bởi quý Nghĩa mà giữ Đạo. Sở dĩ vậy mà họ làm Thánh Hiền vậy. Hàn Tử đã chẳng thể giữ Đạo mà quý nghĩa như Thánh Hiền thời xưa vậy. Lại dùng sách mà tự cử đối với trên đó, hẳn hợp nghi cung kính lời nói đó, bình lắng khí đó, tự nói có thể vậy. Sao được vội vã vì phẫn hận, vội vàng chẳng phải chính trị của người ư? Khổng Tử nói: "Nói chưa kịp đó mà nói gọi đó là vội vã". Lại nói: "Nay người khổ nhọc phẫn hận định hẳn Hàn Tử suy việc của Chu mà so sánh chánh trị của thời đó". Chẳng phải đó không thấu đáo. Phàm thân chưa kịp ở ngôi vị mà liền cười chê chinh đó, chẳng phải vội vã ư? Tự cử chẳng được mà trách người, chẳng phải khổ nhọc ư? Phẫn hận ư? Nho Hành nói: "Tẩy thân mà gội đức, tỏ bày lời mà phục, tĩnh lắng mà chánh đó. Trên chẳng biết vậy, thô mà ngẩng lên vậy, lại chẳng gấp làm vậy". Tỏ bày lời mà phục đó nghĩa là Nho có chỗ tỏ bày nói, hẳn phục mà đợi mạng của trên. Tĩnh lắng mà chánh đó, nghĩa là tuy chẳng được mạng hẳn tĩnh lắng mà giữ đó, chánh chẳng vì khuynh tháo vậy. Trên chẳng biết, thô mà ngẩng lên vậy, lại chẳng gấp làm, nghĩa là tuy đã có khéo nói chánh hành, trên chẳng biết thì đồng nhan sắc đó sơ lược mà phát đó, chẳng hẳn gấp bày mà làm vậy. Thánh nhân nghĩa là như vậy, bởi muốn người tuân trọng lý mà xa nhục vậy, tuân trọng Lễ do đó làm Nho vậy. Hàn Tử kính mộ Khổng Tử, nghĩa là làm thuần Nho, mà chỗ làm đó trái với pháp của Thánh nhân như vậy, có thể gọi là thật Nho ư? Chẳng chỉ không thấu ở Nho, mà cũng sợ sai lầm người đời sau thất lễ mà chuốc nhục vậy. Sách của Hàn Tử mong muốn Triều đình nhân ban tước lộc cho mình để dẫn dụ khiến những kẻ sĩ đời sau di tật. Hàn Tử dùng lời đó đãi thiên hạ, sao cạn cợt mà sai lầm vậy? Trong thiên hạ hẳn cũng có các người chẳng rơi gặt ở nghèo hèn, chẳng sung gạt bỏ ở giàu sang, nhưng lại rất hay giữ Đạo ôm tiết, vượt mà quá Hàn Tử. Như truyền thuyết đồng bọn Gia Cát Lượng vậy. Truyền thuyết Gia Cát Lượng đâu chỉ nhân người mà vội lại, quanh co vậy để hướng đến lợi lộc ư? Đây còn lược nêu cử sự lớn thạnh thấy nghe nơi đời. Chủ thời đó có thể dùng Lễ nghĩa thành thật đến sính mà khiến đó có làm ấy vậy, huống gì có những người ẩn tích mai danh vượt khỏi vòng lưới đời ấy ư? Bởi có thấy phân nước như nhẹ bỗng mà không bề tôi, không quan sĩ. Như Thái Bá, Bá Di, tuy tước mạng gấp trăm mà còn trở lại khinh miệt đó. Hàn Tử sao có thể dụ mà khiến đó ư? Tôi sợ sách của Hàn Tử chưa hẳn có thể vì nước nhà lấy chí Hiền đó ấy vậy. Hàn Tử nói: "Người thời xưa ba tháng chẳng làm Quan thì cùng viếng thăm". Đó là dẫn sách của Mạnh Tử, ở cuối chương Đăng Tử Văn Công, mới đầu đáp câu hỏi của Chu Tiêu. Hàn Tử nhọc lược lời của Mạnh Tử mà chẳng thể dùng hết ý đó. Cuối chương đó, Mạnh Tử mới nói là: "Người thời xưa chưa từng chẳng muốn làm Quan vậy". Lại ghét chẳng do Đạo đó, chẳng do Đạo đó mà đến là cùng loại khoan dài huyệt hõm vậy. Ý đó chánh nghĩa là: Kẻ sĩ tuy gấp ở Quan vậy, cũng đợi mạng đó mà dùng, chẳng thể cẩu thả tiến tới mà cầu dùng vậy. Cẩu thả tiến tới mà cầu dùng là hẳn như nam nữ chẳng đợi lời bảo dạm hỏi của cha mẹ, khoan dùi huyết hõm cùng lớn trông, đạp vượt tường cùng theo nhau, làm chỗ hèn tiện của người ấy vậy. Nay Hàn Tử tự dâng tiến mà cầu dùng mới viện chương ấy của Mạnh Tử làm dụ, sao chợt tự rõ bày thất lễ mất nghĩa đó vậy thay? Tôi nghe người xưa muốn có chỗ ra mắt chỉ dùng Đồ lễ của họ mà dâng đi trước. Thiên Tử thì đồ lễ Hộp đựng cung, Chư hầu thì đồ lễ Ngọc, Khanh thì đồ lễ Dê, Đại phu thì đồ lễ Nhạn, Sĩ thì đồ lễ Trỉ. Cho nên Mạnh Tử nói: "Khổng Tử ra biên cương hẳn chuyên chở chất". Chẳng nghe dùng sách để ra mắt với người trên đó vậy. Bởi người đời sau cẩu thả làm đó vậy. Ở đời vua Hiếu Võ Đế (?) thời nhà Hán, các kẻ sĩ ở khắp bốn phương, như đồng bạn của Đông Phương Sóc... kiêu dối huyễn bán, bởi dùng sách mà tự tiến dâng, thiên hạ mới cùng học đòi, tự nhiên thành phong Mạnh Tử nói rằng: "Tự bán để thành Quân Vương, người tự tốt lành trong làng xóm chẳng làm". Mà cho là người Hiền làm đó ư? Nhưng mà ai từng lấy đó mà tự làm thẹn vậy?

Than ôi! Đời sau càng suy, phong giáo mỏng nhạt càng lắm, người học đem nghề cùng khoe, lấy tài năng làm ưu thắng, ngạo dối tự đại, ai chẳng như vậy. Ôn lương cung kiệm nhượng, Đạo đó gần phế. Đang lúc đó, Hàn Tử hẳn nên dốc sức hành Đạo của Thánh nhân, đem thân dẫn trước thiên hạ mà chánh phong tục đó, có thể vậy. Lại theo phụng sự việc ấy mà kiệu khoe phẫn hận vội vã càng thạnh, người học đời sau không biết căn bản, nhọc thấy sách của Hàn Tử mới cùng nói với nhau "Hàn Tử là bậc Đại Nho, chúng ta nên học đòi theo chỗ làm đó". Như vậy, chẳng chỉ tổn phong giáo đó, ước cũng hại tiết tháo của bề tôi đó, nhục thân người đó. Nên nói: Sách của Hàn Tử chẳng phải pháp, tôi không chỗ lấy đó vậy. Hoặc có người nói: "Ở thời của Hàn Tử, họ dùng Đạo của kẻ sĩ khác với thời xưa. Hàn Tử bởi nhân thời đó mà làm đó vậy. Hẳn như giữ Đạo của xưa đợi sính đó mà sau dùng kẻ sĩ. Đạo của Quân tử hẳn đến chết mà chẳng được hành đó vậy". Xin nói: Không phải vậy. Hàn Tử còn dùng Đạo của Chu Công mà trách cả Tể Tướng của thời đó. Ngay đó sao không nghĩ, đến thời nay so với xưa trước khác vậy? Không thể dùng Đạo xưa mà tìm cầu ở nay vậy. Đâu vì mưu tính tự thân tức cho là tùy thời, mà trách người tức cho rằng hẳn như Đạo xưa? Quân Tử quả thật như vậy mà làm ý ư? Nhưng sính lễ của kẻ sĩ đời nào không có đó? Ở thời Tiền Đường cũng còn nghe dùng Lễ mà ban chiếu mời người ẩn dật ấy vậy, đâu có bỏ sót Thánh Hiền mà chẳng sính ư? Ngữ nói: "Chớ lo không địa vị, chỉ lo sở dĩ lập, chẳng là không biết mình, cầu làm có thể biết vậy". Hạng người như Hàn Tử cũng nên suy nghĩ đó vậy.

BÀI CHÍN

Hàn Tử làm "Đối Vũ Vấn", cho rằng: "Vũ tuy đem thiên hạ mà truyền cho con, mà Hiền đó không phải là chẳng kịp Hiền của Nghiêu Thuấn truyền Hiền vậy".

Thuở thiếu thời, tôi biên thuật Bình Nhượng, mới đầu cũng lấy thuyết của Hàn Tử nói là Vũ truyền con. Về sau xét nghĩ đó, tức khảo cứu sách của Ngu Hạ, trọn không hề thấy thuyết của Vũ truyền Hiền hay truyền con, chỉ Mạnh Tử nói: "Vũ tiến cử Ích ở ngôi Thiên Tử, bảy năm sau Vũ băng hà, ba năm chịu tang hoàn tất, Ích trốn lánh con của Vũ ở phía Nam núi Kỳ Sơn. Kẻ chầu hầu ngục tụng chẳng đến nơi Ích mà đến nơi Khải nói rằng: "Con của Quân Vương tôi vậy!" Âu Ca chẳng âu ca Ích mà âu ca Khải rằng: "Con của Quân Vương tôi vậy!" Đến lúc kiểm chứng ở Sử, thì Hạ Bản Kỷ Thái Sử Công cũng nói: "Vũ đem thiên hạ trao cho Ích, Ích nhường cho Khải, thiên hạ bèn kính phụng Khải lấy làm Quân Vương". Đó mới rõ ràng Vũ chưa từng tự đem thiên hạ mà trao cho con vậy. Tuân Khanh, Dương Hùng tuy đều nói việc truyền trao, cũng chưa từng xưng Vũ tự đem thiên hạ trao cho con vậy. Nhân đó rất lấy làm quái lạ Hàn tử quá sai lầm, chẳng xét rõ kinh sử, liền làm nên lời đó. Giả sử cho rằng Hàn Tử cẩu thả lấy tạp thuyết của Bách gia cho rằng Vũ truyền thiên hạ cho con, mà Hiền đó chẳng giảm so với Hiền của Nghiêu Thuấn vậy. Lại cùng như điều nói ở Lễ Vận chẳng đồng vậy. Lễ Vận nói: "Đại Đạo đó hành, thiên hạ làm công là dùng thời đó làm Đại đồng. Nghĩa là Đại Đạo đã ẩn, thiên hạ làm nhà là dùng thời đó làm Tiểu khang". Mà nhà họ Trịnh giải thích rằng: "Thiên hạ làm công, nghĩa là truyền nhượng. Thiên hạ làm nhà, nghĩa là truyền ngôi vị cho con vậy". Phàm, truyền nhượng đã làm Đại đồng, mà lúc của nhà truyền mới là tiểu Khang. Mà Vũ nếu quả thật đem thiên hạ mà trao truyền cho con, họ làm Hiền vậy, sao được chẳng kém so với Nghiêu Thuấn ư? Hàn Tử tuy muốn nói Hiền của Vũ, mà trái lại đổi khiến chẳng Hiền của Vũ. Hàn Tử suy lường

Nghiêu, Thuấn, Vũ sở dĩ truyền trao, mà mới làm lời đó nói là "Truyền Hiền của Nghiêu Thuấn là muốn chỗ được của thiên hạ vậy. Còn truyền cho con của Vũ là lo loạn của thiên hạ tranh giành đó vậy". Lại nói: "Nghiêu đem truyền Thuấn làm lo cho đời sau, Vũ đem truyền con, làm nghĩ đời sau". Sao văn tự đó tản mạn, không hiểu phân mà như vậy ư? Nhưng được chỗ tức chẳng tranh, tranh tức không được chỗ vậy. Lo như nghĩ vậy, nghĩ như lo vậy. Họ làm nghĩa huấn cũng đâu có gì khác lạ ư? Đại khái, tranh đấu đó hẳn phát khởi từ riêng tư và bất bình vậy. Đã nói là Vũ muốn khiến đời sau không tranh giành, mới đáng chẳng truyền cho con đó. Đối với Lý và Sự làm được vậy. Đã trao truyền cho con, sao được cấm chế loạn chẳng tranh giành đó ư? Sau Vũ, đến con và cháu mới hai đời mà Nghệ bèn đoạt thiên hạ đó mà có đó. Cùng bọn Hàn Trác rối ren làm tuyệt chính của Hạ đến hai trăm năm. Thiếu Khang lập mới khôi phục chính của nhà Hạ. Kế tiếp Đạo của Vũ cũng vậy, chỗ gọi là không tranh giành ở đâu ư? Phàm, Vũ là bậc Thánh nhân vậy, há có Thánh nhân mà không biết nguyên do của khởi tranh loạn đó ư? Hàn Tử tuy cẩu thả làm thuyết đó, mà chẳng lụy đến Vũ ư? Ngữ nói: "Cao vợi Thuấn, Vũ có thiên hạ vậy mà chẳng cùng vậy". Ghi chú của Khổng thị xa vời hẳn chẳng đủ phát minh ý của Thánh nhân. Đó là Thuấn, Vũ, tuy có thiên hạ, chẳng phải riêng tư mà có đó, đều có nghĩa là thường có chỗ nhường vậy. Chẳng may truyền nhượng của Vũ, việc đó không thành quả, bèn mới trao cho con tương thừa mà có thiên hạ. Khổng Tử dùng Thế số đó mới xếp đặt Vũ ở đầu của Tam Đại. Nên Lễ Vận nói: "Vũ, Thang, Văn, Võ, Thành Vương, Chu Công do đó tuyển chọn vậy. Nhưng mà Nghiêu, Thuấn, Vũ đó thì chưa từng khác vậy". Phàm, thiên hạ là thiên hạ của thiên hạ, trao truyền Hiền trao hay truyền cho con, thì Thánh nhân đâu cẩu thả chuyện đó mà làm kế tính ư? Nếu như đang thời đó, người của thiên hạ muốn đem thiên hạ mà trao truyền bậc Hiền, mà Nghiêu Thuấn tuy muốn trao truyền cho con, cũng không thể được vậy. Đang thời đó, người trong thiên hạ muốn đem thiên hạ trao truyền cho con, mà Vũ tuy muốn truyền Hiền cũng không thể được vậy. Nên thời đáng trao truyền Hiền thì Thánh nhân hẳn trao truyền đó cho Hiền, thời đáng trao truyền con thì Thánh nhân chẳng thể không trao truyền cho con. Trao truyền thiên hạ của Thánh nhân đó chánh nghĩa là thuận ở thời số việc người mà thôi vậy, đâu có nghĩa là lo đó nghĩ đó làm cho đời sau gượng tính nghĩ mà khác với thiên hạ đó vậy? Nghiêu nói cùng Thuấn rằng: "Lịch số của trời ở tại thân ông". Thuấn cũng lấy đó mà nói với Vũ. Lễ nói: "Nghiêu trao cho Thuấn, Thuấn trao cho Vũ, Thang phóng tha Kiệt, Võ Vương đánh Trụ, cũng là thời vậy". Cho nên Dịch nói: "Thiên hạ tùy theo thời, nghĩa đó lớn thay!". Thuyết của Hàn Tử không kê cứu, nào từng được như ý trao truyền của Thuấn Vũ ư? Than ôi sai lầm thay!

BÀI MƯỜI

Hàn Tử được cử đày đến Hồ Châu, mới tấu thư tạ Thiên Tử, nhân ca tụng Thiên Tử phong truyền đó, cho rằng chính mình có khả năng văn chương có thể chấn tích công đức biên ở Thi, Thư mà chẳng nhường như người xưa.

Tôi trộm cười Hàn Tử phát bày khinh suất mà việc chẳng cứu xét. Phong thuyền thời xưa là Đại Điển của nước nhà, là việc lớn của Đế Vương. Bề tôi và con lúc bình còn có thể khiến người chủ vội làm, huống hồ ở lúc bài xích xua đuổi so le mà liền nói đó? Hàn Tử đâu có thiện để tự hợp nghi đó ư? Như Lục Chí làm Tể tướng bị truất phế đến ở Trung châu mười năm, đóng cửa dứt tuyệt việc người, chẳng lại làm sách riêng, chí chẳng chỉ hay cẩn trọng mà cũng biết đó tự chẳng đáng dự việc của Triều đình. Lục Công có thể gọi là nhận biết Đại thể vậy. Phàm, Phong Thuyền chẳng phải việc của Nhị Đế Tam Vương, nó được bắt đầu từ đời Thủy Hoàng (Doanh Chính 246-209 trước tây lịch) thời nhà Tần, mà rất lắm ở đời Hiếu Võ (?) thời nhà Hán. Việc ấy thế hùng tốn phí rất lắm, bởi trăm cự vạn. Lễ độ cùng với điều xưa trước nói là Thượng đế trông nhìn núi sông đâu bình đẳng ư? Đương thời, các Nho sĩ tuy dẫn nghĩa của Thuấn điển, đến nơi Đại tông sài vọng trật ở núi sông để truyền hợp thuyết đó, tợ như phải mà quấy, rất không được thật. Lại việc Quản Di Ngô đối đáp lời nói phong thuyền của Tề Hoàn Công, đó cũng chẳng phải xuất phát từ sách của Nhị Đế Tam Vương vậy. Hán thư ca ngợi Nghê Khoan bàn nghị phong thuyền nói: "Nhưng đó dâng cử nghĩa hưởng chẳng biên thuật ở Sách". Đúng là ấy vậy. Xưa kia, Thái sử Công tuy lấy đó làm sách, bởi lánh đang thời đó nương theo trái ngược, chẳng dám châm đốt phải quấy. Đệ nói: "Tôi theo tuần xét trời đất các Thần danh sơn mà phong thuyền vậy". Trở lui mà luận thứ tự từ xưa lại, người dùng việc Quỷ Thần thấy đầy đủ trong ngoài đó, sau có

Quân tử được mà xem xét đó. Đến Ban Cố bàn nghị luận về giao kỷ đến Phong Thuyền, hoặc có thể hoặc chẳng thể, cũng chẳng châm đốt phải đó quấy đó. Chỉ suy tấu làm chánh của Cốc Vĩnh, đời sau nên có bậc Hiền nhận biết trội vượt cứng rắn suy chế độ của Nhị Đế và Tam Vương, chiết trung việc cũ của Tần Hán để đợi người làm Phong thuyền ở đời sau có thể vậy.

Tôi từng bùi ngùi các bậc tiên Nho như bọn Dương Tử Vân, nhọc khéo biên thuật sách phải quấy xưa nay muôn đời mà rốt cùng chẳng kịp đó. Văn Trung Tử tuy có phân biện luận đó, muốn cảnh răn phong thuyền của thời nhà Tùy mà thuyết đó rất lược ở hòa mục. Đời sau như có công đức chẳng xứng đáng phù hợp tốt lành chưa thấu đáo liền đem Pháp đó mà cẩu thả làm đó, họ lấy gì làm chất đó ư?

Hàn Tử bình sanh tự phụ, cho rằng có khả năng chuyên Đạo của Nhị Đế Tam Vương, mà khéo bài xích sai vọng của Bách gia xưa nay. Sao được một Triều đình vừa bị truất phế là tự suy bại sai lầm, trái lại dùng hùng hào xa xỉ khoe dối của Tần Hoàng, Hán Võ để phụng sự Quân Vương đó ư? Hàn Tử chỗ giữ đó như thế nào ư? Giả sử khiến Quân Vương đó hơi có Công đức có thể phong thuyền vậy, cũng còn nên khám chước so sánh với thời của vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời Tiền Đường, mà sau mới cử đó. Văn Hoàng Đế ở thời tiền Đường đã dẹp loạn, chân hưng Vương đạo, bình trị đến mấy trăm năm; công đức sùng thịnh đó có thể sánh cùng Vũ, Thang, Văn, Võ vậy. Tùy Văn Đế và Cảnh Đế (Văn Đế-Lưu Hằng 179-156) Cảnh Đế-Lưu Khải 756-740 trước tây lịch) thời Tây Hán còn sợ đó chẳng đủ dự chỗ đó có như thế. Thái Tông thời tiền Đường còn không dám bàn nghị phong thuyền, nên nói: "Như thẩm bản Tâm chỉ khiến thiên hạ thái bình, tuy khuyết phong thuyền cũng có thể sánh đức Nghiêu Thuấn.

Nếu trăm họ chẳng đủ, tuy tu phong thuyền cũng nào khác gì Kiệt Trụ. Xưa kia, Thủy Hoàng thời nhà Tần đăng phong Đại Tông xa xỉ tự kiêu, còn Hán Văn trọn chẳng đăng phong, tự thân thực hành kiệm ước. Nay đều gọi Thủy Hoàng là chúa bạo ngược, mà Hán Văn là Quân Vương có đức". Do đó mà nói: Không gá mượn Phong Thuyền, vua Thái Tông thời tiền Đường, có thể xưng gọi là Quân Vương có Đạo của Thánh Hiền ấy vậy. Mà ở thời Chương Võ (?), trị Đạo công đức đó phù hợp tốt lành, đó ưu thắng so với Thái Tông ư? Cũng sợ chẳng kịp mỹ phong của trong niên hiệu Trinh Quán (627-650) xa vời vậy. Mà Hàn Tử là muốn phong thuyền đó, sao đó chẳng nghĩ suy quá lắm vậy? Nhưng mà văn phong thuyền của Tần Hán đâu chuyên bỏ họ thành công so với trời đất ư? Mới mến mộ Thần tiên, cầu trường sanh để mãi sống thọ mà làm đó ấy vậy. Cho nên sách đó nói: "Phong thuyền tức Hoàng Đế bất tử đó vậy". Lại nói: "Thượng phong thì có thể Tiên lên trời vậy".

Cuối niên hiệu Nguyên Hòa (821) thời Tiền Đường, Thiên Tử (Hiến Tông-Lý Truân 806-821) mới lầm hoặc thuyết Thần Tiên trường sanh, dẫn Phương sĩ Liễu Bí ăn bánh bột kim đan đó mà làm lo hoạn rất lắm, huống lại suy Tần Hoàng, Hán Võ muốn trọng đó? Hàn Tử cử việc đó thấy cơ hồ, đâu gặp bài xích xua đuổi cùng quẩn đó, muốn người đẹp chủ để tự cẩu thả giải khỏi ư? Trung Dung nói: "Quân tử trong trắng ngôi vị đó mà hành, chẳng mong ở ngoài đó, trong trắng giàu sang mà hành ở giàu sang, trong trắng nghèo khó mà hành nghèo khó, trong trắng Di địch mà hành Di địch, trong trắng hoạn nạn mà hành hoạn nạn. Quân tử không vào mà chẳng tự đắc vậy". Đó nghĩa là chỗ hướng cẩu thả chẳng mất lý đó, đều có thể an đó, mà không vì sủng nhục họa phước loạn chí đó vậy. Rõ ràng, phàm, Quân tử hay dùng Trung Dung mà khác so với Tiểu nhân vậy. Xưa kia, Tôn Thúc đi chơi ở Sở, ba lần đến ba lần bị đuổi mà không tỏ vẻ mừng giận. Bạch Cư Dị bị đuổi đến ở Tầm Dương, chẳng vì đổi dời biến trách đó mà để ý. Hai ông ấy như thế, bởi cũng dùng Trung Dung mà tự xử vậy. Hàn Tử đã mạnh dạng ở nói việc, mới bị giáng xuống làm Quận Lại, mà cử động vội vã vọng kiêu khéo ta thán, chẳng thể thiếu an. So với Tôn Tử, Bạch Lạc Thiên thì vẫn còn xa vậy!

BÀI MƯỜI MỘT

Hàn Tử cùng Phùng Túc Thư luận văn, cho rằng người không biết văn đó, bèn tự sánh với Dương Tử Vân lúc làm Thái Huyền dẫn lời nói của Hùng rằng: "Đời không biết ta không hại vậy. Đời sau lại có Dương Tử Vân có thể tán thán vậy". Nhưng mà Tử Vân đã chết cách đó cả ngàn năm, vậy làm gì có Dương Tử Vân ca ngợi vậy. Thời đó, Hoàn Đàm cũng cho rằng sách của Hùng hơn Lão Tử, vì Lão Tử chưa đủ Đạo vậy. Tử Vân đâu chỉ cùng Lão Tử tranh giành biên cương mà thôi ư? Đó chẳng là biết Hùng có đệ tử là Hầu Ba Phả biết đó, lấy làm sách của Thầy đó hơn Chu Dịch, nhưng trong văn khác của Hầu Ba Phả không thấy ở đời, không biết người đó quả thật như thế nào. Lấy đó mà nói làm là không mong cầu chỗ biết của người rõ ràng vậy. (Trên đây đều là văn của Thối).

Tôi thấy đó mà chưa từng chẳng vỗ sách mà vì than thở đó. Nghĩa là, Hàn Tử đáng bậc Hiền ư? Sao làm lời đó dễ dàng vậy? Phàm, Thánh nhân sở dĩ biên thuật sách, đâu cùng người mà tranh giành biên cương ư? Thánh Hiền chỉ sợ Đạo chẳng tỏ sáng mà người chẳng bình trị, nên làm sách đó muốn truyền Đạo đó vậy. Đâu có ý cùng người tranh giành biên cương? Chẳng tranh giành mới có chỗ làm vậy. Phàm lấy chỗ làm đó mà cùng người muốn tranh giành biên cương đấu thắng. Đó đặc biệt là chỗ chuộng của lưu tục, khiến khí chẳng buông tuồng vậy. Thánh nhân như vậy mà làm đó thì cách mọi người nào xa ư? Đạo đó thấu đáo (= chí), tự chẳng thấu đáo của hình người, nói đó là tự chẳng phải của hình người. Người đó có biết bèn tự phục mà tôn quý đẹp xinh vậy, đâu có tranh giành đó mà được người tôn quý đẹp xinh ư? Từ xưa, biên thuật sách mà văn chương đó sáng rỡ hòa nhã như vậy thì ai bằng Khổng Tử? Mà Khổng Tử nói: "Văn chẳng phải tôi mà như người vậy". Thánh nhân đâu dùng Đạo đó mà cẩu thả hơn ư? Trung Dung nói: "Khoan nhu dùng giáo, chẳng báo không Đạo. Cường ở phương Nam là Quân tử ở đó". Đó đâu vì tranh giành đó mà làm mạnh ư? Ngữ nói: "Do ấy gồm người, nên hừ đó". Đó là Thánh nhân đâu muốn Nho sĩ mà cùng người tranh giành biên cương ư?

Hàn Tử học Nho, làm lời chẳng thuộc loại pháp đó, cũng chẳng sai lầm người học đời sau ấy vậy. Như sách của Lão Tử, chỗ phát minh đó là Đạo đức của Tam Hoàng Ngũ Đế ấy vậy. Văn đó ước lược mà rõ ràng. Lý đó giản đơn mà thấu đáo. Phương thức trị quốc trị gia, tu thân dưỡng thần, pháp cách xuất sư dụng binh, Đạo của trời đất biến hóa, không gì chẳng đầy đủ đó vậy. Khổng Tử từng theo việc mà học hỏi người, đó đâu chẳng dùng đó như vậy. Mà Lão Tử đâu đổi hơn đó ư? Lại nữa, huống hồ điều chuộng lấy chẳng tranh giành làm đức vậy. Tử Vân bình sanh học hỏi ở người Thục, nghiêm tuân quân bình, nên Pháp ngôn đó thạnh xưng ở quân bình. Quân bình là trị của Lão Tử ấy vậy. Đến lúc Tử Vân làm Thái Huyền, mới đem một sanh ba mà làm bản sáng chế, đó cũng là tham tầm điều mà Lão Tử gọi là "Một sanh hai, hai sanh ba, ấy vậy (Thuyết ấy thấy Thái Huyền giải nghĩa). Cho nên Tử Vân nói: "Nói Đạo Đức của Lão Tử, tôi có lấy ấy vậy". Tông bản của Hùng thư đã phát xuất từ Lão Tử, mà cho rằng Huyền hơn Lão Thị, đó cũng là chưa tư duy vậy. Nhưng Hoàn Đàm đâu từng hay biết Tử Vân ư? Mà Hàn Tử mới viện lời của Hoàn Đàm? Đúng là đáng cười vậy! Mới lại nói: "Đệ tử đó là Hầu Ba Phả biết đó, lấy làm sách của thầy đó hơn Chu Dịch". Đó lại là Hàn Tử quá sai lầm vậy. Như Thái Huyền của Hùng, thiết bày Phương Châu bộ gia bốn địa vị, là Tứ Tượng Lục Hào của Dịch vậy. Bày tám mươi mốt bài chính là sáu mươi tư quái của Dịch vậy. Hai trăm bốn mươi hai biểu còn có mà chẳng biên ghi hết là y theo khẩu quyết của Chu Võ vậy. Bày bảy trăm hai mươi chín tán là ba trăm sáu mươi Hào của Dịch vậy. Bản đó chẳng xuất từ Âm Dương nhị nghi. Sanh khắc đó chẳng xuất từ số của bảy, tám, chín, sáu, năm, hàng; kỷ cương đó chẳng xuất từ Đạo của Tam cực, mà sách của Hùng đại để nhờ từ Dịch mà thành đó vậy. Pháp ngôn đó nói: "Việc đó thì thuật, sách đó thì làm". Hán Thư xưng Hùng cũng nói: "Lấy làm kinh chẳng gì lớn so với Dịch, nên làm Thái Huyền đều châm chước bản đó, cùng cho buông nương mà rong ruổi... ' Tôi từng trị Dịch, được số của Tứ tượng Bát quái đó. Phàm chỗ còn của Huyền là Lục khí, Ngũ hành, Tam tài, Thất chính, Tứ thời, mười hai tháng, hai mươi bốn Tiết, bảy mươi hai Hầu, năm kỷ, năm phương, năm thần, năm Ân, mười hai luật, chín cung, mười ngày, mười hai thời, không gì chẳng gồm suốt đó, bởi Thánh nhân ngậm chương thiên có bí mà chẳng phát đó. Đến thời nhà Hán mà bọn Tiêu Cống, Kinh Phòng liền phân Hào trực nhật, mà đạo của Dịch bèn lộ bày. Tử Vân bởi được ý phân Hào của họ Tiêu vậy. Lại tham đó để lẫn pháp của trời, nhưng đó khéo léo nghĩ suy số, tự khởi đầu mối đó làm Địa vị, làm Đầu, làm tán để kiềm ở một năm. Học đòi Dịch để chiêm đoán việc của trời người, đó là Hiền ấy vậy. Phàm, Dịch là vốn từ Hà Đồ Lạc Thư làm thành đó. Bởi trời đất tự nhiên là Pháp của Chí Thần, chẳng phải sáng chế của Thánh nhân. Nhưng chẳng phải Thánh nhân cũng không thể phát minh đó. Tuy thời thế đó trải qua Tam cổ tịch Thánh nhân phát huy là có chín người, nhưng chỉ có Phục Hy, Văn Vương, Khổng Tử là sự nghiệp rất hiển trước. Như Sách của Tử Vân mới đầu xuất phát thế nào mà sao được đó? Người làm sách đó sau mà cũng đòi giống như ở Phục Hy, Văn Vương, Khổng Tử ư? Nhưng pháp của Huyền xuất phát từ ý người tư duy kinh doanh đó khiến vậy, cùng với Đạo của trời đất tự nhiên hẳn không thể đồng ngày mà nói vậy. Hiền của Tử Vân chẳng kịp Phục Hy, Văn Vương, Khổng Tử, tuy trẻ nhỏ cũng biết đó ấy vậy. Mà Hàn Tử lấy Hầu Ba mới tạm biết đó mà cho rằng Huyền hơn Dịch, sao lầm hoặc đó quá lắm vậy! Tấn Thư nói là: "Vương Trường Văn từng biên thuật sách đề là "Thông Huyền", có văn ngôn giải tượng, có thể dùng bói thệ. Người thời bấy giờ so sánh đó với Thái Huyền của Dương Hùng". Đó có thể cho là hơn Dịch ư? Hầu Ba kia còn không biết điều tố thuật của bậc Thầy đó, sao vọng làm thuyết đó bít ép kinh của Thánh nhân, loạn chí người học ở đời sau chẳng phải việc nhỏ vậy. Đó đủ để biết điên cuồng của Hầu Ba, ngu sao lắm vậy! Chẳng cần đợi thấy ở văn khác, mà cũng đủ biết người ấy vậy. Hàn Tử đối với đó đáng phải biện giải bài xích đó, để tôn chứng Đạo của Thánh nhân có thể vậy, mà trái lại theo phụng sự thuyết đó, cẩu thả dùng nhờ đó mà tự kiêu. Nho sĩ quá đáng vậy ư?

Tôi sợ dùng văn tranh giành cưỡng mạnh mà hậu sanh tập học làm khinh bạc, mọi người không đức liêm kính, chưa hẳn từ Hàn Tử làm đầu mối vậy. Tôi từng cho rằng: Dương Tử nhân Dịch để làm thành sách, chỉ gọi là Thuật thì có thể vậy. Không nên làm kinh tự làm chủ thuyết đó cùng với Đại Dịch chống kháng hành. Lại nói: "Khổng Tử chỉ thuật mà chẳng làm, tin mà ưa chuộng xưa, trộm sách với Lão bành ta". Trọng Ni còn chẳng dám làm, mà Tử Vân mới làm đó ư? Hán Thư nói là: "Các Nho sĩ gièm pha Dương Tử chẳng phải Thánh nhân mà làm kinh". Bởi cũng vì đó chẳng thể tôn trọng gốc vậy. Sao lại dùng sách đó mà cho là hơn Dịch để trọng Nho, đó cùng trái vậy ư?

BÀI MƯỜI HAI

Hàn Tử vì dâng tấu sách bài xích Xá-lợi Phật, bị tội biếm đày đến ở Hồ Dương, thuyền đi qua Hồ Động đình, sợ bị trách phạt chết, mới cầu phò hộ ở miếu Nhị phi ở Hoằng Lăng. Hàn Tử cho rằng: Vừa rồi đó Thánh Hiền chánh trực chẳng theo tà bài xích cốt Phật sao vội xin Linh ở Quỷ của người nữ ư? Ngày trước Khổng Tử mắc bệnh, Tử Lộ xin cầu đảo, Khổng Tử bảo: "Tuổi thọ của Khâu tôi lâu dài vậy". Phàm Thánh Hiền mới tự tin thành tố đó hợp với trời đất thần kỳ vậy, chẳng đợi khấn đảo mà cầu phước. Hàn Tử cầu đảo đó, vậy cũng có chỗ chưa hợp ư? Đến lúc được trở về, Hàn Tử mới xuất tiền của sửa sang miếu đó. Dùng đủ lễ vật cúng tế đó, làm sách ghi chí việc đó. Phàm, miếu ở Hoằng Lăng xưa nay tương truyền rằng "Hai Phi theo Thuấn đi tuần phương Nam, thấy con mèo Đạo chết bèn chôn ở núi của Động Đình, do đó mà làm miếu vậy". Nhưng đó chỉ là thế tục tương truyền, tuy hơi có chỗ thấy, nhưng đều hoặc là Từ, là Chí của Tạp gia, chẳng phải biên ghi đầy đủ của Lục nghệ. Thuấn Điển chỉ nói: "Trắc phương mới chết". Đàm Cung chỉ nói: "Thuấn an táng ở đồng trống của Thương Ngô, bởi hai phi chưa theo đó vậy". Ở sách khác hoặc nói là hai phi an táng ở Hành sơn, hoặc nói núi Động Đình là nơi hai phi ở, vì là con gái của Thiên Đế vậy, chẳng phải Phi của Thuấn vậy. Hàn Tử tự phụ học kinh, làm học trò của Thánh nhân, ngay đó nên chấp để chánh sự nghi ngờ sai lầm của đời đó có thể vậy, trái lại theo phụng sự đó mà càng làm thuyết đó. Khổng Tử nói: "Đó chẳng phải Quỷ mà cúng tế đó, là xiểm nịnh vậy". Hai Phi sự việc đó chưa chánh, lại chẳng phải Tổ nể của chính mình, mà Hàn Tử phụng sự đó. Hàn Tử không tin Phật mà mới gặp phải khiển trách việc hủy xá-lợi Phật, sao cẩu thả muốn phước của Quỷ thần ấy như vậy? Mà chẳng sợ lời nói của Khổng Tử ư?

BÀI MƯỜI BA

Hàn Tử làm văn Bia miếu Khổng Tử ở Xử Châu, đem Long khí trong câu nói về Xã tắc của Khổng Tử mà so sánh với phong ước của Tế lễ đó. Cho rằng, Khổng Tử dùng Đức được tế thạnh, lễ hơn so với Xã Tắc cùng với Cú Long khí". Ngôn từ đó viết rằng: "Chỗ ngôi vị đó chẳng ốc (nhà) mà là Đàn. Há Khổng Tử dùng việc Vương giả cao vợi đáng ngồi, dùng môn nhân làm phối từ Thiên tử mà xuống, xoay mặt hướng Bắc bái quỳ dâng tế, tiến thối thành kính lễ như người thân, đệ tử... Phàm, Xã tắc là dùng khí chánh của thấu đạt trời đất đó, dùng chẳng phải ốc mà là Đàn làm tôn quý. Chỉ mất Xã tắc của nước mới ốc, bày tuyệt Dương mà thông Âm giới đó vậy. Nên Xã tắc ốc đó là nhục đó vậy. Hàn Tử muốn dùng không ốc của của Xã tắc cùng Khổng Tử mà sánh vinh đó, sao đó không biết kinh đó như vậy ư? Phàm, Phu Tử là tự lấy giáo đó làm Tiên thánh của Nho sĩ, hẳn đáng hưởng lễ của Thích Thái, Thích Điện, sao có thể dùng Cú long khí... sánh công đức ư? Đó lại là Hàn Tử bình luận quá sai lầm đó vậy!

QUYỂN 16

PHI HÀN TỬ

(Phần Hạ)

BÀI MƯỜI BỐN

Hàn Tử làm Hành trạng tặng Giáng Châu Thứ sử Mã Vị nói rằng: "Tử đồ Công qua đời, Mã Vị chích cánh tay lấy máu viết kinh Phật hơn ngàn lời, mong để báo đáp ân đức". Lại nói: "Đó sống chịu tang quá hơn hạnh người". Lại nói: "Dũ đã ở đời Thông gia, rõ nghe thế hệ sự nghiệp đó, theo cầu thỉnh của Thiếu phủ, bèn gom nhặt phần lớn đó mà làm Hành trạng, mượn gá lập ngôn ở Quân tử mà đồ tính bất hủ đó vậy".

Mã Vị là con cả của Bắc Bình Vương Tư đồ Mã Toại. Tư Đồ Công (Mã Toại) qua đời, lúc tang cha đó, Mã Vị chích cánh tay lấy máu viết kinh Phật, đó là ở Hàn Tử đang biện giải mới theo mà ngợi ca đó. Hàn Tử gần như mới đầu có biết kinh Phật ư? Phàm, đức của cha mẹ như trời cao lồng lộng, mà ai có thể báo đáp đó? Nay nói là "mong để báo đáp ân đức", Hàn Tử đó mới biết Pháp của Phật có chỗ thấu đáo ư? Nói: "Đó sống chịu tang quá hơn hạnh người", đó cũng cao đó hay thực hành việc của Phật vậy. Nói "gom nhặt phần lớn đó để làm Hành trạng, mượn gá lập ngôn ở Quân tử mà đồ tính bất hủ đó vậy". Ấy là Hàn Tử cũng muốn người đều khuyên mà theo sự ở Phật ư?

Tôi xét Hàn tử lúc làm Hành trạng, tuổi đã 3435, lập triều gần làm Bác sĩ Ngự sử vậy. Hàn Tử tự cho rằng: Vốn đọc sách biên thuật văn, như học của Dương Tử, Mặc Tử, Lão tử và Phật không chỗ vào tâm đó. Đến đó mới ngợi khen Mã Vị làm việc của nhà Phật. Đâu phải Hàn Tử đã lớn mạnh, tinh thần sáng thạnh, mới bắt đầu thấy Đạo lý mới giác ngộ chỗ làm thấu đáo của thuyết nhà Phật ư? Về sau đó, tuy cũng có biên chép về Phật (như việc biên cốt Phật vậy), nhưng gần như bên ngoài chuyên Nho để bảo hộ danh đó, mà bên trong trọn im lặng trọng Đạo diệu đó ư? Không như vậy sao thấu triệt đến Lão, dùng Đạo Lý cùng Đại Điên, cùng ngợi khen đó ân cần như kia vậy? Phàm, Phật là đấng chí Đại của người. Đó có thể phá hủy ư? Phá hủy đó vừa đủ để tự tổn, còn đối với Phật nào thương hại gì? Tuy nhiên "Nguyên Đạo" trước ruồng bỏ Phật, sao đó thái quá, mà Hành trạng suy Phật sao đó chuyên vậy? Hàn Tử hẳn cũng chẳng thường Đức đó vậy (ghi chú: Hàn Tử làm Tiến Học giải, cho rằng Dương Tử đó bài xích Phật giáp Lão giáo vậy, nên làm Nguyên Đạo để đối lại trước vậy).

BÀI MƯỜI LĂM

Tôi đọc Đường Thư, thấy trong đó có nói Hàn Tử cùng Lý Thân tranh giành Đài Tham, chuyển dời Điệp qua lại luận sự thể của Đài Phủ, mà thấy Tánh của Dũ bướng ngạnh, ngôn từ chẳng khiêm tốn, rất huyên hoa vật luận. Đến lúc thấy luận của Hàn Tử về "Kinh Duẫn bất Đài tham" để đáp thư của người bạn mà hơi khí đó vội vã, ngôn từ gắng gỏi tranh giành đó vậy.

Ôi! Hàn và Lý đều là Danh thần của thời tiền Đường, sao trong khoảng hành sự của họ là như thế? Điển cổ ngự sử Đài của thời tiền Đường thì nắm giữ Hình hiến Điển Chương của nước nhà, mà túc chánh Triều đình đó vậy. Kinh Triệu Phủ, tuy là chỗ cai quản thuộc Thần Châu Kỳ Huyện, nhưng đó thật là sự thể của một Đại Châu mục vậy. Đem Đài phủ đó mà so sánh thì Đài trọng hơn Phủ vậy. Hàn làm Kiêm Ngự sử Đại phu, (?) Lý làm Chánh Trung thừa. Nhưng Đại phu hẳn cao hơn so với Trung thừa, nên Hàn và Lý cùng nhau làm khinh trọng đó vậy. Đó là nguyên nhân phát ra mối tranh cãi ấy vậy. Hàn Tử thấy gần như mới đầu phải lánh mà nhường đó có thể vậy. Không như vậy thì nên theo nghi cũ của triều đình, sao lại khiến liền tranh giành đó? Ở thời Xuân thu, Đằng Hầu, và Tiết Hầu vì Châu Lỗ mà tranh giành lớn, Khổng Tử ghét vô lễ đó mà biên ghi vậy, sai tả binh minh mà phát vi chỉ đó. Thánh nhân đâu chẳng nhân trước mà răn cấm sau ư? Thân và Dũ giả sử chẳng thể thấy, gần như hơi tỏ ngộ, sao chẳng nghĩ pháp của Xuân thu mà sợ đó ư? Nhưng đối với Lý thị, tôi chẳng luận bàn đó; còn Hàn Tử tự cho rằng chuyên Nho, cứng rắn muốn làm học trò của Thánh nhân, là cũng biết Nho có tiết vị làm tướng trước. Người làm Tướng lâu đãi tướng xa đến, người ở xú di chẳng tranh giành. Lại nói, Quân tử giữ mình mà chẳng tranh giành. Hàn Tử với Công Thùy bình sanh rất thân thiện, mới đầu Công Thùy đổ cử Tiến sĩ, Hàn Tử mới dùng thư ngợi ca tài năng đó mà tấu trình đến Lục viên ngoại. Đến đó chánh có thể nên suy nhượng để nhìn lại tốt lành trước kia. Trái lại tranh giành đó, huyên hoa nơi chốn Triều đình, vậy Hàn Tử đối với hạnh của Nho làm sao có? Nên Đạo của xưa cũ còn ở đâu? Khiến mọi người học sau phải làm sao để thủ pháp? Giả sử Triều đình ưu đãi đối với Hàn Tử, ban chiếu riêng miễn Đài tham đó. Hàn Tử tự đáng vì không dám khuyết thiếu lệnh thức của Triều đình, hẳn nên khuyên nhường để cung lễ mạo đó, thường ngày đến nơi Đài tham. Lý Thân kia là bậc thức giả há chẳng thẹn mà lại phục vậy? Kia muốn giá họa đến hai người, há chẳng cản trở gian kế đó mà tự hối cải? Đâu chẳng trở về hậu Đức mà xưng người lớn đối với Hàn Tử ư? Đó đâu riêng đương thời cảm thẹn ở Phùng cát mà thôi vậy, mà cũng là lễ đại phép tắc cho các Sĩ Đại phu ở đời sau vậy. Tiếc thay, chẳng thể hành đến để thành tựu Đức đó! Há sức lực Hàn Tử không đủ mà nhận biết không thấu đáo ư?

Xưa kia, Liêm Phả chẳng phục ngôi vị đó ở dưới Lan Tương Như, mở lời muốn làm nhục đó, mà Lan Tương Như mỗi lúc đến chầu thường cáo bệnh, chẳng muốn cùng Liêm Phả tranh giành thứ vị. Tôi thường mến mộ Lan Tương Như có khí thức, gặp việc luôn giữ Đại thể. Thái sử Công nói rằng: "Lui nhường Liêm Phả, đức trọng nhủ khâu sơn". Nên Lan Tương Như có trọng danh vậy, so sánh Hiền đó với Hàn Tử thì xa vời vậy!

Ở thời Hán Hiếu Cảnh, Đậu Anh cùng Điền Phần giao hủy cùng tranh giành chầu, đã ra mà Võ An Hầu tức giận, Ngự sử Đại phu Hàn An Quốc chẳng chuyên giúp đỡ mình. An Quốc nhân đó trách Điền Phần rằng: "Phàm ngụy đó hủy Quân Vương, Quân Vương đáng miễn áo mão, cởi bỏ ấn dãi mà về. Có thể nói Bề tôi may được đợi tội, hẳn chẳng phải nhậm đó. Ngụy nói đó đều phải vậy". Như thế thì trên hẳn nhiều Quân Vương có nhường Đức. Người ngày nay chê hủy Quân Vương, Quân Vương cũng chê hủy đó, thí như giả kiên nữ tử tranh giành nói, sao đó không Đại thể vậy? Hàn Tử đương thời tuy không trách nhậm của Ngự sử, nay họ để lại sách sử mà chuốc lấy cười chê muôn đời ở hàng thức giả, đó lại quá lắm so với nhường của An Quốc vậy. Cẩn trọng đó thay! Cẩn trọng đó thay!

BÀI MƯỜI SÁU

Hàn Tử làm Văn Cá Sấu để Cá, mà bảo với đời rằng, Cá Sấu nhân đó mà bỏ đi. Tôi lấy làm không phải vậy. Cá sấu là vật côn trùng không biết ấy vậy, sao có thể hiểu được văn của Hàn Tử ư? Nhưng nếu Hàn Tử có thành thật hẳn có thể cảm động đối với vật, vì thành thật tức đã vậy, sao hẳn làm văn ư? Văn là Thánh nhân sở dĩ đãi người vậy. Để lại cho trùng cá mà dùng văn cũng chẳng hèn tiện ư? Ôi! Người văn đó, người đó còn có chỗ không biết, huống gì là côn trùng ư? Cho rằng cá sấu đi đó, tôi sợ đó chưa hẳn vậy. Đường Thư tuy ngợi khen đó, cũng là chỗ không biện rành của các nhà làm Sử vậy.

BÀI MƯỜI BẢY

Hàn Tử gửi thư cho Mạnh Giản Thượng thư, nói là: "Tự lại nói là có người rao truyền rằng: "Thuở thiếu thời, Dũ tôi tôn phụng Thích thị", đó là nói vọng của người rao truyền vậy. Lúc ở tại Thiều Châu có một Lão tăng hiệu là Đại Điên, rất thông minh hiểu biết Đạo lý, thật có khả năng vượt ngoài hình hài, dùng Lý tự thắng, chẳng bị sự vật xâm loạn, cốt yếu tự lấy làm khó được, nhân cùng qua lại. Đến lúc Tế thần đến Thượng Hải bèn tạo lập am chòi ở đó, lúc trở lại Viên Châu, có lưu lại chiếc y để cùng tôi giả biệt. Đó chỉ là tình của con người, chẳng phải sùng tin pháp đó, mong cầu phước điền lợi ích vậy".

Ôi! Hàn Tử tuy gượng làm lời nói đó, chuyên muốn tự bít lấp, đâu biết nói đó càng nhiều mà vết tích đó càng thấy. Hàn Tử cho rằng, Đại Điên thật là người có khả năng vượt ngoài hình hài mà dùng lý tự thắng, chẳng bị sự vật xâm loạn, ấy vậy. Hàn Tử tuy nói tình người mà như vậy, cũng sao khỏi đã tin Pháp đó vậy ư? Phàm, Phật giáo chí luận ở phước điền lợi ích là chánh vì thuận lý làm phước, được tánh như pháp, chẳng bị ngoại vật làm mê hoặc, làm rất lợi ích vậy. Hàn Tử cùng với Đại Điên vân du, đó dự đàm Lý luận Tánh, đã bên cạnh phước điền lợi ích đó vậy. Hàn Tử sao chẳng nghĩ lấy làm cảm mà lại nói... vậy?

Thuở thiếu thời, tôi đọc sách Thiền sư Đại Điên, thấy trong đó nói là: "Hàn tử thường hỏi Đại Điên rằng: "Thế nào là Đạo?" Đại Điên bèn im lặng giây lâu, Hàn Tử chưa kịp hiểu ý chỉ. Vị đệ tử đó là Tam Bình bèn đánh vào giường đó. Đại Điên trông nhìn lại hỏi Tam Bình làm gì? Tam Bình nói: "Trước dùng Địch động, sau dùng Trí nhổ". Hàn tử liền nói: "Dũ tuy hỏi Đạo ở Sư, mới tại nơi Thượng nhân đây được vào". Và bèn kính bái đó". Lấy đó mà nghiệm điều Hàn Tử nói dùng Lý tự thắng là ấy vậy. Hàn Tử tuy khéo nói lắm mối, muốn bảo hộ danh Nho đó, cũng nào có thể trốn lánh chỗ thấy cười của hàng thức giả ư? Đại khái việc không biết tức đã rồi, không tin tức thôi, sao có biết Đạo đó như thế, tin học trò đó như vậy, mà trái lại bài bác vị Thầy đó, nhẫn tâm phá hủy Pháp đó? Quân tử xử tâm đâu đáng như vậy ư?

Đại Điên là Đệ tử của Phật, Phật là Thầy của Đại Điên. Phàm, Đạo của Đệ tử, hẳn theo chỗ được của Thầy đó vậy. Hàn Tử khéo hay Đạo của Đệ tử đó, mà hẳn bài xích bậc Thầy đó, như trọng nghĩa của con cháu người, mà khinh thường Tổ nể đó. Ai cho rằng Hàn Tử biết Lễ ư?

Lại nói: "Tích thiện, tích ác, ương lụy hay tốt lành mỗi tự theo loại đó mà đến. Nào có bỏ Đạo của Thánh nhân, xả pháp của Tiên Vương mà theo pháp của Di Địch để cầu phước lợi vậy?" Đó là Hàn Tử chưa suy nghĩ vậy. Phàm, Đạo của Thánh nhân, chỉ thiện mà thôi, Pháp của Tiên Vương chỉ trị mà thôi vậy. Phật dùng Ngũ giới khuyên đời, đâu muốn đó loạn ư? Phật dùng Thập thiện dẫn dắt người, đâu muốn họ làm ác ư? Thư nói: "Làm thiện chẳng đồng, đồng quy ở Trị". Đó đâu chẳng vậy ư? Như đó dạy người mở tình vọng mất thân thế, tu khiết Thần minh, đó là Đại Quan của Phật Đại Thánh nhân tôi, trị Đại hoạn đó dùng Thần đạo thiết giáo ấy vậy. Họ làm thiện ước lại thấu đáo vậy, sâu sắc vậy, rộng lớn thảy đều đầy đủ vậy, không thể đem thế Đạo mà tạm so sánh vậy. Khổng Tử nói: "Quân tử đến với thiên hạ, không vừa vậy, không chớ vậy". Nghĩa đó cùng sánh, nghĩa ấy là Lý vậy. Nghĩa là Quân tử lý đáng tức cùng chẳng chuyên đây, chẳng khinh miệt kia. Hàn Tử nhọc thấy dấu tích của Phật giáo, mà chẳng thấy Lý sở dĩ làm giáo của Thánh nhân Phật giáo, nên đã cẩu thả bài xích Phật Lão vậy. Văn Trung Tử nói: "Quán cực nói thẳng bàn nghị, biết Phật giáo có thể dùng một vậy". Đó hẳn là Hàn Tử không biết vậy. Lại nói: "Phật kia quả thật là người gì ư? Hành sự đó là thuộc loại Quân tử hay Tiểu nhân ư? Nếu là Quân tử, hẳn chẳng vọng gieo họa đến người giữ Đạo. Nếu là Tiểu nhân thì thân đó đã chết Quỷ đó không linh... " Đó là Hàn Tử nghi ngờ quá lắm vậy. Đã chưa quyết định đó là loại Quân tử hay Tiểu nhân, sao có thể liền tự tiện hủy báng Phật ư? Như người phàm phu ở trong thôn xóm rất là không biết gì, muốn cùng gièm chê khinh nhục, còn biết trước tham tìm sở đoản kia quả thật đáng mắng, mới bắt đầu mắng mà phô bày đó. Nay Hàn Tử nghi ngờ Phật, chưa biện rành loại gì, là sở trường của Quân tử hay sở đoản của Tiểu nhân, mà bèn tàn khốc gièm chê đó, cũng chẳng phô bày mà vọng đó ư?

Gần như chẳng bằng người trong xóm làng kia để ý xét xem trước đã vậy. Nghĩa là, Phật là Đại Thánh nhân còn chẳng đủ để hết Phật, huống gì Quân tử hay Tiểu nhân ư? Tuy người ngu dốt xưa nay, đều biết Phật chẳng phải xếp loại Quân tử hay là Tiểu nhân, mà riêng Hàn Tử đem Quân tử và tiểu nhân để xếp loại Phật, huống gì lại nghi ngờ đó mà tự chẳng quyết ư? Thật đáng cười vậy!

Lại nói: "Trời đất thần kỳ, rõ bày la liệt, chẳng thể lừa dối vậy. Lại chịu khiến Quỷ đó hành nơi cõi lòng làm oai phước ở khoảng ấy ư?" Phàm, trời đất thần kỳ thật không thể lừa dối, hẳn như điều nói của Hàn Tử. Còn nói chỉ muốn cậy nhờ trời đất thần kỳ chẳng khiến Quỷ làm oai phước, đó lại là Hàn Tử biết Lý không thấu đáo vậy. Nếu tự biết điều biết đó Lý đến. Lý đáng bài xích thì bài xích đó, Lý chẳng đáng bài xích thì không bài xích đó. Biết rõ thì không đợi bên ngoài hỗ giúp. Lý xác đáng thì trời đất tự thuận. Bọn tôi đối với sự phải quấy ức dương, rất nhờ đó vậy, chẳng đồng loại như Hàn Tử, bên ngoài dẫn Thần kỳ dùng làm chú Thỉ mà cậy nhờ đó vậy. Dịch nói: "Trước trời mà trời chẳng trái, sau trời mà phụng thờ trời". Trời còn chẳng trái huống gì là người ư? Huống gì là Quỷ thần ư? Đồng bạn Hàn Tử nào từng phảng phất thấy ở tâm Thánh nhân ư? Trong Đường Thư, Lưu Vân nói rằng: "Bọn Hàn Tử bài bác Phật Lão, đối với Đạo chưa hoằng thật chẳng riêng tư vậy".

Phải quấy của Sử thần chẳng phải sai lầm ấy vậy.

BÀI MƯỜI TÁM

Xưa kia, Dương Thành làm xử sĩ, có sắc chiếu chuyển đổi làm Gián nghị Đại phu. Qua thời gian lâu mà gián tranh giành đó chưa thấy, mọi người đều lấy hư danh mà gièm chê Dương Thành, cho đó là nhục vậy, mà Hàn Tử bèn làm "Gián Thần Luận" để nói việc quấy đó. Ý đó cũng cho rằng, Dương Thành đã ở địa vị Gián Quan mà khiến thiên hạ chẳng nghe lời nói can gián tranh giành đó, đâu phải chỗ làm của kẻ sĩ có Đạo ư? Đến lúc, Dương Thành ra trấn thủ Đạo Châu, vì khéo chấp chính nên tiếng tăm vang vọng, mà Hàn Tử lại làm tường trình đề đạt Thái học sinh Hà Kiên đưa Dương Thành trở lại Châu, lại đặt chỗ trị của Hiền Thành là nước có Đạo. Đặc biệt so sánh với Hoàng Bá lúc làm Dĩnh Xuyên ở thời nhà Hán, cảm chim phụng nhóm tụ kêu hót nơi giá.

Lúc nhỏ, tôi thấy hai thuyết đó, rất lấy làm quái lạ Hàn tử nghị luận chẳng nhất định, mà phải quấy cùng trái nhau. Phàm, phải hẳn phải đó, quấy hẳn quấy đó. Sao đó trước sau hỗn loạn lầm hoặc như vậy? Chỗ luận xưa nay, cho rằng Hiền Thánh biết người lúc tên họ chưa vang, thấy việc lúc chưa làm vậy. Xưa kia, Vương Tuấn có chí lớn, lúc chưa có công hiệu, mọi người đều cười chê đó. Chỉ có Dương Thúc Tử cho rằng, người đó hẳn kham nhậm việc lớn, nhờ khéo chờ đợi đó, mà Vương Tuấn quả thật lập công ở thời nhà Tấn. Ở thời tiền Đường, lúc đi đến Hoài Tây, Lý Quang Nhan mới đầu hèn hạ nơi hàng ngũ, mọi người chưa biết đó, riêng Bùi Trung Lập ngợi khen tài đó với Hiến Tông (Lý Truân 806-821). Chẳng mấy ngày sau, có tấu trình Quang Nhan có khả năng Đại phá quân giặc. Ở thời nhà Tấn, thuở thiếu thời, Đại Hy rất có tài huệ, mọi người đều hứa hẹn cho rằng đó hẳn có chính xa, chỉ Kê Thị Trung cho rằng người đó hẳn chẳng thành khí, về sau Đại Hy quả thật vì không hành vi nên bị bài xích. Nên trong Đường thư và Tấn thư ngợi ca đó biết người, mà Kê, Dương, Bùi, ba vị công khanh thời nhà Tấn, là ba vị Quân tử sáng rực tỏa chiếu muôn đời vậy.

Hàn Tử là bậc Hiền, khả năng nhận biết đó soi chiếu người vật hẳn nên như vậy. Giả sử Hiền Thành quả thật là bậc Hiền, mới lúc can gián tranh giành đó chưa có vang vọng gì, Hàn Tử nên suy đó để chất vấn cùng gièm chê của mọi người. Đâu có trước đã chẳng phải bậc Hiền, mà sau nhân lúc đó có tốt đẹp, mà theo lại là Hiền đó? Như vậy thì Hàn Tử nên bày đó có Đạo và không Đạo, đó đều nhân ở người mà vậy, đâu phải Hàn Tử có thể tự biết đó ư? Tôi đọc Đường thư, thấy Dương Tử (= Thánh) vốn là người Quân tử vậy. Chẳng phải Hiền đó làm Thái thú, mà chẳng Hiền ở gián quan. Là vì Hàn Tử tự không biết Dương Tử vậy. Hàn Tử cho rằng: "Kháng Tông ở chức gián quan, mà muốn giữ chế xử sĩ, mới dẫn thượng cửu của Dịch cổ cùng Lục nhị giao từ của kiêng để chiết phân hành sự đó". Đó là Dương thị ở Quan, tự có ý vua tôi nói thẳng mà Hàn Tử chẳng thấy.

Căn cứ Đường Thư, đầu niên hiệu Chánh (tránh chữ húy ở sau) Nguyên (Trinh nguyên 785-805?), gián quan rối ren tranh giành nói, mọi việc nhỏ nhen tế toái không gì chẳng nghe thấu, Thiên Tử (Đức Tông-Lý Khoát 780-805) càng nhàm chán khổ đó. Đang lúc đó kháng tông tự ở núi rừng, vì có Đạo nên có chiếu ban làm giáng liệt, hẳn nên cùng thời mà phát, sao có thể như các gián quan khác, đoán đoán vội sính miệng lưỡi để trọng người chủ nhàm ghét. Rõ ràng Kháng Tông ở Quan mà người chẳng thấy can gián tranh giành đó vậy. Chẳng phải không nói vậy, bởi dùng nghĩa Ngũ gián của Lễ, mà chỗ phát tinh tế thẳng ngay tự có thứ tự, không thể được mà liền thấy. Ngũ gián đó là: Phúng, Thuận, Khuy, Chỉ và Hảm. Phúng giáng nghĩa là biết mầm móng của họa hoạn mà phúng cáo đó vậy. Thuận gián nghĩa là mở lời từ tốn hòa thuận chẳng nghịch tâm Quân Vương. Khuy gián nghĩa là trông nhìn nhan sắc của Quân Vương mà can gián. Chỉ gián nghĩa là chất chỉ việc đó mà can gián. Hảm gián nghĩa là nói họa của nước nhà mà quên sự sống vì Quân Vương vậy. Nhưng việc đó chưa đến nỗi mất nước đại hại đối với chính, thì chưa thể dùng Chỉ gián và Hảm gián vậy.

Chỉ gián và Hảm gián nghĩa là nói thẳng mà hơi khí cứng mạnh, khơi khích tức giận nơi người chủ, mất thân nhiều mà giúp việc ích. Ngụy Văn Chánh nói: "Thần xin Bệ hạ cho Thần được làm Lương Thần, chớ khiến Thần làm Trung Thần". Trung thần túng giết thân mạng, có danh Trực gián, mà chẳng ích lợi việc đó, lại rõ bày điều xấu ác của Quân Vương. Như vậy thì Phúng gián quả thật ưu ẩn so với Trực gián. Trực gián đâu chẳng vì bất đắc dĩ mà dùng đó ư? Nên Thánh Hiền xưa trước phần nhiều chuộng Phúng gián. Khổng Tử nói: "Tôi theo Phúng gián đó vậy". Lễ nói: "Làm lễ của người Bề tôi chẳng hiển bày can gián". Lại nói: "Phụng sự Quân Vương muốn can gián mà chẳng muốn tỏ bày". Đó đâu chẳng vậy ư? Dương Tử là dùng theo nghĩa ấy vậy. Đến lúc bọn Bùi Diên Linh dùng việc, cùng người tà kết bạn đảng, khuynh lấp Tể tướng, đại hại Quốc chính. Kháng Tông bất đắc dĩ, bèn cùng Vương Trọng Thư để thu phục Các Hạ, tấn dâng một Sớ luận bày gian tà đó. Thiên Tử (Đức Tông) quả nhiên tức giận muốn buộc tội giết Dương Thành, gặp lúc ấy, Thuận Tông (Lý trọng 805-806) đang ở Đông cung giải cứu được khỏi. Nhưng pháp can gián tranh giành của Dương Thành sửa thị trói buộc là tùy việc đó tiện nghi. Mới đầu, Dương Thành cùng hai người em khổ uống đêm ngày, nếu có khách đến chỗ Dương Thành muốn hỏi nguyên do đó, Dương Thành biết ý đó, liền mời khách ngồi, dùng rượu cưỡng ép khách uống say, muốn khách không rãnh mà mở lời. Đó đủ thấy Dương Tử ở Quan vị ý ấy có vậy. Tuy kẻ sĩ tầm thường cũng có thể dùng để suy lường ý của Dương Tử. Hàn Tử sao rất quá mờ tối mà vội làm luận cãi nhau, liền dẫn ngôn từ của Thượng Thư Quân Trần mà nói: "Như điều Thư gọi là Đại Thần tức việc của Tể Tướng, chẳng phải điều nên làm của Dương Tử vậy". Đó lại là Hàn Tử không biết kinh vậy. Như Quân Trần nói: "Người có mưu tốt mô tốt thì vào báo cùng Hậu của ngươi ở trong, ngươi mới thuận ở ngoài". Nói mưu đó mô đó là chỉ đức của Hậu tạ vậy.

Than ôi! Người Bề tôi đều như thời chỉ hiển bày tốt lành thay! Họ sở dĩ than ôi ấy là bởi bùi ngùi than, phàm Bề tôi đối với người đều là thuận hành đó vào báo thuận Đạo bên ngoài, há chẳng làm lương Thần rất hay hiển bày đức của Quân Vương đó vậy. Khổng An Quốc truyền đó cũng như vậy. Như vậy thì vào thì can gián Quân Vương đó, ra chẳng khiến người ngoài biết, đâu riêng chỉ Đại thần Tể tướng mới được hành đó ư? Dương Tử đứng chầu làm gián nghị Đại phu. Địa vị đó đâu quá thấp? Quan đó đâu quá nhỏ? Vào thì can gián ra thì không khiến người biết, há chẳng hợp nghi chỗ hành đó? Ai bảo không thể được ư?

Phàm, can gián tranh giành từ xưa hiếm có người được chỗ đó. Người khéo can gián ở thời nhà Hán là Viên Áng cấp ảm mà nói việc còn xúc nghịch người chủ, sở dĩ chẳng vùi hảm thân đó là nhờ Văn Võ Hiền chủ mà nhận can gián. Sau đó bọn Tiết Quảng Đức, Chu Vân, Lưu Phụ khơi khích giận Thiên Tử lại quá lắm đó vậy. So với can gián tranh giành của Dương Thành, học kinh có pháp, tại vì Hàn Tử hẳn thường suy đó dùng để dạy đời sau có thể vậy. Trái lại cản trở đó, sai lầm luận giải như thế cũng chẳng dễ ư?

BÀI MƯỜI CHÍN

Hàn Tử đọc Mặc thư cho rằng: "Khổng Tử hẳn dùng Mặc Tử, Mặc Tử hẳn dùng Khổng Tử. Chẳng cùng nhau dùng thì chẳng đủ làm Khổng Mặc". Đến lúc gửi thư cho Mạnh Giản mới nói là "Đạo của Nhị Đế Tam Vương các Thánh đại hoại, người học ở đời sau không chỗ tìm theo, dẫn đến nay đây hết sạch vậy, họa đó xuất phát từ Dương Tử, Mặc Tử, Phỏng tứ hàng mà chẳng cấm ngăn đó vậy". Hàn Tử sao nói đó phản phúc như thế? Lầm hoặc người mà không chuẩn cứ vậy?

BÀI HAI MƯƠI

Hàn Tử đề tựa tiễn đưa Cao Nhàn, nói rằng: "Nay, Sư Nhàn, giòng họ Phù Đồ, một chết sống mở ngoài lầm lỗi, là đó làm Tâm hẳn ghi nhưng không chỗ khởi. Đó ở đời hẳn điềm nhiên không chỗ tham đắm". Hàn Tử làm thuyết đó, tợ như biết Pháp của Phật thật sâu mầu có lợi ích với tánh mạng của người vậy. Phàm, một sống chết, nghĩa là sống như chết vậy, chết như sống vậy. Ở Lý như không có sống chết đó vậy. Đã thấy Lý bất sanh bất tử đó thì người đó không tham sống không ghét chết vậy. Mở ngoài xằng bậy là tự ngoài Lý tánh đó, nam nữ tình nhơ đắm dục dâm hoặc, trăm mối đều là xằng bậy dối vọng đó vậy. Xằng bậy dối vọng đã mở tan, sống chết đã ngang bằng, nên tánh mạng của người đó mới khiết tỉnh mà được chí chánh ấy vậy. Lão Tử nói: "Thanh tĩnh làm thiên hạ chánh". Lời nói ấy tợ đó. Phàm, tánh mạng đã chánh, đâu hẳn ở nơi đồng bạn với Nhân đợi chết đó mà thay đổi sống làm thánh thần làm Đại Chí nhân ư? Tức ngay đời sống đó tự chân thật có thể làm chánh nhân làm Chí Hạnh, đã Hiền càng Hiền, chẳng Thiện hẳn Thiện, mà Hàn Tử chẳng phải cùng lời nói của Nhàn. Trong Nguyên Đạo đó mới nói: "Tuyệt Đạo cùng sanh dưỡng đó, để cầu điều gọi là thanh tĩnh tịch diệt vậy". Phàm, thanh tĩnh tịch diệt là chánh nghĩa dẫn dắt người ngang bằng sống chết, mở ngoài hệ lụy xằng bậy hư vọng tình trước để toàn chánh của Tánh mạng ấy vậy. Hàn Tử làm sách mà chẳng lại nhìn trước sau, mới vội làm Nguyên Đạo. Mà những người sanh sau học cuối, tâm chẳng thông Lý, thấy đó cho là ý chỉ của Hàn Tử là phải vậy, bèn theo vết tay cho đến trọn đời, mờ tối tánh mạng đó mà rõ nét ngạo báng Phật, không biết Hàn Tử làm lời đó chẳng suy nghĩ vậy. Giả sử theo Cao Nhàn mà nói, tự Cao nhàn là nguyên do của giòng họ Thích, chẳng phải muốn suy Đạo đó làm lợi ích ở đời, ý nếu có lợi ích ở đời, mà Quân tử sao chẳng ngợi ca đó? Khổng Tử nói: "Đại nhân chẳng xướng Du ngôn". Bởi nói không lợi ích ở Dụng mà chẳng nói vậy. Cho rằng Hàn Tử là học trò của Thánh Hiền, sao được làm lời vô ích đó ư? Gần như Hàn Tử tuy gọi là Văn nhân, nhưng đối với Đạo còn quả thật có chỗ chưa thấu đáo ư? Tôi không biết vậy!

BÀI HAI MƯƠI MỐT

Người thời tiền Đường, có Dư Tri Cổ cùng Âu Dương Sanh đàm luận về văn thư, nói rằng: "Đời gần đây, Hàn Tử làm Nguyên Đạo, thì Thôi Báo đáp sách Ngưu Hưỡng; làm Hủy Biện, thì Trương Chiêu luận tên cũ; làm truyện Mao Dĩnh, thì Viên thục Đại lan Vương Cửu Tích; làm Văn Tống cùng Dương Hùng Phú Thục bần; làm Biểu luận Phật cốt thì Lưu Trú tấu sớ tránh Tề Vương. Tuy nương cậy như vậy ngu chưa công quá. Nhưng luận bàn của Dư Tri Cổ và Âu Dương Sanh chưa đủ kiểm hiệu đó phải chăng? Như Văn Tống cùng đó nói là cùng có Quỷ. Cùng Quỷ bởi gượng hẹp không cứu xét tự nịnh nọt. Hàn Tử làm văn đó buông tuồng như Quỷ đó cùng trông thấy, sao quái đó ư? Hàn bèn gá đó để tự dụ, sao dùng dụ đó chẳng tốt lành vậy? Như trí của Hàn Tử biết học văn, cùng văn đó mới nhờ Quỷ mà làm đó. Hàn Tử há chẳng tự cho là người Thành minh ư? Ngôn từ của Quân tử là Pháp ngôn vậy. Nghĩa là có thể dùng dạy người mà Quân tử mới nói vậy, không thể vì dạy người thì Quân tử không nói. Nên Khổng Tử nói: "Đại nhân chẳng xướng Du ngôn". Hàn Tử như vậy, lấy gì dạy người ư? Ngữ nói: "Quân tử cố cùng, Tiểu nhân cùng lạm đó vậy". Hàn Tử quả thật cùng rất nên dùng Quân tử cố giữ, sao có thể liền lấy văn hoa bỉ ngữ dùng làm đùa cười vậy?

BÀI HAI MƯƠI HAI

Hàn Tử làm Ai từ Âu Dương Chiêm, nói rằng: "Chiêm phụng thờ cha mẹ rất hiếu đạo, nhân từ với vợ con". Lại nói: "Chiêm đối với Từ Hiếu rất cao sáng". Mà Hoàng Phác, người thời tiền Đường rao truyền Chiêm, nói là "Chiêm vì xướng phụ một động mà chết", mà gièm pha Chiêm bất hiếu, mới dẫn thơ của Mạnh Giản khóc Chiêm rằng: "Sanh ra chớ trầm mê, Trầm mê mất chân đó". Hoàng Phác và Âu Dương Chiêm là người cùng quê hương, bình luận về Chiêm hẳn nên rõ ràng vậy. Đàn Cung nói: "Văn Bá chết, Kính Khương đến bên sàn giường mà chẳng khóc", vì Văn Bá phần nhiều được tình của người bên trong, mà hiềm đó khoáng Lễ vậy. Huống gì chết của một người vợ, mà để lại hận của người thân đó vậy. Hàn Tử ngợi ca Chiêm hiếu hạnh cao sáng, cũng chẳng vì riêng bằng đảng đó mà tự khi ư? Cũng chẳng không kịp biết Lễ như Kính Khương ư? (ghi chú: Sở dĩ Chiêm chết cũng thấy ở Thái Bình Quảng Ký).

BÀI HAI MƯƠI BA

Hàn Tử làm văn bia miếu La Phù, mà Đường sử cho là quấy đó. Hợp quấy đó, phụng sự thần đó, ở Hàn Tử đáng biện rõ là theo Thần đó mà bày thuyết đó. Sao đó ưa thích quái lạ vậy? Ngữ nói: "Khổng Tử không nói sức quái loạn Thần", mà Hàn Tử lại làm vậy, há chẳng trái ngược với Khổng Tử ư?

BÀI HAI MƯƠI BỐN

Hàn Tử làm Truyện Mao Dĩnh, mà Sử cho là Quấy đó. Thư nói: "Đức thạnh chẳng quen lờn". Lại nói: "Đùa vui người mất đức, đùa vui vật mất chí". Hàn Tử chẳng phải quen lờn, chẳng phải đùa vui đó ư? Gọi là Đức đó ư?

BÀI HAI MƯƠI LĂM

Hàn Tử viết Biểu văn luận về Phật cốt. Lấy vận tộ hưng vong và tuổi thọ ngắn dài của các bậc Đế Vương xưa trước mà so sánh đó. Cho rằng ở thời không có Phật, vận tộ đó tự lâu dài, bởi phụng sự Phật thì ngắn ngủi. Nêu chỉ việc vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương bị nạn Hầu Cảnh, mà cho rằng bởi vua phụng sự Phật cầu Phước, mới lại mắc họa, để khởi động Quân Vương đó vậy. Đương thời Nam Bắc triều, riêng vua Võ Đế ở Giang Biểu suốt năm mươi năm thời gian hơi tiểu khang. Vua Võ Đế sống tám mươi sáu tuổi, thì đó làm phước cũng thấu đáo vậy. Ở thời Xuân Thu, giết Quân Vương đó có đến ba mươi sáu vị, vậy các Quân Vương kia đâu phải đều họa là do sống mà phụng sự Phật ư? Hàn Tử không trông nhìn phước đó, mà chuyên lấy họa để vu báng Phật. Sao đó nói bất công vậy? Từ xưa, loạn thần trộm phát tuy trời đất thần kỳ mà không như đó sao? Đâu riêng vua Võ Đế hẳn khỏi ư? Đó là Hàn Tử chưa biết sở dĩ của phước ấy vậy. Phàm, họa phước báo ứng là do thiện ác làm gốc rễ đó vậy. Sở dĩ Phật dạy người tu phước đó chánh vì muốn thiên hạ dùng Tâm làm Thiện, mà chẳng muốn họ làm ác vậy. Như Tăng Tử nói: "Người ưa chuộng thiện, phước tuy chưa đến mà cách họa đã xa vậy. Người thích làm ác, hung hăng tuy chưa đến, mà cách họa gần vậy". Ý của Phật chánh đó, chỉ đem ba đời mà so sánh báo chí đó thì Tăng Tử sai chẳng kịp Phật nói đó xa vậy. Nên đến của họa phước đó, tự có trước sau, chưa thể đem việc một đời mà tìm cầu. Nếu vì thọ vận đó ngắn ngủi, mà cho rằng vì phụng sự Phật không công hiệu, rồi muốn người chẳng hẳn dùng Phật pháp làm phép tắc. Hồng Phạm dùng Ngũ Phước Hoàng cực dạy người, hợp cực thì Phước mà Thọ, trái cực thì Họa mà Hung, ngắn gãy.

Như Văn Đế (Lưu Hằng 179-156 trước Tây lịch), Cảnh Đế (Lưu Khải 156-140 trước Tây lịch) thời Tây Hán rất là có đạo của Quân Vương. Cớ sao Hiếu Văn Đế làm Thiên Tử mới hai mươi ba năm, chỉ bốn mươi bảy tuổi mà chết? Hiếu Cảnh Đế ở ngôi chỉ mười sáu năm, mới bốn mươi tám tuổi mà chết? Lịch số đó đều chưa kịp một đời, tuổi thọ đó đều chưa đến Hạ thọ, há cho rằng điều nói của Khổng Tử không ứng nghiệm mà liền chẳng theo giáo đó ư?

Than ôi! Thánh nhân làm giáo bày Pháp đều muốn ở đời làm Thiện mà chẳng làm loạn, chưa hẳn tại sự ngắn dài của thọ vận đó vậy. Hàn Tử nói rằng: "Nếu như thân đó đến nay hiện còn, vâng phụng Quốc mạng đến chầu. Bệ Hạ tiếp đó chẳng qua tuyên chính một lần thấy gặp, lễ khách một bày, tặng y một tấm, gìn giữ mà bảo ra khỏi cảnh vức, chớ khiến làm mê hoặc mọi người vậy. Huống gì thân đó chết đã lâu, cốt khô mục nát, là dư thừa của hung uế, đâu thể đặt vào trong cung cấm?" Đó là Hàn Tử khinh miệt Phật quá lắm vậy. Phật tuy chẳng xuất hiện ở Các Hạ, nhưng Thần linh duệ trí đó cũng thật là Thánh nhân thời xưa trước vậy. Sao lại có thể khái luận xá lợi đó cùng với cốt của phàm uế mà đồng so sánh ư? Tuy Thánh nhân của Trung Quốc như Ngũ Đế, Tam Hoàng qua đời đã cả ngàn năm mà cốt đó chẳng mục nát, huống gì Thần kỳ thù dị đó có vì cùng đời là tốt lành làm phước ư? Đó, Hàn Tử cũng nên có phần tư duy mà công luận vậy.

Xưa trước, có Hộp đựng giầy của Khổng Tử cùng với cốt đầu của Vương Bôn, qua nhiều đời lưu truyền đó. Đến năm Thái Hy thứ năm, (niên hiệu Thái Hy chỉ có một năm (290) ở thời Tây Tấn) thời nhà Tấn, nhân lửa võ khố bèn đốt cháy mất. Phàm, Đại thiện không ai như Khổng Tử-bậc Thánh nhân vậy. Đại ác không ai như Vương Bôn-kẻ bất tiếu vậy. Đời trước còn lưu lại vết tích ấy mà truyền bày, bởi muốn chỉ bày không quên Đại thiện đó, và lưu răn Đại ác đó. Xưa nay kính sùng linh cốt của Phật là ý họ cũng mến mộ Đại thiện đó vậy. Như trước, điều Hàn Tử nói là "lễ khách chẳng qua một lần bày". Đó là chỉ bày họ không biết Lễ mà đãi người không phẩm cách vậy. Giả sử Phật chẳng phải là Thánh nhân, hẳn cũng khác với mọi người ở Dị vức, sao có thể dùng một chiếc áo, một bữa ăn mà tiếp lễ đó?

Xưa kia, Quý Trác Do Dư vào Trung Quốc, mà Trung Quốc dùng lễ của Hiền nhân để tiếp lễ đó. Quý Trác Do Dư kia là người của Đệ thế, chưa hẳn như Phật Thần linh mà chẳng lường vậy, đến khiến Quân Vương đó đãi Phật mà chẳng như Quý Trác Do Dư ấy vậy. Khổng Tử nói: "Phụng sự Quân Vương, muốn can gián mà chẳng muốn tỏ bày". Nghĩa là không thể phô bày lỗi quá của Quân Vương đó ra bên ngoài. Giả sử Thiên Tử ở thời tiền Đường vì Phật mà làm xấu ác vậy, Hàn Tử phải nên dùng ngôn từ mềm dịu mà kín can ngăn. Huống gì Quân Vương đó quả thật chưa từng làm xấu ác, sao được bới móc mà phô bày việc đó ư?

Xưa kia, Ngụy Trưng khéo hay can gián, chẳng hay quên lời đó, sách đó dùng chỉ bày cho Sử quan, mà người nhận biết ít vậy. Mã Chu sắp chết, bảo đốt Biểu thảo đó, nói Quản Yến phô bày lỗi quá của Quân Vương để cầu danh tiếng của thân sau. Tôi chẳng làm vậy, mà Quân tử là bậc Hiền nhân, như can gián của Hàn Tử so với Ngụy Trưng thì chưa hẳn làm đáng lưu lại Biểu văn đó, khiến đời có được vì truyền làm sai lầm đó, nên lại quá so với Trưng vậy. Mà vẽ đẹp của Toàn Quân chẳng kịp Hiền của Mã Chu Xa vậy. Huống gì điều làm của Quân Vương chưa đến đổi làm xấu ác mà phô bày Biểu văn luận bàn đó? Mới thấy, mọi người bài xích đó buông ép lưu lại thuyết đó để tự bày rõ nông nỗi thức trí đó, lan tỏa cực xấu đó đến đời sau vậy. Than ôi!

BÀI HAI MƯƠI SÁU

Hàn tử dâng thư đến Địch, ngợi ca Địch như có ngôn hạnh của Thánh nhân, mới nói: "Tin ở Địch có Đức mà lại có ngôn từ vậy". Mới dẫn lời Dương tử Vân nói rằng: "Thương thư mênh mông vậy, Chu thư nghiêm túc vậy". Tin ở Địch có khả năng mênh mông mà lại nghiêm túc. Nhưng so với Địch Liệt Truyện thì trái nhau, cũng chẳng nịnh nọt ư?

BÀI HAI MƯƠI BẢY

Hàn tử bị biếm xích đến ở Triều Châu, có người tớ gái cùng theo đó, vừa theo phương Nam đến trạm Tần Phong, bèn chết, về sau chuyển dời an táng. Hàn Tử làm bài minh ở Phần mộ, hận đó chết đường, bèn đến mắng nhục Phật. Nhân đó nói: "Dũ tôi thuở thiếu thời làm Thu Quan, nói Phật là di Quỷ, nói Pháp đó loạn trị. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương phụng sự đó, cuối cùng có Hầu Cảnh phản bại. Đáng nên quét trừ tuyệt dứt, không nên để lan tràn".

Phàm, Hoa Hạ có Phật, xưa nay, các hàng Hiền ngu, tuy là thất phu thất phụ không ai chẳng biết Phật là không phải quỷ, biết pháp đó chẳng dạy người làm hung ác để loạn chính trị. Mà Hàn Tử riêng lấy làm Quỷ loạn trị. Người tớ gái của Hàn

Tử tự chết, đâu liên quan gì đến Phật, mà Hàn tử tình đắm riêng tớ gái ấy, đến nỗi xoay ngược người trong thiên hạ xưa nay, bất kính tàn khốc không lường đến Thánh nhân, vu cáo phỉ báng Pháp đó quá lắm! Khổng Tử nói: "Người ở phương Tây có bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự lành. Mênh mông thay! Dân không thể gọi tên vậy". Chẳng phải đó nghĩa là Thánh nhân của Tam Vương, Ngũ Đế ấy vậy? Vua Văn Đế (Lưu nghĩa Long 424-454) thời tiền Tống, nói với Quần thần như Hà Thượng Chi…: "Phật chế Ngũ giới, Thập thiện, nếu khiến thiên hạ đều tuân theo hóa đó, thì Trẫm sẽ ngồi yên đến Thái bình". Hàn Tử mờ tối mà hẳn không xét lời nói ấy vậy.

Lại làm thơ tiễn tặng Trừng Quán mà ghi tên đó, từ ý khinh mạn như khuôn pháp dạy răn tục tử tiểu sanh. Nhưng Trừng Quán là tợ phải Quốc sư Thanh Lương. Quán Công cho rằng, Thơ từ có nói: ", đều nói Trừng Quán tuy là Tăng đồ mà Công tài lại dụng đáng mà nay không". Lại nói: "Gá hỏi kinh quán vốn người nào? Đạo nhân Trừng Quán tên tịch tịch". Hoặc nói: "Riêng tự một Trừng Quán đó".

Phàm, Tăng Nho đối với giáo đó, đều gọi là Đạo đức. Đạo đức tôn quý nên có Thiên tử mà chẳng có tên Cao Tăng. Vua Thái Tông (Lý thế Dân 627-650) thời Tiền Đường lấy công để tôn xưng Huyền Trang đó vậy. Truyện nói: "Bậc sĩ thạnh đức không tên". Thái Tông đâu dùng Pháp đó ư? Nhưng Xuân Thu biên ghi tên, chẳng phải ý của thiện đó vậy. Đã tặng thơ đó, đặt tên gọi mà khuôn khổ khắc đó, há hợp nghi đó ư? Giả sử chẳng phải Quốc sư Thanh Lương đã chẳng đáng vậy, thì quả thật ở Quán Công càng không thể vậy. Như Pháp sư Quán, ở thời tiền Đường, từ khi vua

Đại Tông (Lý Dự 763-780) thỉnh mời kính lễ hỏi Đạo, cho đến đời vua Văn Tông (Lý ngang 827841), là bậc thầy của bảy đời vua. Đạo đức đó tôn diệu, học thức đó gần thông nội ngoại, thọ hơn trăm tuổi. Đang thời đang thạnh hóa đó, liệu Hàn Tử mới là sanh sau Quan nhỏ, há dám dùng thơ ấy mà tặng đó? Đó hẳn Hàn Tử vì Quán Công đạo cao tôn đại, ở trong đồ chúng của Phật giáo đứng đầu tất cả. Giả sử đó làm thơ nên bày khinh mạn đó, xem thường đè ép ý khí của Phật pháp, mà làm mê hoặc hướng theo chuộng chí đó, thì chẳng phải chân thật Quán Công ấy vậy. Hàn Tử tuy mạn nhiên chẳng đoái hoài Đạo lý có thể được chăng? Hoàng hành bài xích nói Phật, rất không biết cùng với Quân vương và Tổ tông bản triều đó mà làm nhục đó vậy. Lễ chẳng dám dính xe Quân Vương, ngựa giẫm cỏ đó có phạt. Thấy gậy án của Quân Vương thì đứng dậy, ngang qua xe vua thì bước xuống, vì tôn kính Quân Vương nên vậy. Vừa rồi Hàn Tử là đặc mạn khinh thường bậc thầy của Quân Vương đó. Thiên Tử thường lễ mạo đến đó, Hàn Tử đối với Lễ nghĩa sao như vậy? Như Hoàng đế Đức Tông (Lý Khoát 780-805) nhân tiết Thánh đản, ban kiệu thỉnh mời vào Nội điện giảng đàm giáo pháp rộng, phu tuyên Tâm kinh. Khi đó vua im lắng trong Hải ấn lãng nhiên Đại giác, bèn răn bảo Quần thần rằng: "Thầy của Trẫm ngôn ngữ cao nhã mà giản đơn, từ điển mà phong phú, quạt chân phong giữa trời Đệ nhất nghĩa, hay đem Thánh pháp làm mát lành tâm Trẫm!" Và bèn dùng hai chữ "Thanh Lương" tặng làm hiệu của Quốc sư. Nhưng Pháp sư tuy Đạo đức vị mạo tôn nghiêm như vậy, có thể xem thường mà thất lễ Đức nghĩa của Quân sư ư? Chẳng chỉ vô lễ với Quân sư và Triều đình đó, ước lại phát khởi tâm khinh bạc của hàng tiểu tử sanh sau. Tôi biết từ nay và mai sau trong thiên hạ chẳng tuân lễ nghĩa. Các kẻ sĩ khinh mạn Đạo đức, Di phong khinh bạc đó, bắt đầu từ Hàn Tử vậy.

BÀI HAI MƯƠI TÁM

"Hàn Tử đáp thư của Thôi Lập, nói rằng: "Kẻ hèn tôi thấy hiểm chẳng thể dừng, động không được thời. Đầu cúi Lang bái, mất chỗ tiết giáo gìn giữ đó, khốn khổ không biết biến. Làm nhục đối với vài ba chỗ xót cười của Quân tử và Tiểu nhân, cho đến hầu như không thể được, như sắp canh cày nơi đồng trống rỗng rang, câu nơi bến sông vắng vẻ. Cầu di sự của nước nhà, xét thủy chung của Hiền nhân triết sĩ, làm một kinh của Đường ban trải đó đến vô cùng, giết trừ gian nịnh ở đã chết, khai phát u quang của ngầm đức".

Than ôi! Điều Hàn Tử nói là làm một kinh của Đường là quá vậy. Xưa nay, lập thư lập ngôn tuy chỉ một từ một câu hẳn là trước sau người học đều nhờ đó lấy làm pháp. Ngôn từ đó không trúng thì sai lầm người học. Chu thư, Võ thành ban xuất ở ngòi bút của Khổng Tử để tựa mà định đó. Đó nói: "Máu đổ nỗi chày, Mạnh Tử còn chẳng lấy mà cho là quấy đó". Nghĩa là, đó là lỗi quá của không đáng nói mà nói vậy. Phàm, Khổng Tử làm văn của Xuân Thu, Lục nghệ, còn chẳng tự cho đó là kinh. Xưng kinh đặc biệt do hàng Hậu Nho tôn quý điều làm của Tiên Thánh mà vậy. Xưa kia, Dương Hùng làm kinh Thái Huyền, vì chuẩn cứ ở Dịch nên vậy, mà các Nho sĩ ở thời nhà Hán còn chẳng chấp nhận đó. So sánh đó thì như Ngô Sở tiếm hiệu xưng Vương ấy vậy. Nay Hàn Tử liền nói làm kinh, sao đó dễ vậy? Giả sử Hàn Tử có đức như Trọng Ni mà quả thật thành sách đó, còn nên đợi những người khác hoặc đời sau tôn trọng đó làm kinh, sao được dự tự xưng đó? Tuy đó chưa thành, sách đó với Dương Hùng cũng đã quá tiếm vậy. Hàn Tử nói "giết trừ gian nịnh ở đã chết, khai phát u quang của ngầm đức", đó là ý thiện thiện ác ác khen chê vậy. Bởi Hàn Tử chí ý nhạy bén, muốn làm thành sử vậy. Đến lúc thấy Ngoại Tập đó đáp sách Luận sử của Lưu Tú Tài, mới trái lại sợ không dám làm mà nói: "Phàm làm sử, nếu không có họa ở người hẳn có hình phạt ở trời". Mới dẫm Khổng Tử là bậc Thánh nhân làm Xuân thu mà nhục đến các nước Lỗ, Vệ, Trần, Tống, Tề, Sở, cuối cùng chẳng gặp mà chết. Anh em Thái sử ở thời nhà Tề, gần như hết sạch. Tả Khâu Minh biên kỷ Xuân Thu thời mà sự đến nỗi mất sáng. Tư Mã Thiên làm Sử, bị luật hình giết chết; Ban Cố thì gầy bệnh chết; Tuần Thọ nỗi dậy rồi lại phế cuối cùng không chỗ thấu đáo. Vương Ân phỉ báng lui chết ở nhà. Tập Tạp Xỉ không một chân. Thôi Hạo, Phạm Hoa cũng diệt cả giòng tộc. Ngụy Thâu Thiên tiệt tự. Hiếu Vương thời Tiền Tống giết chết, dưới chân xưng gọi là Ngô tranh cũng chẳng nghe thân quý mà sau có vang vọng vậy. (Một bản khác chỉ lược nêu dẫn Tư Mã Thiên, Phạm Hoa, Tả Khâu Minh ba người mà thôi). Nhưng lấy đó làm lạ, Hàn Tử sao chẳng dõng mạnh ở ngôn từ rỗng không mà sợ ở quả làm đáng cười vậy? Thật là như trước gọi là "Đầu cúi lang bái", chỗ tiết tháo gìn giữ đó, mà phát cuồng vọng đó ư?

BÀI HAI MƯƠI CHÍN

Hàn Tử bị giáng đến ở Triều Dương, cùng gặp Phương sĩ Mao Vu Cơ, bèn làm "Mao tiên ông Thập bát huynh" đề tựa rằng: "Vu Cơ là xét ở ngôn từ, chẳng do từ đạo của Khổng Thánh, chẳng do ở giáo của Lão Trang, chỉ dùng tuệ tánh biết được người có tước lộc dày mỏng thọ mạng ngắn dài, phát lời như Sử tứ, tin ở khác người vậy. Nhưng huynh nói quả thật có chứng cứ để thấu đáo vậy. Bèn ghét dọn sảnh ốc hầu huynh một ngày cùng vui cười".

Hàn Tử mới tin thuyết đó, nghĩa là nói quả thật như Huynh nói. Bèn quét dọn sảnh ốc để hầu Huynh, tức đem việc đó, Huynh đó để tự liệt bày đối với môn nhân vậy. Ngay đó Hàn Tử sao không biết mạng mà dễ động như ấy vậy? Giả sử lời nói của Vu Cơ quả thật ứng nghiệm như Thần, tại nơi mọi người đang nghe mà kỳ lạ đó. Hàn Tử tự cho hiệt hàng, làm kẻ sĩ của Thánh Hiền, hẳn nên giữ Đạo của Thánh nhân vậy. Ngữ nói: "Người trí không lầm hoặc, người Nhân không lo buồn, người Dõng không khiếp sợ". Đó nghĩa là, Quân tử sáng tỏ nên không lầm hoặc, biết mạng nên không lo buồn, dõng mãnh đối với nghĩa nên không khiếp sợ. Tử Hạ nói: "Chết sống có mạng, giàu sang tại trời". Khổng Tử nói: "Không biết mạng, không lấy làm Quân tử vậy". Bởi cũng đều suy ở Đạo tánh mạng của Thánh nhân, không đợi ở cẩu thả vậy. Sao được chẳng trông nhìn đó mà liền như mọi người lầm hoặc ở Mao Sanh ư? Hàn Tử tự đoái hoài làm học Nho của Thánh Hiền như thế nào ư? Nếu Đạo đó không thấu đáo, sao có thể lấy học Thánh Hiền mà tự phụ ư? Hàn Tử trước kia làm Thơ tạ tự nhiên mà gièm pha bài xích Thần tiên dị đoan, ngữ cú rất gắng gỏi, nay mới giáng xuống làm Quận mới tự suy biến động rất lầm hoặc. Huynh sự Tiên ông dị nhân, yên định mong muốn phục làm môn nhân đó, quét rưới sảnh phòng để hầu đó, cậy ngôn từ đó mà mong thoát khỏi chuyển dời gián trách để đáp chí đãi dụng đó vậy. Trung Dung nói: "Vốn hoạn nạn, hành ở hoạn nạn, vốn Di địch hành ở Di địch". Hàn Tử đối với Trung Dung của Thánh nhân, được không thẹn đó ư?

BÀI BA MƯƠI

Tôi xem sách của Hàn Tử, thấy đó chẳng thấu đáo như bình luận ở trước lắm nhiều vậy. Mới đầu muốn thảy đều lấy mà biện luận đó. Gần đây, nghe ở Thục có người làm sách mà chẳng phải là Hàn Tử mới truyền đến kinh đô. Chỗ chẳng gọi là trăm mối, tuy chưa thấy ở sách của người Thục. Tôi càng nói đó, sợ cùng đó tương trọng nên hãy đã. Trong Đường Thư, Lưu Vân nói: "Hàn Tử tánh đó nghiêng lệch cứng ngạnh". Lại nói: "Đối với Đạo chẳng hoằng". Tôi xét sách đó, nghiệm chỗ làm đó, thật là như vậy. Muốn Hàn Tử như Thánh Hiền thong dong trung đạo ở thời xưa trước, hẳn đó chẳng kịp vậy. Nên ở các bậc thức giả cho rằng "Hàn Tử là người thứ lớp văn từ". Phàm, văn là do vì truyền Đạo vậy. Đạo chẳng thấu đáo, tuy lắm nhiều văn, nào dùng?

Như Hàn Tử nghị luận như vậy, Đạo đó có thể gọi là thấu đáo (= chí) ư? Mà người học chẳng lại xét đến Đạo lý trúng chăng, mới văn vẻ nhọc công hiệu văn đó mà gièm pha cản trở Thánh nhân của Phật giáo? Rất tàn khốc! Tôi thường bất bình, vừa rồi muốn theo Đại Công của Thánh Hiền, biện rành mà chọn lựa đó, để chánh kẻ cẩu thả phá hủy của trong thiên hạ, mà chí chưa thành quả. Nhưng đến nay đã năm năm, tôi tuổi đã năm mươi tuổi rồi, vả lại, gần đến sự chết vậy, đó trọn chẳng thể ấy vậy. Học trò tôi hoặc trong muôn một có bậc Hiền giả, đang nay Thiên Tử là bậc minh Thánh của Triều đình rất chí công, ngày khác hẳn đề sách tôi cống hiến mà biện giải đó. Đó cũng chẳng nhục nó theo phụng sự ở Đạo tôi ấy vậy.

QUYỂN 17

THƠ CỔ LUẬT

(gồm 60 bài)

THƠ BA VỊ CAO TĂNG

(và lời Tựa)

Ở thời Tiền Đường, có ba Sa-môn Kiểu Nhiên, Linh Triệt và Đạo Tiêu, do đạo phong vang vọng đến Ngô Việt, nên có ca dao ngợi ca đó rằng: "Trú ở Tráp hay thanh tú, Triệt ở Việt như băng tuyết, Tiêu ở Hàng sát mây xanh". Tôi nghe mỹ phong mà mến mộ người đó, nhân điều nói của ca dao, bèn làm ba bài thơ để nói rộng ý đó.

TRÚ CÔNG Ở TRÁP HAY THANH TÚ

Trú Công văn chương thanh lại tú
Thời cùng tài đó chẳng thể đấu
Tăng làm văn thập từ xưa có
Ra bạt phải tôn Trú đứng đầu.
Tạo hóa tuy dời, Thần chẳng đổi
Trú Công làm thơ tâm cũng vậy
Trên đạp tao nhã, dưới lẳng sàn
Khéo nghĩ tung hoàng Đạo tự toàn
Thiền Bá sửa văn đâu nhọc vậy
Dụ dẫn tâm người thông Phật lý
Quan lại tiên sanh bạn Lỗ Công
Sớm theo thanh du mến phương ngoài
Người đó đã đi, lời còn đó
Hộ pháp đáng nên để muôn đời!

TRIỆT CÔNG Ở VIỆT NHƯ BẢNG TUYẾT.

Thanh của Triệt Công như băng tuyết
Bẩm chất cao tăng khác biệt người
Tuổi vừa ba mươi thơ đã xuất
Tên ở bạn Thơ tâm ở Luật.
Chẳng khác Huệ Viễn khác Huệ Hưu
Kiểu Nhiên chưa hợp ai cùng bạn
Mây trắng tiêu tan nào định dừng
Chợt vào Quan trung hỏi Bao Lý
Riêng Thanh khó vũng nhiều ngại trở
Đến cùng không tội trong chẳng nói
Cây đẹp giữa rừng gió hẳn lay
Triệt Công ôm đức thành thai họa
Người xưa đã qua chẳng lại than
Vì vậy làm thơ để cho đời.

TIÊU CÔNG Ở HÀNG SÁT MÂY XANH.

Cao của Tiêu Công sát mây xanh
Tại Đức đâu tại nơi trầm lắng
Một am chót đảnh riêng sâu thẳm
Chống vết tiêu nhiên chẳng vào tục
Có lúc trèo vượt ngằn mé nhìn
Chẳng nghe nói đó vọng trời reo
Đang lúc Lục Vũ việc u xét
Từng vào mây xanh dự nghe Đạo
Dùng mưa cứu hạn xua thần Rồng
Đó cùng nhân gian việc đâu đồng
Cơ ngầm cảm dị mầm mống tâm
Công đây sở dĩ xưng Đạo Tiêu.

TIỄN ĐƯA BÍ THƯ CHƯƠNG BIỂU DÂN.

Một ngày Phu Tử đến sơn thùy
Hỏi rằng ly biệt đi đến đâu?
Thanh trần Úy cũ cũng đều đến
Ít xe nhẹ mang sáng lục ly
Vào cửa nhìn ta nhan sắc đẹp
Dưới rừng vén áo cùng tìm theo
Cười ngạo phóng tứ ý khí hào
Ngẩn đầu bất chợt bạch nhật soi
Phủi giường nghĩ lại đêm hang núi
Chăn giấy chiếu Bồ thật đáng tao
Chẳng tính phong ước chỉ vừa đẹp
Duy duy không nói cùng chống trái
Bấy giờ giữa tháng Hai (02) Xuân hòa
Trọn đêm rực sáng xem thường lạnh
Cao đàn giao phát nhã hứng hợp
Như bình trút suối tranh lâm ly
Khoảng khắc thúc chiếu đề ngôn chí
Nhả ngay niềm nỗi khua thuần từ
Tâm người chẳng động có như mặt.
Bình sanh mỗi tự có chỗ làm
Biểu Dân thốt nhiên đến chiếu thẳng
Nói tôi có chí người chẳng hay
Mạt tục thiển cận sao đủ nói
Ngậm men chưa nhả than thở dài
Thuở nhỏ theo thầy học kinh điển
Chẳng đầm lành lá cùng cội rễ
Đạo của Đế Vương, đoán khá biết
Ân bàn Chu Cáo không lại nghi
Sự nghiệp xưa nay quý vừa dùng
Văn ý thuật làm phải có khuôn
Đâu loại trẻ con không giũa khắc
Bánh vẽ chẳng thể trừ đói sáng
Mười lăm năm chăm việc văn tự
Mài cọ bút nghiên tinh thần bải
Thiên dài pho lớn rộng vô số
Khảng khái chỉ muốn giúp chính trị
Năm trước bổ Lại đến chiết hữu
Cục chuyên nhũng tục chẳng thể trông
Ôm hoài muốn so Vương Bá lược
Cưỡi ngựa bắn săn chẳng hợp nghi
Tiền Đường phủ lớn nhiều Quan đạt
Phẩm trật cùng sánh ta thấp cùng
Mạnh Kha riêng phụ khí Hạo nhiên
Ai hay vén áo rủ may dài
Trượng phu quý trọng dùng Đạo tiến
Mây xanh muôn dặm phải tự rong
Than ôi! Nhìn ta Hồ làm đó
Đành làm cửa che làm thân giúp
Bèn làm tạ bệnh xa dẫn đi
Vội mang trâm dãi cùng sai thành
Giao tây Đổng sanh tạm đáng mến
Dưới chướng khắc khổ cùng thi thư
Nhàn cư rơi chớ lắm cảm kích
Chỗ cảm thời chính sanh tỳ vết
Tôi hèn ôm tiết riêng tự sánh
Làm sách muôn chữ ném sân chầu
Lính trời hang sâu tại Tây bắc
Dẫn lên đảnh trông mây tan tạnh
Đức âm trọn chẳng xuống báo đền
Tỏ bày gan mật không khạc nhổ
Than thôi!Tôi sống thời mạng sai
Chẳng gặp phải thời đành ẩn dật
Trùng sâu rồng rắn chịu lui khuất
Muôn vật không thời phải tự vui
Nhà tôi ruộng vườn ở phía Nam
Cũng có khe núi tên Võ Di
Suối ngọt đất tốt đáng gieo trồng
Về cùng lão nông chuyên cày bừa
Tôi cùng cảm đó nghe lời ấy
Tinh thần bay động kinh rung má
Mưu sâu tính xa chẳng thể lường
Mênh mông không đáy trời không bờ
Trước ngạch chốt cửa khách vô hạn
Kề vai đạp gót tranh từ trước
Ăn no mặc ấm tứ khí đẹp
May bạn rành rọt hay như vậy
Xin ông đến trước cùng Quân nói
Nào hẳn khinh ngại phiền chăm chăm
Thóc tốt đông thâu nhậm bút phát
Các vật tốt tươi có bệnh chậm
Chẳng nghe Y Duẫn ngũ can Thang
Đạo của Nghiêu Thuấn mới được hành
Hiền Kiệt khinh thân trọng thiên hạ
Đâu khiến cấp cấp tạo riêng ấy
Huống đang Di Địch khinh Trung Hoa
Giẫm xéo hai bỉ phiên da đất
Tướng quân xét giết khổ chưa khắc
Muôn vàn Sư Lão nhọc biểu dương
Năm tốt năm xấu lại xen làm
Gió mưa sương tuyết chẳng phải mùa
Thiên Tử chăm chính chẳng rãnh ăn
Cũng đợi tài năng cùng giúp đỡ
Ở trên Miếu đường có Quân tử
Thông minh đâu chịu nhiều cao quý
Cầm nắm Đạo công tôn Đại tượng
Chọn độ quê nhà yên sâm sai
Mến ông làm người tánh thông đạt
Chẳng vì giáo đó cùng bới móc
Gặp gió trăng thanh ngàn dặm biệt
Chúc Từ đâu sợ khuynh gan mật
Người tục khéo hủy ít vui thiện
Tên tốt Tiết thanh chớ khuyết mất
Triều đình nếu hỏi sách Bình Tân
Hiền Lương nhất ông, chẳng ai bằng.

Ý XƯA (có năm bài)

BÀI MỘT

Gió đùa vừng mây trôi
Mưa xuân bay nhè nhẹ
Uống rượu dưới rặng tuông
Bẻ cành thông làm gậy
Chống đỡ qua giá băng
Trong tay không một vật
Cốc sâu không người lại
Chiều tà ý ai hay!

BÀI HAI

Ông chớ cười Chi Hứa
Tịch mạc chẳng ngu rõ
Ông chớ khinh kệ nguyễn
Núi rừng có thanh hứng
Người sống trong trăm năm
Vui ít buồn có thừa.
Muôn sự đầy ngắn dài
Không như khiến Đạo thắng
Đó không sĩ ngạo đời
Cao đạp móc Danh xưng
Chỉ tạ duyên trong vức
Cam lòng gá bậc đá
Lắng không bạch nhật bay
Thế sự trọn không ứng
Chẳng như xét thành đó
Tự nói và tự tặng.

BÀI BA

Thong mây thấy đôi chim
Cao bay dắt nhật nguyệt
Lông cánh rực văn chương
Liệng quanh khắc ứng cốt
Chợt nhiên xa ngàn dặm
Trọn chẳng nhìn rừng Việt.
Gió Xuân thổi lan tràn
Lông cứng lại vút nhanh
Du hiệp tử trên bờ
Nhìn trông nhọc thương tốt
Tuy có cung tên vàng
Ngắm nghía không dám bắn
Nhân biết vốn kỳ dị
Tự giữ dài vượt qua
Xoay nhìn đàn sẻ vàng
Nên làm chuyển bụi trần.

BÀI BỐN

Kham làm mấy nỗi cao
Lướt trời che trăng sao
Thà làm Lan Huệ ẩn
Trong cỏ tự thoảng thơm
Tự đủ là phần trời
Chưa cần Hư linh ấy
Bít che nơi xấu ác
Nên làm lâu dừng dùng
Xưa nay Sĩ thông đạt
Sao vết lắm ẩn mờ
Núi rừng tiếc lớn quá
Tàng Dụng cũng tàng Hình
Ngu cốc không thể kịp
Thẳm sâu lại tự yên
Ôi! Tôi cũng tham thế
Núi chẳng dưỡng tuổi già

BÀI NĂM

Cùng phẩm gặp cụ già
Trao tôi một quyển sách
Rừng sâu gặp người Thẩm
Cho tôi Búa với Bừa
Búa bừa cũng sao làm
Dạy dưỡng cùng thảo mộc
Hoang nếu hẳn phải cắt
Khiến đó tốt tự nhiên
Trao sách muốn sao làm
Dạy đó tâm và Thân
Học hẳn trước chánh mình
Tự trị mới thừa ngoài
Ý đó có dạy tốt
Mang đó chưa từng trừ
Làm sao người dặn dặt
Tự lầm muốn phải từ
Cùng tập thành bạc tục
Đức mọn ôm chiếu trúc
Tôi chọn đó nhờ nói
Cậy ông làm truyền lan.

ĐẾN LONG SƠN PHỎNG TÌM ĐẠO SĨ LÝ TIÊN SƯ

Nhật xuất đồng trống sáng
Chỉnh túc tìm Đạo Sanh
Man mác đi ngoài hồ
Tan đản bên mây bước
Thu cao bầu trời sạch
Lá rụng bay tung hoành
Cưỡi gió qua đảnh rừng
Chuyển thấy áo đầy nhẹ
Lúc nghe giữa thăm thẳm
Gió vút vang tiếng Hạc
Biết cùng nhà Tiên gần
Qua Tư lãnh trong sáng
Phút chốc chuyển cốc sâu
Phủ tía đồng cỏ phẳng
Tiên Đồng chạy chân báo
Tùng tử lại cửa nghinh
Tiếp áo nói lại cười
Vui chỗ chẳng tục tình
Má son người chưa giá
Đạo mạo trời đã thành
Mở chiếu bày Hạt ngọc
Bàn thức ăn tía ánh
Buộc ràng tợ bạn cũ
Rượu rơi hoài bảo khuynh
Xế chiều nhẫn bảo đi
Bồi hồi tựa gian núi
Muốn có trùng tìm ước
Lại lo biến cao danh.

CẢM NGỘ. (có chín bài)

BÀI MỘT

Nước Biển đêm tối trong
Sắc thu dung Hồ bồng
Có hai Long Công già
Lưới sắt trải San hô
Gió mây rộng dung cùng
Buồn bã vẽ nơi nào
Muốn hỏi người trên trời
Vén được Trăng sáng không.

BÀI HAI

Tiên nhân kinh Bạch Ngọc
Đi đi sao xa tít
Lầu Quỳnh mười hai tầng
Lung linh nổi ngoài mây
Bạc nhuốm Trăng làm sóng
Muôn khoảnh tức ao cong
Thu lại cung điện sáng
Rạng ngời khắp nhân gian
Trời trong không mây gợn
Ráng khói chim xanh nhỏ
Thấy được không đến được
Chỗ nghỉ không mịt mờ

BÀI BA

Lo thay! Dương cầm kích
Biết xa tài tuyệt kỳ
Mới đề bút thảo huyền
Rất làm chỗ người cười
Trác trác đạo Khổng Mạnh
Tạ bình hiểm hý đó
Gương ngọc ngâm u quang
Ngàn năm mới tươi tốt
Gởi nói Sĩ khoảng hoài
Chưa đạt thôi than thở
Tâm mong Đạo tự quý
Thói tục, thế sao tùy
Núi xanh giữ lớn qua
Bạch nhật trong đáng nhìn
Nêu cao tạ Tùng Bách
Cô phương tháo chẳng dời.

BÀI BỐN

Thiên oai nói chẳng đến
Can qua động biên bỉ
Tướng Quân ra oai mạnh
Anh hùng thế nổi thao
Rối ren ra du quan
Chỉnh nghiêm trong sắc thu
Ngựa trắng xung mây vàng
Sương thanh gắng nghiêm chỉ
Trẻ mạnh cánh rừng non
Chuyên hay chớ lắm mừng
Khéo võ nào Tâm ông
Dùng binh chẳng đặng đừng
Gởi lời đến Tướng Quân
Chước khéo nên không sánh
Chí còn báo ân Quân
Đâu làm vàng ròng chết
Trượng phu thân nước nào
Khảng khái đang như thế
Thà dạy Thái sử thư
Khinh cười Lỗ Liên Tử.

BÀI NĂM

Mênh mông giữa đất trời
Tỏa sáng xử thế nào
Từng nghe người xưa cổ
Chưa thấy vầng nhật dừng
Tài ngầm mây Yêm tư
Lại bên cây Phù tang
Sắc núi buồn trong tối
Hình trời sáng trong mộng
Sao biết mục Thiên tử
Rồng ngựa thần làm ngự
Muôn dặm chóng cưỡi gió
Lại theo Diêu Đài đi
Vượt xa bạn Thần Tiên
Lý đó đáng thế nào
Chẳng hướng Nghiêu năm dài
Trọn khiến ở nhân gian.

BÀI SÁU

Mão lọng khách xử nào
Lướt mây ý bay cưỡi
Sớm sớm đến Song khuyết
Xung xung qua cầu Vị
Vàng ngọc ngoài mây hưởng
Họa đuốc đốt trong trăng
Xa tít đi đường trời
Vọt bay tại Ngọc tiêu
Làm sao trong khu Vũ
Chóng cùng xa nhân gian
Lớn phủi xiêm lụa đi
Chầu dưới Điện Minh Quang
Một cúi lại một ngưỡng
Vinh nhiều buồn cũng lắm
Tóc bạc bên cổ dài
Sắc son trong gương lạnh
Đâu biết dưới Tùng cối
Người ngầm dài vắng vẻ
Muôn sự lắng không lo
Buông nằm ngâm nga dài
Mênh mông giữa đất trời
Ai hỏi Hy, Hoàng, Nghiêu?
Gặp một gió lành thổi
Sao làm Thiên tử cao

BÀI BẢY

Giữa trời lắng khói xa
Sắc tạnh ngậm cảnh thu
Nghĩ ông mỗi bàng hoàng
Chăm nhìn đảnh Thiên phong.
Trăng sáng mới vừa tròn
Khá soi bóng mỹ nhân
Mỹ nhân lại không đến
Mây ráng xa núi rừng.

BÀI TÁM

Đất Tùng Bách linh thiêng
Cỏ gai đồng tươi tốt
Mong được trong khu vức
Tâm người lại thuần tố
Ngô xanh cối kê mát
Không lại có lăng mộ
Lục Hợp không biết âm
Núi xanh có đường về
Nhân sanh tiếc chu nhan
Hiền chiếu lớn cùng trông
Đêm qua sương đài hoa
Ai chẳng oán chiều thu.

BÀI CHÍN

Chợt nhiên Nghiêm Tử Lăng
Xa lớn vắng rỗng khí
Nên người quý làm Quân
Ngựa trắng cần chẳng đến
Đắm nhàn luyến đầm biếc
Cao vượt lộng bánh thơm
Núi xanh nổi mây trắng
Muôn xưa ngụ ý cao
Hầu Bá không biết Đạo
Mới đầu chí hiềm ngạo
Việc gì thấp Vương Hầu
Tâm đó vượt trời đất
Nhân thương gìn giữ bạn
Sao làm thế cậy quyền
Rảo chơi giữa giáng quán
Bẻ tiết xếp quanh co
Rực rỡ Hoàng Đạo xưa
Nhọc sống tự nó buộc
Chẳng như về đi lại
Nhân gió phủi áo dài.

NHỚ CÁC KHAI SĨ NGẦM Ở NÚI KIÊM THỊ -VIỆT TRUNG

Nhàm thấy cảnh người náo
Lặng đi nhớ Linh Việt
Đông nam ngàn dặm núi
Xanh nổi đầy lắng chìm
Theo lại cảnh trong kiếng
Hình thắng tuyệt nhân gian
Trăng lặng vén khe nga
Mây nổi che huyệt sách
Mỗi một tơ phiêu bồng
Vội cùng người xưa biệt
Thước lụa chưa kịp thông
Cỏ thơm đã bảo hết
Buồn thay! Đường đi khó
Cúi ngưỡng tôn sanh tiết
Hạc kêu muốn về Đông
Gởi lời tạ trăng sáng.

NGÂM THU SỚM

Đêm qua ở núi Phòng cửa lạnh
Ngô Đồng một lá nơi giếng vàng
Trời cao như nước sạch chứa mây
Trăng sáng ngậm tỏa biến cảnh thu
Cành Quế hoa gãy gió vút bay
Ai trên lầu cao thổi Tiêu ngọc
Nhân gian chẳng thấy dạng lên trời
Trên trời sắp thấy chim làm cầu
Tuổi trẻ người đi ở xứ nào
Sương trắng đượm áo chưa về đi
Bờ biển nay không nỗi nhà mẹ
Giang Nam ai cùng Vương tôn gặp
Bồi hồi dưới trăng rỗng ngâm dài
Tôi nhọc tự xưa khó biết âm
Muốn lên Đài cao hỏi trăng sáng
Trăng sáng sao chẳng rọi tâm người!

CÁC HIỀN GIẢ NGHỈ ĐÊM Ở NÚI, PHÚ VỊNH ĐƯỢC MÂY CHIỀU DƯỚI HANG

Gió nhẹ lắng rừng sao
Vầng nhật xuống hang núi
Ánh trăng nhô đã tròn
Mây trắng về chưa lắm.
Cao ứng bạn khỉ hạc
Sâu chẳng tối lưới tùng
Như chẳng làm lâm khứ
Đó như hạn năm nào.

CHIẾT GIANG CHIỀU TRÔNG

Sắc chiều nhìn không ngằn
Chiều không nước lộn trời
Cánh buồm chim bay ngoài
Trăng non rơi bên sóng
Cách Việt hình núi nhỏ
Nuốt đất Ngô thế lệch
Mấy người già qua lại
Sớm chiều đến đầu Thuyền.

ĐỀ CHÙA KÍNH SƠN

Xanh phủ ngoài các núi
Liền trời thế chưa thôi
Mây mờ đường chim bay
Mưa ra ao Rồng cổ
Tăng nhập định trong mây
Hương thơm hòa quyện tỏa
Người đời được chẳng đến
Đài Điện tự thu thanh.

LANG THỊ LANG TỪ QUAN

Lúc bình riêng cao tạ
Đạo chẳng muốn ngầm sáng
Tóc bạc từ minh chúa
Núi xanh mến quê nhà
Ruộng thuốc dung Hạc đến
Ngâm tắc sợ mây tàng
Lại chuộng nằm rừng Thiền
Đến giờ phẩy giường đá.

TẢO MAI TRONG NÚI.

Dừng dừng rừng cảnh chiều
Rỡ rỡ ra đầu rừng
Vườn nhỏ liền mây đượm
Cỏ thơm xung tuyết lạnh
Nhân gian rất chưa thấy
Vật ngoài nhìn trước tiên
Chỉ muốn ngọc Phương Quỳnh
Sao sắp thắng mẫu đơn.

BƠI THUYỀN KHE NHÃ DA

Vượt nước cưỡi Xuân nổi
Cửa thuyền đóng lại mở
Núi đẹp men bờ đi
Chợt mưa rơi hoa lại
Bờ ảnh Tiều phu qua
Tiếng ca gái tắm về
Mênh mông không hạng ý
Trời chiều lại lo thay.

THƯ MAO CÓ ĐÌNH CHƯƠNG VIÊN

Mến vườn rừng đây đẹp
Trùng điệp cây hoa tươi
Người chơi say quên bước
Chim lắng hót không ngơi
Khói tỏa liền cỏ thơm
Hồ xuân nổi ao biếc
Tùng tre không tục vận
Du tử đầy cùng mong.

SƠN ĐÌNH CHIỀU XUÂN

Sơn đình chiều tĩnh lắng
Rừng đá tự hiểm hóc
Chó đi sủa người nói
Hoa bay mặc chim ngâm
Tạnh khói xông cỏ tốt
Trời lặng ngọn sam cao
Lại vui Trăng đầy tròn
Sáng trong dưới núi biếc.

TỰ TẶNG

Ngồi lắng lại nhìn trúc
Đi nhàn cũng hợp tiều
Đạo tâm nên hiện có
Sanh sự hợp chẳng buồn
Khách đi thiếu thành đàm
Năm đến tóc bạc nhiều
Tràn đầy chi theo bút
Nhàn rỗi thú tiêu dao.

NGÀY HẠ KHÔNG MƯA

Trong núi khổ không mưa
Ngày ngày trông mây mống
Hạn nhỏ lại hạn lớn
Khe sâu thành khe cạn
Suối khô liền đáy giếng
Đất nóng quá luống rau
Không đem hỏi ý trời
Không nghĩ chim nước kêu

GHI NHỚ CUỐI NĂM

Gió bấc vừa đổi lạnh
Sớm mai sắp ngậm sáng
Nước Nam lại chưa về
Đông Sơn năm đã cạn
Phù sanh ngầm lại qua
Dáng đẹp sao được dừng
Gởi tạ người thế gian
Phân hoa rất đáng ngộ.

ĐI SỚM TRONG NÚI

Trước núi qua đêm mưa
Riêng bước bộ bùn xuân
Ráng trời gần ló dạng
Gà gáy canh nhà nông
Khói lễ nỗi nơi đi
Đồng trống nhìn trông xuống
Còn mừng gặp Tiều Phu
Cùng dẫn qua mấy suối.

CHIỀU VỀ TRÊN HỒ

Nhân gian bạc du bãi

Về hướng tìm ẩn cũ Bờ xuân đi chưa cùng Tịch Dương nhìn muốn hết.

Khí sáng ngằn núi nhạt

Cảnh trời bên nước gần Tự thương sâu lắng thật

Ngâm thanh lại kéo dài.

CUỐI XUÂN GỬI BẠN SANH

Trên hồ ngày không khói
Nhân gian lúc Hàn thực
Râm tạnh Xuân biến đổi
Hoa trắng hầu khó bằng
Chưa sợ Thanh oa loạn
Trước buồn quyết tía suy
Mây núi hướng dần nóng
Cùng hỏi chớ nên chậm.

GỬI NHỚ THIỀN SƯ NGUYỆT Ở NÚI LẶC ĐÀM

Nghe nơi Thiền Đạo An
Rêu sâu mờ cách khe
Thanh viên phát trong đình
U điểu gá bên tòa
Mây ảnh chầu trưa biệt
Đảnh núi xa gần bằng
Không biết ai hỏi pháp
Tuyết đêm xuống Giang Tây.

TIỄN ĐƯA KHÁCH VỀ BẮC KHUYẾT, LÀM GIỮA ĐƯỜNG

Bắc Quách tiễn Dương Tử
Nhật liệu về ở xưa
Đường lầy gần sáng nhuận
Trăng mờ bức xuân thừa
Tang Đố trong mưa biếc
Người khói thông ngoài ải
Y nhiên thấy phong tục
Về hứng lẫn Tiều ngư

THƯ VẬN VÔ BIỆN ĐẾN THỪA THIÊN TÁI MẠNG

Chở mạng về cao nhường
Biết chỗ ông đến sâu
Núi xanh đáng chỗ ẩn
Tóc bạc muốn gá tâm
Lại đợi gặp mưa mơ
Nào ngại qua Hổ Lâm
Lừ đừ hợp khe nước
Tháng sáu đủ thanh âm.

SƠN XÁ CHIỀU VỀ.

Chiều xuống về Tinh lô
Bước chậm không chỗ đều
Trời lặng trăng lại sáng
Núi không nước lại lắng
Phảng phất nghe chuông vọng
Chợt nhiên tại non Tây
Lời gởi người cao đời
Lại đây tạ cảnh trần.

ĐỌC SÁCH

Đọc sách Lão làm gì
Thay đọc hãy che mắt
Ý đó tuy Đằng nhàn
Tình cao gởi vô hạn
Giũa mài Tâm ngàn xưa
Vụt lại đói quên cơm
Không biết mây trắng trôi
Xuân lắng chiều trong núi.

TIỄN ĐƯA LÔ ẨN SĨ VỀ LÔ SƠN.

Việc đời tợ xoay quanh
Phải quất trọn chẳng cùng
Tham đó về núi sâu
Mặc người chê tiểu ẩn
Hoàng Hạc bay đã cao
Mây trắng cách chẳng gần
Tiếng trời kề tịch mạc
Đảnh nào đùa thanh chẩn.

TÚC SỰ VỀ LẠI NÚI NAM BÌNH

Tuổi già về lại Thạch thất lạnh
Tùng rêu sầm tịch tự bàng hoàn
Chỉ biết dưới rừng qua một năm
Không thấy nhân gian muôn việc khó
Ở ẩn có thơ đề Thạch Ký
Giải đùa không nói cùng thời xem
Tâm đây đã cùng không sanh hợp
Thân tợ mây trôi chẳng hẳn nhìn.

VÀO NÚI THẠCH BÍCH

Thân tợ mây nổi tuổi tợ dòng
Nhân gian quấy nhiễu chỉ nên thôi
Già lại đã quen La tử xanh
Ẩn đi nên tìm Đạo du bạc
Thẳng vào loạn sơn sao tĩnh đường
Định nhìn lá rụng mới hay Thu
Lúc nào cửa cốc người cùng gặp
Chớ hỏi chọn thơ tạ Ngũ Hầu.

TỰ VUI TẠ CHỖ BIẾT TRONG NÚI

Muôn sự tùy nghi chớ gượng vin
Tạm qua Triều chợ xoay về núi
Nhọc sống chưa hẳn danh nổi đẹp
Xứng tánh nên phải đến chỗ nhàn
Đều tợ trong mộng thôi hỏi ảnh
Chỉ kham ngâm lý đổi dáng vui
Đạo ở Tương Dương sao biết vậy
Khỉ Hạc tiêu nhìn Thạch thất nhàn.

GỬI THỪA THIÊN NGUYÊN LÃO

Thanh tán năm lại việc càng nhàn
Chẳng luận dưới rừng với nhân gian
Tâm Thiền tỏ rõ không ồn lắng
Mặc khách nào ai lại viếng thăm
Thanh Hiên đá đẹp thêm thắng thú
Suối chảy tòa biếc rọi thân gầy
Chi hình thoát lược thời có lắm
Nên cười về lại lìa mua núi.

GHI RĂN

Ngâm cao trông xa tựa thang mây
Việc cũ qua Tâm thảy đáng bày
Đạo đức hai thiên nhọc tự biện
Phải quấy một ngựa đâu ngang bằng
Ngọc thất núi sáng thương kinh lửa
Rắn linh mất nước sợ ở bùn
Gửi lời minh hồng vút trời bay
Lướt mây lông cánh chớ nghĩ cúi.

NGUYÊN NHẬT

(Ngày mồng một tết).

Trong tối xuân giục bày sắc sáng
Trăm gà chào nghinh gáy tiếng mới
Đêm lạnh còn trong sâu Rồng rắn
Lịch tàng mới bày ngày tháng nghinh
Lá Huyên bốn mùa nay mới phát
Hoa mai một sớm chiếm khoe xinh
Sơn gia xin chúc ngày Nghiêu thọ
Mạn học Trâu núi báo thái bình.

BIÊN THUẬT SÁCH XONG, NGHĨ TRỞ VỀ NAM, GẶP KHÁCH TỪ PHIÊN NGU ĐẾN, NHÂN PHÚ THƠ NÀY

Thường trước viết sách nay tạm thôi
Về Nam trọn muốn ẩn La Phù
Đầu xuân chợt gặp ông quê cũ
Trọn đêm khoe nói đi biển khơi
Chỉ Quý Dương thành phong vật đẹp
Đâu từ Mai Lãnh đường hiểm tu
Nên phải chung cùng bàn Hồng cát
Chống vết núi rừng tiễn bạc đầu.

RIÊNG THƯỞNG SUỐI LẠNH, GỬI XUNG HỐI THƯỢNG NHÂN

Gió Nam dậy sóng nước khe đầy
Trong núi kẻ ẩn lại tắm rửa
Riêng đứng bên khe thanh hứng thật
Lại thích dòng suối cỏ thơm non
Bình sanh ẩn xét quý tiêu tán
Thế Đạo rối ren nào đủ tính
Tháng năm (05) nhân gian hạ mây nhiều
Cùng ước về lại ông chớ yên.

KHIỂN HỨNG TAM TUYỆT

Quá hứng phải nên học Kiểu Nhiên
Đời này rưới rửa lão thơ Thiền
Nào phòng thừa được câu kinh người
Vịnh khắp núi sông một muôn thiên
Lấn ép đạo tôi mọi việc sai
Mà nay không kế cấm sóng dần
Theo người đùa pháp thành lưu tục
Chỉ khóc sách vàng vậy làm sao.
Năm trước tạm dừng chùa đầu sông
Nay cùng tăng lữ ở núi rừng
Chớ bảo thân này không vết định
Nhân sanh đều loại một lục bình.

GHI CHÙA LỤC HÒA-NAM SƠN

Thông xanh cây ngọc tiếp khe sầm
Đài các vút cao đất trải vàng
Đi đến mây trắng nối trùng điệp
Tiếng nước vận trùng nhạt tâm người.

TRONG MƯA NGÀY HÀN THỰC

Man mác mây giăng tạnh lại râm
Hoa đồng rũ ướt chiều trầm trầm
Người đi chớ oán trời mưa lắm
Huống ở Đông Cao Xuân đã sâu.

DẬY SỚM

Cửa trời trăng qua sao lác đác
Khoảng rèm mờ phân mây yểu điệu
Sơn gia sâu thẳm không gà gáy
Tới giờ quạ lạnh báo sáng ngày.

ĐỐI CHIM KHÁCH

Nằm yên chợt kinh chim khách nhiều
Khoảnh khắc thật có cố nhân qua
Trong núi rõ lường toàn vô sự
Hỏi đó miên man đâu nói gì.

GỬI NGỘ XUNG MAI

Tuổi già cùng thăm mắt càng xanh
Nhớ ông nghĩ thơ khổ nhọc mình
Nhân gian lại có vô cùng cảm
Khéo nắm cửa Thiền giữ tánh linh

RỬA BÚT

Người xưa tin văn tự
Chữ chữ từ đây ra
Tâm Thiện hạ chẳng khinh
Đó cũng có âm chất Rửa đây để trẻ con
Nhớ đó chưa nên mất.

ĐẾN NÚI ĐẠI TỪ, GHI Ở VÁCH TƯỜNG CỦA TRÚ THƯỢNG NHÂN

Trong cốc chùa Xâm Vân
Tìm vào đến nơi sâu
Xuân qua hoa lạnh nở
Người lại chim hót bay
Đâu mang khách thảo am
Về chiều cùng gặp đây.

THANH KHÊ

Chớ bảo Thanh Khê trong
Lớn như kiếng mới rửa
Phải phòng dung tạp vật
Dơ trong đó đến đáy.

QUYỂN 18

Đây là những bài thơ Du sơn xướng hòa cùng với Dương Công Tế, Ngộ Xung Hối. Nay đều biên ghi vào đây, trân quý các vị Hậu Hiền mở xem, để thấy sự thanh thắng của một thời văn hội vậy.

Cuối năm gặp tuyết rơi, Sơn Trai đốt hương riêng ngồi một mình, bảo trẻ nhỏ lấy tuyết nấu Trà. Nhân nghĩ Bông Liễu theo gió mà khởi nên câu, bèn lấy Tạ Đạo chứa truyền đọc đó. Thấy thần tình đó tán lãng, nên có phong khí dưới rừng càng phát hứng sâu mới làm thơ cùng Giản cư sĩ Công Tế và Thượng nhân Xung Hối.

ĐÔNG SƠN, SA-MÔN KHẾ TUNG LÊN

Ngoài rèm gió lạnh tối chim về
Giữa cửa riêng ngồi khó lui thay
Vừa nhìn lịch, ngày năm mới đến
Vui thấy núi rừng chợt tuyết bay
Chỉ nhớ người xưa có tài vịnh
Sao nghĩ khách lâu không áo thay
Bào Chiêu Thang Lão hay nhân hứng
Thành quách thế nào Thúy vi bày.

CHƯƠNG AN-DƯƠNG BÀN TIẾP VẬN

Linh lạc Sơn Đông Lão Phật thầy
Xưa nay riêng đến, ông hiếm thay
Bên tuyết khứ hầu xuân sắp phá
Dưới rừng tình Thiền câu muốn bay
Ngày sau sẽ tìm Tuệ Viễn xã
Người nào tặng áo Đại Điên thay
Một thiên cảm phát hồn vô sự
Động đến Thiếu vi sam xanh thay.

SA-MÔN DUY NGỘ Ở THẢO ĐƯỜNG-TIỀN HỒ TIẾP VẬN LÊN

Tuyết đầy Tây sơn Xuân chưa bày
Tiếng mối cổ lạnh chim hót thay
Lắng mắt nhìn cảnh người xa tít
Xua đuổi thơ ma ngoài trời bay
No lòng mỗi bữa cơm Tùng nấu
Rét lạnh kéo giấy làm áo thay
Ta thương văn thơ ông làm đó
Lại ước hận Tâm nhỏ nhiệm bày.

ƯỚC HẸN XUNG HỐI ĐẾN NGHỈ Ở TINH XÁ ĐÔNG SƠN THIỀN TỰ ĐÃ GHÉ TRƯỚC (Dương Bàn)

Thượng nhân hợp đồng hứng ở rừng
Tôi hận già chậm học Tạ An
Xếp guốc gậy nương ẩn có hạn
Thổi mây rơi mưa đầy không mối
Trước nhờ báo tin cành Xuân gãy
Dự tưởng phân đề thất tuyết lạnh
Dưới rừng chẳng hiểu người đời khổ
Cười dẫn hái mai cùng ông xem.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

Tương Dương người học chẳng tham
Quan Muốn bạn người ẩn hỏi Đạo An
Xông tuyết giẫm sương buổi cuối năm
Nin la kéo thúy đến đầu mây
Luận bàn thế sự thẹn tuổi già
Đối đáp Thanh quy khổ đêm lạnh
Không cảm Tri âm lấy gì báo
Chỉ khoe núi nước giàu ông xem

ĐẾN PHỎNG HỎI VĨNH AN THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN GHÉ TRƯỚC (Duy Ngộ)

Am ở dưới ngàn gốc Tùng Quế
Lại không việc trần đến Phu quân
Cao phóng hiếm qua khe Hộ Viên
Lắng nghĩ chỉ nhìn ôm đá mây
Chiều về bên tòa bóng chim nhóm
Tuyết lạnh sườn bờ hình Đường phân
Dương Hùng hẹn tôi cùng đến nghỉ
Dưới trăng thiền rồi nhát luận văn.

TIẾP VIỆN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

Cuối năm râm ngầm trời sẩm tối
Tông Lôi hỏi tôi lại dẫn ông
Cùng hẹn Thạch thất nên đến nghỉ
Riêng dừng Sơn tỳ học nằm mây
Tuyết ánh chấn cửa người đã tĩnh
Gió ngâm bóng đèn đầu đêm phân
Tự thương Huệ Vĩnh lắm nhàn tản
Gượng tiếp Thanh ngôn thẹn không văn.

NGHỈ ĐÊM Ở PHƯƠNG TRƯỢNG VĨNH AN, THƯ TRÌNH THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN (Dương Bàn)

Ngàn năm nói ở truyện Cao Tăng
Chưa luận Thi nhân lại có bình
Từng thuật văn chương nguyên đạo đạo
Riêng suy tánh mạng độ quần sanh.
Mây trắng đã tỏa khoảng chùa núi
Suối chảy không truyền tên trên đời
Rừng xa chẳng nghe khua chuông khánh
Năm canh chim ẩn hót lời xuân.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

Thi hào sao tốn đêm hang hốc
Phẩm cách cao thấp suốt sáng bình
Chưa xét trước cửa không trăng đến
Chỉ kinh trên chiếu có gió sanh
Khích Siêu tuổi trẻ quá cao ẩn
Trang Tử tài hùng chẳng gần danh
Ngày mai ông về người đi lạc
Chớ dẫn Bình thúc hỏi hư thanh.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA (Duy Ngộ)

Đạo An riêng nối gót Tương Dương
Thơ hay nhác xem Tháp Trú bình
Nhà tre vài gian đã mấy năm
Áo cỏ ba sự ngạo bình sanh
Phóng bộ dưới rừng gom vết lẽ
Khó học người đời tham sách lớn
Đèn lửa đã tàn vui chưa mỏi
Gió sớm liệu mưa cửa đánh vang.

MỪNG CÔNG TẾ XUNG HỐI ĐẾN THĂM (Khế Tung)

Thanh Khê vài khúc núi mấy trùng
Núi sâu chiều tối đã khua chuông
Chợt nghe hành khách nói trước cửa
Lại tìm vết người ẩn dưới rừng
Mới tiếp phong lưu rất lịch lạc
Lại giăng đèn lửa gấp đón mừng
Chẳng phải tiện đi ngờ không đãi
Đã có kê vàng trong cối xưa.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

Vài trăm chiêu đề ẩn đầy núi
Mênh mông đâu lại rành chuông ông
Xuân ngậm chưa được Hoàng Lý báo
Đường chuyển chỉ tầm vết chân nai.
Am ở bên trăng lớn không tỏa
Hứng lại ngoài trời bỗng gặp đây
Người mù chẳng cười áo mũ khách
Cũng có Hồng lai đãi mướn xay.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

Mây trắng biển xanh lớp chập chồng
Tựa nhà xa nghe cách Đảo chuông
Trên trăng lại không người ồn náo
Tuyết sâu không rõ vết Hổ đi
Thi Thư cùng vui chong đèn luận
Trà quả tợ nghi gặp trong mộng
Cởi giầy trò chuyện vui vô hạn
Lò ẩm lạnh un Nhật cao xay.

ĐẾN LINH ẨN GẶP MƯA, TRÌNH PHỔ TỪ VÀ HAI THI ÔNG (Dương Bàn)

Già núi chưa dung khách thăm núi
Nên dẫn trận mây bít cửa vào
Mưa giục sắc chiều ngưng các ngọn
Sấm tiễn tiếng Xuân rơi sau thôn.
Đêm nay rừng xanh ngại trăng lên
Người xưa tóc bạc ôm thơ luận
Lại chầu núi nước trọn nỗi xa
Sách trượng cùng theo xét khe nguồn.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

Mây chiều sắp mưa khổ rối ren
Nhìn mưa dẫn ông tựa cửa chùa
Chim bay sợ sấm về sau đảo
Mai rơi dòng nước ra trước thôn.
Danh sơn còn đây nào phải đi
Thắng sự mà nay lại khéo bàn
Huống có Thiền ông thông Diệu lý
Bồi hồi trọng thực gõ nguồn chân.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

Mưa rửa các núi sắc đẹp phân
Một gậy hai giầy đến cửa Tùng
Bên trời mây tan tranh về động
Ngoài đảo tiều phu mỗi chiếm thôn.
Lâu mặc bào xanh tâm đã chán
Cùng nhìn đầu bạc việc thôi bàn
Các ông hỏi nhỏ mai vàng lão
Phải tin sông Thiền riêng có nguồn.

CÙNG CÔNG TẾ XUNG HỐI NGHỈ TẠI LINH ẨN ĐÊM TRỜI LẠNH (Khế Tung)

Không ngủ lại nấu trà Bắc uyển
Đèn lạnh rơi hết còn lại hoa
Đêm khuya mưa qua hình núi hiện
Trời lắng không mây trăng đẹp bày
Lại vui cửa Tăng sáng tợ ngày
Chớ luận người đời việc như ma
Huống gì Chi Hứa đều hay phú
Đâu ngại đề thơ trên lụa biếc.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

Gió núi cũng hợp ý người núi
Cuốn hết trời phân quét tuyết hoa
Trăng sáng ngang lầu tình đã hứng
Mây biếc rơi giấy câu đẹp bày
Thiên oai chợt tạnh nên thông vật
Tiên bạn tiện cùng hợp họ ma
Các động đã tiêu cây rừng vọng
Nằm nhìn tinh đẩu cách cửa the.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

Đánh lùi ma ngủ lại châm trà
Mở bày văn quyển lóa mắt hoa
Mừng gặp đêm dài thân tuy khỏe
Gắng hòa thơ mới hứng chưa hay
Gió nhẹ tiếng vượn tợ phạm âm
Trăng sáng bóng Sam kín như ma
Tháng lạnh chong đèn trùng bay hết
Nào hẳn ân cần bịt lụa xoa.

SỚM QUA THIÊN TRÚC TRÌNH MINH TRÍ VÀ HAI LÃO ĐỒNG ĐI. (Dương Bàn)

Mưa đêm Linh Phong nằm giường trúc
Bình minh guốc gỗ đến Vân Đường
Trước cửa mưa qua suối mới đầy
Trên đá gió xoay hương cỏ cũ
Núi ôm tiếng chuông tròn chẳng tan
Mây bày mặt ngói lạnh không sáng
Lý Công chớ ngại thơ cùng não
Ngày nay cùng đi đều họ Thang.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

Khe Bắc đêm tựa Thiền xá ngủ
Núi Nam nay hỏi giảng sư đường
Mới đi đường Tùng mến sạch sớm
Kịp qua cầu đá nghe hương lạ
Sắc trời sưởi ấm các hốc lắng
Khí tanh vọt biếc mấy ngọn sáng
Đạo Tiêu chuộng khách sao cao đến
Thay uống bọn tôi cùng diệp Thang

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

Sớm qua chùa dưới Phiên kinh đài
Cùng ông đồng đến Tổ sư đường
Trước sân Quế tía lá đừng rụng
Trên đá mai hồng hoa tỏa hương
Ra động mây che bóng rẽ xa
Nhật treo tùng lạnh lọt trong sáng
Tạ ông mời cơm phải không nhường
Chẳng hứa trái thời dâng trà Thang.

ĐÙA VUI BÊN CẠNH NAM GIẢN, TRÌNH CÔNG TẾ XUNG HỐI (Khế Tung)

Cùng dẫn nhau lại bên khe biếc
Núi rừng tuyết hết nước dông dài
Chưa nên đuổi chim xuống bờ rêu
Trước cùng nhìn cá cọt cầu đá,
Trời lặn cát lạnh cò tự nhóm
Năm hết vào Xuân cỏ ngậm hương
Bào chiêu Thang Lão phải đồng vịnh
Sao hẳn nhân gian việc bộn bề.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

Khe Nam gió trong thổi vi vu
Dưới rừng cùng lại Bạch nhật dài
Mây xa đá sâu liền Thứu lãnh
Nước lạnh cát cạn tợ cá cầu.
Gá hỏi lão quê về việc trước
Bạn nhàn người ẩn hái các hương
Lại muốn cùng nguồn tình chưa đã
Biết ông giận tôi bèn trở về.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Duy Ngộ)

Vén mây qua được Nam lũng đi
Dòng nước chảy ra một khe dài
Đá bàng ai chồng vá bờ khuyết
Tùng già tự ngã thành cầu nguy.
Chim cát gọi mái từng dức lác
Thuốc núi nhả sắc thường thoảng hương
Đông đi Xuân lại núi thêm đẹp
Mừng ông cùng không bận việc trần.

ĐẾN CHÙA THIỆN THƯỢNG THIÊN TRÚC TRÌNH ĐÔNG SƠN, TRỌNG LINH, XUNG HỐI (Dương Bàn)

Vào rừng đã mừng vượn chim vui
Cùng ngạo phù sanh thắng lớn về
Ngoài thân phải quấy mây chẳng buộc
Trong xã lưu luyến mưa tương quan.
Rèm kiệu tịch mạc trên Bành Trạch
Chống gậy phong lưu giống Đức Sơn
Gởi lời cát hồng nước dưới núi
Chớ chảy mộng trong lạc người đời.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Khế Tung)

Cùng phỏng tìm xa chùa đảo sâu
Bèn theo lão quê bán củi về
Chim đậu đã yên người mới đến
Sắc chiều tuy đượm cửa chưa cài.
Đêm nay phòng núi thôi hỏi pháp
Sáng ngày guốc lạp đạp núi leo
Bình sanh bạn lành rất khó gặp
Chớ nhàm cùng dắt tịch mặc theo.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

Trời lạnh mưa nhỏ ngày sắp chiều
Bùn trơn ai cấm đánh ngựa về
Hang cát suối nhả kêu quyết quyết
Rừng trúc chim về hót oan oan.
Hãy nhìn tạ khách phải mang giầy
Chớ tham chi công riêng mua núi
Phương ngoài luận giao tình chưa cạn
Nguyện bồi đến già mây trắng giăng.

CÙNG CÔNG TẾ, XUNG HỐI ĐẾN THIÊN TRÚC, KIÊM GIẢN TRÌNH THIỀN LÃO BÁ CHU (Khế Tung)

Mến đây tiêu nhiên núi tùng sâu
Thi nhân mời tôi đến cùng tầm
Mênh mông trời lạnh vừa tan mốc
Mù mịt mây dày lại kết râm.
Am Thạch buông lòng về kịch thưởng
Kiểu Nhiên nhân hứng ngậm thanh ngâm
Chủ nhân khuyên dừng cửa thiền nghỉ
Huống gặp hương mai tỏa ngát rừng.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Dương Bàn)

Chớ hỏi bờ vượn đường chim sâu
Dắt gậy mang giầy bạn ông tầm
Trong núi Quế tử kinh đêm lạnh
Sau tuyết hoa mai ép nằm râm.
Muốn ở lại gặp mắt xanh ngó
Cùng nhìn phải hết tóc bạc ngâm
Năm sau nếu tiếp Cao Tăng Truyện
Chưa buông Thang Hưu với Đạo Lâm.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

Thường trước thơ Thiền ban hợp sâu
Thay lại người ngoài việc u tầm
Mưa thừa khe hóc dòng lạnh hưởng
Năm yên sanh sam già biếc râm
Gót bày chẳng ngại say Đào lệnh
Phong lưu lắm học lạc sanh ngâm
Sơn ông mở giường mời thanh thưởng
Chưa buông Hiền trước thắng Trúc lâm.

DỪNG NGHỈ THIÊN TRÚC, LẠI TẶNG THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN VÀ XUNG HỐI. (Dương Bàn)

Trọng Linh biên thuật thẹn biết mình
Xung hối thiên chương trộm thưởng âm
Thắng bạn đều yên vui núi nước
Thần giao đã quá tuyết sương sâu
Trước đèn tự cười việc bình sanh
Sau mưa một đêm lại hận tâm
Cùng kiểm chớ dạy thơ gián đoạn
Canh khuya đồng nghe vượn đêm ngâm.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA (Khế Tung)

Thẩm hầu tài tuấn trùm rừng Nho
Thơ ngữ kinh người vàng ngọc âm
Biển học bình sanh thẹn ta cạn
Nguồn từ ngày nay tham ông sâu.
Mạnh nhìn Lão cách phải căng mật
Vui nghe Thanh ngôn lại rửa tâm
Xướng nối tạm hay dung nhiều câu
Tràn bồi lương phụ tiếp cao ngâm.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

Đèn lửa xanh tàn mây chùa núi
Tiếng vượn kêu dứt âm còn vang
Sọt mai tuyết trắng gió xuân gần
Núi mưa bồn nghiêng khe nước sâu.
Trái vết đời, mến vết chim cao
Kết tâm giao hợp tâm Tùng lão
Đáp ông câu hay không từ mới
Nhọc quẩy ruột thơ suốt bày ngâm.

NGHỈ TẠI CHÙA THIÊN TRÚC, PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI TRÌNH HAI LÃO. (Dương Bàn)

Ta có suối trong hứng
Bình sanh mến thủy kinh
Núi lúc không vỡ lỡ
Đêm lắng chuyển lạnh lạnh
Ngầm mạch lại xiết gấp
Tiếng trong ra lẫn mờ
Trăng lạnh gió không vọng
Gối cao cùng ông nghe.

ĐỒNG PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI (Khế Tung)

Năm tàn ngủ giữa rừng
Mới nghe huống đêm tạnh
Súc lạnh tỉnh mộng khách
Người ẩn thạch thất thanh.
Ai người hay vì ta
Ghi tiếng đàn này vào?

ĐỒNG PHÚ NGHE TIẾNG SUỐI (Duy Ngộ)

Khe suối nơi tôi ưa
Sơn xá lắng không ồn
Mạch Xuân sanh mây đến
Tiếng đêm lại trước gối
Gió dừng chẳng động tre
Trăng lên vượn chưa hú
Trên đá kêu quá gấp
Lạnh lẽo hồn mộng thanh.

TIỄN ĐƯA CÔNG TẾ VÀ XUNG HỐI XUỐNG NÚI, KIÊM GIẢN DỪNG GHÉ LÝ TƯ VĂN (Khế Tung)

Mấy ngày dạo núi tản tuyết hiếm
Cùng theo Lão quê cũng vong cơ
Vừa thường trong động mây yên nằm
Lại nhớ nhân gian năm cuối năm
Đêm hoa mai rụng khắp đầy đường
Gió ngậm sắc Xuân tự thổi áo
Nhờ ông vì nói đạo Vương Tôn
Âm tín trọn phải gởi chim bay.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

Cuối năm gió Đông quét thúy vi
Đồng nhìn phương liễu phá xuân cơ
Ba đêm nghe nước đều không mộng
Bốn ngày lên núi chưa chịu về.
Già quê chỉ nhờ mây đưa khách
Người nhà nên cười mưa thấm áo
Thơ ông kiêm giản công tử đẹp
Chỉ sợ đãy nghiêng một đêm bay.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

Vời dẫn đồng xanh bên thôn đi
Nhiều ngày núi biếc có nhiều đời
Tiếc đến Vĩnh A-lan-nhã biệt
Trở qua Linh Ẩn vượt đầu về.
Mây núi chứa tuyết mờ đường tiều
Đá nức suối mới vẫy áo khách
Thưa hội chưa do bồi Đế thích
Tâm theo mây chim vào thành bay.

DẠO NÚI VỀ GẶP MƯA TRÌNH TRỌNG LINH, XUNG HỐI (Dương Bàn)

Chín dặm cửa Tùng lúc tuyết qua
Rèm kiệu điểu điểu ngại cành tùng
Mưa giữ khách đêm lại liệu rớt
Gió tiễn người đi cũng thổi ngã
Hoa bày chợt kinh Hoàng Hạc lại
Trong tai còn vắng tiếng vượn buồn
Sáng mai chớ mang giầy lên núi
Khá lánh mùi ông tạ khách nhi.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

Nghiêm Duy, Linh Triệt lúc xuống núi
Lánh mưa từng nghe ngại cành cây
Cuối năm sương lạnh nào đủ sợ
Trong ống sắc xuân đã kham thổi.
Gió ngậm chuông ngân ngưng lại tỏa
Nước kết tiếng khe nghẹn lại buồn
Đánh cỏ đồng chơi ông chớ cười
Mới Bình nguyên là chăn Dê non.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Duy Ngộ)

Cao hứng chưa chịu thôi thơ thanh
Bỏ kiệu lại nâng lược cành dẻ
Tùng Bách xanh tươi mưa xuân rửa
Khói mây nhẹ mạnh gió khe thổi.
Tiều về sau núi liền tiếng hát
Nai qua trước khe mất bạn buồn
Chớ nói về nhà chịu vắng vẻ
Đào Tiềm tự có năm (05) trẻ con.

TRONG NÚI NHỚ LẠI LÃO ĐÔNG SƠN (Dương Bàn).

Dạo núi hứng phát riêng tìm ông
Guốc bày gậy trúc quanh bốn phía
Bắc núi nhìn mây quên chế sự
Nam khe nghe nước được trời chân.
Danh cao lặng lẽ còn Tăng sử
Dưới rừng tợ người Tấn phong lưu
Ngày nào Tỳ Bà khổ tranh thục
Tức đi chưa kém Xuân năm rồi.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Khế Tung)

Việc ông tiêu dao vào mây loạn
Cùng ông nối gót khắp gần khe
Giữa rừng nghe chim nghe riêng thích
Ngằn khói nhìn núi thấy chẳng chân
Khe nước chỉ hay bận tiễn khách
Hoa đá chẳng mở giữ người lâu
Nhạc trời lại có Long môn ước
Thắng hội nên phải đến đầu xuân.

LIỀN ĐƯỢC CÔNG TẾ XUỐNG NÚI, GIỮA ĐƯỜNG BÀY HAI THIÊN BỈ TƯ KHÔ CẠN VÂNG HÒA CHẲNG RỖI TẠM XIN BÃI XƯỚNG

(Khế Tung)

Thiên thơ để rơi cửa lão quê
Lại được Ngu Khanh ngọc vài cành
Quái tợ giao long ra nước cũ
Thanh như Nhật nguyệt in sông thu.
Tiếp ngâm nào chỉ khoe núi đầm
Biện nhã trọn phải buộc Quốc bang
Vì báo nhà thơ tướng mạnh nói
Tuyết hết thôi xướng tâm đã hàng.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

Mấy đêm luận thơ ngồi cửa đá
Mến ông trăm bài hay nào bằng.
Dẫn đồng quê hướng lấn trăng lẽ
Não loạn nguồn từ vọt đại giang
Vài trang chợt nhiên đến núi trúc
Ngàn năm còn rọi tỏa Ngô bang
Tương tư chưa khỏi lại lừa lọc
Chờ dựng cờ phan tức dối hàng.

XUỐNG NÚI ĐẾN GIỮA ĐƯỜNG GỬI THIỀN SƯ VĨNH AN

(Duy Ngộ)

Tùng hàng chưa hết đức xoay đầu
Mưa lạnh bàng đà đã tạm ngưng
Nhìn biển bên gác mây giăng phủ
Chơi Xuân dưới cầu nước đổ tuông
Am núi chợt lìa bàn nói xa
Chùa thành sắp về đầy mặt thẹn
Phải biết biên sách đồng Hộ pháp
Dằng dặc việc người đầy bắt tù.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP. (Khế Tung)

Chợt nhớ trong núi người bạc đầu
Cuối năm đến nhìn tuyết mới tan
Thiên thơ thấy thưởng đều cao hứng
Tạ khách cùng theo chẳng tục phàm.
Đầy có núi mây cúng đêm nằm
Huống không đất ăn đầy buổi thẹn
Mến ông ngâm vịnh rất kham nghe
Âm thanh vàng ngọc thắng sở tù.

CÔNG TẾ VÀ XUNG HỐI XUỐNG NÚI, NGÀY SAU DÂNG GỬI

(Khế Tung)

Tôn Xước từng theo Chi Tuần chơi
Ngàn năm người bảo hai phong lưu
Tham ông mến đây giẫm guốc gỗ
Kết bạn tới lui chung một gò.
Áo lạnh tuyết sương còn chưa bỏ
Cao hứng mây trăng chịu gom thâu
Mê thơ trọng Đạo đều không sánh
Đáng địch đương thời muôn cửa hầu.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Dương Bàn)

Tiếng vượn chưa rơi tiếng chim buồn
Măng mọc hoa nở khe nước trong
Lại đối gió Xuân kinh tiết vật
Đầy nghĩ già quê tựa rừng đồi.
Người xưa đắc đạo lắm sâu ẩn
Hiền giữ biết danh quý sớm gom
Dưới rừng từng qua ông chớ lại
Tự nhìn cốt tướng chẳng Phong hầu.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Duy Ngộ)

Ngày nay nghĩ nhớ ngày qua vui
Hai ông nhân hứng tợ đua đòi
Xa tìm hóc sâu đi kéo guốc
Từng đến trong mây nằm gối đồi.
Bờ trúc hoang sơ sáng của loạn
Mai núi rụng rơi hương chiều gom
Hợp nên lại hỏi Lão Đăng Châu
Cùng hẹn cao tài Thẩm ẩn Hầu.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Khế Tung)

Nhạc trời đã cùng rộng bày đi
Lại ra phong trần ngoài lưu tục
Rượu Thánh hết tài chẳng hết nỗi
Thơ Tiên đều muốn tiếp gò đồi.
Thiên Chương quá chỗ núi sông động
Bút nghiên lúc rỗi mây mưa gom
Huống có thanh danh đều nhờ lắm
Cùng bay Nam bắc động Vương hầu.

CUỐI NĂM VỀ LẠI TÂY Ổ GỬI CÔNG TẾ VÔ BIỆN

(Khế Tung)

Nhân hứng bên khe đi
Nhưng từ dưới rừng về,
Hương mai báo tin xuân
Sắc trời ấm áo người
Tóc bạc nghĩ về xa
Dòng trong gặp lại hiếm
Chim đồng nào hội ý
Cùng nhìn hướng củi bay.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Dương Bàn)

Nghe nói Am tây đẹp
Đằng Châu sợ chẳng về
Tùng lâu năm ăn được
Lánh đời áo cỏ thay
Đảo núi tuyết đã tan
Đầu rừng mai cũng hiếm
Còn mến hai lão Thiền
Câu hay đến cửa thành.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Biện Nguyên)

Thả bộ dòng khe lắng
Nguồn sâu hứng chưa về
Chim chiều đậu trúc tuyết
Tuyết tàn rưới áo Thiền.
Buông ý bờ trời xa
Cuồng ngâm người lạc hiếm
Thơ thành gởi bạn tôi
Khí trong động cửa rừng.

TIẾP VẬN VÂNG HÒA. (Duy Ngộ)

Tóc bạc Lão Đông sơn
Rừng xanh núi Tây về
Chim chiều đậu trúc tuyết
Sương tàn rưới thiền y
Tài cao luận khó địch
Riêng theo đi cũng hiếm
Thẹn ông gởi tiều phu
Câu hay ra cửa núi.

GỬI THIỀN SƯ ĐÔNG SƠN. (Dương Bàn)

Trăng cao nằm rừng Tây
Nhàn lẽ riêng thấy ông
Gậy lê dò khe nước
Thực gối nhìn núi mây
Nai qua người nào thấy
Vượn hú chỉ tự nghe
Thiên chương biết mấy bài
Gởi tôi chẳng từ cần.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Khế Tung)

Chợt nhiên ẩn dưới rừng
Đạo tôi khác phu quân
Tập nhẫn như cỏ ngầm
Quán thân tợ áng mây
Tình người không ý nhiễm
Hạc khóc có lúc nghe
Tạ khách thơ nhớ gởi
Mến ông hứng cần đây.

Dương Bàn đem tuyết vọt lên lầu vàng, xa trông về phía Tây núi nhớ Trọng Linh, sợ hãi chợt có phong xa vời thế sự, nhân nghĩa Vương Huy ở Sơn Âm trong đêm tuyết riêng chước, tứ vọng Kiểu Nhiên, bồi hồi vịnh thơ Vưu Thái Xung Chiêu Ẩn, chợt nhớ Đài Quý đi thuyền con cảm hứng. Tôi hận chưa được đến, tạm gởi bài thơ này.

Nhà ở Tây Hồ mây trên đảo
Tuyết sáng sắc nguyệt lại xâm hồn
Hứng đến cháy tràn gieo không lão
Thơ nghỉ mênh mông mắt chánh mờ.
Nước Tấn áo mão tìm xứ nào
Lương triều Điện các nghiễm nhiên còn
Nghĩ ông chẳng kịp sơn âm tối
Xa trông tùng biếc nghe vượn kêu.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP (Khế Tung)

Sắc mờ rừng rậm tuyết lẫn mây
Người xưa ở đây động ngâm hồn
Khói ngưng lửa lạnh muôn nhà lắng
Sắc nước cảnh núi trọn đêm mờ.
Hứng phát Tấn Hiền xưa trước xa
Thơ truyền chùa vắng gần nay còn
Xuân về hang hốc lắm cây đẹp
Đồng muốn lay ông nghe vượn kêu.

GỬI KHUYÊN XUNG HỐI CHÓNG HÒA CHUYẾT THẬP

Xung Hối tài thơ Tăng lẫn Nho
Rất mến chờ ngươi trẻ áo bào
Ngàn bài cảm hứng không ai địch
Ba mươi năm công cách rất cao
Tóc bạc liền xuân nay càng mạnh
Thanh ngâm suốt lão nào chối lao
Mai nào mới chịu mang châu ngọc
Tức báo Tiên nhân kéo cây đào.

TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Duy Ngộ)

Cửa Đổ ai lại nhớ bọn tôi
Già sợ xuân lạnh quấn áo bào
Biếng dối xưa nay nhọc tự cười
Xướng đáp nay lại sợ ông cao.
Từng không Đạo Dự ồn ào tỏa
Nhàm nắm Mật tỳ khổ khổ lao
Câu hay chợt lại thúc câu thực
Như đem quả túc bức Tiên Đào.

NĂM MỚI MƯA SUỐT KHÔNG NGƯNG, GỬI CÔNG HỐI, KIÊN GIẢN VÀ HIỀN LỆNH CƯỜNG CÔNG

(Khế Tung)

Giao lạnh vừa mừng hoa năm mới
Cảnh vật râm râm lại một tuần
Mây đeo trời cúi rủ ruộng đồng
Mưa chứa ngày Xuân tối mê người.
Sao buồn đèn lửa phòng trăng sáng
Liền gọi nhà thơ tiếc lệnh thần
Đào lệnh mà nay nằm sông nước
Tựa lầu ngâm ngóng lại ai thân.

TIẾP VẬN HÒA ĐÁP (Dương Bàn)

Cửa Đổ nhàm nghe tiếng mưa hoài
Vì tiếc gió xuân chỉ chín tuần
Ôm đánh hoa núi sắp buông Hạnh
Lần tìm năm tháng người đã qua.
Lúc nào vui thích đến Nam giản
Mỗi đêm không tới ngóng Bắc thần
Ngồi buồn bởi không xe ngựa khách
Riêng thương thơ bút mạn tương thân.

TRỘM THẤY THƠ MƯA LÂU CỦA TRỌNG LINH LẠI NÓI Ý TÔI VÀ CÔNG TẾ NGÂM THEO, LIỀN TIẾP VẬN VÂNG HÒA

(Chí).

Thơ hứng kéo lôi ngày ngày mới
Đầu năm mới phá mưa hơn tuần
Xưa đạo đã được công bộ mới
Câu hay nay gặp Hưu thượng nhân.
Ngoài mây rong tâm liền nước đá.
Bên sông lay đầu ngắm trời sao
Bùn sâu chưa mến tìm guốc núi
Ai cùng Tây am gậy giầy thân.

LẠI TIẾP NGUYÊN VẬN. (Chí)

Ngâm nghĩ nào hay năm tháng mới
Vừa oanh hót mưa sớm hơn tuần
Đẹp xinh tre đồng thông nước lạnh
Tẩy rửa mai sông lạnh chiếu người.
Thứu lãnh đều chơi nhọc mộng ngủ
Hổ Khê một cười còn đến tham
Ngàn vàng chữ tục hình cuối thiên
Vết chưa tương đồng ý đã thân.

LẠI TIẾP VẬN DÂNG GỬI CƯỜNG LỆNH (Khế Tung)

Chầm chầm năm trôi năm lịch mới
Tháng hai ngày Xuân chưa đầy tuần
Làm sao muôn dặm mây xanh sĩ
Lại hỏi Song Phong tóc bạc người
Thơ nghĩ nhã kinh ngậm lão cách
Phong Thần thanh sảng tiếc phương thần
Huống nghe Ngạo lệnh Đào Nguyên Lượng
Cuối năm phải lại cùng ta thân.

LẠI TIẾP VẬN VÂNG ĐÁP. (Chí)

Ngàn năm mấy việc thảy mới thay
Muốn gửi trước đi đầy quá tuần
Mưa dãi mây đen ngăn khách tục
Vượn hú chim bay bạn ẩn người.
Thong dong kịch luận biết ngày nào
Đều khơi thiên đẹp ổn lúc này
Bốn biển tiếng sáng chẳng Tạc Xỉ
Đạo An danh trọng như là thân.

QUYỂN 19

PHỤ LỤC TRƯỚC THUẬT CỦA CÁC SƯ LỜI TỰA

(Thích Hoài Ngộ biên thuật)

Xưa kia, Bồ-tát Hiền Thủ ở trong hội Hoa Nghiêm dùng kệ tụng để đáp Đại sĩ Văn Thù, tán thán Bồ-tát hay chỉ bày đồng thế gian rằng: "Nhã tư uyên tài là vua trong văn từ, ca múa đàm nói là điểm vui thích của Đại chúng". Tin ở văn đó hay hiển bày Đạo tế vật, đâu riêng ở nay ấy ư? Từ xa xưa ở đời chư Phật trong các phương không đâu chẳng vậy.

Mới đầu, lúc thiếu thời, tôi rảo khắp các Tùng lâm ở bốn phương, phỏng tìm thầy bạn, chuyên Đạo cầu học. Vì có học đòi chí ý của các bậc Cao Tăng thời xưa trước chẳng ngại ngàn dặm cầu thầy. Ở trong mọi người đông đúc, trầm lắng tự khuyên răn ý khí đó. Như Thượng tướng Quân mang ý muốn dựng xây nước nhà, trước tiên phải xa địch quốc mà vừa đánh vừa làm, chẳng màng việc ăn ngủ.

Nghe chỗ gọi là văn cao, hạnh vượt, Đạo lớn, thức xa của Thiền sư Minh Giáo ở Đông Sơn, thấy gặp văn họa do người trứ thuật, không gì tôi chẳng ghi lục gom thâu cất giữ đó. Lúc đến núi Linh Ẩn ở Tiền Đường, thì có được "Hành Nghiệp Ký" của Đại sư do Trần lệnh cử ở Gia Hòa soạn thuật khắc ghi trên đá. Cuối bài đó ghi rằng: "Sư, từ Định Tổ đồ trở xuống thì gọi đó là "Trị Bình tập", lại còn có "Gia Hựu tập", tổng cộng hơn sáu mươi vạn từ, mà người cháu ngoại của Đại sư là Sa-môn Pháp Trừng khắc ghi kính phụng cất giữ để làm tin cho đời sau tiếp thừa mở rộng bản đó. Trừ "Chánh Tông Ký" và "Phụ Giáo Thiên" đã nhập tạng, ngoài ra đều còn ở cất giữ ở trong các thất của chư tăng tại Cô tàng Ngô sơn".

Tôi cố sai bảo người đến núi đó nơi có chư Tăng ở để tìm hỏi mà vắng vẻ, không biết đó tại đâu, luôn chỗ nhờ cậy chẳng có được người đó, mất chỗ gìn giữ cất chứa, mà người làm việc khéo giỏi lại chuyển dời đến ở nơi khác!

Đầu niên hiệu Đại Quán (1107) thời Bắc Tống, tôi đang ở nơi thất Từ Hàng của Nghi chân Trường lô, đang ở trong chúng đông, có được Sa-môn Cảnh Thuần thượng nhân ở Hồ Nam một ngày nọ vào thất tôi, đặt một tập lớn trên chiếu mà nói: "Đây là Toàn Tập của Đại lão Khế Tung, mà tôi đã kín cất giữ bấy lâu, nay nghe Sư tha thiết kính mộ Di văn đó, nên tôi xin dâng tặng sư". Tôi được đó mà vừa kinh sợ vừa vui mừng, nghĩ đó là chỗ trời cùng biết mà trao cho tôi vậy ư? Như có được vật báu trân quý vô cùng vậy!

Trong đó, từ Hoàng Cực, Trung Dung mà trở xuống cả thảy gồm hơn năm mươi luận, cùng với Thư, Khải, Ký, Biện, Thuật, Minh, Tán, Võ Lâm Sơn Chí, các tạp trước... ước có hơn mười sáu vạn ngôn từ, đều là những thứ ngày trước nghe tên mà chưa kịp thấy đó. Tuy văn lý ít có sai lầm, đều so sánh tuyển luyện thuyên thứ, hầu như mới đầu thành tập, hẳn khả quan vậy. Lại mong muốn bản khéo so sánh rõ thì chẳng do đâu có được. Sau đó, tôi lại gặp Chu Cách Phi ra trấn thú Kiền Châu trở về và có được tập văn "Phi Hàn", cả thảy gồm ba mươi bài, hơn ba vạn ngôn từ. Vì lại gặp phải binh lửa mà tản mất, bèn chưa thể đúc kết tập đó. Gần đây lại được Bản đó ở Đông Lam Ngạn Thượng nhân tại Ngự Khê, mới cùng đem bản khác ngày trước tôi có được ở Khuông Sơn mà so sánh đó. Văn tự rất thô suất sai lầm, mới dùng Hàn văn chỉnh lý mà chánh đó. Nhưng các thứ của Đại sư trước thuật không được lưu truyền đó mà rơi lạc lắm nhiều vậy. Như "Khúc Ký Hành Trạng Pháp sư Từ Vân ở Thiên Trúc", "Bia chí của hai Đại sư Xiêm, Cần ở Trường Thủy", "Thuật xá-lợi Hành Đạo", "Bia văn Đạo giả Xiêm ở Khuông Sơn", "Lời tựa Định Tổ Đồ", đều do tôi tự thấy được ở bản đá, bèn khắc bảng mà lưu truyền đó. Nay gom tất cả để nhập tạng "Chánh Tông Ký Định tổ Đồ" cùng với Văn Tập này... hợp tính đó, mới được hơn ba mươi vạn ngôn từ, ngoài ra thì tuyệt nhiên không nghe thấy vậy. Như nay nêu cử điểm biên ghi cho là có hơn sáu mươi vạn ngôn từ thì đã mất một nữa vậy. Than ôi! Tiếc thay.

Nay đem "Hạnh Nghiệp Ký" do Trần lệnh cử soạn thuật làm quyền đầu, quý ở thấy được vết tích thế hệ nối dõi Tổ tông, xuất thế đi ở của Đại sư, và phong thái tiết tháo kỳ đặc đạo hạnh vĩ đại, Đạo cáo đức thắng xa vượt nơi đời của Đại sư vậy. Lại tiếp thêm "Sách phụ giáo" gồm ba phần thượng trung hạ làm ba quyển trước. Vì văn từ do Đại sư trứ thuật, chí ở thông hội Nho Thích để dẫn dụ các hàng Sĩ phu, soi gốc biết tâm cùng Lý thấy Tánh, mà vắng bặt tiếng ganh ghét phỉ báng phải quấy. Lại đem "Luận Chân Đế Vô Thánh" nhiếp ở sau "Sách Phụ giáo" và "Tán thán Đàn kinh", để nêu bày chí của Đại sư chuyên ở việc hoằng tán Đạo thắng diệu u viễn sâu rộng của Phật, bậc Đại Thánh nhân Vô thượng của chúng tôi không ở nơi văn tự ngữ ngôn. Đó chỗ gọi là yếu chỉ của "Truyền riêng ngoài giáo", mới thấy ở việc làm đó vậy. Nên cuối văn tán thán đó nói là: "Nêu bày pháp chẳng phải văn tự, nên tông của Bậc Chí Nhân chuộng ở mặc truyền vậy". Lại nói: "Thánh nhân như xuân đào mà phát đó vậy. Chí nhân như Thu rưới rưới mà thành đó vậy". Đó có nghĩa là trọn kết quy về tịch mặc vậy. Nên ở "Chân đế vô Thánh luận" đúc kết rằng: "Phàm, tri giác của Thánh nhân là ảnh hưởng của Chân Đế, là phan duyên của vọng tâm vậy". Nhưng người học có chí ở ngoài văn tự xem có hai thuyết đó, đâu chẳng ít cảnh răn ở trong ư?

Và, "Phụ giáo tập" đó với bản cũ đã trải qua nhiều lần khắc bản, nên tuy thạnh lưu truyền ở đời, mà văn nghĩa sai thoát ước có hơn sáu mươi điểm, nay đều dùng kinh sách khảo xét mà chánh đó. Người xem có thể lấy bảng cũ mà tham đọc đó thì sơ suất sai lầm đó có thể xét rõ vậy. Nay từ "Luận Nguyên" xuống đến các bài "Tán Từ", ước làm mười hai quyển, tiếp theo trước thành mười lăm quyển. Xưa trước đề tên đó là "Gia Hựu Tập". Còn văn "Phi Hàn" xưa trước phân làm ba mươi chương, nay ước làm ba quyển, tiếp theo trước thành mười tám quyển. Lại đem các bài "Thơ cổ luật", và "Du sơn xướng hòa" gồm một trăm hai mươi bốn bài, phân làm hai quyển. Tổng cộng thành hai mươi quyển. Và đặt tựa đề là "Đàm Tân Văn Tập", để nêu bày chẳng quên bản đó vậy.

Nhưng, Đại sư thường tự nói là: "Nhân sanh ở thế gian, nhàn là Đệ nhất". Bởi đó tự được thú ở trong nhàn, nên các Thơ của Đại sư làm, tuy chẳng lắm phong nồng hoa lệ, mà phong điệu đó cao cổ nhã đàm. Đến như biên tả đó, chí buông nhớ, có phong thái xa vượt đời lướt cao mây, cũng có thể tưởng thấy được người đó vậy. Đọc xem thư của Đại sư gửi cho Nguyệt Công Hối, tự nói: "Chí tôi ở tại Nguyên giáo" mà hành ở "Hiếu luận". Tôi xét rõ thư đó, thì công ở "Nguyên giáo", Phi Hàn", hành ở "Thư Tăng Hiếu luận", đức ở "Chí thượng Viễn Công", mà hiển bày văn ở Ảnh đường nói ở "Tán thán Đàn kinh" và "Luận Chân Đế vô thánh". Văn đó cao trội thắng xa tuyệt vượt xưa nay thì thấy ở "Võ lâm sơn chí". Nên ở lời bạt sau đó nói: "Nhân phong tục núi sông đó ưu thắng, muốn ném vất tài lực đó để gom thâu cảnh thú đó vậy, mới làm Võ lâm sơn chí". Nhưng tìm cầu người biết ngôn xét âm ở đời, cũng chẳng khó người đó ư? Đại sư tự mong sách đó đến bái yết Thiên Tử Tể, Tướng trở xuống.

Phàm chỗ thấy thì chỉ để Chánh "Tông Ký", "Sách Phụ giáo" mà đến đó. Đến như Văn Trung Công thì đặc biệt biếu tặng tập "Võ lâm sơn chí" mới biên soạn đó vậy. Than ôi! Văn Trung Công cho rằng "Văn chương như vàng tinh ngọc đẹp ở chợ hẳn có định giá, chẳng phải người có thể tạm dùng miệng lưỡi mà khinh trọng đó vậy". Đó lại đọc "Tồ lại tập" nói: "Đợi lửa phỉ báng kia ngấm tắt, mà phóng huyền sáng nhọn đó vậy. Nhân sanh trong một đời, dài ngắn không quá trăm năm. Không cùng ở sau đó, muôn đời ở trước đó, được dài lắm là bao nhiêu ư? Được ngắn chưa đủ xót thương, chỉ có kia không thể mục nát. Danh thanh văn hạnh ấy, gièm pha hư dối, chẳng phải biện rành cũng chỉ trong thời gian trăm năm. Trăm năm sau, người đến ghét thương chẳng cùng duyên". Công bàn nghị sau đó ra, tự nhiên thấy gian xấu.

Nên trong khoảng niên hiệu Khánh Lịch (10411049) thời Bắc Tống, Đại sư mới dùng văn xướng Đạo trong thiên hạ. Nhưng đang thời đó, bọn sùng Nho bó buộc giáo, mũi nhọn của phải quấy, lửa dữ của phỉ báng mà lý rối ren. Đại sư trọn dùng Đạo đó tỏa phát mà trứ thuật đó, làm cao văn chí luận, nhân phong mà diệt khinh lờn đó như vậy. Nên người học đời sau, có nghe phong thái đó chuyên việc Đạo đó mà trông nhìn văn đó, như thoát mờ tối đến trông ngóng Bắc thần, ngưỡng kính chiêu hồi vậy. Nhưng đó, hãy đem văn chương qua một đời của Đại sư, khôi phục hoằng dương hỗ giúp tán thán Đạo giáo của đức Như Lai chí Thánh của chúng tôi giẫm trải qua người đời mà ấy vậy. Nếu họ tự trải qua tích chứa tháo thủ thì ánh ngời như châu sáng sắc ngọc tinh nhật hoa nguyệt mà chẳng đủ để sánh với ấm đượm cao khiết sáng sạch đó vậy. Nên Trần Lịch Cử biên ghi trong Hạnh nghiệp của Đại sư, nói: "Đại sư sở dĩ tự đắc mà vui ở chính mình là bởi chẳng cùng ở trung gian đó. Tuy vì Hộ pháp mà gặp nạn, nhưng chỗ đó gọi là châu sáng sắc ngọc tinh nhật hoa nguyệt là đời tuy thấy đó, có các hoạn khói mây nước lửa cháy chìm tệ khuyết mà sắc sáng tinh hoa đó hẳn ánh ngời như vậy". Nên Đại sư tự mang sách đó theo hướng Tây đến dâng hiến Thiên Tử. Sự việc hoàn tất, sắp trở lại hướng Đông về núi rừng, mà Thiền Sư Liên

-Đại Giác phú vịnh bài "Mây trắng" để nêu dẫn hạnh của Đại sư, nói là:

"Mây trắng nhân gian lại
Chẳng nhuốm sắc bụi bay
Xa rực sáng thái dương
Muôn trạng tình nào cùng
Than ôi! Khinh béo tốt
Thấy phỏng rủ cánh trời
Đồ Nam thật có cơ
Đi đang sáu tháng dứt
Sao biết sắc dẫy đầy
Vô tâm mặc tôi thích,
Chữ trời nào có xa
Buông cuộn chẳng hưu dấu".

Nhưng mà phong thái nghi mạo thanh dung của Đại sư, chỗ sở dĩ xuất hiện đó, đoán có thể thấy được vậy.

Ngày mồng mười tháng chín năm Giáp Dần (1134), niên hiệu Thiệu Hưng thứ tư thời Nam Tống. Biên ghi tại hiên phía bắc Thảo đường ở Đông giao-Ngự Khê.

LẠI TIẾP LỜI TỰA

Đại sư từ Đông Sơn đến, mới đầu dừng ở chẳng cố định. Về sau, đến ở núi Phật Nhật tại Dư Hàng, lui dưỡng lão tại Tinh xá Vĩnh An-Linh Phong, im lặng bày vết tích đó. Tuy hoặc nơi ra vào không nhất định, nhưng Đạo của Đại sư giẫm trải qua cao diệu sâu xa, mà người học cuối đường khí thức cạn gần không thể hiểu ngộ. Và, Đại sư trọn cũng chẳng chịu thấp ít vận đó để vỗ về theo có họ. Nhân đó mà than rằng: "Tôi sao có thể đục khoét tròn để thành cán vuông ư? Nghe các bậc Hiền Thánh chỗ gọi là Đắc chí thì hành Đạo đó, không thì hành ngôn từ đó mà thôi. Hành của ngôn từ còn đủ làm pháp cho cả muôn đời, khiến người học đời sau trong thiên hạ có thức độ tu sáng lánh xa tà kiến mà đi trên đường chánh, thì sao hẳn nhắm thẳng mà trao đó, bảo đó theo mình mà ra ư?"

Nhân đó, Đại sư bít cửa biên thuật sách để khảo chánh vết tích của Tổ Tông sở dĩ lại đó, làm thành mười hai quyển, và "Sách phụ giáo" gồm ba quyển. Lại khắc "Định Tổ Đồ" một mặt. Sách hoàn thành, mang đến Kinh đô, nhờ Nội Hàn Vương Công Tố hiến dâng lên Hoàng Đế Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) thời Bắc Tống, lại ghi thư để trên đó. Hoàng Đế đọc sách đó, cho là Bậc chí Thần hẳn vì Đạo chẳng vì danh, vì pháp chẳng vì thân, tán thán mến thích thời gian lâu, biểu dương nêu bày hai chữ "Minh Giáo" để phong hiệu cho Đại sư, và ban sắc sách đó đem nhập Tạng.

Lúc sách đã đưa đến Trung Thư, Ngụy Quốc Hàn Công Kỳ đọc xem đó rồi chỉ bày cùng Âu Dương Văn Trung Công. Tu Công cho là văn chương tự có đủ khả năng làm bậc thầy tiêu biểu của thiên hạ. Lại vì Hộ Tông (?) chẳng ưa thích giáo của chúng tôi, nên khi đọc xem văn đó mới nói cùng ngụy công rằng: "Không để ý trong chúng tăng lại có người như vậy. Hôm sau đáng nên một lần nhận biết đó!" Nghe thế, Đại sư nhân đến cùng ra mắt đó. Văn Trung cùng Đại sư trò chuyện trọn ngày, bèn rất khen thưởng sở học của Đại sư đủ giúp Đạo sáng tỏa. Từ đó, tiếng tăm đức hạnh của Đại sư vang tỏa khắp hoàn vũ. Sự việc hoàn tất, Đại sư bèn mua thuyền trở về lại phương Đông trọn tuổi già ở chốn núi rừng.

Đại sư tuy đối với kinh sách nội ngoại xưa nay, không gì chẳng xem học. Đến như các sách do Đại sư biên thuật, là rộng làm sáng tỏ Đạo Hoàng Cực, Trung Dung của ngoại giáo, chước lược an nguy trị loạn, quyền hành Hình danh thưởng phạt của Vương Bá, mà trọn dẫn dắt đó kết quy về Đạo vô vi tịch mặc. Đương thời người nghe ít thấy đó sánh vai vậy. Mà Đại sư khổ dùng Nội giáo tự hành luật thân mình, đoan nghiêm dùng kiêm tố thành đức làm cứ địa ở dừng, mà mến mộ cung cách làm người của Sa-môn Huệ Ước ở thời nhà Lương vậy.

Đó tích chứa chí Đạo sâu kín, nhưng điều học đó so với việc làm đó mà chưa thấy ít sai vậy. Biên thuật văn sách thì bao trùm các Sĩ Đại phu ở đương thời. Vì hạng người chẳng đoái hoài danh thật mà phải ở mình quấy ở người (nghĩa là vì Nho mà hiềm ghét Phật), mới làm "Sách Phụ giáo". Vì người học mất hiếu trái nghĩa, theo dưỡng điều họ muốn, mới làm "Hiếu luận". Vì người dệt theo trang sức từ chương mà không biết gốc Đạo, mới làm "Tán thán Đàn Kinh". Vì người cẩu thả dung hợp tự khinh mà chẳng dùng Đức tự kính thượng, mới làm "Đề văn ở Ảnh Đường Viễn Công". Vì chí chỗ mến mộ đó, nhân vì phong hóa xa xỉ của mạt tục, mới làm "Đề tựa Sơn tỳ Đường". Nhàn cảnh thắng của phong tục núi sông, muốn ném bỏ tài sức để gom cảnh thú đó, mới làm "Võ lâm sơn chí".

Đại sư thấu suốt ngằn mé xuất xứ của Thánh Hiền, uyên nguyên của tánh mạng Đạo đức, Điển nhã rõ ràng chân chánh, mênh mông sâu rộng, rất là Bác Thiệm (Rộng đủ), gọi chung đó là "Luận Nguyên". Còn như Thư, Thi, Tự, Tán, Ký, Truyện, Biểu, Khải, Minh, Chí, Đề, Thuật, Bình, Biện... của Đại sư, phải phải quấy quấy, chỗ gọi là Hào mang của Thái sơn. Đến sau khi Đại sư thị tịch ở Hồ Nam, mà thiêu đốt, có sáu vật không rã hoại, thiên hạ nghe phong đó mà không ai chẳng xoay đầu về Đông Sơn mà nghĩ tưởng dài.

Than ôi! Đại sư như mây tỏa chim bay ở giữa khoảng đất trời. Thấy Tôn quý của muôn thừa, thế đó xa tít của đất trời vậy, nhìn Vương Công quý nhân khác với mây bùn vậy. Một sớm mai đem sách biên thuật đó hiến dâng lên Thiên Tử. Thiên Tử lấy làm đổi sắc mặt, thiên hạ tự nhiên ảnh hưởng phong, mà khiến đó là Tông là Tổ, Diệu Đạo vô thượng của Phật chúng tôi sáng tỏ đến muôn đời, mà cuối cùng đáp lại chí ôm Đạo phụ giáo đó, chẳng phải công hiệu của tự tin tu thành đó ư? Người học về sau đọc sách đó hẳn có ôm quyển mà ba lần than đó vậy! Than ôi!

Đạo hạnh, Đức độ, tiếng tăm, vinh dự của Đại sư đã vượt xa, nên các người học đời sau, hoặc đương thời đang tại vị, đều tán thán là Nhân chủ sư biểu ở trong thiên hạ, và đời sau đều kính ngưỡng mà mến mộ đó, như mây trời muôn sao vậy. Cho nên có người tìm Di Phong, tưởng nghĩ vết xa, chiêm ngưỡng đọc tụng xưng tán không thôi, có như:

- Phú vịnh ca dao "Mây trắng" của Thiền sư Liên-Đại Giác ở Tịnh Nhân tiễn đưa Đại sư-(như biên ghi trước).

- "Thơ đảnh lễ tháp cốt của Đại sư" của Sa-môn Huệ Hồng-Giác Phạm ở Thạch môn-Giang Tây.

- "Cổ thơ kính điếu Đại sư" của Sa-môn Thủ Đoan-Nhiên Giới ở núi Lăng già-Nam Hải.

- "Thơ Tán thán xa kính mộ Đại sư" của Thiền sư Tu Tĩnh-người Tây Thục ở núi Thiên trụ-Long Thư.

- "Hai Thiếp viết tay tán thán Đại sư" của Thiền sư Duy Thanh Linh Nguyên.

Nay đều biên ghi vào đây, hoặc rõ ràng hoặc đơn lược, để đầy đủ nghiên tầm đọc xem, mà phát chí ý tiết tháo của người học Phật ở đời sau vậy. Phú vịnh ca dao "Mây Trắng" của Thiền sư Liên-Đại Giác ở Tịnh Nhân đã thấy trong lời "Hậu Tự" ở trên, nên đây không phiền ghi lục lại nữa.

(Nay đã lấy bài ký của Trần Lệnh cử biên thuật làm lời tựa đầu. Xưa trước có một lời tựa, không ghi tên người biên thuật, chẳng biết do người nào làm nên. Hoặc có người nói là Oánh-Đạo ôn đọc xem đó văn vẽ mỹ lệ, mà gần đây có tợ như những người khác không thể làm đó. Và trung gian thuật nguyên do làm văn đó mà chẳng kham lưu loại, chẳng khỏi tùy làm, nên gom tập chánh đó, nhưng y như cũ để biên ghi ở cuối tập).

THƠ LỄ THÁP THIỀN SƯ KHẾ TUNG

(Sa-môn Thích Huệ Hồng ở Thạch môn thuật).

Đạo tôi sánh Khổng Tử
Như tay và nắm tay
Nắm buông nên có khác
Cốt yếu tay thì vậy.
Đời sau khổ lấn lướt
Giảng tập mất uyên nguyên
Ông nhìn người gieo vết
Rối ren như cuồng điên.
Hàn Tử cũng áo Nho
Cứng cỏi xưng là Hiền
Cậy lấn làm lời dối
Đến chết chẳng đổi chừa.
Đời sau bọn học Hàn
Nhũng trường còn khá thương
Theo Danh chẳng tự tin
Chạy đuổi khéo ngôn từ
Dối bày đầu Hoàng Hựu (1)
Bay tiếng đấu ồn đầy
Chư tăng động thành đoàn
Giận ung không tự cao
Thiếu đầu chẳng rảnh dứt
Ngồi cao như khỉ xổm.
Đường Đường Đông sơn Công
Tài lớn đức cũng toàn
Răng ngà sanh gió sấm
Bút trận đầy mác vụn
Ẩn ở trên Hồ Hải
Trường canh giăng hiểu trời
Làm sách bày mạnh mẽ
Khu chống chẳng dám trước
Đàn tư tuy tỏ kính
Đoán luận đã chẳng chuyên
Sách thành tấu Thiên Tử
Một ngày muôn miệng truyền
Được khiến Sĩ thiên hạ
Muốn thấy than không duyên.
Công thành về trong núi
Cười nói đáp khói mây.
Tôi đến không kịp thấy
Núi nước tự sáng đẹp
Vào cửa vắng không tiếng
Trúc tre phủ đầy hiên
Trọn nhớ dáng tự nhiên
Cốt mắt cao thanh cứng.
Dẫn tôi chỉ tháp đá
Cỏ gai đỉnh bắc phong
Kính bái chẳng nhẫn đi
Nghe đây quanh khe suối
Thở than trong mạt vận
Đâu lại người ấy vậy
Văn chương cũng việc nhỏ
Thanh khổ chẳng chỗ tiện.
Chỉ mến chỗ công giữ
Xa vỗ vai Chư Tổ
Chầm chậm ngâm thơ công
Thời lặn đầy sông tạnh
Nguyện giữ bẻ khóa chân
Kết am phía Tây suối
Thời gian che tùng cối
Đến đây quét gạch đổ.

THƠ VIẾNG ĐIẾU THIỀN SƯ KHẾ TUNG.

(Sa-môn Thích Thủ Đoan ở núi Lăng già thuật).

Ngày mười sáu tháng mười một năm Tân Tỵ (1011) thuộc niên hiệu Kiến Trung Tỉnh Quốc (1101-1102) thời Bắc Tống, tôi mang "Viễn Công văn tập" từ Lô Sơn mà đến hướng Đông, muốn vào Tiền Đường để lưu bố cùng thiên hạ, mới riêng đến sau Tinh xá Vĩnh An-nơi ở xưa cũ của Đại sư. Trên đảnh núi tuyết phủ sương giăng, gai cỏ um tùm, tôi đến trước tháp nhỏ nơi tôn trí năm thứ xálợi lúc trà tỳ không cháy hoại, cung kính dâng bày hương thơm trà đèn... đảnh lễ để cúng dường vậy. Nhân đó, nhân nảy sinh tư tưởng quê kệch mà làm thơ cổ ngũ ngôn gần trăm vận, quỳ dài ngay thẳng tưởng thành thật trăm tâm đó, sáng rỡ như có đối diện. Bèn làm theo điệu Nam âm, cúi đầu đọc rõ đó, ngõ hầu không quên bản đó mà hãy làm men theo chí thành mến mộ kính thương đó. Lúc bình sanh, Đại sư có lời thơ rằng: "Khác quê phong tục khách chẳng ghét, chỉ muốn Nam âm lại bên tai". Tôi liền cùng dùng giằng động tây giao triệt rất lấy làm kín gần. Đại sư thị tịch lúc mùa Hạ năm Hy Ninh thứ năm (1072) thời Bắc Tống, khi ấy tôi mới tám tuổi, đó thật là tủi nhục sanh muộn trong quê hương của Đại sư. Điều làm Nam âm, không được không như vậy, tạm chẳng lìa chánh thọ, ngõ hầu chọn lựa đó vậy.

Giác Thành lại chẳng Hoàng
Tuệ Nhật sách có thực
Nếu biết sĩ vô minh
Sao để cứu gốc nghiêng.
Xa chỉ Sư Đông Sơn
Giáng linh từ Đức trời
Bày lớn yên thêm đến
Phân thân như Bồ bặc.
Pháp tôi nghiêng không lưới
Xanh vàng chẳng lường đó.
Đung đúc phỉ báng Phật
Nham nham đợi ông nghiêng.
Vừa tiết tháo quyền hành
Kiêm lãnh chức từ bút,
Dẫn ý chuyên phẩm tảo
Lắm hình ở vùng ven
Đường Thư dự chỉnh tu
Hàn ngữ bày thêm vẻ
Trộm tự sách Khâu, Kha
Chống ta hơn Dương Mặc
Tiếc kia thuật chí ngôn
Tằng rành thông Hoàng cực
Phế Đạo chuyên dùng người
Dối ác bày sức lực
Hầm đốt hẳn có đãi
Chặt vót đâu dung khắc
Ngu tục đầu dễ khinh
Thánh chúa cuối khó hoặc.
Đương thời bạn Thiền giảng
Động loại trăm ngàn ức
Riêng ai dám cành ngô
Không tay đợi huy buộc.
Chỉ sư mạnh mẽ làm
Cảm giận hình ở Sắc
Một lời thoa can đảm
Muôn quyển bày nỗi lòng.
Người quyền tước thóa bỏ
Thầm nhẹ chống lòng được
Cựa quậy than Đồng nhân
Chầm chậm từ nước Nam
Qua Sở đi đến Ngô
Trăm Thành mến tri thức
Rồng nghĩa gặp mây trời
Hổ Thiền sừng thêm cánh
Diệt lau Tây Linh phong
Phá gian Bắc Tiên Nguyên.
Viết sách học Long mãnh
Hộ pháp ngay Chưởng Ty,
Chánh Tông thuật chiêu mục
Nguyên giáo biện tức ly,

(Nghĩa là Nho giáo và Thích giáo tuy khác nhưng đều cùng nhờ nhau mà hóa vật vậy).

Núi bút xa dài lớn
Biển từ đầy nước gội
Phân Ba như sáng tỏa
Hoằng Lệ chuộng Điển thật.
Tượng Oa bù cao lớn
Sánh Vũ dẫn rạch ngòi
Động hoặc mấy trăm quyển
Kinh đời làm mẫu mực
Văn đó Hùng ngàn xưa
Nghĩa đó đặc muôn phu,
Cứ Lý theo chỗ đến
Xử đánh không chỗ khắc.
Hoàng tôi gặp Đường Ngu
Tướng tôi gặp Vũ Tắc
Ôm sách đến Tây dâng
Nhân thời mở hung bít
Mừng xem Điện minh quang
Vỗ nghĩ thêm than thở
Thưởng buộc bày tài đó
Chừa làm khuôn thiên hạ
Gọi thường săn anh tuấn
Chợt đây bỏ cung bắn
Nhỏ lánh vị Tam Công
Cao cậy thức Tứ y.
Tuệ nhật mờ lại sáng
Kinh Thiền loạn lại phong.
Rừng trí lâu nên tốt
Ruộng phước rộng phải gieo.
Tin lớn quá heo cá
Chí nhân khắp Động thực.
Lương đáng bày các kho
Từ đó tuân sắc chỉ (Lượt bớt năm vận)
Chương bay loại chiếu cuốn
Giăng bày đồng soi sét
Cối hạng nào bù bếp
Cây miệng khóa khoang im
Mới biết mạnh lăng ông

(tức tên Lý của Đại sư, vì ở đó có nhiều nam tử Di mạnh Lăng), Nguyên thệ không sót ngầm.

Kim Thang nghĩa khư khư
Kinh vị tình trong suốt. (Lược bớt hai vận)
Thế rồi nói về Đông
Mộng hồ sơn lại nhớ
Bày cửa biếc đáng nhiễm
Ngay cửa xinh nên dệt
Phong còn thanh tán làm
Tăng tuổi ngựa bạch thúc
Ai quý cầm đuốc đi
Trồng phửu thực ngày Ngô
Rừng xa tranh đuổi theo
Tông lôi khổ lạnh xót
Thiền gọi tâm hơi hẹp
Tao nhã hưng nhưng thừa
Đạo hạnh càng cao trội
Đức Danh càng sáng rỡ (Lược bớt bảy vận)
Ngồi yên Quân không sao
Lưu kệ thấy vẻ thuần
Mai lớn tiếng Ngô thử
Chẳng ta cùng tù phước

(Lúc sắp thị tịch, Đại sư lưu lại bài kệ, có nói "Chẳng tợ mai lớn già, tham theo tiếng Ngô thử = (chuột)).

An nhiên bèn thị tịch
Thôi bày khó đủ sách
Sáng phát dưới Thứu phong
Trà-tỳ lửa vừa tắt
Năm tướng bền chẳng hoại
Đẹp mềm sáng ngày mai
Rực như vàng ra đinh
Ánh như ngọc phân đá
Thức biểu không vọng phạm
Phụng pháp cứng không bít
Chúng Linh sơn đều thấy
Trông rừng thêm phát tướng
Khắc kỳ quan trước tịch
Cảnh ngưỡng động vức khác
Vương công tranh than lạ
Sĩ thứ thêm thực thà (Lược bớt 02 vận)
Cùng gom cốt Hạc lâm
Hợp táng sườn Thứu sơn (Lược bớt ba vận)
Vượn khe nhọc tự kêu
Cá Thư trùng ai ăn
Tăng sử nửa mười điều
Công Ca toàn chính vực (Lược bớt sáu vận)
Khiến tôi đến Ngô Sở
Kính mộ sư cao vời
Được ký du Lăng già
Tụng vị quá chức nem

(Đại sư có đến Đình yến gia tại Niết Xuyên tôi, và ghi về chùa núi Lăng già)

Thiết nhân đã nói chết
Chí Đạo cũng vấp chết
Nay đã ba mươi năm
Đến viếng nhọc khắc sâu
Diệu phong cao làm Tháp
Phạm Thiên rộng thành nước
Muôn vật đủ chúng thưởng
Năm mây tranh phụ giúp
Đất trời hoặc mây dứt
Biển núi có lúc nức
Đạo và Danh của Sư
Bột nhiên dài nhọn hoắt.

(Bảo Nghiêm tầm khí vị thơ đó, tuy phong điệu khí vận cao sáng mưu cứng, mà khoảng giữa, Phàm dùng việc ghép vận quá ở xa lánh, nay lược lấy từ ý đó, giản đơn câu cao nhã vượt xa, xếp thành bảy mươi ba vận, cũng có thể thấy tài chí đó hướng đến thành chí của muôn mộ vậy).

TÁN THÁN ĐẠI SƯ MINH GIÁO.

(Sa-môn Tu Tĩnh ở núi Thiên Trụ-Long Thư thuật)

Mới đầu, tôi đọc "Sách Phụ giáo" của Thiền sư Khế Tung, mến mộ văn đó lỗi lạc, có khí kỳ vĩ, mà hay phát huy Đạo của nhà Phật, để dẫn dụ các bậc Danh nho Thích tử ở đương thời không biết nguồn gốc của giáo, khiến họ thấu đạt áo nghĩa của tánh mạng, thấy tâm của Hiền Thánh sở dĩ thiết giáo phu hóa, mà chẳng đắm chìm nơi chốn phải quấy cùng đấu nhau. (Khoảng giữa có nhiều nơi phiền tạp nên lược). Như phàm bao gồm đó có Tông mà cùng sâu và vi diệu thì còn sợ người học của trong hai giáo hoặc chưa dễ hiểu được ngằn mé đó, huống là có thể rốt ráo Đạo đó mà thấy hoàn toàn đó ư? Đến lúc Thiền sư thị tịch, sau khi trà tỳ mà có năm vật không cháy hoại. Nhưng đó tuy là vỗ xếp của Thiền sư mà vì mất nên đã mới thấy tin ở học trò đó, thì chỗ tích chứa tinh túy yếu diệu của Thiền sư mà không được thấy biết ở nơi người hẳn lắm nhiều vậy.

Than ôi! Đạo đó khó truyền đến như thế ư? Tôi rất buồn thương đó. Đạo đó tuy hay hóa các bậc Danh Nho ở đương thời, mà không thể chuyển hóa hết học trò đó. Cho nên sau khi Thiền sư thị tịch, chân phong thắng quỷ đó không lắm sáng tỏ sặc sở ở đời. Đó, hoặc là tài hiếm có ở đời, âm thanh chuông vàng không đến nơi quê nhà vậy. Khí nhỏ thay? Tôi học sau ở cuối đường, chẳng kịp rưới quét nơi sân nhà mà trông nhìn ánh sáng thừa dư, nhọc đến gió lay rơi lệ có sao chẳng than của muôn năm, nên nay gom nhặt hương thơm sót lại, cúi đầu nghĩ tưởng dài, kết buộc đó để tán thán rằng:

Phía Đông Đằng Châu
Mây tía nỗi trời
Bên có Tăng Long
Tên là Khế Tung
Từ vừa bé thơ
Sống Nhân và Hiếu
Băng tuyết tự thân
Luật nghi là học
Xa trông cao liệng
Đến Ngô tới Lương
Đạo tiếp Tổ Tông
Muôn ẩn càng sáng
Vừa đang Kỳ viên
Lửa báng nỗi khắp
Tung bút thành sách
Bởi bất đắc dĩ
Thế mà đánh diệt
Hoa Đàm lại tỏa
Trong thời Gia Hựu(1)
Riêng bay Danh tài
Ân vua thường đượm
Công khanh gãy tiết
Than ôi! Bọn Tôi
Trái bày lưỡi quyết
Bèn phú về vậy
Sao đến chén úp
Thiếu lâm ăn độc
Khác vết đồng đường
Trí nhỏ tự Hiền
Nơi ở thành chợ
Ái ngại bọn ai
Lý hẳn nên vậy
Thái A ra hộp
Chán giao giết ly
Dùng đó bù đắp
Trọn chẳng như dùi
Đáp đó, đã đi
Di tích chẳng tiếp
Lạnh thay chân phong
Trọn mất khí che
Than ôi! Tép sanh
Chẳng khắc kỳ thừa
Mỗi một nghĩ đến
Khí đầy lòng ngực
Trọn sao thể làm
Chỉ thêm thẹn sợ
Mượn bút thanh phần
Báo người sau học.

ĐỀ THIẾP VIẾT TAY TÁN THÁN THIỀN SƯ

(Có hai bài, do Sa-môn Duy Thanh-Linh Nguyên thuật).

BÀI MỘT

Đại pháp của Phật chúng tôi là cội nguồn của thế gian và xuất thế gian. Ngàn Thánh muôn Linh, Đạo đức Tánh mạng, nguồn sâu gốc diệu, chẳng phải nghĩ bàn có thể kịp ứng duyên dương hóa đó vậy. Hẳn phải nhờ các bậc Khai Sĩ nhân, sức của vua tôi mở vật tin mà ngự ma ngoài. Khai Sĩ xuất hiện bởi thấy sự thông bít của vận pháp, quyết cùng đời thấu đạt đến lợi ích, chẳng cẩu thả ấy vậy. Đại sư Minh Giáo-Thiền sư Khế Tung ở Đằng Châu là người ấy vậy. Khéo đạt Huyền Tông, rộng cùng thế giải. Trong khoảng niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054), Chí Hòa (1054-1056) thời Bắc Tống, thấy ngoại đảng có người gieo rắt bệnh tật với giáo pháp tôi, thì nói: "Tôi trộm quyền Bồ-tát, làm sứ giả Như Lai, biện giải mà làm sáng tỏ đó, để độ lầm hoặc ấy vậy, khiến họ quay về với chánh thú, thật là chỗ nhậm chức vậy". Từ đó bèn biên thuật sách mà tấu trình. Được Hoàng Đế Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) thời Bắc Tống ngợi khen tán thưởng, ban sắc nhập vào kinh tạng, ban hành trong thiên hạ. Từ đó, mây ma vén sạch mà Phật nhật tỏa sáng lại vậy.

Hòa thượng đã kiến lập công đức ở giáo môn, thanh danh tinh anh tươi tốt thật mạnh nghiêm sức đồng bọn đó, nên người hơi tích chứa nhận biết đều khắp biết mà phàm chuộng ngưỡng mộ. Nhưng vì tuổi pháp gặp thời hạ suy, căn người hẹp kém, mừng tiện xuống tóc nhuộm y, tranh đua biến đổi hình phục, trộm vào nhà Phật tôi, rối tình bụi đời, lạm dự vào hàng chúng Tăng, đều là thấy nghe tư lự chẳng thoát quê kệch tục tình. Nào có hay Cao đức thắng nghĩa giảng mộ thay!

Thật Nhân Trạch nói: "Thượng nhân đang lúc đó hay thông điều nghe mà kính trọng điều mến mộ Hiền đó đối với hạng lạm xen đó nên có thể xưng vậy. Tuy lâu ở trong rừng Thiền, đượm phục hạnh nghiệp Tổ Đạo, mà đối với Đại sĩ hoằng giáo mở dẫn mắt tai, khởi chí ngóng nhìn vậy. Nên ở tại Kinh đô, chư Tăng nghe luật có trên đời, cùng Minh Giáo cùng đồng thiện sâu dày, mới phỏng hỏi đó". Kia về nói việc trước, lại nêu ra hai thiếp này để chỉ bày đó. Trạch nói: "Thượng nhân khổ cầu mà được đó, trân quý nhận lấy theo hướng Nam đem lại chỉ bày cùng tôi, như có được kỳ lạ". Nhân đó nói rằng: Người mong ngóng người đó mà trọng Di tích đó, vì đó là Danh ư? Hay là Thật ư? Nếu lấy Danh đó thì đối với kia thuộc bên ngoài vậy, nhọc có thể nhờ ở Đàm bính mà không ích đối với chính mình. Lấy Thật đó thì chí luận của minh giáo có thể khảo xét để mở bày giẫm trải đến xa lắm nhiều vậy. Người nên tìm mà nguyên cứu đó. Vả lại, tưởng kia nêu đến để tự gắng cảm thì trọn có lợi ích ấy vậy.

Ngày... tháng... năm.

BÀI HAI

Đại sư minh giáo-Hòa thượng Khế Tung tự xưng là Sa-môn Sơn Đông ở Đằng Châu, nhân từ thệ nguyện xưa trước mà xuất hiện ở hoằng Triều. Mới đầu vì các hàng Quan lại tiên sanh trong thiên hạ hoặc chưa nghiên cứu cội nguồn Đại đạo của pháp ta, mà đối với những người trong nước nhà tập học theo vết tích Phật giáo, cho đó là làm pháp của Di Địch mà miệt thị đó. Đến nỗi phá diệt đó mà cho là không để lẫn lộn hại tới Đạo của Chu Khổng ở Trung Quốc.

Hòa thượng tiếc thương họ theo cành mà bỏ sót rễ, trái nguồn mà hướng theo dòng mạch, chẳng phải nhọc gọi đó là mờ tối ấy ư? Người học Đạo của Chu Khổng có thể được gọi là tự sáng tỏ (Minh) đó, mà cùng cực thành thật (Thành) đó ư? Do Thành đó mà tận cùng Đạo đó, vì Thành là Đại Bản Đại Công của thiên hạ, bao rộng không ngoài Diệu thần thuần toàn ấy ư? Do đó chẳng tự biết, do vì không biết người vậy. Hòa thượng rộng thông cùng cực gốc Đạo giáo của Nho Thích xưa nay, hối thông vết tích luận nghị sự lý của Thánh Hiền. Như bày lưới giăng lưới, nâng cổ kéo áo, mắt phân lâng kiểm, người thấy đều sáng rõ. Nghĩa suốt lý dung, cảm hội thần phủ, mới biết phương của chỗ ra, ngôn được biện bày của Thánh nhân, đặc vết tích của giáo đó, khiến người biết đó sáng tỏ. Do đó tự trở lại sở dĩ vết tích, sở dĩ nói đó để soi chiếu bên trong đó thì linh ở rỗng rang, không có trong ngoài, không có đây kia, đâu có Hoa Di Thích Nho có thể biện ư?

Đại sư mới biên thuật sách đề là "Sách Phụ giáo", để mở bày dẫn dụ các hàng Quan lại Tiên sinh, dâng tấu Thiên Tử. Thiên Tử vui mừng tán thán đó, sắc và ban hành, mà các hàng Danh khanh cự Nho, đến như Âu Dương, Văn Trung Công các Hào sĩ đọc xem sách đó, không ai chẳng thán phục, kính mà lễ đó. Lại nhân đó, nên Đại sư soạn thuật "Chánh Tông Ký Định Tổ Đồ" để biện giải thuyết đó, cũng tấu trình Thiên Tử ban sắc hành đó. Thế rồi, Đại sư trở về Đông Ngô mà thị tịch, linh tính rất khác lạ, đầy đủ như nói trong Truyện ký, bờ tường pháp môn đó mở dẫn đường tin, tuy các bậc Tài hùng cao tăng thời xưa trước cũng chẳng hơn đó vậy. Thiền nhân Bảo Trí có được Di Thiếp đó, xin đề lời bạt, nên nắm bút viết tay, thẹn chẳng thể thuật đó trong muôn một vậy. Linh Nguyên kẻ già xin ghi:

"Chí Đạo chí ngôn
Xoay nghiêng dựng chánh
Hoàng Thiên Hoàng giác
Khơi cạn trách sâu
Lớn thay! lành thay!
Phước đượm mai sau
Sớ thuật trùng khắc
Tiếp tục từ đây".

SỚ TRÙNG KHẮC ĐÀM TÂN VĂN TẬP

Đại sư Minh Giáo thật là Bồ-tát Đại thừa, biết Phật Pháp có nạn, do đó, cưỡi xe Đại nguyện sanh lại nơi thế gian biên thuật "Sách Phụ giáo" ấy vậy. Ngày trước ở thời Bắc Tống, các hàng Cự Nho, Quan lại, Tiên sanh từng bình phẩm Văn đó rằng: "Không chỉ thông Không Tông, mà cũng là văn cách cao". Lời nói đó thật đúng vậy. Âu Dương Tử nói: "Không ngờ trong chư Tăng có người ấy ư!" Khi ấy tâm phỉ báng Phật đã rỗng rang diệt mất, chẳng còn chút gì vậy.

Xưa nay trong chư tăng, người làm văn có nhiều mà chưa từng có người cự xuất như ấy vậy, chỗ gọi là Bắc Đẩu vì một người phương Nam mà thôi.

Từ xưa trước binh biến trở lại, các bảng Kinh đều bị hư hoại, người học về sau không chỗ thấy nghe là đáng lo buồn vậy. Nay muốn trùng khắc lại tại Ngô Trung, tốn phí rất nhiều, do đó biên ghi lời sớ, ngưỡng mong các bậc Hiền nhân người học đồng Đạo, thấy đó là việc ưu thắng, được không bùi ngùi mà tán trợ đó ư? Làm nhân duyên mà xuất hiện nơi đời đều tông chủ ở Thứu lãnh, dùng văn chương mà phủ phất Thánh Đế, chỉ còn ở Đàm Tân. Sâu cùng nguồn của muôn pháp, đồng vào tạng của Tam thừa, đọc đó có thể để mắt tai của người trời, bao gồm đó có thể để quét bờ rào của Nho Thích. Người ưa chuộng sách mà chẳng ưa chuộng sách này thì sao bảo là Hiếu học? Minh Đạo mà chẳng minh Đạo đây thì đâu có thể gọi là minh Tâm? Muốn trùng khắc ở Vân gian càng rộng truyền nơi thiên hạ, khiến Vĩnh thúc thấy của ngày sau, danh trọng một thời. Gặp được Hoàng đế Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) thời Bắc Tống hỗ trợ đủ đầy, công duổi muôn xưa. Các Hiền giả đã gặp, việc ưu thắng sẽ thành.

Mùa Xuân năm Giáp tý (1384) thuộc niên hiệu Hồng Vũ (1368-1399) thời nhà Minh, Sa-môn

Nguyên Húc ở Tùng Vũ trai tại Thiên Thai biên soạn.

Như trên là do Hòa thượng Tùng Vũ vì Thủ tòa Kỳ mà chế sớ trùng khắc bộ "Minh Giáo Đại sư Văn Tập ở thời nhà Tống" ở Vân gian, đã vì hóa thành khai đến hơn hai mươi bản, vừa lúc Kỳ Công gấp làm, nên không thành tựu việc đó. Nay Thủ tòa Duệ-Thiên Toàn xót thương tà pháp thêm lớn nên phát chí kiên cố tiếp tục công việc đó. Một ngày nọ đem quyển đó qua chỗ tôi ở nơi Tinh xá Kiên Mật xin đề ở cuối. Tôi tuy không thông mẫn nhưng thấy thắng nhân đó, bất chợt nhảy nhót mà vui mừng. Vì Tập đó đã ẩn mất từ lâu vậy. Như khiến dốc hết sức lực mà thành tựu, lưu hành rộng khắp nơi đời, chánh điều gọi là đất cao Tuệ nhật ở trung thiên, chiếu sáng đường tối ở thúc thế ấy vậy. Thiên Toàn cố gắng lắm đó vậy.

Mùa Đông năm Vĩnh Lạc thứ ba (1405) thời nhà Minh, Sa-môn Hoằng Tông ở chùa Thiên Ninh làm Tăng cang Ty Đô cang tại Phủ Gia Hưng biên ghi.

HẬU TỰA TRÙNG KHẮC ĐÀM TÂN VĂN TẬP

Học có công kịp vật, văn làm khí chuyển Đạo. Học mà không thể lợi đối với vật là không học vậy, văn mà không thể diễn Đạo, là không văn vậy.

Như, phàm suy Đạo đó phát ở văn chương, bày học đó để viện giúp người, thì Thiền sư Khế Tung Minh Giáo ở thời Bắc Tống là người ấy vậy. Than ôi! Phàm, giáo Pháp của Phật chúng tôi là Tâm Pháp vậy, sanh linh đều đồng có vậy. Chỉ vì hư vọng ngăn che, không thể hiển hiện, ghé trong bốn loài, chìm giữa Lục đạo, biết đó đâu được rõ ư? Mà Đức Phật chúng tôi xót thương đó, dùng tâm Pháp này tùy theo khí mà dẫn dụ, khiến mỗi mỗi đều được ở vốn có. Hoặc có người chẳng kính ngưỡng Ân nghĩ nhớ Đức, trái lại sanh tâm gièm pha phỉ báng, đó là tự hủy hoại Tâm họ chứ chẳng phải hủy hoại gì giáo pháp đó vậy. Như điều trong giáo nói Thế trí biện thông là một trong tám nạn. Vả lại, không tin mà hủy hoại, lại chẳng phải chỗ tệ của hư vọng. Nếu ở chỗ tệ của hư vọng, hoặc có thể suốt rõ vọng tức là chân. Chẳng tin mà hủy hoại thì tự mờ tối tâm đó, tự mờ tối tâm đó, như giống đó bại mầm đó tiêu, không có ngày phát sanh lại vậy. Được không rất đáng xót thương ư?

Mà Đại sư Minh Giáo bẩm tánh vừa sanh tức biết, có khả năng thấu rõ Phật lý, học thì hẳn muốn giúp đời, chẳng phải học không vậy; làm văn thì hẳn ở minh Đạo, chẳng phải văn không vậy. Huống gì thời ấy, Học sĩ trong thiên hạ tôn sùng Hàn Tử mà chống lại đạo ta, nên khuyên sách Nguyên giáo và các Văn không thể không làm vậy. Người học gom tu tất cả đề hiệu là "Đàm Tân Văn Tập". Văn đó lưu hành ở đời, thật là yếu thuật của cứu đời minh Đạo vậy. Có thể một ngày mà không ư? Bảng cũ đã tiêu mất, mọi người đều đau tiếc. Thủ tòa Thiên Ninh ở Gia Hòa và Hiến Công-Thiên Toàn đều là Đệ tử của Thiền sư Hoằng Biện-Tuệ Nhãn ở Đông Hải, thí hết y vật của cải để khắc bảng lại mà lưu hành. Đó cũng là Tâm của minh giáo ấy vậy. Bảng khắc đã hoàn thành, xin ghi lời tựa ở sau cuối. Kẻ mông muội hậu sanh, muộn đọc văn tập đó, có chẳng được nắm bút theo đi đó tán thán. Nay được ghé tên ở sau cùng, cũng chẳng là may mắn lắm ư? Cũng chẳng là may mắn lắm ư?

Ngày mồng một tháng tư năm Canh Dần

(1410), thuộc niên hiệu Vĩnh Lạc thứ tám thời nhà Minh, Sa-môn Văn Tú trú trì Kính Sơn Thiền Tự, tại Phủ Hàng Châu, Chiết Giang ghi thuật.

(Trọn bộ).

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]