TẠP TẠNG
SỐ 2115 - ĐÀM TÂN VĂN TẬP
BÀI KÝ VỀ HẠNH NGHIỆP CỦA ĐẠI SƯ MINH GIÁO-ĐÀM TÂN
SÁCH PHỤ GIÁO (PHẦN THƯỢNG) NÓI VỀ NGUYÊN GIÁO
SÁCH PHỤ GIÁO (PHẦN TRUNG) NÓI RỘNG VỀ NGUYÊN GIÁO
SÁCH PHỤ GIÁO (PHẦN HẠ) LUẬN VỀ HIẾU
CHƯƠNG 1: MINH HIẾU (Nói rõ về Hiếu)
BIỆN GIẢI VỀ BÁ DI VÀ LIỄU HẠ HUỆ
THUẬT VỀ VUA THÁI TÔNG THỜI TIỀN ĐƯỜNG
THƯ VẠN LỜI TẤU DÂNG HOÀNG ĐẾ NHÂN TÔNG THƯ
THƯ DÂNG TẤU HOÀNG ĐẾ NHÂN TÔNG THƯ (Tiếp theo)
THƯ KHẢI, THƯ DÂNG HÀN TƯỚNG CÔNG.
BỨC THƯ THỨ HAI DÂNG TRÌNH HÀN TƯỚNG CÔNG
BỨC THƯ THỨ BA TRÌNH LÊN HÀN TƯỚNG CÔNG
BỨC THƯ THỨ TƯ KÍNH TRÌNH LÊN HÀN TƯỚNG CÔNG
THƯ-KHẢI-TRẠNG THƯ GỬI QUAN NGẠN TRƯỜNG BÍ THƯ
THƯ GỬI CHƯƠNG BIỂU DÂN BÍ THƯ
THƯ GỬI HAI BÍ THƯ CHƯƠNG PHAN
THƯ GỬI VIÊN NGOẠI CHU CẢM CHI
THƯ ĐÁP BÍ THƯ VƯƠNG CHÁNH TRỌNG
NHẬN THỈNH MỜI ĐẾN Ở NÚI PHẬT NHẬT, TRƯỚC DÂNG TRẠNG VĂN CÙNG THÁI QUÂN MÔ THỊ LANG.
GỬI CÙNG THÔNG PHÁN VÀ CÁ C QUAN DƯỚI.
TRẠNG VĂN GỬI CÙNG TĂNG QUAN TÔN TÚC Ở CHƯ SƠN.
TRẠNG VĂN TRÌNH BÀY BẮT ĐẦU ĐẾN NÚI PHẬT NHẬT.
TRẠNG VĂN TIẾP HÀNG CHÂU TRI PHỦ QUÁN VĂN HỒ THỊ LANG
TIẾP TRẠNG VĂN TRƯỚC CỦA TIỀN ĐƯỜNG TRI HUYỆN
TIẾP THƯ TRƯỚC CỦA THIỀN SƯ ĐẠI GIÁC
CẢM TẠ VƯƠNG MẬT GIÁN TRI PHỦ BAN TẶNG THƠ.
CẢM TẠ TIỀN ĐƯỜNG PHƯƠNG THIẾU PHỦ
GỬI THẨM THIẾU KHANH PHỎNG THĂM
GỬI TỔ LONG ĐỒ BÃI NHẬM HÀNG CHÂU
TRẠNG VĂN TRỞ VỀ CHƯƠNG GIÁM BỘ MÔN.
GỬI THIỀN SƯ NGUYỆT Ở THẠCH MÔN.
GỬI THIỀN SƯ NAM Ở HOÀNG LONG.
ĐÁP THIỀN SƯ NAM Ở NÚI HOÀNG LONG.
ĐÁP THIỀN SƯ VIÊN THÔNG NHƯỜNG VIỆN.
CẢM TẠ TĂNG CHÁNH BẢO NGUYỆT Ở HÀNG CHÂU.
LUI TIỆC TRÀ KIM SƠN (Hồi đáp)
PHÁT CÚNG DƯỜNG CHỦ GỬI ĐÀN NA.
- Quyển đầu: Hạnh Nghiệp Ký (tức lời tựa, do Trần Thuấn Du soạn)
- Quyển 1: Sách phụ giáo (phần Thượng): Nguyên giáo, Khuyến thư và Lời tựa (gồm bốn bài).
- Quyển 2: Sách phụ giáo (phần Trung): Nói rộng về Nguyên giáo (và lời tựa gồm 26 bài).
- Quyển: Sách phụ giáo (phần Hạ): Luận về Hiếu (và lời tựa gồm 13 bài),-Tán Đàn Kinh; Luận về Chân Đế không Thánh.
- Quyển:-Luận về Hoàng Cực; giải nghĩa Trung Dung (05 bài).
- Quyển 5:-Luận Nguyên (gồm 40 bài):-Lễ Nhạc,-Đại Chính,
- Chí Chính, Thưởng Phạt,-Giáo hóa,-Hình Pháp,-Công Tư,-Luận về chữ Tín,-Nói về mạng, Hỏi về Hoàng Đế.
- Quyển 6:-Luận Nguyên: Hỏi về Quân binh,-Bình về từ nhường, Hỏi về tước Bá,-Nói về Tốn,-Nhân Văn,-Tánh Đức,-Tồn Tâm,-giải thích về Phước,-Bình giải về Ẩn,-Thí dụ về Dụng,-Thích nghi của vật,-Thiện ác,-Tánh Tình,-Chín phái triết học,-bốn đầu mối.
Quyển 7:-Luận nguyên:-Trung Chánh,-Minh phân,-Xét Thế,-Hình Thế,-Quân Tử,-Biết người,-Luận về Phẩm chất,-giải thích gièm pha,-Phong tục,-Nhân Hiếu,-Hỏi kinh,-Hỏi về tương giao,-Đạo Thầy,-Đạo Đức,-Trị Tâm (Hết phần luận nguyên).
- Tạp trước (gồm 06 bài):-Ghi lại xưa trước,-Nói về Văn,-Bàn nghị trả lời nắng hạn,-Biện về Di Huệ,-Thuật về vua Thái Tông thời tiền Đường,-giải về Dịch Thuật.
- Quyển 8:-Tạp trước (gồm 06 bài):-Bài Tiêu Dao, Tây sơn / di văn,-Văn / ai Đồ Long,-ghi về Rồng ngâm,-giải thích về Tịch Tử,-Tịch Tử giải ngạc.
- Thư: Thư vạn lời dâng tấu Hoàng Đế Nhân tông.
- Quyển 9:-Thư:-Tiếp theo trước, Thư dâng tấu Hoàng Đế Nhân Tông.
- Thư khải (gồm 13 bài):-Dâng Hàn Tướng Công (có 04 bài).
- Dâng Phú Tướng Công,-Dâng Trương Đoan Minh,-Dâng Điền Xu mật,-Dâng Tăng Tham Chính,-Dâng Thiệu Nội Hàn,-Dâng Lã Nội Hàn,-Dâng Âu Dương thị lang,-Dâng Tăng Tưởng Công,-Cảm tạ Lý Thái Úy.
- Quyển 10:-Thư Khải Trạng:-Thư gởi Quan Ngạn Trưởng Bí,-Thư đáp Như Bí Hiệu,-Thư gởi Chương Biểu Dân Bí,-Thư gởi Chương Bí và Phan Bí,-Thư gởi Mã Trứ Tác,-Thư gởi Viên Ngoại Chu cảm.
- Thư đáp Bí thư Vương Chánh Trọng.-Nhận sự thỉnh mời của núi Phật Nhật trước, dâng Trạng cảm tạ Thái Quân Mô Thị lang,-Trạng văn gởi Thông Phán và lại Quan,-Trạng văn gởi Chư Tôn Túc Tăng quan ở các chùa,-Thư gởi các Đàn Việt,-Trạng văn Trình bày bắt đầu đến núi Phật nhật,-Tiếp Trạng văn trước của Hàng Châu tri phủ Quán Văn Hồ thị lang,-Tiếp Trạng văn trước của Tri huyện Tiền Đường,-Tiếp thư trước của Thiền sư Đại giác,-Cảm tạ Vương thị độc thị lang,-Cảm tạ Thẩm Tư Phong đề hình,-Cảm tạ thơ của Vương Mật Giáng Tri phủ,-gởi Doanh Châu Lý cấp sự,-gởi Quảng Tây Vương Đề Hình,-gởi Trần Lệnh cử Hiền Lương,-gởi Nhuận Châu Vương cấp sự,-gởi Vương Đề Hình Học sĩ,-gởi Lục Thôi quan,-gởi Trương Quốc Bác Tri huyện.
- Cảm tạ Tiền Đường Phương Thiếu Phủ,-Cảm tạ Nhân Hòa Triệu Thiếu Phủ,-Cảm tạ Thẩm Thiếu Khanh Kiến Phỏng,-gởi Tổ Long Đồ bãi nhậm Hàng Châu,-Thơ tiễn gởi Dương Công Tế,-Trạng văn trở lại chương lam Bộ môn.-gởi Thiền sư Nguyệt ở Thạch môn,-gởi Thiền sư Nam ở Hoàng Long (Bức riêng),-Đáp Thiền sư Nam ở núi Hoàng Long (Bức kế tiếp).-gởi Thiền sư Viên Thông,-Lại gởi Thiền sư Viên Thông,-Đáp gởi Thiền sư Viên Thông nhường viện,-Đáp Trưởng lão Vạn Thọ,-gởi Trưởng lão Vạn Thọ,-Cảm tạ Tăng Chánh Bảo Nghiệp ở Hàng Châu,-Đáp hồi lui tiệc Trà Kim Sơn,-gởi Tri sự Đông Lâm,-gởi Sở Thượng nhân,-Phát cúng dường chủ gởi Đàn-na.
- Quyển 11:-Đề lời Tựa (gồm 23 bài):-Đề tựa Truyền Pháp chánh Tông Định tổ đồ (cùng Tổ Đồ dâng trình),-Đề tựa Lục Tổ Pháp bảo Ký,-Đề tựa Ngữ lục của Hòa thượng Lương ở Minh Châu,-Đề tựa Võ Lăng tập,-Đề tựa Nguyên Tông tập,-Đề tựa Thơ Di Thạch.
- Đề tựa mười bài vịnh của Pháp Vân,-Đề tựa Thơ Pháp Hỷ Đường,
- Đề tựa Sơn Tỳ Đường,-Đề tựa Thú Hiên,-Đề tựa Sơn du xướng hòa thi tập,-Lời bạt thơ Sơn Du,-Đề tựa gởi Nguyệt thượng nhân canh tự.
- Đề tựa Chu cảm Chi Canh Tự,-Đề tựa Tống Tầm Dương Diêu giá bộ.
- Đề tựa thơ đưa tiễn Quách Công Phủ Triều Phụng,-Đề tựa bài ca đưa tiễn Vương Trọng Ninh,-Đề tựa thơ đưa tiễn Chu Cảm Chi,-Đề tựa thơ đưa tiễn Chu Công Tế,-Đề tựa thơ đưa tiễn Bí thư Chu Cảm Chi trở lại phương Nam,-Đề tựa thơ đưa tiễn Lâm Dã Phu tú tài về Triều Dương.
- Đề tựa bài ca đưa tiễn Sư Phạm Tài Cát về Thiên Thai,-Đề tựa đưa tiễn Pháp Sư Chân về Lô Sơn.
- Quyển 12: Chí, Ký, Minh, Bi (gồm 12 bài):-Võ lâm sơn chí,
Du Nam Bình Ký,-Giải Độc Tú Thạch Danh,-Bài Ký Vô Vi quân Sùng thọ Thiền viện Chuyển Luân Đại Tạng,-Bài Ký các Thiên Phật ở Viện Sùng Phước tại Chương Châu,-
Bài minh Song các ở Lặc Đàm.
- Bài minh Thanh Hiên,-Bài minh Nam Hiên,-Bài minh Cựu Nguyên.
- Đề vách tường Đình Hà Hương,-Bia Văn Trung Tử,-Khúc ký Pháp sư Từ vân ở Thiên trúc.
- Quyển 13:-Bia, Ký, Minh, Biểu (gồm 07 bài):-Bài minh tháp Thiền sư Cần ở Tư Thánh, Tú Châu, Bài ký ảnh đường của Hòa thượng Xiêm ở Tư Thánh, Tú Châu,-Bài minh Tháp Đại sư Phổ Từ ở Linh Ẩn, Hàng Châu.-Biểu văn Tháp Đại đức Cổ Thiệu ở chùa Bảo Thọ núi Thạch Bích.-Ai từ Trí Chính Thị Lang Trung Sơn Công,-Ai từ Lý Hối Thúc Thôi Quan,-Ai từ Chu thúc trí.
- Thuật, Đề, Thư, Tán, Truyện, Bình (gồm 12 bài):-Thuật Hành Đạo Xá lợi ở chùa Tinh Nghiêm tại Tú Châu,-Ảnh Đường Viễn công ở Lô Sơn.-Đề Mai Phước truyện hậu, Thư văn Trung tử truyện hậu, Thư Lý Hàn lâm tập hậu.-Thư Chư các Võ Hầu Truyện. Thư Phạm Tuy truyện hậu.-Tán truyện Đoàn Thái Úy,-Tán Hảo Thiện,-Truyện Lạc Thiền, Truyện Hàn Khoáng, Bình Sách Bắc Sơn Thanh Công.
- Quyển 14: Phi Hàn: phần thượng (Bài 1 và lời Tựa)
- Quyển 15: Phi Hàn: Phần trung (Bài 2-13)
- Quyển 16: Phi Hàn: Phần Hạ (Bài 14-30)
- Quyển 17: Thơ Cổ Luật (gồm 60 bài)
- Quyển 18: Thơ Du Sơn xướng hòa cùng Dương Công Tế Ngộ xung mai (gồm 19 bài).
- Quyển 19:-Phụ lục trước thuật của các Sư:-Bài tựa Ngự Khê của Sa-môn Thích Hoài Ngộ ở Thảo Đường, Đông giao.-Lời tựa tiếp theo do Oánh Đạo Ôn thuật.-Thơ ở tháp Thiền Lễ Tung ở Huệ Hồng, ở Thạch môn (gồm 31 vận).-Thơ Thiền sư Thủ Đoan Điếu Tung ở núi Lăng Già (gồm 100 vận, lại dẫn).-Tán tu Tĩnh ở núi Thiên trú, Long thư (và Dẫn).-Đề sau Thủ thiếp của Đại sư Minh Giáo do Linh Nguyên sưu (02 bài).-Thiên thai Tùng vũ trai do Nguyên Hức soạn (và lời tựa).
- Sớ Ngữ.-Lời tựa Chỉ Nam do Tăng Cang Ty Đô Cang Thiên Ninh Hoằng Tông ở Phủ Gia Hưng soạn.-Lời tựa của Văn Tú Trú trì Kính Sơn ở Hàn Châu soạn.
-------------------------------------
Khắc bản đá tại núi Linh Ẩn, Hàng Châu Thượng thư Đồn điền iên ngoại lang Trần Thuấn Du soạn.
Ngày mồng bốn tháng sáu năm Hy Ninh thứ năm (1072) thời Bắc Tống, Sa-môn Đại sư Minh Giáo thị tịch tại chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi với năm mươi ba Tăng lạp. Qua ngày mồng tám tháng ấy, y theo pháp Trà tỳ, gom thâu di cốt, trong sáu căn có ba căn không cháy rã, xương đảnh đầu lưu xuất xá-lợi, sắc màu hồng trắng sáng đẹp, hình trạng như hạt đậu lớn, và ba vật thường hành trì như chuỗi châu bằng gỗ cũng không hư hoại. Khi ấy, các hàng Tăng sĩ cùng cả mọi người trong xứ truyền báo cho nhau, kinh ngạc tán thán đảnh lễ. Đến ngày mồng bốn tháng sau, gom tất cả các thứ không tiêu cháy rả hoại ấy an táng tại bên tả viện Vĩnh An, nơi chỗ ở ngày trước của Đại sư. Lúc sanh tiền, Đại sư thường cùng tương giao với cư sĩ Trần Thuấn Du, chuyên đàm luận nói về ngằn mé của sanh tử mà thôi. Nay gặp hậu sự như vậy, không thể không thuật nói lại đó.
Đại sư húy Khế Tung, tự là Trọng Linh, hiệu là Tiễm Tử. Người xứ Đàm Tân-Đằng Châu, vốn giòng họ Lý, thân mẫu người giòng họ Chung. Năm lên bảy tuổi, Đại sư xuất gia, năm mười ba tuổi được độ và xuống tóc, qua năm sau, thọ giới Cụ túc. Năm mười chín tuổi, Đại sư du phương xuống Giang Tương, vượt Hành Lô. Trên đầu thường mang đội tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm và xưng niệm danh hiệu Bồ-tát mỗi ngày mười vạn biến. Từ đó, tất cả các thứ Kinh sách chương cú ở trong thế gian tuy chẳng tập học mà đều hay tốt. Đại sư đắc pháp với ngài Thông Công ở Động Sơn, Xuân Châu. Trong khoảng niên hiệu Khánh Lịch (1041-1049) thời Bắc Tống, Đại sư vào Ngô Trung; đến Tiền Đường, vui thích ở Hồ Sơn mới bắt đầu cởi giá vậy. Bấy giờ, các kẻ sĩ trong thiên hạ học làm cổ văn, mến mộ theo Hàn Thối Chi, bài bác Phật giáo mà tôn sùng Khổng Tử. Ở Đông Nam có Chương Biểu Dân, Hoàng Ngao Ngung, Lý Thái Bá rất là hùng kiệt, các học giả đều tôn sùng đó. Trọng Linh (Đại sư) riêng sống một mình soạn thuật nguyên giáo, luận về Hiếu có hơn mười bài, nói rõ về Đạo của Nho giáo và Thích giáo là Nhất quán, để chống lại lý thuyết ấy. Các ông kia đọc xem đó, đã mến thích văn từ ấy, lại lo sợ lý ấy ưu thắng mà chẳng thể đoạt nổi, nhân đó mới cùng giao du.
Phàm gặp các kẻ sĩ Đại phu vốn bài xích Phật giáo, Trọng Linh đều khẩn khoản vì họ nói đó. Do đó mà người bài xích ngầm dứt, và về sau mọi người ưa thích Đại sư càng đông nhiều. Trọng Linh ngợi ca họ vậy. Đại sư ở trong một phòng thất lặng lẽ không tích chứa vật gì, cùng người đàm nói thanh bạch, lững thững đến trọn ngày. Khách nếu là những kẻ sĩ không tu khiết hành nghi thì không thể đến vậy. Bấy giờ, có hai Khanh lang công tuổi đã già nua trở về, rất muốn bạn kết giao ngoài vật, thường muốn đồng đi đến Kính Sơn nói cả Hành sắc, Lang Công cũng phong Ấp vào dự vậy. Khi đã thấy gặp Trọng Linh mà có lấy làm tôn kính cung dưỡng đó. Trọng Linh biết đó mà chẳng chịu đi nên sai người đến cảm tạ Lang Công rằng: "Từ chỗ Tôi ưa thích nào phải cầu giàu sang mà cầm nắm roi ư?" Sự thanh khiết của Đại sư đại loại như vậy.
Khoảng trong niên hiệu Hoàng Hựu (10491054 thời Bắc Tống), Đại sư bỏ chỗ ở ấy theo hướng Nam đến Thành Sơn, sau đó không bao lâu, lại bỏ chỗ đó để trở về. Đại sư lại trước thuật "Thiền Tông Định Tổ Đồ". "Truyền Pháp Chánh Tông Ký". Đại sư trước tác các sách ấy là vì bùi ngùi xót thương sự lăng trì của Thiền môn, nhân đó xét khảo trong các kinh điển. Vì từ sau Đức Phật, Tôn giả, Đại Ca-diếp riêng được Đại pháp nhãn tạng làm Sơ Tổ, đổi chuyển dần xuống Bồ-đề Đạt-ma là hai mươi tám đời Tổ đều kính nhiệm phú chúc, chẳng lập văn tự, nên gọi đó là truyền riêng ngoài giáo. Ở điểm không sao có thể quan xét. Lý Công Cẩn có được sách ấy, lại khâm trọng danh cao của Đại sư, tấu trình ban tặng pháp y phương bào sắc tía. Trọng Linh lại suy nghĩ: "May sanh gặp thời Thiên tử và Đại thần đều hộ đạo đạt pháp", mới ôm sách ấy đem đến Phủ Doãn long đồ Vương Trọng Nghĩa ở chốn kinh đô. Quả nhiên dâng tấu trình, vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1062) thời Bắc Tống đọc xem rồi ban sắc chiếu giao cho Viện truyền pháp biên theo thứ tự để ban bày tán thán, và bèn ban tặng Đại sư hiệu là "Minh Giáo". Trọng Linh lại dâng biểu chối từ, vua không chấp thuận. Trong triều, từ hàng Thừa tướng trở xuống không ai mới gặp mà chẳng tôn trọng Đại sư, lưu giữ mời ở lại tại chùa Mẫn Hiền, Đại sư không nhận, xin trở về lại Đông Nam. Thế rồi có người giảng giải Phú Đồ ghét Đại sư có lời lưu truyền riêng mà xấu hổ tông tộc ấy chẳng còn chỗ gọi là hai mươi tám đời tổ, mới cùng tạo Thuyết cho đó là chẳng phải vậy. Trọng Linh nghe thế rất lấy bực mình nên lại trước thuật, rộng dẫn các kinh luận của Thánh hiền, các tập lục xưa nay để làm chứng có đến vài vạn lời. Những kẻ sĩ, hiền giả mà mến chuộng Phật Pháp, luôn luôn đến mà bài xích, oán ấy lâu dài vậy. Có người tuy bình sanh sâu nặng với Trọng Linh còn Đại sư chẳng thể cùng mọi người đồng quên khoảng phải quấy ấy. Mãi đến lúc Đại sư thị tịch, những điều luận nghị phải phải quấy quấy của ba tấc lưỡi, rốt cùng chỉ có vài vật không hư hoại cũng đủ để chứng minh đó.
Than ôi! Khiển kẻ cùng đoạt đó, bất công biện thuyết đó chẳng khế hợp ư? Đạo thì sao để đến thế ư? Tuy nhiên, sở dĩ Trọng Linh tự đắc mà vui với chính mình bởi chẳng dự ở đó, đâu có thể vì hạng thấy cạn ít nghe mà nói ư? Trọng Linh ở Đông Nam tối hậu mật học, Thái Quân tìm đến Thống soái Hàng Châu, thỉnh mời an đặt Đại sư ở núi Phật Nhật, lễ kính nồng hậu. Nhưng Đại sư lời cao hạnh trội nên chẳng thiếu học giả đến tựa nương, người chẳng thể theo vậy. Đại sư có các đệ tử là Từ Dũ, Động Thanh, Động Quang trước thuật sách từ Định Tổ Đồ mà xuống, gọi là "Gia Hưu Tập", lại còn có "Trị Bình Tập" gồm hơn trăm quyển, cả thảy có hơn sáu mươi vạn lời. Người cậu là Samôn Pháp Đăng khắc phụng thành tạng đó để tin cho đời sau.
Ghi ngày mồng năm tháng chạp năm Hy Ninh thứ tám (1075) thời Bắc Tống.
-------------------------------
Sa-môn Khế Tung ở Đông Sơn, Đàm Tân, Đằng Châu soạn.
Vạn vật có tánh tình, xưa nay có sanh tử. Nhưng mà sanh từ, tánh tình Sanh Tử mới đầu chẳng phải là không cùng Nhân mà có đó. Tử hẳn có nhân ở Sanh, Sanh hẳn có nhân ở Tình, Tình hẳn có nhân ở Tánh. Khiến muôn vật nổi chìm ở sanh tử vốn do tình làm lụy đó vậy. Có Thánh nhân quán sát rộng mới suy nhân ấy ở trước sanh, chỉ bày nguyên do nó lại vậy, chỉ sự thành ấy ở sau chết, bày nguyên do nó tu vậy, nên dùng Đạo ấy dẫn dắt thiên hạ. Vạch tình ngụy ở hiện nay, vốn hẳn thành ở tương lai. Phàm, sanh đã có trước, có sau cùng với hiện nay, há chẳng là ba đời ư? Vì khéo thành ở tương lai, bởi nguyện do tu ở hiện nay, thì nay mới cùng thông, do nó đã tích tập trước, đoán có thể thấy vậy. Tình vốn phát xuất từ tánh, đều là tình vậy. Giả sử tình tập có thiện ác, mới hóa độ vậy thì ngầm tự nhiên, cùng loại đó tương cảm mà thành. Điểm thành tình tập ấy có mỏng dạt, có dày dặn, có khi ấy có lớn có nhỏ. Thánh nhân thích nghi đó, nên Thánh nhân phô bày pháp ấy làm Ngũ thừa, làm Tam tạng. Riêng Ngũ thừa lại cao vợi xuất hiện, lắm nhiều ấy chẳng thể tính kiểm. Với thượng cực thì làm Thánh đạo đó, với hạ cực thì làm nông, làm thương, nghề nghiệp, thuốc thang, trăm cách, việc xấu nhỏ ở trong thế tục, đều phô bày nguyên do ấy vậy. Nhưng cùng với Ngũ thừa đều gồm nó ở Tam tạng. Cùng lớn trong đó thì đứng đầu là Ngũ thừa:-Một là Nhân thừa;-hai là Thiên thừa;-ba là Thanh văn thừa;-bốn là mười hai Duyên giác thừa;-năm là Bồ-tát thừa. Trong đó, ba thừa sau là bao trùm dẫn dắt hạng ấy siêu nhân xuất thế ấy vậy. Khiến hạng lớn ấy thanh khiết mọi dơ bẩn, thẳng đến chân tế, thần mà thông đó, ở đời không được lén nhìn đó. Còn hai thừa trước do vì tình đời dính chặt mà dục đó không thể liền bỏ dứt. Căn cứ tình ấy mà chế định đó.
Về Nhân thừa tức là năm giới:-Một là không sát sanh, nghĩa là phải mến quý sự sống, không thể vì mình mà hung bạo với một vật nào khác, không chỉ chẳng ăn thịt nó vậy.-Hai là không trộm cắp, nghĩa là với vật bất nghĩa thì không lấy, không chỉ chẳng xin mà lấy vật của người khác.-Ba là không Tà dâm, nghĩa là chẳng quấy loạn với người chẳng phải vợ hay chồng.-Bốn là không vọng ngữ, nghĩa là không dùng lời nói khinh thường người khác.-Năm là không uống rượu, nghĩa là không làm say loạn để tu tâm đó.
Với Thiên thừa thì mở rộng năm giới đó thành mười thiện:-Một là không sát sanh,-Hai là không trộm cắp,-Ba là không Tà dâm,-Bốn là không vọng ngữ. (Bốn điều đó nghĩa đồng như ở năm giới).-Năm là không nói lời thêu dệt, nghĩa là không trang sức lời quấy,-Sáu là không nói lưỡi đôi chiều, nghĩa nói việc người không nói sau lưng,-Bảy là không nói lời thô ác, nghĩa là không mắng rũa, cũng còn gọi là không nói lời phi nghĩa,-Tám là không tật đố, nghĩa là không ganh ghét đố kỵ,-Chín là không sân nhuế, nghĩa là không để sự phẫn hận tích chứa nơi tâm,-Mười là không Si mê, nghĩa là không mê mờ với mọi điều Thiện ác.
Người gồm tu cả mười Thiện ấy thì quả báo do đó mà sanh lên trời vậy. Còn người tu năm giới trước, vốn do đó mà làm người vậy. Nếu như trong Thiên hạ mỗi mỗi đều lấy đó mà tu thì nếu không sanh lên trời, mọi người cũng đều thành thiện vậy. Mọi người đều hiền thiện mà ở đời chẳng bình trị, thì điều đó chưa từng có vậy.
Xưa trước, vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Long 424452) thời tiền Tống bảo cùng bề tôi là Hà Thượng Chi rằng: "Vừa có được Bài luận của Nhan Diên Chi và Tống Bích trước thuật, phát minh Phật pháp nghĩa lý rất sáng tỏ, đều là khai mở dẫn giúp ý người, nếu khiến khắp cả mọi nơi đều cảm mỹ hóa đó, thì Trẫm sẽ khoanh tay ngồi đợi hưởng thái bình vậy, đâu còn phải làm việc gì?" Hà Thượng Chi nhân đó tiến tới tâu: "Phàm, trong làng có trăm nhà mà mười người trì Năm giới tức mười người thuần thục. Trong Ấp có ngàn nhà mà trăm người tu mười Thiện thì trăm người Hóa mục. Giữ gìn mỹ phong đó thì dạy khắp hoàn vũ, có cả ức ngàn cửa nhà thì có trăm có trăm vạn người có đức Nhân. Phàm người hay thực hành một việc thiện thì dứt trừ được một việc ác, dứt trừ một việc ác thì chấm dứt một hình luật, chấm dứt một hình luật ở một nhà, thì muôn hình luật sẽ chấm dứt trong một nước. Vậy là Bệ hạ nói ngồi đợi hưởng Thái bình là thật đó".
Lời nói ấy được đó vậy, nếu đem Nho giáo mà so sánh thì cùng với chỗ gọi Ngũ thường Nhân Nghĩa..., tuy khác tên hiệu mà đồng một thể vậy. Phàm, Nhân nghĩa là dấu vết bình trị của một đời Tiên Vương, đem dấu vết ấy mà bàn nghị thì mới đầu chẳng khác gì nhau, nếu dùng lý để suy đó thì mới đầu chẳng đồng. Dấu vết xuất phát từ Lý. Lý noi theo dấu vết. Dấu vết là ngọn, Lý là gốc. Quân tử tìm cầu gốc mà bỏ ngọn có thể vậy. Nói rằng: "Xem cái sở dĩ đó, nhìn cái nguyên do đó, xét chỗ an đạt đó, người sao giấu diếm được ư? Người sao giấu diếm được ư?" Mạnh Tử nói: "Chẳng đo lường gốc ấy mà tề bằng ngọn ấy, thì cây gỗ tấc vuông có thể khiến cao vút đến núi lầu". Có nghĩa là, mọi sự việc hẳn phải đo lường ở gốc nó mà tề bằng ngọn nó, và sau mới nói đó. Nếu như đem dấu vết của một đời mà trách đến ba đời, nào khác gì đem giẫm trải mười bước cật hỏi giẫm trải trăm bước, mà sao dấu vết ấy lẫn lộn vậy, há chẳng là ta ít ư? Đó đâu biết chỗ đến xa gần thế nào và bước giẫm ít nhiều làm sao vậy.
Nhưng, Thánh nhân thiết lập giáo mà phô bày khác thích nghi. Nói đến một đời thì phải thuận theo tình người đó vì trị trong khoảng thời gian của hình sống ấy. Nói đến ba đời thì phải chánh ngay thần người đó, chỉ bày duyên nghiệp ngoài sống chết. Trong Thần nông chỉ nói: "Trăm thứ thuốc thang tuy khác mà đồng ở điểm trị liệu bệnh". Hậu Tắc Phiếu nói: "Trăm thứ lúa thóc tuy khác mà đồng ở điểm để người ăn dùng". Thánh nhân lập giáo chẳng đồng mà đồng ở điểm làm thiện vậy.
Có người hỏi: "Đạo của Phật là vì chỉnh trị ba đời, chẳng phải chỗ tiếp nhận của tai mắt. Ông lấy gì để làm rõ đó?"
Xin đáp: "Tôi cho rằng, người chết mà thần thức chẳng chết, lấy đó mà nghiệm vậy. Thần thức ở nơi con người tợ như lửa ở trong củi, trước củi tuy cùng lửa đồng cháy, nay sở dĩ lửa hết hay thường cháy ư?"
Lại hỏi: "Thần lý mịt mờ, hình thể đó đã tan rã, ai có thể khống ngự chỗ đến đó, quả thật là làm người ư? Hay là bay lặn ở các loài khác ư?"
Xin đáp: "Đó cũng có thể thông hành vậy. Nếu dùng nghiệp của tình tập ấy mà suy thì quả báo ấy không sai. Há ông không nghe trong Hồng Phạm nói về Ngũ Phước và Lục cực ư? Với Ngũ phước, có nghĩa là người dùng Tâm ấy hợp với Hoàng cực và Thiện dụng là năm, nên dùng hưởng ứng mà khuyên đó. Với lục cực, có nghĩa là chẳng dùng Tâm ấy hợp với Hoàng cực, mà Thiện dụng là sáu, nên dùng oai mà cản trở đó. Phàm, hình thể đó còn mà ứng của thiện ác đã vậy. Khi Thần thức đó đi thì quả báo thiện ác há chẳng vậy ư? Trong kinh Phật nói: "Hết thảy các pháp lấy ý sanh hình, tức là nghĩa ấy vậy".
Lại hỏi: "Phật nói dứt tình mà điều làm lại như vậy, há chẳng phải là tình ư? Hay Phật cũng có tình ư?"
Xin đáp: "Hình tượng khắp đều có tình, sao riêng Phật không tình ư? Hạnh Phật là tình, mà chẳng tình vậy".
Lại hỏi: "Việc làm của Phật đã thuộc loại Nhân nghĩa, mà Nhân nghĩa sao được chẳng gọi là tình ư?"
Xin Đáp: "Nhân là thế nào? Phải chăng nghĩa là mến quý và ban cho. Nghĩa là thế nào? Phải chăng nghĩa là thích nghi? Thích nghi và mến quý đều xuất phát từ tánh mà là dụng của hình thể. Đó chẳng phải tình là gì ư? Căn cứ tình ấy mà nói thì Nhân nghĩa là thiện của tình ấy vậy. Tình mà làm đó, và thế ấy gần quyền, chẳng tình mà làm đó và thế ấy gần lý. Tánh tướng đồng, mà tình tướng khác vậy. Khác vậy mà thiên hạ ít chẳng cạnh tranh, đồng vậy mà thiên hạ ít chẳng an, Thánh nhân muốn dẫn đó đến chỗ an, do đó suy tánh mà đồng với quần sanh; Thánh nhân muốn dứt sự cạnh tranh đó, nên suy lòng mà ở nơi muôn vật. Gọi là vật thì không kể là côn trùng, không kể là động vật hay thực vật, Phật đều ngang bằng mà ban cho đó, chẳng khiến tổn mất đó. Gọi là Sanh thì không kể sang hèn, chẳng kể Hiền ngu, Phật đều đồng nhất mà dẫn dắt đó. Khiến tự tìm cầu đó, suy tánh ấy mà tự đồng với quần sanh, há chẳng có nghĩa là lớn thật thay? Suy lòng ấy ở khắp muôn vật, há chẳng có nghĩa là Đại từ ư? Đại từ nên cảm người đó vậy, sâu rộng thật nên hóa vật đó vậy. Thế nên, trong Trung Quốc ngoài Tứ-di Bát man, người nào nghe lời của Phật mà làm thiện tức có phước, làm ác tức có tội, và ít chẳng lường nhưng gom thâu tâm ác đó, vui vẻ nêu ý thiện đó, giữ thuyết ấy thành khẩn chẳng dám để mất đó. Nếu vang hưởng Năm giới và Mười thiện, từ các hẻm xóm đều đồng cảm hóa mà thực hành đó, từ làng đến ấp, từ ấp đến châu, từ châu đến cả nước, những bậc quan sĩ của Triều đình, cung dịch Thiên tử, tu hành đó rất chí thiết, thì không sát sanh tức là Nhân, không trộm cướp tức là Liêm, không tà Dâm tức là Chánh, không dối vọng tức là Tín; Không say, không loạn, không nói lời thêu dệt tức là thành thật; Không nói lời hai lưỡi, không gièm pha, không nói lời xấu ai, không nhục mạ, không thù oán, không tật đố, không tranh đua, không ngu si, không mê muội. Có được một điều đó đủ để thành thật ở tự thân và lại thêm nơi người, huống gì Năm giới Mười thiện toàn đủ, thì đâu có kẻ làm người em mà chẳng kính đối với anh, kẻ làm con mà chẳng hiếu đối với cha, kẻ làm vợ mà chẳng kính đối với chồng, kẻ làm bạn mà không đem điều thiện dẫn nhau đến cùng, kẻ làm bề tôi mà chẳng trung với vua, người làm vua mà chẳng nhân từ đối với dân, phải trong thiên hạ không có như vậy, người làm vậy chỉ sợ họ qua cùng chẳng kịp làm khối nghiệm vậy. Phật đâu tạm kết khối ở người vậy. Như vậy thì Đạo của Phật không riêng của một người làm đó, ước cũng có ý đối với nước nhà thiên hạ vậy, nào từng chẳng còn vua tôi cha con ư? Đâu phòng ngại gì đạo sanh dưỡng ư? Chỉ vì nó lưu xuất từ sửa trị mà dàn bày đó, cũng là lý của hóa ấy ẩn mà khó thấy, nên ở đời chẳng được mà tin hết.
Dịch nói: "Im lặng mà thành đó, chẳng nói mà tin ở đức hạnh". Mạnh Tử nói: "Dân mỗi ngày chuyển đổi thiện mà chẳng biết làm đó". Há chẳng vậy ư? Con người lầm hoặc ở tình lâu dài vậy, tình quá lắm đến nỗi tệ bạc. Thánh nhân mến thương đó, làm pháp đó tương giao sửa trị, nên gọi là Đế, gọi là Vương. Tuy đạo ấy có lắm phương mà còn chẳng rãnh cứu, dùng Nhân ban ân đó, dùng Nghĩa chỉ giáo đó, thưởng là muốn tiến triển thiện đó, phạt là muốn cản trở ác đó, tuy phạt ngày càng nhỏ, thưởng ngày càng tốn phí mà thế tục càng mỏng dạt. Nếu như nghe có chẳng dùng thưởng phạt mà được dân chuyển đổi thiện xa lìa ác, thì các Thánh như Nghiêu Thuấn cũng hẳn vui vẻ mà đến đó, đâu có nói người ấy chẳng nhân. Đạo của tôi mà làm thiện thì tôi chẳng lấy thiện ấy. Hẳn Đạo tôi mà làm thiện mới đáng thiện đó vậy. Nếu là Thánh nhân mà riêng Đạo đó thì sao có Đạo của Thánh nhân mà riêng ư? Phàm, Rồng đi quẩy động nói sông biển mà mây khí tự nhiên nổi cả bốn bề, Hổ dữ gầm tiếng ở núi rừng mà gió dữ vì vèo cùng lại. Bởi các loại ấy tự tương ưng vậy. Nên người thiện chẳng thân gần mà người thiện đồng đó, người ác chẳng ân nghĩa mà người ác dung đó. Thuấn ưa hỏi mà xét lời nói gần, che ẩn điều ác dương bày điều thiện, đến khi nghe một lời thiện thấy một hành động thiện, thì như ngoài sông bến biển tự nhiên chẳng thể cản ngăn vậy. Võ nghe lời nói thiện thì kính bái. Khổng Tử thường nói rằng: "Người thiện, tôi chẳng được mà thấy gặp đó. Được thấy có thường đó có thể vậy". Lại nói: "Ba người đồng đi, hẳn có một vị là thầy của Ta vậy". Chọn người thiện mà theo đó, còn người bất thiện thì sửa đổi đó. Nhan Tử có được một điều thiện thì thành khẩn phục ứng chẳng dám để mất đó, Mạnh Tử nói: "Ưa thích điều thiện, tốt lành ở thiên hạ". Lại nói: "Thành thật thân có Đạo, chẳng rõ điều thiện chẳng thành thật thân ấy". Đó là năm vị Quân tử, từ xa xưa là người rất vui thích điều thiện, vì loại thiện ấy hẳn đồng loại ở nơi Phật. Giả sử họ chẳng chết mà thấy Đạo tôi lưu truyền là hẳn tự nhiên theo mà suy đó. Ôi! Cũng là điều không may của đời sau vậy! Không được họ cùng gặp mà cùng chứng, còn khiến học trò của hai nhà do dự mà chẳng cùng tin. Ôi! Tình người không ai chẳng chuyên ở chính mình mà sơ lược ở người, phải đây mà quấy kia. Quấy phá thì tranh giành, chuyên quá thì bó buộc. Quân tử thông mà thôi vậy, nào hẳn tạm chuyên. Quân tử đáng mà thôi vậy, nào hẳn tạm quấy. Ăn uống nam nữ mọi người đều hay biết quý, mà Quân tử chẳng quý, chỗ quý của Quân tử là họ quý hay biết Đạo và nhận rõ Lý. Nay có Đạo lớn Lý xa như vậy mà tôi chẳng biết chẳng nhận rõ. Tôi thẹn với người nhiều lắm vậy!
Thường thử luận rằng: "Phàm muốn người tâm phục mà tự tu, chẳng gì bằng cảm được bên trong đó; muốn người nói thuận mà vâng theo, chẳng gì như chế bên ngoài đó. Chế bên ngoài đó nếu chẳng dùng nhân đạo mà thiết giáo thì không thể đạt đến thành quả. Cảm bên trong đó nếu chẳng dùng Thần đạo mà thiết giáo thì chẳng thể hẳn hóa đó. Nên Phật làm đạo trước dùng ở Thần mà sau dùng ở nhân, bởi cũng có nghĩa là cảm bên trong mà chế bên ngoài vậy. Thần, nghĩa là tinh thần của con người, chẳng có nghĩa là việc của Quỷ thần dâm hoặc, nghĩa là người tu tinh thần ấy thiện và giẫm trải thực hành đó, sống thì được phước tuệ, chết thì thần ấy trong sạch bay cao. Tinh thần chẳng tu, giẫm trải thực hành tà vọng, thì sống không an vui mà chết thì thần ấy chịu trách phạt. Nên thiên hạ nghe đó, tâm họ cảm động, ác thì cản trở, thiện thì như thế. Ngầm lặng chuyển hóa như thế, đời nào chẳng có. Nhưng giáo ấy làm ở Trung Quốc hẳn có vì Thế số cùng thích nghi mà lại, ứng tâm người cùng cảm mà đến. Không như vậy thì người nào dùng pháp ấy mà tu đó, đất trời ứng đó, Quỷ thần noi theo đó? Giả sử thích nghi đó số tính đó chưa hết, lý tương cảm chưa cùng, thì sao có thể mến thương đó mà tạm còn, ghét đó mà tạm đi. So sánh việc người đó như Vương như Bá, tức là thuận thời ứng người mà làm vậy, há chẳng vậy ư? Huống hồ họ có diệu đạo ngầm quyền, lại đối với người ấy mà làm việc tà ư?
Phàm, Diệu đạo nghĩa là thanh tịnh tịch diệt, nghĩa là họ diệt hết hệ lụy mà thuần thanh tịnh bản nhiên ấy vậy. Chẳng có nghĩa khi chết họ sanh lấy không hoang, là diệt tuyệt đó vậy. Lấy đó để đến thì thành Thánh thần, vì vượt ngoài đời vậy. Ngầm quyền nghĩa là Đạo khởi dụng của chẳng dụng, nghĩa là họ cứu vớt quần sanh ra ngoài tình đắm ấy vậy. Xét hóa vật đó tự hóa thì Hoàng đạo gần đến, xét quyền dụng đó ứng với đời thì không đâu chẳng đến. Nói về Hóa đó hẳn đời sau chẳng thể đến đó, nói về Quyền đó im lặng rõ đó thì không đời nào không đến. Xưa kia Thánh nhân sắp tịch diệt, đem Pháp đó giao cho Vua, giao cho Đại thần, giao cho Trưởng giả và người có năng lực, chẳng phải giao riêng mình mà tạm tôn ở người vậy. Bởi muốn nhân đạo đó mà hành đạo, nhân thiện đó mà làm thiện. Kinh của Phật hẳn cũng lắm phương vậy. Học trò đời sau chẳng thể dùng thích nghi mà trao cho người. Đến nỗi khiến người tin đó quá tin, khiến vua có nịnh thiện xúi dục, liền vất bỏ nước làm nô lệ xuống dưới. Ở đời có người hiểu thiển cận bèn muốn bỏ có nghiệp chuyên thắng Tăng đến cao. Đó chẳng có nghĩa là dùng tâm Phật mà hành đạo vậy. Đâu phải trong Kinh chẳng nói là Chư Phật tùy nghi giảng nói Pháp ý thú khó hiểu, nên người làm Phật chẳng chỉ mặc áo nhuộm màu cạo tóc mà thôi. Nhưng Phật dụng tâm như vậy há nhỏ thông ư? Đó có muốn dùng như Dương Mặc mà gièm pha đó. Phàm, Dương Mặc là ngưng trệ một mà bó buộc ở trần tục, lấy đó mà so sánh với Phật cũng chẳng quá lắm ư? Người đời chẳng tham cứu Phật lý rõ ràng, người học Phật nhân đó mới lầm hoặc cho rằng thuyết đó không điển cứ. Sự thấy của Phật vượt ngoài người xa, sao có thể vì mình mà không thấy mà so sánh với cái thấy của người ư? Cho rằng lời Phật nói nhiều kiếp là hư dối ư? Ở đời hẳn có tích chứa tháng mà thành năm, tích chứa năm mà thành đời, lại sao biết tích chứa đời mà không thành kiếp ư? Giả sự việc ấy xa vời, tai mắt chẳng xúc tiếp mà cho đó là không như vậy, thì điều nói của Lục nghệ là việc trên đời, nay chẳng nhân truyện đó mà ai thân gần trông thấy đó, đó có thể gọi là hư dối ư? Cho rằng, lời Phật rất là hư dối ư? Ở đời hẳn có người rong tâm vượt giữa không mà đi, tuy bốn góc trên dưới sâu thẩm nào từng có bờ mé, so sánh đó với Phật nói là thế giới ấy không cùng, nào chẳng vậy ư? Cho rằng lời Phật giáo hóa là hư dối ư? Ở đời hẳn có người trong mộng mà mộng, vừa lúc mộng ấy mà việc họ gặp cùng thân ở đời và vừa mộng ấy hoặc đồng hoặc khác, không gì chẳng loại ấy. Trong mộng đã mộng thì sao biết trong chết chẳng có hóa ư? Điều Phật thấy đã xa mà vật Phật biết cũng nhiều. Nên Thánh nhân mở rộng giáo đó để giáo hóa nhiều loài, muốn họ không chỗ đến mà chẳng hóa đó. Nay nói, Phật là Thánh nhân ở phương Tây, pháp ấy thích nghi với man di, mà chẳng thích nghi với Trung Quốc, đó cũng do các bậc Tiên Nho chưa suy nghĩ vậy. Thánh nhân là tôn xưng của người có Đạo che trùm lớn khắp, há có lớn có Đạo mà chẳng được gọi là
Thánh nhân sao? Và khi có Đạo của Thánh nhân truyền đến mà chẳng thực hành ư? Nếu vì người đó xuất sanh từ Man di nên vậy thì như Thuấn là người Đông di, Văn Vương là người Tây di, mà đạo họ tương tiếp tỏa ngời thực hành ở Trung Quốc. Có thể người đó là Di mà chống Đạo đó ư? Huống gì Phật xuất sanh vốn chẳng phải Man di vậy?
Hoặc có người nói: Phật chỉ nói về tánh, tánh thì để cùng như Trung Dung nói vậy, mà không dùng điều Phật làm. Đó lại chẳng phải vậy. Như Phật của tôi nói về tánh, cùng sách đời đồng nhất vậy, là Thánh nhân đồng tánh ấy vậy. Đồng tức là đó, mà khác sao dùng xử đó? Như nước nhiều được đồng đó thì sâu làm sông biển, đất nhiều được đồng đó thì tích chứa làm núi non. Đại nhân nhiều được đồng đó thì mở rộng làm Đạo đức. Than ôi! Tôi sao có thể nhiều được đồng người đó, đồng thành thật tâm đó, đồng trai giới thân đó, đồng suy đức đến với người, đem phước của tôi và người thân để giúp Quân Vương liêm chính với thiên hạ vậy.
Lại nói: "Sao quá nhàm chán vậy ư? Bọn ông tạp nhiên đầy trong thiên hạ chẳng thuộc bốn hạng dân, tự bày bố thí báo ứng đó để ăn mặc nơi người. Không làm khốn khổ Thiên hạ cũng đã may lắm vậy, lại sao có thể bổ ích trị bình đời đó và đem phước đến với Quân Vương và người thân ư?"
Xin đáp: Có vậy, ở điều tôi nói ông, ông cũng biết môn luận đức nghĩa của Tiên Vương mà chẳng tính công đức ư? Phàm, Tiên Vương chế định về dân, vì sợ đời tệ, dân hỗn tạp mà dễ loạn bèn vì đó mà phòng ngăn. Nên bốn hạng dân đó khiến mỗi tự thuộc hạng họ, đâu phải cấm dân không được vì lợi mà cùng dân làm ân huệ? Như nay Phật im lặng mà thành lời thì thiện, đến đâu thì đem Đạo đó để cảm hóa người, bỏ ác mà theo thiện, một ăn mặc đó thừa để đãi người chẳng phải nhàm vậy. Nếu chẳng thể như thế tức tự tội của người đó, đâu phải pháp của Phật sai lầm ư? Mạnh Tử nói: "Ở đây có người, vào thì hiếu ra thì để". Giữ Đạo của Tiên Vương để tiếp đãi người học sau, mà chẳng được ăn nơi ông, sao ông tôn quý xe kiệu tượng gỗ mà khinh thường người làm nhân nghĩa vậy? Nho gia há chẳng vậy ư?
Từ thời Nghiêu Thuấn trở về trước, dân đó chưa phân bốn hạng, ở thời đó mọi người đâu đều là nông hay công mà chưa nghe họ ăn dùng không đủ. Đến đời Bình Vương (Cơ Nghị Cửu 770-719 trước Tây lịch) thời Đông Chu, việc chế tĩnh điền còn áp dụng mà dân đã thiếu thốn lại tệ hại. Đến thời nhà Tần phế bỏ Vương chế mà thiên hạ càng nhiễu loạn. Lúc bấy giờ Phật và Lão đều chưa có làm gì, há cũng bởi giáo ấy đưa đến bốn hạng dân mà làm dịch lệ vậy ư? Người sống trong đất trời, ăn dùng của họ sợ vốn có phần, ông cũng là lo cho đời quá lắm, vì tính toán của người rất ước lược. Báo ứng là, như Nho gia luôn nói rằng: "Tích chứa thiện có an vui, tích chứa ác có tai ương" cũng rõ rồi vậy. Nếu nói về Bố thí thì Phật vì người đó muốn có chỗ bố thí ban huệ hẳn xuất phát từ thiện tâm. Tâm quả thật là thiện so với tốt chứng thì có thể chẳng ứng đó, ai làm dối bày ư? Phàm xả thí ban huệ thật khó có thể của tình người. Đó nếu như có thể làm được điều khó thể, thì làm thiện ấy cũng chẳng đạt đến ư? Luận Ngữ nói: "Như có rộng bố thí đối với dân mà hay cứu tế đông nhiều", đó thì thế nào? Có thể gọi là Nhân ư? Khổng Tử nói: "Việc gì ở Nhân, hẳn là Thánh vậy". Nghiêu Thuấn còn bệnh ở đó, bởi nói Thánh nhân khó đó, cũng sợ họ chưa thể làm vậy. Phật hẳn lấy phải mà khuyên đó, ý cũng cởi mở người ăn Kinh mà rỗng rang thiện tâm họ vậy. Ở đời nên trông nhìn đó cùng người làm ban thí, thì công tư như thế nào? Chẳng nên ngạo ở chỗ ban thí ấy vậy. Lễ giúp có việc ở trời đất quỷ thần, tuy một ngày cúng tế hẳn vài ngày trai, bởi muốn người chân thật tâm họ mà trong sạch thân họ vậy. Do đó, cầu hẳn có phước ở đời vậy. Nay Phật làm tâm đó thì lớn mạnh thành thật, trai giới thì trọn đời, so với vài ngày tu trai giới đó, phước cũng đạt đến vậy. Há hết không chỗ giúp ư?
Hoặc nói: Nam có vợ nữ có chồng, giữ trọn vẹn tóc da vì kính phụng di thể của cha mẹ, đó là Đạo nhân luân vậy. Thế mà bọn ông trái lại tự làm tu hành đó siêu nhiên, muốn cao hơn thiên hạ, nhưng tu đó lại ngõ hầu gì ư? Làm sao đủ để biện giải đó?
Xin đáp: Người làm Phật, trai giới tu tâm, nghĩa lợi chẳng thủ, tuy danh cũng quên. Đến lúc toại thông ở Thần minh, làm đức đó ước cũng đạt đến vậy. Suy đạo đó đối vời người thì không vật gì chẳng muốn thiện đó, làm Đạo đó ước cũng lớn vậy. Dùng Đạo để báo ân, ân nào chẳng báo. Dùng đức để nối dõi đức, đức nào chẳng nối dõi? Mình tuy chẳng cưới vợ mà đem Đức đó giúp cha mẹ, hình thể tuy bên ngoài có hủy hoại mà dùng Đạo đó cứu tế vậy. Thân Thái Bá há chẳng khuyết hình thể ư? Mà đó cũng là Đức của Thánh nhân vậy. Bá Di Thúc Tề há chẳng không cưới vợ, lớn lên đến nơi núi rừng ư? Mà đó cũng là Hiền của Thánh nhân vậy. Mạnh Tử thì suy đó là: "Bá Di là người thanh bạch của Thánh vậy". Chẳng nghe vì khuyết hình thể không cưới vợ mà thiếu đó. Ông riêng quá với học trò của tôi ư? Phàm ở đời chẳng khuôn phép đối với Đạo đã lâu. Tuy cha anh Hiền như Nghiêu Thuấn, Chu Công còn chẳng thể hẳn chế định đối với con em họ. Nay, đời cách Phật xa, giáo cũng sắp đến thời cuối, sao được không người tà cậy vào tu để trốn yếu ư? Tuy pháp sắp thế nào đi nữa, trong rừng lớn hẳn có cây chẳng phải là gỗ quý, trong ruộng rộng hẳn có mầm móng chẳng thật, ngay đó có thể vậy. Không thể vì người mà phế hủy Đạo.
Lại nói: Lời nói và giáo như rõ ràng, thật có thể chuộng vậy. Nhưng mà thuyết của biện giáo đều bày ở mới nay, so sánh đó ai là ưu thắng ư?
Xin đáp: Ông già ngu vậy! Nếu như vậy đều là giáo của Thánh nhân, con nhỏ sao dám liền bàn nghị! Nhưng Đạo của nhà Phật tôi, Nho gia cũng trộm thường nghe đó, như Lão gia thì tôi rất lưu ý, chẳng đặng đừng mà nói đó. Các giáo cũng như đồng nước do lội vào mà gắng phơi bày có cạn sâu. Thánh nhân của Nho gia là người trị thế, còn Phật Thánh nhân là người trị xuất thế vậy.
Năm sách của tôi vừa ban xuất chưa đầy tháng, mà đã có khách tìm đến cửa nói rằng: "Kẻ hèn tôi nghe sơ về Đại Đạo, vừa thấy như nói rộng về nguyên giáo, có thể gọi là lội vào sâu của Đạo ấy. Khuyến thư là bởi đó cảnh răn tiệm của đời vậy. Phần lớn người học hẳn trước từ cạn mà sau sâu, muốn đó chẳng phiền mà dễ vào vậy. Như nay trước nói về giáo nghĩa rộng, mà sau khuyến thư, kẻ hèn tôi chẳng hiểu đó nghĩa là gì?"
Xin đáp: "Đây tôi không phô bày nghĩa khác, lần lượt lấy nguyên giáo đây, nói rộng nguyên giáo cùng nhân mà làm. Nên lấy đó theo thứ lớp mà xếp bày ấy vậy".
Người khách lại nói: "Kẻ hèn tôi hẳn muốn ông đưa khuyến thư đến trước mà bày nói rộng về giáo lui sau, khiến người trông xem đó trước sau có thứ tự men từ cạn đến sâu, cũng chẳng tốt lành ư?" Tôi im lặng chấp thuận vậy mà người khách lại xin đó rằng: "Nếu năm sách tuy mỗi mỗi đều có đề mục của nó, chưa như gần mà gọi tên chung đó, khiến lưu truyền trăm đời mà chẳng lìa nhau, cũng chẳng cùng tốt lành ư?"
Tôi theo đó mà cảm tạ người khách ấy rằng: "Nay các vị quan liêu Tiên sinh nhàm chán Đạo của tôi đã đông nhiều, riêng ông lại khéo ưa thích mà giúp đỡ đó. Ông có thể gọi là dốc lòng với Đạo, và có công đối với làm thiện vậy". Liền vì đó mà tôi bảo thợ chuyển dời từ hai thuyết tăng thành ba pho, gồm cả năm sách mà đặt tên đó là "Sách Phụ giáo" vậy.
Về dụng ý của tôi khi làm khuyến thư, đã có người hỏi: "Lấy gì để khuyên ư?" Xin đáp: "Khuyến có nghĩa là phàm người Quân tử phải tự tin tâm họ, sau đó mọi sự tùy theo tên gọi mà làm đó. Xưa trước có Thánh nhân tên là Phật, trước tiên chứng đắc nhân tâm rất mực chí chánh, mới muốn suy đó cùng khắp thiên hạ đồng như vậy. Mà người học trong thiên hạ trái lại không thể tự tin tâm họ như vậy bèn quả quyết cùng bài bác thuyết của Phật. Để chăm chuyên tên gọi đó, tôi thường vì hạng người đó mà xót thương vậy. Phàm tên gọi của Nhân sinh sao thành thật ở nơi tâm, nay bỗng nhiên đó nói thành thật, mà thuận theo tên gọi khư khư, mê hoặc thật quá lắm vậy? Phàm, tâm là gốc Đạo nghĩa của Thánh nhân. Tên gọi là quyền khiến thiện của Thánh nhân. Chuyên ở quyền đó mà gốc đó chẳng xét, đó làm thiện, có quả thật thiện ư? Đó làm Đạo nghĩa có quả thật Đạo nghĩa ư? Ngày nay, người học lấy vừa hợp nghĩa làm lý, lấy hành nghĩa làm Đạo. Đó chỉ là Đạo lý trung tiết việc bên ngoài, chưa dự vào đạo lý Đại đạo của Thánh nhân. Phàm, Đại lý hẳn là chủ của thường Đạo, phàm phu mọi vật chẳng tự làm chủ đó mà bị làm đó quả có đáng ư?
Ở thời nhà Hán, có người tên là Mâu Tử từng trứ thuật sách để luận về Phật Đạo nói rằng: "Đạo làm vật thì ở nhà có thể vì phụng sự người thân, trông coi việc nước thì có thể vì chỉnh trị dân chúng, riêng sống một mình có thể vì tự trị thân, giẫm trải mà thực hành thì khắp đầy đất trời vậy". Đó là nói về thế đạo nhờ Phật đạo mà làm căn bản ấy vậy. Phàm Sách của Quân tử từng biết tâm họ như thế nào ư? Biết đó mà cẩu thả bài bác đó, tức là tự khinh thường tâm đó vậy. Nhưng đây chẳng chỉ ngay tâm người như vậy, mà tâm của đất trời cũng vậy. Và tâm của Quỷ Thần các loại khác cũng đều như vậy, mà đất trời Quỷ Thần càng không thể vì đó mà khinh thường đó vậy. Nhưng đây chỉ xem thấy qua sách của Bách gia, mà Bách gia mới đầu đã hết vậy. Phật là cùng cực sâu mầu vi nhiệm, vì tận cùng sự biến của sanh tử, vì thông sự đi lại của Thần minh, cho đến ở núi Đại Diệu, nên người đời dùng Pháp đó mà phụng sự trời đất thì trời đất ứng đó, dùng sách đó làm cốt yếu ở Quỷ thần thì Quỷ thần thuận đó. Đến như người trong bốn biển dùng thuyết đó mà bỏ ác theo thiện, không đợi phải khen của tước thưởng, rõ ràng vẫn hướng đến mà tự hóa. Đó không gì khác vậy, bởi suy cho cùng, Đạo ấy thật sự cùng đất trời muôn vật đều đồng, và trời người Quỷ thần tự nhiên cùng cảm mà như thế vậy".
Lại nói: "Đó, tôi biết như thế, mới đầu theo tôi, tên gọi giáo mới là như vậy".
Xin đáp: Phàm muốn tên gọi đó mà khuyên đó, chỉ thật sự ở làm thiện, thì học trò của Thánh nhân hẳn nhiên đã đạt đến vậy, nào hẳn nhờ bài xích Phật mới là Hiền ư? Nay có người thường ngày làm thiện vật ở đó, vì đó đã chuyên, đến lúc ngủ thì mọi việc làm của họ trong mộng cũng ngẫu nhiên. Đang như vậy thì người ấy dùng tên gọi là mộng ư, hay dùng là hồn mộng ư? Đó hẳn dùng hồn mà mộng ấy vậy. Như vậy thì thiện và ác thường cùng tâm thân gần, sao phải nhọc đem tên gọi khoe khoan với đời mà chẳng nhìn lại tâm phách ấy ư? Quân tử tự khinh trọng, quả thật như thế nào ư? Xưa kia, Hàn Tử vì thấy Phật pháp riêng hưng thạnh, mà ghét người đời thời bấy giờ kính phụng Phật mà chẳng dùng phương đó. Tuy dùng sách để đè ép đó, đến gốc Đạo đó mà Hàn Tử cũng rất suy trọng đó, nên trong lời tựa tiễn đưa Sa-môn Cao Nhàn, Hàn Tử nói: "Nay Đại sư Cao Nhàn người giòng họ Phù Đồ, một chết sống mở ngoài dán chặt. Vậy Tâm ấy hẳn lạnh dạt không nơi phát khởi, đó đối với đời hẳn điềm nhiên không chỗ tham đắm". Còn tôn xưng Thiền sư Đại Điên thì nói: "Rất thông minh, nhận rõ Đạo lý". Lại nói "Thật có khả năng ngoài hình hài dùng Lý để tự thắng, chẳng bị sự vật xâm loạn". Tâm của Hàn Tử đối với Phật cũng có chỗ Thiện ư? Mà Sách Thiền của Đại Điên cũng nói rằng: "Hàn Tử thường cùng hỏi Pháp ấy". Đó hẳn là vậy. Đến lúc Hàn Tử làm Giáng Châu Thứ sử Mã phủ Quận hành trạng mới nói rằng: "Tư Đồ Công qua đời, chích cánh tay hút máu viết kinh Phật hơn ngàn lời, mong lấy đó để báo đức". Lại nói: "Sống chịu tang có quả hơn hạnh người". Lại nói: "Nhén hút điểm lớn đó làm hành trạng, gá mượn lập ngôn ở Quân tử mà mưu đồ đó chẳng hủ bại". Đó đâu phải hết việc chẳng phải làm Phật ấy ư? Hàn Tử là Hiền nhân, gặp việc chế biến, đang tự có quyền đạo. Vừa lúc nhường nhún giòng họ Lão thì Hàn Tử nói: "Đó thấy nhỏ vậy, ngồi đáy giếng trông xem trời bảo là trời nhỏ, chẳng phải tội trời vậy". Lại nói: "Thánh nhân không bậc thầy cố định". Học trò của Tránh Hoàng, Sư Tương, Lão Đam, Đàm Tử, tuy Hiền đó mà chẳng kịp Khổng Tử. Khổng Tử nói: "Trong ba người cùng đi hẳn có một vị là thầy của ta". Đó cũng có nghĩa là Khổng Tử mà bắt chước Lão Đam vậy, cùng chư Tăng hỏi Tư Mã Thiên về việc Khổng Tử hỏi Lễ ở Lão Đam đồng loại vậy. Nhưng Lão Tử mỏng dạt với Lễ, đâu chuyên giảng nói Lễ ư? Đó cũng còn Đạo ấy vậy. Nghiệm xét sách của Thái Sử Công thì Khổng Tử nghe Đạo ở Lão Tử là rõ ràng vậy. Xưa kia, Mạnh Tử xua đuổi kẻ phu làm Dương Mặc, mà Hàn Tử cùng Mặc nói rằng: "Khổng Tử hẳn dùng Mặc Tử, Mặc Tử hẳn dùng Khổng Tử, nếu chẳng cùng dùng thì chẳng đủ làm Khổng Mặc". Nho gia chẳng chuộng nói việc sống chết quỷ thần, mà Hàn Tử nguyên là Quỷ xưng Thần kỳ của Liễu Tử Hậu ở La Trì mà chẳng nghi ngờ. Hàn Tử nào từng dính chặt ở một mối mà chẳng tự thông ư? Hàn Tử là Hiền thánh, há chẳng định phải quấy đó mà nói trái lòng ư? Người đời sau sẽ tìm cầu đó nơi tâm Hàn Tử, chẳng hẳn theo lời đó nói vậy".
Lại nói: "Tôi đối với sách của Nho gia tôi, thấy tâm đó cũng lâu vậy, đến lúc thấy thuyết phục tánh của giòng họ Lý công tự phát rõ, không chấp thủ nơi Phật vậy. Chỉ khác chẳng hạn chọn giếng mà uống, sung đói chẳng hạn chọn bếp mà ăn, được ông xét tâm đó làm thiện chẳng hạn, có thể vậy, đâu ép người hẳn theo nói tôi mà không như vậy. Các sách khác tuy thấy thuyết tánh mạnh so sách lớn, sợ có chỗ chưa tận cùng vậy. Tôi thấy bản Triều chúng ta đây soạn "Cao Tăng Truyện" nói là
Lý Tập Chi từng đến nghe pháp ở chỗ Đạo nhân Duy Nghiễm. Và lấy sách của giòng họ Lý rõ ràng đó mà vi chỉ thật như được ở Kinh Phật. Chỉ văn tự và viện dẫn đó là khác vậy, nhưng Phật cũng có phần nhờ các Quân vương phát minh ư?"
Xin đáp: "Tuy nhiên, ông vì hết Đạo, của ông ư? Nói ở đây tôi tạm muốn các ông dễ hiểu vậy, chứ vội hết Đạo của tôi thì sợ ở đời lừa dối lời tôi mà cùng chẳng tin vậy, chớ người đã mong đọc xem sách tôi đều là nói rộng về nguyên giáo thì có thể rõ ràng vậy".
Giáo hóa của thiên hạ là thiện mà thôi vậy, còn pháp của Phật chẳng phải thiện ư? Sao các ông lại bài bác đó? Đó hẳn vì giáo ấy và giáo của mình chẳng đồng nên vậy. Đó há chẳng phải điểm mà Trang Tử gọi rằng: "Người đồng đối với mình thì có thể, còn chẳng đồng đối với mình tuy thiện vốn bất thiện gọi là kiêu căng vậy". Tôi muốn các ông vì công mà chẳng làm kiêu căng vậy. Luận Ngữ nói: "Người nghe nhiều, chọn điều thiện mà theo đó". Lại nói: "Quân tử đối với thiên hạ không thích nghi không gì chẳng sánh cùng nghĩa. Thánh nhân ép đề cũng chước thiện ấy mà lấy vậy. Nào từng vì cùng với mình chẳng đồng mà bỏ điều thiện của người ư?" Từ khi Tam Đại chánh sách của họ đã suy mà ác ở đời càng lắm nhiều, lễ nghĩa gần như chẳng rỗi riêng trị, mà pháp của Phật mới truyền bá đến các Hoa hạ, bèn cùng Nho gia đều khuyên, mà ở đời cũng vừa hợp hóa đó. Người chuyển đổi thiện xa ác có vậy, người tự được dùng để chánh tánh mạng có vậy, mà dân mãi đến nay nhờ đó. Nên tôi nói rằng Phật giáo mới cùng giúp và làm tốt đẹp đời vậy. Chỉ tại minh số tự nhiên, người chẳng thể tạm thấy được, lấy lý mà ngầm so sánh đó thì không gì chẳng như vậy. Nên pháp của Phật làm lợi ích ở thiên hạ, đè ép cũng đạt đến vậy. Nay nói Phật làm hại ở Trung Quốc, lời nói ấy quá lắm vậy. Quân tử sao chưa suy nghĩ đó? Đại khái nếu là việc hại, chẳng kể lớn hay nhỏ, chẳng bị trách phạt ở người hẳn bị trách phạt ở trời, ít có được tồn tại lâu dài ở nơi đời vậy. Nay Phật pháp lưu truyền vào Trung Quốc đã cả ngàn năm, quả thật nếu là làm hại thì trời người sao có thể dung thứ đó như vậy. Như Phật pháp ba lần bị phá hủy ở Trung Quốc mà sau ba lần ấy lại nổi dậy mạnh hơn, là cũng có thể nghĩ rằng Phật pháp hẳn có phần lớn hợp với trời người đó vậy. Quân tử cho rằng Phật pháp bỏ phế lẽ thường của trời mà chẳng gần tình người, do vậy mà ghét đó. Nhưng Phật pháp chuyển đổi tình người đang tuyệt có âm đức, ở Quân Vương và người thân đó vậy, mà ý ấy rất xa không thể vội nói. Tạm lấy đạo trời để cùng ông đối chất đó thì cha con chồng vợ là lẽ thường của trời, nay Phật dẫn dắt người cắt bỏ tình thường mà chuyên tu thanh khiết đó. Bởi trái với thường mà hợp với đạo, sợ đó có chỗ đến với tình thường. Nếu không như thế thì trời đã nhàm chán từ lâu. Như Thánh Hiền xưa trước phụng sự Phật, và cùng tán thán đó thật lắm nhiều, hẳn không thể tính kể. Hãy lấy từ thời Tiền Đường để làm rõ đại khái đó, thì phàm là thiên hạ cho đến Vương đạo thì ai sánh cùng vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650)? Ngay lúc Pháp sư Huyền Trang phiên dịch các kinh Phật mà cha con vua Thái Tông đề văn "Đại Đường Thánh giáo tự trị". Tướng trong thiên hạ mà tối Hiền thì ai sánh cùng Phòng Đỗ Diêu Tống ư? Như tướng Phùng Lương Công, Huyền Lĩnh Tắc mà cùng Pháp sư Huyền Trang phiên dịch kinh. Đỗ Lai Công như ẩn mất thì vì pháp mà tôn quý Huyền Uyển ở Minh Triệu, mãi đến lúc sắp qua đời mới nói Huyền Uyển nên vì đời mà làm thầy. Thừa tướng Cảnh ở thời tiền Tống thì vì Phật Pháp mà học đòi ở Đàm Nhất. Bùi Tấn Công thì huân tu học nghiệp với Đường Vi Cao. Thừa tướng Thôi, các bậc tài đức ở đương thời đều kính trọng, thiên hạ mến phục làm người đó, mà trong thiên hạ ai Hiền như người ấy ư? Bùi thì giữ lễ làm học trò đối với Sa-môn Pháp Khâm ở Kính Sơn, Thôi thì học đòi Đạo nhân Duy Nghiễm ở Như Hội. Ân trung tiết lớn đối với nước nhà thiên hạ đến chết vẫn không biến đổi thì ai sánh bằng Nhan Lỗ Công? Lỗ Công thường lấy giới xưng là học trò đối với Sa-môn Tuệ Minh ở Hồ Châu, hỏi đạo nơi Sa-môn Nghiêm Tuấn ở Giang Tây. Thuần hiếu mà thanh chánh thì ai sánh cùng Nguyên Tử Chi ở Lỗ Sơn? Tử Chi chịu tang mẹ thì chích máu biên tả kinh tượng Phật (Những việc trên thấy ở Đường Thư của Lưu Hy và Truyện Cao Tăng biên soạn trong bản triều chúng ta).
Từ thời vua Đường Thái Tông đến thời vua Đức Tú triều Nguyên đều là vua tôi rất mực Thánh hiền, giả như pháp của Phật không chánh mà khéo làm mê hoặc cũng sao có thể làm hoặc loạn các Thánh Hiền như vậy ư? Đến như các nhà Nho, nhà văn như Văn Trung Tử ở thời nhà Tùy, như Nguyên Kết, Lý Hoa, Lương Tú, Quyền Văn Công, Bùi tướng Quốc Hưu, Liễu Hạ Hậu, Lý Nguyên Tân ở thời Tiền Đường, tám Quân tử ấy chỉ chẳng mắng nhục Phật là chẳng Hiền vậy. Không thể cho họ đều không biết xưa nay trị loạn thành bại cùng với tà chánh phải quấy ấy vậy, mà tám Quân tử cũng chưa từng cho Phật là quấy phải mà chẳng suy tôn đó. Như vậy các ông cần nên suy nghĩ đó. Nay, sở dĩ chúng ta làm người, đặc biệt rất nhờ ở Thần minh mà như vậy. Thần minh truyền đến nơi người cũng như người dời chuyển phòng nhà ấy vậy. Xưa trước nói, Dương Hựu trước kia là con của giòng họ Lý; Thôi Hàm là thân sau của Lô Lão, những loại như vậy xưa nay từng có. Các ông hẳn cũng từng nghe đó, lấy đó mà suy, thì Hiền hào của các ông ra đáng vì trị đời, là cũng nhờ Thần minh xưa trước mà khiến nên như vậy. Lại sao biết đó xưa trước chẳng dùng pháp của Phật mà trị Thần minh ư? Do đó, tôi càng muốn các ông xét hình ấy mới đầu và hãy tìm cầu ở trong đó, chẳng nhọc lấy vật bên ngoài mà tự xiềng xích. Nay làm sách nay là vì muốn khuyên đó, chẳng ngay vì pháp ấy vậy. Lại cùng các ông đều bẩm linh làm người rất quý so với trong muôn vật, mà muôn vật biến hóa lan tràn rối ren chỉ thân người là khó được. Các ông là Nhân kiệt lại càng khó được vậy. Nhưng đây cũng là sanh tử quỷ thần hốt hoảng, chẳng đủ chiếm lấy làm thí dụ. Xin nên lấy việc con người mà nói đó. Mong các ông ít thủ chấp vậy.
Phàm lập ngôn, do vì khuyên thiện mà cản ngăn ác, cùng thiện ấy ác ấy đáng và chẳng đáng thì tổn ích kết quy về âm đức. Nay với người trong làng xóm, muốn dùng lời nói mà làm nhục người, cũng hẳn suy nghĩ "Ấy là người phước đức, không thể làm nhục họ, làm nhục thì chỉ tổn hại phước ta mà thôi". Nhưng Phật buông tha, chẳng đủ dự vào Thánh hiền ở đời, đâu chẳng như người phước đức trong làng xóm ấy ư? Nay một lời mắng nhục buông ra thì hàng sanh sau học cuối trăm đời so sánh đó, tổn ích âm đức đó cũng ít nên cẩn trọng suy nghĩ đó". Xưa kia, Hàn Thối Chi chẳng chịu làm Sử, bởi sợ khen chê không đáng đó mà tổn hại đến âm đức vậy, nên gởi thư nói cùng Lưu Sanh rằng: "Chẳng có họa ở người thì có trời trừng phạt". Lại nói: "Nếu có quỷ thần dẫn dắt người không phước, thì khen chê của những người làm sử kia chỉ ở người đời vậy". Nếu Phật có đạo đức thần kỳ sợ chẳng những đối với người ở đời vậy, đó lại chưa thể chê bai nhiều vậy. Trong Liệt Ngự Khấu Xưng, Khổng Tử từng nói: "Khâu tôi nghe ở phương Tây có Đại Thánh Nhân, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, chẳng dạy mà tự thực hành. Mênh mông thay! Dân chẳng thể được gọi tên vậy?" Khiến Liệt tử quên lời tức đó, như xưng đó thì Thánh nhân hẳn chẳng thể khinh thường đó vậy.
Tôi từng xem sách của Dương Văn Công, người trong bản triều của chúng ta. Ông ta có ý tự cho rằng: Thuở nhỏ nhạy bén đến việc sĩ tiến, mong ngóng thường như có vật làm ngăn ngại trong lòng ngực, đến lúc học pháp của nhà Phật, vật ấy bỗng nhiên phá tan, không còn ngăn ngại, mà tâm vô cùng thư thái. Cho nên Dương Văn Công nhờ đó mà trọn làm bề tôi tốt, làm con hiếu thảo, và thiên hạ xưng gọi ông là người có tiết tháo lớn. Lại nghe có Tạ Đại Phu Bí cùng Tra Đạo Đãi
Chế rất thông đạo tôi, nên họ làm người hiền thật nhân đức, làm chính trị mà chuộng thanh tĩnh và điều họ sửa trị đều có tiếng tăm vết tích. Đến lúc Tạ Đại phu sắp qua đời, tắm rửa sạch sẽ, vận mặc áo mão nghiễm nhiên, không bệnh tật ngồi ngay ngắn mà trút hơi thở cuối cùng. Xưa trước, Duẫn Đãi Chế Sư Lỗ qua đời tại Nam Dương, tinh thần chẳng loạn, các bậc sĩ quân tử đều ngợi khen Sư Lỗ chết được chánh tông, tôi cũng như thế đó. Đến lúc gặp Chu Tùng Sự Viêm ở Tiền Đường, nghe được điều như vậy. Lần nọ Chu quân khéo giỏi về phương mạch, đang lúc Sư Lỗ bệnh gấp kíp mà Phạm Tư Chính bảo Chu ban đêm đến để hầu. Duẫn Đãi Chế nói cùng Chu rằng: "Tôi chết sống sao như Chu Quân vậy, mạch không thể vậy". Nhà Sư Lỗ cũng nói cùng Chu rằng: "Tôi cũng tự biết mạng mình rồi vậy". Nhân đó tự nói vốn nhờ học Phật ở Thiền sư Pháp Chiêu nên nay tôi mới được như vầy. Đến canh ba đêm đó, tiếng trống vừa lặng yên, người bèn tựa ghế mà qua đời. Về sau tôi thấy Duẫn Đãi Chế nói cùng lời tựa của ông tiễn đưa Hồi Quang, nghiệm lời nói của Chu Tùng Sự là thật vậy. Nhưng pháp của Phật lợi ích sự sống của người như kia, lợi ích sự chết của người như đây, sao cho rằng Phật không ích lợi gì đối với thiên hạ ư? Mà trong thiên hạ mọi người im lặng tự được đó. Như bốn Quân tử ấy là hạng người gì ư? Cho đến người dùng Năm giới Mười thiện ngầm mà tự tu, mà cha có lợi ích ở điều Thiện, con có lợi ích ở việc Hiếu, vợ chồng anh em có lợi ích ở Hòa mục, ước cũng đông nhiều vậy.
Ngày trước tôi thấy ở Tầm Dương có Chu Hoài Nghĩa, cả gia đình đều thọ trì Mười thiện, từ hiếu nhân huệ mà tiếng tăm vang khắp xóm làng, người trong quê hương chẳng có ý cùng làm hại nhau. Tuy trẻ nhỏ ở đầu đường hay người già trong chợ đông, hễ thấy cha con nhà họ Chu thì đều xưng gọi đó là người Hiền thiện vậy! Điều chẳng nhẫn khinh thường đó. Tôi từng nói rằng, giả sử khắp trong thiên hạ đều như gia đình họ Chu, thì đâu chẳng là đời của Chí Đức ư? Phàm, các bậc Tiên nho chẳng kham tánh mạng ở nơi đời, bởi vì nó sâu sắc chẳng phải mọi người dễ kịp đến đó vậy. Chưa thể dùng cứu tệ của dân, hãy dũng Lễ nghĩa bao gồm tình người mà chế đó. Như tánh ấy cùng với Thần đạo sợ riêng đợi ở người Hiền vậy. Luận Ngữ nói rằng: "Hồi ấy ngõ hầu từng không chẳng như vậy ư". Nay nói: "Người ở thời Tam đại, chưa có thuyết của Phật pháp, há chẳng dùng tâm đó mà làm người ư?" Xin nói rằng: "Nào hẳn ở thời Tam đại mà như ở thời Tam Hoàng cũng chưa có lời nói của Khổng Tử và Lão Tử, người thời ấy há chẳng dùng tâm mà làm vua tôi cha con chồng vợ ư? Phàm Quân tử đối với Đạo phải có tinh thô cạn sâu đó, chẳng nên nói hỗn độn như đây vậy. Phật đâu ngay vì đời chẳng dùng tâm đó mà làm người ư? Bởi vì muốn họ càng chí mà càng chánh vậy. Thái sơn có ổ chim ở ngọn cây tầng mé mà người bắn chẳng đến. Vực sâu ngàn nhận có cá ngầm lặng ở nơi suối sâu hang tối mà người bắt chẳng được. Bởi chúng nó nương náu càng cao và lặng ẩn càng sâu thì càng an ổn. Chỗ ngậm ẩn càng sâu thì sự sống càng thích đáng an ổn. Mạnh Tử nói: "Khổng Tử lên Đông sơn mà Tiểu Lỗ, lên Thái sơn mà nhỏ thiên hạ". Lời đó thí dụ Đạo đạt đến vậy. Xưa trước tôi cùng người luận bàn việc đó mà người đó vì tiếng tăm kiêu căng dùng hơi chống kháng. Tuy tâm vậy đó mà nói chẳng liền theo. Phàm chống kháng và kiêu căng tình người mà tâm thật chí diệu, sao có thể mặc tình người mà chợt nhiên tâm chí diệu ư? Đó cũng là mê mờ vậy. Các ông là bậc Hiền đạt không vì kia đã mê mờ như vậy".
Lời tựa dẫn: Ngày trước tôi đem Năm giới Mười thiện hợp cùng Ngũ thường của Nho giáo mà làm Nguyên giáo, vì gấp muốn cởi mở sự mắng nhục Phật của các Nho sĩ ở đương thời. Như với Đại bản của Thánh Nhân tôi thiết giáo, tuy nhìn qua khái quát, mà chưa rảnh nói hết, muốn đợi riêng làm sách để nói rộng đó. Nguyên giáo lưu truyền đến nay đã bảy năm, gặp Trương Cát ở Đan Khâu gởi thư khuyên tôi nên hoàn thành đó. Tuy thuộc bản thảo, do đó điều kiện chưa thành đạt, muốn đốt bỏ đó, lại vừa lúc thư đến, tợ như được tâm của Thánh nhân vậy. Mới đầu tôi làm Nguyên giáo học đòi theo kinh Hoa Nghiêm, trước lập Bồtát thừa, bởi lấy cái gọi là "y bản khởi mạt" (y gốc sanh ngọn) ấy vậy, và nương theo Luận Trí Độ mà ly hợp Năm giới Mười thiện. Nhưng lập ngôn tự có thể tài, vì người ấy lại không biết mà cùng nhau chê trách, đương thời hoặc có người vì đó mà cải đổi. Sách nay lại trước nêu bày Nhân thừa Thiên thừa, cũng theo từ chỗ gọi "Nhiếp mạt quy bản môn" (gom ngọn về gốc) của Kinh Hoa Nghiêm. Diệu chỉ của Năm giới Mười thiện thì chẳng vượt ngoài Danh số đó. Sở dĩ tôi làm hai sách là bởi muốn phát minh Đại thống của Tiên Thánh, thiết giáo để dẫn dụ những điểm không biết Phật của thế Nho, nên lời đó muốn thành văn, lý đó muốn giản đơn. Thế đó không thể phân cành nói lan tràn, nếu biện giải khúc chiết giáo nghĩa của các kinh thì chương cú còn vậy. Kẻ biết tôi, gièm chê tôi về nguyên giáo đó, nói rộng về nguyên giáo vậy. Nói rộng về nguyên giáo gồm có hai mươi lăm bài, tổng cộng có hơn tám ngàn một trăm lời. Chấp bút viết tại phòng núi Vĩnh An ở Linh Ẩn từ năm Bính Thân (1056).
Duy tâm, gọi là Đạo. Xiển dương Đạo đó gọi là giáo. Giáo là in dấu của Thánh nhân. Đạo là Đại bản (gốc lớn) của chúng sanh. Rất lắm chúng sanh xích chặt gốc ấy từ lâu lắm vậy. Thánh nhân chẳng làm mà muôn vật trọn mê muội. Thánh nhân do đó cùng muôn vật sáng lớn, Tâm không có ngoài, Đạo không có trong, nên vật không gì chẳng dự ở Đạo, Thánh nhân chẳng riêng, Đạo chẳng bỏ vật. Chỗ còn của Đạo, Thánh nhân đều cùng, cho nên làm giáo đó, thông u thông minh, thông thế gian và xuất thế gian, không gì chẳng thông. Thông nghĩa là Thống (bao gồm), bao gồm để chánh đó, muốn đó đều cùng Thánh nhân đồng đức. Rộng lớn linh minh không gì đến bằng Đạo, thần đức diệu dụng không gì đến bằng Tâm. Theo vọng nghiệp ràng buộc không gì bằng mê gốc, trôi nổi trong các thú không gì quá bằng sanh tử. Biết quá hoạn của chúng sanh, không ai khéo bằng Thánh nhân, cùng muôn vật chánh gốc chẳng gì khéo bằng thiết giáo. Chánh nên minh, minh nên diệu, diệu nên Đạo ấy ngưng vậy. Cho nên, giáo là giềng mối lớn của Thánh nhân phát minh Đạo cứu đời vậy. Phàm giáo ấy là Thánh nhân nương thời ứng cơ, đại dụng chẳng thể nghĩ bàn, cho nên với hàng Đại cơ thì đốn, hàng Tiểu cơ thì tiệm. Với hàng tiệm ấy thì nói về Quyền, với hàng đốn đó thì nói về Thật. Thật nghĩa là Đại thừa, Quyền nghĩa là Tiểu thừa. Thánh nhân dùng Đại thừa và Tiểu thừa mà nắm hết các cơ, và U hay minh đều hết vậy. Dự vào đến mà nghe tiệm, dự vào tiệm mà nghe đến, đó lại là Diệu giác của Thánh nhân đối với trời người mà trời người chẳng lường biết vậy. Thánh nhân nêu bày Quyền do vì dẫn đến Thật. Thánh nhân hiển bày Thật vì vậy gá ở Quyền. Nên Quyền và Thật riêng đủ mà chưa từng lìa đoái hoài nhau. Quyền ấy là có hiển quyền có minh quyền. Thánh nhân hiển bày quyền đó là làm Thiển giáo làm tiểu đạo, Thánh nhân ngầm quyền đó là làm khác Đạo làm khác giáo, làm cùng thiện ác đồng việc ấy. Cùng người không tin dự làm duyên xa đó mà đắc đạo.
Hiển Quyền có thể thấy, mà minh quyền chẳng thể lường. Thật ấy là Chỉ Thật. Chỉ Thật thì vật và ngã duy nhất. Vật và ngã duy nhất nên Thánh nhân lấy quần sanh mà thành đó. Nói Quyền của Thánh nhân thì thiện khắp cùng thiên hạ, Đạo trùm khắp bách gia, đó là Đại quyền cứu thế tế vật vậy. Nói Thật của Thánh nhân, thì bàng bạc khắp pháp giới cùng muôn vật đều hết, đó là Đại đạo của thiên hạ cùng lý tận tánh vậy. Thánh nhân là Thánh giả của Thánh nhân, vì chẳng sanh tử mà thị hiện tử, thị hiện sanh cùng mọi người đồng vậy, mà chẳng thấy nguyên do ấy vậy. Đâu phải Thần linh xưa là một Thánh nhân hiển trí rộng lớn hưng thạnh khắp cùng ư? Nên làm giáo đó có Thần đạo và có Nhân đạo, có thường đức và có kỳ đức.
Không thể lấy một mà cầu chung, không đem thế đạo phỏng bàn được nơi tâm thông, và mất nơi dấu vết kiểm hiệu.
Bình trị người, bình trị trời, không gì tốt lành bằng Năm giới Mười thiện. Tu Tiểu tiểu Thánh và Tiểu Thánh, chẳng gì thạnh bằng Tứ đế và Thập nhị nhân duyên. Tu Đại Thánh để dẫn đến Đại Đại Thánh, chẳng gì thạnh bằng Lục độ vạn hạnh. Phàm năm giới mười thiện, sở dĩ lìa đó đạt đến trời, sở dĩ hiệp đó giúp người. Nói thành công đó thì có hơn có kém, nói sở dĩ đó như vậy thì đạo của Đại nhân là một. Phàm, Tứ đế Thập nhị nhân duyên, lìa đó thì ở Tiểu Thánh, hiệp đó thì tại Tiểu Tiểu Thánh; nói thành công đó thì có Long sát, nói thừa đó thì Tiểu Thánh và Tiểu Tiểu Thánh đồng đạo vậy. Phàm, Lục độ ấy là đứng đầu vạn hạnh, nói rộng vạn hạnh ấy là Đại Thánh cùng với Đại Đại Thánh. Chỗ thừa ấy tuy hơi có phân, đến lúc họ lấy vạn hạnh siêu cực thì cùng Thánh nhân của Đại Đại đồng nhất vậy. Vạn hạnh ấy tức là muôn thiện vậy. Thiện của Thánh nhân bởi thế mà làm đó. Vừa biến thừa hóa không nơi nào mà chẳng ở. Cho nên Thánh nhân dự việc ở của trời người mà trời người chẳng lường biết. Phàm, Thần ấy là diệu vậy, việc ấy là thô vậy. Thô là chỉ người biết đó, diệu là chỉ Thánh nhân biết đó. Thiên hạ vì bỉ ngã mà đua tranh, vì sự tướng phải quấy của Nho và Phật, mà biết của thiên hạ là việc của Nho và Phật, đâu biết đó là đất hoang dính nơi Nho và Phật ấy ư? Phàm, hàm Linh mù trời mịt đất, khắp u khắp minh, khắp cả di dịch cầm thú, chẳng vì thần đạo di luân mà xưa nay hầu như có bỏ vật. Thánh nhân trùng đồng, Nho sợ bỏ sót vật, cho nên Thánh nhân dùng thần đạo làm.
Tâm hẳn đến (Chí), đến hẳn biến. Biến là thức vậy; đến là như vậy. Như là diệu, là vạn vật ấy vậy. Thức rối ren muôn vật khác, muôn vật ấy vậy. Biến ấy là cơ của động, đến ấy là gốc của diệu. Thiên hạ không gì chẳng có gốc, thiên hạ không gì chẳng động, nên muôn vật ra từ biến vào nơi biến. Muôn vật khởi từ đến rồi trở lại nơi đến; biến của muôn vật thấy ở tình, đến của thiên hạ còn ở tánh, vì tình có thể biện rành biến hóa của muôn vật, vì tánh có thể quán sát đại diệu của thiên hạ, khéo phàm tình tánh có thể dùng nói giáo đạo của Thánh nhân. Muôn vật đồng linh gọi đó là tâm, nơi Thánh nhân giẫm trải gọi đó là đạo. Đạo có lớn có nhỏ, tâm có thiện có ác. Thiện ác có dày mỏng, lớn nhỏ, cạn sâu, nên có Đại Thánh có thứ Thánh, có Tiểu Thánh, có trời, có người, có Tu-la, có Quỷ Thần, có loại lông vẫy, có địa ngục. Quần sanh là từ một tâm mà lưu xuất vậy. Thánh nhân là từ một đạo mà lìa vậy. Đầu mối lớn nhỏ của Thánh nhân không thể không xét, thiện ác của quần sanh hẳn không thể không thận trọng. Phàm, Tâm và Đạo đâu khác ấy ư? Vì Thánh nhân và quần sanh tạm khu vì riêng biệt đó nên gọi là Đạo là Tâm vậy. Tâm lớn thay đến ấy vậy. Sâu tối quá cả Quỷ thần, sáng tỏ quá cả Nhật nguyệt, rộng lớn bao trùm cả đất trời, tinh vi suốt cả lân hư. Sâu tối mà chẳng sâu tối nên rất sâu tối; sáng tỏ mà chẳng sáng tỏ, nên rất sáng tỏ; lớn mà chẳng lớn nên tuyệt lớn; nhỏ nhiệm mà chẳng nhỏ nhiệm nên rất nhỏ nhiệm. Tinh nhật Tinh nguyệt, linh Quỷ linh Thần, mà diệu thay trời đất tam tài, như là có, như là không, như là chẳng có chẳng không, như là chẳng chẳng có chẳng chẳng không. Đó có thể dùng tướng trạng ngôn ngữ mà có thể kịp ư? Không thể dùng tuyệt đối đãi huyền giải thí dụ. Được đó ngay trong nháy mắt, mất đó tại nơi mảy lông. Đó có thể cùng người đạt đến đồng biết, không thể cùng người học mà nói. Thánh nhân vì khó sáng tỏ khó đạt đến ấy mới làm các giáo, nói đó, nghĩa đó, dụ đó, chánh đó. Tuy phô bày lắm nhiều mối, đó đều muốn người chẳng xiềng xích vậy, mà người học còn mê mờ. Nay thiên hạ hổn độn, gọi đó là Tâm, nói đó mà chẳng rõ ràng, biết đó mà chẳng xét. Giả sự nhận ý thức cho là cùng Thánh nhân đồng được thú Đạo ấy vậy, cũng chẳng xa ư?
Tình phát xuất từ tánh, tánh ẩn ở tình. Tánh ẩn thì đạo của đốn và thật đều dứt vậy. Cho nên, Thánh nhân dùng tánh làm giáo mà dạy người. Động của thiên hạ phát sanh từ tình, lầm hoặc của muôn vật chánh ở nơi tánh. Thiện ác của tình và tánh, thiên hạ có thể chẳng xét ư? Biết thiện ác mà không biết thủy chung của thiện ác, đó đạt đến biết ư? Biết chung cục đó mà không biết khởi đầu đó, đó đạt đến biết ư? Chỉ có đạt đến biết của Thánh nhân, biết thủy biết chung, biết nhỏ nhiệm, biết tan mất, thấy đó suốt cả chết sống, u minh, mà thành tượng thành hình đất trời, đến xa mà phát khởi từ tình. Vũ trụ rất lớn mà bên trong ở tánh, nên muôn vật chẳng gì thạnh bằng tình tánh ấy vậy. Tình ấy là đầu tiên của hữu, có hữu thì có ái, có ái thì có tham dục, có tham dục thì có nam nữ muôn vật sanh tử. Cảm của sanh tử thì thiện ác theo loại biến. Thủy đó chung đó theo sống chết mà chưa từng dừng nghỉ. Tánh ấy là đạt đến của Không. Đạt đến Không thì chưa từng Không; ra sanh vào tử mà chẳng phải sanh chẳng phải tử. Đạo của Thánh nhân do đó mà tịch mà minh vậy, chỉ cảm chỗ thích nghi. Phàm tình ấy là nguy là thức, được đó thì làm ái làm huệ, làm thân, làm thân sơ. Làm sơ thì hoặc thiện hoặc ác, mất đó thì là khinh là dối, làm hung tàn làm chẳng từ tốn, làm tham làm đắm chìm tham dục, làm mất tâm, làm diệt tánh. Phàm, tánh ấy là Chân là Như, là đạt đến, là không tà, là thanh là tịnh.
Gần đó thì làm Hiền làm người chân chánh, xa đó thì làm Thánh thần làm Đại Thánh nhân. Thánh nhân dùng tánh làm giáo để dạy người mà chẳng dùng tình. Đó nếu là tích chứa thì tánh tình ở tại vật, thường vậy uyển vậy. Tham tầm đó chẳng được, khơi tháo đó chẳng tuyệt, Đất trời có cùng, tánh linh chẳng hết; năm thú đổi thay, tình lụy chẳng tan. Cho nên, tình tánh ấy có nghĩa là thiên hạ không thể chẳng chọn vậy. Phàm, lấy tình mà dạy người, đó là ở trong khoảng sanh tử, dùng tánh mà dạy người đó là vượt ngoài vòng sanh tử. Tình giáo đó gần, tánh giáo đó xa, rộng ngoài sanh tử mà không đó. Đó là mê lý trời mà tuyệt nguồn của sanh sống vậy. Nhỏ biết chẳng kịp đến lớn biết, cục hạn của giầm gà chỉ trong khoảng vò hủ, cũng chẳng vậy ư?
Tâm động gọi là nghiệp, nhóm nghiệp gọi là cảm, cảm ấy nghĩa là thông cả trong và ngoài. Trong thiên hạ, tâm ai chẳng động? Nghiệp của muôn vật, ai mà chẳng cảm? Làm lý của người rất sâu sắc, làm thế của cảm rất xa vời. Cho nên, dân chúng chẳng thấy mà chẳng sợ, giáo của Thánh nhân cẩn trọng ở nghiệp, muốn người đó hẳn cảnh tĩnh, muốn tâm đó cẩn trọng máy động. Cảm bên trong gọi là chiêu, cảm bên ngoài gọi là ứng. Chiêu nghĩa là nhân ấy, ứng nghĩa là quả ấy. Nhân quả hình tướng là đều là dự vậy. Phàm, tâm động có nghịch có thuận, nên tình của thiện ác sanh vậy. Tình của thiện ác đã phát, nên họa phước ứng đến vậy. Tình đó có cạn sâu, báo đó khinh trọng. Khinh thì có thể đổi chuyển, trọng thì chẳng thể dứt. Thiện ác có trước sau, họa phước có nhanh chậm. Tuy mười đời, muôn đời mà cùng cảm ấy chẳng vượt qua, đâu phải một đời mà thôi vậy? Phàm, thiện ác chẳng nghiệm ở một đời mà nghi ngờ, đó cũng là kẻ mê mờ về nhân quả vậy. Báo nếu chẳng do nhân quả thì thiên hạ lấy gì để khuyên người thiện? Cây không thấy nó lớn mà ngày một tươi tốt, mài chẳng thấy nó tiêu mà ngày một dần không. Nghiệp đó ở người như vậy, có thể chẳng cẩn trọng ư?
Vật có Tánh, vật có mạng, vật ham sống, vật ghét chết, các loài có khí huyết thảy đều như vậy. Thánh nhân do đó muốn sống mà chẳng muốn giết hại. Phàm sống và giết đều có nhân quả, thiện ác có cảm ứng. Nhân đó thiện thì quả đó Thiện, nhân đó ác thì quả đó ác. Phàm tâm ham thích sống là thiện, tâm ưa thích giết là hại là ác. Cảm của thiện ác có thể không thận trọng ư? Người ăn vật, vật cung cấp người, xưa trước cùng mắc nợ nhau mà ngầm cùng đền trả, bởi do nghiệp khiến nên như vậy. Người cùng với vật mà chẳng hay biết, cho rằng vật tự nhiên trời sanh để nuôi dưỡng người. Trời sao quá tà vậy! Hại tánh mạng để nuôi dưỡng tánh mạng. Đạo trời rất mực, nhân đức há như vậy ư? Phàm, lý cùng đền trả cho nhau mù tối khó mà nói đó, thế bắt giết tích chứa mà khó thôi nghỉ vậy. Nên pháp xưa trước khiến không được hung bạo. Phàm với vật không nên vây nhốt, không kịp thành đàn. Cần câu mà không lưỡi không móc, không bắn dừng nghỉ, đó dừng giết hại dần ư? Phật giáo dạy người nên nuôi sống mà không được giết hại, có thể chẳng suy nghĩ ư? Rõ ràng thay!
Tin lớn thì gần, tin nhỏ thì xa, gần trái xa, xa trái gần, do tình ngăn che mà khiến nên như vậy. Thiên hạ chẳng gì gần bằng tâm. Thiên hạ chẳng gì xa bằng vật. Người phàm chẳng tin tâm đó mà tin vật đó, cũng chẳng gần trái xa, xa trái gần ư? Cũng chẳng mê buộc điên đảo bày biện ư? Tâm ấy là nguồn của thông minh duệ trí. Chẳng được nguồn ấy mà chỗ phát có thể không trói buộc ư? Thánh nhân do đó mà muốn người tự tin ở tâm họ.
Tin tâm họ mà chánh đó thì làm thành thường, làm thành thiện, làm thành hiếu, làm thành trung, làm thành nhân, làm thành từ, làm thành hòa, làm thành thuận, làm thành sáng suốt. Thành sáng suốt thì cảm đất trời, động Quỷ thần mà thôi vậy, sao lại có thể đạt đến Đại đạo của Thánh nhân ư? Cho nên Thánh nhân lấy tin tâm đó làm lớn. Phàm, Thánh nhân nói rộng lớn đó, nói ước lược đó, chỉ bày đó, khéo bày đó đều do vì chánh tâm người và cùng người tin cậy. Người mà không tin lời nói của Thánh nhân là chẳng tin tâm họ vậy, tự vứt bỏ, tự lầm hoặc, đâu có thể gọi là sáng suốt ư? Là bậc Hiền ư?
Tu-đa-la-tạng nghĩa là gì? Là hợp lý, là kinh, Kinh nghĩa là thường, là xuyên suốt, là nhiếp thâu. Hiển bày điều đó của Tiền Thánh và Hậu Thánh đều như vậy, chẳng gì khéo bằng thường. Gìn giữ nghĩa lý mà chẳng mất, chẳng gì khéo bằng xuyên suốt (=Quán), bao gồm tất cả chúng sanh mà dạy đó, chẳng gì khéo bằng nhiếp thâu vậy!
A-tỳ-đàm tạng nghĩa là gì? Là Đối pháp, là Luận, luận ấy là Phán, là Biện. Phát minh Tông thú của Thánh nhân, không gì khéo bằng Biện. Chỉ chỗ cạn sâu của Đạo ấy không gì khéo bằng phán. Tỳ-ni-tạng nghĩa là gì? Tức là giới, là luật; Luật ấy là chế. Mở các thiện ngăn các ác không gì khéo bằng chế. Nhân thừa, Thiên thừa nghĩa là gì? Tức là tiệm của tiệm vậy. Dẫn dắt thế tục chẳng gì thạnh bằng đạt đến tiệm. Thanh văn thừa nghĩa là gì? Tức là quyền, là Tiệm, là Tiểu Đạo. Duyên giác thừa nghĩa là gì? Cũng là Tiểu Đạo. Tùy từng đồ vật mà thích nghi đó, chẳng gì thạnh bằng quyền, cùng đó tiến mà chẳng cùng đó hừ, không gì thạnh bằng tiệm. Bồ-tát thừa nghĩa là gì? Tức là Thật, là Đốn, là Đại Đạo. Ngay tâm người mà trao Đại Đạo, không gì thạnh bằng Bồ-tát thừa vậy. Thừa đó cùng thông với Diệu giác, đó gần như ấy vậy. Tứ luân nghĩa là gì? Tức là phong, là thủy, là kim, là địa. Tứ luân ấy là thiên địa, do đó mà thành hình. Quán xét về Tứ luân thì thủy chung của đất trời có thể biết vậy. Tam giới nghĩa là gì? Tức là Dục giới, là Sắc giới, là Vô sắc giới. Tam giới ấy là nơi nương tựa của hữu tình. Quán xét Tam giới thì trong ngoài của Lục hợp có thể rõ ràng mà không nghi ngờ vậy. Lục đạo nghĩa là gì? Là Địa ngục, là súc sanh, là ngạ quỷ, là Tu-la, là người, là trời. Lục đạo ấy là chỗ cảm của tâm thiện ác. Quán xét Lục đạo thì có thể cẩn trọng làm tâm ấy vậy. Tứ sanh nghĩa là gì? Là Thai sanh, là Noãn sanh, là Thấp sanh, là Hóa sanh. Tứ sanh ấy là chỗ thành của hữu tình. Quán xét Tứ sanh thì có thể biết nguyên do của hình mạng ấy vậy. Nhà nào không giáo, sách nào không nói? Nói gần mà chẳng nói xa, thiên hạ làm sao biết xa ư? Dạy người mà chẳng dạy lại người khác, vật ấy có chỗ bỏ sót ư? Phàm, sâu tối, xa vời hẳn là nơi tai mắt người không kịp tới được. Hoảng hốt, bay lặn, hẳn là nơi sức người chẳng thể cứu giúp. Người chẳng thể đến kịp, nên Thánh nhân hay đến kịp đó; người chẳng thể cứu giúp, nên Thánh nhân hay cứu giúp đó. Thánh nhân không thể kịp thiên hạ, đó trọn là mê mờ. Phàm, sâu tối xa vời làm sao Thánh nhân chẳng thể cứu giúp? Hàm linh sắp đắm chìm mà không chỗ cứu vớt ư? Cho nên, giáo của Thánh nhân đối với xa gần, tối sáng, không nơi nào chẳng khắp, không chỗ nào chẳng hiển trước. Thiên hạ rộng lớn đó thảy đều đầy đủ, ai có như giáo của Thánh nhân ấy vậy?
Trời rất cao, đất rất xa, quỷ thần rất sâu tối. Tu pháp của Thánh nhân tôi thì trời đất ứng đó, dứt một lời của Thánh nhân tôi thì Quỷ thần thuận đó. Trời đất và Thánh nhân đồng tâm, Quỷ thần cùng Thánh nhân đồng linh, bởi vì loại ấy cùng cảm mà vậy. Tình chẳng đồng thì người trợn mắt, loại chẳng đồng thì vật trái phản. Chẳng phải Đạo ấy thì Nhu Tử không theo. Nay, phàm cảm trời đất, chấn động quỷ thần, được trăm nhà di địch, đổi thay xưa nay mà tâm ấy chẳng lìa, thì Đạo của Thánh nhân tôi thật là Đại thông đại chí (=Rất Thông rất đạt đến), đoán có thể thấy vậy.
Phật nghĩa là gì? Chánh ở một ấy vậy. Người nghĩa là gì? Dự ở một ấy vậy. Phật cùng người là một mà thôi vậy. Muôn vật gọi đó là Danh, chí lý gọi đó là Thật, chấp Danh mà mê mờ Thật, Thiên hạ biết đến đó ư? Đạo còn nơi người gọi là nhân, Đạo ở nơi Phật gọi là quả. Nhân ấy là nói ở chưa đạt đến, quả ấy là nói đã đạt đến vậy. Đạt đến thì chánh, chánh thì không chỗ ở mà chẳng tự đắc vậy. Phật đâu hẳn ở hình của Hình, nới tích của tích. Hình tích là còn ở giáo ấy vậy. Giáo ấy là làm vốn của chánh ấy vậy. Riêng vạn vật chẳng gì thạnh bằng Danh, đồng muôn vật chẳng gì thạnh bằng Thật. Thánh nhân dùng Thật chỉ dạy người, muốn người đại đồng đó vậy. Thánh nhân dùng Danh để lại chỉ dạy người là phòng đại dị của người vậy. Quán xét nguyên do giáo của Thánh nhân, thì đạt đến của Danh và Thật, đoán có thể thấy vậy.
Người nào không tâm? Người nào không diệu? Giáo nào không Đạo? Đạo nào không trúng? Đại khái nói trúng thì thiên hạ chẳng rảo theo đến đạo ấy. Hổn độn nói diệu ấy thì thiên hạ chẳng cầu đến tâm ấy. Chẳng hết ở đến tâm đến đạo, thì là ngụy, là cuồng, là kiêu căng, là khinh mạn, do đó mà chẳng tu vậy. Sanh tử là nhân theo biến hóa, do đó mà chẳng cảnh răn vậy. Diệu có diệu, có đại diệu; trúng có sự trúng có lý trúng. Phàm sự trúng ấy là chế trúng của muôn vật ấy vậy. Lý trúng ấy chí chánh của tánh lý ấy vậy. Phàm diệu ấy là diệu của diệu vậy. Đại diệu ấy là diệu ấy lại diệu vậy. Diệu là Bách gia đều nói mà chưa từng kịp đến đại diệu ấy. Đại diệu là chỉ Thánh nhân tôi suy đó, cùng cực các diệu ấy vậy. Phàm, sự trúng là Bách gia đều vậy, tôi cũng như vậy. Lý trúng là Bách gia tuy dư trúng mà chưa từng đạt đến trúng, chỉ có Thánh nhân tôi chánh trúng ấy để nghiệm đó không gì chẳng trúng vậy. Nói là Tâm, là Đạo, là Danh ấy vậy. Nói là Trúng, là Diệu, là ngôn ngữ ấy vậy. Danh và ngôn tuy khác nhau mà chí linh là một vậy. Một tức là một, muôn lại muôn, chuyển đó triển đó, tương giao dung nhiếp mà hạo nhiên chẳng cùng. Phàm, đại diệu lại huyền, đó như đây ấy vậy. Nên nó ném Đại Thiên đến phương ngoài, đặt để Tu-di nơi hạt cải, mà Bậc Chí nhân chẳng nghi ngờ, chỉ nói diệu mà thôi vậy, nói trúng mà thôi vậy, lại đâu lấy gì để thêm. Nói biển hẳn là sâu, mà chín vực sâu nơi biển, con của Di Khê đâu tin ở đùa bỡn.
Giáo không thể câu nệ, Đạo không thể trống không. Câu nệ giáo là quả đắm ở vết tích, trống không đạo là bỏ mất gốc. Câu nệ ấy là quả, trống không ấy là chẳng kịp. Đó là hoạn chỉ một vậy. Do đó Thánh nhân làm lý hẳn chân thật, làm sự hẳn quyền biến, mà sự và lý đều lấy đại trúng được vậy. Phàm, sự có thích nghi, lý có đạt đến. Theo thích nghi ấy mà thích nghi đó, do vậy, làm giáo của Thánh nhân vậy. Ngay đạt đến ấy mà đến đó, vì vậy, làm Đạo của Thánh nhân vậy. Hai vua ở thời nhà Lương và nhà Tề (vua Võ Đế-Tiêu Diễn 502550 thời nam Lương và vua Tuyên Đế-Cao Dương 550-560 thời Bắc Tề) trái thích nghi ấy mà phụng sự giáo, cũng chẳng là câu nệ ư? Hai vua ở thời nhà Ngụy và nhà Chu (vua Thái Võ Đế-Thác Bạt Đào 428-452 thời Bắc Ngụy và vua Võ Đế-Võ Văn Ung 561-579 thời Bắc Chu) hết sạch đạt đến ấy mà dự đạo, cũng chẳng là trống không ư? Phàm, giáo của Thánh nhân chỉ thiện mà thôi, còn đạo của Thánh nhân chỉ chánh mà thôi. Người ấy chánh người ấy, việc ấy thiện việc ấy, chẳng kể là Tăng sĩ chẳng kể là Nho sĩ, chẳng hẳn là kia, chẳng hẳn là đây, Kia và đây là tình, Tăng và Nho là vết tích vậy. Thánh nhân giáng tích, do vì còn gốc, Thánh nhân thực hành tình do vì thuận tánh. Còn gốc mà chẳng trệ nơi vết tích, có thể nói là quyền; thuận tánh mà chẳng trệ tình có thể dùng nói là thật. Ngày xưa, Thạch Hổ, dùng quyền bính nước nhà mà giết phạt, ông lại nghi là phụng sự Phật mà không thấy giúp đỡ, Phật Đồ Trừng mới bảo cùng Thạch Hổ rằng: "Vương giả phải dùng tâm thể đại thuận để đồng hợp Tam bảo, nếu nó là hung ngu chẳng thể giáo hóa chuyển đổi, sao được chẳng trách phạt. Chỉ hành hình với người có thể hành hình, có thể phạt với người có thể phạt. Nếu như hình phạt chẳng trúng, tuy khinh của cải mà kính phụng Phật nào có ích gì?"
Vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Long 424-454) thời tiền Tống, nói cùng Sa-môn Cầu-na-bạt-ma rằng: "Trẫm thân theo việc nước, tuy muốn trai giới chẳng giết hại sao được như Pháp?" Sa-môn Cầuna-bạt-ma đáp: "Chỗ tu hành của Đế Vương so với thất phu có khác. Đế Vương chỉ chánh mở lời phát lệnh, khiến tâm thần người vui hòa. Tâm thân người vui hòa thì mưa gió thuận, mưa gió thuận thì muôn vật được toại sự sanh trưởng. Lấy đó mà trì trai, trai cũng đạt đến vậy; lấy đó mà không giết hại, đức cũng lớn vậy, nào hẳn bỏ bữa ăn ngon nửa ngày, để toàn mạng của một cầm thú mới là tu ư?" Vua Văn Đế, vỗ án ngợi khen rằng: "Người thế tục mê mờ lý xa, chư Tăng dính kẹt ở giáo gần. Nếu như lời của ông nói, thật đáng gọi là đạt đạo của Thiên hạ, có thể luận cùng ngằn mé của trời người vậy". Sa-môn Phật Đồ Trừng và Cầu-na-bạt-ma là các bậc chí nhân ở thời xưa trước, có thể gọi là biết được quyền biến vậy.
Thánh nhân dùng Ngũ giới để dẫn dắt thế tục, dạy người tu, người dùng gieo giống người. Tu đó thì ở tại thân đó, gieo giống đó thì ở tại thân đó. Cùng người thuận lý, đó gọi là thiện, theo thiện không vết tích gọi đó là hóa. Thiện đó nên người mến mộ mà tự khuyên. Hóa đó nên ở nơi người mà chẳng hiển bày. Cho nên thiên hạ không được lấy kiểm hiệu công ấy, thiên hạ không thể được lấy bàn nghị đức ấy. Nhưng thiên hạ ít xấu ác, ai biết chẳng phải nhân mà tổn đó. Thiên hạ nhiều thiện, ai biết chẳng phải nhân mà ích đó. Có người cho rằng, Phật không có chỗ trợ giúp bình trị thiên hạ vua Vương giả. Đó là người chẳng thấy được Lý vậy.
Thiện chẳng tu thì nhân đạo dứt tuyệt; tánh chẳng sáng tỏ thì thần đạo diệt mất. Thường luôn của đất trời là thần, linh tộc của muôn vật là người. Thần ấy mờ tối sanh, sanh là do vì khác vậy. Người ấy mất linh tộc là do vì suy vậy. Thánh nhân trọng thần đạo, do vì suy tánh mà nối dõi đó vậy. Người, trời, Thánh nhân, ai chẳng từ tự tánh mà sanh ra? Thánh nhân, trời, người, ai chẳng từ thiện mà thành? Sanh ra hẳn là có gốc ấy vậy, được thành hẳn là giáo ấy vậy. Lắm nhiều thành đó là Đại thành ấy vậy; muôn gốc đó là gốc lớn ấy vậy. Thánh nhân dùng tánh nối dõi, bởi cùng thiên hạ sâu dày gốc lớn ấy vậy. Thánh nhân dùng thiện để lợi ích, bởi cùng thiên hạ chuyên Đại thành ấy vậy. Gốc của cha mẹ là gốc thứ, thành của cha mẹ là thành thứ. Gốc thứ và thành thứ có khả năng thành hình người mà không có khả năng khiến đó hẳn là người vậy. Để khiến đó hẳn là Thần, hẳn là gốc lớn Đại thành trước đó vậy, mà sau đó tiếp thành gốc thứ thành thứ là có nghĩa biết gốc vậy. Phàm, thiên hạ lấy cha con vợ chồng làm Nhân đạo là thấy duyên của Nhân đạo mà không thấy nhân ấy vậy. Duyên là gần, nhân là xa. Phàm, thiên hạ biết dùng biến hóa tự nhiên làm Thần đạo, là thấy đó vậy mà không thấy đó sở dĩ vậy. Vậy là hiển bày, sở dĩ vậy là u ẩn, cho nên Thánh nhân suy đó sở dĩ vậy là dùng hết u minh của Thần đạo vậy. Suy xa đó mà lược gần đó, dùng để nghiệm nhân quả của Nhân đạo vậy. Thánh nhân họ cùng thủy chung của thiên hạ ư? Thánh nhân chẳng tự tương tục. Tộc ấy cùng với tộc người mà tương tục đó. Họ làm tộc mà chẳng làm Đại tộc ấy ư? Thánh nhân chẳng tự nối dõi. Nối dõi ấy cùng với gốc tánh, mà cùng thiên hạ nối dõi đó, họ làm nối dõi cũng chẳng nối dõi lớn ấy ư?
Giáo nói về Bố thí nghĩa là gì? Bố thí, ở nguyên giáo tôi tuy có luận bàn mà chưa tường tận, đây mới tường tận ấy vậy. Bố thí ấy là Thánh nhân muốn người làm phước vậy. Phàm, phước đâu có hình tượng ư? Tại nơi họ làm, tâm thiện hay là bất thiện. Người có tâm tham lam keo lận đó là bất thiện, người có tâm cứu người giúp vật đó là thiện. Thiện tâm cảm đó thì làm phước. Tâm chẳng thiện cảm đó thì làm cực. Lý của Phước và Cực còn ở trong Hoàng cực của Nho gia. Hoàng cực là bởi nhập mà chẳng bàn nghị ấy vậy. Phàm, nói là Bố thí tức Thánh nhân muốn người phát tâm cảm phước ấy vậy. Phát tâm đó có ưu liệt (Hơn kém) thì ứng đó cũng có hậu bạc (Dày mỏng). Vì Phật sự mà phát tâm Bố thí đó là ưu vậy. Vì thế sự mà phát tâm Bố thí đó là liệt. Thánh nhân muốn phước của người hẳn là sâu dày, nên trước ưu mà sau liệt. Liệt có nghĩa là thấp hèn, ưu có nghĩa là hơn thắng. Nho gia nói phước là Bị (đủ có). Bị là tên của Bách Thuận. Không gì chẳng thuận đó gọi là Bị. Ấy là nói duyên đó mà chẳng nói nhân đó. Chẳng phải nhân thì thiên hạ không biết sở dĩ họ làm phước vậy. Đất chỗ gieo trồng mỏng thì vật được trưởng thành chẳng tươi tốt. Đất chỗ gieo trồng tốt thì vật được thành hẳn là lớn mạnh. Cho nên, Thánh nhân chỉ bày hơn kém (ưu liệt) của người, đâu có chỗ cẩu thả ư? Như dùng của cải mà Bố thí cho người, phước ấy có thể lường được vậy. Dùng pháp để bố thí cho người, phước ấy chẳng thể lường được. Có thể lường là vì thế gian mà nói, không thể lường là vì xuất thế gian mà nói đó vậy.
Giáo hẳn tôn trọng Tăng nghĩa là gì? Tăng là người lấy Phật làm giòng họ, lấy Như Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mạng, lấy Thiền duyệt làm thức ăn, nên chẳng cậy giòng họ thế tục, chẳng tạo dựng gia đình thế gian, chẳng sửa sang hình hài, chẳng tham sống, không sợ chết, chẳng đắm chìm trong năm mùi vị. Họ có Giới để phòng ngừa thân, có Định để nhiếp tâm, có Tuệ để biện minh. Nói về giới ấy là trừ sạch ba thứ mê hoặc mà trọn đời chẳng dơ bẩn; nói về Định ấy là lặng lẽ tư lự chân chánh thần minh mà trọn ngày chẳng loạn; nói về Tuệ ấy là sùng đức biện hoặc mà hiển nhiên. Dùng đó để tu thì gọi đó là Nhân, dùng đó để thành thì gọi đó là Quả. Họ đối với vật thì có từ có bi, có thệ nguyện lớn, có ban ân huệ lớn. Từ ấy là thường muốn an muôn vật, Bi ấy là thường muốn cứu các khổ, thệ nguyện ấy là thề cùng thiên hạ thấy được Chân đế. Ân huệ đó là dùng chánh pháp ban trải cho quần sanh. Thần mà thông đó, trời đất chẳng thể kềm kẹp; kín đáo mà thực hành đó, Quỷ thần chẳng thể lường biết. Họ diễn nói pháp thì biện giảng không ngưng trệ. Họ hộ pháp thì phấn phát chẳng đoái hoài tự thân. Họ hay nhẫn việc mà người chẳng thể nhẫn, hay làm việc mà người chẳng thể làm. Họ sống với chánh mạng là khất thực mà ăn nhưng chẳng lấy làm xấu hổ. Họ ít tham muốn là mặc y phục phấn tảo khâu vá, trì Bát mà chẳng lấy làm nghèo bần. Họ không tranh đua là có thể nhục mà không thể khinh. Họ không oán là có thể đồng mà không thể tổn. Dùng thật tướng tiếp đãi vật, dùng chỉ từ để tự tu. Nên họ đối với thiên hạ hay hẳn hòa hay kính khắp. Họ nói năng không hư dối, nên họ làm niềm tin rất thấu đạt. Họ tu pháp vô ngã nên họ nhường nhịn rất chân thành. Họ có oai đáng kính, có nghi đáng làm khuôn phép. Người trời mong ngóng mà nghiễm nhiên. Hay làm phước cho đời, hay dẫn dắt phàm tục. Họ quên lũ hình hài phó thác cho cầm thú mà chẳng keo lận. Họ đọc tụng xong vào giữa nắng mưa mà chẳng từng phế bỏ. Họ vì Pháp mà ra, đi giữa nhân gian khắp cùng tụ lạc, xem danh dự chỉ như tiếng vang trong hang cốc, nhìn lợi lộc chỉ tợ lướt giữa bụi trần, trông vật sắc chỉ như gợn nắng, ấp ấm nghèo bệnh, kiệu đài lộn xộn mà chẳng lấy làm thấp hèn, vì Đạo mà sống vậy. Tuy ở nơi núi sâu hang cùng, dùng cỏ làm áo mặc, lá cây làm thức ăn, vẫn yên nhiên tự đắc. Không thể dùng lợi mà dụ dỗ, không thể dùng thế mà khuất nhục. Tạ Thiên tử chư hầu mà chẳng lấy làm cao. Họ độc lập vậy, do Đạo mà tự thắng, tuy hình ảnh cùng gom thâu mà chẳng lấy làm cô quạnh. Họ sống với đoàn thể dùng pháp làm quyến thuộc, nhóm tụ người cả bốn biển mà chẳng lấy làm hổn độn, đó đáng nên học vậy. Tuy Ba tạng, Mười hai bộ loại kinh giáo và sách của Bách gia dị giáo, không gì chẳng biết; ngôn từ của tha phương khác tộc, không gì chẳng thông. Tố thuật pháp ấy thì có văn chương, hành trung đạo ấy thì chẳng Không chẳng Hữu, họ tuyệt học vậy. Lìa niệm thanh tịnh thuần chân nhất như, chẳng lại có chỗ phân biệt. Tăng, họ làm người thấu đạt, họ làm tâm đoàn, họ làm đức hoàn bị, họ làm đạo lớn, họ làm bậc Hiền chẳng phải chỗ gọi là Hiền của người đời. Họ làm bậc Thánh, chẳng phải chỗ gọi là Thánh của người đời. Họ là Hiền thánh xuất thế thù thắng. Tăng là như vậy, có thể chẳng tôn trọng ư?
Dùng thế pháp làm Tịch tăng (xếp đặt sơ bộ chư tăng) nghĩa là gì? Tịch tăng chẳng phải có từ xa xưa, đó là do ý Bao Chu (vua Võ Đế-Võ Văn Ung 561-579 thời Bắc Chu) vậy. Tăng là người xa lìa trần tục, họ ở ngoài bốn hạng dân. Tịch tăng là Dân chúng nuôi dưỡng chư tăng vậy. Thánh nhân tôi ở đời, nước nhà có tăng, dùng tăng pháp để trị nước nhà, có tục dùng tục pháp để trị đó, mỗi mỗi dùng theo pháp riêng của họ mà trị đó, chưa từng nghe dùng thế pháp để kiểm chứng chư tăng. Đâu chẳng phải do Thánh nhân đã ẩn, Đạo ấy rất suy, đồ chúng ở tạp quá lắm, Phật pháp chẳng thắng người ấy mà vậy ư? Vũ gia sanh Ứng long, Ứng long sanh Phụng hoàng, Phụng hoàng sanh các giống chim, vật lâu mới biến, thế đó là tự nhiên. Đã biến thì không thể không chế. Chế là ở nơi khu đó biệt đó tà chánh cong thẳng. Không thể xem đại khái vậy. Đá có ngọc, cỏ có lan, trong loài người há không có bậc Thánh Hiền ư? Biểu dương một điều thiện thì thiên hạ khuyến thiện, lễ một bậc Hiền thì thiên hạ kính mộ bậc Hiền. Các bậc Cao tăng từ xa xưa cho đến gần nay, thấy Thiên Tử chẳng xưng tên, dự chế thư thì gọi là Sư là Công. Sa-môn Tăng Viễn ở Chung Sơn, xe kiệu đã đến nơi cửa mà vẫn ngồi yên trên sàng tòa không nghinh đón. Sa-môn Tuệ Viễn ở Hổ Khê, Thiên Tử đến Tầm Dương mà ban chiếu chẳng ra khỏi núi. Thời ấy, tiếp đãi người ấy, tôn quý đức của họ, cho nên Đạo của Thánh nhân đó phấn phát, học trò họ kính chuộng Đức. Nho gia nói: "Quý Đức làm gì vậy? Để làm họ gần nơi Đạo vậy". Nho gia há chẳng vậy ư? Người đời sau mến mộ Cao tăng, giao tiếp với Khanh Đại phu còn chẳng tiếp đãi, giữ lễ của kẻ hạ sĩ. Họ đi họ ở chẳng như hạng người thường ngu tự đắc, huống gì như Sa-môn Tăng Viễn ra mắt Thiên tử ư? Huống gì như Samôn Tuệ Viễn tự nhiên ư? Mong ngóng dấy nổi của Đạo tôi. Tôi và mọi người cùng tu, đó có thể được ư? Còn giáo ấy mà chẳng cần người ấy còn, các nơi lấy gì làm lợi ích ư? Chỉ có đây chưa từng không rơi lệ vậy.
Giáo gọi là Trú trì, nghĩa là gì? Trú trì ấy nghĩa là Tịch nhân gìn giữ pháp ấy khiến mãi an trú mà chẳng diệt mất vậy. Giới Định Tuệ là dụng cụ của gìn giữ Pháp. Vườn tăng chuyên vật là vốn gìn giữ Pháp. Pháp ấy là Đạo của Đại Thánh. Vốn là dụng cụ đợi người ấy mà sao cử khắp, khéo dụng cụ ấy mà chẳng khéo vốn, ấy thì không thể vậy. Khéo vốn ấy mà không khéo dụng cụ ấy cũng không thể vậy. Đều khéo thì có thể dùng để gìn giữ mà an trú đó vậy. Xưa kia, Trú trì nơi Linh Sơn, lấy tôn giả Đại Ca-diếp thống nhiếp đó. Trú trì ở Trúc lâm lấy lấy Tôn giả Xá-lợi-phất làm chủ đó. Cho nên giáo của Thánh nhân thạnh, pháp của Thánh nhân trường tồn. Thánh nhân đã ẩn, đó là số đời cùng mất, mênh man đã lâu vậy. Chúng ta kiêu hãnh mới dùng Trú trì danh đó, lợi đó, thế đó. Thiên hạ cùng tập mịt mờ rối ren vậy, ngõ hầu thành phong thành tục. Thánh nhân chẳng xuất hiện lại, như vậy, ai làm đó chánh? Hàng ngoại vệ chẳng trông nhìn chẳng chọn lựa, muốn phong hóa của Thánh nhân tôi chẳng suy, mong Pháp của Thánh nhân tôi càng xương thạnh mà không thể được vậy. Buồn thay! Tôi mong ngóng làm sao?
Tăng trị chánh mà phẩm trật sánh với Thị trung, nghĩa là gì? Trị chánh chẳng phải có từ xa xưa, mà được bắt đầu từ thời Diêu Tần. Trị chánh có thể được vậy, Trị phẩm trật thì không thể được vậy. Tăng là người vất bỏ vinh lợi, vì đức thắng vượt cao ngoài đời, đâu dự vào sự sủng ái bổng lộc ư? Đem Tăng so sánh phẩm trật, há chẳng phải tạo ra mối tranh giành thế quyền ở đời sau ư? Đạo mài giũa chẳng sáng, không biết mắc mưu đó dần dần, là lỗi quá của Đạo mài giũa vậy. Phàm, Tăng là người được sinh ra từ giới định tuệ, Chánh ấy là sanh ra từ thật sáng ấy vậy. Tăng chẳng thật sáng thì sao có thể thành Giới, thành Định, thành Tuệ ư? Chẳng thành giới định tuệ thì tôi không biết họ lấy gì để làm chánh vậy. Ở thời nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần, cả bốn triều đại cũng men theo thời nhà Tần mà làm Trị chánh. Hai thời nhà Ngụy, nhà Tề và Hậu Chu cải đổi chế của nhà Tần mà đặt Trị thống. Nhà Tùy tiếp theo nhà Chu mà đặt Trị thống. Đến thời Tiền Đường thay đổi nhà Tùy, bãi bỏ thống mà đặt là Lục. Quốc Triều chúng ta men theo chế của thời Tiền Đường, ở hai Kinh đô thì đặt là Lục, ở các quận thì đặt là Chánh. Phàm từ xưa đến nay men nương thay đổi tuy khác, mà làm chủ ấy chỉ là một. Thiên hạ khó ở được người mà xưa nay đều vậy. Nếu được Chánh đó, thì chúng ta ngõ hầu không tà vậy. Thận trọng đó thay! Thận trọng đó thay! Khó người ấy vậy.
Hữu hình ra Vô hình, Vô hình ra Hữu hình, nên Đạo của bậc Chí thần không thể dùng Hữu để tìm, không thể dùng Vô để lường. Không thể vì Động mà mất, không thể vì Tĩnh mà được. Đạo của Thánh nhân không ư? Thì đời đời sau lại. Đạo của Thánh nhân chẳng không ư? Thì sanh sao chẳng hết sạch? Khéo thấu rõ không và chẳng không, đối với Đạo của Thánh nhân đó mới ngõ hầu vậy. Phàm, kiểm nghiệm về không chẳng gì bằng xét ở Hữu hình. Xét Hữu hình chẳng như biết Vô hình. Biết Vô hình thì có thể dùng để trông nhìn Thần minh. Trông nhìn Thần minh mới đầu có thể dùng để nói Đạo. Đạo ấy là tích chứa của Thần. Nhận biết nói nó tự sanh ra. Nhận biết đó là nguồn đại hoạn. Cho rằng, Đạo của Thánh nhân là không, đó là đắm chìm nơi không hỗn độn mịt mờ, bệnh lại càng bệnh thêm vậy. Thiên hạ như vậy ai có thể trị đó ư?
Thiên hạ không tin tánh làm nhân của Thánh nhân, thiên hạ không tin tánh làm quả của Thánh nhân. Thiên hạ lầm hoặc tánh mà không biết tu tánh, thiên hạ nói tánh mà không biết thấy tánh. Không tin tánh cùng Thánh nhân đồng nhân, tự mê muội vậy. Không tin tánh cùng Thánh nhân đồng quả, tự vất bỏ vậy. Chẳng tu tánh mà tánh chìm đắm lầm hoặc vậy. Không thấy tánh mà họ nói tánh là chẳng xét vậy. Cho nên, chỉ tu không gì bằng nhân, khắc thành không gì như quả. Toàn tánh không gì bằng tu, xét tánh chẳng gì bằng chứng.
Nhân ấy là phô bày của tu tánh, quả ấy là hiệu nghiệm của thành tánh. Tu ấy là dụng của trị tánh, chứng ấy là nghiệm của thấy tánh. Thiên hạ tâm họ mới tán đó, loạn đó, biếng lười đó, khinh mạn đó. Cho rằng không hẳn nhân mà trống không phô bày ấy, thì thiên hạ lấy gì khuyên họ tu tánh mà tiến đến thành đấy ư? Tâm của thiên hạ mới nghi ngờ đó lầm hoặc đó, mà chẳng định vậy. Cho rằng không hẳn quả mà trống không hiệu nghiệm ấy, thì thiên hạ lấy gì để chỉ bày họ thành tánh và hiển bày quả ấy có chỗ đạt đến ư? Cho rằng chẳng hẳn tu mà trống không dụng cụ ấy, thì thiên hạ tánh họ có thể chẳng ngăn che, quả tỏ sáng lại tịnh ư? Chấp có chấp không, chấp thường, chấp đoạn, trong thiên hạ thuyết ấy mới rối ren cùng lẫn lộn mà chẳng biện rành. Cho rằng chẳng hẳn chứng mà trống không ứng nghiệm ấy, thì thiên hạ có thể dùng riêng họ thấy tánh đó là chánh hay tà ư? Là đạt đến hay chẳng đạt đến? Bách gia đều nói tánh mà không việc ở nhân ở quả, ở tu, ở chứng. Họ đối với tánh quả thật có hiệu nghiệm rõ ràng ư? Chư Tử chuyên việc tánh, mà chẳng cầu ở nhân, ở quả, ở tu ở chứng. Họ đối với tánh có thể đạt đến đó ư? Cho nên, Thánh nhân của tôi nói tánh, hẳn trước tiên ở nhân quả tu chứng ấy vậy. Diệu chỉ thay! Thiên hạ khá nên suy nghĩ đó vậy!
Giáo của Thánh nhân còn ở đạo, đạo của Thánh nhân còn ở giác. Giác thì tỏ sáng, bất giác thì chẳng tỏ sáng, chẳng tỏ sáng thì quần linh do vậy cách biệt với Thánh nhân. Giác ấy là chẳng phải tiệm giác, cực giác. Cực giác là hay hoàn tất việc của Thánh nhân, giác ấy, đó gọi là Phật. Huống gì ấy, đó gọi là Thừa, giác đó để thành Đạo của Thánh nhân. Thừa đó để đến địa vức của Thánh nhân, các bậc Tiền Thánh Hậu Thánh ai chẳng như vậy ư? Xét sở giác của Thánh nhân vốn ở nơi thường giác của quần sanh vậy. Chúng sanh giác thường ngày mà chưa từng giác, giác như mộng, hiểu mà còn mê muội, cho nên Thánh nhân vạch bày mà chỉ cho đó. Muốn họ tìm cầu đó, dẫn dắt mà tiến đến đó, muốn họ đạt đến đó. Có người cho rằng, Phật sao từ mà loạn đó, làm nhà mà ném vất vật báu, giẫm đạp trên đường mà xả bỏ đất. Lầm hoặc cũng quá lắm vậy. Giác ấy là dùng nói ở gần thì dứt trần lao, lắng Thần minh, chánh gốc để tu ngọn, dùng nói ở xa thì rõ suốt sanh tử đại ngụy bên ngoài để đến vắng lặng mà thường tỏ sáng. Nhàn nhàn cùng Thánh nhân đồng đức, giác đó có công hiệu vậy. Như vậy, lớn thay? Đạt đến ư? Không thể dùng ngôn từ nói hết, không thể dùng trí để đắc. Thần mà minh, còn ở nơi người ấy!
Việc làm của Thánh nhân tôi, đang ở đời nhà Chu hưng thạnh, khí lành hiện ở đời Chiêu Vương (Cơ Hạ 1000-976 trước tây lịch thời Tây Chu) mà Chu thư chẳng biên chép, bởi lánh dị vậy. Hóa nhân từ Tây cực mà đến, tới thời Mục Vương (Cơ Mãn 976-921 trước tây lịch thời Tây Chu) thời thần du (= Phật diệt độ). Điều ứng của Thánh nhân đến Các Hạ vậy. Mười tám vị Dị Tăng đến trong thời nhà Tần, mà Thủy Hoàng (Doanh Chính 246209 trước tây lịch) lấy làm quái lạ, khi ấy Phật pháp đã dần truyền bá ở phương Đông. Đến thuyết mộng Kim nhân ở thời Hậu Hán (= Minh Đế-Lưu Trang 58-76, mộng thấy người vàng), thanh giáo bèn phấn phát. Đó là minh số đang dấy khởi vậy. Ra từ kia mà chẳng ra ở đây, tại sao? Vì kia là một trung tâm lớn của một thiên hạ, để phô bày trung tâm lớn của tâm đó, quyền đó, Đạo đó vậy. Thánh nhân dùng Đạo làm, dùng quyền thích nghi do đó ra bày vết tích. Phàm Đạo ấy là lý trung của Thánh nhân, quyền ấy là sự trung của Thánh nhân vậy, chỗ sanh ra là phô bày trung tâm của Thánh nhân vậy. Phô bày trung thì tâm của Thánh nhân có thể biết, lý trung thì Đạo của Thánh nhân đạt đến vậy, sự trung thì sự của Thánh nhân được vậy. Truyện nói kia là một thiên hạ, chỗ bao gồm ấy như ở Trung Quốc cho là thiên hạ ấy vậy gần như có trăm số, mà Trung Quốc cho là Thánh nhân tôi chẳng sanh ra từ Trung Quốc mà sanh ra từ giống Di. Há chỗ thấy đó chưa rộng lớn ư? Xuân Thu dùng Từ đánh cử bất nghĩa, mới di địch đó, dùng người địch cùng người Tề thề bắt giết được nghĩa, mới Trung Quốc đó. Xuân Thu hẳn là pháp của Thánh nhân Nho gia vậy, đâu hẳn lấy chỗ sanh ra mà bàn nghị người ấy ư? Nhưng loại chẳng đủ để hết người, vết tích chẳng đủ để hết Đạo. Vì loại mà mong cầu Thánh nhân cũng chẳng trói buộc ư? Vì vết tích mà bàn nghị Đạo của Thánh nhân cũng chẳng là hư vọng ư? Thánh nhân xuất hiện sau đời của Ngũ đế, Tam vương, mà chẳng xuất hiện trước đời Ngũ đế, Tam vương, tại sao vậy? Thánh nhân chẳng phải cẩu thả mà xuất hiện. Thánh nhân vì chỗ cảm của tâm người mà xuất hiện. Trước đời Ngũ đế, Tam vương, tâm quần sanh chẳng cảm, nên Thánh nhân chẳng lại. Sau đời Ngũ đế Tam vương, tâm quần sanh cảm, vết tích của Thánh nhân do đó mà đến. Đạo ở nơi chúng sanh, đó gọi là Nhân; Đạo ở nơi Thánh nhân, đó gọi là Duyên. Nhân duyên có chín mùi và chưa chín mùi. Nhân duyên chín mùi, tuy chúng sanh chẳng cầu mà Thánh nhân hẳn đến. Nhân duyên chưa chín mùi, tuy chúng sanh mong cầu đó, mà Thánh nhân chẳng ứng. Vậy biết, Thánh nhân cùng chúng sanh bởi vì đạo mà tự nhiên tương cảm. Chẳng như ở đời có chỗ làm vì tình mà thủ vì tình mà xả ấy vậy.
Thánh nhân biết xa đạt đến xa, Thánh nhân tiên giác đạt đến giác. Cho nên giáo đó suy buộc từ trước Thái cực, tức Đạo là mở đầu của trời đất vậy. Nên sách làm rộng làm nhiều làm chẳng ước lược. Mênh mông thay! Chẳng thể dùng một lần qua mong cầu, chẳng thể dùng một ngày mà hết. Trị sách ấy, đó gọi là học; Học giáo ấy, đó gọi là xét; xét đạo ấy, đó gọi là đạt đến. Thiên hạ chẳng phải đạt đến mà không gốc, chẳng phải giáo mà không tỏ sáng, chẳng phải sách mà không biết. Cho nên, nghiên cứu đạo của Thánh nhân là không thể bỏ giáo ấy. Tham tầm giáo của Thánh nhân là không thể vất sách ấy. Nay biện giải Đạo ấy mà cự giáo ấy, kiểm hiệu giáo ấy mà chẳng đoái hoài sách ấy, cũng chẳng hư vọng ư? Nho gia nói: "Tuy có thức ăn ngon mà chẳng ăn, không biết ý chỉ ấy vậy. Tuy có chỉ đạo mà chẳng học tức chẳng biết khéo ấy vậy". Chẳng ấy việc ư? Cho rằng Đạo đó không đủ pháp, suy Đạo mình để biện giải đó; cho rằng sanh ấy chẳng đủ rõ, viện dẫn sách mình đi để so sánh đó. Phàm cùng người làng tố cáo mà dẫn người nhà làm chứng, xác đáng ư? Hẳn là chẳng xác đáng vậy? Đạo ấy là gốc của thiên hạ, sách là vết tích của thiên hạ; Sự ấy là dị của thiên hạ; Lý ấy là đồng của thiên hạ. Dùng lý mà chất ngại sự là công của thiên hạ, tìm vết tích để nghiệm gốc là thường của thiên hạ vậy. Phàm, vất sách mà biện giải Đạo, bỏ lý mà đoán sự, thiên hạ như vậy mà làm đó, ông thấy có nên chăng?
Thời xưa có cổ Thánh nhân là Phật, là Nho, là Bách gia. Tâm thì một mà vết tích đó thì khác. Một ấy là đều muốn mọi người làm thiện, khác ấy là phân gia mà mỗi mỗi làm nên giáo riêng của họ. Thánh nhân mỗi mỗi có làm giáo của họ nên phương pháp họ dạy người làm thiện có cạn có sâu, có gần có xa. Và đến cả dứt tuyệt ác mà người chẳng tổn hại nhau thì đức của họ đồng vậy. Ở sau thời Trung cổ, đời ấy rất bạc bẽo, Phật là giáo đó cùng mong mà ra đời, cùng giúp để mở rộng, làm thiện trong thiên hạ là ý trời đó ư? Hay làm của Thánh nhân đó ư? Chẳng lường biết vậy. So sánh trong thiên hạ không thể không có Nho gia, không có Bách gia, không thể không có Phật. Khuyết thiếu một giáo thì tổn mất một thiện đạo của thiên hạ. Tổn mất một thiện đạo thì ác trong thiên hạ tăng thêm nhiều vậy. Phàm, giáo ấy là vết tích của Thánh nhân; làm được đó, là tâm của Thánh nhân vậy. Thấy tâm đó thì thiên hạ không có chẳng phải, theo vết tích đó thì thiên hạ không có chẳng quấy. Cho nên, bậc Hiền là quý biết được tâm của Thánh nhân. Văn Trung Tử nói: "Quán sát Hoàng Cực nói thẳng bàn nghị, biết Phật giáo có thể dùng một vậy". Vương thị gồm như thấy được tâm của Thánh nhân vậy.
Lời tựa dẫn: Phàm, đối với hiếu các giáo đều tôn trọng, mà Phật giáo lại rất tôn trọng việc đó. Tuy nhiên, ở đó nói chẳng rất rõ ràng so với thiên hạ, cũng bởi chúng ta không có khả năng phô bày đó, mà tôi thường bùi ngùi rất lấy làm hổ thẹn. Nhớ lại lúc mới bảy tuổi, tôi là con đầu mới mở tay chân, liền bảo cho xuất gia. Vừa hơi lớn, các người anh cho là trẻ con có thể dạy dẫn để đoạt chí ý đó, riêng mẹ tôi bảo: "Đó là lệnh của cha, không thể cải đổi". Đến lúc gấp áo, sắp muốn đi phỏng đạo bốn phương, thì người trong giòng tộc lại lưu giữ. Cũng là mẹ tôi bảo: "Người đã theo Phật, chuyên việc đạo đó thích nghi vậy, đâu có thể vì tình ái mà ngăn trệ người, con nên đi đi". Than ôi! Sanh ta là cha mẹ, nuôi nấng ta là cha mẹ. Me tôi lại dạy đạo để tác thành cho tôi. Lưới trời lồng lộng lấy gì để báo đáp đức lớn đó? Từ khi xa rời quê hương, trải suốt hai mươi bảy năm, tôi chưa từng chẳng muốn trở về lại phương Nam, đến nơi phần mộ để tu pháp làm minh tán cho cha mẹ, nhưng vẫn chưa toại nguyện ấy. Năm Tân mão (1051), tự vì hoằng pháp mắc phải nạn, mà qua năm sau (1052) tại quê hương cũng gặp trộm cướp lớn. Phần mộ của cha mẹ tôi được không bị hung bạo cướp bóc, trông ngóng đó tự nhiên rớm rơi nước mắt. Lại sang năm nữa (1053), gặp việc càng có chỗ cảm, tôi bèn trước thuật "Hiếu Luận" (= Luận bàn về Hiếu) gồm mười hai chương, nêu bày Tâm ấy vậy. Trong đó phát minh chỗ lý sâu ý kín trong Đại hiếu của Thánh nhân tôi, hợp cùng chỗ nói của Nho gia, gần như cũng hết vậy. Hàng hậu học của chúng tôi cũng có thể lấy xem đó vậy.
*****
Hai ba ông xuống tóc mới học nơi đạo tôi, nghe cha mẹ họ thường bảo, họ cho mình đã là Phật tử nên từ bỏ cha mẹ mà chẳng lui tới. Tôi từng bảo họ rằng: "Phật tử tình có thể chánh, mà đối với song thân không thể bỏ sót vậy". Ông cũng nghe từ trước, Thánh nhân tôi mới đầu khởi động làm Đại giới, liền nói: "Hiếu gọi là giới, bởi lấy Hiếu làm đầu mối của giới vậy". Ông dự vào giới mà muốn bất hiểu, đó chẳng phải giới vậy. Phàm, hiếu ấy là chỗ trước tiên của Đại giới. Giới ấy là nguyên do sanh của các thiện, làm thiện nhỏ, giới thiền làm sao sanh ư? Làm giới nhỏ, hiếu giới sao tự có ư? Nên trong kinh nói: "Khiến ta chứng thành Đạo Vô thượng Chánh chân, là do hiếu đức vậy".
Hữu vi trong thiên hạ không gì lớn hơn so với sanh. Ta vốn nhờ cha mẹ sanh, nên trước ở nơi cha mẹ vậy. Minh đức trong thiên hạ không gì thiện so với giáo. Ta nhờ thầy chỉ giáo, nên trước ở nơi thầy vậy. Việc diệu trong thiên hạ không gì diệu hơn so với Đạo. Tôi nhờ Đạo lấy dùng, nên trước ở nơi Đạo vậy. Phàm, Đạo là gốc của thần dụng, thầy là gốc của dạy bảo, cha mẹ là gốc của sanh thân hình. Ba gốc ấy là ba gốc lớn của thiên hạ. Mũi nhọn có thể xâm phạm vào, ăn uống có thể không, nhưng ba gốc đó chẳng thể quên vậy. Tiền Thánh và Hậu Thánh của tôi, họ thành đạo thiết lập giáo, chưa từng chẳng trước ba gốc ấy vậy. Trong Đại giới nói: "Hiếu thuận cha mẹ sư tăng, hiếu là pháp chí đạo". Chẳng đó vậy ư? Chẳng đó vậy ư?
Hiếu, có thể thấy, và có thể không thấy. Không thể thấy là Lý của hiếu, có thể thấy là Hạnh của hiếu. Lý ấy là chỗ nguyên do sanh ra của hiếu. Hạnh ấy là nguyên do hình dung của hiếu vậy. Tu hình dung đó mà trong đó chẳng tu thì phụng sự cha mẹ chẳng dốc lòng, ban ân cho mọi người chẳng thành thật. Tu bên trong đó mà hình dung cũng tu, đâu chỉ phụng sự cha mẹ mà ban ân cho mọi người, đó cũng là chấn động đất trời cảm cả Quỷ thần vậy. Đất trời cùng với hiếu đồng linh, nên thần của đất trời không thể dùng bất hiếu mà cầu, không thể dùng dối hiếu mà khinh. Phật dạy: "Hiếu thuận là Pháp chí đạo". Nho giáo nói: "Phàm, hiếu an đặt đó mà lấp bít cả trời đất, mù mịt đó mà giăng cả bốn biển, ban thí đó đến đời sau không sớm tối". Nên nói, hiếu là kinh của trời, là nghĩa của đất, là hạnh của dân. Đạt đến thay! Thật lớn làm Đạo của hiếu! Cho nên, Thánh nhân tôi muốn người làm thiện, hẳn trước thành thật tánh đó, sau mới phát các hạnh đó vậy. Hiếu hạnh nghĩa là dưỡng thân. Hành mà không thành thật thì dưỡng đó có lúc mà thiếu thốn vậy. Phàm lấy thành thật mà hiếu đó, thì đó là phụng sự thân trọn vẹn vậy, giúp đỡ người vật quân bằng vậy. Hiếu ấy là công hiệu, thành thật ấy là thành. Thành là thành Đạo đó, công hiệu là công hiệu hiếu đó. Làm hiếu mà không công việc là chẳng phải hiếu vậy. Làm thành thật mà không thành là chẳng phải thành thật vậy. Cho nên, hiếu của Thánh nhân lấy thành thật làm quý. Nho gia cũng chẳng nói đó ư? Quân tử lấy thành thật đó làm quý" vậy.
Thánh nhân dùng tinh thần cưỡi biến hóa mà giao tiếp làm người nuôi dưỡng, thay vì xưa nay hỗn độn mịt mờ mà thế tục chưa từng tự giác. Nên họ thấy trâu dê hiện nay đó là tinh thần cha mẹ xưa trước đến vậy, nên ở giới giết hại, chẳng khiến hung bạo đối với một vật nhỏ, thuần chỉ nghĩ nhớ người thân. Thí dụ cha mẹ hiện nay thì hẳn ở đạo ấy, chỉ sợ họ thay đổi kiếp sống mà vùi lấp tinh thần đến loài khác vậy. Nên họ truy tìm cha mẹ đã quá vãng thì kịp đến bảy đời, làm cha mẹ lo toan họ chưa vậy thì kịp đến sanh lại, tuy quỷ quyệt nhưng hình hài ở đời mà tại đạo ấy vậy. Thiên hạ tạm dùng không giết hại đó để khuyên, thì dạy răn của thích sống ghét chết còn có thể dời phong đổi tục vậy. Thiên hạ tạm lấy vùi lấp tinh thần đó làm cha mẹ lo toan, còn có thể mở rộng ư? Làm con hiếu, tâm phải cẩn trọng việc tang lễ nghĩ nhớ tổ tiên xa xưa vậy, huống gì đó đối với biến hóa mà được thật đó vậy. Kiểm xét, phàm ở đời gọi là hiếu chỉ hạn cục trong một đời mà tối tăm huyền lãm. Tìm cầu nơi người mà chẳng tìm cầu nơi Thần. Nói là chẳng làm xa mà ai làm xa ư? Là chẳng làm lớn mà ai làm lớn ư? Kinh nói: "Nên sanh tâm hiếu thuận, tâm mến thương gìn giữ hết thảy chúng sanh" là nghĩa ấy vậy.
Đạo của Thánh nhân lấy thiện làm dụng. Thiện của Thánh nhân lấy hiếu làm đầu mối. Làm thiện mà chẳng trước ở đầu mối ấy tức chẳng phải thiện vậy. Làm Đạo mà chẳng ở dụng ấy tức không phải Đạo vậy. Dụng do đó nghiệm Đạo, đầu mối do đó hành thiện. Hành thiện mà thiện ấy chưa hành đối với mẹ cha, thì có thể tỏ thiện ư? Nghiệm Đạo mà chẳng thấy ở tỏ thiện của Đạo thì có thể làm Đạo ư?
Cho nên, làm Đạo của Thánh nhân không đâu là chẳng thiện. Làm thiện của Thánh nhân chưa từng bỏ sót mẹ cha. Mẹ cha là gốc lớn sanh ra thân hình, là ân lớn của nhân đạo vậy. Chỉ có Thánh nhân làm hay trọng gốc lớn ấy, báo đáp ân lớn ấy. Nay, làm Đạo trong thiên hạ ai có thể so cùng với Thánh nhân? Phàm, Đạo của Thánh nhân rất thấu đáo, cao vời riêng tôn quý trời người, chẳng thể được mà sanh đó, không thể được mà tử đó. Và đó ứng vậy thì đồng với trời người, còn hẳn thuận với nhân đạo, mà chẳng dám quên thân mẫu đã qua đời, chẳng dám chống lệnh mời của thân phụ. Nên lúc mới thành Đạo mà trước tiên Đức Phật lên trời dùng Đạo ấy dẫn dụ mẫu thân Phật, ba tháng sau mới trở lại nơi đời, ứng mạng lệnh trở về lại quê cũ, chỉ bày cho thân phụ vào Đạo mà cả nước nhà đều chuyển hóa. Đến lúc đám tang thân phụ, Thánh nhân tự thân lại cùng mọi người giòng họ Thích gánh khiêng quan tài đến nơi hỏa táng. Thánh nhân có thể gọi là cùng với nhân đạo mà rất thuận vậy. Người đời nay vừa mới làm học trò đó, đối với Thánh nhân chỉ là kẻ học sau đi cuối đường, mà muốn chẳng dự làm hiếu, cho rằng ta xuất gia chuyên việc Đạo, thì tôi đâu dám vậy. Đó đâu thấy tâm của người xuất gia ư? Phàm người xuất gia sắp dùng Đạo mà tỏa thiện, tỏa thiện mà chẳng thiện đối với cha mẹ họ, há nói là Đạo ư? Chẳng chỉ không thấy tâm họ, ước cũng cô phụ đối với pháp của Thánh nhân. Trong Kinh nói: "Cha mẹ cùng với Bồ-tát một đời sẽ bổ xứ làm Phật đồng đẳng, nên phải thừa sự cúng dường". Cho nên trong luật dạy, người đệ tử Phật được giảm bớt phần ăn mặc mà phụng dưỡng mẹ cha họ. Nếu mẹ cha có chánh tín thì có thể mặc tình cung cấp đó. Còn như mẹ cha không chánh tín thì nên cung cấp phần nào đó, mà có điều dẫn dắt ấy vậy.
Thiên hạ lấy Nho làm hiếu mà chẳng lấy Phật làm hiếu, lại nói: "Đã là hiếu, còn gì phải thêm vậy?" Ôi! Đó là thấy Nho mà không thấy Phật. Phật là cùng cực vậy. Vì Nho chỉ giữ đó, còn Phật mở rộng đó. Vì Nho chỉ là người, còn Phật ở cả Thần. Hiếu ấy thấu đạt lại lớn vậy. Nước hẳn đổ xuống khơi tháo mà lan tràn, chỗ nói đến cũng chẳng nhanh ư? Lửa hẳn bốc lên, thổi mà tỏa đó, nơi nó khắp cũng chẳng xa ư? Nguyên Đức Tú là người Hiền ở thời Tiền Đường, chịu tang thân mẫu, buồn cảm rất lắm, chẳng thể tự bắt chước, chích thịt ra máu họa vẻ tượng Phật, viết kinh Phật mà các nhà làm sử ngợi khen đó. Lý Quán là người có tiếng tăm ở thời Tiền Đường, chịu tang cha mà chích máu biên tả Kinh Kim Cang Bát-nhã, ban trải đến người ấy để ngầm giúp cha, bèn có mùi hương khác lạ tỏa phát nơi phòng nhà, tỏa ngát mấy ngày liền cùng khắp chung quanh gần đó. Phàm, thiện hẳn có lớn như vậy và có nhỏ như vậy. Phàm, Đạo hẳn có cạn như vậy và có sâu như vậy. Đạo sâu là diệu ở chất sống biến hóa vậy. Thiện lớn là suốt cả trời đất thần minh vậy. Thiện của Phật là thiện lớn ấy vậy, Đạo của Phật là Đạo sâu ấy vậy. Quân tử hẳn chí họ lớn âu cũng từ đó vậy, Luận Ngữ chẳng nói đó ư? Nghe nhiều nên chọn người thiện ấy mà theo vậy".
Với Ngũ giới: Một là không giết hại,-hai là không trộm cướp,-ba là không tà dâm,-bốn là không nói hư dối,-năm là không uống rượu.
Phàm, không giết hại là Nhân vậy, không trộm cướp là Nghĩa vậy, không tà dâm là Lễ vậy, không uống rượu là Trí vậy, không nói hư dối là Tín vậy. Với năm điều đó, tu hành thì thành người cho bản thân và hiển bày vinh hạnh mẹ cha, cũng chẳng là hiếu ư? Với năm điều đó, nếu có một không tu thì vất bỏ tự bản thân lại làm nhục cả mẹ cha, cũng chẳng là bất hiếu ư? Phàm, Ngũ giới có chứa nhóm của hiếu, mà người đời chẳng thấy, chợt nhiên mà chưa từng tin vậy, nên trong thiên hạ phước không đến mà hiếu chẳng khuyên vậy. Đại giới nói: "Hiếu gọi là giới". Bởi còn ở đó vậy. Nay thiên hạ muốn có phước thì không gì bằng thuần hiếu. Thuần hiếu thì chẳng bằng tu giới. Giới ấy là pháp chánh thắng của Thánh nhân, dùng ý thanh tịnh mà giữ đó. Phước ấy như lấy đến chung quanh vậy. Trong Lễ của Nho gia, há chẳng nói: "Ta đánh thì khắc, cúng tế thì thọ phước". Bởi được Đạo ấy vậy. Và trong Thi đó há chẳng nói: "Vui kính Quân tử, cầu phước chẳng thôi". Tức là đều nói lấy chánh ấy vậy. Phàm, chánh của thế gian còn như vậy, huống gì chánh của xuất thế ấy ư?
Hiếu sanh ra từ thiện, mà mọi người đều có thiện tâm, chẳng dùng Phật đạo mở rộng đó thì làm thiện chẳng lớn, mà làm hiếu nhỏ vậy. Làm Đạo của Phật, xem cha mẹ của người như cha mẹ của mình, giữ gìn sự sống của vật như sự sống của mình. Nên họ làm thiện thì đối với côn trùng thảy đều nghĩ nhớ; làm hiếu thì Quỷ Thần đều khuyên. Nhờ hiếu đó mà ở nơi đời thì cùng đời hòa bình mà mất phẫn hận đấu tranh. Nhờ thiện đó mà ra nơi đời thì cùng đời đại từ mà khuyên đời ấy vậy. Cho nên chuyên việc Đạo của Quân tử không thể không giải bày, chuyên việc thiện của Quân tử không thể không cân lường. Trong Trung Dung nói: "Giả sử chẳng đạt đến đức, đạt đến Đạo thì chẳng ngưng dừng". Nghĩa là như thế đó.
Nuôi dưỡng chưa đủ để báo ân cha mẹ, mà Thánh nhân dùng đức để báo ân đó. Đức chẳng đủ để báo ân cha mẹ, mà Thánh nhân dùng đạo để đạt đó. Đạo ấy chẳng phải là Đạo của Thế gian thường gọi, mà là Diệu thần minh ra khỏi sanh tử, là chí đạo của Thánh nhân ấy vậy. Đức ấy chẳng phải là Đức của Thế gian thường gọi, mà đủ muôn thiện, khắp u khắp minh, là chí đức của Thánh nhân vậy. Nho gia há chẳng nói ư? Điều quân tử gọi là hiếu là ý trước giữ chí dẫn dụ cha mẹ đến với Đạo. Tham dự ngay nuôi dưỡng ấy, sao có thể làm hiếu ư? Hoặc nói: "Điều Quân tử gọi là hiếu, mọi người cả nước đều xứng nguyện vậy". Xin nói: "May thay! Có ông như vậy". Điều gọi là hiếu, tuy nhiên đã vậy, bởi ý đồng mà nghĩa khác vậy. Phàm, báo ân trong thiên hạ, chỉ Thánh nhân tôi có thể gọi là rất mực báo ân ấy vậy. Làm hiếu trong thiên hạ chỉ Thánh nhân tôi mới có thể gọi là thuần hiếu ấy vậy. Trong Kinh nói: "Chẳng như dùng giáo của Tam Tôn độ cha mẹ trong một đời đó". Thư nói: "Thóc lúa chẳng tỏa mùi thơm, chỉ có Minh đức tỏa mùi thơm". Chẳng đó vậy ư? Chúng tôi mắc nợ cô phụ mẹ cha mà còn thẹn đối với Thánh nhân ấy vậy.
Thiện ở thiên hạ thì Đạo là lớn; hiển vinh cho cha mẹ, thì đức làm ưu. Cáo thì chẳng được đạo đức ấy. Không cáo thì được Đạo mà thành Đức. Cho nên, Thánh nhân liền trốn đến ở núi rừng, kịp đến lúc đem Đạo mà trở về, đức tỏa khắp trên dưới, mà thiên hạ ngợi ca đó là có con như vậy. Tôn quý mẹ cha đó mà nói là cha mẹ của Đại Thánh nhân vậy. Thánh nhân có thể lược bỏ đầu mà mưu tính cuối, khéo thực hành quyền biến vậy. Quân tử xưa trước đã từng có người làm vậy, như Ngô Thái Bá là hạng người đó, hẳn là chí lớn có thể dùng để phô bày đại nghĩa, hẳn là trong sạch lớn có thể gìn giữ đại chánh. Thánh nhân suy thắng đức ở nơi người trời, hiển bày chí chánh nơi chín hưởng, nên pháp của Thánh nhân chẳng đoái hoài nối dõi ở đời.
Quân tử xưa trước hẳn có làm vậy, như Bá Di, Thúc Tề là hạng người ấy vậy. Đạo hẳn tôn quý ở nơi người, nên Đạo tuy ở con mà cha mẹ có thể dùng kính bái đó, Quan nghĩa gần đó vậy. Lễ nói: "Đã làm Quan mà tự đó, Đạo của Thánh nhân vậy, thấy ở mẹ, mẹ kính bái đó". Thế tục hẳn gốc ở chân, chân ấy đã tu, thì tuy Tăng mà có thể chống kháng lễ đối với Vương hầu vậy, mà võ sự gần đó vậy. Lễ nói: "Giới là chẳng kính bái". Vì đó kính bái mà phải bái vậy, chẳng bái là trọng tiết, mẹ bái là trọng lễ vậy. Lễ tiết mà Tiên vương còn trọng đó, Đại Đạo sao có thể chẳng trọng ư? Thế tục nói: "Thánh nhân không cha". Hẳn là ưa thích phá hủy của hạng tiểu nhân ấy vậy. Kia mù mờ mà đâu thấy Thánh nhân làm hiếu sâu xa vậy thay!
Đạo Kỷ phụng sự người mẹ, lúc mẹ đi đầu thì dùng thân mình khiêng cõng, hoặc cùng hỗ trợ đó, mà Đạo Kỷ hẳn nói: "Mẹ tôi chẳng phải là mẹ ông vậy. Hình hài mẹ lụy, tôi mới phụng sự, đâu có gì nhọc đến ông ư?" Đó có thể gọi là thuần hiếu đối với mẹ vậy. Huệ Năng khéo lo liệu cháo củi để nuôi dưỡng mẹ già. Lúc sắp muốn theo thầy, còn lo nạn không biết lấy gì tích trữ cho mẹ, gần như muốn làm mướn đợ để lấy giúp. Đến lúc trở về thì người mẹ đã qua đời, bùi ngùi không được đem Đạo để mẹ thấy đó, bèn dựng lập chùa tại nhà ở để làm thiện đó. Cuối cùng chết cũng về chết ở đó, nên nói lá rụng về cội vậy. Huệ Năng là bậc chí nhân, đâu lường khác đức đó, còn chỉ bày cho người mà chẳng quên gốc ấy vậy! Đạo Phi gặp đời loạn lạc, mới cõng cha đến trốn trong núi Hoa Âm, đi xin ăn để về nuôi dưỡng. Người cha chết, Đạo Phi đến tìm kiếm hài cốt đó, đến nơi thì đã lộn lạo cốt chẳng thể phân biệt. Đạo Phi bèn khẩn cầu, vụt nhiên liền có hài cốt nhảy vọt đến trước mặt, đó là hài cốt của người cha vậy. Đạo Phi có thể gọi là người toàn hiếu. Trí Tạng là vị Tăng cứng rắn thẳng thắn ở thời trước, tôn thờ thầy tôn kính như phụng sự cha. Thầy tịch thì giữ tâm trung ba năm vậy. Thường Siêu tôn thờ Thầy trúng lễ, đến lúc Thầy tịch cũng phụng thờ như lúc hiện còn, nên người Yên ngợi ca đó là Hiếu để vậy. Nên trong luật chế, Phật tử hẳn giảm bớt phần ăn mặc để phụng dưỡng mẹ cha vậy. Như những vị trên chẳng bỏ sót mẹ cha, đối với ý của Thánh nhân là được đó vậy. Trí Tạng, Thường Siêu kính cẩn tôn thờ Thầy, bởi cùng hợp đối với Đại giới của Phật mới đầu hoằng giáo, có thể pháp ấy vậy.
Tang của cha mẹ cũng đâu buồn, nhưng mang mặc tang chế thì chẳng phải chỗ thích nghi, dùng Tăng phục vải thô có thể được vậy. Phàm ứng xử hẳn đồng như người con ở thế tục nhưng địa vị thì khác. Quá liệm thì theo thời đến nhà đó, đưa tang thì hoặc phù trợ hoặc chỉ dẫn. Ba năm hẳn giữ tâm tang, sống tĩnh lặng tu ngã pháp, tán minh của cha mẹ. Qua kỳ hạn chịu tang, chỉ ngày kỵ cha mẹ, thì ngày Rằm tháng bảy, hoặc thiết lập trai hội giảng tụng kinh giáo như Pháp Vu lan Bồn. Đó có thể gọi là hiếu đến chung cùng vậy. Xưa kia có tiên sinh Cổ Hoàng người xứ Thiên Trúc, chịu tang cha thì đứng nghiêm trang trước linh sàng ấy, như dùng tâm tang mà lược bỏ khóc than quằn quại vậy. Còn Đại Thánh nhân đến lúc đưa tang Phụ Vương thì hoặc khiêng gánh quan tài, hoặc chỉ dẫn. Đại thánh nhân như Mục-kiền-liên chịu tang mẹ khóc mà thương cảm, thiết trai ban thí quỷ thần. Mục-kiềnliên cũng là Thánh nhân vậy, còn chưa thể hết sạch tình, chúng ta muốn vô tình đó ư? Nên Phật tử đang lúc chịu tang cha mẹ buồn thương nghĩ tưởng có thể như Mục-kiền-liên vậy. Tâm tang có thể trước như Đại Thánh nhân vậy. Chịu tang thầy hẳn như tang của cha mẹ, mà kỳ hạn chịu tang Thập sư thì có thể rút bớt. Chỉ có đối với thầy bẩm pháp đắc giới thì giữ tâm tang ba năm có thể vậy. Pháp Vân đang lúc chịu tang của cha mẹ, buồn cảm rất lắm, uống ăn chẳng màng qua nhiều ngày. Pháp Vân là vị Cao Tăng thời xưa trước vậy. Tuệ Ước gần như là bậc chí nhân, lúc cha mẹ qua đời cùng chia tay quyết biệt mà đều gào khóc, như chẳng thể tự còn sống nỗi. Nhưng tang chế khóc than tuy trong giáo ta lược đó, bởi muốn họ hết ghét thương để đến cảnh Thanh tịnh. Nếu như thương ghét chưa quên thì tâm thức đến nơi các vật. Đến lúc có tang mà chẳng khóc cũng là sự an nhẫn của người vậy. Nên lúc Đức Phật nhập Niết-bàn, đại chúng đấm ngực kêu gào, mà máu huyết hiện nơi Hoa Ba-la-xa, bởi họ chẳng nhẫn vậy. Luật Tông nói: "Chẳng bày buồn khổ cũng là đồng xấu hổ của hàng Đại tục vậy". Chúng ta lúc gặp tang có thể chẳng buồn đau ư?
(Xưng gọi là Kinh, tức tự người sau tôn trọng pháp đó, chứ chẳng phải ý của Lục Tổ vậy. Nay theo xưa cũ đó không dám cải đổi. Cũng có thể gọi là Kinh, tức là gọi theo ở cuối quyển Hạ bản Kinh ấy vậy).
Tán nghĩa là cáo, mở kinh mà tỏa cáo vậy. Đàn Kinh là nêu bày tâm ấy của bậc chí nhân. Tâm nào ư? Chính là Diệu tâm do Phật truyền vậy. Lớn thay! Tâm ấy vốn mới đầu biến hóa mà thanh tịnh thường như. Phàm vậy, Thánh vậy, u vậy, hiển vậy, không nơi nào mà chẳng tự được có. Thánh ngôn thì sáng tỏ, phàm ngôn thì mờ tối. Mờ tối ấy là biến, sáng tỏ ấy là trở lại. Biến và trở lại tuy khác nhau mà Diệu tâm chỉ một. Mới đầu, Đức Phật Thích-ca lấy đó mà truyền cho Đại Quy Thị, Đại Quy Thị lần lượt tương truyền cho đến đời thứ ba mươi ba là truyền đến Đại Giám (Lục tổ Huệ Năng thụy hiệu là Đại Giám Thiền sư). Đại Giám tiếp tục lưu truyền ngày càng rộng vậy. Thuyết đó ước cũng hẳn nhiều mối, hẳn có sanh đồng mà thật khác ấy vậy. Hẳn có nghĩa nhiều mà tâm chỉ một ấy vậy. Nói là tâm máu thịt (= con tim), tâm Duyên lự, tâm Tập khởi, tâm Kiên thật, như Tâm và Tâm sở lại càng nhiều vậy. Đó gọi là danh đồng mà thật khác ấy vậy. Nói là tâm chân như, tâm sanh diệt, tâm phiền não, tâm Bồ-đề. Trong Tu-đa-la nói các loại như vậy hầu như không thể tính kể. Đó gọi là nghĩa nhiều mà Tâm chỉ một ấy vậy. Nghĩa có nghĩa giác, có nghĩa bất giác, Tâm có chân tâm, có vọng tâm, đều vì riêng của Chánh Tâm ấy vậy. So với trong đầu kinh chỗ gọi là Tâm cũng nghĩa giác của nghĩa, thật tâm của tâm vậy.
Xưa kia, Thánh nhân sắp ẩn, mới bảo Đại Quy Thị cốt yếu của truyền pháp ngoài giáo. Ý sợ mọi người mắc kẹt nơi dấu tích mà quên trở về, nên muốn người đời sau ngay gốc mà chánh ngọn, nên trong Kinh Niết-bàn nói: "Ta có chánh pháp Vô thượng, đều đã phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp vậy". Đạo của trời còn ở dị, đạo của đất còn ở giản, đạo của Thánh nhân lấy cốt yếu làm then chốt của pháp giới môn, làm chỗ nhóm hội của vô lượng nghĩa, làm trục xoay của Đại thừa. Kinh Pháp Hoa há chẳng nói: "Diệu pháp đó là bí yếu của chư Phật". Kinh Hoa Nghiêm há chẳng nói: "Dùng phương ít bèn nhanh thành Bồ-đề". Cốt yếu ở nơi đạo của Thánh nhân là lợi mà lớn vậy thay! Nên tông chỉ của Đàn Kinh là tôn quý tâm yếu vậy. Tâm ấy hoặc là sáng, là tối, là không, là linh, là tịch, là tĩnh, có vật, không vật. Nghĩa là một vật ấy hẳn tràn khắp nơi muôn vật, nghĩa là muôn vật bao gồm nói một vật; một vật như muôn vật, muôn vật như một vật. Đó nghĩa là có thể nghĩ bàn vậy, và đến cả chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn vậy. Thiên hạ gọi đó la Huyền giải, gọi đó là Thần hội, gọi đó là tuyệt đối đãi, gọi đó là mặc thể, gọi đó là minh thông. Một đều lìa đó, xua đuổi đó, xua đuổi đó lại xua đuổi, cũng sao có thể đến đó. Nhỏ nhiệm đó quả nhiên riêng được cùng tương tợ của bậc chí nhân vậy. Ai có thể tin ư? Suy mà nói rộng ra đó thì không trải qua chẳng thể được vậy. Tham tầm mà xét lựa đó thì không chỗ chẳng đáng. Buông đến chứng tánh thì chỗ ấy thấy rất gần, buông đến tu tâm thì chỗ đến chí chánh, buông đó đến sùng đức biện hoặc thì chân vọng dễ hiển bày, buông đó ở xuất thế thì Phật Đạo chóng thành, buông đó ở cứu đời thì trần lao dễ hết. Đó là Tông chỉ của Đàn Kinh, do vì đi bên cạnh thiên hạ mà chẳng nhàm chán. Kia cho rằng tức Tâm tức Phật là cạn cợt, sao đó chẳng biết lượng vậy? Dùng dùi gãy để thăm dò đất mà cho là đất cạn; dùng lỗ nhà thủng để nhìn trời mà cho là trời nhỏ. Đâu phải trời đất như vậy ư? Nhưng Bách gia tuy tạm thắng đó mà chẳng như vậy, mà bậc chí nhân thông lại suốt đó, hợp với các kinh, đoán có thể thấy vậy. Bậc chí nhân biến mà thông đó, chẳng can dự danh tự, chẳng thể lường vậy. Nên với Hiển thuyết đó thì có luân có nghĩa, với mật thuyết đó thì không đầu không đuôi. Người thiện có nhạy bén thì được sâu đó, kẻ thiện có chậm lụt thì được cạn đó, có thể phỏng định, có thể bàn nghị ư? Chẳng đặng đừng huống gì đó là Viên Đốn giáo vậy, là Tối thượng thừa vậy, là Thanh tịnh thiền của Như Lai vậy, là Chánh tông của Bồ-tát tạng vậy. Người bàn luận cho đó là Huyền học, cũng chẳng rõ ràng ư? Thiên hạ gọi đó là Tông môn, cũng chẳng thích nghi ư?
Đàn Kinh nói Định Tuệ làm gốc là mở đầu đến với Đạo vậy. Định ấy là Tĩnh, Tuệ ấy là minh. Minh và quán đó tĩnh để an đó. An tâm đó có thể thấu rõ tâm vậy. Quán đạo đó có thể để nói đạo vậy. Nhất hạnh Tam-muội nghĩa là Pháp giới nhất tướng vậy. Nghĩa là muôn thiện tuy khác đều chánh ở một hạnh ấy vậy. Vô tướng làm thể là tôn quý Đại Giới vậy. Vô niệm làm tông là tôn quý Đại Định vậy. Vô trú làm gốc là tôn quý Đại Tuệ vậy. Phàm, Giới Định Tuệ là đạt đạo của Tam thừa. Phàm, Diệu tâm là vốn lớn của Giới Định Tuệ vậy. Dùng một Diệu tâm mà bao gồm cả ba pháp, nên nói là Đại vậy. Vô tướng giới là giới ấy hẳn là Chánh giác vậy. Tứ Hoằng Nguyện là nguyện độ độ Khổ, nguyện đoạn đoạn Tập, nguyện học học Đạo, nguyện thành Tịch diệt. Diệt không chỗ diệt, nên không chỗ chẳng đoạn vậy. Đạo không chỗ Đạo, nên không chỗ chẳng độ vậy. Vô tướng sám là sám không chỗ sám. Tam quy giới kết quy một ấy. Một ấy là nguyên do sanh ra của Tam Bảo. Thuyết Ma-ha Bát-nhã nghĩa là đạt đến trong của Tâm ấy. Bát-nhã ấy là phương tiện của Thánh nhân, là Đại trí của Thánh nhân, hẳn hay Tịch đó, tỏ sáng đó, quyền đó, thật đó. Thiên hạ cho là Tịch ấy có thể hết sạch các ác. Thiên hạ cho là tỏ sáng đó có thể nhóm tập các thiện. Thiên hạ cho là quyền đó có thể làm Hữu vi lớn. Thiên hạ cho là thật đó có thể làm Vô vi lớn. Đạt đến thay Bát nhã ấy vậy! Đạo của Thánh nhân nếu chẳng Phải Bátnhã, chẳng tỏ sáng vậy, chẳng thành vậy. Việc chuyên của thiên hạ chẳng phải Bát-nhã, chẳng thích nghi vậy, chẳng đáng vậy. Làm của Bậc Chí nhân, dùng Bát-nhã chấn động, cũng chẳng xa ư? Ngã pháp vì hạng người thượng căn mà nói là thích nghi đó vậy. Khinh vật trọng dụng là chẳng thắng, phương lớn trao nhỏ thì là quá vậy. Từ trước trở lại im lặng truyền phân giao, nghĩa là mật thuyết vậy. Mật ấy là chẳng phải không nói mà mờ tối chứng vậy. Chân mà mật đó vậy. Chẳng hiểu pháp ấy mà liền hủy báng, nghĩa là trăm kiếp ngàn đời đoạn mất chủng tánh Phật, phòng ngại thiên hạ, mất tâm ấy vậy. Lớn thay làm của Đàn Kinh! Gốc ấy chánh, vết tích ấy công hiệu, nhân ấy chân, quả ấy chẳng sai bậy. Tiền Thánh và Hậu Thánh khởi đó như vậy, chỉ bày đó như vậy, trở lại đó như vậy, mênh mông lan tràn như sông lớn trút đổ, như thông suốt của hư không, tợ tỏ sáng của Nhật Nguyệt, như không ngăn ngại của hình ảnh, như có thứ lớp của Hồng tiệm vậy. Diệu mà đắc đó, đó gọi là gốc. Suy mà dùng đó, đó gọi là vết tích. Lấy chẳng phải mới đầu đó là mới đầu đó, đó gọi là nhân; lấy chẳng phải thành đó mà thành đó, đó gọi là quả. Quả chẳng khác Nhân, đó gọi là Chánh quả; Nhân chẳng khác Quả, đó gọi là Chánh nhân. Vết tích hẳn đoái hoài đến gốc, gọi đó là Đại dụng, gốc hẳn đoái hoài đến vết tích, đó gọi là Đại thừa. Thừa ấy là dụ đạo của Thánh nhân. Dụng ấy là khởi giác của Thánh nhân. Phàm, Đạo của Thánh nhân chớ đạt đến ở Tâm, giáo của Thánh nhân chớ đạt đến ở Tu, Điều thần nhập đạo chớ đạt đến ở Nhất tướng chỉ quán. Khuôn phép thiện thành đức chớ đạt đến ở Nhất hạnh Tam-muội. Vốn tất cả giới chớ đạt đến ở Vô tướng. Chánh hết thảy định chớ đạt đến ở Vô niệm. Thông hết thảy trí chớ đạt đến ở Vô trú. Sanh thiện diệt ác chớ đạt đến ở Vô tướng giới. Thuần Đạo suy Đức chớ đạt đến ở Tứ hoằng nguyện. Khéo quán lỗi quá chớ đạt đến ở Vô tướng sám. Chánh chỗ hướng tới chớ đạt đến ở Tam quy giới.
Chánh Đại thể lựa chọn Đại Dụng chớ đạt đến ở Đại Bát-nhã. Phát Đại tín chuyên Đại đạo, chớ đạt đến ở chí lớn. Cùng lý tận tánh của thiên hạ chớ đạt đến ở mặc truyền. Muốn tâm không lỗi quá chớ khéo ở chẳng hủy báng. Định tuệ làm nền tảng của đạo đầu tiên, Nhất hạnh Tam-muội là đầu mối của đức. Tông của Vô niệm nghĩa là giải thoát, gốc của Vô trú nghĩa là Bát-nhã. Thể của Vô tướng nghĩa là Pháp thân. Vô tướng giới là ưu tối của giới, Tứ hoằng nguyện là cùng cực của nguyện. Vô tướng sám là thấu đạt của Sám. Tam quy giới là chỗ quay về chân thật vậy. Đại trí tuệ là khuôn phép lớn của Thánh phàm, làm người thượng căn thuyết là nói thẳng vậy. Mặc truyền là thấu đạt của truyền, giới răn phỉ báng là xác đáng của giới. Phàm, Diệu tâm chẳng phải chỗ thành do tu, và chẳng phải chỗ tỏ sáng của chứng vậy, mà vốn tự thành vậy, vốn tỏ sáng vậy. Vì người mê làm tỏ sáng trở lại tỏ sáng do đó mà chứng. Vì người trái với thành trở lại với thành do đó tu vậy. Vì chẳng phải tu mà tu đó, nên gọi là chánh tu vậy. Vì chẳng phải tỏ sáng mà tỏ sáng đó, nên gọi là chánh chứng vậy. Bậc Chí nhân mờ tối vậy, chẳng thấy oai nghi đó, mà thành đức làm hạnh hòa nhã như vậy, Bậc Chí nhân như không nghiêm trì gì mà đạo hiển bày nơi thiên hạ vậy, bởi vì chánh tu mà tu đó vậy, vì chánh chứng mà chứng đó vậy. Khi ấy, nói là không tu, không chứng, không nhân, không quả, xuyên tạc tủn mủn tranh làm thuyết ấy xiềng xích của Bậc Chí Nhân vậy.
Ôi! Buông phóng giới định tuệ mà hẳn rảo đến trống không của hỗn mang thì tôi chưa như đó. Sao vậy? Quá lắm thay! Hàm thức chìm đắm tâm mà nỗi thức, thức cùng với nghiệp chuyên chở nhau các hưởng mà chưa từng ngừng dứt vậy. Tượng đó, hình đó, người cùng vật đều sanh rối ren giữa khoảng đất trời, có thể thắng số ư? Được hình đó ở nơi loài người hẳn là một trong muôn vàn vậy, người mà hay rõ biết, hầu như hiếm ít vậy. Thánh nhân nghĩ nhớ đó, tuy dùng nhiều nghĩa phát mở đó, mà thiên hạ còn có chỗ chẳng tỏ sáng ấy vậy. Thánh nhân cứu đó, tuy dùng lắm phương chữa trị đó mà thiên hạ còn có chỗ chẳng tĩnh ấy vậy. Bậc Hiền giả vì trí đoạn, kẻ bất tiếu vì ngu bít, hạng người trung bình thì vô ký hôn mê. Đến lúc họ cảm vật mà phát vui đó giận đó; buồn đó, vui đó, càng tệ là muôn mối mịt mù như đi đêm mà chẳng biết chỗ đến. Họ nhân nói lời nói của Thánh nhân, thì tính đó, lấy đó, như trong sương mù mà trông nhìn xa, cho là có vậy, cho là không vậy, cho là chẳng phải có vậy, cho là chẳng phải không vậy, cho là cũng có vậy, cho là cũng không vậy. Vì không thấy mà liền che mờ, nên trọn đời mà chẳng được xét đó vậy. Biển do vì ở nơi nước, cá rồng, chết sống tại biển mà chẳng thấy ở nước. Đạo do vì ở Tâm, người ấy trọn ngày nói Đạo mà chẳng thấy ở tâm.
Buồn thay! Tâm hẳn vi diệu sâu xa, khó tỏ sáng, khó nhóm họp, họ là như vậy đó. Thánh nhân đã ẩn, thiên hạ trăm đời tuy dùng sách truyền mà chẳng được đó tỏ sáng chứng nghiệm. Nên Tông của Đàn Kinh cử bày mà chỉ thẳng Tâm đó, mà thiên hạ vừa biết tức chánh ở tánh mạng vậy. Như vạch mây mốc thì chóng thấy trời xanh, như lên núi Thái mà chỗ thấy rỗng rang như vậy. Vương thị dùng phương ở Sách đời, nói là: "Tề một biến đến ở Lỗ, Lỗ một biến đến ở Đạo". Lời nói ấy gần đó vậy. Kinh Niết-bàn nói: "Mới đầu từ vườn Lộcdã, cuối cùng đến sông Bạt-đề, trong suốt thời gian năm mươi năm, ta chưa từng nói một chữ". Đó là chỉ bày pháp chẳng phải văn tự vậy, nghĩa là ngăn ngừa người dùng văn tự mà tìm cầu vậy. Nói nương tựa pháp không nương tựa người, vì pháp là chân thật mà người là hư giả. Y cứ nghĩa chẳng y cứ ngữ vì nghĩa là thật mà ngữ là hư giả. Nói y cứ trí mà chẳng y cứ thức, vì trí là thấu đạt mà thức là hư vọng. Nói y cứ Kinh liễu nghĩa là tận lý mà chỗ Bồ-tát cho là tuyên thuyết Đại Niết-bàn, nghĩa là Tự thuyết cùng đồng với Kinh. Chỗ Thánh nhân gọi là bốn người xuất hiện nơi đời (tức là bốn y cứ) hộ trì chánh pháp cần phải chứng biết đó. Cần phải chứng biết nên Bậc Chí nhân để chánh ngọn ấy vậy; tự thuyết cùng với đồng kinh, nên Bậc Chí nhân nói kinh như kinh. Y cứ nghĩa và y cứ kinh liễu nghĩa, nên Bậc Chí nhân hiển thuyết mà hợp nghĩa hợp kinh vậy. Y cứ pháp y cứ trí, nên Bậc Chí nhân mật thuyết biến đó thông đó mà chẳng bị cẩu thả ngăn trệ. Chỉ bày Pháp chẳng phải văn tự nên tông của Bậc Chí nhân chuộng ở mặc truyền. Thánh nhân như Xuân đào, đào mà phát đó vậy. Chí nhân như Thu rửa, rửa mà thành đó vậy. Thánh nhân bảo đó mà Chí nhân hiệu nghiệm đó. Chí nhân hẳn là Thánh nhân đó, là môn đó, kỳ đức ung đúc khác lạ, lớn vậy! Phàm, Bậc Chí nhân mới đầu khởi từ nhỏ nhiệm, tự cho là không biết văn tự thế tục. Đến lúc thành đạt thấu đáo, mới ngồi một nơi giảng nói mà hiển bày Đạo cứu đời, cùng như chỗ gọi là làm của Đại Thánh nhân vậy. Như khế hợp tương phù vậy, hẳn Huyền đức ấy phải là hạng Thượng trí sanh mà biết đó, dẫn từ bên ngoài pháp ấy mà chỉ bày không biết ấy vậy. Chết đã gần bốn trăm năm mà lời pháp lưu truyền khắp bốn biển chẳng ngưng dứt. Các bậc đế Vương, các vị Hiền giả trải ba mươi đời cầu Đạo đó mà càng kính. Nếu chẳng phải thấu đạt chỗ thấu đạt của Đại Thánh nhân thì trời đã nhàm chán đó từ lâu vậy. Đâu có thể được như thế ư? Tôi hẳn đâu hết được Đạo đó, may mắn muỗi nhặng uống nước biển cùng dự hưởng mùi vị đó, dám cúi đầu trải bày đó để lại cho người học sau ấy vậy.
Chân đế là gì? Nghĩa là cực diệu tuyệt đãi vậy. Thánh nhân là gì?
-Nghĩa là Thần trí hữu vi vậy. Hữu vi thì dùng ngôn ngữ làm quyền. Tuyệt đối thì dùng yếu chỉ làm thật. Thật đó, do vậy toàn tâm mà hết sạch vết tích; quyền đó, do vậy gom thâu ngọn mà trở lại gốc. Nhưng mà Chân đế ấy là nào dung phỏng nghị ở khoảng ấy ư? Tạm thử ngụ ngôn để rõ sáng tích chứa ấy vậy. Phàm Chân đế là Nguyên tâm của các tâm, là thật tế của các Thánh. Nó là như vậy, chẳng phải như vậy chẳng phải chẳng phải như vậy. Ẩn các tâm mà chẳng mờ tối, hiển Thánh trí mà chẳng tỏ sáng. Thần minh chẳng thể lường khéo léo trải qua chẳng thể cùng. Nên Kinh Bát-nhã nói: "Đệ nhất Chân đế không thành không đắc". Nói Thể đó mà còn đó, thì thanh tịnh rỗng rang, Thánh phàm hết sạch; nói đó mà dụng đó, thì lan tràn muôn vàn cổ vũ các động. Nhưng Thể mà còn đó, như gốc ấy vậy; Chiếu mà dụng đó tợ ngọn ấy vậy. Ngay tâm đó mờ tối ở thấu đạt gốc vậy, im lặng ở thanh tịnh, mà tuyệt Thánh bỏ trí, đó cũng thích nghi vậy. Chỗ gọi là Đệ nhất nghĩa đế rỗng rang không tịch, không có Thánh nhân, ai làm trói buộc ư? Mà người Tần cho là quá lắm, sân hẹp chẳng gần tình người, nếu không phải Thánh nhân mà biết không ấy là ai ư? Đó cũng là chưa thí dụ yếu chỉ ấy vậy.
Nếu phàm Thánh đều biết giác là ảnh hưởng của Chân đế, phan duyên của vọng tâm. Còn ở ảnh hưởng tức ngăn trệ nơi danh số, vì phan duyên thì mờ hoặc ở phân biệt. Đó thì chẳng phải Thánh mà Thánh, mà là Thánh nhân. Sở dĩ Đại Thánh không biết mà biết, thật biết đó, do vì biết khắp. Người xưa có hỏi ở người xưa rằng: "Thế nào là Đệ nhất nghĩa đế?" Đáp rằng: "Rỗng rang không Thánh". Lại hỏi: "Đối trước mặt Trẫm là ai?" Đáp rằng: "Không biết". Nhưng người ấy chẳng phải mê mờ Thánh mà hẳn không biết vậy, bởi không muốn người dùng ngôn từ hình tướng mà cầu tìm Chân đế ấy vậy. Vì hỏi người không tỏ ngộ, mới trở lại nói đó là: "Đánh dấu nơi thuyền để tìm kiếm rơi". Xa cũng xa vời vậy. "Dùng ngón tay chỉ mặt Trăng". Ngón tay ấy đâu phải mặt trăng, nên dùng ngôn từ mà thí dụ Đạo, cũng như nhìn ngón tay mà không nhìn mặt trăng ấy. Chẳng phải là biết mặt trăng vậy. Do đó, bậc trí nhân thường diệu ngộ ngoài ngôn từ và ảnh tượng, mà riêng đắc ở ngoài hình hài. Cư sĩ Tịnh Danh im lặng vậy mà Bồ-tát Văn-thù ca ngợi, Tôn giả Không Sanh dùng Vô thuyết mà thuyết, Vua trời dùng không nghe mà nghe. Đó chẳng vậy ư?
Thiên hạ đồng đó, nên gọi là Đại Công, thiên hạ trung chánh, nên gọi là Hoàng Cực. Trung chánh do vì đồng tâm của muôn vật, chẳng phải trung chánh do vì lìa tâm của muôn vật. Lìa đó thì thiên hạ loạn vậy, đồng đó thì thiên hạ bình trì vậy. Khéo làm thiên hạ hẳn trước gìn giữ Hoàng cực mà đạt đến Đại Công vậy; chẳng khéo làm thiên hạ, trước hẳn buông phóng Hoàng cực mà phế bỏ Đại công. Cho nên xưa trước Thánh nhân suy Hoàng Cực ở nơi vua người, chẳng phải đâu khác, vì muốn họ bình trị thiên hạ vậy. Giáo Hoàng cực ở nơi người dân, chẳng phải đâu khác, vì muốn thiên hạ đó bình trị vậy. Triều đình nước nhà là đại thể của thiên hạ, phú quý rộng cao là đại thế của thiên hạ. Giữ gìn được đạo ấy thì thể và thế yếu kém. Đạo ấy là chẳng phải đạo nào khác mà là đạo của Hoàng cực vậy. Chu Văn Vương, Chu Võ Vương đánh dẹp họa loạn, khôi phục Vương nghiệp lớn. Phú quý sùng cao mà cha con tiếp nối nhau, bói chọn nhiều đời, bói thời gian lâu dài. Tuy xưa qua nay lại, chưa có ai quá hơn vậy. Công đức thanh danh ấy rõ ràng rực rỡ sáng tỏa đến vô cực, chỗ gọi là gìn giữ được đạo ấy vậy. Mãi đến thời các vua Di Vương, Bình Vương, Trang Vương, Kính Vương xuống nhà mà đặt lễ chư hầu, chuyển dời về hướng Đông mà tạm lánh Nhung Địch. Các nước mạnh giăng bày, mà chẳng có khả năng cấm chế, phú quý cao chẳng thể tôn trọng, nguy ngập sắp suy sụp cơ nghiệp lớn của Tiên Vương ấy vậy, chỗ gọi là gìn giữ mất đạo ấy vậy. Than ôi! Nhà chỉ vài người, sanh sản của năm mẫu mà hàng thất phu thất phụ làm chủ đó. Họ làm người rất mực ngu hèn vậy, họ làm trị bình quá ư nhỏ nhoi vậy. Đến lúc người có tiết tháo trung chánh mà đến đó, nên nhà người thân gần đó, làng xóm thân cận kính mộ đó. Đó là sự mở mạng gia đạo còn có thể nhiều đời truyền đến con cháu, huống hồ đầy đủ Đại thể của thiên hạ. Nhân Đại thể của thiên hạ mà có thể đặt để đó làm vốn, có để làm thế đó, dùng Hoàng cực mà khắp đó, sao có chẳng theo mà phục đó, há chẳng kề vai giẫm gót mà về đó? Thi nói: "Thục nhân Quân tử, chánh phải người nước nhà, chánh phải người nước nhà. Hổ chẳng muôn năm". Nghĩa là đó vậy. Hoặc nói: "Hoàng cực là đạo gì vậy?" Xin nói, đó là Đạo trời, Đạo đất, Đạo người, Tam tài mà một đó. Lại nói: "Sao nói vậy". Xin nói: "Đạo trời chẳng trung chánh thì nhật nguyệt muôn sao chẳng tỏ sáng, gió mưa sương tuyết chẳng đúng mùa, ngũ hoàng xoay chuyển rối ren, muôn vật chẳng sanh. Đạo đất chẳng trung chánh, thì núi non gò đồi sụp đổ, sông ngòi rạch ngưng chảy, cỏ cây trăm thật chẳng thành, Thành hoàng am cốc nghiêng đổ. Đạo người chẳng trung chánh, thì tánh tình tương loạn, trong làm cuồng vọng, ngoài làm họa hại. Đối với mình thì tương tổn sự sống, đối với kẻ khác thì tương tổn đến người. Nên tuy trời có cao sáng rộng lớn, mà nhỏ Hoàng cực, ai làm trời ư? Tuy đất rộng dày không ngằn mé, mà nhỏ Hoàng cực thì ai làm đất ư? Tuy người được khí tốt và linh so với muôn vật, mà nhỏ Hoàng cực, thì ai làm người ư? Nên Hoàng cực chẳng phải Thánh nhân làm đó vậy. Nên nhân chỗ suy đó để dạy người ở ấy vậy. Y Duẫn nói: "Ta là Tiên giác của dân trời ấy vậy, ta sắp dùng đạo ấy để giác ngộ dân ấy". Thánh nhân nghĩa là Tiên giác đó vậy, nên do đó mà Thánh nhân cẩn trọng đối với Hoàng cực đó, Họ cấp cấp đó ở làm người vậy, họ lo buồn thiên hạ quá lắm vậy. Tại sao? Từ sau đời Thuấn Võ, thời ấy càng bạc bẽo, rầm rầm rỉ rỉ người ai không lỗi quá. Nhỏ thì lỗi quá với nhà họ, lớn thì lỗi quá với nước họ, lại lớn thì lỗi quá với thiên hạ họ. Hoàng cực khi ấy phải chấn động đó. Mới đầu, suy hành ở Cửu thù, Võ Vương được đó, dùng tạo thiên hạ của Chu. Thiên hạ đã lớn lại lâu dài, do đó Ngũ phước, Lục cực buộc Hoàng cực ở một thân. Tốt nêu xấu bày buộc Hoàng cực ở một nước một thiên hạ, Hoàng cực đó có thể lìa ư? Ôi! Người đời không ai mà chẳng nhấc đá để chánh nặng nhẹ của vàng, kéo dây mực để chánh thẳng cong của cây gỗ. Đến lúc họ sở dĩ làm thân, làm thiên hạ nước nhà mà không biết nâng nhấc Hoàng cực mà chánh đó, phải trí của Thánh hiền hào kiệt, trái lại ra ở dưới dân thợ trăm nghề. Mạnh Tử nói: "Phải, chẳng làm vậy. Quấy, chẳng thể vậy". Phàm vua người ngày xưa họ có làm vậy, nhấc Hoàng cực mà thực hành đó, nên chẳng đợi nghi, chẳng do dự, chẳng xét ở thần, chẳng chọn ở người. Tuy Nghiêu đem thiên hạ cho người đó, mà người của thiên hạ chẳng phải vì không thân gần người đó mà oán Nghiêu. Tuy Võ đem thiên hạ đến với con họ, mà người của thiên hạ, chẳng vì riêng thân gần đó mà oán Võ. Thang một lần chinh chiến từ Cát Thủy mà thiên hạ tin đó, xoay mặt hướng Đông mà đánh Tây gây oán, xoay mặt hướng Nam mà đánh Bắc cừu oán. Nói: "Sao làm sau ta? Dân trông ngóng đó như nắng hạn mà trông ngóng mây mưa vậy, mà thiên hạ cũng chẳng vì khổ nhọc. Họ phải chinh phạt mà oán đối với Thang, bởi cùng thiên hạ chung đó. Thuấn dùng thất phu mà nhận người thiên hạ; Chu Công dùng thiên hạ phong họ đồng giòng họ hơn năm mươi nước. Mà Thuấn và Chu Công chưa từng dùng riêng mình mà nghi ngờ ở thiên hạ, và thiên hạ cũng dùng công của Thuấn và Chu Công đối với thiên hạ vậy. Chu có mười người loạn thần mà nước đó bình trị. Trụ có ức triệu người Di mà nước đó diệt mất. Tại sao? Dụng được trung chánh nên chẳng hẳn nhiều vậy, dụng không trung Chánh, tuy nhiều nào ích gì? Hoặc có người nói: "Sao gọi là dụng được trung chánh?" Xin nói: Với người tài lớn thì trao cho việc lớn, với người tài nhỏ thì trao cho việc nhỏ. Người kham nỗi việc lớn, không thể vì có thất bại chút ít mà vất bỏ họ. Người thích nghi với việc nhỏ, không thể đem Đại thành mà giao phó cho họ. Thi nói: "Núi có cây Tần, nơi ẩm thấp có cây Linh. Hỏi ai tương tư? Người đẹp phương Tây, kia người đẹp vậy. Người vậy của phương Tây". Bởi nghĩ, nhà Chu dùng người lớn nhỏ được thích nghi với họ vậy. Thưởng, phạt, gạt bỏ, nhấc lên là quyền lớn của Vua vậy. Hiệu lệnh hình pháp là giáo lớn của Vua người. Giáo chẳng trung chánh thì dân họ nghi ngờ, quyền chẳng trung chánh thì thế đó là khinh thường. Hoặc hỏi: "Sao gọi là quyền và giáo đó trung chánh ư?" Xin nói: Thưởng là do vì tiến công vậy, chẳng vì cẩu thả mến thương mà thêm sâu dày. Phạt là do vì ép tư vậy, chẳng vì cẩu thả ganh ghét mà thêm nặng nhọc. Gạt bỏ là do vì trừng trị lỗi quá đó, chẳng vì hai pháp sang hèn đó. Nhấc lên là do vì đưa đạo ấy lên, chẳng vì phá hủy danh dự mà khảo xét người ấy. Hiệu lệnh là do vì ổn định dân, chẳng thể khinh xuất mà thường cải đổi. Hình pháp là do vì ước chế dân, không thể làm nhiều và cẩn trọng lớn. Làm nhiều và cẩn trọng lớn thì dân phiền mà không ân. Khinh xuất thường cải đổi thì dân lầm hoặc mà không chuẩn mực. Vì phá hủy hay danh dự mà khảo xét người ấy thì kẻ thương ghét được tứ ý buông lời. Vì hai pháp sang hèn thì người cao sáng được cậy thế đó. Vì cẩu thả ganh ghét mà thêm nặng nhọc thì mất tại bất nhiên. Vì cẩu thả mến thương mà thêm nồng hậu thì mất tại chẳng phải Lễ. Lễ là dung của Hoàng cực. Nhạc là tiếng của Hoàng cực. Chế độ là khí cụ của Hoàng cực. Chẳng cử khí cụ ấy thì tỉnh điền sai, thuế khóa loạn, xa phục cung thất trên tiến dưới bức. Chẳng kích động tiếng đó thì người thần chẳng hòa, phong tục lưu đảng; chẳng rõ bày dung đó, thì tôn ty không riêng biệt, trên dưới lộn xộn. Phàm, Hoàng cực chẳng vì xưa mà có, chẳng vì nay mà không, chẳng vì Nghiêu Thuấn Võ Thang mà lâu dài, chẳng vì Kiệt Trụ u lệ mà tiêu mất, chỉ tại người thực hành đó vậy. Thực hành đó thấu đáo, do vậy mà làm Đế làm Vương; thực hành đó không thấu đáo, do vậy làm Ngũ bá làm Chư hầu. Tuyệt bỏ mà chẳng thực hành, do vậy mà bị mất nước. Người đắc làm Thánh, người trở lại làm Hiền, người vất bỏ mà chẳng học, họ làm tiểu nhân vậy. Hoặc nói: "Tần Hán họ đối với Hoàng cực thấu đáo đó ư?" Xin nói: Tần mất nước ấy tuy chẳng luận bàn mà Hoàng cực đoán có thể biết vậy. Hán đó đối với Hoàng cực, xem sách họ thì mỗi mỗi có thể biện rành. Đại khái mà nói đó cũng chưa thấu đáo. Họ ở khoảng Vương Bá, hoặc là dùng làm ấy vậy.
Hoặc nói là: "Trung Dung cùng với Lễ Ký, nghi ngờ như khác nhau vậy. Do vì lời tựa đều sai mà ghi chế độ vậy. Trung Dung là mới chánh ở thuyết tánh mạng mà thôi, so với Kinh Lễ cũng chẳng khác ư?"
Ông già từ từ mà biện giải đó rằng: Ông há không biết Trung Dung ư? Phàm, Trung Dung là cùng cực của Lễ mà nguyện của Nhân nghĩa vậy. Lễ, Nhạc, Hình, Chánh, Nhân, Nghĩa, Trí, Tín tám điều đó là một ở Trung Dung ấy vậy. Người mất ở trung tánh tiếp ở vật mà mừng, giận, buồn, sợ, thương, ghét, phát sanh, tham dục phát sanh vậy. Có bậc Thánh nhân sợ lý trời đó sắp diệt mà nhân luân chẳng ghi vậy, nên vì đó mà làm Lễ, Nhạc, Hình, Chánh, để tiết chế mừng, giận, buồn, sợ, thương, ghét, tham dục ấy vậy. Vì đó làm Nhân, Nghĩa, Trí, Tín để mở rộng giáo Đạo đó vậy. Làm Lễ đó có trên dưới trong ngoài, khiến người mừng chẳng được cẩu thả thân gần, người giận không được cẩu thả xa vời. Làm Nhạc đó, có âm của Nhã chánh hòa bình để tiếp hơi khí đó, khiến người mừng và người tham dục chẳng được quá lắm. Làm Hình đó, có giết phạt đổi trách, khiến người giận mà phát ác không cùng lấn bước. Làm Chánh đó, có thưởng có phạt, khiến người buồn được nói ra, người sợ có khuyên răn. Làm Nhân đó, để dạy khoan hậu mà dung thứ vật. Làm Nghĩa đó, để dạy họ làm việc gì hẳn thích nghi. Làm Trí đó, để dạy họ mở lời mà không khinh thường. Nên Lễ, Nhạc, Hình, Chánh là Đại tiết của thiên hạ. Nhân, Nghĩa, Trí, Tín là Đại giáo của thiên hạ. Tình đó phát chẳng vượt quá tiết đó, hạnh đó tu mà chẳng mất giáo đó, thì Đạo của Trung Dung ngỏ hầu vậy. Phàm, Trung Dung là lập Đạo của người, nên Quân tử là tướng hữu vi vậy, là tướng hữu hành vậy, hẳn tu Trung Dung sau đó mới cử vậy, uống ăn có thể tuyệt bỏ vậy. Thế của phú quý sùng cao có thể nhường vậy, mà Trung Dung không thể bỏ vậy. Họ thành thật Tâm họ, họ tu thân họ, họ chánh gia đình họ, họ bình trị nước nhà họ, họ tỏa minh đức khắp cả thiên hạ. Bỏ Trung Dung họ lấy gì làm vậy? Người mất nước diệt thân, đó hẳn là quên Trung Dung nên vậy! Thư nói: "Đạo ấy không thể xa lìa trong khoảnh khắc. Có thể lìa, tức chẳng phải Đạo vậy". Nghĩa là ở đó vậy.
Hoặc hỏi rằng: "Chỗ gọi là Lễ, Nhạc, Hình, Chánh là Đại tiết của thiên hạ. Nhân, Nghĩa, Trí, Tín là Đại giáo của thiên hạ. Tình đó làm chẳng vượt quá tiết đó, hạnh đó tu chẳng mất giáo đó, thì Đạo của Trung Dung ngõ hầu vậy. Kẻ hèn tôi đang mù mịt chưa thấu đạt ý đó, ông nên lại vì tôi mà nói đó".
Ông già bảo: Trẻ em có trí thay! Có thể nghe Đạo vậy. Phàm, giáo ấy là sở dĩ suy ở nơi người vậy, tiết ấy là sở dĩ chế nơi tình vậy. Nhân, Nghĩa, Trí, Tín cử thì nhân tình được chỗ ấy vậy. Người chẳng bạo sống đó, lý sống của người được vậy. Tình chẳng loạn tánh đó, lý tánh của người tránh vậy, thì Đạo của Trung Dung còn vậy. Nên mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, tham dục nó lôi kéo người, vì mất Trung Dung ấy vậy. Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Lễ, Nhạc, Hình, Chánh nó dẫn người để trở về Trung Dung ấy vậy. Nên nói Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Lễ, Nhạc, Hình, Chánh, tám điều đó là một ở Trung Dung ấy vậy. Phàm, Trung Dung ấy là chẳng làm vậy, chẳng khí cụ vậy, sáng tỏ như Nhật Nguyệt mà không thể nhìn thấy, sân tối nói Quỷ thần mà không thể lường vậy, chỉ là Quân tử nên hay dùng Trung Dung toàn vẹn, chỉ tiểu nhân nên hay dùng Trung Dung biến. Toàn vẹn đó là làm thiện thì không chỗ chẳng đến vậy. Thư nói: "Mọi người đều nói: Ta biết chọn ở Trung Dung mà chẳng thể kỳ hạn một tháng gìn giữ đó". Là Thánh nhân, đâu chẳng muốn thủy chung của người ở Trung Dung mà cẩn trọng Biến ấy vậy. Thuấn lấy đó làm vua của người, mà đời sau tôn xưng là Thánh. Nhan Hồi lấy đó làm người Bề tôi, mà đời sau tôn xưng là Hiền. Võ Vương và Chu Công lấy đó làm người con, mà đời sau tôn xưng là Hiếu. Trung Dung đâu có hư vọng đó ư? Ôi! Đời sau người làm vua, người làm bề tôi, làm con cháu của người, mà đời sau đó chẳng ngợi khen, thì chẳng gì đâu khác, chỉ bởi không tu Trung Dung nên vậy.
Hoặc hỏi là: Hồng Phạm nói: "Hoàng Kiến đó có cùng cực". Thuyết giả nói: "Đại lập đó có Trung ấy vậy". Đó thì cùng với điều ông gọi là Đạo của Trung Dung là khác hay là đồng ư?
Xin nói: Cùng với Hoàng cực phần nhiều đồng mà phần ít khác. Đồng là vì điểm đồng đó hướng đến trị thể; khác là vì khác đó ở giáo đạo vậy, Hoàng cực giáo vậy, Trung Dung đạo vậy. Trung Dung đó nói: Mừng, giận, buồn, vui đó chưa phát, gọi đó là Trung phát; đều Trung tiết, gọi đó là Hòa. Trung ấy là gốc lớn của thiên hạ, Hòa ấy là đạt đạo của thiên hạ. Thấu đạt Trung Hòa là địa vị của trời đất vậy. Đó cũng chẳng vào ra muôn vật vậy. Giáo ấy là chánh vạn vật nguy vạn vật, nên dùng giáo làm Trung vậy. Hồng Phạm đã nói: "Không thiên không lệch là nghĩa của Tuân vương, không có làm khéo là Đạo của Tuân vương, không có làm ác là Đường của Tuân Vương. Không thiên, không đảng, Vương đạo thênh thang; không đảng không thiên, Vương đạo bình bình; không phản không trắc, Vương đạo chánh trực. Nhóm Hữu cực đó kết quy ở Hữu cực, đó cũng chẳng chánh trực muôn vật ư? Phàm, Trung Dung ở nơi Hồng Phạm, nó cùng làm trong ngoài vậy. Như người có Tâm vậy. Người mà không Tâm thì sao để hình sống ư? Tâm mà không người thì cũng làm sao thi hành tư lự đó ư?
Hỏi: Trịnh Thị giải về Thiên mạng gọi đó là Tánh. Nói là Thiên mạng nghĩa là mạng của trời sanh người ấy vậy. Đó gọi là tánh mạng. Mộc thần thì Nhân, Kim thần thì Nghĩa, Hỏa thần thì Lễ, Thủy thần thì Trí, Thổ thần thì Tín. Xét về nghĩa của Trịnh Thị, đáng nghi ngờ đó. Nếu Thiên mạng sanh người, tánh ấy thì tùy chỗ cảm mà có đó vậy. Cảm ở Mộc thần thì tánh Nhân; cảm ở các thần, Kim, Hỏa, Thủy, Thổ thì là tánh Nghĩa, Lễ, Trí, Tín vậy. Tợ như chẳng phải tập mà được đó vậy. Cùng với điều ông nói là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đó đối với tánh hẳn do giáo mà thành đó cũng chẳng khác ư? Mong được nghe vì sao nó như vậy? Ông già bảo: Khoái thay lời hỏi của ông! Tôi thường mắc bệnh với Thuyết của Trịnh trị chẳng được rõ ràng, mà chưa rãnh để bàn nghị đó. Nhưng
Trịnh thị đâu có khả năng rốt ráo để thuyết tánh mạng ư? Phàm, gọi Thiên mạng đó nghĩa là tánh, Thiên mạng là số của đất trời; tánh tức tánh linh, bởi cho người do số của trời đất mà sanh hợp tánh linh ấy vậy. Tánh là lý vốn có, bởi tình cảm mà có đó. Thánh nhân vì tánh của người đều có ân ái cảm kích, biết riêng tư lự theo tình ấy, nên đem giáo ấy, nhân tiện mà sung vào. Ân ái có thể để thành Nhân, cảm kích có thể đó để thành Nghĩa, biết riêng có thể để thành Lễ, tự lự có thể để thành Trí, cùng theo có thể để thành Tín. Ai có nhân cảm mà được tánh ấy ư? Phàm, vật chưa thành hình thì tánh và sanh đều không, ai làm có thể cảm ư? Người đã sanh, thì nào đợi cảm thần vật mà có tánh ấy ư? Còn các thứ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ kia nó làm vật vô tri, ai có thể chăm chăm mà bảo nó vậy ư? Quái lạ thay! Lời nói của Trịnh tử cũng chẳng nghĩ đó, quá lắm vậy. Như nói đó thì Thánh nhân sao dùng giáo làm, mà hoặc giả im lặng như đó vậy.
Hoặc nói là: "Tôi thường nghe tánh của người có thượng hạ như tay chân vậy, không thể chuyển đổi. Nên Khổng Tử nói: "Chỉ bậc Thượng trí và hạng Hạ ngu không đổi thay". Hàn Tử nói:
"Thượng ấy là thiện mà thôi, Hạ ấy là ác mà thôi". Mạnh Tử nói: "Vậy nên, tánh của chó cũng như tánh của trâu, tánh của trâu cũng như tánh của người". So với điều ông gọi là tánh, tôi nghi ngờ đó. Nếu không Hiền chẳng ngu, không người và vật, lẫn lộn thành một chẳng phân biệt thượng hạ đó, mà chân có thể thêm ở đầu, đầu có thể đặt để nơi chân, điên đó đảo đó, đâu thấy nó chẳng chuyển đổi ư? Ông sao dùng khác so với thuyết của Thánh Hiền ư?"
Ông già bảo: Tôi tuy cùng ông trọn ngày bàn nói, mà ông còn ngoan cố chẳng hiểu, gần như tôi không biết làm sao nữa vậy! Ông tiếp nhận lời tôi nói mà không dùng tâm thông, lại lấy sự mà trách tôi ư? Tôi tuy nói khéo cũng sao tránh khỏi bị trách lắm lời ư? Trọng Ni nói, chỉ có bậc Thượng trí và hàng Hạ ngu chẳng chuyển đổi, bởi nói người có tài và không tài mà phân định vậy. Người tài mà thông minh là bậc thượng, kẻ không tài mà mờ tối là bậc hạ vậy, chứ đâu nói tánh ấy có thượng hạ ư? Nên Khổng Tử trước đã nói: "Tánh cùng gần giống nhau, do tập quen mà dần xa nhau", mà thượng trí và hạ ngu chẳng đổi thay. Tiếp đó, tạm dùng tánh có thượng hạ mà chẳng đổi thay vậy. Tánh của ăn uống nam nữ thì chỉ ở nơi bậc trí, mà kẻ ngu chẳng được có đó. Nếu đều có đó thì không thể cho là tánh đó cố định ở thượng hạ vậy. Lời của Hàn Tử nói là lấy ở Trọng Ni, chỗ gọi là không đổi thay ấy vậy. Không thể xa rõ ràng ở nghĩa đó, mà tạm dùng thiện ác để định thượng hạ ấy, há không thành thật ấy ư? Thiện ác là thuộc về tình, chẳng phải tánh tình. Tình có thiện ác mà tánh không có thiện ác. Tại sao? Vì tánh tĩnh lặng, tình giao động. Hình của thiện ác thấy ở nơi động vậy. Lời của Mạnh Tử nói tánh của chó cũng như tánh của trâu, tánh của trâu cũng như tánh của người, tức là Mạnh Tử chỉ chỗ ưa muốn (= Dục) của tánh vậy, nên đó chẳng đồng vậy. Còn điều tôi nói về tánh, tức như điểm mà hai ông kia nói là tình vậy. Tình thì ai chẳng khác ư? Tánh thì ai chẳng đồng ư? Nhưng mà chó trâu như người vậy, mọi người như Thánh Hiền vậy. Lấy gì để thấy ở mọi người cùng như Thánh Hiền ư? Phải nói thật sự ông không biết vậy. Chó trâu thì là chó trâu vậy, mọi người thì mọi người vậy, Thánh Hiền thì Thánh Hiền vậy. Phàm, chó trâu sở dĩ làm chó trâu là vì tánh chó trâu mà chẳng khác biệt vậy. Mọi người sở dĩ làm người là vì mọi người linh mà chẳng thông minh vậy. Người Hiền sở dĩ làm người Hiền vì người Hiền thông minh mà chưa thành vậy. Thánh sở dĩ làm Thánh là vì Thành thành tựu thông minh vậy. Phàm, Thánh ấy tức chỗ gọi là Đại Thành vậy, là Đạo của Trung Dung vậy. Tĩnh lắng cùng với đất trời đồng lý đó, giao động cùng bốn mùa hợp vận đó. Cho nên, Thánh nhân dùng Lễ thì an vị Vua tôi vậy, cha con thân gần vậy, anh em kính nhường vậy, nam nữ phân biệt vậy, già có chỗ dưỡng, trẻ có chỗ dạy, mạnh khỏe có chỗ làm việc, yếu đuối có chỗ được an. Hôn thú tang táng thì thủy chung được thích nghi đó. Trời đất muôn vật không gì chẳng có thứ lớp. Dùng Nhạc đó thì Triều đình hòa mục, thiên hạ không âu lo, âm dương hòa khí, mưa gió phải mùa. Phàm, loại có khí huyết không gì chẳng phô bày sống vui nơi giao xã tông miếu mà quỷ thần lại nương nhờ. Dùng Hình đó thì quân lính tù ngục tố tụng đúng lý, mà bốn phương tám hướng sợ oai đó, dân ấy xa lìa ác mà chuyển đổi thiện. Dùng Chánh đó thì người Hiền ngày một thăng tiến, kẻ nịnh ngày một dứt trừ, chế độ lớn khắp, thanh minh văn vật có thể để chỉ bày cho đời sau. Dùng Nhân đó thì bốn biển an. Dùng Nghĩa đó thì muôn vật thích nghi. Dùng Trí đó thì sự nghiệp lan tỏa. Dùng Tín đó thì thiên hạ dùng thật ứng. Do đó mà Thánh nhân dùng Trung Dung làm vậy".
Người ấy lại kính bái, bước tới trước mà nói: "Thấu đạt thay! Lời của ông nói. Mà nay về sau, tôi biết được Trung Dung là làm thấu đáo vậy, là chí đạo của thiên hạ vậy, kể cả trời đất, quỷ thần, cũng không lấy làm quá vậy. Chúng ta chẳng phải Trung Dung thì làm sao sống vậy? Dám hỏi, Trung Dung có thể dùng để học ư?"
Xin nói: "Đó nghĩa là sao? Sao chẳng thể học vậy? Phàm, Trung Dung chẳng phải im bặt hết sạch mà không dụng vậy. Nên chí thuận thì biến, biến thì thông vậy. Tiết là do vì chế cái biến ấy; học là do vì thực hành cái thông ấy. Biến mà thích hợp nghĩa do đó làm Quân tử; thông mà mất giáo, do đó làm tiểu nhân. Nên nói, Trung Dung là Chánh ở học ấy vậy. Nhưng mà làm sao để học ư? Xin nói, nên học Lễ, học Nhạc vậy. Lễ nhạc tu thì Trung Dung thấu đạt vậy. Lễ do vì chánh sự thấy nghe vậy, chánh cử động vậy, chánh nói năng vậy, ngăn ngừa tham dục vậy. Nhạc là do vì tuyên uất nghẹn vậy, hòa khí huyết vậy. Thấy nghe chẳng tà, cử động chẳng loạn, nói năng không vọng, tham dục không làm, tư lự điềm sướng, khí huyết hòa bình mà Trung dung. Sau đó dùng Nhân để an đó, dùng Nghĩa để thực hành đó, dùng Trí để thông đó, dùng Tín để giữ đó, mà Hình và Chánh còn ở khoảng ấy vậy".
Lại nói: "Như người xưa, họ sao có thể Trung Dung vậy, và kẻ hèn tôi xin theo người đó vậy?"
Xin nói: "Do từ sách mà có thể đọc xem đó, thì Thuấn, Khổng Tử, tiếp theo đó thì Nhan Tử, Tử Tư, Võ Vương, Chu Công, thì gọi họ hay dùng Trung Dung mà hiếu vậy".
Lại nói: "Nghiêu cùng Võ, Thang, Văn, Võ, Chu Công há chẳng phải là Thánh nhân ư? Trên thì họ chẳng đến Nghiêu, dưới họ chẳng kịp Võ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, nghĩa là sao vậy?"
Xin nói: "Khổng Tử không nói, thì tôi đâu dám bàn nghị ư?"
Lại nói: "Mạnh Kha học ở Tử Tư, ông ta có hay
Trung Dung chăng?"
Xin nói: "Tôi không biết".
Lại nói: "Lý Cao ở thời Tiền Đường có hay giỏi Trung Dung chăng?"
Xin nói: "Lý Cao là người bắt chước Trung Dung, còn có hay giỏi chăng thì chưa nghe vậy?"
Lại hỏi: "Ông có hay giỏi Trung Dung không?" Xin nói: "Tôi là kẻ ngu dốt, đâu dám vậy, ước cũng từng học ở Đạo của tôi, vì Trung Dung gần như Đạo của tôi, nên trộm mà nói đó, chứ đâu dám cho là hay giỏi Trung Dung ư?"
Người ấy nói: "Kẻ hèn tôi tay không thông mẫn, nhưng xin tuân vâng lời chỉ dạy đó!" Rồi cúi đầu kính bái mà lui ra.
Lễ là khởi nguồn của Vương đạo, Nhạc là chung cùng của Vương đạo, chẳng có Lễ thì không lấy gì để cử hành, chẳng có Nhạc thì không lấy gì để trước thành. Nên Lễ Nhạc là Vương Đạo, do vì nương cậy mà sanh thành đó vậy. Lễ là nhân tình người mà chế trung, Vương (= Vua) nhân Lễ mà làm chính sách. Chính sách là nhân Lễ nhạc mà sáng tỏ công hiệu. Tình người không gì sâu đậm bằng sống mà dưỡng bằng Lễ nhạc. Tình người chẳng gì vất bỏ bằng chết mà dùng Lễ chánh để táng đó. Tình người không ai chẳng có nam nữ, mà Lễ thích nghi xếp đặt đó. Tình người không ai chẳng có thân sơ, mà Lễ thích nghi với Nghĩa vậy. Tình người không ai chẳng nghĩ của cải, mà Lễ dùng để tiết chế đó. Phàm, Lễ cử thì tình xứng vật vậy. Vật được lý thì Vương chánh hành vậy. Vương chánh hành thì người ấy vui mà khí ấy hòa vậy. Vui là do vì tiếp tâm người mà thấu đạt hòa khí. Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ-năm thứ ấy là âm của nhạc. Vàng, đá, tơ, trúc, bầu, đất, da, gỗ-tám thứ ấy là khí cụ của Nhạc vậy. Âm và khí cụ cùng một chủ ở Nhạc vậy. Âm tuy hợp biến chẳng phải được ở nhạc thì âm mà thôi vậy. Cho nên, Vương giả đãi nhạc mà ghi thành chánh đó vậy.
Thánh nhân đãi nhạc để hình ấy thạnh đức vậy. Nhưng mà đời nào không có nhạc ư? Đời nào không có Lễ ư? Lễ càng phiền toái thì chính trị càng hư nát, Nhạc càng cử thì thời càng loạn. Bởi do chế nghi của Lễ ấy chẳng được thật đó vậy; do vì âm thanh của Nhạc ấy chẳng được nguyên gốc đó vậy. Phàm, gốc của Nhạc là ở nhân hòa vậy. Thật của Lễ là ở vật chánh đáng vậy. Xưa kia, có Ngu Thị tu ngũ lễ nên đó bình trị riêng đạt đến vô vi, ân đượm khắp động vật thực vật, mà chim Cưu chim Thước ở trên ổ có thể cúi mà trông nhìn, vừa cử động thì phượng Hoàng bay lại. Cho nên Khổng Tử nói: "Thiều rất hay và rất khéo vậy?" Bởi nói Thuấn tu lễ mà được thật của Lễ, làm Nhạc được gốc của Nhạc; Thúc Tôn thông chế Lễ chuyên việc nghi của Lễ ấy vậy. Đỗ Quỳ tu nhạc, cử văn của Nhạc ấy vậy. Cử văn thì thích nghi đó, nhưng thấm đượm đó chưa đến vậy. Chuyên việc nghi thì thích nghi đó mà chánh đó chưa thuần vậy. Phàm, sở dĩ nhạc khua chấn ở Vương Đạo, Nhạc sở dĩ hoàn toàn ở Vương Đức vậy. Nên, Vương giả muốn thấu đạt đạo ấy mà chẳng làm ở Lễ, muốn lưu tỏa đức đó mà chẳng thấu đạt ở Nhạc, tuy họ là bậc Chí Thánh cũng không như đó vậy. Tại sao? Vua người là do từ Lễ nhạc mà sanh ra, người dân do từ Lễ nhạc mà thích ứng vậy. Chỗ sanh ra mà chẳng dùng thành thật thì chỗ thích ứng dùng nghiêm sức hư vọng vậy. Chỗ sanh ra chẳng dùng Tự thân thì chỗ thích ứng chẳng cùng Khuyên nhau vậy. Cho nên, Lễ quý ở điểm trên thực hành, Nhạc quý ở điểm dưới công hiệu. Phàm, Lễ của Tông miếu do đó dạy Hiếu vậy; Lễ của chư hầu do đó dạy trung vậy; Lễ của Hiếu do đó dạy kính vậy; Lễ của tạc thù do đó dạy nhường vậy; Lễ của hương ẩm do đó dạy thứ lớp vậy; Lễ của giảng giáo do đó dạy dưỡng vậy; Lễ của quân binh do đó dạy hòa vậy; Lễ của hôn sính do đó dạy thuận vậy; Lễ của trảm suy khốc khấp do đó dạy ai vậy. Phàm, giáo là giáo ở Lễ vậy, Lễ là hội ở Chính vậy, Chính để phát Nhạc, Nhạc để phát Âm. Âm để phát Nghĩa, nên Thánh nhân trị thành mà tạo nhạc vậy, nhân âm để thạnh đức vậy. Nhân âm Cung đó trầm trọng rộng lớn để chỉ bày Thánh đó; nhân âm Thương đó cứng gắt để chỉ bày đoạn đó, nhân âm Giác đó hòa hoãn để chỉ bày Nhân đó; nhân âm Chủy cứng gấp để chỉ bày Trí đó; nhân âm Vũ nhẹ nhuần để chỉ bày Kính đó. Luật lã chánh vậy để chỉ bày âm dương hòa vậy; tám gió bốn khí hòa vậy để chỉ bày muôn vật đó toại vậy. Còn sợ e người chưa thấy nên Vũ mà bày tượng đó, muốn họ thấy vậy. Sợ e người chưa đều vậy, nên Thi dùng lời nói đó muốn họ biết vậy.
Cảm mà hóa đó thì dời phong đổi tục còn ở phải vậy. Phải là phương của Tiên Vương làm Nhạc ấy vậy.
Đại chính nói Đại công đó vậy, đạo của Đại công ở tại nơi trời thì Quân tử chẳng tạm có khả năng vậy, tiểu nhân chẳng tạm tranh giành vậy. Đức đủ ở vua thì vua được đó, đức đủ ở bề tôi thì bề tôi được đó. Nào hẳn cẩu thả có thể được sống đó thì sống đó, được chết đó thì chết đó, nào hẳn cẩu thả tranh giành. Đời không cẩu thả thì Pháp không chỗ nhàn, người không tranh đoạt thì binh lính không chỗ nổi. Nghiêu Thuấn do đó mà vái nhường trị vì vậy. Đại công là gì? Suy chí thành mà cùng thiên hạ đồng thích nghi vậy. Thánh nhân đại đồng nên chỗ làm của họ thì Đại công vậy. Thành thật dùng Đạo thì dùng Đạo truyền thiên hạ vậy, thành thật dùng chánh thì chánh dùng người ấy. Thành thật làm lớn thì Quỷ pháp ở trời đất; thành thật làm nhỏ thì xét nhỏ ở Thần diệu. Nên hay, Đạo thành mà chẳng riêng tư địa vì họ vậy; chính thành mà chẳng có công họ vậy; nuôi dưỡng muôn vật mà chẳng hiển bày đức Nhân đó vậy; chu cấp muôn vật mà chẳng bỏ sót Trí họ vậy. Nên Thánh nhân lớn hữu vi mà không hệ lụy vậy, lớn vô vi mà hóa thuần vậy. Thành thật ấy là Đạo trời vậy. Công ấy là Đạo người vậy. Thánh nhân tu đạo trời mà để chánh ở đạo người. Thành thật là chẳng thấy, công là thấy, do chỗ thấy mà xét chỗ không thấy thì đạo của Thánh nhân sáng tỏ vậy. Nghiêu tuân theo tứ chánh mà người ấy xứng vậy, vật do đó được toại theo thời vậy, dân do đó được sanh tử ấy vậy. Thuấn tuân theo Sáu quan, bốn nhạc, mười hai mục mà người ấy xác đáng vậy. Nên chính ấy cũng đạt đến vậy, giáo cũng hiển bày vậy. Nghiêu có con tên là Chu, Thuấn có con tên là Quân, hai người con đó đạo không đủ để ở ngôi, mới đem thiên hạ giao cho người Hiền. Nên Nghiêu trao cho Thuấn, rồi Thuấn trao đến cho Võ. Bởi lấy thiên hạ làm công, mà dân là người của thiên hạ, vậy ai làm có cẩu thả riêng tư mà tranh giành? Người Địch tuy chưa hóa mà Thánh nhân càng do đức mà nghĩ nhớ đến đó, nên đức là được chính ấy vậy. Chính là phát thành thật ấy vậy. Thành thật là xuyên mốt trời đất người vật quỷ thần vậy. Cho nên Thánh nhân thành thật đó thì năm tài bốn thời không gì chẳng như vậy. Dịch nói: "Trung phù lợn cá tốt". Lại nói: "Hạc kêu dưới râm, con ấy hòa đó, Ta có tươi tốt, tôi cùng vậy chẳng như". Nên chính trị của Nghiêu Thuấn do đó giản đơn vậy, dùng người do đó xác đáng vậy. Chính trị giản đơn thì không phiền rối pháp; dùng người xác đáng thì không hư vọng ở quan vậy. Bày biện năm Hình vì gìn giữ lỗi sai của dân mà chẳng sáng rõ, tu năm lễ do vì chánh cung kính của người mà chẳng biếng lười vậy. Chí lớn chân chánh do đó mà làm Đế vương; Đại công thuận trị do vậy mà nhún nhường. Suy Đế ở nơi Thái Thượng, bình phẩm Trị Đạo mà do đó khuyên vậy. Kết quy nhún nhường ở nơi Đại Đức, biện hành thời nghi do đó giáo vậy. Về sau, chính không thấu đáo gọi đó là Đế được chăng? Thị chẳng công, gọi đó là nhún nhường được chăng? Hóa của Đại công ngấm tắt mà người kham cẩu thả riêng tư; Trí dùng tính toán kiểm hiệu khinh thường, Ngu dùng khí lực tranh giành. Ngay lúc ấy, dùng Đế hóa chẳng thể được vậy, dùng Đế nhún nhường cũng chẳng thể được vậy.
Nên nói: "Giặc Đế Đạo bắt đầu từ thời nhà Tần, loạn nhường đức từ thời nhà Hán vậy".
Chí chính là nói chí nghĩa ấy vậy. Thiên hạ dùng nghĩa cử thì chính có thể phô bày, và tà có chỗ đè ép vậy; thiện có chỗ khuyên, ác có chỗ cản trở. Ghét thương phải quấy, việc ấy lắm mối có chỗ quyết định vậy. Quyền trời có thể dùng để phù nghĩa, quyền đó tuy trọng hẳn thành vậy. Nghĩa có thể dùng để hành quyền, nghĩa ấy tuy khinh hẳn cử vậy. Quyền chẳng dùng nghĩa tụ hội rất có thể đó cuối cùng là giặc. Nghĩa không dùng quyền phù, mất đó thì hẳn loạn. Nên xưa kia, người chiếm Đại Chính hẳn có quyền đó vậy, theo Đại Bính (Quyền lớn) hẳn giúp chính đó vậy. Thang Võ vận Đại quyền, nhờ đó mà phù nghĩa ấy vậy. Chu Chiêu từ nép mất Đại quyền nên nghĩa do đó mà loạn lạc vậy. Nghĩa ấy là gì? Vức Đại trung mà cùng thiên hạ đồng thích nghi vậy. Thích nghi đó thì được chỗ đó, thiên hạ gọi đó là hữu đạo vậy. Thích nghi đó mà chẳng phải chỗ đó thì thiên hạ gọi đó là vô đạo vậy. Thánh nhân dựng xây khuyết trung để chánh chỗ thích nghi của thiên hạ vậy. Đời đó biến mà dân đó rất cẩu thả riêng tư. Lớn thì riêng tư ở nước họ, vừa thì riêng tư ở nhà họ, nhỏ thì riêng tư tự thân họ. Người hiệp nghĩa thì ít, kẻ phản nghĩa thì nhiều. Nên Hậu Thánh vì sợ tranh giành đó lại loạn mà bày có luật hình chẳng phải cẩu thả hung bạo, bày có binh lính chẳng phải cẩu thả giết hại vậy. Muốn chăn dắt người mà hướng đến nghĩa ấy vậy. Ở người cầm nắm cùng người bất nghĩa đông nhiều được dùng mà bỏ đó, cùng đông nhiều quan bất nghĩa được dùng mà trị đó. Bởi vậy, Võ, Thang, Văn, Võ, Chu Công-năm Thánh nhân đó cẩn trọng Đại chính cho nên chẳng cẩu thả chiếm Đại quyền, hành Đại quyền nên chẳng cẩu thả nhường địa vị lớn vậy. Đánh Hữu Hổ, thả Hạ Kiệt, giết Cát chém Trụ, nhiếp phục thiên hạ phạt quán thái vậy, lấy ở nhà truyền thiên hạ, mà người trong thiên hạ vâng theo, phục đó mà không có oán thán đó vậy, bởi chính đó thấu đạo vậy. Nên Dật Thi nói: "Hoa của Đường Lệ, lệch phản đó mà. Há chẳng nghĩ đó, nhà là xa mà". Thư nói: "Hình ấy ở nơi không hình, dân hiệp ở Trung thời, là công tốt thay!". Quân tử dùng phải cũng chẳng thận trọng chính mà trọng quyền ư? Đó là tệ của chính đó vậy. Người hẳn nhân đó mà làm thế, tệ của quyền đó vậy. Người nhờ đó để làm loạn, nghĩa là chính ấy tên còn mà thật đã mất vậy, có nghĩa quyền là nhậm uổng mà quên chánh vậy. Di Vương xuống nhà mà giao cùng chư hầu, có thể gọi là Chính ấy chẳng đủ vậy. Ẩn Công cẩu thả nhường nước ngàn thừa, có thể gọi là quyền đó chẳng đủ vậy. Tề Hoàn Công dùng Bá mà tự khoe, có thể gọi là Quyền đó mới bắt đầu tà vậy. Chu Công Vương dùng Vương mà tự giáng, có thể gọi Chính đó mới bắt đầu nhỏ vậy. Phàm, Chính ấy ở Quyền còn lường đó có đại khái vậy. Quyền đó ở Chính còn câu đó theo đá vậy. Được người đó thì chánh đó vậy, chẳng phải người đó thì khinh thường đó vậy. Nên nói, Đạo ấy là đãi người mà hưng long vậy, ai gọi là thời ư?
Thưởng phạt công minh là Vương Đạo chấn hưng vậy; thưởng phạt tư lợi thì Vương Đạo ngấm tắt vậy. Thánh Vương muốn đạo đó hành nên sửa trị công tư ấy vậy. Thưởng phạt để chánh thiện ác là công minh vậy. Thưởng phạt để giúp mừng giận là tư vậy. Công đó do vì đồng với thiên hạ vậy; tư đó do vì khác với thiên hạ vậy. Thiên hạ đồng đó, Đạo ấy há chẳng hưng thịnh ư? Thiên hạ khác đó, Đạo ấy há chẳng suy ư? Thưởng phạt là Đại Trung của thiên hạ, thích nghi cùng thiên hạ mà chung đó vậy. Vương chính là do vì chánh thiện ác vậy. Thiện của thiên hạ không thể không thưởng. Ác của thiên hạ không thể không phạt. Thưởng phạt trúng do đó làm chính vậy. Thưởng ấy là gần với ân đó vậy. Phạt ấy là gần với oai đó vậy. Ai có mừng mà chẳng muốn suy ân ấy ư? Giận mà chẳng muốn thêm oai ấy ư? Nên nói, chẳng phải người chí công cao minh, không thể trao cho dùng quyền thưởng phạt ấy vậy. Truyện nói: "Có thể cùng thích nghi Đạo, nhưng chưa thể trao cho Quyền", bởi cẩn trọng đó thấu đáo vậy. Hồng Phạm nói: "Không có làm tốt là Đạo của Tuân Vương, không có làm xấu là đường của Tuân Vương". Bởi giới đó sâu sắc vậy. Cuối thời nhà Chu chẳng phải không có thưởng phạt, mà bởi thưởng phạt được có ra từ riêng tư ấy vậy. Có ra từ riêng tư, do đó khiến thiên hạ loạn lạc vậy. Dùng riêng tư thưởng, thì ân đó về với riêng tư ấy vậy. Dùng riêng tư phạt, thì oai ấy ở nơi riêng tư đó vậy. Oai để chăn dắt chúng, chúng hẳn theo đó. Ác để nghĩ nhớ chúng, chúng hẳn công hiệu đó. Mọi người tâm vô thường cùng lợi hại mà suy đồi. Họ lợi thì tạm gá theo, hại thì tạm miễn khỏi. Chọn ở chánh ngụy, đó cũng ít vậy.
Người xưa thí dụ đó như trâu ngựa, chỉ thường giao chính mình ấy vậy, mềm dịu vậy, nịnh nọt đó cùng chúng làm đó, không thể cản trở vậy. Phàm, thưởng phạt là Đại quyền của Tiên Vương hành Đạo vậy. Muốn Đạo đó hành thì không thể xem thường thưởng phạt chỉ trong khoảnh khắc ở riêng tư vậy. Nhỏ riêng tư dùng đó thì quấy rầy phải hình luật vậy. Lớn riêng tư dùng đó thì quấy rầy phải binh lính vậy.
Quấy rầy binh lính thì sanh ra ở chư hầu tự phải mới đầu vậy. Quấy rầy luật hình sanh ra ở Đại phu tự phải mới đầu vậy. Nên thời Xuân Thu, chư hầu chuyên chinh chiến mà Xuân Thu chịu tội đó. Xuân thu chư hầu chuyên phong bít mà xuân thu chịu tội đó, bởi chẳng cùng thưởng phạt của chư hầu ấy vậy. Đại phu của Xuân thu chuyên thủ mà Xuân thu chịu tội đó. Đại phu của Xuân thu chuyên cùng mà Xuân thu chịu tội đó, bởi chẳng cùng Thưởng phạt của Đại phu ấy vậy. Xuân thu do đó chỉ bày thưởng phạt của Vương giả ấy vậy. Ông nói: "Tội ta là đó chỉ Xuân thu ư? Thánh nhân mạo phạm tội mà làm Xuân thu, do vì sợ thưởng phạt của đời sau ấy vậy.
Lễ nghĩa là chỗ còn của giáo, tập thượng là chỗ công hiệu của hóa. Chẳng phải chỗ còn thì giáo ấy không thấu đáo vậy, chẳng phải công hiệu thì hóa ấy chẳng chánh vậy. Cho nên, người khéo giáo thì giữ gìn Lễ nghĩa vậy. Người cẩn thận hóa hẳn đề phòng tập thượng ấy vậy. Thiên hạ không thể không giáo, trăm họ không thể không hóa. Vì thiên hạ trăm họ, người trên giáo hóa đó có thể mất ư? Giáo hóa là phong vậy, dân hay vật vậy, phong ấy cao thấp thì vật theo đó mà nổi chìm. Thánh nhân toan lo mọi người trôi dạt dòng, xấu ác mà chẳng trở lại, nên cẩn trọng ở sự giáo hóa ấy vậy. Phàm, giáo là sanh ở Quan chính vậy, hóa là thành ở dân tộc vậy. Lễ nghĩa là bày ở Triều đình nước nhà mà thấy ở thiên hạ vậy. Thi nói: "Chu đạo như dùi mài, đó thẳng như tên bắn". Chỗ Quân tử giẫm trải, chỗ tiểu nhân nhìn thấy, chỗ sanh ấy như khí mạch vậy, chỗ thành ấy như Tứ thể vậy. Người muốn dự Tứ thể đó mà chẳng chỉnh sửa khí mạch nói thì chưa từng có vậy. Chỗ sanh là chánh thì chỗ thành là ngay. Chỗ nhìn là tu thì chỗ thấy là trị. Cho nên, xưa trước ở nơi Quan chính, hẳn trước phải tu lễ nghĩa để chánh tự thân mình, mà sau mới suy đến ở mọi người vậy. Người chưa theo đó, hẳn tự lường, vậy giáo đó chưa đến ư? Thì thêm sức tu để khuyên đó. Lại cũng chưa theo đó, thì đó là phong tục dâm tà ấy vậy. Mới đầu có thể nêu pháp để răn trừng họ phạm Lễ trái Nghĩa ấy vậy. Thang nói rằng: "Muôn phương như thế, có tội tại một mình ta". Cho nên phạt một tội mà người sáng tỏ, nêu một lệnh mà người theo đó. Chỗ gọi là giáo tu ở trên mà người hóa ở dưới vậy. Đời sau thì không như vậy, chẳng trị chỗ giáo mà muốn chỗ hóa vậy, có được chăng? Cũng là lầm hoặc vậy. Lễ ấy là trung, Nghĩa ấy là chánh. Trên chẳng trung chánh thì dưới hẳn là khinh tà vậy. Cảm của giáo hóa là tự nhiên của thế ấy vậy, như ảnh hưởng đó theo hình và tiếng vậy. Ngạn ngữ nói: "Hình ngay bóng thẳng, vọng theo tiếng hòa". Đến lúc đó không thẳng không theo thì trách hình và tiếng ư? Hay trách bóng và hưởng ư? Cho nên, Quân tử vào nước xét xem tục đó chuộng, mà sau mới bàn nghị chính trị ở đó vậy.
Có người hỏi: "Xưa trước, pháp rộng rải, luật hình giản đơn, mà lỗi quá gian trá của dân ít ỏi. Đời sau pháp tuy nghiêm cẩn, luật hình lắm nhiều, mà lỗi quá gian trá của dân lại đầy nhiều. Đó là tại sao? Xin nói: "Thời xưa sử dụng Hình pháp còn ở gốc đó, nên dân mắc lỗi lầm hiếm ít; đời sau chế đạt Hình pháp chỉ còn ở ngọn, nên dân mắc lỗi quá lắm nhiều vậy".
Lại hỏi: "Sao gọi là gốc là ngọn ư?"
Xin nói: "Chính giáo là gốc đó vậy, Hình pháp là ngọn đó vậy. Cẩu thả khinh gốc mà trọng ngọn, đó như rưới dầu để cứu lửa cháy, dùng như vậy tuy càng nhiều, lửa càng cháy dữ, chẳng do đâu mà ngấm tắt".
Lại hỏi: "Kẻ hèn tôi thật không biết nguyên do của chính giáo làm gốc như thế nào, mong ông nói rõ cho điều đó?"
Xin nói: "Thiện ác của người đâu phải vốn có ở tánh họ, mà do vật đổi dời nên vậy. Nên mở lợi đó thì sinh mừng, suy hại đó thì tức giận. Từ xưa, các bậc Thánh nhân biết nó như vậy, nên chế ra Điền Lý để thông đó, an đặt nơi sanh sống, xếp đặt trường lớp để dẫn dắt họ cùng Hiếu để. Đầm cầu giao thông, dạy họ chẳng cùng tranh lợi. Bến chợ bình phẳng, dạy họ chẳng cùng khi phụ; làm mười một loại thuế khóa để dạy họ kiểm hiệu riêng tư sung phụng công. Tạo ra Lễ để tiết chế tình buồn vui đó; làm Nhạc để chánh tập tục xưa cũ; dùng Hiệu lệnh để định lời nói đó; dùng Hình pháp để ngăn ngừa sai phạm đó. Chẳng may có một người phạm pháp đang bị Luật hình, mà Thánh nhân còn tìm xét đó ở chính mình, nói là: "Khiến dân như vậy, là bởi Trẫm dạy họ chưa thấu đáo". Chính người đó chưa tu, mà khoan tha đó không dùng Hình pháp trừng phạt vậy. Võ Vương đi tuần thú phương Nam, đến chợ Thương ngô, thấy ở chợ đó bắt tội giết người, Võ khóc mà xuống xe, và bảo mọi người chung quanh rằng: "Như tội nhân đây chẳng thuận mà đến, nhưng Quân vương sao làm thương tổn họ?" Võ bảo: "Người của Nghiêu Thuấn đều dùng tâm của Nghiêu Thuấn làm tâm họ, nay Trẫm làm vua, mà người tự biết tâm họ, thật là đau xót đó vậy!"
Ở thời Văn Vương, có hai nước Ngô Nhuế tranh giành biên cương mà tố tụng đến Văn Vương. Văn Vương dùng ngôn từ mà giải thích đó, xong rồi bảo: "Chính đó không tỏa sáng khiến nó như vậy". Và thuần chuyên chính Ngô Nhuế, do đó mà chấm dứt tố tụng. Phàm tình người ai chẳng thích tốt mà ghét xấu, tham sống mà sợ tổn thương. Nếu như đồng có để được an lạc, sự sống đó được hòa đồng, tộc loại đó được toại tánh, người được ngợi ca, đâu chịu bẵng quên vậy chẳng cùng theo mà làm đó. Tuy người Di mạch hẳn mà không thể không biến của như vậy đó. Thánh nhân thời xưa sở dĩ dùng sức thúc đẩy ở giáo hóa nên người thời xưa ít vấp lỗi quá, mà khép đẹp tục ấy vậy. Bởi chính giáo đó thấu đạt vậy. Chính giáo thấu đạt nên không chỗ dùng Hình pháp đó vậy. Quân tử chẳng đặng đừng mà dùng đó, chẳng phải chuyên đó. Khổng Tử nói: "Đạo đó dùng đức, Tề đó dùng Lễ, có xấu hổ tạm cách. Đạo đó dùng chính, Tề đó dùng Hình, dân miễn khỏi mà không xấu hổ". Nên nói: "Hình ấy là thành". Từ thời thượng cổ, hết thảy mà thành đó ấy vậy. Hình chẳng dự chương, nên dân không biết pháp, dân không biết pháp thì không chỗ sanh đầu mối tố tụng đó.
Có Ngô thị biết đời sau đó càng bạc bẽo, sợ Quan lại khéo xảo pháp cẩu thả trình bày, nên chế ra năm thứ Hình pháp ở nơi sách ông là: Lưu rộng năm Hình pháp; Tiên làm Quan hình; Phác làm giáo hình, Kim làm Thục hình, Sảnh tai tứ xá Hổ Chung tặc hình". Đời sau đến đó càng suy mà Sách đó Hình danh không thể thắng số. Hình càng nhiều mà dân càng xấu ác. Bởi gốc ngọn đó lên ngược mà gìn giữ nên vậy. Mãi đến lúc đồng bạn Hàn Phi, Thân Tử, Thương Ưởng cẩu thả làm Hình luật tàn khốc, người Tần dùng đó, chưa trọn đời mà nước đó diệt mất chẳng còn. Nhưng như Hình của Phủ Hầu, Pháp của Tán Hầu, vì thấu đáo công mà gìn giữ, còn có thể dùng cứu tệ của một đời. Làm sao sau đó Tục Sử lại Kiêu hãnh? Văn pháp theo tâm đó làm cạn sâu. Hình phạt theo tình đó làm nhẹ nặng. Phàm, Pháp là Tiên Vương sở dĩ dùng đó để chuyên cấm gian trá và các điều tệ hại vậy. Hình là Tiên Vương sở dĩ dùng đó để chế ngăn hung bạo, và tệ đó làm bạo. Chẳng phải riêng làm hung bạo, cũng sở dĩ dẫn người sanh hung bạo; chẳng phải riêng làm gian trá, cũng sở dĩ dẫn người sanh gian trá. Cho nên, luận Hình pháp của Quân tử chú trọng ở gốc đó mà không trọng ở ngọn đó".
Người ấy lại nói: "Lời ông nói, có thể gọi là xa vời vậy, chẳng thích nghi với thời biến. Như luận của ông chỉ thích nghi với thời xưa mà chẳng thích nghi với thời nay. Dân ngày nay thấm đậm điều ác, nếu không dùng Hình pháp thì không thể trị. Dân thời xưa còn thuần phác, hẳn giáo hóa mà có thể khuyên, nếu như đem giáo hóa ở thời nay thì ngục tù càng nhiều, mà kẻ giết người không ngừng nghỉ vậy".
Xin nói: "Ông thật là người thông rành thời cuộc mà lấp bít Đạo. Nghĩa là thời thế xưa như nay vậy, nghĩa là Đạo thiện như ác vậy. Dân thời xưa thuần phác, bởi được Đạo ấy vậy. Dân ngày nay hư ngụy, bởi mất Đạo ấy vậy. Tôi mắc hoạn Đạo đức đó không tu, chẳng mắc hoạn với dân đó không chóng hóa; mắc hoạn Chính giáo đó không thấu đáo, không mắc hoạn dân đó chẳng thuần. Kinh Thi nói: "Chặt cây, chặt cây, đó thì chẳng xa; cầm búa để chặt cây, liếc mà nhìn đó còn lấy làm xa". Là nói Đạo đó không xa tu mà thấu đáo đó vậy. Khổng Tử nói: "Đức đó lưu hành nhanh đến như đặt trạm mà truyền mạng". Tức nói Chính giáo hóa dân nhanh chóng vậy.
Vua Văn Đế (Lưu Hằng 179-156 trước tây lịch thời tây Hán?) thời nhà Hán tu luyện, im lặng làm chính chuyên ở khoan hậu, thẹn nói lỗi quá của người, hóa thành mà đời không tục cáo kiện bới móc. Sai Trương Thích Chi làm Đình úy, muốn đó gìn giữ pháp rất nhẹ, khi ấy Hình phạt lớn giảm bớt, cuối năm bị giam ngục chỉ còn bốn trăm người, thiên hạ có phong Hình thố. Vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời Tiền Đường dẹp đời họa loạn muốn dùng văn để trị thiên hạ, dẫn Phòng Kiều, Đỗ Như Hối các nho sĩ cùng dốc sức muốn hưng thịnh Vương Đạo, thiên hạ bèn đại trị. Như thế suốt ba mươi năm, nhà dân cửa ngoài chẳng đóng; đi ngoài núi Lữ hành mà chẳng cần mang lương thực, cuối năm bị giam ngục không quá ba mươi người, tha cho họ về nhà mà các người ấy đúng kỳ hạn thảy đều đến lại. Lúc ấy, thiên hạ cũng ngõ hầu phong của Hình thể. Nhưng ở hai đời trong nhà Hán nhà Đường, mỗi đều tiếp nhận tục cũ của nhà Tần nhà Tùy, dân đó đâu chỉ nhã thiện sư? Nên xưa nói là: "Trị thiên ha, nhìn sức đó hành như thế nào vậy". Người ấy im lặng kính bái rồi lui ra.
Công Đạo là dẫn dắt chúng đông, Tự Đạo là tự giẫm bước một mình. Công tư có khác điểm xuất phát mà cùng chung điểm hướng đến vậy. Chỗ gọi là cùng chung điểm hướng đến tức hướng đến ở Nghĩa vậy. Công chẳng dùng Nghĩa, để chọn lựa thì không lấy gì để đồng thiên hạ; Tư không dùng nghĩa để tự xử thì không lấy gì để giữ cửa mình. Nghĩa ấy là cửa ngoài của hai Đạo, công tư do đó mà hợp bày. Cho nên, Quân tử nói, ở công thì chuyên ở Công Đạo, nói ở tư thì toàn ở Tư Đạo. Chẳng phản công mà giúp tư, chẳng xét tư mà loạn công, nên đốc xuất người mà người theo đó, giữ chính mình thì mình được đó. Thi nói: "Há chẳng nhớ về, việc vua chẳng xét, tâm ta buồn thương". Bởi nó có được Công Đạo vậy. Việc vua chẳng xét là không thể sanh lúa thóc, bởi nói đó mất Tự đạo vậy. Kia là Quân tử vậy, chẳng hưởng không vậy, bởi nói đó chẳng vì tư mà xâm phạm công vậy. Mưa nơi ruộng công ta, bèn đến ruộng tư ta vậy, bởi nói đó chẳng vì công mà quên tư vậy. Vừa mới lúc nhà Chu suy mà Tư Đạo mạnh mẻ. Chư hầu ấy chuyên đánh chiếm, Đại phu ấy chuyên việc chính. Khuyết lễ, nhạc, tế, tự, điên đảo chẳng luân thường, hơn hai trăm năm rối ren đại loạn mà chẳng cản ngăn. Xuân Thu làm nên Chánh ở Công Đạo. Kịp đến thời nhà Tần, dùng thử pháp của Thương Quân mà Công Đạo trở lại mạnh. Thiên hạ lại khốn khổ bởi thuế khóa, trăm họ chết chóc bởi luật hình. Nhà Tần chẳng cải đổi, đời sau đó cũng diệt mất, nhưng Công Đạo chẳng hẳn mạnh vậy, Tư Đạo chẳng hẳn yếu vậy. Chánh mà thôi vậy. Vương chế mười một điều thuế khóa, Tỉnh điền thì tám nhà được chín trăm mẫu. Đầm cầu chẳng cấm, cửa xét chẳng đi, tội nhân không làm tớ. Già, ta già đến cả người cũng già; trẻ, ta trẻ đến cả người cũng trẻ, đó mới là quân bình của công tư vậy. Phàm công tư ấy là còn ở nơi lớn thì nước nhà Triều đình, đó gọi là công, trăm họ nhà cửa vây quanh, đó gọi là tư. Còn ở nơi nhỏ thì mọi người là công, chỉ ở một người gọi là tư. Nếu được nghĩa, tuy nó nhỏ cũng có thể tôn quý. Nếu không phải nghĩa, tuy nó lớn cũng xem thường vậy.
Vua Văn Đế (Lưu Hằng 179-156 trước Tây lịch) thời Tây Hán, vì ngàn vàng mà bãi bỏ Lộ Đài, có thể gọi đó là giúp tư vậy, vì một lộng Thần, mà cản trở Pháp, có thể gọi đó là phòng ngại công vậy. Vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời tiền Đường, mới bàn nghị Thái từ, dốc sức mà nói: "Bái xin cậu nó cho nó", có thể gọi đó là ngăn tệ công mà tỏa sáng tư vậy. Lan Tương Như chẳng xét Liêm Phả, có thể gọi đó là tôn trọng công mà xem thường tư vậy. Quản Di Ngô ba lần trở phản điếm, có thể gọi đó là tôn trọng tư mà xem thường công vậy. Cữu Phạm, có thể gọi đó là mới đầu công, Tuân Tức, có thể gọi đó là sau cùng công vậy. Vương Bôn, có thể gọi đó là khi miệt công, khi miệt tư. Thiếu Thố xin cắt đoạn, có thể gọi đó là cẩu thả công vậy. Bình Tân bày liêm kiệm, có thể gọi đó là cẩu thả tư vậy. Hoắc Quang vì vật báu đó mà chẳng đánh giặc, có thể gọi đó là chẳng thuần công vậy. Công Nghi từ bõ quỳ chức đó, có thể gọi đó là thuần công vậy. Tăng Tử khấu dứt mà phản Võ thành, có thể gọi đó là chẳng cẩu thả tư vậy. Nhan Chân Khanh vì hại chết đó, có thể gọi đó là chẳng dùng tư mà khuất công vậy. Đông Hạ buộc sừng tứ sanh, có thể gọi đó là vì công mà khuất tư vậy. Kiềm Lũ Nghiêm quân bình, có thể gọi đó là an tư đó vậy. Lỗ Liên đoạn cành cây, có thể gọi đó là chẳng vì công mà biến đổi tư vậy. Than ôi!
Công, tư, lớn, nhỏ, nó ở tại vật há chẳng sờ sờ ư?
Đâu phải tự mờ tối mà khinh thường Trung ấy ư?
Với nhân đạo, tín là đầu mối vậy. Người mà không tín, thì đạo lấy gì để giáo? Đạo suy Tín do đó thực hành, Tín dẫn Đạo, do đo thấu đạt. Quân tử chuyên việc Đạo cho nên cẩn trọng đối với Tín vậy. Tín của Vua còn ở Chính, Tín của cha còn ở thân, Tín của thầy bạn còn ở Pháp. Chính sai lầm thì dân không chỗ tin, Thân khinh thường thì con không chỗ tin, Pháp mất thì Hoạn học không chỗ tin. Nên người khéo làm chính, chánh hiệu lệnh mà dân đó chẳng dám trái. Người khéo làm Thân, chánh ân ái mà con họ chẳng dám nghi ngờ. Người khéo làm Pháp, chánh học hành mà học trò họ chẳng dám bất kính. Quân tử chánh tín vậy, tiểu nhân cẩu thả tín vậy. Chánh tín nên thực hành lâu mà chẳng trái Đạo ấy. Cẩu thả tin nên cho lâu mà hẳn mất nghĩa vậy. Tiểu nhân chẳng tin Thiên mạng, Quân tử chẳng tin bất nghĩa. Chẳng tin Thiên mạng nên vọng cầu mà lắm sai quấy. Chẳng tin bất nghĩa nên không vọng mà tự đủ. Nhưng mà, Chánh tin của tiểu nhân chẳng như phát Đạo của Quân Tử, vâng tin của Quân Tử chẳng như miễn khỏi sai quấy của tiểu nhân. Lắm thay! Đời sau không tin vậy. Nhưng chẳng phải không tin của người, đó do vì người làm tin chẳng đủ, tin nên vậy. Bày đạt lộ là sách vở, bày người dân là giáo lệnh. Sách vở lầm hoặc thì đạt lộ do đó mà mê mờ mất hướng Nam bắc; giáo lệnh mất thì người dân do đó mà khinh thường trên dưới. Thang, Võ có giáo mà thiên hạ bẩm nhận, có thể mà thiên hạ cùng theo đó cũng là chỗ phô bày đầu mối vậy. Vì người đời sau ban lệnh mà tự lầm hoặc, hành sự mà tự khinh thường, nói Đạo mà tự trái phản, như vậy là phô bày không tin đến với dân đó vậy, đến với con họ, đến với học trò họ. Họ làm không tin cũng chẳng thích nghi ư? Sợ đời mất thành thật, Nghiêu Thuấn do đó cẩn trọng đối với tín. Sợ đời mất tín, thang, Võ do đó cáo thề, Sợ đời mất cáo thề, Xuân thu do đó cẩn trọng thề ước. Sợ đời mất thề ước, chư hầu do đó giao thề ước. Nhưng thề ước càng nghiêm cẩn mà biến đổi càng nhiều. Con tin càng nặng mà loạn càng lắm. Nên nói, chư hầu tạm tin mà chẳng phải tin, Tam Vương suy tín mà chuốc lấy tín, Ngũ Đế ôm giữ tín mà tin lớn. Tin lớn nên chẳng lệnh mà dân tự hóa, suy tín nên có lệnh mà dân tự theo, không tín nên tuy có lệnh mà dân chẳng kính.
Chẳng lệnh là hóa đó thành thật vậy, có lệnh là giáo đó chánh vậy. Tuy lệnh mà chính ấy loạn vậy. Võ Vương đánh Trụ, tám trăm chư hầu chẳng hẹn mà nhóm tụ tại Mạnh Tân, Võ Vương dùng Đại nghĩa tin ở thiên hạ, nên thiên hạ chẳng nhẫn không theo vậy. Vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) thời tiền Đường ban luật hình xác đáng đối với dân mà dân đó đúng kỳ hạn đều đến. Vua Thái Tông dùng Đại hình đối với thiên hạ, mà thiên hạ không dám chẳng phục vậy. Có thể tin mà chẳng tin là không trí; không đáng tin mà tin là không tốt lành. Tin đáng tin là tin thành thật vậy, tin không đáng tin là tin nịnh bợ vậy. Tin nịnh bợ là nguy ách hẳn đến, tin thành thật là an ổn hẳn đến. Tin của Quân tử là chỗ bó buộc của an ổn và nguy ách, không thể chẳng cẩn thận vậy. Quân tử tin lời nói của người mà không đo lường tình của người, tiểu nhân đo lường tình của người mà chẳng tin lời nói của người vậy.
Vật đều tại mạng, không biết mạng thì mọi sự mất chỗ của nó vậy, nên người quý tận lý mà tạo mạng. Mạng ấy là tương giao của trời người, nên nói có Thiên mạng, có nhân mạng vậy. Thiên mạng tức chỗ tụ hội của trời, nhân mạng tức nơi truyền trao của người. Phàm, Thiên ấy là đứng đầu của Tam cực, Thánh nhân trọng cái đầu ấy, nên gồm nói chung là Thiên mạng. Thiên mạng thấu đáo thì nhân mạng hẳn vậy. Chỗ thấu đáo đó tuy u minh nhưng nó có công hiệu, hẳn đó tuy sang hèn nhưng nó có chuẩn định. Sang hèn có chuẩn định nên không thể quanh co mong cầu ở trời. Quanh co mong cầu ở trời thì phế mất nhân đạo, U minh có công hiệu nên không thể cẩu thả cậy ở người, cẩu thả cậy ở người thì trái nghịch với Thiên đạo. Cho nên, người xưa có chỗ làm là không dám khinh thường Thiên mạng. Có chỗ giữ mà không dám vượt nhân mạng. Thế nào gọi là Thiên đạo ư? Thiên Đạo là thích thuận vậy. Thế nào là Nhân đạo ư? Nhân Đạo là tu giáo vậy. Nên người xưa, đức hợp Thiên đạo mà thiên mạng thuộc đó, đức đến Nhân đạo mà nhân mạng an ổn đó. Xuân thu là trước xuân mà kế đến Vương, đó là Thánh nhân hiển bày tôn quý Thiên mạng của Vương giả để chánh kế đến Vương. Đó là Thánh nhân văn minh Vương pháp Thiên mà hợp Thiên đạo vậy. Cho nên, được Thiên mạng thì gọi đó là Chánh thống, phế bỏ Nhân đạo thì gọi đó là loạn luân. Hoặc hỏi: "Nói Chánh thống sao rõ ràng ư? Ông hãy nói hết đó vậy?" Xin nói: "Xưa kia, dân gặp phải ách nạn Hồng thủy, thiên hạ mắc bệnh đó, Võ dùng cần lao để cứu vớt thiên hạ đã đắm chìm, công đức hợp với trời, mà Thiên mạng quy về đó, nên nói là Chánh thống vậy. Cuối thời nhà Hạ, dân không hơn nổi sự hung ngược đó, thiên hạ phải chịu khổ đó, do Thang là bậc Chí Nhân nên Thiên mạng quy về đó, nên làm Nhân thống vậy. Cuối thời nhà Ân, như Hạ Văn Vương là bậc Chí Đức mến thương dân nên Thiên mạng sắp quy về, mà Võ Vương tiếp thừa đó, nên làm Thiên thống vậy. Ở thời nhà Tần nhà Tùy, mọi người phải khổ bởi mở mang đó. Ở thời nhà Hán, nhà Đường mới dùng khoan nhân, khua động ngũ quý ngụy loạn vậy. Triều đại nhà Tống chúng ta dùng Thần Võ mà bình trị nên Thiên mạng đều quy về vậy.
Hoặc hỏi: "Thiên sự (việc trời) sâu tối, chẳng thể thấy nghe tiếp nhận, mà gọi là Thiên mạng, lấy gì để làm rõ đó ư?"
Xin nói: "Tâm người kết quy ở Đức đó, và Ngũ hành Thất chính thuận theo thời đó ấy vậy. Như Thuấn, Vũ, Thang, Võ do đó mà hưởng thiên hạ. Thái Thệ nói: "Trời nhìn tự dân ta nhìn, trời nghe tự dân ta nghe", do đó mà rõ ràng Thiên mạng vậy. Khác đó là ở đời sau suy Đồ sấm phù thụy, cho là được mạng ấy vậy. Dùng Ngũ hành cùng thắng, cho là được Đức ấy vậy. Ngũ thắng thì cơ hồ nhàm chán thắng vậy. Phù Thụy thì cơ hồ Thần kỳ. Cuối thời nhà Ngụy, Nam bắc tạp nhiên xưng chế mà đua nhau tự cho là được Thiên mạng và đem binh lính cùng xâm chiếm nhau. Khắp trong bốn biển dân chết như cỏ rạ. Phàm nhân mạng là nhân tâm người mà an ổn con người, đó thì tâm người quy về đức ấy vậy. Ngũ hành Thất chính thuận theo thời ấy vậy. Tuy nói vâng phụng mạng của trời mà kỳ thật an ổn mạng của trời ấy vậy. Đời sau bất nhân mà bỏ đức, mới bắt đầu khác đó mà khiến như vậy. Bị tội đó nên chẳng dung thứ luật hình.
Thiên mạng là mạng lớn vậy, Nhân mạng là bẩm thọ trời mà thành hình, cũng là mạng lớn vậy. Tương giao mạng lớn là quý dùng khí hội, hội đó chẳng được chánh ấy vậy. Tuy thành người đó mà chẳng phải người thiện, tuy thành hình đó mà chẳng phải hình đẹp. Nên trời ấy là Thường thừa, chánh mà mạng người, nên người ấy thường gìn giữ mà thừa trời. Như vua chẳng phải được trung đó thì không thể suy mạng ở dưới đó, Bề tôi chẳng phải có chức đó thì không thể bẩm mạng ở trên đó. Cha bảo con đó hẳn đối đãi bằng hiếu, con vâng lệnh cha hẳn phải cung, đó là Đạo của trời người vậy. Nên xưa trước gọi là chánh thấy, nghĩa là dùng một chánh mà thông thiên hạ vậy. Thông đó chẳng chánh thì thiên hạ lấy gì để thông ư? Đời sau chẳng kịp xưa trước lắm nhiều vậy, đâu phải thiên mạng lại đến chánh đó ư?
Có người hỏi: "Nay xưng là Hoàng mà chẳng liệt bày Đạo đó, với học sĩ thật hẳn nghi ngờ đó mà không biện rành. Tuy nhiên, Bách gia tạp xuất, quân tử cho là chẳng phải chỗ tin vậy. Đó quả thật là có hay không có ư? Ông là bậc chí học, không lầm lẫn Thánh nhân, hẳn có thể dẫn nêu phân quyết. Xin vì tôi mà nói rõ đó vậy".
Xin nói: "Sao nói là Hoàng Đạo không có ư?
Chỉ đặc biệt là không thấy vậy. Phàm, Hoàng Đạo là Đại giản vô vi, chẳng thể được mà nói đó, vời vời chẳng lặng, hợp thể ở nguyên cực. Nguyên ấy là trùm của bốn đức, gốc của năm thủy, Thể mà còn đó, Thánh nhân do đó mà hóa vậy. Suy mà làm đó, Thánh nhân do đó mà giáo vậy. Giáo ấy có nghĩa là của Ngũ Đế, hóa ấy có nghĩa là của Tam Hoàng. Khéo suy giáo hóa thì Đạo của Hoàng Đế sáng rỡ như vậy. Cổ Ngữ nói: "Đức hợp với Nguyên là Hoàng, Đức hợp với Trời là Đế, cùng với nhân nghĩa hợp là Vương". Ai bảo Hoàng không đạo chân thật ư?"
Lại hỏi: "Như vậy, Khổng Tử hợp suy mà rộng đó, mà Tố thuật nào riêng tôn quý Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ mà thôi vậy?"
Xin nói: "Thánh nhân nói làm là hẳn lấy điểm thích nghi của thời ấy. Nếu chẳng phải thích nghi đó, tuy là Nghiêu Thuấn hẳn không nhọc làm vậy. Nên nói, Khổng Tử là thời của Thánh ấy vậy. Nói Khổng Tử hay dùng thời đáng làm mà làm đó vậy. Xưa kia, Khổng Tử ở đời nhà Chu đang lúc suy, nhân châm chước thời của đời sau hẳn cũng càng bạc bẽo và hư ngụy, nhân đó chẳng xưng lấy Đạo của Đại giản để hóa. Cho nên, suy ở Lễ, Nhạc, Hình, Chính ấy vậy, bởi để hợp với thời của đời sau mà trị nó thích nghi như vậy. Nhưng Lễ nhạc tạo lớn, chẳng phải tạo ở Nghiêu Thuấn. Hình Chính đầy đủ lớn, chẳng phải đầy đủ ở Văn Võ. Do đó, Khổng Tử suy tôn quý ở Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ ấy vậy. Nên Hoàng Đạo là Thánh nhân còn mà chẳng suy vậy. Vương Đạo là Thánh nhân suy mà chẳng nhường vậy. Dịch nói: "Giòng họ Bao Hy mất, giòng họ Thần Nông làm. Nghiêu Thuấn rũ áo xiêm mà thiên hạ bình trị". Đó là Thánh nhân hiện Hoàng Đạo mà còn ấy vậy. Lễ nói: "Hành của Đại đạo cùng Anh của Tam đại, Khổng Khâu chưa hợp đó vậy, mà còn chí vậy". Đó là Thánh nhân ngợi ca Hoàng Đạo mà không được hành ấy vậy. Đến lúc có Doanh Lương mà rảo đến hành đó, chẳng xét nguyên do nó đã trải qua mà rảo tới hành đó, tiếp vì đường gồ ghề mà cùng đua tranh. Như vậy, tuy là ngu phu cũng cười đó không biết Đạo vậy. Cùng với các học giả ngày nay biện bày nào khác gì ư? Lão Tử, Trung Sanh, cũng từng luận Hoàng Đạo, mà học sĩ thường lấy làm sách của Thánh nhân. Xen tạp chỗ phát xuất mà xem thường, đó cũng chẳng phải rõ ràng vậy. Phàm, Hoàng Đạo, dùng theo Dịch mà nói thì Văn Vương, Chu Công là Tiên đức đó vậy. Lão Trang kia sao có khả năng đứng đầu đó ư?"
Lại hỏi: "Khổng Tử nói: "Sách của Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế, gọi đó là Tam phần, nói là Đại đạo. Sách của Thiếu Hạo, Hiến Đế, Cao Tân, Đường Ngu, gọi đó là Ngũ điển, nói là Thường đạo vậy". Nay ông luận về Hoàng Đế mà nào thấy chỗ gọi đó là Đại đạo, thường đạo ấy ư?"
Xin nói: "Giòng họ Khổng kia cũng dùng dấu vết giáo hóa ấy mà đặt để mục đích đó vậy. Tôi vốn nơi Đạo chân đó mà nói, vết tích giáo hóa đó vậy. Thể của Đạo vốn vậy. Lén nhìn dấu tích thì thích nghi đó có Đại có Thường, tận cùng gốc thì Hoàng và Đế là nên một. Khổng Tử có thể gọi là thấy ngoài biến ấy vậy, sao đủ để biết Đạo sâu ư? Hoặc giả hiểu vậy mà làm.
Người khách đem luận Binh lính mà hỏi. Ông già buồn bã nói: "Sao hỏi đến tương thuộc ấy? Tôi là người nhà quê sao biết được binh lính ư?" Người khách nói: "Ông học đó gồm cả Nho, đạo, của Nho đủ cả văn võ. Binh lính cũng là công hiệu của võ vậy. Không biết võ sao gọi đó là đạo?" Xin nói: "Đạo ấy là binh lính nào chân thật cũng là nhân nghĩa mà thôi". Người khách ấy không thấu đạt, tạm lánh đi. Ông già mới tự nhiên nói với mọi người còn ngồi lại rằng: Binh lính là hình, phát xuất từ nhân mà chủ ở nghĩa. Vì phát xuất từ nhân nên dùng đức nhân mà thương xót loạn, vì chủ ở nghĩa nên dùng nghĩa mà dừng hung bạo. Dùng nghĩa mà dừng hung bạo nên cùng chánh mà chẳng cùng loạn. Dùng đức nhân mà thương xót loạn nên mưu cầu sống mà chẳng mưu tính giết hại. Cho nên, binh của Ngũ Đế, gọi đó là Chánh hình, Binh của Tam Vương, gọi đó là nghĩa chinh. Nghĩa chinh cử động mà thiên hạ không ai chẳng nghĩ nhớ Chánh hình thi hành mà thiên hạ không ai chẳng thuận theo. Sau Viêm Đế không buông tuồng, mà giòng họ Hiên Viên trần bày ở Thác Lộc, binh lính chưa tiếp mà người đó đã phục, giòng họ Cọng Công Phong Thỉ Dân đó, mà Chuyên Đế đánh đó, cũng chưa đánh mà bèn phục. Thang xoay mặt hướng Đông mà đánh Tây Di oán, xây mặt hướng Nam mà đánh Bắc Địch oán, nói sao làm sau ta, dân trông đó như đại hạn mà trông ngóng mây mống vậy!" Trụ vì vô đạo mà Võ Vương đánh đó, đến nơi Mạnh Tân chẳng loan báo mà chư hầu tự hội. Trụ có ức triệu người Di, chẳng dùng ở Thương mà dùng ở Chu. Chu suy mà binh đao một biến, chỗ gọi là nhân nghĩa bèn mất vậy, mới phát ở hung bạo mà dẫn đến dối trá. Nước mạnh dùng binh hoành hành, nước lớn dùng binh lực lưỡng, nước tức giận dùng binh loạn, nước tham dùng binh xâm chiếm. Tề mới đầu thắng ở Sở, mà Tề về sau mắc nợ Tần. Đắp đổi hưng thịnh, đắp đổi diệt mất, cùng loại như đánh cờ làm vui vậy. Phàm, binh là việc nghịch vậy, không thôi thì Quân tử dùng đó. Cho nên Thánh nhân chuộng đức mà chẳng chuộng binh lính, do vì rõ biết binh lính không thể chuyên tạo thiên hạ. Cốc Lương Tử nói: "Mang áo giáp, đội mũ trụ chẳng phải chỗ để nước nhà hưng thịnh vậy chỉ dùng để giết bạo loạn vậy". Văn Trung Tử nói: "Nước mất đánh binh, nước Bá đánh trí, nước Vương đánh nhân, nước Đế đánh đức nước Hoàng đánh vô vi". Thánh nhân không lấy binh làm chuộng, có thể dùng nhân nghĩa làm, nên nói nhân nghĩa mà thôi vậy. Binh lính trống rỗng sức lực dối trá, mà Quân tử chẳng cùng. Tôi cùng đó ư?" Mọi người ngồi đó cùng ngợi khen là:
"Chưa từng nghe vậy!" Xong, Kính bái mà ra về.
Ở đời nói về Nhượng tức là nên có sự khinh trọng, bởi người học lẫn lộn làm một mà phải biện luận đó. Đối với Lễ, không riêng biệt thì đời sau lấy gì để thủ pháp ư? Như Thiên tử đem thiên hạ mà nhường cho chư hầu, đem nước nhà mà nhường cho các khanh Đại phu, đem tước vị mà nhường cho các Sĩ thứ, đem danh lợi mà nhường. Đó đều có nguyên do mà nhường ấy vậy. Họ do vì nhường đó mà được chánh, thì Lễ đó có thể giữ vậy. Sở dĩ nhường đó mà không được chánh đó thì Lễ đó lấy gì thủ ư? Phàm, nhường đó có dùng thời mà nhường, có dùng nghĩa mà nhường, có vì danh mà nhường, có vì thế mà nhường, có vì cẩu thả mà nhường. Do thời mà nhường là nhân, do nghĩa mà nhường là khuyên, vì danh mà nhường là kiêu, vì thế mà nhường là khốn cùng, vì cẩu thả mà nhường là loạn. Như Ẩn Công ở Lỗ, đó là cẩu thả mà nhường vậy. Hiếu Bình ở thời nhà Hán, đó là vì thế mà nhường vậy. Quý Trát, Tào Tử Tạng ở thời nhà Ngô đó là vì danh mà nhường vậy. Thời của Nghiêu đại đồng, thời đó có thể nhường nên từ tốn đến Hiền mà thiên hạ đội nhờ đức nhân ấy vậy, nên nói do thời mà nhường là nhân vậy. Đời của Võ có nhiều thế lực tranh giành, thời ấy không thể nhường cho người, nên người con tiếp thừa đó mà thiên hạ cũng đội nhờ đức nhân ấy vậy. Thái Bá, Bá Di do Hiền tướng suy mà nghĩa đó có thể nhường vậy; nhường đó để khuyên trăm đời, nên nói do nghĩa mà nhường là khuyên. Quý Trát, Tử Tạng đang lúc các nước cùng đua tranh mà cha con giao đánh tàn hại nhau, mới vì nhường danh phấn phát, do vì kiêu kích thời ấy vậy, nên nói vì danh mà nhường là kiêu vậy. Hiếu Bình ở thời nhà Hán, quẩn bách bởi thế của bề tôi mạnh mẽ mà tự thân khốn cùng gần như chẳng thể chấn chỉnh, bèn đem thiên hạ đó mà nhường, nên nói vì thế mà nhường là khốn cùng vậy. Ẩn Công ở Lỗ chẳng vì công mà nhường, chẳng phải người mà cẩu thả nhường ngôi, cuối cùng đưa đến dân loạn, nên nói vì cẩu thả mà nhường là loạn vậy. Mạnh Tử nói: "Trời cho Hiền thì cho Hiền, trời cho con thì cho con". Tuân Tử nói: "Nghiêu Thuấn Thiền nhượng", hoặc dùng chữ Thiện [??] theo văn của Tuân Tử vậy. Ở đây có ý nói là chuyên tâm, theo lý thì dùng chữ Thiện cùng với chữ Thiên là tương tợ nghĩa vậy, là chẳng thế vậy. Thiên Tử oai thế và địa vị Chí tôn không địch ở thiên hạ, phàm có ai cùng nhường vậy. Dương Tử nói: "Duẫn triết, Nghiêu thiện, Thuấn tôn trọng thì chẳng khinh ở Do vậy". Hàn Tử nói: "Nghiêu Thuấn truyền Hiền là muốn thiên hạ được chỗ vậy, nhưng bốn ông đều chẳng đạt thời của Thánh Hiền". Nói vậy ai rõ ràng ư? Như Nghiêu chẳng phải thời đó thì đâu chịu đem thiên hạ mà nhường cho người khác ư? Giả sử Võ được thời của Nghiêu mà thiên hạ đâu kịp thời người con đó ư? Chỗ gọi là Nghiêu, Thuấn, Võ họ phấn phát ở trên muôn đời là chánh vì thời đó mà làm đó ấy vậy. Nghiêu, Thuấn, Võ là thời của Thánh ấy vậy. Than ôi! Đời sau người đó tự riêng quá lắm ư? Thời của Võ mà người truyền trao chẳng được gốc. Võ nói: "Tôi mến mộ Nghiêu Thuấn, vì họ truyền nhượng (nhường ngôi)", đó cũng vọng vậy. Họ biết thời ư?
Có người hỏi: "Quân tử xưng Vương hoặc chẳng xưng Bá, có nghĩa Bá là nắm quyền, Vương là tu tín, mà Bá sao gọi là không tín ư? Hẳn là nghi ngờ Đạo ấy vậy. Mong ông biện giải đó, khiến sự việc của Hoàn văn đều được rõ ràng vậy".
Xin nói: Vương chuộng đức, Bá chuộng công. Phàm, Vương có quyền, Vương giả dùng quyền mà thực hành đức vậy. Bá có quyền, Bá giả dùng quyền mà thủ công vậy. Thủ công nên quyền đó chưa hẳn là không riêng tư. Hành đức nên quyền đó chưa hẳn là không công vậy. Cho nên, công là làm quyền, mà tư làm dối trá vậy. Vương có Tín thành thật tin vậy, Bá có Tín giả dối tin vậy. Giả dối tin nên càng lâu càng biến đổi. Thành thật tin nên càng lâu càng tin. Tề Hoàn Công mới nhóm hội chư hầu, từ Bắc Hạnh đến U có mười một chúa thế mà chư hầu đều thuận, vì tín đó còn vậy. Kịp đến Thành duyên lăng mà chư hầu đều tan, vì tín đó biến đổi vậy. Văn Công ở thời nhà Tấn, họ đánh chiếm Sở đạp đất tới thề, vì công tự cao bèn với Thiên Vương. Đó bày rõ dối trá vậy. Cho nên, Quân tử ngợi khen đó là ngợi khen công đó đáng thời vậy. Chẳng ngợi khen là ghét đó dối trá lại chẳng thành thật. Thi ngợi khen là dùng móng vuốt lấy gỗ để ném ta, dùng ngọc Quyền Cư để báo đáp đó. Chẳng những báo đáp đó mà vĩnh viễn dùng làm tốt lành vậy. Công khéo phát vậy. Ông nói khí cụ của Quân vương trọng nhỏ ư? Xem thường đạo của Bá vậy. Bá ở thời Trung cổ, có khác Lễ mà không khác Đạo, Bá của thời Hậu cổ, có khác Đạo mà không khác Lễ. Giữ chức mạng mà chẳng chiếm chinh, cũng chẳng có khác Lễ ư? Tin chinh phạt mà chuộng sức dối trá, cũng chẳng có khác Đạo ư? Nên nói, Bá chẳng phải xưa cổ vậy, loạn Vương chính bắt đầu từ Hoàn Văn. Nay Thế tục nói: "Bá Đạo vừa biến trị là chẳng thể không dùng vậy". Trọng Ni nói: "Quản Trọng cùng Hoàn Công bá chư hầu là một khuôn thiên hạ. Dân mãi đến nay nhận ban trao đó. Nhỏ nhen Quản Trọng, tôi nó trùm tóc vạt áo bên tả vậy. Tôi vất bỏ đó. Ôi! Khiến cả thiên hạ cuồng dối quỷ quyệt truyền đến cả con cháu thuyết của Ngô khởi đắm chìm mà chẳng trở lại vậy. Đó thật là lời của người ngu, sao đủ để biết ý của Thánh nhân ư? Chỗ gọi là vừa biến là bởi Quân tử dùng nghĩa của Chánh ấy vậy, đâu nói dùng Trí dối trá mà biến Chánh Đạo ấy vậy. Xuân thu gièm pha biến chánh xưa để chư hầu dùng riêng tư mà biến công ấy vậy. Phàm, Chí Đạo ở đời chẳng nghĩ nhớ công. Nghĩ nhớ công sợ người ấy nhân công mà đua tranh lợi vậy; hiển bày quyền sợ người ấy nhân quyền mà sanh dối trá vậy. Cho nên, hóa của Nghiêu Thuấn thuần mà hóa của Văn Chương nhường. Nhà Hán nói: "Nhà ta đạp dùng Vương Bá mà trị thiên hạ, tạm nồng hậu mà cuối cùng bạc bẽo, ít nhường nhịn mà lắm đua tranh".
Dịch nói: "Tốn dùng hành quyền, nghĩa là sao? Xin nói: "Quân tử nhân đại thuận mà cư xử sự việc đó ấy vậy. Thời chẳng thuận, dù là Nghiêu Thuấn cũng chưa bắt đầu làm vậy, vì trọng Tốn thuận đó thấu đáo vậy. Dương đắc ngôi vị mà trung chánh đáng ngôi vị vậy. Lương Chánh để dùng Tốn, dùng đó xác đáng vậy, nên Quân tử làm đó vậy. Nhân thuận đó giẫm trải trong đó hiệu nghiệm dụng đó. Nói đó chẳng như thực hành vậy, vật đó không gì chẳng cùng vậy. Nhưng mà thuận của trời hẳn là Đại quyền, sau đó thông soái chánh ấy vậy; làm của quyền hẳn là Đại nhân, sau đó xử lý biến ấy vậy. Quyền ấy có nghĩa là vừa biến ấy vậy. Phàm, Đại nhân biến đó vậy, công tiểu nhân biến đó vậy. Tư quyền ấy là chỗ buộc của trị loạn an ách, nên quyền ấy không dùng người giả vậy. Khổng Tử nói: "Có thể cùng học mà không thể cùng Đạo, có thể cùng Đạo mà chưa thể cùng lập, có thể cùng lập mà chưa thể cùng quyền", bởi cẩn trọng đó thấu đáo vậy. Chí thuận là thời của Đại hữu vi, Địa vị Trung chánh là địa vị của Quân vương. Cương chánh thì dùng Tốn, Đại quyền của Thiên hạ vậy. Chỉ Thiên Tử ở địa vị đó và hành quyền đó vì thuận theo thời ấy vậy. Dùng Tốn vì để chế vật ấy vậy. Chế chẳng đến nơi thì loạn vậy. Cẩn trọng kín đáo thì dân không biết đó, do vậy mà gian chẳng sanh. Nên Văn ngôn nói: "Đồng thanh cùng ứng, đồng khí cùng cầu". Nước đổ ướt, lửa đến nóng, mây theo Rồng, gió theo Hổ, Thánh nhân làm mà muôn vật trông thấy, gốc ở trời là thân gần trên, gốc ở đất là thân gần dưới, thì mỗi mỗi theo loại đó vậy. Cửu Nhị nói: "Tốn tại dưới sàng" bởi nói thấp kém mà mất chánh ấy vậy, không thể để dùng Tốn vậy. Dùng Tốn thì vật chẳng cùng mà lại loạn vậy. Thượng Cửu nói: "Tốn tại dưới sàng", chôn vùi mất búa vốn liếng, trinh hung đó, bởi nói qua thời ấy thì dùng, chặt không thể được. Đó là mất quyền ấy vậy. Cửu Ngũ nói: "Canh trước ba ngày, canh sau ba ngày". Bởi nói cẩn trọng ban xuất hiệu lệnh đó vậy, nên hiệu lệnh khinh phát và thường luôn cải đổi. Cho nên, dùng Tốn không nên tại Cửu nhị vậy, Thượng cửu dùng Tốn hẳn không thể được vậy. Cửu ngũ họ dùng Tốn ấy vậy, vì thích nghi chuyên ở hiệu lệnh ấy vậy.
Có người biện luận rằng: "Văn ở đời lớn mạnh, thiên hạ đó sắp thành vậy. Nhưng lớn mạnh đó là văn ngôn, mà văn ngôn sao đủ để nghiệm thiên hạ thành ư? Vậy, Văn gì có thể nghiệm được?"
Xin nói: Hẳn đó là Nhân văn vậy. Dịch nói: "Xem xét Nhân văn mà thiên hạ hóa thành". Đó là nghĩa ấy vậy.
Lại hỏi: "Sao gọi là nhân văn?"
Xin nói: "Văn võ là Đạo của Vương (Vua) vậy. Văn võ cùng cứu tế để sáng rỡ nhân đạo, nên nói là Nhân văn vậy. Văn là Đức, Võ là Hình, Đức dùng an đặt đại nghiệp, Hình dùng hỗ trợ thạnh đức. Đức đó thấu đạt, Hình đó kế tiếp. Nhóm ca Văn Võ do đó lấy văn mà gồm cả. Nên nói là Nhân văn vậy. Phàm, Thánh nhân dùng thạnh đức để giáo thiên hạ, mà thiên hạ gìn giữ Đức đó vậy, bày Đại hình do vì ước chế đó vậy. Đã chánh thì dùng Hình mà thấu đạt đức. Đức ấy là đãi Hình mà giúp đó, Hình ấy là đãi Đức mà quên đó. Cho nên văn võ đều được thì chính đó hòa mà dân đó an. Hình và Đức đều tệ, thì chính đó mất mà dân đó tan. Quân tử do đó mà nhìn sự thành bại của thiên hạ vậy. Tôi quán xét Chu Văn, văn võ đều thấu đạt đó vậy, Tuyên đó lắm hình mà bình, đức đó suy vậy. Tôi quán xét Hán Văn, cao văn ít thấu đáo, ân huệ đó giảm đức, võ đó lắm nhiều binh lính vậy. Tôi quán xét Đường văn, Văn Hoàng Đại Chánh mà ít rối ren vậy".
Lại hỏi: "Đạo của Tam Đại có chất có văn vậy". Xin nói: Văn mà mất chất, Vương đạo đó có thể hết ư? Nên nói: "Chất văn hẳn là Thánh nhân sở dĩ vừa biến mà cứu tế vậy". Chất văn gốc chánh mà ngọn tệ vậy. Chất nếu chẳng tệ sao dùng văn làm? Văn nếu chẳng chính sao dùng chất làm? Nên điều ông gọi là văn là Ngôn văn trị chánh vậy. Khổng Tử nói: "Chất của Ngu Hạ, văn của Ân Chu thấu đáo vậy".
Lại hỏi: "Ngôn văn sắp vô dụng ư?"
Xin nói: "Ai không dùng vậy? Nhân văn là thấu đáo, ngôn văn là kế tiếp vậy. Dùng ngôn văn mà nghiệm người ấy, người ấy ẩn náu ư? Nên Nhân văn là chỗ còn của Đạo thiên hạ vậy. Ngôn văn là chỗ ngụ của chí Thánh Hiền vậy. Trước thiên hạ mà sau Thánh Hiền là Thánh Hiền phát ở chính mình vậy; thiên hạ thấu đáo công vậy, nên công là thấu đáo, mà chính mình là kế tiếp đó vậy. Ai nói ngôn văn đó không dùng ư?
Tánh sanh người là đó tự được ấy vậy, mạng sanh người là đó được ở trời ấy vậy. Đức có khả năng chánh nó sanh người ấy vậy. Nghề có khả năng giúp nó sanh người ấy vậy. Nhưng tánh mạng có dày mỏng, mà Đức nghề có lớn nhỏ. Tánh mạng là chỗ sanh tuy được mà chưa từng toàn được, bởi nó dày mỏng ấy vậy. Đức nghề là chỗ người thích nghi khả năng, mà chưa hẳn toàn năng, bởi nó lớn nhỏ ấy vậy. Người thời xưa dày tánh đó mà mỏng mạng đó, có vậy, mà người xưa chẳng lầm hoặc. Người thời xưa thành đạt ở nghề, mà khốn cùng ở đức, có vậy, mà người xưa chẳng loạn. Nên nói Thánh Hiền không toàn đức, Quân tử không toàn năng. Có bên trong đó mà không bên ngoài đó, Thánh Hiền do đó mà không toàn đức vậy; có khả năng ở đức mà không khả năng ở nghề, Quân tử do đó mà không toàn năng vậy. Đức ở trên nghề ở dưới. Quân tử tu trên đó mà chẳng chánh dưới đó, nên Họ chẳng hẳn khéo so với trăm nghề khéo, mà tôn quý ở trăm nghề khéo vậy. Tánh bên trong mạng bên ngoài, Thánh Hiền chánh tánh đó mà chẳng nhậm mạng đó, nên họ khốn cùng đó mà chẳng lo âu, mà trông đó chẳng ngăn ngại vậy. Y Duẫn là bậc Hiền nhân thời xưa, vừa cày ở ruộng tâm, ruộng đó cày vì họ hay chuộng đó, mà Y Duẫn chẳng dám cùng họ so sánh. Lã Vọng là bậc Hiền nhân thời xưa, vừa câu cá ở Táo Tân, ngư nhân ở Tân vì họ hay chuộng đó, mà Lã Vọng chẳng dám cùng họ so sánh vậy. Đến lúc hai vị trí đó hiển bày ở thời nhà Chu nhà Thương, mà thiên hạ trăm họ do đó mà chánh vậy. Khổng Tử là bậc Thánh nhân thời xưa, vừa dốc sức dò hỏi ở thời Xuân Thu, còn một Lữ nhân mà chưa rảnh nghỉ vậy. Vừa lúc mạng lớn sai lầm mà loạn vật, vật sao chẳng mất Đạo ấy vậy? Nhan Tử, Tử Tư, Nguyên Hiến, Mạnh Kha là những bậc Hiền thời xưa, khốn cùng ở xóm làng hẹp vắng, an vui đó sắp trọn cả cuộc đời mà các vị ấy chẳng đổi niềm vui đó. Phàm, Đức ấy là gồm cả Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu vậy. Tánh ấy là Nguyên Đạo đức tư lự ấy vậy. Nhân nghĩa trung hiếu tu mà đủ để suy ở người vậy. Học của Quân tử là học Chánh ấy vậy, nào hẳn phải nhiều ư? Đạo Đức tư lự sáng tỏ mà đủ để an sự sống ấy vậy. Tận của Thánh Hiền là tận sự sống ấy vậy. Nào hẳn đều vậy ư? Cho nên đời của Thánh nhân, mà người đoán tướng bói cầu không chỗ bày khéo léo ấy vậy. Trước của Quân tử mà Tôn ngô tỏ bày Thương không chỗ khoe pháp ấy vậy. Học của người Ân gọi là Tự, học của người Chu gọi là Tường. Phàm, học của Tam Đại đều do vì chiếu người mà học ở Đức vậy. Đức nghĩa là gốc của học vậy. Văn và nghề là ngọn của học vậy. Thánh giáo ấy của Tam Đại do vì thiên hạ học ở gốc ấy vậy. Tệ giáo ấy của Tam Đại do vì thiên hạ học ở ngọn ấy vậy. Học ngọn nên thiên hạ đều hư ngụy, học gốc nên thiên hạ đều thuần hậu. Cho nên, Quân tử quý họ thuần gốc ấy vậy, Thánh Hiền quý họ tận lý vậy. Người xưa có nói là: "Giàu sang của Tấn Sở không thể kịp". Kia dùng giàu sang đó, còn ta dùng đức nhân của ta; kia dùng tước vị đó, còn ta dùng nghĩa của ta. Ta đâu ân hận ư? Người xưa có nói: "Vui trời đất, mạng tôi nào lo âu ư? Cùng lý tận tánh, tôi nào nghi ngờ ư?"
Dạy người là giúp người tồn tâm ấy mới gọi là dạy vậy. Để tâm là xét chỗ cảm đó mà lưu tâm vậy. Để tâm ở thiện thì loại thiện ứng đó, để tâm ở ác thì loại ác ứng đó. Tâm đó chẳng định hình tượng ở chỗ để ấy vậy, ứng đó chẳng định tên gọi ở chỗ cảm ấy vậy. Chỗ cảm ấy còn mà ứng đó, đâu chẳng nhanh chóng mà số cảm ứng chưa từng sai lầm vậy. Tôi từng nghiệm đó. Người đó nghe họ dụng tâm mới đầu thiện mà người ít chẳng mến thương vậy. Nghe người dụng tâm mới đầu ác mà người ít chẳng ghét đó vậy. Tuy mừng giận chưa sanh ra đó, mình đã bị nó ghét thương lại rồi. Nên người để tâm hẳn cẩn trọng chỗ sở dĩ cảm ấy vậy. Mà người biện giải hẳn quán xét chỗ sở dĩ ứng ấy vậy. Cho nên, Thánh nhân cảm tâm người mà thiên hạ hòa bình, nên nói quán xét chỗ cảm đó mà tình của trời đất muôn vật có thể thấy vậy. Có người đến đây nói: "Người chẳng biết đó, dùng tâm xấu ác mà khinh người, đợi ác tích chứa mà họa đến". Ai cho là tâm không thể thấy ư? Lại có người đến đây nói: "Tâm, không thể khinh thường, đem tâm thiện mà đãi người, đợi thiện tích chứa mà phước đến". Sao nói người có thể khinh thường ư? Nên nói: "Họa phước cùng với thiện ác tương giao vậy. Than ôi! Người không toàn tin đã lâu lắm thay! Tin chỗ tâm đó mà không tin chỗ cảm đó vậy. Phàm, trời đất rất xa mà thành thật cảm đó là thông. Tánh lý rất gần, mà vật cảm đó diệt. Nghiêu Thuấn chẳng khuyên nhà mà thiên hạ thuần hậu. Thuần hậu đó là cảm vậy. Trụ Kiệt chẳng người dụ dỗ mà thiên hạ hư ngụy. Hư ngụy cảm đó vậy. Cảm ứng đó nghĩa là họ có thể gấp ư? Tốt chưng bày do vì ứng, chỗ cảm của thiện chính ấy vậy. Xấu chưng bày do vì ứng, chỗ cảm của ác chính ấy vậy. Ngũ phước là chỗ để tâm của người thiện, nghiệm của tốt lành vậy. Lục cực là chỗ để tâm của người ác, nghiệm của xấu xa vậy. Trời người cùng dự mà chưa từng ngang trái vậy. Ôi! Đâu có người làm đó mà người thật vời đó. Phàm, chính là bày chỗ đồng có của thiên hạ vậy, chỗ nguyên do của muôn dân vậy. Thiện ác của chính, dân do đó mà theo đó vậy. Nên nghiệm đó như mưa tạnh ấm gió lạnh. Ngũ (Phước?) là bày đồng đó của thiên hạ ấy vậy, tự nơi một thân người vậy. Thiện ác của người, thân do đó mà chấn động đó ấy vậy. Nghiệm Phước cực đó là nêu bày tự đó của một thân ấy vậy. Phương gia cảm nguyệt mà thủy, Dương toại cảm nhật mà hỏa vậy, mây theo rồng, gió theo hổ vậy. Người phương Nam cất tiếng ca... (mất 02 chữ thuộc Địa Danh) cỏ múa. Núi đồng mới đổ mà Cảnh Dương chuông ngân vọng. Đó là cùng cảm của vật ấy vậy. Nhân đạo do tình cảm nên đời đời chẳng cùng.
Thánh nhân do Thần cảm nên u minh thông một. Cho nên để tâm ở Hiền mà Hiền thấu đáo, để tâm ở Ngu mà Ngu lại, để tâm ở cha mẹ thì người con có hiếu, để tâm ở học thì học trò đó khuyên. Chỗ gọi là ra ở đâu trở lại ở đó. Lời nói đó là gồm vậy.
Ở đời nói, phước là chuyên lợi mà nói đó. Tôi cho rằng, phước là chuyên Đạo mà nói đó vậy. Do lợi và đạo nên phân chia phước làm thành hai mối. Lợi phước là thường nhiều có vậy. Đạo phước là thường ít có vậy. Nhiều nghĩa là mọi người, ít nghĩa là Thánh Hiền. Nên nói, phước của Thánh Hiền là chỗ được của Thánh Hiền vậy, phước của mọi người là chỗ được của mọi người vậy. Thánh Hiền có chỗ được mà Thánh Hiền vui đó, mọi người có chỗ được mà mọi người ham muốn đó. Ham muốn đó nên thiên hạ đua tranh lợi vậy, vì thấy vui nên thiên hạ an tánh vậy. Cho nên, người ở đời không vui đó là chẳng làm vui đó vậy; có ham muốn đó, chẳng làm an vậy. Được cái được của Thánh nhân gọi là trọng, được cái được của mọi người gọi là khinh. Trọng chỗ trọng do vì dẫn dắt thiên hạ đều thuần Đạo, khinh chỗ khinh do vì dạy thiên hạ xem thường lợi vậy. Tề Hầu, Sở Tử họ giàu sang mà thiên hạ chẳng thể kịp, đến lúc họ vì đó mà cùng nhau tranh giành giết hại, tuy nói là phước đó mà kỳ thật là họa đó. Nhan Hồi, Nguyên Hiến họ bần tiện mà thiên hạ chẳng ai bằng, đến lúc họ vui Đạo toàn Đức mà đời sau mến mộ tiếng tốt họ vậy. Tuy nói là cực đó mà kỳ thật là phước đó. Nay trong thế tục nhìn thấy vui của Quân tử nhưng thân họ chẳng khua động bảo: "Phước sau làm Thánh Hiền ư?" Thấy nhà cao sáng, phóng thế đầy ham muốn nói: "Chỉ do phước vậy". Sắp nhảy vọt ý mà mưu toan giàu sang, đó sao gọi là an phước ư? Giả sử khắp thiên hạ đều cùng dẫn nhau trái Đạo mà hướng đến lợi, đó là tội của nó vậy. Phàm, phước của Thánh nhân là gốc của phước; phước của mọi người là ngọn của phước. Tu gốc để đến ngọn là người xưa có vậy, như Thuấn là hạng người đó. Dùng ngọn mà thực hành gốc, người xưa cũng có vậy, như Chu Công là hạng người đó. Còn Thánh nhân của tôi trước nói: "Đạo làm nền tảng phước có thể dùng để tu hành ấy vậy". Nên Quân tử có Đạo mà không giàu sang, gọi là thời vậy mà Quân tử chẳng ân hận; có giàu sang mà không có Đạo gọi là nhục vậy, mà Quân tử xấu hổ đó. Giàu sang mà có Đạo, Quân tử mở rộng đó vậy. Đời sau bỏ Thánh Hiền mà theo mọi người, cũng chẳng phải khinh gốc mà trọng ngọn ư? Gốc ngọn điên đảo thì trời sao cùng nồng hậu ấy ư?
Văn Vương và Thái Bá, họ là đồng đạo với nhau vậy. Văn Vương mới đầu phụng sự Trụ, mà tự ẩn đức, Thái Bá sau cùng trốn Ngô mà ẩn sanh. Xuất xử của Quân tử hoặc nói hoặc nín vậy, đều do vì dạy răn vậy. Văn Vương và Thái Bá họ đồng đạo và đồng làm dạy răn vậy. Nên nói: "Đời loạn thì ẩn đức, đời bình thì ẩn danh". Ẩn danh là do vì cảnh răn nạn tranh danh ấy vậy. Ẩn đức là do vì xa lìa nạn hại đức ấy vậy. Xa lìa hại là thời của Thánh nhân, cảnh răn tranh giành là hóa của Thánh nhân. Hóa để cảm người, đó là Chí Đức của Thánh nhân; thời để dạy người là Đại nghĩa của Thánh nhân vậy. Nhỏ nhiệm Đại nghĩa thì vua tôi đời sau sao được dùng đó mà toàn Đạo. Nhỏ nhiệm Chí Đức thì chiêu mục đời sau sao được dùng đó lễ tự vậy.
Đạo của trời đất xa vậy, sống đó có thể thấy, mà sở dĩ đó sống thì không thể thấy vậy. Đạo của Thánh nhân cũng xa vậy, họ làm có thể thấy, mà sở dĩ họ làm thì không thể thấy.
Có người biện giải về sự sống, nói: "Có Hứa Do khinh thiên hạ mà trốn đi, nghĩa đó cao, mà việc đó đáng nghi ngờ vậy. Nếu việc đó thành thật mà nghĩa đó rộng lớn cũng có thể vì thẹn tâm trộm nước ấy ư?"
Xin nói: "Như Hứa Do nếu chẳng làm vậy, chưa như làm không cẩu thả của Thánh nhân vậy. Có thể làm thì làm đó, không thể làm thì không làm đó. Cho nên, Thuấn y cứ Trung Dung mà ẩn vậy, có thể thì thực hành đó, bằng không thì thôi vậy. Thuấn là người thấu đạt đó vậy, chẳng mất Đạo đó vậy. Trong một làng, có bậc Hiền ẩn thì Lễ của làng đó có thể biết vậy. Đạo của một sách ẩn thì văn của sách đó có thể biết vậy. Nên gọi là văn hẳn là khéo, văn không khéo thì mất Đạo đó vậy. Gọi là Lễ hẳn là tu, Lễ không tu thì mất Hiền đó vậy. Cho nên bình trị hay loạn lạc của một thiên hạ, do ẩn hiện của Hiền nhân mà sở dĩ rõ ràng vậy. Có thể không trọng ư? Sự động tĩnh của một Hiền nhân, dẫn thiên hạ đó giáo hóa mà sở dĩ khuyên vậy. Có thể không thận trọng ư? Lã Vọng ẩn ở Đông Hải là xứng ẩn vậy. Bá ẩn ở Tây Sơn là hận ẩn vậy. Ẩn của Nhan Hồi là không phải thời chẳng oán thời, vui ẩn vậy. Ẩn của Nguyên Hiến là chẳng hèn luận vì bọn tục, là kiêu ẩn vậy. Ẩn của Tứ Hạo là bỏ đi mà lánh loạn, trở lại để giúp, chính là đạt ẩn vậy. Trịnh Tử ở Cốc khẩu là chân tu ẩn vậy, Nghiêm Quân ở Thành Đô là hòa bình ẩn vậy, Man Thiến ẩn ở Thiều là ngọn ẩn vậy, Tử Vân ẩn ở Quan là tạm ẩn vậy. Tôn Tư xa tít Lô Hồng ở một nơi chẳng dơ bẩn Đạo, ra chẳng khuất nhục tiết, là cao ẩn vậy. Ẩn của Thương Quả là dối trá ẩn vậy. Lý Tất thân ở Triều đình mà danh ở miền quê, tiếp nhận lộc mà chuộng Vua là giả ẩn vậy. Lý (mất Tên) thân phục mà đạt lời, là ẩn vì mua danh vậy.
Nước hẳn hơn lửa, mà thiện hẳn hơn ác vậy. Nếu dùng đó mà không được Đạo đó, thì tuy nước lửa thiện ác cũng không thể được hơn đó vậy. Nước cản chế lửa, hẳn là đối với lửa vừa mới đốt mà nước có thể hơn vậy. Thiện cản chế ác, hẳn là đối với ác chưa thành hình mà thiện đó có thể hơn vậy. Đến lúc ác đó đã thấu đạt không thể ngăn bít mà muốn suy thiện để cứu ác. Lửa đã cháy bừng không thể dập tắt mà muốn múc nước để rưới lửa. Thế ấy có thể hơn đó chăng? Quân tử và Tiểu nhân là nơi xuất phát của thiện ác ấy vậy. Cho nên Quân tử dùng thì họ chính thiện, tiểu nhân dùng thì họ chính ác. Như muốn chính thiện mà chuyên dùng tiểu nhân, kịp lúc ác đó bừng bừng dữ dội, trên dưới đều muốn Quân tử cứu giúp đó thì đâu phải gì múc nước mà rưới ấy ư? Tuy có là Thánh như Nghiêu Thuấn Võ kia, tôi biết họ không đến đó. Tại sao? Vì khéo dùng người của thời xưa là dùng Quân tử hẳn trước, dùng Tiểu nhân hẳn sau. Quân tử dùng trước là thiện được để cản chế ác vậy. Tiểu nhân dùng sau là khiến ác được để chuyển đổi thiện vậy. Lễ không dung Tiểu nhân thêm vào nơi Quân tử, không khiến kẻ ngu cao sánh với bậc Hiền, do đó mà lớn mạnh thiện mà cản trở ác vậy. Thi nói: "Tâm ta chẳng phải đá, không thể lay chuyển vậy. Tâm ta chẳng phải chiếu, không thể cuốn vậy. Oai nghi chỉnh tề không thể chọn vậy. Tâm lo âu lẳng lặng, giận ở đàn nhỏ, gặp gắng gỏi đã nhiều, mà chịu xem thường không ít. Lắng lời mà tư duy đó, tỏ rõ có mốc nêu". Tâm ta chẳng phải đá, không thể lay chuyển, tức là Quân tử chỉ có thể dùng cùng giữ vậy. Oai nghi tề chỉnh không thể chọn tức là Quân tử có Pháp có thể dùng cùng làm vậy. Tâm lo âu lẳng lặng, giận ở đàn nhỏ, tức là ghét Tiểu nhân thêm vào nơi Quân tử vậy. Gặp gắng gỏi đã nhiều mà chịu xem thường không ít là ghét sự đùa bỡn chính của Tiểu nhân vậy. Lắng lời mà tư duy đó, tỏ rõ có mốc nêu tức là oán chẳng dùng Quân tử vậy. Tuy Đạo của Tiểu nhân chẳng thể không thêm vào nơi nhà của thạnh đức; tuy Đạo của Quân tử chẳng thể không cản trở ở nước đã hư phá. Dùng bỏ đó là chính ấy vậy. Một Tiểu nhân đã phá hoại trước đó, tuy có trăm Quân tử cũng không thể tu sửa sau đó vậy. Một Quân tử bình trị ở trên đó, tuy trăm Tiểu nhân cũng không thể làm loạn dưới đó. Thế của tà và chánh là như vậy. Người đánh cá của Kiệt khiến con họ đến bắt cá ở khe Di. Kẻ xấu xa chuyên làm đó, người có khả năng hỗ trợ đó, đến lúc kẻ xấu xa mắc nợ chỗ sai sử đó vậy. Lưới tuy rách nát và đem giềng mép ấy bảo người có khả năng chỉnh sửa. Người có khả năng trọn không thể làm được vậy.
Quân tử phát thân vì Đạo mà chẳng vì tài của, thứ dân mưu sanh dùng sức mà chẳng dùng trá, Đại phu làm việc vì nghĩa mà không vì lợi. Ba điểm đó là chánh vậy, sau đó thiên hạ có thể dùng để quán sát Vương đạo Phàm, Vương đạo là chánh thích nghi, vật lớn nhỏ chánh thích nghi đó thì nào có loạn đời ư? Phàm, Đạo nghĩa hẳn là chỗ thích nghi của Quân tử, và Đại Phu. Lợi và sức hẳn là chỗ thích nghi của thứ dân. Nếu Quân tử mà chuyên tài của, Đại phu mà chuyên lợi, thứ dân mà hoan vui trí dối trá là đánh mất thích nghi đó vậy. Đại phu ở trên như áo, thứ dân ở dưới như xiêm. Trên thích nghi với áo, dưới thích nghi với xiêm là hẳn vậy. Nếu đem trên mặc dưới, đem dưới mặc trên, cũng chẳng đảo ngược mà loạn ư? Đạo đó nào có công hiệu ư? Nhiễm Cầu thường làm Tể Lý Thị, làm Lý Thị mà nhóm tu gom góp. Khổng Tử ghét đó, bảo: "Cầu chẳng phải học trò của ta vậy". Trẻ con khua trống mà đánh đó, như Cầu vì người mà lợi đó còn chẳng dung. Quân tử mà như vậy, huống gì chính mình mà vì lợi đó, ai có thể dung ư? Mạnh Tử nói: "Trên nói đua tranh lợi, mà nước nhà nguy ách". Rõ ràng an ổn nước nhà thiên hạ là tại nghĩa mà chẳng tại lợi vậy.
Ác có hình tướng là nhỏ vậy, ác không hình tướng là lớn vậy. Thiện có tên là thứ đó, thiện không tên là rốt ráo vậy. Thiện có tên là dạy mà sau là Nhân ấy vậy, thiện không tên chẳng phải dạy mà Nhân ấy vậy. Ác có hình tướng là giết người, ác không hình tướng là gièm pha người. Ác của gièm pha người còn ở tâm, ác giết người còn ở sự việc. Sự việc ấy có thể biện rành mà tâm không thể thấy vậy. Giáo (= Dạy) là tình, chẳng phải giáo là tánh. Tình có thể đổi thay mà tánh không thể biến cải vậy. Đùa vui với con của người lân cận, khéo dùng lời dẫn dụ nó có thể làm thiện, lời xâu khiêu khích nó có thể vì giận, đến lúc nó trở về với cha mẹ nó, tuy lời nói có tốt xấu mà không thể thân sơ đó vậy. Đó như Đạo chích làm thức ăn thịt người mà mọi người đều hay ghét đó. Thiếu Chánh Mão hiển bày ở triều mà mọi người chẳng thể biện minh đó. Cho nên, Quân tử thiện thiện vậy, hẳn xét tên đó đồng; ác ác vậy hẳn biện tình đó khác. Phàm, thưởng phạt là do vì chánh thiện ác vậy. Thông minh chẳng thể cùng tận thiện ác đó, thì chẳng đủ cùng bàn nghị thiện ác vậy. Nên xét gièm pha ở nhỏ nhiệm, phạt gièm pha ở gìn giữ. Hình sát thích nghi bàn nghị, tánh thiện là thích nghi nhậm đó, tình thiện là thích nghi sai khiến đó. Xét gièm pha không nhỏ nhiệm thì không thể quán sát tâm họ sở dĩ làm đó vậy. Phạt gièm pha không gìn giữ thì không thể ngăn cấm ác lớn đó vậy. Hình sát không bàn nghị thì không thể nghiên cứu thành thật đó vậy. Nhậm lấy tánh thiện thì an nguy ách chẳng khua động, sai khiến tình thiện thì oai phước chẳng chuyên vậy. Thiện thiện được chỗ thích nghi ấy vậy thì Đại Hiền tận đức đó mà Tiểu Hiền tận tài đó vậy. Ác ác được chỗ thích nghi ấy vậy thì gièm pha người tâm ấy chưa đổi, mà giết người phạm lại tội ấy vậy. Sao có chánh thiện ác mà trị đạo chẳng thấu đạt đó ư?
Tánh quý ở tĩnh nên tánh biến mà không thể quá đổi. Tình mắc hoạn ở phiền nên tình phát mà không thể quá sớm. Quá sớm thì thương hòa, quá đổi thì thương trung. Trái với trung hòa thì âm dương ràng rịt, tổn dân thọ thì vật lắm bệnh dịch. Cho nên, Thánh nhân đó lớn trị vậy. Dùng Nhân để nồng hậu tánh người, dùng Nghĩa để tiết chế tình người, do đó mà âm dương hóa mà toại sanh vật ấy vậy. Lễ dạy, tuổi hai mươi là đội mũ, bởi vì Thần đó mạnh mà có thể dùng để tư lự; dạy tuổi ba mươi thì lấy vợ, bởi vì khí đó xung mà có thể hơn phối ngẫu. Nên Quân tử thời xưa trước quán sát âm dương do đó mà biết được sự được mất của tánh tình; quán sát tình tánh, do đó mà biết được đạo của Thánh nhân có hành chăng. Sau đó, đem được mất đó mà nghiên cứu tướng gốc ngọn ấy cùng người chủ khởi bệnh dịch của thiên hạ. Tuy Y Duẫn là kẻ hèn thất phu mà còn nói là thất phu thất phu. Có chẳng đượm âm trách của Nghiêu Thuấn, như đã suy mà nhận đến trong ngôi. Thường Ngũ tựu kiết ngũ cang Thang mà chẳng cản trở, đó vì thiên hạ tự nhận như thế đến chuyên cần vậy. Nay dân trong thiên hạ vừa mới tuổi búi tóc chưa cắt mà vì lợi hại cùng khinh thường cha mẹ thì sợ đó, chỉ bởi nó gian xảo quá sớm vậy. Chỉ vừa trẻ con mà nam đã vợ, nữ đã chồng, quá đó thì dâm bôn, đó cũng chẳng tánh biến quá đổi ư? Tình phát quá sớm ư? Sắp chẳng có chỗ nương ư? Muốn đời giẫm trải trung hòa thì đâu khác đi buôn Hồ mà Nam viên, họ sao có thể đến đó vậy. Ngũ quán âm dương ràng buộc thì lạnh nắng gió mưa tầm thường chẳng kịp mùa, và trăm thứ lúa thóc gieo trồng chưa từng không tật bệnh. Người chết yểu ở đời thường có nhiều, mà người thọ hiếm ít. Vừa thấy tánh tình mất đó, đó công hiệu vậy. Người mất tình tánh đã như vậy mà Đạo của Thánh nhân hành đó, há nói là thấu đáo ư? Mưu định còn nói: "Thiên hạ rất an ninh". Đó cũng nịnh hót vậy, mà dối trá chẳng chịu biết họ mất tiết giáo, gốc đó làm người chủ. Khởi bệnh của thiên hạ, thì lại sao quý ở đương thời ư? Cổ ngữ nói: "Giữa ngày thì nóng đốt, tháo dao thì hại", tức nói vừa dùng ở đương thời vậy. Như Y Duẫn mới đầu thì khốn cùng hèn tệ chẳng rỗi, kia muốn vừa dùng, nắm cán đáng dùng mà chẳng chịu làm đó. Nay nhân thời vừa dùng, nắm cán đáng dùng mà chẳng chịu làm đó, cũng chẳng vì Y Duẫn thẹn ư?
Nho gia, đạo họ chuộng hoàn bị; Lão gia, đạo họ chuộng giản đơn; Âm Dương gia, đạo họ chuộng thời; Mặc gia, đạo họ chuộng tiết; Pháp gia, đạo họ chuộng nghiêm; Danh gia, đạo họ chuộng quán sát; Tung hoành gia, đạo họ chuộng biến; Tạp gia, đạo họ chuộng thông; Nông gia, đạo họ chuộng túc (đủ). Nhưng mỗi mỗi đều có sở trường và sở đoản vậy. Nếu phải bỏ Sở đoản mà nhóm tụ sở trường cũng để giúp trị đạo vậy. Ban Cố vốn xuất phát từ tôn Nho, Tư Mã Thiên nhóm hội đó kết quy về tôn Thủy. Tôn Thủy là tâm đó mở rộng vậy, tôn Nho là tâm đó chuyên vậy, nên thường chẳng phải Mã Thị làm trước đó, Hoàng Lão làm rất rối ren, đó cũng hẳn chẳng thấy họ tôn Nho thấu đáo ấy vậy. Như Đạo của Hoàng Đế, nó ở tại Dịch. Dịch ấy là gốc của muôn vật, là khởi nguồn của Lục nghệ (06 nghề) vậy. Họ trước đó cũng chẳng thích nghi ư? Đâu phải trí của Ban Cố cũng có chỗ chẳng kịp ư? Sở trường của Bá Di là thanh, mà sở đoản là hẹp; sở trường của Liễu Hạ Huệ là hòa mà sở đoản là cung. Mạnh Tử tôn quý sở trường của hai vị đó thì gọi là Thánh nhân, là thầy của trăm đời, tức là Bá Di và Liễu Hạ Huệ ấy vậy. Tâm chuyển đổi ước cũng cùng họ Mạnh hợp vậy, nên Quân tử khéo đó.
Tư Mã Trường Khanh và Dương Tử Vân, người đó văn đó đều được tôn xưng ở đời, như Dương Tử làm kịch Tần Mỹ Tân, Trường Khanh làm Phong Thiền Thư. Lời nói của Phong Thiền quái là ở dâm đồ thêm đó khéo lớn ở tâm ấy vậy, lời nói của Mỹ Tân cẩu thả nói vậy. Ký nói: "Nước không có đạo, họ im lặng đủ để dung Hiền, mà chẳng im lặng thì ai cùng im lặng ư?" Đó đều chẳng thích nghi làm mà làm ấy vậy. Triều Thố luận đạo của Ngũ Đế Tam Vương hòa hợp cùng cực đó vậy. Nghi Hiền ở Quản Tử Trọng, Yến Tử Anh, đến lúc họ xin xét phong của chư hầu, lưỡi chưa cuốn mà Triều Thố đã giết sạch cả dòng tộc, bởi thời chưa đáng nói mà nói đó vậy. Đông Phương Sóc, Mai Thừa, tài tuấn của họ như bụi vọt sách bay hịch chạy chẳng đủ phấn phát bút đó nhưng đều chẳng thể so sánh với một Quan đến một Chính. Bởi tài rỗng mà chẳng được khả năng thật ấy vậy. Lưu Hướng, Lưu Hâm đều là Hiền Nho của nhà Hán, kịp trị truyền vậy, cha con mỗi mỗi chuyên học nói mà nhà tự phải quấy, bởi được tạo mà chẳng được cùng cực đó vậy.
Đạo mà chẳng cùng cực tức chẳng phải đạo, tài mà chẳng công hiệu là tài rỗng, phát mà chẳng phải thời là nghịch lý, làm mà chẳng thích nghi là mất nghĩa. Cho nên, sự quý ở hợp nghi, trí quý ở biết thời, khí quý ở vừa dùng, pháp quý ở chiết trung. Trung ấy là đầu mối của Đạo nghĩa vậy; dụng ấy là đầu mối của khí hiệu; thời ấy là đầu mối của động tĩnh; nghi ấy là đầu mối của sự chế. Bốn đầu mối này là thấu đáo đạo của Quân tử ấy vậy. Người khéo học mà không được đầu mối đó thì không cùng tận, người khéo làm mà không được đầu mối đó thì không khắp vậy. Cho nên thời xưa Thánh Hiền học đạo mà có đạo, dấy sự mà giúp sự còn ở đầu mối mà thôi. Vài ba ông ở đời nhà Hán, tuy kích ngang mà không chỗ thành đức ấy, ước cũng chưa được đầu mối mà ấy vậy.
Vật đạt đến lý, gọi đó là trung, thiên hạ chẳng khinh, gọi đó là chánh. Vừa Trung thì thiên hạ không việc quá, trở lại chánh thì thiên hạ không người loạn. Trung chánh ấy là gốc của Vương đạo, nhân nghĩa là giềng mối của Đạo đức. Người vì mạnh yếu ghét thương mà loạn mất luân thường đó. Mà Thánh nhân làm giáo Đạo vì đặt để người ở trung chánh ấy vậy. Giáo là công hiệu, Đạo là dẫn dắt, dùng Nhân nghĩa để chỉ bày tỏ, khiến người đó mà nghiệm xét đó vậy. Dùng Lễ nhạc danh khí mà chỉ bày, dẫn dắt người, do đó mà rảo đến đó vậy. Hồng Phạm nói: "Nhóm Hữu cực đó mà kết quy về Hữu cực đó". Đó là Quân tử sở dĩ thực hành Đạo họ ấy vậy. Thời người đó họ chỉ cực của Hoàng, đó là Quân tử sở dĩ tiến người rảo đến đạo họ ấy vậy. Thi nói: "Sở ấy võng cực, vài ba đức đó". Đó là Quân tử sở dĩ ghét người chẳng do phải mà đến đạo họ ấy vậy. Cho nên, trị người chẳng phải dùng Trung chánh còn thành thật đó, thì chẳng đủ để cùng bàn nghị nhân nghĩa lễ pháp vậy. Giáo người ta mà chẳng dùng Trung chánh tu thành thật đó thì cũng chẳng thể cùng bàn nghị nhân nghĩa lễ pháp vậy. Phàm, pháp của Thánh nhân như cân như đong mà gìn giữ đó tại người ấy vậy. Gìn giữ đó chẳng được người đó. Khí cụ tuy trung chánh mà người chẳng được vì khinh thường đó vậy. Âm của vàng đá trung chánh, thì chỗ vang hưởng đó cũng chấn, mà chỗ ứng đó hòa. Thành thật trung chánh của người thì chỗ làm đó thấu đáo mà chỗ cảm đó rõ ràng. Cho nên, Quân tử ở thời xưa cẩn trọng chỗ gìn giữ đó và thực hành chỗ được đó. Tuy nghèo hèn ở nơi nhà tối cuối làng mà chẳng đổi thay vậy. Tuy là giàu sang, cưỡi thế sùng cao đáng tôn quý của thiên hạ mà chẳng biến cải vậy. Đến lúc họ cảm vậy, chẳng oai mà người sợ, chẳng nói mà người tin. Chẳng nhọc tâm chẳng mệt sức mà giáo hóa họ hành vậy. Quỷ thần hỗ trợ đó, trời đất giúp đỡ đó. Cớ sao vậy ư? Bởi lý của trời đất cùng người đồng vậy. Đồng cái gì ư? Đồng trung chánh đó ấy vậy.
Muôn vật có số, lớn nhỏ có phần. Do số mà biết cớ của biến hóa, do phần mà biết lý của trời đất. Cho nên, Quân tử đối với Thiên Đạo không chỗ lầm hoặc vậy, đối với Nhân đạo không chỗ nghi ngờ vậy. Khí ngưng tụ mà sanh, sanh thì có ăn uống; khí tan mất mà chết, chết thì cùng đất diệt, đó là phần của Nhân đạo vậy. Cao lớn không cùng, nhật nguyệt muôn sao mà thôi, các vật khác chẳng dung, đó là phần của Thiên đạo vậy. Chở núi khua nước, giúp sống vàng đá cỏ cây, đó là phần của Địa đạo vậy. Số người cùng cực, tuy trời đất chẳng thể trọng đó, trời đất biến đổi, tuy người chẳng thể cùng đó, đó là Định phần của Trời đất vậy. Nay nói trời có thể bay lên, biển có thể lặn vào, vàng ròng có thể khéo thành, hợp mây khí cùng thần tụ hội mà chẳng chết. Đó sao biết có của biến hóa mà thấy lý của trời đất ư? Tuy người ngu cũng nói họ không ấy vậy, mà Tề Oai, Yến Chiêu, Tần Vương, Hán Võ rối ren rảo đến đó, lưu luyến mà quên trở về, loạn chế của tuần thú, rối ren lễ của tế tự. Ai bảo bốn người chủ ấy thông minh Thánh trí độ vượt so với người ngu ư? Thiên đạo là Đại công, Nhân đạo là Đại đồng. Đồng là đồng họ sống chết, công là công họ cùng người tương tuyệt vậy. Nếu họ công với mọi người và riêng tư với một người, ai bảo là trời ư? Nếu họ đồng với hình sống mà riêng tử chẳng chết, há có thể gọi là người ư? Cho nên, Thánh nhân đều ít nói về Thiên đạo, bởi chẳng cùng trời mà lầm hoặc người ấy vậy; thường Thánh tế tự, bởi chẳng vì người mà biến đổi thần đạo ấy vậy.
Gom vàng trăm vật mượn kẻ trộm mà gìn giữ, tuy chưa mất vàng đó, mà người lân cận hẳn lấy làm nghi ngờ vậy. Tự con đến nơi vực sâu chẳng thể lường biết, tuy chưa đắm chìm người con ấy, mà cha mẹ nó hẳn vì lo âu vậy. Như thế đó đã đáng lo, lại nghi ngờ vậy. Phàm, oai quyền là lợi khí của thiên hạ, họ trọng đâu ngay trăm dật vàng ấy ư? Mà giao phó nó cho hạng người ngu xuẩn nịnh bợ cầu may, nịnh bợ cầu may đâu ngay trộm cướp ư? Mà xưa trước Quân tử chẳng nghi ngờ trăm vạn sư lữ, tánh mạng chúng đông đó đâu ngay sự sống của một trẻ con ư? Mà hoang bạo đối với Nhung Địch xấu xa, Nhung Địch đâu ngay vực sâu chẳng thể lường biết ư? Mà xưa trước Quân tử chẳng lo âu. Nhưng xưa trước, nước đó loạn lại mất, sao thường đáng nghi ngờ mà chẳng nghi ngờ ấy ư? Đáng lo âu mà chẳng lo âu ấy ư? Hoặc nói: "Nghi ngờ đó thế nào?" Xin nói: Nghi ngờ đó chẳng như gom cán đó mà chánh đó. Hoặc nói: "Lo âu đó như thế nào?" Xin nói: Lo âu đó chẳng như gìn giữ dân, suy ân mà ban trải tin. Hoặc nói: "Xưa trước há không ân tín ư? Mà Nhung Địch chẳng nghĩ nhớ". Xin nói: "Ân tín ngày trước là âm thanh mà chưa thật vậy, hẳn được người có đức nhân, mà sau đó ân thêm, hoặc được người có lòng nghĩa mà sau đó tin làm. Kia giữ lấy xấu xa, ai thành thật đức nhân ư? Ai thành thật lòng nghĩa ư?
Thế do hình bày, nó mất rất chóng; hình do thế làm, nó lạm rất lắm. Nghiêu Thuấn chẳng phải không hình đối với thiên hạ, mà thiên hạ chẳng oán, bởi dùng hình đó là dùng đức mà chẳng dùng thế. Kiệt Trụ chẳng phải không thế đối với thiên hạ, mà thiên hạ bỗng mất, bởi giăng bày thế đó là chẳng dùng đức mà dùng hình vậy. Phàm, vật không gì chẳng có thế, mà thế của nước nhà Triều đình thì thế đó lớn vậy. Ở đời không gì chẳng có hình, mà hình của Nghiêu Thuấn, hình đó chánh vậy. Dùng thế lớn để hình dân, dân tuy tạm sợ mà chẳng phục. Họ Tần dùng hình để uy hiếp thiên hạ, mà đường xá không dám ngụ ngôn, nhưng mới hai đời mà nhà Tần đã diệt mất. Võ Vương phấn phát oai để phạt Trụ, lại có thiên hạ chẳng những ba mươi đời. Nhưng họ dùng hình và thế chỉ một vậy, mà số ngắn dài chẳng cân bằng, bởi do vì họ cùng đó có khác vậy. Nên thời xưa, Quân tử ở trên mọi người, chẳng chuyên thế đó mà chuyên ở đức đó vậy. Do đó, làm hình chánh mà làm chính trị vậy. Đời sau thì trái đó, làm người ở trên thì dùng hình mà có xương thế, làm người ở dưới thì cậy thế mà xem thường hình, muốn người không oán, họ có thể được chẳng?
Có người khách hỏi: "Học của Quân tử có chỗ ham muốn chăng?" Xin nói: "Có". Mà người khách ấy cười, tiếp nói: "Quân tử cũng có ham muốn ư?" Xin nói: "Đúng vậy, Quân tử học ham muốn thấu đáo, mà đạo muốn chánh. Chánh thì đối với sự không rối ren; thấu đáo thì đối với Tâm không lầm hoặc. Cho nên, Quân tử an, an trọn đời họ mà không đua tranh. Tiểu nhân thì không như vậy. Tiểu nhân học ham muốn lợi, mà đạo muốn bán ra, bán ra thì chẳng thể không rối ren đối với sự, lợi thì không thể không lầm hoặc đối với tâm. Cho nên, tiểu nhân xao lãng, xao lãng trọn đời mà tự làm nhọc. Đó là Nghiêu Thuấn cùng người đồng, mà Thánh nhân do đó cùng người khác vậy".
Người khách kính bái rồi đi ra.
Biết người đó mà chẳng thể nuôi dưỡng họ, là chẳng phải Trí; mến thương người đó mà chẳng thể dạy họ, là chẳng phải Nghĩa; khéo người đó mà chẳng thể thử, là chẳng phải Tín; nhậm người đó mà không thể toàn vẹn họ, là chẳng phải Nhân. Nuôi dưỡng người Hiền là thật của Trí, dạy người Hiền là chánh của mến thương, dùng người Hiền là công hiệu của khéo, toàn vẹn người Hiền là công của nhậm. Nhậm mà không công, ai làm Nhân ư?
Khéo mà không hiệu, ai làm tím ư? Mến thương mà không chánh, ai làm Nghĩa ư? Nuôi dưỡng mà không thật, ai làm Trí ư? Quân tử, họ cùng với người, chẳng mất Trí, chẳng khuyết Nghĩa, chẳng lỗi Tín, chẳng thiếu Nhân, do đó, đạo tu mà đức hoàn bị, thân danh tôn quý mà thiên hạ ngợi ca. Nên nói: "Biết người Hiền chẳng như nuôi dưỡng người Hiền; nuôi dưỡng người Hiền chẳng như dạy dỗ người Hiền; dạy dỗ người Hiền chẳng như dùng người Hiền; dùng người Hiền chẳng như thành người Hiền". Thành người Hiền là sau cùng, biết người Hiền là mới đầu vậy. Sau cùng và mới đầu là trời đất bốn mùa mà còn mà chẳng... vậy. Người đó chẳng cẩn trọng ư? Cùng họ mất mới đầu, sao cùng họ được cuối cùng ư? Lại chẳng làm tốt của thủy chung vậy. Tề Hoàn Công mới đầu dùng Thú mà nhìn Quản Trọng, đến đốn lúc lấy làm tướng, bèn đồng Bá thiên hạ. Hoàn Công là chỗ gọi chẳng thể thủy mà hay chung vậy. Hán Văn Đế mừng có được Giả Sanh, bùi ngùi được đó đến muộn vậy, đến lúc họ dùng xấu ác mà bùng phát ra mới thô suất đó, rốt cùng không Đại dụng. Văn Đế, có thể gọi là có khả năng mới đầu mà không khả năng chung cùng. Cao Tông ở thời nhà Ân khởi truyền thuyết đối với hình người, vốn để trị thiên hạ, mà đến nay thiên hạ cho là Thánh nên cùng xét đó. Cao Tông có thể gọi là có khả năng mới đầu và có khả năng chung cùng vậy.
Đường Sử đem Phòng Đỗ sánh với Tiêu Tào, nhưng Phòng Đỗ văn nhã có thừa, Tiêu Tào vương tá chẳng đủ. Đức thì Phòng Đỗ thấu đạt đó vậy. Xét Phòng thì một nửa tài, xem Đỗ thì thuần Đạo. Quân tử nói: "Đỗ ích Hiền vậy". Diêu Sùng, Tống Cảnh họ chẳng kịp Bích Ngụy ư? Diêu và Tống đạo chẳng hơn tài, mà Ngụy thì nhàm chán binh. Binh thì biết tướng. Yên Công văn quá Thủy Hưng, mà công chánh chẳng kịp, Đại tướng quân Quan chẳng như Định Lương, mà công đến trọn cùng không riêng tư vậy. Viên An khoan hậu thì thường cùng gần họ, chánh và nhân thì khác, Thí Phòng Quan, Nhân Chân Khanh so với Lý Cố, Trần Phan đời đó đạo tuy khác mà giữ trung gìn chánh chỉ một vậy. Phần Dương Vương bớt võ mà chuộng tín là người nhân vậy. Đoàn Đại úy trung dũng cùng đoái hoài, là người nghĩa vậy. Tấn Công chung thủy không đánh giết là người nhân vậy. Lời nói của Tuân Tử gần biện rành vậy, tức tận thiện mà chưa tận mỹ vậy. Đáng tánh ác thuyền nhượng, quá lời nói ấy vậy. Lời nói của Dương Tử là hay nói vậy, tự cho là cùng lý mà tận tánh vậy. Kịp đến lúc gặp loạn mà họ ném bò các thì cùng với chỗ xử tử của Tử Lộ, Tăng Tử đâu khác gì ư? Thái Sử Công nói tuy rộng mà đạo có kết quy, Ban Thị thì chưa thấu đáo vậy, đáng chỗ gọi ở đời là hẳn không như đổi thay lương sử ấy vậy. Giả Phó chống Vương Chế mà chánh Hán pháp. Đẹp thay! Đáng không có thêm đó vậy. Thuật của Tam biểu Ngũ nhĩ, Ban Cố luận đó thô suất vậy, thành thật thô suất vậy. Đối sách của Đỗng Giao Tây, đẹp thay, được chánh mà hợp cực, chỗ gọi là tá của Vương giả, chẳng phải làm quá vậy. Lời nói của Khốn Lộ thì có thể làm lấy vậy, có thể bỏ vậy. Văn của Tướng như sáng lệ, nghĩa ít mà từ nhiều. Văn của Từ nhân vậy. Lời nói của Vương Sung, lập dị lại. Lời nói của Hoàn Khoan, sô công vậy. Văn của Hàn Lại Bộ, văn đó cứng mạnh vậy. Họ làm Nguyên quỷ đọc mực làm gì vậy. Văn của Liễu Tử Hậu, văn đó hào hùng vậy, chuốc bớt rườm rà thì thấu đáo vậy. Thơ Chánh Phù rất thấu đáo vậy. Văn của Lý Tập Chi bình khảo chẳng như Lý Hoa. Văn của Hoa chẳng như Lương Túc. Văn của Túc, Quân tử hoặc có chỗ lấy vậy. Văn của Lý Nguyên Tân, văn của từ nhân vậy. Văn của Hoàng Phủ Đề, giữa khoảng của văn từ ấy vậy. Làm người của Quách Thái Hoàng Hiến vậy, lời vụng về mà mẫn tiếp thực hành, học trò của Nhan Tử ư? Làm người của Từ Trĩ, là triết nhân vậy. Biết thời biến mà cẩn trọng động tĩnh vậy. Trốn đời của Viên Phụng Cao mà chẳng quên hiếu chẳng tổn thương hòa, là bậc sĩ của Trung Dung vậy. Luận nói: "Dẫn khí đó do vì xét khéo vụng của khuôn phép đó. Biện người đó do vì chỉ bày có thầu đáo chăng của Đạo đó".
Nhưng khuôn phép khéo giúp chỗ dùng của đời, Đạo thấu đáo chánh chỗ học đòi của đời, chỗ học đòi được thì việc của Thánh Hiền lớn mạnh mà thuyết của khác mới chấm dứt vậy. Cho nên, Quân tử khu đó, biệt đó, phải đó, quấy đó, đợi có chỗ bù đắp vậy. Đâu không vậy ư?
Ký nói: "Văn lý kín xét đủ để có khác vậy". Mạnh Tử nói: "Tâm phải quấy là đầu mối của Trí vậy". Đó cũng có nghĩa là biện Đạo vậy.
Làm người tuy đồng mà đồng rảo bước nơi loạn, có thể chống kháng vậy, mà không chống kháng là thương dung vậy. Làm Đạo tuy khác, mà đồng rảo bước nói Trị, có thể cùng vậy, mà chẳng cùng là thương bó buộc vậy. Quân tử dùng nghĩa thì không chỗ thương. Thương Ngô Hác Tử vốn chí tâm với thiên hạ, chánh tình tánh ấy vậy; suy chí chánh thiên hạ, toán tánh mạng ấy vậy, giúp đó trị, ước cũng cùng cực đó. Thế Nho viên ngọn đó mà hẳn bài bác đó, há chẳng thương ư? Nghĩa là Quân tử có thể vậy ư? Trọng Ni nói: "Đạo ta chỉ một mà xuyên suốt đó". Lời mầu nhiệm của Thánh nhân, tôi thường tận đó vậy, sao được bậc sĩ của Trung Dung cùng nói đó.
Người Tần dùng pháp của tiến thủ, mà tục họ, mọi người đều muốn tự giàu sang, đến lúc có vợ chẳng nhờ mượn Cô để ky trửu (?) mà bệnh nhục. Người Hán dùng Diêm thiết thay Nông, mà tục đó rảo hướng theo lợi, đến lúc có dân cùng kẻ lại bày lợi dùng ngay cung cấp. Nhân nghĩa bỏ mất, mà của cải tài lợi phát đạt. Phong Lễ nhượng liêm tiết mất vậy. Cho nên tục của người Tần ngày một loạn lạc, tục của người Hán ngày một tệ hại. Phàm, Tần và Hán nền tảng của họ là Thế, đâu chẳng phải lớn và bền chắc, mà cuối cùng mất loạn, chỉ bởi thương tổn phong đó, hủy hoại tục đó mà khiến nên vậy. Phong tục là da dẻ, nước nhà là cốt thể con người, Da dẻ đã hư tệ, thì cốt thể đó có thể chẳng mất ư? Cho nên Tiên Vương chẳng cự vật không pháp, cẩn trọng tập tục vậy. Thi nói: "Không vì khương chức lớn tư duy ở đó, ham vui không hoang, Lương Sĩ lấm lét nhìn". Bởi ngôn động dùng lễ nghĩa để chánh phong tục ấy vậy. Nay người trong lưu tục cẩu thả kiểm xét công tự gá, vì lợi mà tước bỏ sân, khiến trong xóm làng tự nhiên bớt bỏ. Vì lợi mà cùng cao, cũng chẳng thương phong ư? Cũng chẳng bại tục ư? Quân tử cũng chẳng lo âu ư?
Cha con chẳng dùng đạo, tuy cầm thú cũng có thể thân gần, thì Quân tử vì sao riêng biệt ư? Cho nên, Thánh nhân dùng nghĩa mà thương con, gọi đó là Nhân; dùng Lễ để phụng sự cha, gọi đó là Hiếu. Làm con của Thuấn, làm cha của Văn Vương có thể gọi là nhân hiếu đó vậy. Thiên hạ nên theo pháp ấy.
Hỏi rằng: "Sử cho rằng: Dịch và Xuân thu là Thiên đạo vậy. Nhưng mà Xuân thu và Dịch rất thấu đáo với kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ ư? Tôi muốn tôn trọng mà chuyên đó. Theo ông đó như thế nào ư?
Xin nói: "Đâu vậy được ư? Ngũ Kinh đều là thấu đáo, sao chỉ ở Dịch và Xuân Thu ư? Phàm, Trị của Ngũ Kinh như thành Âm Dương của Ngũ thành vậy. Nếu mất một thì đạo của càn khôn rối ren vậy. Mà nay chỉ tôn trọng hai kinh, còn bỏ Thi, Thư, Lễ, thì trị đạo cũng chẳng khuyết ư? Lễ là hình dung của Thái cực, Thi là công hiệu của giáo hóa, Thư là còn của sự nghiệp, Dịch là cùng cực của trời người, Xuân Thu là cân của thưởng phạt. Cho nên, người khéo nói Xuân thu hẳn có căn từ thưởng phạt. Người khéo nói Dịch hẳn gốc ở trời người. Người khéo nói Thư hẳn xét ở sự nghiệp. Người khéo nói Thư hẳn suy từ giáo hóa. Người khéo nói Lễ hẳn tông chủ từ Hoàng cực. Phàm, biết được Hoàng cực thì có thể cùng cử chế độ của Đế Vương, biết giáo hóa có thể cùng nói dời phong đổi tục, biết sự nghiệp có thể cùng bàn nghị chỗ làm của Thánh Hiền, biết trời người có thể cùng hoàn tất thủy chung của muôn vật, biết thưởng phạt có thể cùng biện cơ của thiện ác vậy. Cho nên, Quân tử bỏ Lễ thì lệch, bỏ Thi thì quá, bỏ Thư thì vọng, bỏ Dịch thì lầm hoặc, bỏ Xuân thu thì loạn. Năm kinh ấy đối với Quân tử là như vậy đó. Thi, Thư, Lễ đó có thể bỏ sót được ư? Mạnh Tử nói: "Sở dĩ làm ra Xuân thu là vì thấy quyền ấy làm vậy". Văn Trung Tử nói: "Lý do phát khởi là xuất phát từ tâm mà làm vậy". Phạm Ninh chiết trung của Thánh nhân, nhìn Lý của Xuân Thu vậy. Chỗ còn của Văn Trung Tử thấy Dịch nên khua động đó vậy, chỗ thiết bày của Dương Tử Vân thấy Dịch nên mở rộng đó vậy. Vương Phụ Từ nói trời mà không quá đối với Thần, nói người mà hẳn chánh ở Sư. Họ thấy tâm của người làm Dịch vậy. Thi của Tử Hạ tự Quan Tuy, biết chính của Thi làm giáo vậy. Nói Thi của Mạnh Tử là thấy chỗ làm ý của Thi vậy. Nói Thi của Mao Trành là sâu sắc của Thi vậy. Nói Thi của Trịnh huyền, là cạn cợt của Thi vậy. Nói Thi chẳng như theo làm giản của Mao Công vậy. Truyện Ngũ hành làm, Thư Đạo mới bắt đầu loạn vậy; nghĩa Hoàng cực hành, Thư Đạo đó gần chánh vậy. Khổng An Quốc thích huấn mà thôi vậy. Sự nghiệp của Thánh Hiền thì không chỗ phát vậy. Đái Thị đối với Lễ chưa được thật của Lễ ấy vậy. Trịnh Thị giải thích Lễ lại chẳng như biết Lễ của Tử Đại Thúc vậy". Người hỏi kính bái mà nói:
"Như vén được mù lòa vậy". Vui vẻ mà lui.
Có người khách hỏi: "Tôi muốn chọn lựa tương giao, thì sợ thương ở giới, tôi muốn phi ấn giao, thì lại sợ thương ở tạp. Trung Dung nói: "Thiên hạ nước nhà có chín kinh, mà tương giao bè bạn là thứ nhất trong đó". Thi nói: "Cùng chim kìa còn tìm cầu tiếng của bạn, huống gì người ấy mà chẳng tìm cầu bạn sống?" Nhưng với tôi muốn không tương giao có thể được chăng? Sắp tương giao thì do dự ở hai điểm đó quyết định chưa rõ. Nếu ông là tôi thì xử trí như thế nào?" Xin nói: "Vì người theo Đạo thì Quân tử chọn lựa tương giao, vì Đạo theo người thì Quân tử phiếm giao. Vì Đạo mà phiếm giao thì mở rộng Đạo ấy vậy. Vì người mà chọn lựa tương giao là xét Đạo ấy vậy. Truyện nói: "Phiếm thương chúng đông mà thân gần với Nhân", là nói phiếm giao mà suy Đạo ấy vậy. Hệ Từ nói: "Định tương giao đó mà sau mới tìm cầu", là nói rõ Đạo mà theo tương giao ấy vậy, hẳn có Đạo mà sau phiếm giao. Đạo không sung ở chính mình mà làm phiến giao, giao ấy hẳn hỗn tạp vậy. Cho nên Quân tử chẳng làm tương giao hổn tạp, hẳn chánh Đạo mà sau đó chọn lựa tương giao. Đạo chẳng chánh ở mình mà làm chọn lựa tương giao, giao hẳn nhọc không vậy. Quân tử chẳng làm giao nhọc không. Quách Thái là người Hiền thời xưa cùng tương giao với hạng người giết mổ, bán rượu, làm nông dân thường, mà Quách Thái chẳng nhàm chán tương giao đó, bởi có Đạo mà suy Đạo ấy vậy. Bá Di lại là người Hiền thời xưa, cùng người trong làng mà đối xử, như dùng áo mão của Triều đình mà ngồi chễm chệ, trông nhìn xa đó mà chẳng cùng tiếp, bởi không thể chất Đạo mà dốc thuần Đạo ấy vậy".
Lại hỏi: "Ở đời sở dĩ họ thích nghi tương giao đâu phải một mối vậy. Nay sao dùng chánh mà cầu tìm Đạo của chỗ tương giao ấy ư?" Xin nói: "Nhưng Đạo của tương giao loạn lạc đã lâu vậy. Tôi thường nghĩ nhớ mà chưa rảnh để biện giải đó, nay nhân vì ông mà nói hết vậy. Phàm, xưa nay con người hoặc có vì thế mà tương giao, có vì lợi mà tương giao, có vì khí mà tương giao, có vì danh mà tương giao. Vì danh mà tương giao thì không thành thật; vì khí mà tương giao hoặc đồng xấu ác; vì lợi mà tương giao, lợi tan thì tuyệt; vì thế mà tương giao, thế qua đi thì giải tán. Ở thời Liệt Quốc, Vương Công văn võ cầu tương giao ở áo vải, rong sính ngựa xe, rảo nơi ôm cửa quán mổ mà chẳng rảnh. Hàng thất phu trên tương giao, đến nổi có người sáng sớm buôn bán hàng tạp, mà chiều tối rất mực giàu sang, ôm vòng đeo ngọc, tiếng tăm khua động cả nước nhà, cuối cùng chẳng khỏi nhà tan nước mất mà chỗ tương giao trở lại làm cừu thù. Đó là tệ hại của vì danh lợi khí thế mà tương giao và chẳng xét Đạo tương giao đó nên vậy. Đời sau còn cho đó là phải mà cùng mến chuộng. Nên người trong xóm làng lúc bình thường gặp nơi rót rượu thì khẳng khái đều muốn sống chết vì đó vậy, một mai lợi tan thế mất thì có hiềm khích hục hặc cừu thù mà sống là tốt đối với bạn bè. Như Trương Nhĩ, Trần Dư, Tiêu Dục, Chu Bác, là thuộc loại tương giao đó vậy. Cho nên, Quân tử rất thận trọng tương giao như vậy. Mạnh Tử nói: "Bạn là bạn đức vậy". Tương giao của Quân tử, dùng nghĩa mà cùng cho, vì đức mà cùng chánh. Cho nên tương giao của Quân tử lâu dài mà cùng tốt lành, tương giao của tiểu nhân lâu dài càng khinh rẻ. Quân tử thà nói nơi chốn chợ đường mà không nói tương giao của tiểu nhân ấy vậy". Người khách vui vẻ lui ra.
Quân tử không lấy cái không phải thầy mà làm thầy người. Chẳng vì không phải thầy mà làm thầy đối với người, nên Quân tử dạy răn tôn trọng mà Đạo chánh vậy. Thầy là nêu Đạo, nêu là bày phương. Nêu chẳng chánh thì khiến người mất hưởng đó. Thầy chẳng chánh thì khiến người mất trí đó. Nghiêu làm thầy đối với hàng Quân Vương, Thuấn làm thầy đối với Vụ Thành Chiêu, Võ làm thầy đối với Tây vương Quốc, Thang làm thầy đối với Thành Tử Bá, Văn Vương làm thầy đối với thời Tử Tư, Võ Vương làm thầy đối với Quách Thúc, và Khổng Tử làm thầy đối với bảy mươi hai vị Hiền, Tử Hạ làm thầy Chư Hầu, Tử Tư làm thầy Mạnh Kha; Mạnh Tử, Tuân Khanh đều làm thầy đối với học trò họ. Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ khéo làm thầy đối với người mà đời sau những người nối dõi Đế Vương cúi xét đó. Khổng Tử, Tử Hạ, Tử Tư, khéo làm thầy người mà đời sau những người nối gót Thánh Hiền cúi xét đó vậy. Trong thiên hạ, giáo làm gốc đó vậy, giáo là Đạo làm chủ đó vậy. Đạo là thầy làm đầu mối đó vậy. Chánh đầu mối đó do vì làm Đạo vậy, chánh chủ đó do vì làm giáo vậy, chánh gốc đó do vì làm thiên hạ vậy. Cho nên, Quân tử thời xưa chẳng cẩu thả tôn trọng mà làm thầy người, chẳng cẩu thả theo mà làm thầy đối với người. Họ để tâm ở nơi thiên hạ vậy. Nay trong thiên hạ, giáo đó chưa thấu đáo, cũng chẳng là tội cẩu thả vì người làm thầy ấy ư? Cũng chẳng phải tội chẳng chọn lựa thầy đối với người ư?
Tôn quý thì chẳng gì tôn quý bằng Đạo, đẹp xinh thì chẳng gì đẹp xinh bằng Đức. Chỗ còn của đạo đức, tuy hàng thất phu chẳng cùng vậy, chỗ chẳng còn của đạo đức, tuy hàng Quân Vương trong thiên hạ chẳng thông vậy. Bá Di, Thúc Tề là kẻ đói khát xưa trước, nay đem người đó mà so sánh thì người vui. Kiệt Trụ U Lệ là kẻ chủ người thời xưa, nay đem người đó mà so sánh đó thì người oán vậy. Cho nên, bậc Đại nhân mắc hoạn đạo đức đó mà chẳng sung túc tự thân, chứ không mắc hoạn oai thế địa vị đó chẳng tại nơi chính mình.
Có người khách vì thấy tôi ở nơi hang cốc lặng lẽ không tạo dựng gì, nên hỏi rằng: "Ông sao im lặng, hẳn làm gì ư?"
Tôi đáp: "Không làm gì cả, tôi trị tâm tôi vậy".
Lại hỏi: "Toàn lý làm gì ư?"
Tôi đáp: "Toàn lý để chánh nhân Đạo. Phàm, tâm tức là Lý vậy. Vật cảm mới bắt chước, chẳng trị thì chìm mất lý mà làm vật; vật hơn lý thì người đó nguy vậy. Lý thấu đáo, tâm thấu đáo vậy, khí là kế tiếp vậy. Khí cậy tâm, tâm cậy khí, nên tâm động mà khí vì đó rảo theo. Nay kẻ dâm kẻ bạo mất lý mà mịt mờ chẳng trở lại là do chẳng trị lỗi quá của Tâm vậy".
Lại nói: "Tâm thì tôi biết đó, còn lý thì chưa thấu đạt, vậy lời nói của Tử Tư và lời nói của ông có đồng chăng?
Tôi đáp: "Đồng".
Lại hỏi: "Lời nói của Lão Tử cùng lời nói của ông có đồng chăng?"
Tôi đáp: "Vết lớn thì đồng mà cùng Thần cực Hóa thì khác". Lại hỏi: "Ông khác hai vị kia thì lấy gì làm chứng nghiệm ư?"
Tôi đáp: "Tôi chánh đó là ở nơi thuyết của thầy tôi là bậc Thánh nhân xưa trước vậy".
Lại hỏi: "Những chánh của ông, tôi muốn nghe có được chăng?"
Tôi đáp: "Điều đó chưa dễ nói vậy, chỗ chánh của tôi là thông biến của sanh tử, vượt có của trời đất, bày đó thì tục hẳn rất quái lạ mà cùng xỉa xói mắng nhiếc vậy. Nếu muốn cầu đó, ông nên tham tầm trong sách này do tôi làm vậy". Người khách ấy kính bái mà lui.
(Hết phần luận nguyên)
---------------------------
TẠP TRƯỚC
(Có 06 bài)
Chương Quân Biểu Dân vì làm quan mà đến ở Tiền Đường chưa bao lâu, đã nêu ra văn của Âu Dương Tu Vĩnh Thúc, Thái Quân, Mô Duẫn, Sư Lỗ, để chỉ bày cho kẻ học như tôi, và nói: "Ngày nay, các bậc sĩ ở bốn phương dùng cổ văn đem đến Kinh đô, mới mẻ lộ bày đầu sừng tranh cùng cao thấp với Tam Quân tử không thể tính kể. Xem văn đó lời lẽ của nhân nghĩa sáng rực như vậy".
Trước tiên tôi cùng Biểu Dân chúc mừng rằng: "Bản triều chúng ta từ lúc dùng văn trở lại, đâu có ai hưng thạnh như ngày nay vậy! Đó là do đức của Thánh Quân mà may mắn của thiên hạ vậy. Lùi lại mà suy nghĩ đó. Nguyên, làm của cổ văn do vì phát triển nhân nghĩa mà biện rõ chính giáo vậy. Ở thời Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, nhân nghĩa họ thấu đáo, chính giáo họ chánh. Khổng Tử dùng văn đó phấn phát mà phô bày, đời sau được pháp đó, nên người làm Vua và bề tôi có lễ, thì nước nhà chẳng loạn. Vừa lúc Chu Đạo suy, chư hầu mạnh bạo cùng khinh thường, trên dưới mất lý. Khổng Tử không có địa vị ở đương thời và không được hành sự, nên lấy đó dùng khen chê, chánh thưởng phạt. Nên đời say tuy có bề tôi gian, con hư sợ hãi mà không dám tạm làm. Đến thời Chiến Quốc, hợp theo thuyết của Liên Hành để lay động thiên hạ. Chỉ riêng Mạnh Kha, Tuân Huống dùng văn gìn giữ nhân nghĩa mà biện giải chính giáo. Đương thời tuy chẳng lắm khua động, mà người học kính ngưỡng, biết có chỗ hướng đến. Đến lúc nhà Hán mở vận, Giả Nghị, Đổng Trọng Thư, Tư Mã Thiên, Dương Hùng... cùng nhau dùng văn đó mà khởi xướng, mà thiên hạ hòa cùng hưởng ứng, nên Hán Đức do đó được lớn và đời đó do vậy mà lâu dài. Đến thời nhà Tùy, Vương Thông cũng dùng văn đó, kế tiếp là việc làm của Khổng Tử. Qua thời Tiền Đường, Vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650) lấy học trò đó phát triển mà thử nghiệm đó, nên thời Tiền Đường có được thiên hạ rất bình trị. Mà Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên lại dùng văn đó, theo mà mở rộng đó, nên Đạo của Thánh nhân càng tôn quý. Nay các Nho sĩ tranh nhau dùng văn đó phấn phát, thì thạnh đức hồng nghiệp của tổ tông triều đại nhà Tống chúng ta càng phô bày, nhân nghĩa của Thiên tử càng hiển trước, chính giáo của Triều đình càng biện rành. Nhưng mà Khanh sĩ Đại phu bên trong xem văn đó, biết sở dĩ tu nhân nghĩa mà phụng thượng, chánh chính giáo mà đợi trăm họ muôn nước. Trăm họ bên ngoài xem văn đó biết sở dĩ nghĩ nhớ nhân nghĩa mà phụ nước nhà. Nghe giáo lệnh, mà không dám chẳng theo. Bốn phương tám hướng xem văn đó vì tin đức nghiệp của Tổ tông ta, biết có thể lớn và có thể lâu dài vậy. Khiến họ trông nhìn mà sợ đó, và nói: "Nhà Tống có nhiều quân tử dùng văn đó để hành Đạo xưa. Lễ nhạc của Trung Quốc sắp tu sửa lớn, không thể không phục vậy!" Dịch nói: "Văn minh để chánh nhân văn vậy". Lại nói: "Xem nhân văn để hóa thành thiên hạ. Nhung Địch kia phản mạng hung ác ngầm ở biên bỉ, nay Triều đình đang thực hành chinh phạt để giết hạng bất đình đó, mà văn đó hưng thạnh ngùn ngụt đến như vậy. Đó cũng là dừng cản loạn lạc chẳng chuyên ở oai võ, làm sáng tỏ văn đức mà nghĩ nhớ đó vậy. Quân tử xem đó cho là hạ hóa thành Thiên hạ vậy, nên cùng Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ so sánh Đạo đức đó thay! Phàm, Linh của xã tắc lâu dài, lịch số chẳng cùng tận, tuy hưng thạnh đẹp xinh của thời nhà Hán nhà Đường mà sao đủ để sánh cùng đây!
Chương Biểu Dân mới đầu đến từ Kinh đô, cho rằng các hàng sĩ nhân đề cao văn của Âu Dương Vĩnh Thúc, tự nhiên đều mến mộ mà làm đó, được khách vui nghe. Trong khách có một vị vội nói: "Văn hưng phát thì thiên hạ bình trị vậy". Tiềm Tử tôi nói với khách rằng: "Văn của Âu Dương là ngôn văn, thiên hạ bình trị là do hưng phát của Nhân văn. Nhân văn nhờ ngôn văn mà phát huy, mà Ngôn văn cậy Nhân văn làm cội gốc. Nhân lễ nghĩa trí tín là Nhân văn vậy, chương cú văn tự là ngôn văn vậy. Văn chương được gốc thì chỗ phát xuất đó tự chánh, như Mạnh Tử nói: "Lấy chung quanh đó thì được nguyên đó". Văn của Âu Dương phần lớn ở gốc Nhân, Tín, Lễ Nghĩa. Các ông phải mến mộ cội gốc của Vĩnh Thúc khá vậy, sao vụn vặt mà phỏng chương cú thể thế mà thôi vậy? Cuối thời nhà Chu, đến thời Liệt Quốc, Doanh Tần đâu phải không có người khéo giỏi văn, mà Đạo của Thánh nhân phế mất. Bởi vì Nhân văn chẳng đủ xem vậy, bởi văn đó không ai làm gốc mới vậy. Khổng Tử không địa vị, Đạo đó chẳng hưng hành, bệnh đó chẳng đặng đừng. Học trò đem văn của Xuân thu và sáu kinh biên ghi đó để lại cho đời sau nên nói: "Ta muốn biên ghi đó, không lời chẳng như". Thấy ở hành sự đó sâu sắc rõ ràng vậy. Thánh nhân đâu riêng việc không văn ấy ư? Vua tôi, cha con, thầy trò, bè bạn, văn từ đó có gốc từ Nhân Nghĩa Lễ Tín ngùn ngụt mà thiên hạ chẳng bình trị, thì chưa từng có vậy. Dịch nói: "Quán sát nhân văn thì thiên hạ hóa thành". Há chẳng vậy ư? Khách ngồi nghe tôi nói đều ngạc nhiên, chẳng biện luận gì nữa.
Gặp năm nắng hạn, có khách bàn luận đến phỏng hỏi tôi rằng: "Nay là tháng năm, vậy là đã hơn bảy tháng chẳng có mưa, cương vực nước Ngô đất đỏ ngàn dặm, lúa mạ khô héo, nông phu hoang mang không biết phải làm sao. Trăm thứ lúa thóc nhảy vọt mắc mỏ gấp bội giá cả, đường sá lắm người đói khát nhìn nhau, người làm chính cầu đảo khắp núi sông, rúc rảo đó cần gấp như cứu nước lửa, mà mưa trọn chẳng đến. Dân chưa khỏi bàng hoàng như vậy, xin hỏi ông thì nên làm như thế nào?"
Khi ấy tôi trả lời rằng: "Đó là việc do các Quan nhân mưu tính, chẳng phải việc của kẻ quê mùa tôi vậy, nên tôi cũng chẳng biết nói với ông sao cả. Tôi thường nghe những người lớn nói, gặp những lúc nắng hạn như vậy, gọi đó là Hung niên (năm xấu). Người vì nước lo cho dân, không gì bằng mở kho lẫm để cứu đói khát đó, và sau đó chỉ bảo họ tiết kiệm nước non suối giếng, cẩn thận đê bờ, bảo các Quan lại cùng họ làm thủy đạo, dẫn dân cùng dốc sức ngăn chặn sông ngòi, trút đổ vào ao bờ để cấp tưới tẩm. Quán xét chợ đường, cân bằng vật giá. Nếu có kẻ nhân thừa cơ bắn lợi khinh dối người nghèo yếu thì dùng pháp luật để trách phạt đó. Khuyên người có thừa sang sẻ cho kẻ không đủ, ước hẹn người không đủ đến năm bình an hãy đáp đền, trạm đường không trọng đi lại để buôn bán thông thương, dân nhỏ buôn bán vặt vãnh dung thứ họ. Xét Hình ngục, làm sáng tỏ oan uổng của dân, như vậy thì cũng là một Đạo để cứu nắng hạn vậy".
Người ấy lại hỏi: "Cầu đảo Thần ở núi sông có nên đó ư?"
Xin nói: "Đối với Lễ cũng có vậy, nhưng có tai ương của bão lụt hạn hán, dịch bệnh, dùng doanh tạo thần ở núi sông. Cử pháp xưa để thuận tâm của dân vậy. Như lúc gió mưa đến, bão lụt hay hạn hán chẳng lấn áp quấy rối, chẳng phải do ở núi sông vậy".
Người ấy bỗng nhiên nói: "Tôi là kẻ quê kệch, chưa rõ biết nguyên do của bão lụt và hạn hán, ông lại nên vì tôi mà nói đó".
Tôi nói: "Cực Dương, đó gọi là Hạn hán". Hồng Phạm Cửu Trương nói: "Tiếm thường ráo sạch". Lại nói: "Vương tỉnh chỉ năm, Khanh Sĩ chỉ tháng, Sư duẫn chỉ ngày". Năm tháng ngày giờ chẳng đổi, trăm thứ lúa thóc dùng thành, lại dùng minh tuấn, dân dùng chương, nhà dùng bình khương. Năm tháng ngày giờ đã đổi, trăm thứ lúa thóc dùng chẳng thành, lại dùng mờ tối không minh tuấn, dân dùng nhỏ bé, nhà dùng chẳng an ninh. Thuyết giả nói: "Phàm Tiến ấy là nào quá lại sai vậy?" Nói sai của chính mình mà dân không giáo vậy. Dân không giáo thì tứ ý bạo hình, tứ ý bạo hình thì phạt không xác đáng, phạt không xác đáng thì dân oán đó. Cùng với chỗ cảm của Tứ ý bạo hình nên hạn hán thuận đó. Phàm năm tháng ngày giờ không đổi, trăm thứ của thóc dùng thành, lại dùng minh tuấn, dân dùng chương, nhà dùng bình khương vậy. Ấy là sao? Bởi Vương theo Vương Đạo mà chẳng mặc ý mừng giận, vọng gạt bỏ hay tấn cử Khanh sĩ Sư Duẫn. Khanh sĩ Sư Duẫn giữ khuyết chức không tiếm vọng để khinh thường Vương quyền. Như vậy thì việc nước tu, việc nước tu thì khí đó hòa hợp; khí hòa hợp nên trăm thứ lúa thóc thành mà Trị Đạo sáng tỏ vậy. Tuấn Lương được chỉ để hành Đạo đó. Đó là trên có Nhân nghĩa mà dưới không oán cừu, nên nước nhà an bình vậy. Phàm ngày tháng năm giờ đã đổi, trăm thứ lúa thóc dùng chẳng thành, lại dùng mờ tối không minh tuấn, dân dùng nhỏ bé, nhà dùng chẳng an ninh vậy. Tại sao? Bởi vua đoạt chức tôi, mà tôi mạo phạm chính vua vậy. Như vậy thì việc nước chẳng tu, việc nước chẳng tu thì dân chẳng hòa, dân chẳng hòa nên trăm thứ lúa thóc chẳng thành, mà Trị Đạo mờ tối vậy. Đạo của Tuấn Lương chẳng hiển bày. Đó là trên chẳng Nhân nghĩa, mà dưới dân thán oán, nên nước nhà chẳng an vậy. Nay Thiên tử là bậc Thánh minh, mà các bậc tuấn kiệt tại vị, chỗ gọi là Hình chính Lễ nhạc, đâu nghe quá sai vậy. Nhưng Triều đại nhà Tống chúng ta có thiên hạ, gà gáy chó sủa suốt khắp bốn biển, nó làm rộng lại xa vậy. Khác phương khác tục, chính giáo đâu thảy đều đến mà Hình phạt hay không sai lầm vậy. Chỉ có Hình chính, Lễ nhạc chánh thì gió mưa theo thời mà lại, nắng hạn bão lụt không do đâu gây nên. Ác dùng cầu đảo làm gì?" Người hỏi cho đó là phải, kính bái mà đi.
Mạnh Tử nói: "Bá Di hẹp hòi, Liễu Hạ Huệ bất cung, Quân tử chẳng như vậy". Lại nói: "Bá Di là
Thanh của Thánh, Liễu Hạ Huệ là Hòa của Thánh".
Lại nói: "Thánh nhân là thầy của trăm đời. Bá Di, Liễu Hạ Huệ là bậc đó vậy. Nên nghe phong của Bá Di, kẻ tham hóa liêm khiết, người hèn có lập chí. Nghe phong của Liễu Hạ Huệ, kẻ rít lận hóa rộng rãi, người bạc bẽo hóa đơn thuần". Mới đầu nói "Quân tử chẳng như vậy", ấy là ngôn từ của Mạnh Tử chống đó. Tiếp đến nói "Thanh và Hòa" ấy là ngôn từ ngợi khen đó. Và sau lại nói "Thánh nhân thầy của trăm đời", ấy là ngôn từ mến mộ đó vậy. Đã chống cự và văn ngợi khen mến mộ đó, người học phần nhiều bị lầm hoặc, có người lấy lời đó làm bất bình. Với tôi hẳn không như vậy. Nghĩa là lời nói của Mạnh Tử ý chỉ xa vời vậy. Phàm, Quân Tử cùng người cùng tương thích về nghĩa mà thôi vậy, nên họ đi hay ở không cố định không hẳn vậy. Như người đó mới đầu xấu ác mà một ngày nọ bỗng nhiên vì Đạo mà tìm cầu ta. Quân tử hẳn tiếp đó, tiếp đó được thành thật đó thì ở. Như ngươi đó mới đầu chẳng xấu ác mà một ngày nọ dùng vô Đạo theo ta, Quân tử hẳn thắng đó, thắng đó mà không được thì bỏ đó đi. Quân tử ở đó chẳng phải cẩu thả theo vậy, bởi nghĩa có thể theo vậy. Quân tử bỏ đó đi, chẳng phải cẩu thả vậy, vì nghĩa có thể đi vậy. Nên việc đi hay ở của Quân tử chẳng phải cẩu thả theo vậy, mà chuyên tại nghĩa đó vậy. Bá Di kia xấu hổ Triều lập người ác, xấu hổ nói cùng người ác, suy ác, ác ở tâm, chỉ nghĩ lập người cùng quê hương, áo mão đó chẳng chánh. Ngong ngóng mà bỏ đó đi như sắp vấy bẩn vậy. Vì chư hầu làm không thanh khiết, tuy có thiện, họ từ mạng mà chẳng nhận vậy, vì họ trọn làm không thanh khiết, quả nhiên không ở rồi. Còn Liễu Hạ Huệ kia là mày làm mày, ta làm ta, tuy cởi trần truồng bên cạnh ta, mày sao có thể vấy bẩn ta ư? Chỉ họ tự thị chẳng đoái hoài trị người. Hổn nhiên tạm cùng ở đó, quả nhiên không bỏ đi rồi. Liễu Hạ Huệ cùng người không tu chung ở nhà mà chẳng thể chánh đó, đã chẳng thể chánh đó, lại không thể bỏ đó đi. Đó là khinh thường người ấy vậy. Bá Di được người thiện từ mạng vì chí thành cùng cầu mà chẳng chịu sang sẻ thành thật đó. Đã chẳng thể giúp đỡ thành thật đó lại không thể ở đó. Đó là vất bỏ người ấy vậy. Vất bỏ người ấy là chẳng cùng người làm thiện vậy, khinh thường người ấy là cùng người vô lễ vậy. Cùng người vô lễ thì sao mà cung ư? Chẳng cùng người làm thiện, sao mà dung ư? Dùng Đạo của Quân tử mà kiểm xét đó, thì sự đi hay ở của hai người đó, cũng chẳng trái nghĩa mà thích nghi vậy. Mạnh Tử nói: "Quân tử chẳng do vậy". Như Bá Di mắt chẳng nhìn sắc xấu ác, tại không nghe tiếng xấu ác, chỗ giăng trải chính đó, họ chẳng nhẫn ở vậy, Thanh liêm tự thân, họ lại trị loạn mà chẳng biến đổi. Chẳng phải người được Thanh và Thánh nhân, sao có thể giữ đó? Như Liễu Hạ Huệ tiến tới mà chẳng ẩn Hiền hẳn vì Đạo đó bỏ sót mình ở ẩn mà không oán, họp cùng mà chẳng xót thương. Nếu chẳng phải Hòa của Thánh nhân, sao có thể nhẫn chịu ư? Mạnh Tử đang ở thời Chiến Quốc vô Đạo vậy, mà tôi gian, con hư trông nhìn khinh bỉ tứ ý làm; tham, hèn, rít lận, bạc bẽo tranh thế xung mạo lợi. Tuy chết chẳng đoái hoài, họ có tiết nghĩa. Mạnh Tử vì xấu hổ Đạo của Nghiêu Thuấn chẳng hành, nghĩ cùng phong Thanh liêm khoan hòa, kiêu kích thời đó, nên hẳn tôn trọng Bá Di và Liễu Hạ Huệ là thầy của trăm đời ấy vậy. Mới đầu nói là hẹp hòi và bất cung là biện bày họ chẳng vì nghĩa mà làm người, bởi muốn khiến người cẩn trọng sự đi hay ở, nên có ngôn từ chống cự đó vậy. Lại nói là "Thanh và Hòa" tức là phải rõ biết họ mỗi mỗi đều có một đức của Thánh nhân vậy. Muốn người biết Hiền là người đó, nên có ngôn từ ngợi khen đó vậy. Lại nói "Thánh nhân thầy của trăm đời" là có dùng để cảnh răn ở đời vậy, muốn người nghe phong đó mà tự hóa, nên có ngôn từ kính mộ đó vậy. Bá Di và Liễu Hạ Huệ đặc biệt riêng lập tự nhậm ấy vậy, chẳng đoái hoài dạy người, nên chỗ làm của họ cũng chẳng đoái hoài phải quấy của đời vậy. Mạnh Tử, người hành Đạo ấy, họ khuyên dạy người nên chỉ chỗ họ làm, phải thì lấy đó, quấy thì chánh đó, do đó sự việc của Bá Di và Liễu Hạ Huệ tuy được mất, mà cả hai còn ở sách họ vậy.
Mới đầu vua Thái Tông (Lý Thế Dân 627-650 thời tiền Đường) vào thăm Văn Tĩnh nơi tù ngục, sao âu lo gấp của thiên hạ vậy. (Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp 605-617 thời nhà Tùy, Lưu Văn Tĩnh bị cùng Lý Mật liên nhâm giam trong tù ngục, Thái Tông vào thăm, mới nói rằng: "Nay thăm khanh chẳng phải vì tình nhi nữ, mà cùng khanh mưu tính việc lớn vậy). Can gián Ban sư ở Hoắc Ấp, gào khóc vì cảm, đâu là hợp nghĩa của Trung Hiếu vậy (mới đầu Cao Tổ-Lý Uyên-618-627 khởi nghĩa sư ở Tây Hồ Trung Quốc. Tống Lão Sanh là tướng lãnh thời nhà Tùy chiếm cứ ở Hoắc Ấp để cự nghĩa sư. Qua thời gian lâu, lương thực hết, Cao Tổ bàn nghị trở về lại Thái Nguyên, Cao Tông muốn phải vào Hàn Dương, Cao Tổ không chấp thuận, tiếng gào khóc nghe trong màn trướng). Giết Kiến Thành, Nguyên Cát mưu hại Thái Tông, sự việc bị bại lộ, Thái Tông cho dẫn Uất Trì, Kính Đức,... cả thảy chín người vào cửa Huyền Võ, giết trước Điện Lâm Triều. Cùng Khả Hãn giết Bạch mã mà ước thề, sao tin hành đến Di Địch vậy. Thái Tông mới lên ngôi, Khả Hãn đánh chiếm Kinh Châu, thống lãnh trăm vạn binh lính đến trên cầu sông Vị thủy. Thái Tông riêng một mình lên khinh nhìn quân lính. Khả Hãn thấy kinh sợ mà xin hòa, nên giết Bạch Mã ước thề trên Tiện Kiều mà đi). Chống xiểm nịnh của Đức Di, sao cản trở người nịnh trong Thiên hạ. (Đầu niên hiệu chánh Quán (Trinh Quán?) Tấu Tần Vương phá trận lục khúc, phong Đức Di đối đáp rằng: "Bệ hạ dùng Thánh võ đánh dẹp loạn, Huyền cực tấu nhạc tượng đức định, văn dung lấy làm so sánh". Thái Tông bảo: "Trẫm hay dùng võ công để định thiên hạ, nhưng trọn dùng văn đức để thỏa văn trong bốn biển. Đạo danh của võ tùy theo thời đó, ông cho rằng văn dung chẳng như giẫm gắng, nói thế quá sai vậy). Đột Quyết đều loạn, vì họ không tội đối với ta, không nên nhân tiện mà đánh đó, sao là có lễ của thưởng phạt ư? (Đầu niên hiệu Chánh Quán, Đột Quyết các bộ phản đánh đó mà binh lính phản lại, quần thần xin nhân tiện ấy mà đánh đó. Thái Tông bảo: "Đâu có mới cùng đó họa, lại nhân nó loạn mà đánh diệt nó ư? Theo Bộ lạc hết phản, sáu vật đều chết, Trẫm trọn chẳng đánh, đợi lúc nào nó có tội hẳn sẽ bắt sau). Bàn nghị thường tha, sao thưởng phạt đó chánh ư? (Thái Tông bảo quần thần rằng: "Tha kẻ có tội mới chẳng khuôn phép cả bọn, xưa nói một năm lại tha, người tốt câm ngọng, nên Trẫm chẳng từ tha, ngõ hầu được bốn biển đều an thái vậy). Cùng Đỗ Yêm luận bàn về Nhạc, sao biết chính vậy? (Thái Tông mới bắt đầu tấu Tân nhạc, bảo cùng thị thần rằng: ":Làm của Lễ nhạc là Thánh nhân duyên vật. Vật mà thuyết giáo, dùng làm như theo lễ phép. Hưng suy của Trị, đều do ở đó". Ngự sử Đại phu Đỗ Yêm nói: "Đời trước còn mất từng do ở Nhạc, nên mất của nhà Trần là vì cây ngọc sau sân, mất của nhà Tề là vì bè bạn đi đường. Nghe đó không ai chẳng buồn khóc". Thái Tông bảo: "Không phải vậy. Phàm, Âm nhạc nó cảm tâm người, người vui nghe đó thì vui, người buồn nghe đó thì buồn. Nước sắp mất, tâm dân đó khổ, chỗ làm của khổ tâm, nghe nhạc thì buồn, đâu có tiếng nhạc khiến người vui mà buồn được ư? Nay cây Ngọc, bè bạn âm vang đó hiện còn, khiến ông tấu đó, ông thì chẳng buồn vậy). Cùng Khổng Dĩnh Đạt luận Tịch Điền, sao biết kinh vậy? (Đầu niên hiệu Chánh Quán, tịch điền, phương điền cấp, Thị trung Khổng Dĩnh Đạt nói: "Xét theo Lễ, Thiên tử ở Nam giao, chư hầu ở Đông giao. Tấn võ ở Đông nam, nay ở thành Đông là chẳng hợp Lễ xưa". Thái Tông bảo: "Lễ duyên tình người cũng nào có cố định. Ngô thư nói: "Bình trật Đông làm". Nay Trẫm hiện ở đất của Thiếu Dương, mộng ở Đông giao, bởi đó thích nghi vậy, cũng nào chẳng hợp với Lễ xưa ấy ư?). Bãi bỏ bàn nghị xây dựng lầu các, nào tiếc sức dân vậy? (Quần thần cho rằng, trong cung thấp ẩm, xin dựng xây một Các để ở. Thái Tông bảo: "Trẫm đức thẹn so với Hán Văn, đâu có thể quá nhọc sức dân vậy", trọn không chấp thuận). Gần đặt hình thố, sao thiên hạ đó có giáo vậy? Ở chẳng đóng cửa, đi chẳng mang theo lương thực, sao thiên hạ đó liêm chính lắm vậy! (mùa Đông năm Chánh Quán thứ tư, bỏ hình phạt bốn mươi chín người, gần đặt Hình thố, nhà ở ven ngoài, tối không đóng cửa, người đi đường chẳng mang theo lương thực). Người bị tội hình đáng thời hạn thảy đều đến, sao thiên hạ không khi phụ vậy! (mùa Đông năm Chánh Quán thứ bảy, tự thân Thái Tông xem ghi tử tù gần ba trăm chín mươi người, bèn ban lệnh mùa thu năm sau trở lại chịu hình phạt. Đến kỳ hạn các tù nhân đều nhóm lại, mà chiếu để nguyên đó). Nhân lời của Ngụy Trưng, sao cùng người làm Thiện vậy! (Thái Tông nhận lời can gián đấu tránh của Ngụy Trưng, thấy ở bản truyện có lắm nhiều). Từ xưa trước ngợi ca Võ, Thang, Văn, Võ, sở dĩ làm Võ Thang Văn Võ là chánh vì họ do Đạo của Nhân nghĩa mà làm Quân vương thiên hạ vậy. Đến đời sau lại dùng nhân nghĩa mà làm Vương giả như Võ Thang Văn Võ vậy.
Tôi đọc Đường thư thấy được sự việc của Thái Tông, như ghi thuật trên còn lắm nhiều, chẳng thể kể hết được. Nguyên chỗ kết quy đó đều hướng đến nhân nghĩa. Cốt yếu đó khác với Võ Thang là mất vậy. Những người bàn luận ở đương thời cho rằng, Thái Tông là người Đại đô, cùng loại như Hán Cao, thuần võ, đồng như Ngụy Võ. Phàm, Hán Cao ít văn đức, mà Ngụy Võ chẳng kịp Bá đạo, há có thể cùng Thái Tông phỏng luận ư? Tiếc thay! Muốn dùng Chu Lễ để trị mà bọn phòng ngụy chẳng thể tán thành đó. Nếu khiến Vương Thông chưa chết, nhà Đường được dùng đó (Thái Tông, Văn Trung Tử nói: "Nếu có dùng ta, thì ta lấy Chu Lễ để theo đó), thì bói năm bói đời, nào những ba trăm mười tám đời vậy. Mạnh Tử nói: "Năm trăm năm hẳn có Vương giả xuất hiện", thời gian đó hẳn có danh tiếng ở đời là việc làm của Thái Tông, thật là Vương giả vậy, mà chẳng chỉ Văn Trung Tử có thể ca ngợi vậy thay!
Tử Hác Tử sửa Dịch, Bình Sanh được Đại pháp của Thánh nhân làm Dịch, mới giải Dịch để tự phát pháp đó, cho rằng Thánh nhân sở dĩ làm Dịch là ở trị đạo, trị Đạo đạo ở vua tôi. Vua và bề tôi theo pháp Âm Dương để thành Hào, xếp Hào để thành Quẻ, lập Quẻ để thành Dịch. Cho nên, người cầu tìm trị đạo hẳn đọc xem ở Dịch, người cầu tìm Dịch tướng hẳn đọc xem ở Quẻ, người cầu tìm thể của Quẻ hẳn đọc xem ở Hào. Người cầu tìm Hào biến hẳn nguyên ở Âm Dương. Âm Dương ấy là gốc của làm Dịch, là Đại Phạm (khuôn phép lớn) của trị đạo. Âm Hào là đạo của bề tôi, Dương Hào là đạo của vua. Hào của Âm Dương thăng giáng được chỗ đó thì quẻ tốt, Hào của Âm Dương mất chỗ đó thì quẻ ấy xấu. Cho nên, Đạo của vua tôi chánh thì chính đó vậy, Đạo của vua tôi rối ren thì chính đó loạn vậy. Trị là tu Tam cương Ngũ thường vậy, nên Tam tài thuận vậy, muôn vật được toại vậy. Loạn thì luân thường muôn sự đều bại hoại vậy. Phàm, thiên hạ muốn đời trị loạn, khuôn phép thành thật ở Đạo, Dịch đó đầy đủ vậy.
Vừa ngưng bút mới ra sách đó, đem chỉ bày cùng Tiềm Tử tôi, muốn tôi loạn mà sáng tỏ đó. Tiềm Tử tôi xét thấy đó nói các điều có thứ tự, tuy lắm trăm mà không gì chẳng cùng pháp của Thánh nhân hợp đó. Nhấc lên vậy mà tự lập nghĩa, biệt bày tinh tế mà lại rất lớn, đại lược như loại của càn khôn đại súc tiểu súc quẻ. Tuy người khéo sửa dịch thời xưa trước cũng chẳng vượt quá đó vậy.
Tiềm tử tôi nhân nói với người đó rằng: "Sách của ông là phải vậy, nhưng mới đầu của Dịch, xuất phát từ Hà Đồ, chỗ thấy của Hà Đồ chỉ số của Âm Dương rất làm gốc đó vậy, mà pháp của vua tôi cùng với Thần vật đó hài hòa mà ra vậy. Tuy nhiên, công hiệu của tốt xấu trị loạn chưa hiển trước mới giúp vậy. Thánh nhân là vua thiên hạ mà phát đó, nên Bao Hy xuất hiện vậy, chỉ bày cùng Thần đạo vừa nhóm hội, toại Quẻ đó mà lại Hào đó, dùng pháp đó để làm vua thiên hạ. Nhưng pháp đó chẳng phải Thánh nhân làm, vua không thể bày đó. Thánh nhân chẳng phải dùng đó, chẳng thể vua đó. Nên Dịch cùng Thánh nhân mà cùng tu vậy. Khổng Tử là bậc Thánh nhân, tuy biết pháp đó mà không ở ngôi vị, than rằng chẳng được như Phục Hy hành Đạo đó. Ở thời ấy học trò viết văn mà lưu truyền đó vậy, nên nói: "Chim Phụng chẳng đến, Hà chẳng ra Đồ; tôi đã là như vậy". Nhưng truyền đó từ Khổng Tử đến Thương cù, lại qua chín đời, đến Dương Hà là người thời nhà Hán thì sở truyền đó bèn dứt tuyệt. Về sau, các Nho sĩ dùng, đã thấy mỗi mỗi tự làm nên chủ trương riêng, rối ren rong sính thuyết khác của họ, thầy trò tiếp nối cùng ưu thắng, chẳng lại giữ Đạo của Thánh nhân. Thật Đạo của Dịch bèn nhỏ bé, mà ông đang lúc Dịch đạo chi ly lộn lạo tràn lan khó xét, mới cứng rắn riêng suy khuôn phép của Thánh nhân giải sách đó để lại cho người học. Việc đó đối với Đạo của Thánh nhân cũng có sức lực vậy".
Tử Hác Tử lại nói với Tiềm Tử tôi rằng: "Tôi xét quả tạp, thuyết đó mới rườm rà lại nặng nhọc, gần như chẳng phải ý của Thánh nhân, đó bởi do người học đời sau bao quát các giả mà có lời ngợi ca đó vậy. Dự ở mười Dực cũng chẳng nhục ư? Tôi thường gọt bỏ đó, mới lìa phần tựa quẻ, làm đó thành hai thiên thượng hạ, mà để giúp ở mười Dực có thể được ư?"
Tiềm Tử Tôi nói: "Dương Tử Vân cho rằng, người học xét đó phải mà thôi vậy. Kính ngưỡng Thánh nhân mà biết nhỏ của các thuyết vậy.
Ông chẳng phải đó, quả thật mà bài bác lời khinh lờn Thánh nhân đó là thích nghi vậy, sao lại nghi ngờ đó ư?"
(Có sáu bài-Tiếp theo)
Trời đất đều ở công, muôn vật đều ở sanh, nhật nguyệt đều ở sáng, bốn mùa đều ở hành. Đạo của sanh sanh đồng, nhưng mà sở dĩ làm sanh sao một? Nghĩa là công chẳng khác, nghĩa là sanh chẳng khác, nghĩa là sáng không hai, nghĩa là hành chẳng riêng, khiến đều mặc nó tự nhiên mà ấy vậy. Như người vừa gặp hổ, lang, rắn, rồng thì các loài hổ, lang, rắn, rồng ấy lại nội tính hung dữ gầm gừ, nhưng sao tất cả đều ở chung dưới gầm trời ư? Nên nói: "Đạo cũng tự nhiên, chẳng phải Đạo cũng tự nhiên. Đạo cũng tự đắc, chẳng phải Đạo cũng tự đắc". Xưa kia, như Hoàng Đế, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Võ, Tây Bá, Hậu Tắc,
Khổng Tử, Tăng Sâm, Tử Lộ, Bá Di, Triển Cần, Kiệt Trụ, U lệ, Á lai, Đạo chích,... đó đều cũng chẳng sanh ư? Mà sở dĩ làm sanh sao thường ngang bằng ư? Ăn ngủ cùng người đồng, mà động tĩnh cùng người khác. Như chỗ gọi là buộc, lấy gì để rõ đó? Làm sanh của Hoàng Đế là tu đức, chấn động cả binh lính, thị năm khí, trồng tỉa năm thứ giống, vỗ về muôn dân mà an thiên hạ, qua đi mà lên mây trời. Làm sanh của Cao Tân là thuận nghĩa của trời, biết gấp của dân, nhân từ mà oai, ban huệ mà tin, sắc màu đó thạnh vượng, đức đó cao vợi, động đó là thời, phục đó là sĩ,, đã giữ nắm trong quyết mà biến khắp thiên hạ. Làm sanh của Đế Nghiêu là nhân từ đó như trời, biết đó như Thần, ở đó như mặt Nhật, trông nhìn đó tợ vầng mây, giàu mà chẳng kiêu, sang mà chẳng buông, bình ổn trăm họ, hiệp hòa muôn nước. Làm sanh của Đế Thuấn là cha ngu mẹ khờ mà chẳng mất Đạo con, vừa hai mươi tuổi mà hiếu hạnh vang danh, trọn đạp Đế vị mà minh đức đến thiên hạ. Làm sanh của Hạ Võ là đức đó chẳng trái, nhân đó có thể gần, gắng gỏi sâu xa mà làm kỷ cương, vì trị nạn Hồng thủy, nên công đến thiên hạ. Làm sanh của Tây Bá là dốc nhân kính lão, thương trẻ lễ dưới, cách chính hà ngược, đoạn tụng ngu nhuế, bẩm mạng Thiên minh, là Quân Vương muôn nước. Làm sanh của Khí Chậu Tắc, là thích nghi cùng đất mới làm thầy nông, thiên hạ được lợi đó vậy. Làm sanh của Khổng Khâu là tổ thuật Hiến chương văn võ của Nghiêu Thuấn, lễ nhạc do đó mà thành, nhân nghĩa do đó mà sáng. Làm sanh của Tăng Sâm là Hiếu đạo rực rỡ. Làm sanh của Tử Lộ là chí nghĩa tỏa sáng. Làm sanh của Bá Di là khơi khích Đại liêm. Làm sanh của Liễu Hạ Huệ là nghĩ nhớ chí Hòa. Làm sanh của Kiệt là chung hung đức tàn hại tổn thương trăm họ, riêng tự thân chẳng gìn giữ bèn phóng túng mà chết. Làm sanh của Trụ là chống cự can ngăn, trong sức điều quấy, ham mê rượu chè dâm nhạc, hèn với phụ nữ mà giết người không tội, đối với tự thân mang ách lửa chết rất mực xấu xa. Làm sanh của U Lệ là tiếp theo Kiệt Trụ. Làm sanh của Ác Lai là gian loạn vua tôi. Làm sanh của Đạo Chích là trông nhìn khinh bỉ, buông tuồng làm giặc.
Phàm, Đạo cũng tự nhiên, như Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn là nghĩa ấy vậy. Chẳng phải Đạo cũng tự nhiên, như Kiệt, Trụ, U, Lệ, là nghĩa ấy vậy. Đạo cũng tự đắc, như Tăng Sâm, Hứa Do, Bá Di, Liễu Hạ Huệ là nghĩa ấy vậy. Chẳng phải Đạo cũng tự đắc, như Ác Lai, Đạo chính là nghĩa ấy vậy. Dao và kiếm đồng bằng sắt cùng nghĩa là tự nhiên. Ở kiếm được bén nhọn, nước do đó giao tê, đất do đó đoạn hổ hủy, tung mà thử đó hì hì vậy, đó sao biết tánh của vàng hao hút như vậy ư? Cho nên, Thánh nhân nhậm ở Đạo của tự nhiên, chẳng nhậm sanh của tự nhiên, được ở chánh của tự nhiên, chẳng được ở tà của tự nhiên, nên tĩnh cùng trời đất hợp, động cùng cầm thú khác. Nhưng giận chẳng được công kích, nghèo hèn chẳng được dung, lìa các Hữu mà lập ở Diệu, nên Quân tử không thể không biết Đạo. Đạo ấy nghĩa là Đại Diệu vậy. Chí tịch mà thông các động, chí không mà hợp với vạn hữu. Thung dung ở tiếng mà người thông minh không thể dùng hết âm đó, sáng rỡ ở sắc mà người thông minh chẳng thể dùng sạch cảnh ấy, gọi đó là không thể được. Trọn trời đất mà chưa táng mất, gọi đó là có thể được. Cùng trời đất mà chưa có, có có ở không, không không ở có. Có không đều bỏ sót, mà trở lại với tướng trạng không thể, nên nói chẳng phải chí Thần của thiên hạ, ai có thể cùng đó ư? Do vì nắm cả trời đất, xoay chuyển nhật nguyệt. Trời đất nhật nguyệt tuy là lớn vậy, nhưng nào thường chẳng làm Dụng của Đạo ư? Vô danh là mới đầu của trời đất, Hữu danh là mẹ của muôn vật, nghĩa là đó vậy. Có người ở đó, chẳng phải nguyên ở đạo xỏa tóc đi cuồng. Nghĩa là ta tự nhiên vầng trời rối ren ở trong nhìn nghe, rong ruổi vật ngoài, đem giam giữ tánh ấy vậy, lại sao đến được ở sanh? Phàm, người có hai đại, đó là Tánh đại và Tình đại vậy. Tánh đại nên hay sanh thần muôn vật, Tình đại nên hay ngăn che tâm của Thánh nhân. Vàng cùng cây gỗ đồng cọ mài thì bốc cháy, cây gỗ chẳng hơn nên cháy vậy. Tình và Tánh cùng chế cảm thì loạn, tánh không hơn nên diệt mất vậy. Sao biết? Phàm, Tánh toàn, đông người chẳng làm Thánh ư? Tình toàn, Thánh chẳng làm đông người ư?
Hoặc có người nói, nhà sáng vách bít, cửa cao bảng vợi, đó là nơi hàng trưởng giả mến mộ hay đến, mà chim qua đó thì bay nhanh, thú qua đó thì chạy vội, Tiểu nhân qua đó thì đuổi theo gió mà đi. Nhưng mà chim thú sanh sống ở rừng chầm, Tiểu nhân thành từ xóm làng. Phần đó đã định mà tánh đó không thể biến đổi. Đó là ba loại cùng mà đi, chẳng như vậy ư?
Đến đây mới nói: Tánh toàn thì đông người có thể làm Thánh, tình toàn thì Thánh có thể làm đông người. Đó là chỗ chưa từng có ở đời vậy. Tiêu Dao nói: "Chẳng đợi Hoàng Đế mà luận Đại trí, tượng lớn gục ở côn trùng đục khoét; chẳng phải Bành Tổ mà nói Đại viên, Thung lớn gục bởi có Thuấn anh hẳn vậy". Phàm, so lường vì Mạnh Tân sao có thể dùng dùi? Nhìn mây trời sao có thể dùng ống trúc? Nhìn Đại Đạo sao có thể dùng hình hài. Nên Thần chiếu mà Tâm chẳng trệ là có thể cùng nói Đạo vậy. Phàm, ở con của Việt, Di, Khê sanh mà đồng tiếng, trưởng thành mà khác tục. Xưa kia, Thái giáp buông tuồng hung bạo chẳng có đạo pháp như Thang mà Y Duẫn dạy đó ba năm thì chuyển đổi thiện tu đức cuối cùng chầu chư Hầu. Ở thời nhà Chu, Tuyên Vương (Cơ Tĩnh 827-781 trước tây lịch) là con của Lệ Vương (Cơ Hồ 841-827 trước tây lịch), mà Chu Công mời Công Phụ đến tu chính nên hay khua động Di phong của Thành Khang. Tề Hoàn Công tham mê nhạc chẳng phải lễ, là do Quản Trọng làm bạn vậy. Nên có thể một chánh thiên hạ mà làm lớn Ngũ Bá, như dựng Dao đổi ngà vậy, nên cha con nghi kỵ, nước đó đại loạn. Tử Lộ kia là người hùng dõng, hơn ở Trọng Ni, nên hay đem Nghĩa xiển dương, khúc nhạc của Danh quỳ vậy, đánh đá vỗ đá mà trăm thú đều múa. Thuế khóa của Tồ Công, sáng ba chiều bốn mà chúng đông chết oán, bầu ba trống đàn mà cá bơi lội ra nghe. Bá Nha đánh đàn cầm mà sáu ngựa ngưỡng thức ăn. Thái Giáp, Tề Hoàn là người bên trong du phương, mắt thấy tai nghe chưa hẳn vượt ngoài sự vật. Tâm tình cùng đánh nhau lượn đi lượn lại chẳng dừng, một mai làm người chỗ hóa Lễ nghĩa hơn đó, còn có thể bỏ ngu hèn mà hầu mong ở Hiền giả. Họ như thế đó, cầm thú kia vậy, do tình người động vì muốn đuổi theo vật còn có thể cảm nhạc mà thuận dưỡng. Chín thứ ấy đâu khác sanh mà riêng ở tạo hóa ư? Sao phải Thủy đây mà chung kia, thú ở mà người theo, huống hồ là Đại thông ư? Huống hồ là Đại toàn ư? Mênh mang chỉ Thần, chết sống chẳng hóa ấy vậy. Lại nữa, sao người mà chẳng làm Thánh ư? Nên Tuân Khanh nói: "Thần chẳng lớn so với hóa đạo, Phước chẳng lớn ở không họa". Chỉ người đến nước khác hẳn biết đường. Người đi muôn dặm hẳn chứa hành trang. Đến mà chẳng biết đường của Hồ Việt, thì vùi mất thân chẳng thăm thấy nước khác. Đi mà chẳng nhấc động nửa bước chân thì trọn đời chẳng lìa cửa nước. Nên Quân tử mắc hoạn không biết lý chẳng mắc hoạn tên họ không đẹp, mắc loạn không hành. Đạo mà không mắc hoạn Tâm đó chẳng thần. Thường thử luận nói: "Thánh Ngu là Nghiêu Kiệt". Khí họ có khác mà Tánh họ thường một. Tánh chẳng phải khí mà chẳng phải có, khí chẳng phải Tánh mà chẳng sanh. Nên khí ấy là đợi ở tánh, tánh ấy là mượn ở khí, khí và tánh chưa từng trái nhau. Người xưa đã được mẹ họ đã biết con họ. Đã biết con họ lại giữ được mẹ họ, lấp vùi thân chẳng chết. Nên, phàm, tương giao của Âm Dương là sanh Ngũ hành. Tánh nhân Âm Dương mà gặp tương giao đó, nên làm Thánh nhân, làm Hiền nhân, làm Nhân nhân, làm Nghĩa nhân, làm Tiểu nhân, làm ngu nhân. Còn Lễ vận nói: "Người là đức của trời đất, là tương giao của Âm Dương, là tụ hội của Quỷ thần, là khí lành của Ngũ hành". Phàm, Thánh nhân là được toàn Âm Dương. Nhân nhân và Nghĩa nhân được ở một của Ngũ hành. Cầm thú lại được nhỏ nhiệm của nhỏ nhiệm ấy vậy. Phàm, tánh đó cùng với khí của lửa đó ở củi vậy. Tánh của lửa nó sáng rỡ chỉ một, đến lúc đốt ở cây cỏ thì ánh sáng đó chưa đồng vậy. Cho nên người đến với Đạo thời xưa chẳng vì tâm sai sứ khí, chẳng vì khí nhiễu loạn tâm. Tâm đó chẳng động, thì người chánh tánh mạng. Nên Lão Đam nói: "Quy căn gọi là Tĩnh, Tĩnh gọi là Phục mạng. Phục mạng thì Diệu quán ở sắc mà theo đến vậy". Chẳng phải không, chẳng phải không ấy là thường không có vậy. Chỉ sắc ấy là có tức chẳng phải Thường vậy. Biết sắc tuy vọng mà không, chưa từng làm không. Người lầm hoặc đều làm sắc mà cách ở không ấy vậy. Mà sắc ấy là cũng chẳng làm có thể giúp ở vạn vật rối ren khác mà đây sao chẳng đồng. Nhưng, tuy biết chưa kịp Thánh mà sở dĩ làm Thánh, lại sao khuyết đó? Nghĩa là, đó chẳng phải sắc, vức lớn của muôn vật. Nghĩa là đó chẳng phải không, Đại Tông của muôn vật. Do đó, Tam thừa đồng đều quán, tâm không mà vào Đạo. Được như vậy thì trải qua đại loạn mà chẳng quấy nhiễu, giẫm đến tai ách mà chẳng nguy ngập. Chẳng làm mà tự hóa, chẳng tháo mà tự chánh. Trời đất có mất mà đây chưa từng mắc hoạn đó có chung, Nhật Nguyệt có ngấm tắt, mà đây chưa từng mắc hoạn đó có cùng. Đó hoặc là Chân Đạo Tiêu Dao, chỗ hướng đến của các người đi vậy.
Tự Nhiên Tử, có đạo của Tây Sơn ấy vậy. Ở nơi nghiêng hẹp suốt ba mươi năm, giao du xen tạp với già nông già vườn mà chưa từng một ngày đem nói việc gặp vật. Khoảng đầu niên hiệu Khang Định (1040) thời Bắc Tống, Triều đình cầu Nho ở Thảo Trạch. Biết mình sắp đem Đạo dâng hiến Thiên tử, Tự Nhiên dẫn đi chẳng đoái hoài.
Tôi, đối với Tự Nhiên Tử có nguyên cớ vậy, nghe mà lầm hoặc đó, nghĩa là Tự Nhiên Tử là bậc Hiền, không nên chẳng thấy gặp, mong nghĩ vừa đang xa cách chẳng được cùng nói, nên dùng văn từ để dụ hiểu đó rằng: "Ông Tự Nhiên Tử đọc sách thâm cứu Đạo của Nghiêu Thuấn, đâu nên tự riêng tự đắc chí. Suy ở thiên hạ cùng người chung đó, chẳng đặng đừng ở núi rừng mà thôi. Xưa kia, Tăng Điểm, Nhan Uyên vui thích Đạo, trọn sống ẩn ước mà chẳng đổi thay. Kia vì thời mạng rất rối ren mà như vậy, còn nay thiên hạ một nước Vua là người có Đạo, thời của Tự Nhiên Tử hẳn khác vậy. Sao được so với hai vị kia đồng thời gian mà nói ư? Tôi thường nói: Đạo của người ẩn có ba, đó là Thiên ẩn, Danh ẩn và Hình ẩn. Hình ẩn ấy là giấu kín núp sâu một lần đi mà chẳng trở lại, chẳng phải chỗ ưa thích của người ngạo đời vậy. Như Trương Trở, Kiệt Nịch là hạng người ấy vậy. Danh ẩn là chẳng trông nhìn trị loạn cùng sự nổi chìm của thời cuộc, trốn lộc chu toàn sự sống là chỗ họ ưa thích, như Đông phương Man Thiến, Dương Tử Vân là hạng người ấy vậy. Thiên ẩn ấy là Tâm chẳng ngưng trệ bó buộc tuyệt ở sự không cố định không hẳn phải. Có thể hành tức hành, có thể dừng tức dừng, thông chỗ biến, đó là chỗ họ ưa thích, như Thái Công Vọng, Khổng Tử, Nhan Uyên là hạng người ấy vậy. Ông Tự Nhiên Tử, chỉ ở Khổng Tử mà chỗ giữ cùng như Trương Trở, Kiệt Nịch ấy vậy. Trương Trở, Kiệt Nịch kia là vạch vạch xén xén, riêng khéo tự dưỡng, chẳng có tâm âu lo thiên hạ, chưa đủ cùng vậy. Tự Nhiên Tử hẳn nên suy tư đó, cùng Đạo đó ở núi rừng sao như ở tại thiên hạ; cùng vui đó với khỉ vượn hươu nai sao như vui cùng vua tôi cha con? Chí đó xa mà tiết đó lại lớn, vì đó danh tiếng rực rỡ, đất trời soi chiếu muôn đời, cũng chẳng thạnh vậy thay! Tự Nhiên Tử tư duy đó, hành vậy không tạm dung cùng người biết nói, đâu vì tôi làm nói cuồng ư?
Đồ Long (giết mổ Rồng), xưa trước có Chu Bình Mạn vì học chỗ sai lầm mà cùng ở đương thời. Bình Mạn, không biết là người thế nào, tánh tình cứng mạnh, lấy sự cắt gà mổ trâu chẳng đủ để hết dõng nghị đó, nghĩ gởi khác thường đó giết (Đồ) đề vừa ở trí, nên hết ngàn vàng vốn học ở thầy, suốt ba năm học thành mà không chỗ dùng, nó khéo léo bướng bỉnh, ở đời không chỗ tin, đến cắt dê mổ chó là dương dương đi trước, mọi người nơi chợ giếng trông thấy thì chỉ và cười mà nói: "Ô hay! Bình Mạn đến vậy". Trải ngàn vạn năm có người nghe phong đó mà tự cảm, tạm làm thành bài văn để mở bày việc đó. Long (Rồng) là loài Tình linh thuần dương ở giếng trùng vẩy. Chẳng có định hình cậy thần mây khí mà biến hóa chẳng lường, nên đối với người đời hiếm được mà trông thấy. Kia (= Đồ) muốn tuyệt tinh quái ấy, dứt trừ hung bạo cho người ở sông biển, hết hình sống đó, sạch chủng loại ấy. Chẳng thể du nhận ở không liên can, trí cùng Thần gặp, mà Rồng có thể giết ư? Thường nghe, đất nước ở trong biển, người đó như vậy, nương gió cưỡi mặt nhật vào ra ngoài đất trời, đi lại không dấu vết. Kia là đồ nhấm thịt rồng là vốn chỗ cấp giúp, Đồ long đó là việc của người kia vậy. Nhưng việc của Đồ long ở xưa thì dùng ở nước đó. Còn nay (thời của Bình Mạn) hoặc mất, cơ hồ dứt vậy. Bình Mạn thân thế thì khác với người kia, mà làm Đồ Long đâu phải thích nghi đó ư? Nhưng Bình Mạn chẳng phải không biết đó chẳng phải mình nhậm ư? Bởi tánh cùng Đạo đó hợp mà hình tích ngoài quên, lại nào rảnh để tính dùng của thế tục chẳng dùng ư? Phàm, Long đó làm vật mà nó cũng là Thần vậy, làm thuật của Đồ là khó thể được của người. Bình Mạn ở đó thì cứng rắn làm thế, cùng lại chẳng dừng, đó là tánh của Bình Mạn vậy. Thần Võ Diệu được ở dõng của Thánh nhân ấy vậy. Than ôi! Đồ Long nghe đó ở xưa, nay đời nào mà không có một lần thấy ở tánh của Bình Mạn. Chỗ gọi là người Thánh Hiền là hay tận tánh của người, tận tánh của muôn vật. Thánh Hiền ấy còn chưa nghe khác tâm của Bình Mạn, mà chánh chỗ gởi đó, huống gì là tục của khư khư, họ có thể biết Bình Mạn ư? Đạo của Đồ Long chẳng làm cùng ư? Đau đáu giữa khoảng Lục hợp, xưa vậy lại nay, người đi họ có thể buồn, người lại họ có thể thương.
Năm mười chín tuổi, tôi sang hương Phong Ninh thuộc ấp của tôi, đến ở nhà của Diêu Đạo Cô. Đạo cô khác với phụ nữ vậy. Nhà đó tại Sơn Cân, lưu ở tạm vài ngày, bèn nghe nơi hông núi của nhà đó có âm thanh phát ra ở giữa khoảng bờ ao, thư thả như khua dộng chuông lớn, như thế vài tiếng. Mới đầu tôi lấy làm quái lạ, ngoái trông nhìn đó thì chẳng phải có chuông có thể phát ra tiếng. Khoảnh khắc sau, tôi đem hỏi Đạo Cô, Đạo Cô tỏ vẻ cung kính mà nói: "Lạ thay! Rồng ấy ngâm vậy. Người nghe đó là điềm lành lớn vậy. Ông về sau hẳn sẽ tốt lành!" Đạo Cô lúc còn trẻ con từng đến lấy nước trong khe, thân cảm nước bọt của Rồng, đến đêm người lễ, ánh sáng Rồng tỏa phát nơi phòng nhà, người con gái ấy bèn chết mất, chết mà sống lại, và chẳng còn vui thích ở nhà đó. Người trong làng cho đó là Thần, bèn vì dựng lập Tinh lô ở tại trong núi. Nhưng Diêu nữ từ nhỏ riêng giữ trai giới thanh khiết, mới đầu nghịch nói việc tốt xấu trong nhân gian, những việc đó đều có ứng nghiệm. Đến lúc tôi thấy gặp thì đã già, tuổi ngoài sáu mươi, khí lực và dáng mạo vẫn lãnh nhiên. Chẳng còn nói việc tốt xấu của người, chuyên mặc túi mũ áo vải ở trên lầu cao, chuyên trì tụng kinh Phật, tuy cả muôn lời mà mỗi một ngày đêm hẳn xong vài pho (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa). Vì tấm lòng từ thiện đó, nên người làng ấy tự nhiên cùng hóa. Tôi từng hỏi cô ấy nguyên do gì được trao kinh. Cô đáp: "Thuở mẹ thiếu thời từng có vị Thần Tăng nương giữa hư không mà đến dạy cho mẹ (Đạo Cô) vậy". Tôi tin chắc điều Đạo nói về Rồng ngâm là không dối vọng vậy. Tôi đọc xem sách xưa nói người như vậy có lắm nhiều, như Phòng Quan, Tiết Lệnh lúc nghèo hèn nương náu nơi núi rừng, đều nói là gặp nghe được Rồng ngâm, mà sau đó quả thật Phòng Quan làm Tể tướng, Tiết Lệnh làm đến Thái Tử thị độc. Tức điều nghe của họ đều có ứng nghiệm vậy. Than ôi! Tôi tuy chẳng bằng hai người đó, nhưng mà tuân theo Đạo để hành thôi, đâu phụ đối với Thánh Hiền. Mà rất cùng vì Hoằng pháp bị người ngu vu khống vùi dập, bèn bày xấu xa nói thiên hạ. Sao chỗ nghe đó chưa khác mà sự ứng nghiệm chẳng đồng ư? Điều Diêu thị nói đó đáng nghi ngờ vậy! Theo ý tôi, phàm, Rồng là biểu tượng của Quân Vương vậy, há nay thiên hạ đang bình trị hưng thạnh, tiếng tăm văn vật, vì gặp thời ấy được lấy mà ca đó. Đó là nghiệm ấy vậy. Nếu chẳng vậy thì Rồng thần cũng có hư vọng để nghe đó ư?
(Bởi thuở thiếu thời, Sư từng xưng mà sau đổi hiệu là Tịch Tử).
Tịch Tử là học Phật ấy vậy. Vì Đạo sở đắc đó là tịch tĩnh áo diệu (vắng lặng sâu mầu), nên bảo gọi là Tịch Tử. Tịch Tử đã nghiên cứu học ấy, lại vui tập theo Nho. Sách tập theo Nho có lắm nhiều mà vui làm văn từ, nên làm chỗ rõ của người học. Người học Phật cho rằng, Tịch Tử hẳn nhiều tâm ư? Chẳng thể chuyên thuần Đạo đó, sao vì đó mà ngự vậy. Người học Nho cho rằng, Tịch Tử chẳng phải người thật làm Phật mà chỉ xin gá vết trong Pháp nhà Phật.
Tịch Tử tôi trộm cho rằng, hai hạng người trên là không biết nên nói vậy, không thể không bảo cùng họ, nhân đó nói cùng hai người khách rằng: Vui thích Nho của tôi là bởi lấy đó đối với trung đạo của tôi có chỗ hợp mà làm đó vậy. Điều Nho gọi là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, cùng với nhà Phật tôi gọi là Từ bi, Bố thí, cung kính, không ngã mạn, Trí tuệ, không nói lời hư dối, lời thêu dệt. Họ làm tiêu mục tuy chẳng đồng, mà do vì họ lập thành thật tu hành đẹp đời dạy người đâu khác ấy ư? Làm tâm của Thánh nhân là muốn mọi người đều thiện, khiến họ đều thảy bỏ tội ác, tạm đồng có đem đạo đó khiến người làm thiện. Đâu nói kia tuy thiện chẳng phải do trong giáo nhà Phật tôi mà sở dĩ làm thiện, tôi chẳng thiện đó vậy. Như vậy thì đâu được gọi là Thánh nhân ư? Nên tôi vui thích Nho cũng muốn mờ mờ sáng chỉ của Thánh nhân mà cùng người làm thiện vậy. Lại nữa, nhà Phật tôi đó dùng muôn hạnh mà làm người vậy, nay những điều Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín của Nho há chẳng phải chỗ nhà Phật tôi thi hành muôn hạnh ấy ư? Vì tôi muôn hạnh lại làm sao ngủ ư? Lại nói với đó rằng: "Khách không vì tôi vui thích Nho mà nói là gá vết tích tạm dung trong Pháp nhà Phật vậy. Tịch Tử Tôi tuy không lớn quá người, há không thể làm việc giữ cửa đánh mõ gõ bảng để tạm dung thân đó ư? Cam nhận xuống tóc, nhẫn chịu sự mến thương, miệng chẳng dám thường ăn cả thứ máu huyết tanh nồng. Vì người phụng Phật thật vì giáo đó rộng lớn, Đạo đó sâu sắc, lấy đó để tu thân thì thanh tịnh trai giới, lấy đó để tu tâm thì chánh tĩnh không vọng, lấy đó mà suy ở người thì đổi bỏ ác làm thiện. Thiện là làm Thánh thật, vì đó đối với sống chết thủy chung thì thông ở Quỷ thần biến hóa. Tuy đói rách khô khan gá nơi cỏ rác mà chẳng nhẫn đổi dời chánh vì chỗ còn đó như vậy. Phàm, chợ giếng, tiểu nhân lấy trợ đạo cùng thầy, có một lời nói lợi chỗ làm đó, còn có thể trọn đời đổi đức của thầy đó. Tịch Tử tôi tuy hẹp hòi, sao chẳng Hiền so với bọn chợ giếng ư? Được Đạo của người mà kiêu hãnh, vì phụ giáo đó mà nô lệ đó, người chẳng nhẫn làm vậy. Tịch Tử Tôi làm đó ư? Ngửa trời cúi đất, tôi chẳng dám khinh đối với Thánh nhân vậy. Khách may không lấy đó vì nói vậy.
Hai người khách cùng đem giáo đó cùng biện luận. Tịch Tử tôi cũng theo mà dẫn dụ đó rằng: Khách không tranh cải vậy. Nho và Phật là giáo của Thánh nhân vậy. Chỗ xuất phát đó tuy chẳng đồng mà đồng kết quy ở trị đạo. Nho là Đại hữu vi của Thánh nhân ấy vậy, Phật là Đại Vô vi của Thánh nhân vậy. Hữu vi là để trị đời, vô vi là để trị tâm. Trị tâm là chẳng tiếp ở sự, chẳng tiếp ở sự thì chí của thiện thiện ác ác không thể được mà dùng vậy, Trị đời là thích nghi tiếp ở sự, thích nghi tiếp ở sự thì Lễ của thưởng thiện phạt ác không thể không cử vậy. Tâm đó đã trị thì gọi đó là tình tánh chân chánh. Tình tánh chân chánh thì cùng chỗ dẫn dắt của lễ nghĩa mà thấu đạt đó cũng chẳng hội hợp ư? Nho là muốn người nhân giáo để chánh sự sống đó, Phật là muốn người do giáo để chánh tâm đó (Hoặc nói muốn người chánh Tâm để hành giáo đó). Tâm ấy là suốt triệt Thần minh. Thần minh ấy là đời không được nghe thấy, nên nói Thần minh hẳn dụ lấy xuất thế. Nay kéo dẫn ở đời mà bàn nghị xuất thế đó, đó cũng không nghĩ quá lắm vậy. Nên người trị thế không phải Nho thì chẳng thể được, người trị xuất thế chẳng phải Phật thì không thể được.
Hai người khách lại cùng biện luận về ngọn của giáo ấy… Tịch Tử tôi lại vì dẫn dụ đó rằng: "Quân tử đối với sự cần nên đo lường gốc đó để tề ngọn đó, thì chí thường được mà lời nói chẳng mất vậy. Nay các vị mỗi tự chẳng rõ sở dĩ làm giáo đó mà biện luận chỗ phụng giáo đó. Tôi chưa thấy người đạt được đó vậy. Tạm biện luận ngọn đó, ai chẳng thể biện luận vậy?
Hai người khách tạm dừng. Nhưng Tịch Tử tôi cùng người giao du, chẳng tiếp thế họ, chẳng phụng hào phú họ, chẳng cần danh dự họ, chỉ muốn họ đạt đạo cùng mình hợp vậy. Như cùng đó thấy họ nói to lớn cùng rỉa rói nhau, chợt nhiên chẳng vui thích đó. Hoặc có người hỏi Tịch Tử tôi rằng: "Tợ như ông khéo ở Phật, bởi đề cao đạo của ông để chỉ bày ở đời vậy?" Tịch Tử tôi nói: Đạo tôi khó nói vậy, nói ở gần thì thường chẳng cùng cực, nói ở xa thì thường tự đắc. Còn ở người mà thông ở Thần đạt ở Thánh, trải qua sống chết biến hóa mà chẳng mất, chưa dễ mỗi một cùng người đời nói vậy. Người thành thật muốn cầu đó phải nên tham tầm ở nội thư do Tịch Tử tôi trứ thuật vậy.
Tịch Tử làm kẻ ẩn của giòng họ Hác, tánh giản đơn sạch sẽ, chẳng hẹp hòi giữ lễ hà khắc, nên bị người thế tục phỉ báng oán ghét, trọn đem ngạo dối mà gán cho đó. Mới đầu, Tịch Tử dùng thuyết của Lưu tục nên chẳng đủ để đoái hoài, tuy bọn thông mẫn khuôn phép đó cũng chưa từng kính phụng giáo. Đến lúc lớn, đạo nghiệp tạm tu, mà sự phỉ báng đó càng lắm, lại cùng khuôn pháp càng chuyên cần, Tịch Tử vỗ về than rằng: "Ở đất thật không có người biết được ta vậy?" Mới bị người khuôn phép cùng đó nói rằng: "Ở đời cho tôi là ngạo, há chẳng phải vì tôi riêng lập hạnh một mình chẳng cùng đời xen tạp đó ư? Lại đâu phải vì tôi không thể lời ngọt dáng mềm mà cùng đời thuận theo cúi ngưỡng ư?" Người khuôn phép nói: "Chẳng ra là phải vậy". Tịch Tử nói: "Nói Đạo đức lễ nhạc, cốt yếu là ở thành thật, chẳng phải ngay trong sức dung mạo mà chuyên việc cúi ngưỡng nói năng vậy. Tôi ghét người theo Lễ ở trong thế tục, chỉ dáng mạo cung kính mà thân thì gắng gỏi. Xét thành thật đó thì trong muôn phần chẳng được một. Bên trong thì tự khi dối mình, bên ngoài thật khinh ngạo người. Nên tôi đối với người muốn họ thành thật tin, chẳng chuyên ở dung mạo nói năng cúi ngưỡng vậy. Chỗ gọi là người thì ai chẳng thể dùng thành thật tin để tiếp đó. Thành thật tin đó thông, tuy dung mạo vái nhường cũng chẳng là ngọn ư? Xưa kia, Nghiêm Tử Lăng đến Hán mà nằm, thấy Hồng Lô đến Đường mà chẳng bái. Chánh có nghĩa là dùng thành thật tin để đãi thiên hạ vậy. Ông cho rằng hai người kia họ chẳng phải là phải ư? Hẳn lấy làm ngạo thì tôi đây không như họ. Tại sao? Tục ngày nay cho đó là cung kính mà chẳng hỏi Nhân hay nghĩa hay bất nghĩa. Chỗ có quyền lợi thì chiếu cỏ cũng gắng gỏi, rong chạy đến dưới đó cam chịu sai khiến thân mà chẳng hết. Còn khi quyền và lợi chẳng còn, thì tuy Hiền và nghĩa cùng ngồi thì hẳn ngôn láo, cùng nhìn thì hẳn trừng trợn, bày dẫy kiêu khí lấn lướt người. Thư nói: "Ngạo Lang minh đức chánh" là nghĩa của đó vậy. Than ôi! Chỗ làm của thế tục như thế, chỉ chẳng tự dẫn lỗi quá của họ, mà trái lại gièm pha ta, cũng như phủ bụi đó mà cười chẳng sạch. Ông đi đi vậy, không cải đổi khuôn phép tôi".
(Hết phần Tạp trước)
--------------------------------
Ngày, tháng, năm.
Thần là Sa-môn Khế Tung, ở Lan-nhã Vĩnh An tại Linh Ẩn, Hàn Châu kính cẩn mê muội liều chết kính dâng thư lên Hoàng đế Bệ hạ.
Thần nghe, cùng mà chẳng quên Đạo học đó là Hiền vậy, mất mà chẳng quên nghĩa chí sĩ đó là Đức vậy. Ở đây có người tuy chẳng phải Hiền Đức mà chưa từng quên Đạo nghĩa ấy vậy. Nay muốn nghiên cứu tận tường nhỏ nhiệm nơi pháp của Thánh nhân, ấy mới gọi là chẳng quên Đạo vậy. Nay lo âu khuyết mất chánh trị của Bệ hạ (Hoàng Đế Nhân Tông tức Triệu Trinh. 1023-1064 thời Bắc Tống) tức là chẳng quên nghĩa vậy. Thần là người đó vậy. Thần thường vì thấy xưa nay văn hưng phát, các nhà Nho dùng văn để bài bác Phật, mà Phật đạo xâm suy. Thiên hạ, người làm thiện đó lầm hoặc, nhưng đây vì liên quan với chính hóa của Bệ hạ, chẳng ra sức cứu thì Đạo và giáo hóa đó mất. Nên ở trong núi, thần thường trộm viết sách để khuyên nhũ đời. Tuy nhiên cũng mong truyền tấu đến nơi Đan trì của Bệ hạ, mà nhỏ nhiệm thành thật, không đủ khả năng trên cảm, thường sợ già chết nơi hang hốc cùng chí ý đó trái nhau. Nay chẳng lánh phạt trách chết mất, lại ôm thư đó tìm đến dưới cốc, thành thật mong muốn Bệ hạ xét đó toan tính ở Đạo chẳng nghĩ gì thân, vì pháp chẳng vì danh, mở sách đó mà xem sơ, tuy có phải chịu nép cúi dưới búa dùi cũng không chỗ hối hận vậy. Nếu nay các nhà văn đều nói hẳn bài bác Phật, nên ở đời chẳng dùng, mà chỉ mỗi tôn quý đạo của Quân Vương, kính mộ chính của Tam đại, đó đâu biết đạo của Phật cùng với Vương đạo hợp vậy. Phàm, Vương đạo là Hoàng Cực, Hoàng Cực có nghĩa là Trung đạo. Mà Đạo của Phật cũng nói Trung đạo, đó đâu chẳng vậy ư? Nhưng mà vừa Trung cùng chánh chẳng thiên lệch, chẳng tà, tuy đại khái cùng Nho đồng, và đó suy vật lý mà cùng thần cực diệu thì cùng đời muôn tướng vậy. Nên pháp đó gọi là: Tùy dục, tùy nghi, tùy đối trị, tùy Đệ nhất nghĩa. Đó, họ dạy người thực hành điểm gọi là Trung đạo. Như Tùy dục thì hãy chớ nói luận bàn. Còn điểm họ gọi là Tùy nghi là bởi nói phàm việc gì thì hẳn tùy thích nghi đó mà thích nghi vậy. Điểm họ gọi là Tùy đó đối trị, bởi nói với thiện thì thiện trị đó, với ác thì ác trị đó. Hai điều đó cùng pháp của Đại Vương dùng mừng thưởng để tiến thiện, dùng hình phạt để răn trừng ác, đâu xa nhau ư? Chỉ tâm Phật là Đại công, còn Đạo của thiên hạ là thiện mà thôi vậy. Chẳng hẳn đã ra là tốt đó, chẳng hẳn đã ra là xấu đó. Nhưng Thánh nhân hẳn là Thần mà làm đó, mà Nhị Đế Tam Hoàng vọng về biết đó chẳng phải là biến của Phật ư? Phật chẳng phải là gốc của Nhị Đế Tam Hoàng ư? Thi nói: "Thần đó cách tư, chẳng thể độ tư, cũng có thể xạ tư". Đó bởi nói chế có nghĩa không thể lường của Thần vậy. Tạm dùng chỗ thích nghi đó mà thích nghi đó vậy. Bệ hạ là Bậc chân chủ Đế Vương vậy, thích nghi thiện với Đạo của Đế Vương vậy. Nay Bệ hạ chuyên chí Thánh đoạn, cùng khắp Hoàng Cực mà đến với thiên hạ, nhậm Hiền và Tài, chính sự lớn nhỏ hẳn được chỗ đó. Hiệu lệnh chẳng mất tin đó, chế độ văn vật chẳng mất thích nghi đó, với người đáng thưởng thì thưởng đó, với kẻ đáng phạt thì phạt đó, khiến Bệ hạ sử dụng đạo đức của Nghiêu Thuấn càng sáng càng phấn phát, thì Đạo của nhà Phật quả nhiên ở nơi thị thể của Bệ hạ vậy. Kinh nói: "Dùng ngữ ngôn trị thế, giúp sống các nghề nghiệp... đều thuận chánh pháp". Đó là nghĩa đây vậy. Lấy đó mà suy thể xa của Thánh nhân, chẳng chỉ luận ở vết tích gần đó vậy. Nhưng thể xa là người phần nhiều không thấy, vết tích gần là chưa tăng phần nhiều buộc chấp, chỉ Bệ hạ là bậc Thánh nhân, xa gần thảy đều quán sát. Mong Bệ hạ phát mở thể xa đó, khiến các nhà Nho được biết đó, dẫn dụ vết tích gần đó, khiến chư tăng thông suốt. Phàm vết tích là thuộc về giáo, mà thể là thuộc về Đạo. Chẳng Phải Đạo thì giáo ấy không có gốc, chẳng có giáo thì Đạo ấy không hiển bày. Nên giáo và Đạo cùng cần vậy.
Xưa trước, vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) thời tiền Đường, muốn kính mộ đạo đó mà không phụng giáo đó, đó chẳng phải là biết đạo vậy. Vua Ý Tông (Lý Thôi 860-874) thời tiền Đường đắm mê giáo đó mà không tỏ rõ đạo đó, đó cũng là chẳng phải biết giáo vậy. Vua Võ Tông (Lý Viêm 841-847) thời tiền Đường, khinh miệt Phật, bởi không biết Đạo và giáo ấy vậy. Thần trộm thấy Bệ hạ tán tụng văn Phật thừa, Bệ hạ đáng gọi là bậc Đại minh. Phàm giáo đạo của nhà Phật như vậy, mà người học mới có không hiểu, Bệ hạ đánh thức như vậy, sao họ chưa nghĩ đó vậy? Hồng Phạm nói: "Nhóm hội đó có cực, kết quy đó có cực, gồm tất cả gọi đó là Hoàng kiến". Đó là ý của có cực, rõ ràng Vương Đạo chỉ lấy đại trung làm chuẩn, hẳn không bè đảng, không lệch không phản không trắc. Đó hội họp đó có Trung đạo là đồng kết quy Trung đạo đó vậy. Pháp của Xuân Thu tôn quý Trung Quốc mà khinh thường Di địch. Thời đó, chư hầu tuy Trung Quốc hoặc mất nghĩa ấy cũng là Di địch đó, còn tuy Di địch mà tạm được nghĩa ấy, cũng là Trung Quốc đó vậy. Đó cũng là Khổng Tử dùng Đạo của Đại trung đó vậy. Nên Truyện nói: "Quân tử đối với thiên hạ là không vừa không chớ vậy". Nghĩa đó cùng so sánh thì đồng nghĩa lý vậy. Thánh nhân chỉ dùng vừa lý làm thích đáng, đâu chẳng vậy ư? Mà người học sao chẳng xét ý chỉ của Hồng Phạm và Xuân Thu trước lời của Trọng Ni dùng làm nghị luận? Sao họ lấy bỏ cùng pháp của Thánh nhân cùng là pháp nhà Chu, mà nhọc muốn cẩu thả cho Tam Đại không Phật ư? Phàm, ở thời Tam Đại, dân đó mới đầu thích nghi một giáo trị đó, nên riêng dùng một giáo ấy vậy. Sau thời Tam Đại, dân đó thì một giáo không thể trị nổi. Hoặc nói: Thiên đạo lại dùng Phật giáo cùng mà chung trị đó ư? Phàm, thiên hạ đó không thể khinh, chẳng gì quá so với ngằn mé của trời người vậy. Nay muốn rõ đó, không gì bằng đem thiên hạ mà nghiệm đó. Phật giáo truyền đến Hoa Hạ đã cả ngàn năm, nêu cử Pháp đó hẳn trời đất quỷ thần thuận đó, người dân theo đó, sâu cảm mà lớn hóa là càng lắm nhiều vậy. Việc đó, chỗ thấy nghe xưa nay đều có thể dùng từ đối đáp mà trù tính vậy. Phàm, chỗ gọi là giáo đều là Thánh nhân xưa thuận Thiên thời, hợp lòng người dân, tùy chỗ thích nghi mà làm đó để cứu đời bình trị ấy vậy. Nhưng tâm của Thánh nhân thích nghi với tâm trời tương đồng, chỉ tại toại người chứ chẳng vì vùi dập ác mà thôi vậy. Đâu hạn cục giáo ấy ở một hay hai ư? Thư đâu chẳng nói: "Làm thiện vốn chẳng đồng, mà đồng kết quy ở trị đạo vậy". Nay người bàn luận chẳng tham tìm sâu xa nguyên do của giáo đó, lần lượt thấy học trò họ chẳng mọi việc ở nhà, trốn thoát ra ngoài hình hài, chẳng tự ăn mặc, lấy làm dôi la cách xa thế tục mà đay nghiến sâu xa gièm pha đó. Nhọc ghét đen sạm cho là bệnh hoạn mà không thấy bệnh hoạn mạch đó sâu vậy. Đen sạm chẳng qua là biến đổi da dẻ đó vậy, còn bệnh hoạn ở mạch đến sâu thì dứt tuyệt tánh mạng con người ấy vậy. Nay Thánh nhân dẫn dắt họ, gọt đẳng tình ái phó mặc thân ngoài đời, muốn họ đến gốc của toàn tánh mạng, để trị bệnh lớn của sanh tử, ấy gọi là Trị xuất thế đó vậy. Như Lão Tử nói: "Sở dĩ tôi có hoạn nạn lớn bởi vì tôi có thân, đến lúc tôi không còn thân thì tôi nào có hoạn nạn gì ư?" Người nay chẳng lui chút khả năng đó cùng thiên hạ trị liệu bệnh lớn đó, mới liền so sánh thế giáo mà gièm pha, đó cũng là chỗ thấy chưa thấu đạt vậy. Tóm lại, thường nghe rằng, phàm việc tạo hình thì dễ thấy, còn ở lý thì khó thấy, bởi hình đó là sáng rỡ mà lý đó sâu mầu vậy. Nếu nay Phật giáo mở rộng lợi ích, việc của thiên hạ lắm nhiều, chỉ họ làm lý sâu mầu mà người học ít thể thấy đó. Thần tuy chẳng đủ cùng biết, nay thử suy đại khái đó vậy, ngay thẳng tấu dâng Bệ hạ, mong Bệ hạ rũ lòng đó để dẫn dụ người học trong thiên hạ, thì đó là may lớn của sanh tử vậy.
Thần nghe, Phật pháp cốt yếu là ở người chánh tâm, tâm họ quả thật chánh, thì họ làm giáo thấu đáo, làm đức thạnh vậy. Bởi điều họ nói, tình tánh biện rành, chân vọng đều đã xét vậy. Nếu nay Bệ hạ dùng Thái hòa để dưỡng nuôi thành thật, dùng Nhân, Ân, Lễ, Nghĩa mà thương nhớ thiên hạ, tuy thạnh mỹ đó đã có công hiệu, tạm dùng Phật pháp để chánh tâm thì họ làm đạo đức càng sung càng tốt vậy. Kinh nói: "Diệu tịnh minh tâm, tánh nhất thiết tâm" là nghĩa của đây vậy. Xưa trước, trong thời Tiền Đường, vua Huyền Tông (Lý Long Cơ 712-756), mới đầu dẫn học trò của Phật giáo và Lão giáo thực hành vô vi kiến tánh, bèn tự thanh tịnh theo việc ở huân tu, nên trong suốt thời gian niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thiên hạ đại trị ba mươi năm liền, chứa nhóm mỹ phong của Trinh Quán (tức vua Thái Tông-Lý Thế Dân 627-650 thời Tiền Đường) mà Thiên tử thọ bảy mươi tám tuổi, hưởng vận nước suốt bốn mươi lăm (712756). Đó bình thường biết, nếu chẳng phải nhân Phật pháp hỗ trợ đạo đức thì đó được như vậy ư? Vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, chuyên tu trai giới nghiêm khiết hơn cả Cao tăng, cũng hưởng vận nước năm mươi năm, mà Giang Biểu, Tiểu Khang có tuổi thọ đặc biệt vượt ngoài trường thọ, đó cũng là ứng nghiệm do Phật Pháp hỗ trợ trị vì vậy. Khiến ở thời Tiền Đường chẳng tràn tình, thời Nam Lương chẳng quá kém. Biết người nhận người, họ làm đạo đức rất cẩn trọng từ đầu đến cuối, há chẳng tận thiện tận mỹ ư? Nhưng đây vốn chỗ Bệ hạ lưu ý, đó ngầm giúp Duệ thánh của Bệ hạ ấy vậy. Đó là Bệ hạ tự biết mà tự chứng đắc vậy, đâu mượn lời của Sô nghiêu? Nhưng đâu hẳn trình bày đó..., bởi muốn mong Bệ hạ ban chiếu để chỉ bày người học, khiến họ biết được Pháp của Phật có lợi ích đối với đạo đức của Đế Vương như thế đó.
Thần lại nghe: Pháp của Phật lấy dấy thiện dứt ác làm đầu mối lớn đó, đây lại là rất ích lợi ở sự giáo hóa của Bệ hạ ấy vậy. Xin thử kiểm hiệu đó, như nay trong thiên hạ nước nhà, ở Châu đặt trường lớp, ở Ấp mở trường học để phát khởi giáo hóa ấy vậy. Thuyết của Thi, Thư, Lễ, Nghĩa do dân hành tập, muốn họ làm thiện ngày càng nhiều, và mong họ gian ác không nảy mầm nơi tâm, Quan tướng lại giúp đỡ tuyên dương chính hóa. Dù là văn Nho của thời Tam Đại, Nhị Hán có xương thạnh, mà xướng của Văn Nho thạnh tuy ở Tam Đại cũng không lấy làm hơn đó vậy, nhưng mà làng xóm hương ấp, nhà mọi người còn có vậy. Chưa từng nghe âm của Thi thư, miệng chẳng nói từ của Lễ nhạc, như thế đó nào hạn cục gì? Bởi lại tập nghe Phật dạy làm thiện khiến được phước, làm ác khiến mắc tội. Tội thì thông cả Quỷ thần, phước thì thông cả sanh tử. Với người đó, phía dưới các hàng Ngu nam nữ phu phụ, phía trên đến các vị có luân thường Hiền triết, ít ai chẳng dùng đó mà cùng hóa. Khắc kỷ trai giới, lại phóng sống mà chấm dứt giết hại, hoặc theo ngày tháng năm, hoặc tu trọn thân đó, xưng trọng kinh Phật, thiên hạ trong bốn biển, ngõ hầu khắp cả xóm làng được khoan dung vậy. Nhưng trong khoảng đó, đổi tâm cải hạnh, làm nhân, làm từ, làm hiếu, làm liêm, làm cung làm thuận, làm chân, làm thật, ý đó cũng không thiếu vậy, đó là chỗ xưa nay tai mắt thường tiếp vậy. Quả như từ nhà đến phòng mà tiếp làm việc đó như vậy sợ chẳng những cả nửa thiên hạ vậy. Tuy đầu mối của họ rảo tập cùng với Nho gia chẳng đồng, nhưng đến nơi vào thiện thành trị thì cùng với sự đặt để của Thi Thư Lễ Nghĩa đâu khác gì ư? Chỗ gọi là rất lợi ích với giáo hóa của Bệ hạ là đó vậy. Đường Thư nói: "Tuy giáo của họ khác phương nhưng không tổn lý nguyên", là nghĩa của đây vậy.
Lại nghe pháp của nhà Phật dùng Năm giới Mười thiện làm giáo để dắt thế tục. Nghĩa là, tu tập Năm giới là chỗ để thành người, tu tập Mười thiện do đó sanh lên trời, hai đầu mối ấy chẳng trị đó mà buông phóng tâm ư? Mười ác là chẳng chỉ không đến nơi trời người mà sau lại chìm đắm thần đó đến nơi phụ trái vậy. Nay người trong thiên hạ dùng Năm giới Mười thiện để tự tu hẳn đã lắm nhiều, phần lớn theo thiện thì không ác, không ác thì chẳng phiền hình phạt. Nay do giới thiện mà chẳng phiền Hình pháp của Bệ hạ, trong thiên hạ đâu nói là không ích lợi vậy, bởi không căn cứ mà tự rõ thấy vậy. Và trong thiên hạ, ở các Quận ấp luật hình đó có lúc mà giảm bớt, ngục tù đó có lúc mà trống không, bình thường biết đó chẳng phải nhân Âm trợ mà ấy vậy. Ở thời Tiền Tống, Hà Thượng Chi nói với vua rằng: "Người hay thực hành một việc thiện thì bỏ một việc ác, bỏ một việc ác thì dứt một tội hình. Một tội hình chấm dứt ở một nhà thì muôn tội hình chấm dứt ở một nước, thì lời nói của Bệ hạ là ngồi yên đợi đến Thái bình, phải vậy". Nhưng Phật Pháp hay cùng Bệ hạ giảm bớt Hình ngục đó", lại như thế vậy.
Ước lại nghe: "Phật là bậc Thần linh duệ trí, xưa trước gọi là người rất chẳng thể lường vậy. Sanh tử biến hóa vẫn tự nhiên, mà chết sống chẳng thể biến hóa, bởi đạo vô sắc của họ là Đại Diệu, Diệu đến cả trời đất quỷ thần, mà trời đất quỷ thần vui mừng đó. Họ làm Thánh nhân vậy, cũng khác với chỗ gọi là Thánh nhân ở đời vậy". Phạm Hoa Tây Vức luận nói: "Chỗ giáng tập của Linh Thánh, nơi nổi sanh của Hiền ý". Bùi Hưu cũng nói: "Biết Phật làm Đại Thánh nhân, giáo đó có việc chẳng thể nghĩ bàn". Đó là hai người ấy mới đầu biết Phật sở dĩ làm Thánh nhân vậy. Nên họ làm Pháp làm lời mới có thể cảm trời đất mà nghĩ nhớ quỷ thần u minh. Cần yếu Pháp đó, khâm chuộng lời đó mà người xưa thường phát ở Đồng bóng bói quẻ cầu đảo, tiếp xúc ở mộng mỵ hẳn cũng lắm nhiều. Sông biển sóng cả nỗi cuộn, thuyền đó muốn chìm, người đó muốn đắm, kịp lúc chí thành vào kinh của Phật thì sóng yên nước lắng, dân được khỏi hại. Dân muốn nắng tạnh, nếu dùng Pháp đó mà khẩn cầu, ít việc gì không công hiệu nhưng đó chỉ là Phong dư Pháp thừa cho thiên hạ làm phước làm lành mà như vậy. Đây là chỗ thường tiếp xúc của tai mắt con người vậy, cùng với Bệ hạ cầu trời đất, tế Xã tắc, khấn nơi trăm thần mà cùng dân làm phước, đâu có gì khác ư? Tế Pháp nói: "Thí Pháp đến dân thì tế đó, hay ngăn tai ương lớn hay trừ hoạn nạn lớn thì tế đó". Như nay Phật Pháp trên thì kín giúp đạo đức của Thiên tử, tiếp đến thì cùng thiên hạ hỗ trợ giáo hóa, tiếp theo nữa thì giảm bớt Hình ngục. Lại tiếp theo nữa là cùng thiên hạ tạo phước dứt họa. Dùng pháp của Tiên Vương mà quyết đoán đó là đáng bài xích hay đáng phụng sự? Nhưng các Nho gia cho rằng, Phật giáo và Đạo giáo là dị đoan, ghét họ xen tạp Nho thuật để phòng ngại đạo hạnh của Thánh nhân mới đem so sánh với tục pháp của Dương Mặc mà bài bác đó. Đó cũng là sai lầm của Quân tử vậy. Mà Phật, Lão cùng với Khổng Chu, từ xưa các bậc Đế Vương đều dùng giáo đó để trị đời đó, ngõ hầu cả trăm đời là giáo của Phật cao vợi nhưng liên quan với trời đất người thần, đâu đem Dương Mặc làm sánh ví? Bởi người bàn luận chưa nghĩ đó, vì vậy mà cho là phòng ngại. Đại khái việc đó khác mà ý khác là ít có thể giúp việc. Ý đồng mà việc chẳng đồng, ít chẳng giúp việc. Phàm, đối với việc chẳng giúp mới gọi là cùng phòng ngại, mà giúp việc thì đâu gọi là cùng hay phòng ngại ư?
Nay, Phật, giáo đó hẳn đồng, dẫn dắt người mà làm thiện, tuy chỗ làm của họ có trước sau, bởi vì trước sau mà cùng giúp vậy, ai cho là có phòng ngại đạo của Thánh nhân ư? Phàm như, kinh Nho cùng kinh Phật có ý tương tợ vài đầu mối ngậm mà chứa đó, cũng nhờ Phật giáo mà phát minh đó. Nhưng ý sâu kín mà lại xa vời, mà các hàng hậu Nho chú giải rút từ nơi giáo, chẳng thể xa thấy yếu chỉ sâu mầu của Thánh nhân, đâu chẳng phải chỗ truyện gọi là Văn chương của Phu Tử có thể được mà nghe vậy. Lời nói của Phu Tử, tánh hợp Thiên đạo, không thể được mà nghe vậy. Nay thử so sánh đó, cũng mong Bệ hạ duỗi bày cho người học, như Trung Dung nói: "Tự thành thật sáng suốt, đó gọi là tánh. Tự sáng suốt thành thật đó gọi là giáo". Đó há chẳng phải chỗ kinh nói là "thật tánh nhất tướng" tương tợ ư? Trung Dung chỉ nói thành thật đó, chỉ chưa từng cùng tận sở dĩ thành thật ấy vậy, đến trong nhà Phật diễn nói sở dĩ thành thật đó thì chỗ gọi là cùng Pháp giới. Khắp vạn hữu, muôn hình như đại địa, sâu tối cả Quỷ thần, thường chỉ bày mà trời đất quỷ thần chẳng thấy sở dĩ đó. Đây chỉ nói đại lược đó vậy. Còn như điều gọi là Trùng huyền điệp diệu thì trong các kinh vẫn hiện còn vậy. Ở đây nghi ngờ nếu cùng Thánh nhân mở rộng thuyết Thành thật ấy mà nghiệm đó vậy. Khổng Tử nói: "Chất vấn đến Quỷ thần mà không nghi ngờ, mà trăm đời để chờ đợi Thánh nhân mà không lầm hoặc". Lý ấy há chẳng phải đây vậy? Lại nói: "Chỉ thiên hạ chí thành tức có thể thấu tận tánh đó. Có thể thấu tận tánh đó thì có thể thấu tận tánh người, thấu tận tánh người thì thấu tận tánh vật, cho đến cùng với trời đất dự tham". Đó là sáng tỏ trời đất, người và vật tánh đó đều thông vậy. Há chẳng cùng chỗ gọi muôn vật đồng một chân tánh ở trong Phật giáo tương tợ ư? Trung Dung tuy nói Đại đồng đó, mà chưa khai mở vì sao đồng ấy vậy. Đến trong nhà Phật suy lý do đồng đó thì gọi là người và vật vốn đều một thanh tịnh. Đến lúc nó nhiễm đó, bèn thành người thành vật, mới sai biệt so với Thánh nhân. Đó là chỗ gọi là đồng mà dị, dị mà đồng ấy vậy. Tỏ rõ Đồng đó, do vì khiến họ cầu gốc để tu vết tích mà hướng đến đạo của Thánh nhân; tỏ rõ Dị đó, do vì khiến họ tu vết tích mà trở lại gốc không dám lạm đạo đức của Thánh nhân vậy. Sách đó lại nói: "Chí thành chẳng ngưng dứt, không ngưng dứt thì lâu dài, lâu dài thì chứng nghiệm, chứng nghiệm thì lo lắng xa để đến lo lắng lâu vậy. Do đó thành vật lớn dày để phối với đất, cao sáng phối với trời, lo lắng xa không ngằn mé. Như thế đó không thấy mà rõ ràng, không động mà biến, không làm mà thành. Đạo của trời đất có thể một nói mà cùng tận vậy". Há chẳng cùng như trong nhà Phật nói "Pháp giới thường trú chẳng tăng chẳng giảm" tương tợ đó ư? Trung Dung nói ý đó còn khiêm nhường chưa vượt khỏi trời đất đó vậy. Đến trong chỗ luận về pháp giới của nhà Phật thì gọi đó rộng lớn linh minh mà bao trùm cả mười phương ấy vậy. Đó, chỗ gọi là lớn dày cao sáng đâu chỉ cùng trời đất tương phối mà thôi? Kinh nói: "Không biết ngoài sắc thân, tất cả sơn hà đại địa hư không đều là vật bao hàm ở trong chân Tâm diệu minh", há chẳng vậy ư? Mà Khổng Tử chưa khai phát đó, bởi tôn quý đất trời mà muốn hành giáo đó vậy. Đó, chỗ gọi là lo lắng lâu do vì thành vật, đó cũng có thể tìm cầu nó nơi ý của bao hàm vậy. Đó lại nói: "Họ làm vật hại thì sanh vật đó chẳng lường. Đạo của trời đất lớn dày cao sáng lo lắng lâu". Nay trời đó rõ ràng lắm nhiều và nó không cùng vậy, nhật nguyệt muôn sao cũng lắm nhiều, muôn vật che chở, cho đến đất đó gom một có lắm nhiều... Đó há chẳng cùng chỗ trong Phật giáo nói là "mới đầu của thế giới là có Quang minh phong luân trước trời Sắc giới, sau có an trú phong luân mà thành trời đất" tương tợ ư? Trung Dung tuy tôn trọng sở dĩ sanh đó, mà chưa thấy sở dĩ sanh đó vậy. Đến trong nhà Phật, chỗ gọi là sở dĩ sanh của trời đất núi sông là nó vốn do sở dĩ biến của tâm thức quần sanh mới sanh các tướng hữu vi ấy vậy. Nên kinh nói: "Tưởng lắng thành cõi nước, Tri giác là chúng sanh". Chỗ Khổng Tử gọi là "Họ làm vật hai, sanh vật đó chẳng thể lường", tương tợ đây mà không nghi ngờ cũng rõ ràng ấy vậy. Như thuyết Ngũ phước Lục cực ở trong Hồng Phạm, đó là lời nói cùng cực về báo ứng của nhà Nho ấy vậy. Thần từng lén trộm khảo xét trong đó, ý chỉ nhỏ nhiệm như liên quan đến chỗ trong nhà Phật gọi là Tam giới ấy vậy, mà các chú giải cũng dẫn nêu ở giáo, mà lại chẳng thể suy xa đó, đâu là ấy vậy. Trong đó điều thứ nhất nói "Hung đoản triết thọ", và điều thứ năm nói: "Ác ác xấu vậy". Như có bị chết non, vừa mới sanh thì chết, há cũng do ác chính gây nên mà khiến hung đoản chết ư? Bởi con người tướng trạng họ gian xấu là thân hình họ cha mẹ sanh ra vốn đã định, đâu hẳn cho rằng ở hiện đời ác chính mà khiến đó ư? Nhưng Thánh nhân bao gồm ý đó mà chưa khai phát đó, há chẳng vì tình người tiện gần mà mê mờ xa, chưa hiện tiền đem đời sống khác nói đến nghi ngờ đó, đó cũng có chỗ chờ đợi ấy vậy. Ở đời này tu hay không tu thì quả báo xấu đẹp đó lại sẽ có ở đời sau vậy. Lấy đó mà tìm cầu ý của Khổng Tử thì có thể tường tận vậy. Như Hệ Từ nói: "Từ đầu đến cuối nên có thuyết của sanh tử. Tinh khí làm vật, du hồn làm biến, cho nên biết tình trạng của Quỷ thần". Đó há chẳng như chỗ nhà Phật nói "sống chết đều do thần thức vào ra các thú tương tợ ư? Khổng Tử chỉ lược nói, bởi đó là khái phát đầu mối vậy. Đến trong nhà Phật, đã nói rõ sanh tử biến hóa chẳng phải do trời đất biến hóa tự nhiên, sanh tử mỗi tự do nghiệp quả cảm họ làm người, làm Quỷ thần, làm các loại khác, mà sanh tử biến hóa đó sở dĩ như vậy. Đến đây cũng chẳng càng rõ ràng ư? Thi nói: "Thần đó cách tư, chẳng thể đạt tư, cũng thể xạ tư". Thư nói: "Nay khiến đa sanh, Tiên triết vương ở trơi". Đó chẳng chỉ Thánh nhân muốn khiến kính đối với Quỷ thần mà ý cũng cho là Tinh minh của người bất diệt, không thể không trị đó vậy. Đó cùng như trong nhà Phật nói người người làm đức làm thiện giúp Thần để trong sạch thăng hoa, có gì khác ư? Khổng Tử chỉ chẳng hiển bày nói rõ đó. Đến trong nhà Phật thì suy mà tường tận đó vậy. Tấn Thư nói: "Vương Thản Chi cùng Thúc pháp sư ước hẹn việc ứng nghiệm quả báo". Đó cũng rõ ràng vậy. Phật giáo, họ nói không hư dối có lắm loại như vậy. Mà vài thuyết như đây đều tạo đầu mối đó ở Nho, mà rộng suy kiểm hiệu ở Phật, há Thánh nhân tự dùng minh số ngầm thông chẳng khiến người mà liền biết ư? Nếu không như vậy, thì sao đạo lý đó cùng xuyên suốt như thế? Hán Thư nói: "Bởi tuân theo tục, không phương vừa hợp vật khác, nhóm lấy các đồng kết quy, chỉ các nghi ngờ nói, thì Đạo Đạo thông vậy". Há chẳng vậy ư? Mà Liệt Tử cũng nói là: "Khổng Tử từng nói ở phương Tây có Thánh nhân, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự hành. Mênh mông thay! Dân không thể gọi tên là gì!" Nhưng thuyết của Liệt Tử tuy chẳng biên ghi trong năm kinh sáu sách, bởi trân trọng Thánh nhân ở Trung Quốc để lập giáo. Hoặc tuy có nói đó mà chẳng nên biên ghi đó. Chư Tử được dùng biên ghi đó ư? Đó là Nho giáo và Phật giáo chẳng thể cùng trái, lại càng rõ ràng vậy.
Ước lại nghe trong nhà Phật nói, đối với Đạo đó chưa có rốt ráo thì gọi đó là Quyền giáo; đối với Đạo đó mà rõ ràng rốt ráo, thì gọi đó là Thật giáo. Thật giáo thì dùng Đốn cho người nhận thọ, Quyền giáo thì dùng Tiệm cho người nhận thọ. Nên chỗ gọi Nhân thừa, Thiên thừa là bởi nói Tiệm của Tiệm ấy vậy. Nay đem giáo Ngũ thường của nhà Nho mà so sánh đó, chánh cùng với Năm giới Mười thiện trong Nhân thừa và Thiên thừa đó của Phật giáo tương đồng vậy. Há Thánh nhân của nhà Nho cũng chẳng dùng Quyền của nhà Phật mà dùng Tiệm để dạy người ư? Trong kinh Phật nói: "Khổng tử là Nhu Đồng Thánh nhân xưa trước vậy". Hoặc đó đã vậy, nên Truyện nói: "Có thể cùng vừa Đạo, chưa thể cùng Quyền". Quyền ấy cũng chẳng quá làm mà chẳng dễ biết vậy. Nhưng Phật pháp truyền bá đến đây cũng đã lâu dài vậy, xem trọng đối với người là Thánh Hiền của vua tôi, sao có thế tính đếm hết được. Mà Thánh Tổ của Bệ hạ (tức vua Chân Tông-Triệu Hằng 998-1023 thời Bắc Tống) tông phụng pháp đó mà trang trải đó, đó lại hơn cả Thiên tử ở thời xưa trước vậy. Tiên Hoàng Đế là bậc Chí Thánh rất biết đó vậy, tuy làm "Sùng Thích Luận" mà mở rộng đó. Nay, Bệ hạ là bậc minh Thánh lại thảy đều tường tận Đạo diệu đó, thiên hạ mới hướng phong mộ đức, muốn nhân Bệ hạ mà lấy Phật làm thiện vậy. Người học ở đời sao họ chưa biết tin vậy. Nhưng tuy đời của Đại Công có thể dùng để hiển bày Đại đạo, người đại minh có thể để dứt nghi ngờ lớn. Nay Bệ hạ là bậc Thánh nhân thật Đại minh vậy. Bệ hạ ở đời thạnh, Đại công thạnh vậy, mà Chánh Đạo của Phật và Nho, hai Thánh nhân dứt đoạn nghi của thiên hạ, đâu chẳng thuộc Bệ hạ ở ngày nay vậy. Thần mong Bệ hạ ban xuất Thư đó cho các Công khanh được rõ biết. Nếu thuyết đó chẳng lắm sai lầm hư vọng thì mong trải bày khắp thiên hạ, khiến các nhà Nho rõ theo đó, các nhà Phật rõ theo đó, mỗi tự dùng pháp họ mà tán thán hóa trị của Bệ hạ như chỗ luận bàn trước, để lại làm giám định muôn đời, mà về sau cấm tuyệt thuyết cùng nhau rỉa rói đó. Khiến
Phật pháp đổi thay lại mới đầu từ Thánh triều của Bệ hạ. Đó chẳng chỉ là may mắn của học trò nhà Phật, mà ước cũng là may mắn của sanh linh trong thiên hạ, và đâu chỉ may mắn của sanh linh mà Quỷ thần trong thiên hạ cũng rất vui mừng vậy.
Thần lại nghe, Bệ hạ lưu truyền Phật Pháp ở trong thiên hạ, hẳn muốn họ cùng sống mà làm phước đó, kiểm xét người trong thiên hạ để làm học trò đó là hẳn muốn thực hành giáo pháp đó vậy. Muốn giáo đó hành thì hẳn muốn đem pháp đó mà dẫn dắt người làm thiện vậy. Như vậy thì thiên hạ làm thiện làm phước thật lắm nhiều ở pháp đó. Pháp thực hành cũng chẳng thật do ở học trò đó vậy. Vì thế thiên hạ chuyên học trò đó mà làm gấp. Nếu còn Pháp đó mà học trò họ chẳng được người đó, thì Pháp đó cũng nào lấy làm công hiệu vậy. Dịch nói: "Nếu chẳng phải người đó, Đạo chẳng được hư hành". Đâu chẳng vậy ư? Nhưng mà được nghi chế ở học trò đó, đến thời đó mà học tập đó khiến thành khí cụ đó. Đến thời đó thì học tập đó dễ thành người vậy. Qua thời đó thì giáo đó dẫn dụ khó vào vậy. Xưa kia, Phật chế khiến người tuổi đủ hai mươi mới cho thọ giới cụ túc. Xuất gia thì cho làm Sa-di tùng sự đó. Sa di thì chấp thuận cho họ từ nhỏ mà xuất gia. Ý đó là vì người đời sau căn khí càng chậm lụt mà người đốn giải hiếm ít. Hẳn giúp họ sớm giáo, tập hành từ nhỏ. Khi tâm họ chưa lạm mà dần đượm nói Đạo, đến năm hai mươi tuổi mới được thọ giới cụ túc, bởi vì tập tánh đã thành và chí lự đã định, có thể khiến họ giữ giới mà hành Đạo vậy. Họ tự đã vậy hẳn có thể suy đó đem thiện đến người. Nên nói, trong Tam Bảo tương thừa mà tiếp tục Tuệ mạng của Phật thì chỉ nhờ ở Tăng Bảo vậy. Quy chế của xuất gia đó ở luật bộ rất lấy làm Định Pháp, chẳng thể tạm thoát vượt. Xưa trước, có lời dâng trình Bệ hạ rằng: "Người chưa đủ tuổi hai mươi thì chưa cho họ xuất gia. Sao họ cùng với Phật chế giáo ngang trái vậy ư?" Người hai mươi tuổi mà xuất gia, hãy khiến họ dự vào hàng Tăng thắng duyên, thì có thể được vậy. Nếu muốn họ thành khí pháp lớn để hành Đạo và cùng Bệ hạ dẫn dắt người làm thiện, sợ họ chưa thể được vậy. Điều đó có thể tự nghiệm biết. Phàm người hai mươi tuổi mới xuất gia, giả sử họ hơi thông lại minh, trong một kinh sa sả mà còn chẳng rảnh tập học điều khác, suốt ba-bốn năm chỉ ở. Đến lúc họ thử đó, nêu cử một mà được thì trăm người chẳng được một vài người vậy. Hạng kế đó, suốt năm sáu năm mới tụng một kinh. Hạng kế tiếp đó là ám độn thì hoặc mười năm mà chỉ có thể tụng được đó. Nếu họ như vậy, may được thọ giới mà làm Tăng thì người đó tuổi không ba mươi thì đã bốn mươi vậy. Căn cứ khiến người đó phải ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi mà cho dự thọ Đại giới, còn sợ họ chống cách mà chẳng hơn họ học tập vậy, huống gì để họ đến ba bốn mươi tuổi mà muốn họ thông minh luyện tập, với chỗ gọi là Thiền, là giảng, là luật, là giới định tuệ. Đạo của Thánh nhân tông giáo khác, ngôn ngữ của khác phương khác tục, thì đó lại sợ họ chẳng thể vậy. Hẳn đó khiến người hai mươi tuổi mới cho xuất gia, cũng chẳng sai lầm ư? Lại nói: Vì họ tuổi nhỏ mà dự vào hàng Tăng luân thêm trên những người già lớn mà lấy làm ngờ vực, mới nói chế đó? Nhưng đây dùng Pháp của tăng sắp ngồi mà luật thành đó có thể vậy. Phàm, Pháp của tăng sắp ngồi cũng có lấy tiếng tăm và đức hạnh mà cùng suy đặt trên dưới ấy vậy, chẳng chỉ niên lạp họ cao là phải trên, còn người danh đức mà tuổi nhỏ hẳn phải ở dưới vậy. Nay vì xếp ngồi cao thấp đó mà bèn định thành uy chế xuất gia đó, há gọi là được việc thích nghi đó ư? Phàm, Phật chế luật của người xuất gia, bởi họ trò đó là cội nguồn của sở sanh, nếu chìm nghỉm nguồn đó mà muốn dòng đó trong, là cũng lầm hoặc vậy. Đại khí người biết Đạo mà có chỗ giữ, họ làm điều quấy thì ít vậy. Họ không biết Đạo mà không chỗ giữ, họ làm lỗi quá hẳn lắm nhiều vậy. Như ở đời gần đây, chư Tăng vì lỗi quá mà xúc phạm hình cấm của Bệ hạ, bởi họ tập học chẳng chánh, không có chỗ gìn mà khiến nên ấy vậy. Thần trộm sợ hàng học trò đó từ nay và về sau càng không chỗ giữ, và thường xúc phạm hình cấm, và giáo đạo đó mà nhục đó vậy. Lại lo pháp đó càng không được người đó, mà Pháp mầu của Thánh nhân bèn diệt mất vậy! Bởi vậy mà thường chẳng ngủ chẳng ăn, ăn chẳng ngon. Thật mong muốn Bệ hạ trở lại quy chế xưa trước, tâm hành theo Pháp của Tiên đế, chuyên cùng Phật chế mà cùng gần vậy. Xuất gia thì chẳng hạn định tuổi tác lớn nhỏ, miễn hạnh nghiệp họ có phần tinh chuyên thì nên mở rộng đó, tâm họ càng thành thật thì nên chánh đó. Như thế thì ngõ hầu trong muôn vàn có được một người đó vậy!
Lại cầu mong Bệ hạ chuyên nhất vị Sư Suất, nên khuyên họ chánh. Họ chánh mà mở rộng đó, như thế cũng ngõ hầu trong muôn vàn đồ chúng đó có được một người làm khuôn phép đạo mà ít lỗi quá vậy. Chỗ gọi là Sư Suất, như nay chủ Thiền trong chúng đông, chủ giảng trong chúng đông trong thiên hạ. Như chỗ gọi là Trị chánh mà nay là Tăng chánh ở trong các châu quận vậy, quả thật chẳng lấy đó làm kiêu hãnh, mà làm thành thật, có thể trang trải giáo pháp đó. Vậy, mong ít dùng thêm lễ phục, hoặc giả nếu vì công đó mà xuất đó cũng dẫn giúp đó. Xét Quan lại lừa dối mà không khuất hình luật vùi dập. Được thế, có thể khiến đồ chúng đó kính mộ đó, khâm chuộng đó vậy. Đó cũng là một Đạo khuyên tu vậy. Đồ chúng đó như muốn cầu thầy học Đạo vượt xa ngàn dặm, các Quan Hữu Ty chẳng vì bằng cớ mà cản trở họ, khiến người không có tâm bực tức, qua lại đều được giúp đỡ vậy. Nhưng quy chế của bằng cớ vốn dùng để ngăn ngừa ác, mà đến các Quan lại nhỏ khinh thường đó mà trở ngăn ngại thiện, đó lại tại giữ trăm việc, mà nên sâu xét đó. Như Thần nương náu nơi hang núi chẳng tính toán gì ở đời cũng đã dài lâu vậy. Vừa rồi có người viết thư muốn khiến Thần ra khỏi núi, mà người già lụn vén áo cùng ở lại mà nói là: "Ông vì Đạo tự thắng ở chốn núi rừng, có thể gọi là được vậy". Mới một sáng sớm mà liền động, sao chẳng tự trọng đi ở đó. Tạm lưu lại, Thần nói cùng người đó rằng: "Phật Pháp tôi thật là nguồn Đạo của Thánh Hiền, là gốc thiện của thiên hạ". Nay người đó không biết mới cùng nhau gièm pha Phật, cản trở Pháp, tôi lo sợ họ làm tổn hại gốc thiện của thiên hạ muốn đến cậy nhờ tôi. Đế mà khuyên dụ đó cũng chẳng muốn giúp họ trị đời vậy". Thần minh ở trên, thật mong nghe lời đó, chẳng như huyễn thuật khác buôn bán kiêu hãnh, muốn có cầu vậy. Nhưng bình sanh vì Pháp chẳng vì riêng mình cũng chẳng trọng ư? Mà Thần một mực giữ chết, đâu đủ tự làm khinh trọng vậy. Người đó lại nói: "Đế tôi đem chùa miếu giao cho ông, trải khắp cả bốn biển. Há chẳng thạnh ư? Vậy biết làm sao?" Thần lại nói với người đó rằng: "Ông thuộc hạng người biết một mà không biết hai, Phàm, Đạo của Thánh nhân là ở chánh, chứ không ở thạnh vậy". Và Thần khư khư giữ chí của sâu kiến, đó thật như vậy. Như được Bệ hạ duỗi xét trời đất, thì đó là may mắn vậy!
Thư của Khế Tung tôi, trước và sau xưng là Thần (Bề Tôi) nhưng ở trong xưng tên thôi, cũng có nguyên do nói vậy. Phàm gọi là vua tôi, Thánh nhân dùng để định ở công là tôn ty vậy. Từ xưa chỉ phải áo mão dây đai ấy vậy. Nay làm Tăng xuống tóc, hủy bỏ hình nghi, khuôn phép cùng nhân gian tuy khác mà tạm cho áo mão, lời xưng cùng loạn, chẳng là mất sự nghi đó ư? Khổng Tử nói: "Hẳn phải chánh danh vậy". Gọi người xuất gia làm tăng mà dự làm bề tôi, danh đó đâu phải là chánh ư? Nho sĩ có người trên chẳng là bề tôi của Thiên Tử, dưới chẳng phụng sự chư hầu. Xưa kia, Vương Bá Nghiêm Quang chẳng phải bề tôi, chẳng xưng danh ở Hán, đâu phải họ tự nhiên vậy? Chư Tăng vốn giẫm Đạo vượt ngoài đời, lại dám mạo phạm xưng của người bề tôi vậy. Nhưng Tăng mà người bề tôi đó, khéo có ra ở đời gần đây, chẳng xét lệ đó vậy. Vì trong Thư trước và sau xưng là bề tôi, là bày tỏ trước sau chẳng dám trái lệ, còn bên trong xưng tên là tỏ bày chẳng dám quả thật dùng trái chỗ thích nghi đó để ra mắt cùng Bệ hạ vậy. Can phạm Thiên oai, chẳng nhậm khiếp sợ, đến mà chẳng tuyên!
Ngày... tháng chạp,
Thần tăng là Sa-môn Khế Tung được ban tặng áo bào sắc tía ở Lan nhã Vĩnh An, chùa Linh Ẩn tại Hàn Châu kính cẩn mạo muội liều chết, dâng tấu thư lên Hoàng đế Bệ hạ.
Thần nghe: Người phụng sự trời hẳn nhân ở núi, người phụng sự đất hẳn nhân ở đầm. Nhưng chỗ nhân có cao và sâu thì chỗ phụng sự dễ thấu đáo vậy. Như Bệ hạ sùng cao sâu lớn thì như núi và đầm cùng cách cả vạn vậy. Vừa có người đang theo phụng sự đạo họ, bỏ Bệ hạ mà chẳng liền cầu đó, tuy họ khư khư trọn đời dứt tuyệt thế duyên, thì mấy ai được chí như họ vậy. Ước lại nghe kinh Phật nói: "Giáo pháp của ta thảy đều giao phó cho các Quốc vương, Đại thần". Đó chánh có nghĩa là Phật giáo tổn ích buông giữ là tại nơi Thánh minh của Bệ hạ vậy, như vậy thì học trò của Phật đem
Pháp đó muốn có chỗ gọi là làm thì đâu nên không nhờ Bệ hạ mà tự bỏ ở cỏ rác ư? Thần tủi nhục làm học trò của Phật, thật muốn phù trì pháp đó, nay phát khởi từ núi non xa cả ngàn dặm, ôm sách đó đến nơi cửa cung, cầu mong Bệ hạ ban ân lớn để thành tựu chí đó vậy.
Thần thường cho rằng: Giòng họ Năng-nhân giảng truyền giáo pháp, hẳn lấy Thiền làm tông đó, mà Phật làm Tổ đó. Tổ là Đại phạm của giáo đó. Tông là Đại thống của giáo đó. Đại thống chẳng tỏ sáng thì người học Phật trong thiên hạ không được một chỗ đến đó. Đại phạm chẳng chánh thì chẳng được chất ở chỗ chứng đó. Phàm xưa nay các hàng Tam học đua tranh nhau lấy sở học của mình cùng làm ưu thắng. Bởi do tông chẳng tỏ sáng, Tổ không được chánh nên khiến làm thành hoạn nạn đó vậy. Nhưng chẳng phải Tổ tông đó vốn chẳng tỏ sáng chẳng chánh, mà chỉ bởi người đời sau làm sách sai lầm lưu truyền vậy. Lại do người học Phật ở đời sau không có khả năng khảo xét tường tận mà hiệu chánh đó, mới có người bó buộc giáo mà không biết yếu chỉ vi diệu của Phật là ở ngoài ngôn từ. Còn người nói Thiền thì không tin sở thuyên của Phật đại khái thấy ở trong giáo. Tuy cùng thuộc một loại đầu tròn áo vuông mà rối ren tự cùng phải quấy, cứ như vậy xưa nay nào từng tạm dứt!
Thần tự không biết lường, bình sanh trộm muốn suy một Tổ tông đó cho người học Phật trong thiên hạ chấm dứt tranh cải, giải tan nghi ngờ, khiến trăm đời biết học đó có chỗ bao gồm vậy. Nên ở trong núi thường dốc sức tham tầm ở Đại tạng, hoặc Kinh hoặc Truyện, kiểm nghiệm chỗ gọi là Thiền tông đó, suy chánh chỗ gọi là Phật Tổ đó, thì các sách được thấy quả rất rối ren. Tuy sách xưa hẳn bài xích đó, sách của chỗ thấy quả thật rõ ràng, tuy sách xưa nhưng hẳn cũng lấy đó. Lại họ nêu ra sự tích niên đại của Phật Tổ quả thật sai lầm, như các loại sách Truyền Đăng vậy. Cho nên, Thần lấy ký Truyện của các nhà, lấy niên đại lâu dài đó, kiểm xét đó, chỉnh sửa đó, biên thành sách đó có hơn mười vạn lời, đề hiệu là "Truyền Pháp Chánh Tông Ký"; còn sách họa vẽ hình tượng Phật Tổ thì đề hiệu là "Truyền Pháp Chánh Tông Định Tổ Đồ"; còn sách suy nhóm gốc ngọn của Tông tổ, thì đề hiệu là "Truyền Pháp Chánh Tông Luận", gồm cả thảy mười hai quyển. Lại dùng lụa nhũn của Ngô họa vẽ phần gọi là "Định Tổ Đồ". Một mặt, tại Thần ngu cạn, tự cho rằng Phật của mình giảng giáo chỉ mới hai ngàn năm. Giáo đó truyền khắp Trung Quốc gần được ngàn năm, còn Thiền tông truyền đến Hoa Hạ chỉ năm trăm năm, mà là Tông là Tổ, sự tích gốc ngọn đó ở đây hơi rõ ràng, có thể lưu truyền bổ khuyết giáo Pháp của tiên Thánh một trong muôn phần vậy. Vừa đang lúc Bệ hạ dùng chí đạo từ đức để trị vì thiên hạ, trời đất muôn vật hòa bình an ổn, mà giáo của Phật và Lão được Tỳ tán Đại hóa. Bệ hạ dũ thần thuyền duyệt càng vào Diệu đạo đó, tuy các bậc Đế Vương xưa trước cả trăm đời chưa từng có cùng lý tận tánh như Bệ hạ đây vậy. Đó cũng là ngằn mé nhóm tụ học trò của nhà Phật khó gặp mà có được một thời của Bệ hạ vậy. Thần do đó mà chăm chăm khẩn khẩn, chẳng trốn lánh trách phạt tiếm vượt mạo phạm đó, liền đem sách và biểu đồ ấy dâng tấu, muốn mong Bệ hạ như xét đưa vào Đại tạng cùng kinh luật đều lưu truyền. Sự sống của Thần như sâu kiến đã đến lúc chiều muộn, đối với đời hẳn không chỗ đợi, chỉ đau đáu mong muốn giáo pháp đó chẳng dần nhỏ bé, chẳng mờ tối, mà lưu truyền trang trải đến vô cùng, người được nhờ đó mà chuyên việc đạo làm thiện, thì ngày Thần tuy đã chết mà vẫn như năm còn sống vậy; chẳng dám kiêu hãnh muốn nhục đến ân điển mưa móc của Bệ hạ vậy. Chỗ chứng cứ rõ văn đó đều rút từ Đại kinh Đại luận rất rõ ràng. Chỗ gọi là "Truyền Pháp Chánh Tông Luận" và "Định Tổ Đồ" như được Bệ hạ trời đất rủ xét khiến đó được cùng ban ân lớn, thì mong được xếp như "Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục", "Ngọc Anh Tập" vậy. Chiếu ban kiện truyền pháp biên ghi vào Đại tạng, tức may mắn lớn của Thần sống chết đó; và chẳng chỉ là may mắn lớn của Thần mà ước cũng là may mắn lớn của giáo môn trong thiên hạ vậy. Nếu Bệ hạ duệ đoán, chấp thuận sự cầu thỉnh của Thần, thì xin đem sách đó gồm mười hai quyển, đặc biệt ban gián Trung thư thi hành "Truyền Pháp Chánh Tông Ký" và "Định Tổ Đồ" đó, và gồm "Sách phụ giáo" do Thần biên thuật trước, in thành bản một bộ ba sách. Sách đó cũng suy hội đạo của Thánh nhân ở hai giáo, đồng ở tốt đời lợi người vậy.
Kính cẩn dâng thư tấu trình phiền nhiễu, Thần chẳng nhận kích thiết thấu đến nỗi lo lắng, Thần rất mực lo sợ thành thật kính cẩn nói.
(Trước sau có bốn thư)
Ngày... Tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn bắc hưởng cúi bái, kính dâng thư đến Tập hiền Tướng công Các hạ. Tôi nghe: Ngày xưa, Thánh nhân lập cực để thống lãnh thiên hạ, thiên hạ gọi đó là chí công. Phàm, người chí công thì chỉ có người thiện mới cùng đó, chỉ người ác mới chống đó. Cùng thiện thì không đây kia, chỉ trị mà thôi. Chống ác thì không thân sơ, chỉ loạn mà thôi. Đó là bởi tâm của Thánh nhân vậy. Đến lúc có thân thân tôn tôn thì nước có vua tôi, nhà có cha con, hẳn thân, hẳn sơ, hẳn gần, hẳn xa. Tam cương Ngũ thường không thể đoạt mất thứ lớp đó. Đó là giáo của Thánh nhân vậy. Phàm, giáo là quý ở tu, mà tâm là quý ở thông vậy. Giáo ấy là kinh chế của Thánh nhân, Tâm ấy là đạt đạo của Thánh nhân vậy. Thiên hạ hẳn biết đạt đạo, mới có thể luận ở chí công. Nếu chẳng đạt đạo thấy Tâm của Thánh nhân, tuy tu giáo cũng chỉ bó buộc ở giáo mà mất thiện đạo của thiên hạ vậy. Tôi tuy cố chấp hẹp hòi, học ở bình sanh đó tự cho là được Tâm của Thánh nhân. Lớn lên muốn suy đó để giúp chỗ làm đạo đức của Vương công Đại nhân. Nay già tệ cốc núi, đầu bạc dần theo mà cuối cùng không chỗ gặp, bùi ngùi dốc thở, chỉ sợ nó rỗng không, cùng cây cỏ đồng sanh đồng chết mà chẳng được chút ít phát đó vậy. Vừa mới nay trộm nghe Các Hạ đem đức khoan dung nhân hậu mà trông giúp thiên hạ. Trong thiên hạ, có người luận đạo của chí công cho rằng, vừa được điều đó ở Các Hạ vậy. Tôi mừng lại được may mắn lớn, nên chẳng kể xa vài ngàn dặm đến dâng bày thuyết phát minh đó và chỗ gọi là bình sanh thấu đạt được Tâm của Thánh nhân đó. Nhưng chẳng phải hẹp hòi tự mừng mến mộ danh và vinh thân vậy. Thật muốn suy giáo Đạo đó để dẫn dắt làm thiện trong thiên hạ vậy. Nguyện mong Các Hạ không mặc nhiên đối với nhà Phật tôi ấy vậy. Trộm lo lắng giáo đó đến nay rất suy, mà đồ chúng đó chẳng thể đều tu để chấn động Đạo đó. Các Sĩ Đại phu vì không biết rõ nguyên do đó, nên hoặc bàn nghị mà gièm pha đó, rối ren như vậy, nên khiến Quân tử thì xem thường đó, tiểu nhân thì nghi ngờ đó. Nhưng Pháp đó truyền bá đến các xứ của Hoa Hạ đã có ngàn năm, chỗ đến thay Thánh Hiền của vua tôi nhiều không thể tính kể, đều tôn quý kính phụng đó, khiến cùng Nho đều hóa thiên hạ. Bởi dùng Đạo của Đại Công mà lấy đó. Vì đó tốt đẹp đời có lợi ích đối với sanh linh, giúp chính trị mở rộng giáo hóa ấy vậy. Như Thư nói: "Hội đó có cực, quy đó có cực". Lại nói: "Làm thiện chẳng đồng, đồng quy ở Trị". Kia chẳng phải có Đại hợp ư? Đạo của Thánh nhân lập cực, từ xưa các Thánh Hiền đâu còn mà kính đó mãi đến ngày nay vậy? Chẳng chỉ không còn có Thánh Hiền mà thiên hạ cũng nhàm chán đó lâu rồi vậy. Như nay thiên hạ dấy khởi mở trường lớp, dùng thuyết nguyên do Đạo đức của Thánh nhân tập cho các học sinh. Bởi muốn họ tuyên truyền giáo hóa của nước nhà. Tuy nhiên nhân nghĩa đó tươi tốt để phô bày nơi thiên hạ, mà các hàng nam nữ phu phụ trong thiên hạ đâu phải mọi người đều dự ở dạy răn của Ngũ thường ư? Đến lúc họ nghe được chỗ nhà Phật nói là làm thiện có phước, làm ác có tội, tổn hại thân họ, lụy đến Thần họ, mà khắp xóm làng đều hóa, mọi người kính mộ làm thiện ngõ hầu như khắp cả bốn biển. Nếu đến nhà đến phòng mà xét đó, thì sợ mười nhà thì đã có đến bảy tám nhà tin theo. Như trước chỗ gọi là hỗ giúp chánh trị mở rộng giáo hóa, đây là đó vậy. Pháp đó lại có thể cùng người chánh tâm, cùng Thần mà cực hóa. Bên trong có ích với người làm đạo đức của Thánh Hiền, lại thấu đạt đó vậy.
Mà người học làm sao không cầu tâm của Thánh Hiền, dấy khởi thiện ở ngày xưa, chẳng dùng Đạo chí công chọn lựa mà lấy đó ư? Lần lượt thấy đồ chúng đó lộn xộn, không có khuôn phép Đạo đó, mà bèn bài xích pháp đó. Nhưng đồ chúng đó do tại nước nhà chánh nguồn dòng đó chọn lựa kỷ cương đó.
Biểu dương người làm thiện đó mà khuyên đó vậy. Pháp đó sao nhục ư? Khổng Tử nói: "Không vì người mà phế bỏ ngôn từ". Nghĩa đó là đây vậy. Cúi mong Các Hạ rủ lòng làm chánh trị giáo hóa, chủ mà trang trải đó, thì may mắn lớn cho sanh linh trong thiên hạ vậy.
Ước lại nghe, phòng nhà cao nguy nếu không chống đỡ hẳn sẽ sụp đổ, nước úng chẳng chảy thông hẳn sẽ vỡ bờ. Đạo của Thánh nhân đã nhỏ bé lại mờ tối, nếu chẳng suy mà làm sáng tỏ đó cũng cơ hồ sẽ dứt mất. Tôi mới lo suy bại của Sư pháp đó, ở trong núi thường trộm biên thuật sách đề hiệu là "Sách Phụ giáo", chỉ hơn ba vạn từ, dùng để suy nguyên Bản giáo, làm sáng tỏ ý làm giáo của Thánh nhân, muôn một dùng để cứu thế lực sắp sụp đổ đó. Mới đầu muốn trình tấu đến Thiên Tử, mà hẹp hòi vời xa chẳng khác thượng đạt, lại muốn dâng đến Các Hạ, cũng lại chẳng thể thông đó. Thế rồi nhân người từng trải đến Kinh đô, ý họ cũng muốn truyền vang đến Các Hạ xem nghe. Nay lại đã một năm mà việc đó cứ chìm nổi chưa quyết chắc, mà trong tâm lo lắng như giẫm đạp nước lửa, gấp muốn họ giúp đỡ. Nên chẳng trốn lánh sự trách phạt là tiếm vượt, mới mạo muội xin dâng cái gọi là "Sách phụ giáo" in ấn một bộ ba sách. Mong Các Hạ nhân lúc rãnh rỗi việc luận đạo kinh bang, lược cùng xem đọc, nếu chẳng lắm sai lầm, có thể giúp Các Hạ lưu thần với Đạo của Thánh nhân tôi, thì chí bình sanh tôi chẳng lấy làm nhục vậy. Còn như Các Hạ là người Đại Hiền chí công, chống cự mà phó mặc đó, thì pháp của nhà Phật mênh mang không còn nơi cậy nhờ rồi vậy. Nay lại đem luận Hoàng Cực một thiên cũng do tôi biên thuật, biên ghi thành một sách cũng theo đây mà dâng trình, đó là lúc thiếu thời hành Đạo được rãnh rỗi mà làm nên, thô sơ sáng tỏ Đạo của Thánh Hiền trị thế. Kính cẩn nhân chủ bộ quan ải đến dưới chấp sự, bụi trần vấy bẩn đài sáng, chẳng hơn nỗi lo sợ rất lắm, chẳng tuyên. Sa-môn Khế tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng…,
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn cúi bái dâng thư đến cùng Chiêu Văn tướng công Các Hạ. Tôi người hèn mọn, nép nơi núi rừng, trộm hiểu Các Hạ dùng Chí Công mà làm chủ thiên hạ, cùng người làm thiện rỗng rang không chỗ chẳng dung. Nên năm trước tôi từng đem "Sách Phụ giáo", nhân chủ bộ quan ải Cảnh Nhân đến dưới chấp sự, đợi đến nay ôm sách đó từ phương Tây rảo bước mà lại, nguyện dâng đến Thiên Tử. Đến kinh đô đã hơn tháng trời, thành thật trước tiên muốn thấy Đại Quân tử, mong chỉ dạy đi ở đó có thích nghi chăng? Vả lại, nghi ngờ thư của ông quan ải nỗi chìm chăng? Quả có phiền nhiễu Các Hạ xem nghe ngóng giúp! Buồn bã từ lâu mà chẳng tự quyết. Bỗng nhiên liền đến, sợ Các Hạ không biết chí sở dĩ đến đó, cho là có sự mong cầu, không đến thì việc đó xếp trệ, nên lại dâng thư tỏ ý trong muôn một, mong Các Hạ rõ cho chút ít. Nhưng sự xuống núi của tôi, bởi muốn hiến cống sách tôi biên thuật có hơn mười vạn từ. Sách đó là bổ ích cho sự khuyết chánh của giáo Pháp, là Tổ là Tông trong nhà Phật vậy, nhờ cậy Thiên Tử xét đưa vào kinh tạng, để chấm dứt sự nghi ngờ tranh cải của người học Phật, khiến trăm đời biến đó có chỗ bao gồm, ý đó dừng ở phải vậy. Chẳng phải bắt chước những người khác tự làm kiêu hãnh thân sanh, muốn có chỗ mong cầu vậy. Các Hạ nếu như chẳng lấy làm quái lại sai lầm, dẫn mà cùng nói, thì ý sở dĩ đến đó được tỏ bày vậy. Chẳng chỉ được tỏ bày chí đó, cũng sợ đối với cùng tận ngằn mé tánh mạng sâu mầu của Các Hạ mà có chỗ giúp đỡ vậy. Và đâu riêng giúp đỡ thuyết tánh mạng đó, ước cũng có bổ ích cho Pháp của Hiền Thánh trị chính, Hoàng Cực của Các Hạ vậy. Mảy trần mạo phạm đến Đại thừa tướng tôn nghiêm, tội không nói lánh trốn chẳng bày. Tôi kính cẩn tấu bạch.
Ngày tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn cúi bái, lại dâng thư đến Chiêu Văn tướng công Các Hạ. Gần đây, tôi đem thư theo hướng Tây lại đến nơi Thiên Tử. Thành thật vì Các Hạ đang vì nước nhà mà giữ tâm chí công tên thiện, mới ngày từ hướng Tây rảo bước cấp cấp chỉ sợ đến sau. Kịp may gặp thấy đó, Các Hạ ấm áp tự nhiên dùng lễ tiếp đãi, sau đó, tấu thư xét đưa đến chính phủ, mà Các Hạ tận tay giúp đỡ, đặc biệt sánh đó với Sử bút. Điều may mắn lớn đó, có nghĩa là bình sanh tôi chuyên cần làm thiện, quả khó mà gặp được đó mà phát dương vậy. Lại sau đó trộm nghe: Các Hạ càng đem văn đó cùng các Công ngợi khen đó ở nơi Quán các, mà trong các Sĩ Đại phu nghe có nói là: "Đại thừa tướng thật là chí công cùng người làm thiện vậy". Như tôi là người khác giáo phương ngoài, Đạo đó lúc niên thiếu có thể xem, mới đặc biệt cùng công khanh vinh dự đó. Như vậy thì người học trong Thiên hạ rất đáng tự lo lắng, họ làm Đạo mà chẳng chuyên vậy, nào phải lo Hiền Sĩ Triều đình đó không thấu đáo ư? Nhưng tôi, ngoài học Phật ra, có phần chuyên việc bút mực muốn phát huy bản giáo đó vậy, đâu có văn cao biết xa đáng với công tướng Đại Hiền ngợi khen giúp đỡ ư? Đó có thể gọi là rất may mắn mà rất nhục vậy. Nhưng dự sự ban ân của Các Hạ đó, chẳng làm chẳng lớn, tâm chí cứ khư khư đó, không làm không được. Vậy nên vụt nhiên tiện trở về lại núi rừng, nay vẫn còn bồi hồi ở kinh đô, chưa liền đi, vì ý sở dĩ đến chưa cùng tận chưa đạt quả, vâng phụng mạng của Các Hạ quý trọng lưu lại, nên dám chẳng trốn lánh sự trách phạt can phạm đó, mới càng đến nói ở chung quanh Các Hạ vậy. Mong Các Hạ khoan thứ mà nghĩ thương cho. Tôi ở núi rừng biên thuật sách thảo luận, kinh sách nội ngoại chẳng những vài ngàn quyển, tích chứa suốt vài mươi năm, có phần tiêu nhọc hình thần đó. Lại chẳng kể cách xa ngàn dặm mang đến mà tấu dâng, chẳng phải cẩu thả như những người khác kiêu hãnh muốn riêng tư đó mà có sự mong cầu vậy. Đó thật vì lo lắng Tông Tổ của Bản giáo không sáng tỏ. Vì xưa nay những người học Phật không thấy được Đại thống đó, vọng cùng nhau tranh đua hơn kém, rất mất ý của Thánh nhân tôi xưa trước. Cứ chăm chăm khẩn khẩn đó, mới chuyên làm chánh đó, ngưỡng nhờ Triều đình xét đưa vào trong Đại tạng, làm Phật giáo lập thắng sự của muôn đời, ngõ hầu người học tuân làm định đoán. Lại muốn tự kiểm xét mình làm con Phật làm thiện nhỏ bé đó vậy. Mới ngày vừa trong núi ra, giữa đường gặp các người già lớn cho rằng tôi thức tâm làm Pháp, không ai chẳng chúc tụng, mong thành việc đó mà trở về. Nay sách đó đã tấu trình, đợi chờ mạng lệnh đã hơn sáu mươi ngày, mà chưa được nghe gì cả. Trong lòng rất tự nghi ngờ đó. Hoặc sách đó còn có chỗ sai lầm chẳng xứng đủ chỗ lấy của bậc Đại Hiền ư? Hoặc Các Hạ đang bận việc nước lớn lao, chưa rãnh để xét tận tường phải quấy đó ư? Thành đô hay thôn ấp tốt tươi mà lâu thì tệ phong trần đó vậy. Phải áo ở nơi rừng chầm mà chí gốc ngọn đó chưa toại, chỉ sợ phụ trái Đạo đó thuộc ý chỗ cầu chúc. Chẳng chỉ phụ trái ý chỗ cầu chúc đó, cũng sợ chỗ còn của bình sanh không công hiệu. Mà giáo pháp Tổ tông đó, muôn đời trọn không trở lại chính vậy. Vì thế, càng muốn mong ân huệ lớn của Các Hạ lại nghĩ nhớ cho là tôi vì Pháp chẳng vì thân, vì Đạo chẳng vì danh, làm cho giáo Đạo đó muôn đời hẳn chánh, chẳng vì chính mình mà cầu ân đượm một thời của nước nhà vậy. Thần minh ở trên, thật nghe lời đó.
Ước lại nghe, Phật Pháp là thần diệu chẳng thể lường, nên thông cả trời đất Thần minh, lấy đó làm thắng duyên là Diệu đến vô cùng vậy. Nay chỗ gọi là Tông đó là Đại bản của giáo đó, chỗ gọi là Tổ đó là Đại phạm của Pháp đó vậy. Vừa hiện nay Thiên Tử là bậc Thánh minh, mà Các Hạ là Hiền triết công chánh đoán mà định đó, khiến người học
Phật đời sau kính ngưỡng tin đó mà nói: "Tại thời Đại Tống, Thiên Tử và Tướng Quốc Hàn Công từng chọn lựa mà định đó vậy". Các hàng Tam học đó không dám nhiễu loạn mà Phật Pháp càng tỏ sáng. Quả thật là có trời đất thần minh ngầm vì hỗ trợ, thì cảnh phước thắng duyên há chẳng quy về Thiên Tử và Các Hạ đó ư? Tôi tủi nhục được sự ân ái của Các Hạ ngợi khen giúp đỡ như nói ở trước. Như vậy, nguyện mong Các Hạ thủy chung ban ân lớn đó, khiến sớm thi hành, chớ để các người đố kỵ liền sanh khởi bàn nghị, để thành tựu chí khư khư lúc bình sanh đó. Mong kịp nước mùa Xuân từ hướng Đông trở về lại núi rừng, là may mắn lớn lắm vậy. Tôi sẽ quyết gắng tinh thành, dốc hết tư duy hành đạo để báo đức huệ vời vợi của Các Hạ, cung kính chờ đời mạng lệnh vui mừng suốt sớm hôm chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi lo sợ kính cẩn tấu bạch.
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung Tôi kính cẩn trông về hướng Bắc cúi bái, dâng thư đến Chiêu Văn Tướng Công Các Hạ. Tôi ngày trước đem sách Thiền mong nhờ Triều đình ban ân cùng Bí tạng, làm cho giáo của Phật Pháp muôn đời sáng rỡ khắp thiên hạ, đồ chúng đó không ai chẳng mừng chẳng vui. Đó là do Các Hạ xét đến cho thành việc đó mà lại xứng đạo. Văn đó truyền bá đến các Sĩ Đại phu, mãi đến ngày nay trong thiên hạ không ai không biết. Tôi lấy làm hổ thẹn đối với sự thấy biết của Các Hạ rất sâu xa, thọ nhận ân ban nơi Các Hạ rất nồng đượm, sáng rỡ chốn núi rừng quá lắm vậy. Ngày thường muốn nghĩ hướng dẫn một lời để báo đáp ân đức của Các Hạ mà chưa thể trọn. Nhưng vừa rồi đem sách đó mà thông đến kẻ chấp sự ở dưới, là công hiệu của chí nguyện sắc son đó vậy. Nhờ Các Hạ giúp cùng càng sáng rực trùm khắp tuyệt cả xưa nay vậy. Bởi Các Hạ khéo dùng đạo của Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Kha, Tuân Huống mà ấy vậy. Nay có người viết sách sâu sắc tha thiết để suy diễn đạo của mười Thánh Hiền kia, mà chánh sự trị loạn của đời, đó nghiên cứu cùng cực sâu xa, tự cho rằng không nhục đối với làm sách của Giả Nghị, Đỗng Trọng Thư vậy. Đó có thể nhờ ở Các Hạ hùng tài biết xa, một vài trong muôn phần vậy. Cúi tự xét nghĩ, tôi phóng lãng ngoài đời, vết tích đó cùng với đời tuy khác, liền viết sách đó lo nghĩ người đời không biết ghét ganh mà chợt vậy. Nên kín ngầm đó tự nói là Tiền Tử, chẳng dám hiển bày tên đó vậy. Nay Các Hạ là bậc chí công cùng người trong thiên hạ làm thiện, chẳng phân biệt phố phường hay quê mùa, hiển bày hay ẩn mất đó, nên thiên hạ đều phục đó. Tôi mới chẳng kể xa ngàn dặm gởi sách đó mà đem đến. Nếu có thể xem thuyết đó không dối vọng trong muôn vật, thì quả thật có chỗ giúp đỡ tán thán, thì tôi cũng có chút phần báo đáp đức tốt của Các Hạ, mà được triển bày công hiệu nhỏ bé ấy vậy. Trôi dạt giang hồ bó buộc thanh khiết riêng lập đó cùng với đời chẳng hợp, mà người xót thương đó chẳng phải cùng một nửa. Hoặc như Các Hạ ban cho một chữ ngợi khen mà xiển dương, đó lại là ân huệ lớn an ủy một đời tôi giữ chứa sáng rỡ đó riêng nói sâu thẩm vậy. Ngưỡng vấy bẩn thạnh mạng, can phạm Đài sáng, tội không thể trốn lánh chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch.
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn vọng về Bắc cúi bái, hiến dâng thư đến Chiêu Văn Tướng Công Các Hạ. Tôi nghe, ngày xưa có người miền quê hoặc đem thức ăn ngon rau cần, hoặc dùng toán cửu cửu dâng hiến vua nước đó. Phàm thức ăn và toán cửu cửu là việc tầm thường, sao đủ khiến Vương Hầu giúp đó? Nhưng tâm họ khéo chuyên với vua đó vậy. Vừa rồi, tôi chẳng kể xa ngàn dặm mà lại dâng thuyết đó với Tướng Quân tôi, thật so với thức ăn rau cần và toán cửu cửu chẳng khác đó. Mà tâm chí đó cũng may nhờ Các Hạ rõ xét đó mà chẳng mặc nhiên vậy. Với nhà Phật tôi, Pháp nghiệp đó hay cùng người chánh tâm tẩy rửa phiền loạn đó, giữ gốc mà yên ổn bên trong. Nên nay muốn đem đó đợi chờ Các Hạ lúc nhàn rỗi việc luận đạo kinh bang, khiết tĩnh để nuôi dưỡng ngầm thông minh đó, mới an cực đó vậy. Phàm, chỗ gọi là chánh tâm chẳng phải như chỗ thế gian gọi là chánh, bởi việc đó vượt ngoài thanh tịnh chí chánh vậy. Tâm chí chánh thì Thần tỏ sáng, Thần tỏ sáng thì khí hòa, khí hòa thì thể tĩnh thuận. Bốn điểm trên là trị Thân đó, mà tâm càng trị vậy. Thái Sử Công nói: "Chẳng trước tự định Thần mà nói ta có thể trị thiên hạ, do đâu ư?" Ấy là nói gần đó vậy. Nhưng Đạo đó lại hay cùng sanh nhân từ thủy đến chung, chỉ bày thần sáng đó đi lại, căn cứ sở nhân của muôn vật mà quyết định sở quả của thí báo. Nhưng đó lại sâu mà xa vậy. Các Hạ là bậc Đại Hiền nhận biết cao vợi, nghĩa là quả đây có thể để lưu Thần rồi vậy. Như nay các Nho Sĩ nói: "Thuyết của tánh mạng, ở Trung Dung tôi đã có vậy". Lão gia nói: "Đạo Đức kinh của tôi đã có vậy, sao hẳn nói là Phật ư?" Đó là nông nỗi tự chấp vậy, nên có cạn sâu xa gần ấy vậy, sao có thể luận bàn đại khái! Xin vì Các Hạ mà nói rõ đó. Phàm, Trung Dung là tạo đầu mối của Thánh nhân và tánh mạng. Còn đạo của tôi là viên cực của Thánh nhân và tánh mạng. Tạo đầu mối Thánh nhân muốn người biết tánh mạng vậy, chỉ sâu Thánh nhân muốn người đến tánh mạng vậy. Viên cực là Thánh nhân muốn người rốt ráo tánh mạng đó, nhóm hội ở trời đất muôn vật xưa nay biến hóa không gì chẳng diệu ở tánh mạng vậy. Vậy nên đó khiến người thấy Đạo thật tận tường gốc hóa, biết rõ ngoài vật đó làm vọng, dừng tâm thần đó nhọc mệt, mà nhà Phật nói đó rất ứng nghiệm vậy. Họ làm Đạo đã rộng mà họ nói cũng tản mạn, nên người học ở đời càng tùy cũng nói lan tràn đó mà chẳng tham tầm cốt yếu đó. Than ôi! Người học Đạo chẳng xét vậy.
Xưa trước ở thời tiền Đường, Dương Tư Đồ Quan mệnh danh là Hiền tướng, thường vì đó mà trước thuật truyện Tiên sinh Vương Khai để suy rộng ở thiên hạ, bởi biết bao gồm cốt yếu của Đạo đó mà ấy vậy. Nay Các Hạ là khí cụ đạo đức của Phụ tướng, quá hơn xa so với Dương Công vậy. Nếu chẳng vì Phật giáo chủ trương không, mà lấy đó chút ít là may mắn của thiên hạ vậy. Nhưng Đạo đó lại có thể khiến người dứt ác mà làm thiện. Nay thiên hạ hợp nhiên cùng Nho đều khuyên, đó chẳng chỉ bên trong có ích đối với Đạo đức của Thánh Hiền, mà cũng dẫn bên ngoài có hỗ trợ đối với giáo hóa của nước nhà, và cũng lại thích nghi với tâm ý của Các Hạ vậy. Vừa lúc hiện nay, giáo đó rất suy, đồ chúng đó chẳng phân chọn gièm pha mà hủy báng đó rối ren, tôi trộm sợ đạo đó tự phải mà nhỏ bé dần dứt mất vậy. Đèn đuốc không tiếp nối, đèn ấy ánh sáng ấy cũng bèn diệt vậy. Khe suối sông ngoài không dẫn thông, nguồn đó dòng đó cũng bèn tuyệt vậy. Giáo đạo của Thánh nhân cũng như vậy, chẳng hỗ trợ cứu thì bèn mất vậy. Nên tôi trộm thường biên thuật sách hiệu là "Phụ giáo" để phát sáng phù trì Đạo đó, gồm cả thảy hơn ba vạn từ. Mới đầu muốn tấu dâng sách đó lên Thiên Tử, mà thành thật nhỏ nhiệm không thể thượng đạt; lại muốn dâng đến Các Hạ lại chẳng khắc thông đó. Thế rồi mới nhân người có từng trải đến kinh đô cũng có ý muốn truyền trao đến Các Hạ xem nghe. Lại đã hơn cả trăm trời cứ nổi chìm chẳng quyết định, nỗi lo lắng trong tâm như đang ở trong nước lửa, chợt muốn đó giúp đỡ để thành tựu chí của bình sanh đó, mới chẳng trốn lánh sự trách phạt mà phạm tủi nhục, liền đem sách đó đến, như mảy trần vấy bẩn Đại thừa tướng tôn nghiêm. Muôn một phần mong Các Hạ xót thương khổ nhọc chuyên cần làm giáo và Đạo đó, tôi chẳng dám như những hạng người thường khác vụn vặt cẩu thả chỉ biết vinh thân và danh của họ mà thôi. Kính cẩn đem "Sách phụ giáo" một bộ ba sách do tôi biên thuật, và lại đem "Luận Hoàng Cực" biên thành một bản. Nhưng luận đó là lúc thiếu thời nhân lúc hành đạo được rảnh rỗi mà biên thuật, tuy văn từ cạn cợt gần tục mà có phần phát sáng pháp của Thánh Hiền trị thế. Ngưỡng nhờ chủ bộ quan ải đưa đến dưới người chấp sự, chẳng dám trông mong đại từ, lo sợ vượt quá thấu đáo chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn soạn thư gởi dâng đến Tỉnh chủ Đoan Minh thị lang Các Hạ. Tôi kẻ hẹp hòi không tích trọng, may Các Hạ thương nghĩ đó đến nay đã lâu vậy. Ngày trước tôi từng làm tệ văn, nhân được Thị lang Lang công vấy mảy trần thấy nghe, mà tủi nhục được ngợi khen là: "Chẳng chỉ thông rành Không tông, mà cũng văn cách cao vợi!" Tôi hổ thẹn được ban ân lớn đó, cảm đó nhớ đó mãi suốt tám năm nay vậy. Tôi tự cho rằng, nương gá nơi núi sâu cùng cốc, tuy muốn một lần tiếp kiến oai nghi của Đại Quân tử, hẳn không thể được vậy. Nhưng mỗi lúc muốn làm một việc thiện, suy một lời thiện, để báo đáp ân lớn của Các Hạ giúp đỡ, để mở lớn thắng duyên khắp cùng dấy thiện của Các Hạ, nên thường còn đó ở tâm. Gần đây, tôi trộm biên thuật "Quảng Nguyên Giáo", tiếp đến là ba pho với tựa đề là "Sách phụ giáo". Có người xứ Ngô làm bảng mẫu in ấn muốn lưu truyền đó, dám đem nhờ Các Hạ làm chấp sự để hoàn tất chí ý đau đáu đó. Nhưng sách đó đại để là vì các hàng thế Nho không biết Phật là Đại Thánh nhân, Đạo đó rộng cứu tế khắp sanh linh trong thiên hạ, Pháp đó ngầm giúp giáo hóa nước nhà, nên đặc biệt dụ hiểu người nghi ngờ đó, cởi mở người gièm pha đó, mà sở dĩ làm vậy. Nhưng Phật tôi từng đem pháp đó giao phó cho các Quốc Vương Đại thần, mà Vua Thánh, tôi Hiền là chỗ buộc lợi ích của giáo tôi vậy. Nay muốn cứu sự suy vi của Pháp đó, hỗ trợ sự không chấn động của giáo đó, mới đem thuyết đó cầu đến nơi Các Hạ, lại thích nghi đó vậy. Cúi mong, chỉ Các Hạ dùng tài cao học rộng đứng đầu các Hiền, dùng đức trọng danh tiếng dẫn trước quần thần, hòa nhã nhưng gánh vác trông mong của Đài Phụ trong thiên hạ, mà càng có biết sâu hiểu xa chẳng hạn cục ở thế giáo, siêu nhân; mà đặc biệt còn lưu ý tới Diệu lý của Phật giáo, tham tầm chân áo Thánh mạng của Thánh nhân, đó lại thích nghi với nhà Phật, là vì Đạo đó mà cậy nhờ vậy. Các Hạ là người nhân từ minh mẫn, thiết nghĩ, tôi vì lo toan Đạo đó mà chẳng lo toan thân, vì Pháp chẳng vì danh, khoan thứ trách phạt tiếm vượt đó. Vì sách đó xứng với Thánh Hiền truyền đến Quân tử, được thiên hạ không cản trở tâm làm thiện đó, nước nhà chẳng mất hỗ trợ giáo hóa đó, thì chẳng chỉ may mắn cho ngay tôi, mà cũng là Pháp của Phật, tôi được chỗ hoằng truyền đó, "Sách Phụ giáo" một bộ ba sách. Kính cẩn nhờ Thôi Thái Bác, liền thông trình đến mọi người. Dám can phạm đài từ, chẳng quản lo sợ đến quá lắm mà chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn soạn thư gởi dâng đến Xu Mật Thị lang Các Hạ. Tôi, người u tối ngoài đời, mới dám đem thư đó mà liền cầu Hiền Thánh ở Triều đình, đâu thích nghi vậy ư? Nhưng lo sự sắp hủy diệt của Đạo đó, hẳn phải hộ trì Bản giáo đó, cũng sao được đắm chìm chỗ giữ đó mà không biết biến đó ư? Phàm, Thánh Hiền, ở Triều đình là sở thuộc gom ích của Đạo tôi vậy. Nếu chẳng đến mà tỏ bày đó, thì pháp của Thánh nhân tôi gần như phế hủy mà diệt mất vậy. Đó cũng là ý như trong Kinh nói, Phật pháp giao phó cho các Quốc Vương Đại Thần vậy. May mắn Các Hạ là người nhân từ minh mẫn, xót thương lo ở Đạo Pháp đó, chẳng vì thân danh, khoan thứ trách phạt tiếm mạo đó, mà lấy chút ít thuyết đó, chẳng chỉ may mắn của người này, mà cũng sáng rỡ giáo Đạo đó vậy. Và không chỉ sáng rỡ của Đạo giáo ấy, mà ước cũng là may mắn lớn của sanh linh trong thiên hạ vậy. Tôi thường vì văn của Văn nhân ngày nay bài bác Phật quá lắm, đó cũng bởi các Quân tử ở đời chẳng nhìn Lý sâu, chẳng nghiên cứu Thể xa, chẳng xét nghiệm thiện đó lợi ích rộng lớn trong thiên hạ. Nhọc vì mắt tiếp xúc việc cạn gần đó cùng với Nho gia chẳng đồng, mới liền chẳng phải đó. Phàm, giáo của nhà Phật truyền bá đến các xứ Hoa đã cả ngàn năm, khắp cùng thiên hạ mà hóa độ đó vậy. Đó cũng là thạnh vậy. Đó hẳn có công sâu tối lớn đức ngầm, hợp với trời đất, thông cả Thần minh, lợi ích giáo hóa, khéo tốt lành phong tục ấy vậy. Nếu không thế thì trời nhàm người ghét từ lâu rồi vậy. Vì lo sợ người bàn luận không thôi, hàng hậu sanh chẳng tỏ ngộ càng học mà làm đó, chẳng chỉ tệ với Đại Đạo của Thánh nhân, mà cũng là cản trở tâm làm thiện trong thiên hạ, tổn mất hỗ trợ giáo hóa của nước nhà, nên tôi chăm chăm gắng sức ngu tối đó, liền biên thuật sách khai phát làm sáng nguyên do Phật tôi làm giáo đó, ngõ hầu dụ khuyên các hàng Hiền nhân Quân tử ở đời, mà tự thấy thối lùi vậy, Vì sức chưa đủ nên lời nói đó chưa ai tin, nếu chẳng nhờ Thánh Hiền của Triều đình, có thế lực cao sáng, có thức độ tận ngằn mé chân trời, suốt đạt lý sâu, thể xa của Thánh nhân thì sách đó sao được truyền vậy? Vừa rồi, tôi gặp được người xứ Ngô đem sách của tôi trước thuật đề là "Sách Phụ giáo" làm bản in mới xong, dám chẳng ngại xa ngàn dặm, tôi ngóng trông phong mà đưa đến nơi cửa Các Hạ. Cúi nghĩ, chỉ Các Hạ dùng tài cao học rộng vượt lên khoa lớn, dùng Đức lành, tiếng tăm vinh hạnh ở nơi Hữu mật, hòa nhã tự nhiên gánh vác mong ngóng của Tể Phụ trong thiên hạ, lại càng có biết sâu hiểu xa, thấu đạt chân áo tánh mạng của Thánh nhân. Đó mới thích nghi với nhà Phật, là vì Pháp đó mà cậy nhờ đó vậy. Nếu không vì văn ngọn không đầy đặn làm tủi nhục ân ban lớn, mà lấy đó truyền trải đến Hiền nhân Quân tử ở Triều đình, thì tôi thật may mắn với ngàn muôn sống chết vậy. Đó cũng là được chỗ gởi gắm của Phật tôi đem giáo Pháp giao phó vậy. Sách tôi dâng hiến gồm mười bộ ba mươi có đề tựa sách ở ngoài bìa. Kính cẩn nhân Thôi Thái Bác đem thông đến người chấp sự dưới, vết trần vấy bẩn Đài nghiêm, chẳng nhậm lo sợ đến cùng, chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch.
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn soạn thư gởi dâng đến Tham chính chấp sự Các Hạ. Tôi nghe, Phật giáo từng liên hệ đến chánh trị mà tương quan đến giáo hóa ấy vậy. Nếu có người nào muốn chánh sự tổn ích của Pháp đó, cứu sự suy tổn của giáo đó, mà chẳng cầu đến Tể giáo hóa Ty chánh trị, thì người đó tuy dốc hết tâm chí thành cấp cấp ở chốn hoang hóa đến già lại chết, hẳn không thể được toại chí ý ấy vậy. Nay, Tể giáo hóa, Ty chánh trị trong thiên hạ chỉ có các Thiên tử Tể tướng cùng
Các Hạ tham dự Đại chính vua Thánh tôi Hiền ấy vậy. Nên tôi chẳng ngại xa ngàn dặm đem sách đó nhân người mà cầu đến Các Hạ, bởi cũng có ý đối với giáo đạo vậy. Cúi nghĩ, chỉ Các Hạ dùng đại công làm tâm, dùng các thiện làm trị, chẳng chợt nhiên với người hẹp tối đó, chẳng phế bỏ lời hoang đường đó, mà duỗi chút ít lắng nghe, chẳng chỉ may mắn của ngay người này, ước cũng đối với Đạo của Thánh phương Tây cũng tăng thêm phần tỏa sáng ấy vậy. Tôi thường cho rằng, Phật giáo đó làm thiện ở đời, hẳn rộng lớn đó thảy đều đầy khắp. Chỗ gọi là ban thí đó đến người thiện mà càng thiện, ban thí đó đến kẻ bất thiện mà cũng làm thiện. Nay chỗ khuyên của giáo tôi chẳng kịp, chỗ cấm của Hình pháp chẳng được, ngầm tính tâm khinh thường. Tuy ngu như hàng thất phu thất phụ nghe chỗ tôi nói là làm thiện có phước làm ác có tội, ít ai chẳng giảm ác đổi thiện vậy. Nếu đến nhà đến phòng mà cứ xét, thì sợ mười nhà có đến tám chín, mà thiên hạ nếu như vậy, đời sau càng mỏng dạt mà loạn đó bèn ít. Ai biết chẳng phải nhân Phật giáo ngầm hỗ trợ mà ấy vậy. Nên Đường Thư nói: "Tuy nói là giáo của phương khác, mà không tổn nguồn làm Lý". Như ở trên chỗ gọi là tương quan ở giáo hóa, là nghĩa đây vậy. Phàm, dùng Đạo đó an Thiên tánh, mà biết nguyên do đi lại của Thần minh; tu thân trị tâm để thông đến chí Đức chí Đạo của Thánh nhân, xưa nay như thế có lắm nhiều vậy. Nay các người bàn luận dùng văn để bài bác Phật cho rằng không ích lợi đối với trị thế, đó cũng là các Quân tử ở trong đời không biết lý sâu, chẳng thấu đạt thể xa, chẳng thấy nguyên do của Phật giáo ấy vậy. Kẻ ngu tôi lấy đó làm lo ngại, sợ người bàn luận chẳng thôi, các hàng sanh sau học cuối tập tành mà làm theo đó, thì chẳng chỉ khuyết mất hỗ trợ giáo hóa của nước nhà, mà cũng tổn hại giúp đỡ của Âm đức đó vậy. Ở trong núi, tôi thường trộm biên thuật sách, suy sáng yếu chỉ của Phật giáo, dùng để dẫn dụ khuyên người học. Nhưng tôi tự nghĩ, riêng nơi sâu tối, không có thế lực, trọn chẳng thể toại việc truyền trao sách đó đến với thiên hạ vậy. Nếu chẳng có người cao sáng đặc đạt Đại nhã thanh thắng Quân tử, thì không thể thành chí nghiệp đó. Nên liền muốn mong Các hạ đồng vì Đạo đó xưng tán đến Thánh Hiền, ban trải đến Quân tử, lại nghĩ nhớ Phật giáo ở nơi thiên hạ. Nếu buông giữ pháp đó, thì càng thêm tổn đồ chúng đó, một khi đã xẩy ra, đến nơi Triều đình xử đặt, như trên chỗ nói liên hệ nơi chính trị, nghĩa đó ở đây vậy. Nay vì chánh thuyết tổn ích đó mà cầu đến cửa của Các Hạ, cũng thích nghi đó vậy. Các Hạ là người tài cao đức trọng, thiên hạ đều chiêm ngưỡng; khoan nhân đại minh, Triều đình đều nể phục, nếu vì lo Đạo đó chẳng lo thân, vì Pháp chẳng vì danh, thương xót chí đó, thâu nhận sách đó, suy mà trang trải đó, khiến thiên hạ biết sở dĩ làm giáo của Phật. Quân tử giúp đó để mở rộng thiện đó, tiểu nhân nhờ đó mà chừa đổi bất thiện đó, chẳng chỉ là may mắn của tôi, mà cũng là may mắn lắm của sinh linh trong thiên hạ vậy. Sách đó đề là "Sách Phụ giáo" gồm mỗi bộ ba sách có đề tên ở ngoài, kính cẩn nhân Thôi Thái Bác đem truyền thông đến người chấp sự dưới, mảy trần vấy bẩn Đài từ, chẳng nhậm lo sợ quá lắm, chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn soạn thư gởi dâng đến Bách ty Nội Hàn Các Hạ. Tôi thường nghe, Phật tôi xưa đem Pháp đó giao phó cho các vị Quốc Vương Đại Thần, thật ý đó là muốn nhờ thế của Vua tôi và Đại thần để chánh tổn ích đó vậy. Nên Vua Thánh, tôi Hiền là chỗ mà Đạo tôi muôn đời cậy nhờ đó vậy. Đồ chúng ở đời sau như toan lo Pháp đó, cứu suy tệ đó, mà muốn có chỗ gọi là làm thì không thể không nhờ Thánh Hiền của Triều đình đó vậy. Như tôi chẳng ngại xa ngàn dặm mang sách đó mà đến cầu nơi cửa của Các Hạ, hẳn cũng vì làm Pháp đó mà như vậy. Cúi nghĩ, chỉ Các Hạ làm đức có lường xa, lập triều có tiết lớn, dùng văn chương làm Tông của từ thần, địa vị gần Quan, hiển bày thường ngày tiếp sủng quan của Thiên tử. Lại đặc biệt chú ý đến Phật lý, dốc sức tham tầm áo diệu tánh mạng của Thánh nhân, điều đó càng thích nghi với nhà Phật là dùng Đạo đó mà theo đó ấy vậy. Tôi thường vì các Nho Sĩ ngày nay trong thiên hạ không biết Phật là Đại Thánh nhân, đạo đức đó rất lợi ích đối với sanh linh trong thiên hạ, giáo pháp đó rất hỗ trợ giáo hóa của nước nhà. Nay trong thiên hạ tự nhiên đua tranh làm sách mà gièm pha đó, nên tôi thường trộm lo gièm pha đó chẳng chỉ cản trở người làm thiện, mà lại tự tổn âm đức đó. Tôi liền biên thuật sách đề là "Sách Phụ giáo", để khai phát làm sáng tỏ Phật Đạo, muốn dùng để khuyên dụ các hàng Quân tử ở nơi đời. Nhưng tự nghĩ, mình nép sâu xa bỏ, sức lực chẳng thể toại sự chấn động đó, nhọc trọn đêm than thở, mới mạo phạm trách phạt tiếm đổi, dám đem sách đó ngưỡng nhờ Các Hạ cao minh lan truyền đến các Thánh Hiền Quân tử. Nếu khiến được những kẻ bài bác đó trong muôn một xoay tâm biết Phật, biết sở dĩ của giáo Pháp đó, rộng làm thiện đó, mà chẳng tổn âm đức, thì đó cũng là một Đạo của bậc Nhân Hiền dụng tâm vậy. Làm thắng duyên đó đáng phải đời đời kính phụng Các Hạ, đồng như trời đất thần minh thật nghe lời đó. Thản như Các Hạ chẳng thốt nhiên duỗi ban chút ý tôn quý, thì muôn vàn may mắn lắm của tôi vậy. "Sách Phụ giáo" đó khắc bảng in một Bộ ba quyển và Thư, nhờ Thôi Thái Bác nhận đưa đến người chấp sự dưới. Can phạm vấy bẩn Đài từ, chẳng nhậm lo sợ quá lắm. Chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn soạn thư gởi dâng đến Nội Hàn Lã Công Các Hạ. Tôi từng làm luận kém cỏi, may nhờ Các Hạ khéo giúp đó. Về sau tuy muốn lợi ích dâng gởi thuyết đó để thủy chung Các Hạ nghe xem ban giúp đức nghĩa. Thiết nghĩ, tôi bỏ núp ở chốn núi rừng chẳng thể toại đó, nay nghe Chiếu ban trở về, càng dùng bút tay lớn phát huy chế mạng của Thiên Tử. Đây không thể chẳng cố gắng, đã vì cầu đạt chí đó vậy, may Các Hạ chẳng chợt nhiên kim hẹp đó mà thiếu lưu ý vậy. Tôi nghe người khéo giỏi Lý đó thì thiên hạ gọi là chí công. Nay trong thiên hạ chỗ gọi là giáo của Thánh nhân là Chí (rốt ráo) vậy. Tuy sanh đó chẳng thuộc loại nào, mà khảo xét lý đó đều muốn người hướng thiện, thì lý do đó chưa từng khác vậy. Nhưng như ngày tháng năm, số đó tuy gần xa sai khác mà công của thành năm đó chỉ một vậy. Nên ở thời trẻ mạnh, tôi đều đọc sách đó tìm cầu ý đó, được ý đó thì thường đem nói với người là: "Đó đều đáng theo, mà không thể chống cự vậy". Đã nói với người, lại mắc hoạn đó chẳng rộng lớn, mới đem đó làm sách, muốn rộng khuyên đó. Sách biên thuật đó tuy tích chứa có hơn mười vạn ngôn từ, mà danh tiếng nhỏ bé, thân phận ẩn tối chẳng thể truyền đó, tôi muốn nhờ đến Thánh Hiền để cùng khua động đó, mà mãi đến cuối cùng cũng không chỗ gặp. Đến lúc già tệ ở nơi núi hang, các Đệ tử sợ sách đó cùng với Thầy họ đều ẩn mất, nên có cầu xin để khắc bảng gỗ in, khắc xong lại xin gởi đến các Sĩ Đại Phu. Mới đầu, vì tránh sự chê trách là hiếu danh, mà chẳng theo cầu xin đó. Tôi tự bảo đó rằng: "Từ xưa các bậc chí nhân đều vì cứu độ giáo pháp đó mà chuốc lấy gièm pha chất thân. Người vì đạo xa lớn sao lại giúp hàng lưu tục gièm pha vậy ư?" Mới bỗng nhiên đưa hết sách đó đến các Tiên sanh Tấn thân. Tuy chưa từng biết lập là để ban trải đến các người đó, huống gì khiến nhục Các Hạ một lời coi xét, mà Các Hạ là người biết cao lường xa, vốn lấy thiện của thiên hạ mà làm ý của mình, mà dám chẳng trình bày đó ư? Kính cẩn đem sách đó một bộ ba sách được gọi là "Sách Phụ giáo", ngoài bì có đề nhờ vị Tăng đưa đến người chấp sự dưới. Thản như nhọc nhục Các Hạ dụ hiểu đó ở người, thì thắng duyên công ngầm, đức ẩn đó đáng kính phụng Đại Quân tử đồng đó, Thần minh trị đó thật nghe lời này. Mảy trần vấy bẩn cao sáng, đâu giằng nỗi lo sợ quá lắm chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn cúi bái dâng thư đến Tham chính Thị lang Các Hạ. Tôi nghe ngày xưa có Lý ưng lấy Danh Nho làm chỗ buộc phong giáo thiên hạ, nhưng ước mong đó đã quá cao. Các kẻ sĩ trong thiên hạ không thể được mà liền tương giao, mới đề ở cửa là "Long môn". Nay các bậc sĩ trong thiên hạ chỉ cửa của Các Hạ như Long môn vậy, mà cửa của Các Hạ khó lên, là quá hơn so với Lý ưng vậy. Các Hạ là người văn chương tuyệt xuất, tham tầm kinh thuật, biện rành trị loạn, bình giải người vậy, phải phải quấy quấy hẳn công hẳn xác đáng. Mà các kẻ sĩ trong thiên hạ muốn đến nơi cửa của Các Hạ chẳng có đức đó thì sao dám cúi ngưỡng trước Các Hạ! Không chỉ chẳng dám việc cúi ngưỡng đó mà cũng sợ họ trông nhìn phong mà cứng lưỡi không giám giẫm bước đến ngạch cửa của Các Hạ có lắm nhiều vậy. Như tôi là người quê kệch ở chốn núi rừng, không danh trạng, nay đem sách đó tấu dâng đến Thiên Tử, nhân mà được mây dưới phong, Các Hạ chẳng liền bài xích bỏ đi, mà dẫn đó cùng nói ấm áp, mới vì đọc sách đó làm văn mà thấy hỏi. Đó là đặc biệt Đại Quân tử cùng người làm thiện, dẫn dụ đó muốn họ thấu đáo vậy. Tôi phóng lãng ngoài đời, chuyên vì ngu tự toàn vẹn, chỗ gọi là Văn chương kinh thuật, biện rành trị loạn, bình xét người vật, hẳn chẳng phải chỗ tôi có khả năng vậy. Vừa rồi mới được giẫm đạp đến của Các Hạ, tủi nhục Các Hạ nhã hỏi, trông nhìn lại bình sanh mà hổ thẹn biết lấy gì để xứng với sự tiếp đãi của Các Hạ ư? Nhưng tôi tự ở chốn núi rừng lại, liền muốn đem thuyết của núi rừng, lại cùng đem sách Tánh mạng đó, dâng đưa thuyết núi rừng đó là có sách mới biên soạn "Võ lâm sơn chí" một quyển, Sách Tánh mạng đó có "Sách Phụ giáo" in một bộ ba sách. Kính cẩn theo lễ dâng hiến, mảy trần vấy bẩn cao sáng, tội không chỗ trốn lánh, rất mực lo sợ, chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch.
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn dâng thư đến Tập Hiền Tướng Công Các Hạ. Tôi tuy chẳng thông mẫn, bình sanh tạm lấy việc Hộ pháp khuyên thiện làm trách nhiệm của chính mình. Mỗi lúc mong cầu đến các Tiên sinh tấn thân biết viên có thông chí lý của thiên hạ đồng dùng duy trì. Nên từng dùng "Sách Phụ giáo", nhờ Đại thần Thôi Thái Bác hiến cống đến người chấp sự dưới. Thật do nhờ Các Hạ là người biết cao thấy xa, biết Phật rộng lớn đủ đầy làm Thánh nhân từ thời xưa trước vậy, muốn mong Các Hạ suy mà khuyên đó, còn không biết sách đó quả nhiên từng được Các Hạ xem nghe vậy. Mà tôi nay theo hướng Tây đi đến, hẳn muốn đem sách Thiền Tổ Đồ nguyện dâng đến Thiên Tử. Ngày đến kinh đô, thật muốn vâng phụng sự chỉ bảo của Các Hạ đi ở thế nào cho thích nghi, mà chậm trễ không thể đến được. Vài ngày trước, may được xin ở người lính gác cửa gặp khách, nhưng môn đồ lưu giữ, lọc lừa y nhiên mà trở về. Nhưng Các Hạ đối với việc thiên hạ hẳn lớn vậy, sợ chẳng rãnh để tận tường ý tôi vì sao trở lại núi rừng, liền gởi lại thư này, mong Các Hạ rũ lòng trông xét. Nhưng sở dĩ tôi trở về là vì Tổ tông của Phật giáo tôi đang bị lu mờ, chẳng được tỏ sáng, nên mới soạn sách "Truyền Pháp Chánh Tông Ký" gồm hơn mười vạn ngôn từ, cùng với sách "Định Tổ Đồ", một mặt muốn nhờ Thánh minh rũ lòng xét đưa vào Đại tạng, truyền đó để tránh. Phàm các Phật tử Tam học trong giáo tôi, khiến họ muốn đời biết đó có chỗ bao gồm vậy. Cũng là chí nguyện như trên vậy. Chẳng những người học khác tự vì thân, vì danh mà tính toán kiêu hãnh, muốn cẩu thả có chỗ mong cầu vậy. Các Hạ thản vì thành thật đó chẳng sai lầm giáo mà thành đó, chẳng chỉ tự may mắn mà thôi, mà đó cũng là may mắn của giáo môn trong thiên hạ vậy. Mạo muội can phạm Đài sáng mà tội không thể trốn tránh, chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Ngày hai mươi mốt tháng sáu vừa qua, Sa-môn Khế Tung tôi cúi mong riêng nhờ chỗ ban tặng Pháp y sắc tía, một bức điệp và một phong thư. Ngày đến Hàn Châu, Tri phủ Đường Công vời gọi ra núi, tận mặt ban trao kiện sắc điệp và thư đó. Đó cũng do Thái úy làm công danh trong đó, tiến cử luận mà khiến có ân ban như vậy. Ngày đó, tôi tự cho mình đạo đức mỏng manh rỗng trống không xứng đáng ân ban lớn của Thiên Tử, vài ba phen chối nhường, tuy ngôn từ ý tứ khẩn thiết, mà Đường Công trọn chẳng dung giữ chí sắc son đó. Qua ngày hôm sau, Đại chúng ở chùa Linh Ẩn bảo đắp mặc phục chương đó. Tuy vâng phụng sáng rỡ lớn đó mà sâu tối hẹp hòi không nghĩa là nhục với mỹ mạng của nước nhà, nhục với Các Hạ ngơi khu tiến cử, mà thật là cảm mà sợ vậy.
Cúi nghĩ, Thái uý là người tài thức khí vận, là anh hào của đương thời, cao hoa của cửa nhà, rất thân thích với Đế gia, còn cúi nhặt chút thiện nhỏ nhoi của lão già miền quê u tối, suy mà ngợi khen đó, khiến dự ân đượm của người chủ. Đó chẳng chỉ vui nói thiện của người, ước lại trung với nước nhà thiên hạ vậy. May mắn lắm! May mắn lắm!
Như thư của Các Hạ gởi lại nói: "Đọc sách
"Phụ giáo" đó, biết đó cùng còn thành thật có thể để phục người ấy vậy". Lấy đó mà nói, thì Các Hạ cũng còn có Tâm nghĩ nhớ chỗ còn đó. Như đó có thể dùng để phục người, đâu dám xứng đáng đó, nhưng chỗ tiết tháo chí ý đó chẳng phải muốn cẩu thả ở vinh danh vì thân mà thôi vậy. Xin càng vì Các Hạ mà nói đó: "Tôi mới đầu vì Bản giáo tích chứa dần suy, đồ chúng đó hiếm ít người hay giũa mài tinh tường. Quân tử không tin, Tiểu nhân chẳng kính, nên tôi lo lắng Đạo của Thánh nhân mờ tối, mà thiên hạ mất gốc làm thiện đó, vì thế mà quyết chí phù trì đó vậy. Sách đó lúc đầu mới thành, thành thật trông mong thượng đạt, nhờ thạnh đức của các Quân tử Quần Hiền của Triều đình, họ khuyên dễ hành, họ truyền dễ rộng. Chỉ tâm nguyện cứu đạo đó, nên như đứng ngồi trong nước lửa, mong muốn người giúp đỡ đó, chẳng đoái hoài chỗ lưu trụ gọi là nói khoát mà tự khoe đó vậy. Nay đối với Đạo chưa có chỗ bổ ích khuyên thiện không công hiệu, mà liền tủi nhục với ân huệ lớn, cũng thích nghi làm Tâm nào ư? Mạnh Tử nói: "Tuy có cày bừa chẳng như chờ đợi thời". Nay quả thật là thời của Thánh Hiền, may Các Hạ lưu ý vậy. Nếu Đạo tôi càng khuyên, Quân tử càng tin, tiểu nhân cùng kính, nhờ thắng duyên đó để báo ân ban tặng của Thánh Quân, nhận biết của Các Hạ, đó cũng là thấu đáo vậy. Trong Thiền tôi chẳng dám chuyên dùng văn tự để tự mừng vui, mà chỉ nhờ đó để truyền Đạo đó vậy. Đó lại may nhờ Các Hạ xét đó. Kính cẩn nhờ Lục Viên ngoại đến chuyển dâng tấu Khải văn cảm tạ, chẳng nhậm cảm ân, lo sợ quá lắm! Cúi nghĩ, chỉ Đài từ duỗi ban xét nghĩ, chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tâu Khải Văn.
Ngày... Tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn dâng gởi thư đến Ngạn Trường Bí hiệu. Trước tủi nhục với Ngạn Trường quan hầu, có được thuyết Phụ giáo của Tiền Tử tôi, mừng cùng đã hợp, để lại thư luận đạo của Đại Công có hơn trăm từ, mới cùng ngợi khen quá nhiều, mà Tiền Tử tôi nhân Ngạn Trường từ phương Tây đến mới gởi thư Thừa tướng, để nói về thạnh suy của đạo, chỉ sợ thư nói chẳng hết ý đó, nên lại xếp đặt Ngạn Trường thấy gặp Thừa tướng càng vì nói đó. Phàm, Đạo của Đại Công là Chí Đạo của Thánh nhân ấy vậy. Đạo của Đại Công hành thì chẳng vì thiên hạ cẩu thả thân sơ, chẳng vì trung hiếu mong cầu thế lợi. Bởi bề tôi hợp trung, con hợp hiếu, với người đáng thân thì thân đó, với người đáng sơ thì sơ đó. Đó đều là thường đạo của Nghiêu Thuấn ấy vậy. Nhưng Đạo của Đại Công gốc nó ở tại thành (thành thật) và minh (sáng tỏ) vậy. Thánh nhân cói thành, do đó cùng trời đất thông, Thánh nhân phát minh, do đó cùng Hoàng Cực hợp. Như Trung Dung nói:
"Mừng giận buồn vui chưa phát thì gọi đó là Trung, phát mà đều trung tiết thì đều gọi đó là Hòa". Trung ấy là Đại bản của thiên hạ, Hòa ấy là Đạt đạo của thiên hạ. Nghiêu Thuấn sở dĩ thấu đạt Đạo ấy là bởi hay Thành và Minh mà gìn giữ gốc đó vậy. Phàm, Đạo của Thành và Minh mà Thánh nhân còn khó đó. Nên Khổng Tử nói: "Hành của Đại Đạo. Khâu tôi chưa kịp đó, mà có chí vậy". Đời sau, đối với người Trung hiếu dùng khuyên mến mộ thấu đáo thì dùng Trung hiếu gìn giữ đó, gấp kíp đó. Mà người thế lợi Trung hiếu tranh giành làm rối ren lan tràn tương giao khắp thiên hạ vậy. Người thành thật Trung, thành thật Hiếu thì chẳng cẩu thả chẳng bè đảng, làm sao cùng đó hỗn tạp một đời. Lại đâu có thể tự rõ ràng. Người gìn giữ, người gấp kíp kia cũng tự cho là làm tâm của người mà cùng mình đồng loại, chẳng lại tín có thành thật đó vậy. Nên Đạo của Thành và Minh thênh thang chẳng thể lại thấy vậy. Gốc đạo của Đại Công cũng lại chẳng biết đó vậy, huống gì lại có thể giữ và duy trì đó ấy vậy! Ngạn Trường đáng là riêng có khả năng nghị lực suy Thành và Minh mà duy trì luận đạo của Đại Công. Đâu phải bẩm tánh tự được cao xa đó, chẳng tập tành đó, nung đúc đó mà vậy ư? Mới đầu, sách của Tiềm tử tôi lưu xuất, mà các học trò tiên sinh tấn thân lần lượt ngợi khen văn đó hay khéo. Tôi đại khái có đọc sách của Bách gia vậy. Riêng mình Ngạn Trường cho rằng, tôi còn để tâm ở Đại Công, sách đó chuyên cần lại thấu đáo vậy. Chẳng dốc thuần ham chuộng đạo đó cùng biết đến sâu thì sao có thể được vậy ư? Vừa nay các bậc Đại Thánh Đại Hiền cùng tụ hội tại Triều đình, vừa dùng Đạo của chí công mà trị vì thiên hạ. Thích nghi Ngạn Trường khua động bản nguyên đó, gắng sức dùng Đạo của Thành và Minh mà giá thuyết, nhờ sở dĩ làm giáo hóa đó, thì công đức thắng nghiệp hiệu nghiệm rõ ràng lại càng lớn vậy. Gắng đó thay! Gắng đó thay! Chẳng tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn gởi thư cùng Bí Hiệu Như Quân túc hạ. Gần đây, tôi tủi nhục xem đọc thư tay, ngợi khen quá lắm, thỏa thê vì chưa cùng biết làm hận. Tôi là người gì ư! Đáng với ân huệ lớn đó chăng? May lắm, may lắm! Tôi là người vốn hẹp hòi bình thường, tự lường không vì an đặt tâm. Nhân cầu thuyết của Thánh nhân lấy đó làm thiện, đã trị được đạo của tôi, lại tham tầm Nho thuật. Cả hai đều có chỗ được thì trộm dùng văn từ để khai phát đó. Mà đương thời các Hiền hào chẳng dùng đó, tiếm trộm văn vẻ ngông cuồng cùng chống cự, còn lấy làm có thể nói dẫn đó cùng giao du. Tuy nhiên tiếp họ giao du ràng buộc đến như là bạn thân, mà chưa từng tỏa sáng để bày hết tâm đó. Bởi vì bạn đảng người đời đối với giáo hiếm ít không chẳng hợp. Tuy muốn nói đó mà tự nhìn lại, nói đó đâu có thể đều tin ở đời, nên thường than thở áy náy, rất chẳng tự được. Đến lúc đọc thấy lời Tựa của Bí Hiệu tiễn đưa Oánh thương nhân, cũng nói rằng Phật giáo dạy người làm thiện có ích ở đời, chẳng theo bọn loạn ở đời để cùng chê trách. Đó nếu chẳng phải thông đạt biết xa, trông thấy thâm tâm của Thánh nhân, thì sao có thể luận bàn thấu đáo như vậy ư? Chẳng đợi cùng biết, hẳn tin Bí Hiệu thức độ cao vời vượt xa ngoài đồng bạn của đương thời.
Mà thích nghi cho tôi dốc lòng tận tâm để cùng nói đó. Huống lại là thư tủi nhục, chỉ có Đạo cùng Văn Khuất Tiết là cùng mến mộ, tuy to lớn có đạo đức như các Cao tăng xưa trước, cũng rất thích nghi đến với thuyết đó để mở rộng chí của Bí thư, huống gì tôi khư khư đang đây, sao có thể im lặng tự giấu kín ư? Phàm, Phật Đạo đại chí, suy mà hành đó, không gì chẳng thể, vì cùng lý tận tánh đó thì có thể khiến người nhập thần vượt ngoài sanh tử biến hóa. Tuy Đạo của Tam Hoàng ngũ đế, chưa từng kịp đó. Đó thật chưa phải chỗ của hàng kinh doanh thế gian có thể phỏng bàn. Dùng đó để trị thế dẫn dắt người đời thì có thể khiến người sanh khởi từ tâm thanh khiết tự thân, đổi theo thiện xa lìa ác, dừng tranh đấu, không giết hại, bình trị thiên hạ nước nhà. Với giáo của Ngũ giới Thập thiện đó so cùng Ngũ thường nhân nghĩa thì Thể chỉ là một mà tên gọi có khác, đó lại là chỗ nên giữ của Hữu vi vậy. Xưa nay các nhà Nho biện giải đó có lắm nhiều mà đều chẳng đo lường gốc đó để tề bằng ngọn đó, nhọc cho điều Phật làm gọi đó là quá hoặc chẳng kịp, mà nhân đó họ cùng nhau bới móc trăm mối. Than ôi! Nhạc của Thuấn lấy ở người để làm thiện, Võ nghe được lời nói hiền thiện liền kính bái; Khổng tử chọn người có điều thiện mà theo đó. Nhan Tử có một lời nói thiện thì đau đáu giữ trong lòng không dám để mất. Những người Thánh Hiền từ xưa như thế để dẫn đến đời sau mà người sau còn chẳng thể theo đó, đến nỗi nghịch loạn táng tánh diệt thân phá nhà mất nước ấy vậy. Huống gì lại bài xích thiện đạo, cản trở người làm đó như thế thì lấy gì để khuyên đời sau ư? Than ôi! Khiến người đời sau chẳng dốc tâm làm thiện cũng như tội của người vọng biện luận vậy. Bí Hiệu đang vì nước nhà làm chính, quả nhiên có thể suy đó để mở rộng đạo của Nghiêu Thuấn, thì làm chính đó làm trị đó cũng chẳng quá lớn quá xa ư? Gặp phong tạm trải nổi lòng nhớ nghĩ vì đáp, để cảm tạ ý sâu dày, chẳng khuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch.
Ngày... tháng...
Sa-môn Khế Tung tôi kính cẩn dâng thư đến cùng Bí Hiệu Biểu Dân túc hạ. Tôi đọc sách nêu bày, nghiên cứu chỗ kết quy của ý nghĩa, trải qua vài ba ngày mới thấy hết ngằn mé mênh mông ấy. Như ngắm nhìn sông biển mà chẳng biết nguồn nó; xa tít như trông nhìn muôn sao mà chẳng được nguyên cớ nó; như hổ đầy vằn mà khiến người kinh hãi. Nghi ở đời này không có vậy. Mới đầu chưa cùng biết, Biểu Dân đến nơi chỗ tôi ở mà hỏi văn. Vì lấy sự ngu tối, bỏ quên gia thế sang quý, chịu cùng kẻ khô khan chìm lắng dùng đạo nghĩa mà cùng qua lại, vừa thấy gặp thức độ trí thấy đó xa vậy. Đến ngày khác cùng chung đó rảo bước tham quan. Đó đi, tôi thật cùng người tin cao vợi chẳng đồng như người đương thời, càng thấy Hiền tánh của Biểu Dân vậy. Nay được văn đó, lại thấy được sở dĩ đó dụng tâm, lấy sự nghiệp của Thánh Hiền làm trách nhiệm của chính mình. Từ lý sâu vợi mà thuần, ý nghĩa ước lược mà chánh, thật đáng tin mà hành vậy. Tuy người xưa khéo giỏi văn từ, thích nghi không lấy làm khác đây vậy. Lấy làm đau đáu nơi cõi lòng mà chẳng ngừng nghỉ. Thật là bậc Hiền, thật là bậc Hiền vậy! Tôi người ở chốn núi rừng, hẳn thích nghi im lặng mà tự giữ, sao có thể luận phải cùng quấy, mà có thể nói và không nói, cũng có chí đó mà chẳng nhẫn vậy. Tôi nghe, học của Quân tử, là muốn tham tầm đạo đó, tham tầm muốn tự được đó vậy. Đối với Đạo tạm được đó, thì chỗ phát đó không đâu chẳng thấu đáo vậy. Chỗ gọi là Đạo nghĩa, là Nhân nghĩa ấy vậy. Nhân nghĩa xuất phát từ tánh vậy. Nhân sanh lộn lạo, không ai chẳng có tánh. Sở dĩ họ không thấu đáo nhân nghĩa là do vì không học nên vậy. Học đó mà chẳng tự đắc là do họ học cạn mà tập hành chẳng chánh nên vậy. Phàm, Thánh và Hiền danh xưng tuy khác, mà sở dĩ họ làm Thánh Hiền đâu khác nhau ư? Thánh đó là đắc ở Thành và Minh, mà Hiền đó cũng đắc ở Minh và Thành. Thành ấy là sanh mà tự biết đó vậy. Minh ấy là học mà biết đó vậy. Đến lúc họ thấu đạt nhân nghĩa thì chỉ là một vậy. Biểu Dân học đó sâu sắc, đối với Đạo có chỗ tự đắc, nên văn từ phát ra đó tốt đẹp vậy. Như chỗ Hàn Tử gọi là: "Người của Nhân nghĩa, họ nói hòa nhã vậy". Văn của mười Thiên đều thiện mà bàn nghị Võ biện cũng rành mạch. Đúng là chí thiện vậy! Xem ở đời chỗ gọi là người làm văn miệt như vậy. Tạm phát đó chưa rồi, sắp phát lớn đó thì nâng cả trời đất, vén vừng Nhật Nguyệt. Họ Hàn ấy, họ Mạnh ấy, chẳng phải là không có đồ chúng đó vậy. Lại sai lầm đưa đến nói cuồng, vì xoay lại thạnh biên, chẳng vì tuyên bày. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch!
Cụ vị Khế Tung gởi thư đến cùng hai Danh Nho túc hạ. Gần đây nhục vì Thơ bị mời gọi, mà thúc trị tiếp theo đó. Thơ đó phong điệu cùng cao, đều thích nghi phục người đó vậy. Tôi tuy muốn làm đáp trả đó, lại như thấy cầu gỗ cao chẳng thể vin. Vã lại, Thơ đó là để trang bày ý tương cảm vậy. Nhưng Biểu Dân cho là tôi dùng văn mà thúc trị, cho là tôi dùng tài mà chung cùng nói vậy. Phàm, Văn và Tài đều là việc của Thánh nhân, mà tôi là một lão quê đâu thích nghi cùng vậy. Như bần đạo mới đầu rất ngu dốt, nhân dùng Thánh đạo của Phật để trị đó, mà thức lự đó cẩn chánh, đến lúc tham tầm sở dĩ làm của Nho, bởi chuyên thông tâm của Thánh nhân hai giáo, cũng muốn làm văn để phụ đó. Đạo tôi vì theo thích nghi của thế tục, chẳng phải cẩu thả hư danh ở đời mà ấy vậy. Đại khái, ân đối với đời mà có thành thật là tuy cùng thấu đạt mà chẳng dám quên mới đầu đó. Nay được Đạo của Thánh nhân mà thành thật thấu đạt đó có thể quên ư? Bần đạo thường bệnh, mà chư tăng bình thường ít nhận biết. Đạo tôi chẳng tu đợi ở danh, làm đức rỗng bối rối vậy. Vì việc cuối đó cầu văn tự của Nho, muốn vì trang sức đó, đến nỗi khiến họ gièm pha vậy, tuy đều là giáo Đạo mà nhục đó. Không thể hiểu rõ, nhưng là khắc vào đá, khắc vào bảng để khoe khoan với thế tục. Trọn ngày mênh mang vậy, mà lấy làm đức đó, hạng người như vậy rất nên đuổi khỏi nhà Phật tôi. Bần đạo càng không được ở người, đó đâu nên bỏ đạo tôi mà tự muốn dùng văn đó tài đó khư khư, mà trộm vinh dự đối với Hiền giả? Tuy chết chẳng dám vậy. Nên lúc nhận chịu ân huệ gần như vất bỏ sách mà khóc, nói: "Nay nhờ Thiên tử rất sáng suốt thấu đạt biết xa, vừa duyệt ý ở chánh pháp Nam Tông. Tôi cố tự bỏ ở cỏ rác, trọn không thể vì đạo đó hơi tiến tới. Vì trên nhờ ở Thánh minh của Quân vương, sao có thể lại vì ngu dốt đó mà lụy đến giáo đạo ư? Các ông cũng từng thấy tôi vì Phật giáo mà tu đó, làm thành thật đó, chẳng khinh ở trời đất, chẳng thẹn với thần minh, tạm cho đó là chưa thấu đạt vậy. Nên dùng Tăng đức mà cố gắng đó, không như vậy thì thôi. Nếu cho đó là nương gá vết tích chuyên dùng văn tự thấy giáo, thì không dám vâng mạng. Danh tệ sợ đó bẩm thạnh tập, mong vì gọt bỏ đó. Gia chương đó mỗi một đều vâng nhận.
Chẳng tuyên bày.
Cụ vị Khế Tung tôi dâng gửi thư đến cùng Trứ Tác Mã Hầu Chấp sự. Tủi nhục ban cho riêng lời tựa bài minh tú thạch, ngôn từ rất tuấn phóng, ý nghĩa cao nhàn, như chẳng nhọc tư lự, chỉ một lần cất bút để thành văn đó. Nhưng đây thích nghi phát huy Thạnh đức Đại nghiệp của Thánh nhân, đâu phải đá núi du vật mà có thể đáng với đẹp xinh đó vậy. Giữ gìn đùa vui trọn ngày, mến mộ mà ngắm nhìn, người không chỗ tài năng thì làm sao thù tạc giáng phục. Giáng phục mới đầu như vậy, đá và núi đều chìm nghỉm trong cỏ xanh không biết mấy trăm ngàn năm. Đến đời gần đây, người khéo giỏi việc đưa ra, nhưng Nam Bình Nhan thạch đại khái đều kỳ đặc, mà đá đây lại rất kỳ, núi đó thấy ở đời đã vài mươi năm vậy. Riêng tú thạch lẫn lộn trong các đá chẳng phân, đó đâu phải quái lạ kỳ đặc đẹp xinh xưa trước, chẳng phải chỗ biết của hạng người thế tục, nghi ngờ đợi thật thưởng đó tinh xét để biện rành ư? Một mai chấp sự quả thật dùng văn ấy mà phát đó, lan truyền đến người, chưa qua vài ngày, người đi trong xua tìm cầu đá đó mà đi đi lại lại có vậy. Đó là riêng Tú thạch khó gặp, Chấp sự chẳng ẩn giấu mà hiển bày ra đó. Tôi do đó mà cảm khái người xưa nay có ôm kỳ cặp dị, trọn chìm vất bỏ trong cỏ hoang, chẳng như đá đó là hạng nào? Người đó tuy ôm tài thức hiếm có ở đời mà không biết ở chính mình, chỉ cùng hàng dong tục xen lẫn trên dưới, giả như một lần gặp người học mờ tối họ không ganh ghét lại phỉ báng, cũng may mắn đó vậy. Huống hồ mong họ trọng ngôn ngữ mà cùng suy ư? Than ôi! Ở đời, người không vui thích thiện của Đạo nhân đông nhiều vậy. Như chấp sự thấy một vật mà chẳng vất bỏ đẹp xinh đó, còn dùng văn từ ngợi ca ở đời. Tin rằng tâm lượng của Chấp sự thích thản quá hơn người trăm ngàn đồng bạn, nên khiến Chấp sự được địa vị ở Triều đình. Suy tâm đó ở người thì các kẻ sĩ chìm đắm hổn tục trong thiên hạ ai chẳng được phấn phát tài nghề đó. Mà làm đức của Chấp sự lại thạnh so với nay vậy. Nghe xưa trước có Thuấn và Nhan Tử rất hay làm thiện cùng người, nên đời sau ca tụng đó là Thánh Hiền. Tuy muôn đời chẳng thôi nghỉ, mà Chấp sự quả thật như thế quyết tiến không thôi. Tôi dẫn thấy ở đời ca tụng hiền đức của Chấp sự, mênh mang tràn khắp bốn biển mà chẳng thôi vậy. Nhưng chọn lựa riêng một bài thơ cổ Tú thạch, mảy trần dâng phụng ý cao, câu từ phàm tình hạ cực. Phụ thẹn trông thấy. Khế Tung tôi kính cẩn tấu bạch.
Cụ vị Khế Tung tôi kính cẩn dâng thứ đến cùng Viên ngoại Cảm Chi túc hạ. Ngày trước muốn qua nơi chỗ ở hỏi vườn mới đó đất rất đẹp, sắp đặt phần mộ của Tiên phụ ở khoảng vườn đó, tôi đã cùng Thiên Hưu cùng luận bàn, người đó cũng mừng vui. Đang lúc vội vàng mà chưa xong việc bàn nói, dò xét sau lại thấy vậy, gặp việc bất chợt mà chẳng tiếp kiến. Thời trước tuy nghe nói thế mà nghi Cảm Chi... nói rỗng vậy. Khi đã nghe ở Tôn Quan mới tin Cảm Chi làm kinh quái đó. Vài ngày lại chẳng thể tự xử. Than ôi! Cảm Chi trung hiếu đó có xứng danh vậy, cớ sao chợt nhiên lìa chỗ giữ đó như vậy. Lúc trước, Cảm Chi cùng tôi nói Tiên phụ đó bảo tạm thời đưa hài cốt về quê nhà cùng mẹ hiền đều an táng. Mới nghe, Cảm Chi đau đớn sợ trái lời trăn trối. Nghĩa là Cảm Chi vâng phụng lời cha trọn đời không cải đổi vậy. Nhưng ý cha hiền đâu vì thân đó trưởng thành ở Phong, lại sanh đồng bạn của Cảm Chi người ở Nam, chất trực đáng thương. Đó ở Phong làm đất cũ cũng chí đó vậy, nay trở về an táng nơi quê cũ là muốn con cháu nghĩ nhớ xưa cũ mà chẳng quên gốc vậy. Than ôi! Chí của cha hiền cũng xa đó vậy! Nếu như ở đất của xứ khác, thần linh thanh thuần, hay khiến người ngày nay an táng mà mai sau con cháu bèn làm văn võ. Nếu con cháu hiểu đâu chịu trái lời dạy răn của cha mẹ mà làm theo kế tính của con cháu ư? Huống gì muôn vàn không công hiệu đó vậy. Cảm Chi đọc sách không quên Đạo nghĩa, sao chẳng nghĩ cải đổi đó, nghĩa là an táng chỉ lấy cái nghĩa của nồng hậu quá đó vậy. Mạnh Tử nói: "Con Hiếu vùi giấu người thân, chỉ không nhẫn thấy hình hài đó phô bày vậy". Đến thời Tam Đại chỉ sợ sang hèn tiếm bức, xa xỉ hoặc liêm kiệm mất chỗ, nên vì làm Kinh Lễ, muốn người ứng dụng lễ tang an táng có tiết, chẳng nghe tìm cầu nơi núi sông thổ địa mà an táng người thân để làm vốn của giàu sang. Vì thuyết do bởi do Âm dương gia (các nhà chủ thuyết Âm Dương) vọng bày họa phước để cổ động thế tục. Mà thế tục miệt mài ở giàu sang, chẳng đoái hoài tu đức, rối ren nhưng vui theo thuyết đó, mong như được chí đó, cũng chẳng lầm hoặc ư? Nếu lầm hoặc đó Hiền mà có biết, nên cũng nêu ra truy tìm Thánh Hiền làm pháp thời xưa trước, ác được cùng tục nổi chìm. Tôi đây vì chẳng lấy của Cảm Chi vậy. Nghe xưa trước, có Chu Công đó làm phận người con cháu có Thánh đức Đại nghiệp, cùng trời đất muôn đời chẳng sánh, thật do Tổ tông đó tích chứa đức nhiều đời mà khiến đó vậy. Nay cảm Cảm Chi làm con cháu tính toán là phải nghĩ trung hiếu nhân nghĩa, nếu có chỗ chưa thấu đáo, thì gắng sức thấu đáo đó. Thuyết khư khư của Âm Dương gia kia, sao đủ để lưu ý? Tôi vốn kỳ lạ Cảm Chi khéo tiết tháo khảng khái, có phong thái của người xưa, đến đây rất sợ có chỗ khuyết tổn, nên chẳng dám lặng im có thể được chăng? Càng thích nghi đổi thay châm chước đó, nếu tự cho là có dị kiến, tôi quả nhiên hành theo chí đó, chẳng phải mong chỗ dám biết vậy. Ngoài ra chờ đợi cùng thấy thay đổi luận.
Chẳng tuyên bày.
Cụ vị Khế Tung tôi phụng dâng thư cùng Bí Hiệu Chánh Trọng túc hạ. Gần đây, có vị khách từ trong tiệm thuốc đưa lại một lá thư gửi cho tôi vào tháng bảy. Mở đọc, thấy như cùng tương tiếp phong độ Chánh Trọng, rất ổn chỗ hoài mong. Nhưng vì tôi thường qua lại đó là xứng Đạo, do đó rất đặc biệt suy cao. Đây tợ như chưa từng có vậy. Người nhà Phật tôi, đức đó lại chẳng đủ vang đạt, im lặng ở chốn núi rừng, thời chốn chẳng lường, nên đó thích nghi vậy, sao đủ... Mà Hiền giả Chánh Trọng đủ để tự dựng lập lớn, lại còn chăm chăm vì chẳng được chí cắt xén làm lo. Như vậy thì nào lo đạo đức đó không thấu đáo ư? Xưa kia, Lạc Chánh Tử làm chính trị, mà Mạnh Tử vui mừng nói là: "Người đó tốt lành vậy". Gần có xem thường xa ngàn dặm mà vì thiện đó nên lại bảo đó ấy vậy. Ý tốt lành của Chánh Trọng so với Lạc Chánh Tử, đâu ngay xa ngàn dặm đến báo ư? Nên nhờ ở thiện nhân trong thiên hạ có thể vậy. Đây tuy khuất ấp kia may mắn lại cố gắng đó. Đạo đó gần có chỗ trang bày đó vậy, chỗ gọi là văn tập, đó tuy gần thành một sách chỉ năm ngàn từ, để phát minh Đạo của tôi vậy. Vì Chánh Trọng mới chuyên Nho sợ chưa nhàn rỗi đó, sợ chưa liền thông. Cuối Thu như thành Gia Hựu tập, phải trước tiên thỉnh mời đến người chấp sự dưới, chưa cùng thấy nghe, mong gấp bội gìn giữ chẳng tuyên bày.
Vừa rồi có người ngày nay cúi mong Tri phủ Đoan Minh Thị Lang, cùng Thai tạo đặc sai nha tiền Từ Tân…, xa ban cho tiền, văn sớ và Thiếp cả thảy bốn bức đến Nhuận Châu, thỉnh mời tôi đến trù trì Thiền viện Tịnh Huệ. Ngày hai mươi tháng này tôi đến Đăng Vân Thiền tự đã cung kính nhận Quân mạng xong, cúi tự xét nghĩ, tôi đạo đức rỗng hư, khí thức nổi cạn, đang dự ân ban lớn thật lấy làm nhục trộm. Nhưng mà giáo pháp suy tệ, các hàng chư Tăng suy sụp biến lười. Đó bởi ý của Thị Lang nghĩ nhớ Tây Thánh (Thánh nhân ở phương Tây) phó thác, đặc biệt muốn khua động nổi dậy mỹ phong đã suy sụp, cúi nhặt tiếng tăm tầm thường mà trao ngôi vị làm Thầy. Từ sớ uyển nhã, rộng giúp cần trọng, chỉ sợ chẳng hơn nổi chỗ cử, mảy trần nhuốm lụy cao sáng, vừa thẹn vừa may, tình thấp hèn không nhậm, lo sợ cảm kích rất lắm.
Kính cẩn dâng Trạng văn tấu tạ.
Gần đây, Khế Tung tôi cúi được đặt ân từ Đại phủ xa ban cho Di văn, mời gọi Danh sơn trao cho ngôi vị làm Thầy. Đã xét chính mình hư bạc, đến lúc nghe mạng lệnh lại càng lo sợ, trông nhìn lại chẳng thư thả từ tốn nhịn nhường, thẹn nhục trộm mà không có trạng. Trạng chỉ là quan tôi. Đạo cùng cực Nhất quán, thức bao gồm cả chín phái triết học, gom tất cả các lời lấy làm công, dò hỏi các thiện mà khiến trị, vui theo giáo của Tây Thánh, mở rộng thắng duyên đó, vinh ngờ Phan của Đông hầu, trọng mạng lệnh sáng đó. Từ ý mới đẹp ban ân thương tưởng cũng sâu sắc, đã trùm đủ đức mà có nguyên do, bói hướng theo phong mà chẳng phải xa tít. Kính cẩn trước sai vị Tăng mang trạng văn đến dâng tấu, gồm tỏ bày cảm tạ. Cúi mong Tôn Từ, rủ ban soi xét.
Vừa rồi Khế Tung tôi, nay đây chợt vì tiếng tăm hư bạc, sai lầm đang thạnh mạng, dự phần giúp đỡ lớn của Hầu Phủ, du phương tham tầm ý chỉ Thiền môn, theo tự xét ngu mờ thật đáng gọi là nhục trộm. Đó bởi tôi là người nghĩ nhớ Thánh Pháp đã ngấm chìm, suy phong nghĩa để cùng dẫn trước, cúi nhặt tài mọn, dung dự tham chức lớn, chọn thiện đức để lưu lại, làm Đạo lực sung đó. Tuy miệt mài dẫn dắt vì có nguyên do, thẹn leo trèo lên không Trạng, hướng đến thăm thấy chẳng phải xa, thuật tán không cùng khắp. Kính cẩn trước sai vị tăng mang Trạng văn nêu bày ý thành khẩn của kẻ dưới, tỏ bày dâng xin cảm tạ.
Tôi bày tỏ rằng: Nay đây tạm dùng tiếng tăm trống rỗng sai lầm, đang giữ mạng tốt lành, dự khen giúp vinh dự của Phủ Hầu, được thăng chức cao trong chốn quan trường. Theo xét, ngu hèn thành thật làm tủi nhục mạo phạm, đó bởi tôi là người khúc nhã, Đạo nghĩa duỗi tán Phật thừa, cung phụng thanh quy của ngoại hộ, mở rộng việc ưu thắng khó nghĩ. Gần hướng đến suy hội để bói chọn thời buổi tốt, cảm biên ghi mới nghĩ nhớ. Các dung diện tường tự, chẳng tuyên bày.
Vừa rồi Khế Tung tôi, nay cúi được Thi phủ Đoan Minh Thị lang đài mạng giúp đến trú trì Thiền viện Tịnh Tuệ, chỉ đội ân tỏa sáng, đâu nhận cảm thẹn. Ngày mồng năm tháng này đã bắt đầu lìa Nhuận Châu, tham kiến tức thời, kính cẩn trình bày trạng văn dâng tấu.
Khế Tung tôi đây cúi xét, được thỉnh đến Bắc Khuyết bái mạng. Đông phan, trọng ân đặc thù mưa móc, bám kín nhận then chốt, tụng sống lại đã làm, phong tọa trấn bên dương. Cúi nghĩ chỉ có Tri phủ Quán văn thị lang là người Nghệ uyển thạc Nho, là bậc thượng triết trong sanh linh, giẫm đạp ngạch cửa của Thánh nhân, chiếm sư tông của Văn chương, rưới sáng văn vẻ ở rừng ngôn từ, phát huy chiếu lệnh của Đế Chúa, trử Hồng huân nơi Chốt phủ, tăng công Đại Thánh, cậy chú phương nông, xin trình bày kín hơn, ban huệ mỹ tục của toàn Ngô, rung động vinh quang của nước cũ. Dân mong mỏi khuynh thành, như đợi trông cha mẹ, Hồ nghinh đầy đường mong thấy có phương. Tôi tủi nhục làm chủ Kỳ Viên, lạm đang là bậc thầy, nguyện chỉ ngày xưa mong tiếp Thánh trần, đâu nghĩa là tuổi già riêng được nương gá quỷ bộ, nghĩ suy yếu đó mỏi mệt quá lắm, thẹn tham dự đoán rước đó chưa rước. Cúi nghĩ, Đại từ duỗi ban nghĩ xét, tình thấp hèn không nhậm trông ngóng, tịnh khâm kính quá lắm.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Cúi xét vinh hạnh vâng phụng chiếu mang, quang lâm huyện phủ.
Nhân từ mẹ cha xa vài trăm dặm, xứng thời trông mong của mây mống. Người vui lợi kiến, tụng khởi sống lại. Cúi nghĩ, chỉ Tri huyện ty môn tài chức cao sáng, khí lượng xa lớn, tiếp nối hiên niên sáng rỡ nhiều đời, đề cao quy mô của Danh gia, tiếng tăm tốt lành tràn nơi triều thạnh. Đông mong ngóng mến mộ, vết cao hiển trước ở Huệ chính, Tây Triết khâm chuộng phong, Hương Nguyên dự không dám khinh thường, Hồ tương đã tranh tiếp trước. Ngưỡng mây xanh mà rủ che, kính cẩn nghinh trọng văn trước, cúi mong chỉ xét nghĩ...
Khế Tung tôi lại xin tỏ bày: Gần đây trộm nghe, phụ theo chúng mạng đến trấn Tệ sơn. Tổ tịch thêm tỏ sáng, Đạo tôi lại khen động, tức lúc cúi nghĩ chỉ pháp hầu tốt lành chín chắn. Tôi kẻ kiều ngụ ở Long Sơn, theo hướng Bắc rảo đến rất là bất tiện. Chẳng kịp ra nghinh đón Thuyền ngự, rất thẹn sợ vậy. Kính cẩn trước phụng dâng khải văn tỏ bày.
Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi lại xin tỏ bày: Trộm cho là Tri phủ Thị độc Thị lang là người vĩ khí thuần thành, thật là Danh thần của đời Thánh, cử lên hiển vị quý trọng nhiều đời, mà lại rộng thông biết xa, rộng tán dương Phật thừa. Các hàng chư Tăng trong thiên hạ, đều kính ngưỡng làm thành trì. Tôi ngày trước ngu chẳng tự độ, liền dâng phụng thư riêng đến nơi cung quyết để phù trì chỉ giáo. Thị Lạng nghĩ tưởng công hiệu nhỏ nhiệm đó, đặc biệt cùng cử dụ, Thiên tử chấp thuận theo, bèn thành tựu chí ý sắc son ấy vậy. Đó bởi Thị lang toàn thành xinh đẹp đó, sức lớn tán thán hộ trì mới khiến như thế. Đang cùng chư Tăng trong thiên hạ gắng sức hành Đạo, để khua động ân huệ lớn mà chẳng dám quên vậy. Tình kém hèn không nhậm nghĩ nhớ phong thái, ca vịnh đức hạnh, chúc tụng, biết kết quy thấu đáo đó.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Hôm qua cúi được giáng trọng, được tiếp bái phong thái thuần tố, rất yêu tư duy lâu nay trái ngược. Nhưng mà may nghe được sai mỹ của phong tục Đàm Tân, đó là Thái Thú nhân hiền phong hóa khiến nên vậy. Tôi thường bùi ngùi kia xa phương khác tục, Phật thừa chưa tỏa khắp. Tuy rất già suy, còn muốn dùng Di pháp của giòng họ Năng-nhân khuyên chủng dẫn dắt ấp tử lấy làm thượng thiện, còn nhớ công nghi lưu lại mến thương hỗ giúp, khiến đó một vài năm được toại chí thấp hèn, lại mạnh vượt lướt tục, người đó may mắn lắm mà thắng duyên còn có vậy. Thuyền Tiên đầu trình đoái hoài chẳng thể ra ải tiễn đưa, nhạc càng buồn bã áy náy chợt xa muôn dặm. Xin chỉ khéo thấy dấu giày tôn quý, kính cẩn sai tang mang đưa khải văn tham tạ.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Ngày mười bốn tháng này, từ Hàng Châu đưa đến nơi ban tặng một bức Khuê Thập, mở bày đọc xem, vừa kinh sợ vừa mừng vui, ngưỡng đội ân sáng, không nhận cảm thẹn. Cúi nghĩ, chỉ Tri phủ Mật Gián ngôi vị tôn quý trọng vọng, đáng bậc danh thần của Thánh Tống, tài thức cao xa, là bậc đài các mô phạm. Cúi nghĩ, tôi là người tối tăm hẹp hòi ở ngoài vật, dùng lời nói hoang tàn quê kệch ấy mà cùng phát đó, cách luật nhã trọng, phong vận cao xa, đó có nghĩa là mượn chút bóng tàn của Nhật Nguyệt so với lửa đuốc, mượn âm lớn của Thiều Hộ mà sánh với trống đất, sáng rỡ thiện nhỏ đó khuyên hàng tiểu học kia, tủi nhục ban ân lớn ấy thật làm may mắn lắm. Vừa thuộc ở núi dạy răn chúng ít, chẳng rỗi tự thân đến người chấp sự dưới, kính cẩn trước nhờ khải văn dâng cảm tạ, cúi xin Đài từ rủ ban nghĩ xét.
Khế Tung tôi lo sợ xin tỏ bày: Năm trước nhân sứ giả từ phương Bắc trở về, thường được dâng tấu trạng, tin hẳn đã truyền đến Cao minh. Nay bèn cúi nghĩ, chỉ Đài hầu mừng thắng, cao dương chính trị giản tỉnh an vệ, đạo khí hẳn càng được Diệu lý. Tôi nương náu nơi núi rừng u tối hẹp hòi, lại đây ngầm kín, lần lượt thẹn trái nghi phong xa, nay làm người thân vậy. Nghe Bí Hiệu nói sẽ đến Vinh Thị, tạm đây tỏ bày chút ít trắng trong thấp kém trong muôn vật. Chỉ mong xét nghĩ. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Người không danh vọng, liền bị đồng bọn đó cùng ghét ganh làm loạn không thôi, vì thế đó nên chẳng dám đi lại, thật là sáng rỡ nơi hương ấp đó phế bỏ. Ngày qua mây quang lâm yên tốt lắm nhiều vậy, đây được dự Đại Hiền án bộ tệ thuộc, sắp chế đồ lễ ở gốc đường, trước gội rửa ban sắc giáo, há không sâu cảm thẹn! Tôi riêng sống không buộc ràng, nói nhiều trái nghịch vật, sắp xa nép ở La phù, đằng thú Thẩm Công nghi hiềm Nho tướng cùng có kỳ hạn, cuối Đông đầu Xuân, quyết hạo nhiên trở về Nam, phải đầu hầu xe trái xa Tân minh, muôn vàn xin vì nước nhà mến thương. Kính cẩn xin dâng khải văn trải bày chút ít khư khư. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Từ Hồ Bàng xung mạo sương tuyết cùng đến đã vài tháng vậy. Sau khi giả biệt chỉ đau đáu vậy. Lúc tháng tám, tiếp thư chỉ bày, mới biết Lệnh cử là người chí quan rất thiện, chẳng vì khiển trách đổi dời mà để ý. Ngoài việc công ra, xin sang cửa đối diện mây mà ngồi. Đạo tình thanh thắng, mới nhìn xuống trần tục, siêu nhiên tự vui. Tuy lúc của Trời bạch lạc, cửu giang, đâu lấy gì hơn đó? Phong thái vang khắp mọi người, chỉ cảnh phục không rỗi. Lệnh cử đáng bậc Hiền hào ở đời, lại dùng vật ngoài tự như vậy. Thanh quy đó, tổ đức càng tuyệt người xa vậy. Lão tệ tôi như mây nổi lá rụng phiêu bạc còn như chẳng định, tuy có gấp bội hứng của Tam Hạp Ngũ Lão, sao được toại đó? Còn xa cao luận, muôn vàn xin khéo gìn giữ tôn lý. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi lo sợ xin tỏ bày dâng cùng Tri phủ cấp sự Kỷ Hạ. Tôi nương náu nơi núi rừng hoang tịch chẳng tiện, hành lý lâu khuyết rong ruổi Trạng. Chẳng hơn trông nhìn hệ thuộc, cúi xét cờ xí ngọc bội đã chấn Nam tử, huống kia sách cứ cả vài vạn nhà, cũng chẳng lại đội ban sắc lớn ư? Không nhậm khâm trọng tán tụng, cảnh phục đó thấu đáo, nóng bức lắm Cúi xin dâng vì Quốc triều tự trọng, kiến thành chúc tụng, kính cẩn phụ thêm khải văn dâng tỏ bày. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Cúi từ kinh đô, thôi vâng phụng quý trọng trở về núi, tuy vang vọng rộng án đến giang ngoại, trọn không vì vâng phụng thư. Vừa biết xe theo đã đến Quận này, cúi nghĩ chỉ Tôn Lý đẹp xinh. Tôi gần đây tự sống lại, khế thư muốn đồ họa để tấu nạp, nhưng vì bệnh chưa giảm để rảo đến trước. Nay dung mạo hơi có chút bình phục, đang dùng ý nhỏ dâng tỏ bày. Kính cẩn đây trước trải bày khư khư, cúi nghĩ, chỉ nghĩ nhớ xét cho. Cho tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Từ thẳng mắt thành đàm chợt đổi thay lương tiết, vườn tường vắng vẻ, trọn mất đời rối ren, đủ để tự đắc. Ngoài ra truy tìm lại cũ, khéo hé mắt nhìn tưởng thanh tài, tâm treo cao lay động, trạng mạo khó cùng tận, như hiểu đợi chờ việc, minh mẫn vượt hẳn đồng bạn ở đương thời, muôn vàn đầu lưỡi một từ cùng khen thưởng. Huống ở dự ngắm nhìn, sao chẳng vui vẻ. Trong nắng nóng muôn vàn mong khéo gìn giữ chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Đầu mùa Hạ dần nóng, cúi nghĩ chỉ Tri huyện Quốc Bác tôn hầu khởi ở muôn phước. Ngày nay, tôi được che râm mát, thích nghi như vậy có gì sánh bằng. Cúi xét, vinh phụng minh mạng đến trấn Huyện phong, thuần ban ân dân đó, nhã xứng vật trông mong. Tôi chưa rãnh dự tham chúc mừng, tình thấp kém không nhận mừng vui ngắm trông, y theo kính thiết đó thấu đáo, kính cẩn phụng dâng khải văn, chẳng tuyên bày.
Cụ Chánh, vừa rồi Khế Tung tôi, được cúi nhờ Tiên úy mật hiệu đặc uổng xe lọng đến thưởng Nham cục, Hành vũ thêm sáng, chư Tăng xưng mừng. Hạn định vì Quy chế mùa Hạ còn thư thả, rảo hướng theo phong, thẹn sợ rất sâu, cảnh phục nhọc thuyết. Kính cẩn dâng trạng văn thăm tạ. Cúi nghĩ chỉ Tôn từ rủ ban nghĩ xét. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Ngày trước cúi vâng đến phỏng thăm Sơn xá, không lấy gì để tiếp đãi, chẳng giằng nổi thẹn sợ Tiếp đem Khuê Thập thấy Sủng điều, phong điều cao nhã, đâu thể thứ tối tăm hẹp hòi đó có thể xin tiếp. Chẳng lường hoang đường, gắng gượng hòa đó. Chỉ để lấy cười danh tượng lớn tay, nắng nóng ẩm ướt chỉ tự trọng.
Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi lo sợ xin tỏ bày: Ngày qua vâng phụng được giáng phỏng thăm khách xá. Ngưỡng đội tôn quý ban ân, chẳng nhậm thẹn sợ, chỉ vì già tệ chẳng kham việc người, chưa vậy quả nhiên tức đến dưới án. Kính cẩn sai đệ tử mang đưa Khải Văn dâng tạ, cúi nghĩ chỉ Thiếu Khanh cúi xét nghĩ nhớ. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Nay đây cúi xét Tri phủ Long Đồ bãi trấn Danh phan, liền ngay đó rảo theo sắc chiếu trở về cung khuyết đi thuyền dẫn đầu đường. Tôi ở núi rừng trốn bệnh, chẳng thể ra xa ngoài biên giao đưa tiễn, nhọc thêm buồn bã luyến mến nhân đức, cung kính vâng phụng tự lộ đó. Cúi nghĩ chỉ Đài từ nghĩ xét.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Chẳng vạch hàng ngũ lại, chợt quá hơn mười ngày, khí xuân còn cạn, cảnh sắc còn lạnh, chỉ trong thân thể không bệnh tật gì chăng. Gần cửa ải Duyên Phước, chẳng cố tập khí, thà quên nhân được lầm vọng đó, bởi vừa tánh đã rồi, đâu dám phong nhã có thể cùng ư? Nhưng người vụng dùng chẳng như người Trí rung động Cù. Huống gì Túc hạ sức lực có thừa, có thể vì tôi làm cái bừa, chớ để bàng quan cướp mất miệng Hồ lò mà cười.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Ngày trước cúi được đặc trụy thanh nhã, vốn lữ quán hùng tráng cậy chẳng nhậm cảm đội, dung thể bệnh trước hơi thuyên giảm, đang chạy chung quanh để tiếp thừa thạnh thứ. Kính cẩn dùng Trạng văn dâng nạp, cúi nghĩ chỉ rủ xét. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Trước đây ba tháng được sách của Công Hối và lời bạt của Bi Phong Dao, ẩn dụ ân cần rất lắm. Nếu chẳng phải là bạn chí cốt thâm giao, sao chịu như vậy. Đối với đó cảm bội muôn một vậy Nhưng lời tựa văn rất hay đẹp, chỉ đức đó mỏng bạt, chẳng nhậm khen thưởng vậy, thật lấy làm tủi nhục đó. Từ lâu Công Hối cách biệt chỗ dụ hiểu, sao già mà càng Hiền như thế, mừng vui lại khác thường. Tôi chỉ bạc đầu nếp xếp chẳng thể tự khua động, huống gì rãnh rỗi ở giáo Đạo ư? Xem đó được chẳng thẹn ư? Gá ở nơi Thạch Bích đã gần hai năm, tuy nhiên từ vừa rất vui, trông nhìn đời người như mộng, sao đủ kham ỷ cậy. Ngoài chăn đắp và bình bát ra, chỉ đồ thư tạp nhiên ở trong thất, những gì mến chuộng của thế tục không lưu giữ một vật. Gần đây có trước thuật Hiếu Luận gồm mười hai chương, phỏng Kinh Hiếu của Nho phát minh ý Phật, cũng tợ khả quan. Tôi tuy chẳng Hiền làm người làm tăng đó, cũng có thể gọi là chí ở nguyên giáo mà hành ở Hiếu luận vậy. Nay đem cùng gởi, bởi vì Công Hối khéo hay đối với người thân vậy. Chỗ ở tuy lao lạc, đối với Phật pháp, ý đó cũng không dám biếng lười, từ từ đang làm giáo môn trước thuật một bộ sách lớn. Chỉ lo công đó to lớn, nếu quả thật thành tựu, trước sẽ cùng tỏ bày. Công Hối đạo đã khua động một phương, tôi chẳng biết nói sao, chỉ khéo đem thân thế đây làm chí chúc, chuyên người trở lại, đặc biệt đây dâng tỏ bày.
Khế Tung tôi lại xin tỏ bày: Hòa thượng có nhân duyên lớn, dừng ở nơi đâu thì tại đó người học nhóm tụ nương theo. Thật là việc lớn lao của trong đời mạt pháp, muôn vàn may mắn càng cố gắng tôn dùng. Tôi lạm làm chủ Thiền tịch, đức mỏng lời nhỏ, chẳng làm được chỗ đáng tin cậy của đương thời, rỗng nhọc tai mắt. Gần đây tôi có ý muốn lẫn nấp ở La Phù, nếu đi trên đường hẳn ra Giang nam, sẽ bái cầu Cao Hội. Hòa thượng Công Hối lúc bình sanh tâm giao, nay già ở một bờ mé hai năm, giáo hóa chư tăng không thấu đáo, không nghe tiếng đó. Hoặc nhân Thư để lại, xin làm gọi tên. Hoàng Long là một ngôi chùa danh tiếng ở thời xưa trước, nên xưng gọi là Thanh Thê, Pháp Trường mỗi lúc đàm nói đề cập đến phong cảnh Tích thúy, nghe đó khiến người thần động tâm bay. Nay người nào được ở đó vậy. Cháu ngoại kẻ ngu tôi sớm làm nhục giáo hối, cũng chỉ tợ như người, đoái hoài con nhỏ, lấy gì để báo đáp trọng ân, đường xa chẳng kịp dùng vật thô thiển tạm tỏ bày chung quanh. Chỉ chăm chăm khâm nịnh vậy.
Khế Tung tôi cúi đầu. Tuy nghe Tổ Đồ Tồng Ký đã nhục nhặt xem, mà chưa vâng phụng bình phẩm. Tâm quê kệch được không ân hận vậy, nhục ban ân giáo mặc mới quá hình khen trang sức, đâu là Đại thiện tri thức vì pháp muốn có chỗ kích khuyên đó? Vừa cảm vừa thẹn. Tôi bình sanh tuy quen lờn hèn nhác không dựng lập lớn, nhưng cũng mạnh dạn nghe bậc Sĩ sạch xa biết cao. Hơn ba mươi năm, nhọc cảnh phục Đạo Tố, chẳng được một cùng thắng hội, đó làm đau đáu, biệt lại lãnh Đại chúng ở Long Sơn. Khâm chuộng khéo thiện đó, sách nào có thể viết hết. Ánh Xuân may mắn ngàn vạn vì pháp tự trọng. Tăng trở về kính cẩn bày trải khư khư.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Đầu mùa Hạ năm trước nghe Sư dời Tích đến Sùng Thắng, mừng vui yên ổn, mừng vui yên ổn! Lô Sơn nơi chốn ưu thắng trong thiên hạ, chỗ phát xuất Tông giáo, được Đại thiện tri thức trấn thủ trang nghiêm, là may mắn lớn của người học vậy. Thù thượng nhân đến, quả nhiên nghe Thanh quy càng cử, lại mừng vui đó vậy. Chỉ mong lâu dài ở đó có thể vậy, xin chớ có ý niệm đến phương khác là rất đẹp xinh. Tôi già suy, chợt nhiên khách đến cậy nhờ, không sức hoằng pháp. Nhọc khâm tham muốn ở hay vết tích vậy, càng xa phong luận, ngàn vạn khéo gìn giữ.
Nhân giới kính cẩn tri lộ đây. Chẳng tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Đông lâm trong bọc, rất nhục bút tay, biết lùi pháp tịch, chuyên dưỡng chí thú cao, khâm chuộng tham muốn. Chỉ Lô Sơn không được trấn trú trang nghiêm, cũng là bất hạnh của Thiền lâm, thấy mời ở Hổ khê đủ nhận phong nghĩa thạnh trọng. Chỉ tôi đẫm ướt ngưng trệ, chẳng thể liền bái Nhã Hội, rất lấy làm ân hận vậy. Ngoài ra, các xứng khác, chưa vạch trông thấy, ngàn muôn khéo mến.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Ngày trước người chuyên truyền đến, hoa ngậm nhân đã được đẹp, bãi bỏ ngầm đạo, ở đây duyên đức mới thạnh niên lạp cùng. Nhưng sau vội kinh hãi tai mắt mọi người, lại nghe các hàng tăng tục, xin lưu lại đây cả ngàn vạn, lại theo dư luận. Tôi già tệ đức bạc, chẳng thể vì đó làm giềng mối. Thiên hạ cùng biết đạo ấy, sao sai lầm dùng người này làm thay thế? Tại Tiền Đạo suy tình nhường đó, tuy tự cao trùm, mà người kém liệt, chung cùng lấy gì đáng khắc. Muôn vàn phải tự quên nhã ý vì chúng ít lưu lại. Già tệ Đông tây nam bắc người như vậy, hẳn không vết tích cố định. Vâng phụng thấy chưa kỳ hạn, ngàn vạn lưu ý.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Người chuyên đến, tủi nhục, tay giáo an ủy dụ hiểu, chân đạp mũi nhận lâu, cốt yếu đó chẳng quên vậy. Muôn cảm, muôn cảm! Hòa thượng Pháp Ấn không thể cứu liệu, bèn khiến như vậy, thương cảm không thôi, đòi văn chí tháp đó. Tuy khéo nhục cùng biết đến đối với hậu thiện đáng đây đâu có thể nghiêm sức nhún nhường ư? Vả lại, lấy vụng nắn thẳng bút hãy vâng phụng khuê mạng, cùng bày tỏ thành thật của bình sanh giao khế vậy. Dùng bỏ đổi thay lại ở chọn lựa đó càng nóng đốt ngàn muôn, vì pháp tự trọng. Kính cẩn dâng thư đáp này, chẳng dám tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Âm tín tuy chẳng cùng thông, mà khâm phục Đạo vốn nhọc cần thiết đó. Tôi không danh trạng, già lão càng dốc lòng. Khoảng cuối mùa Xuân, thôi bỏ ở núi Phật nhật, vào ẩn núp sâu tại Long Sơn, tiêu nhiên, người chẳng kham, lo âu đó, mà tôi chưa từng nhàm chán. Lại muốn khiến vâng phụng hỏi hiểu Đạo, bởi Hoài Nam chưa trở về, nên chẳng thành quả, nhưng vừa gặp Táo quân, mới biết dậy ở Thanh thắng. Khéo an ủy dấu tích cô quạnh, ngu hèn thấy mưu tính đến Lô Sơn trị hành, đương đều kính bái Đạo tràng. Đông lạnh chưa thấy gián cách, muôn vàn xin khéo mến thương. Kính cẩn trải bày khư khư đây mà chẳng dám tuyên bày.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Đã già lão vì suy yếu tật bệnh, xin cáo miễn khỏi Trú trì, đặc biệt được rủ lòng thăm hỏi, quá hình còn giúp đỡ, ngưỡng đội Đạo quyến, đâu giằng nổi cảm thẹn. Còn vì quy chế mùa Hạ chưa rỗi để đến trước kính lễ, kính cẩn dùng khải văn dâng tạ.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Vừa sáng sớm, Giám tự gởi Tiên bảo đến chỗ ở để dự tiệc trà, ý muốn thương cầu khẩn, đâu có thể nói dụ là biết thành tố. Tôi tuy chẳng khéo cùng người tương giao, đâu vì việc của ngày mai mà tự khuyết mất tiết nghĩa, không phiền cũng ngoài thanh tập. Vừa đang lúc nắng hạn, tạm làm thư bãi lui, kính cẩn bảo người hồi nạp, cúi mong thương xét.
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Nay là vâng thừa giới xứ từ xa đưa thư tặng hỏi vì chỗ mượn Hiền Thắng Tập ngày trước, không danh trạng tự ẩn giấu đó, tiện mạng lệnh mừng vui xa đến sáng rỡ khác nhiều. Tôi người cúi nhặt hư thanh, lại suy cao nghị, theo xét ngu đó, lấy gì đáng khắc? Thẹn vì già mỏi mệt, lại kéo dắt sự duyên hướng đến chưa đường hoàng. Chỉ xấu hổ sâu, lâu trệ người lại, càng ghét hận sợ. Giới sứ trở về phụng dâng trạng văn trải bày cảm tạ, cúi mong thương nghĩ.
Ngày mười tháng này, người lại được tặng bút nói chỗ mừng Đạo ý thanh tịnh, không duyên việc khác. Con người ở đời nhân là đệ nhất. Việc đó chớ khiến mắt tục trông thấy. Một vài năm lại rất chẳng vui mừng nghe, tư lự tiêu hết, không việc gì có thể kham chịu. Xưa nói: "Ngàn dặm đồng phong", tức nghĩa đây vậy. Chỗ hỏi anh em chẳng riêng ngu mê, lại gồm ngược thẳng. Tôi làm quá lời, lại du như gió qua cây, chỉ càng rầm rỉ tai, bệnh tại trong mình, không do đâu để trừ. Túc Hạ tuy có tình của anh em, cũng làm sao được? Làm sao được?
Khế Tung tôi xin tỏ bày: Hợp đây bè bạn ưu thắng, xứng đáng nhờ Đàn Hiền. Tuy vốn khâm chuộng ở Lệnh Du, còn chưa bày ở trắng trong, ngóng mong nhọc thiết, tiếp bái gặp chưa kỳ hẹn; khí thu còn trong lành, trân quý dưỡng dục đó. Hóa nhân hành chuyên, đây phụng dâng văn khải, chẳng tuyên bày.