TẠP TẠNG
SỐ 2120 - BIỂU CHẾ TẬP
1. BIỂU CHÚC MỪNG LẤY LẠI TÂY KINH
2. BIỂU CHÚC MỪNG LẤY LẠI ĐÔNG KINH
3. BIỂU CHÚC MỪNG HOÀNG THƯỢNG TRỞ LẠI KINH ĐÔ
4. BIỂU BÀY TỎ TÂM TÌNH CẢM TẠ BAN TẶNG DANH HƯƠNG
5. CHẾ THƯ XIN TÌM HỎI GÓP NHẶT KINH ĐIỂN TRONG THIÊN HẠ ĐỂ CHỈNH SỬA VÀ PHIÊN DỊCH
6. CHẾ CÁO ĐIỆP CỦA TỪ BỘ HỨA KHẢ TÌM HỎI KINH ĐIỂN
7. BIỂU CHÚC MỪNG SÁCH HOÀNG HẬU TRƯƠNG THỊ
8. CHẾ CÁO ĐIỆP CỦA TỪ BỘ CHO PHÉP PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN
9. TRẠNG KÍNH DÂNG TÔN TƯỢNG HỔ PHÁCH VÀ "TÙY CẦU CHÂN NGÔN" BẢN TIẾNG PHẠN
10. SỚ XIN THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG TU PHÁP QUÁN ĐẢNH Ở CHÙA ĐẠI HƯNG THIỆN
11. CHÙA TRÍ CỰ TU CÔNG ĐỨC, MỘT BÀI CHẾ THƯ
12. ĐỜI VUA ĐẠI TÔNG TRẠNG HIẾN DÂNG TÔN TƯỢNG MA-LÊ-CHI VÀ "ĐẠI PHẬT ĐẢNH CHÂN NGÔN" BẢN PHẠN
13. SỚ XIN MỖI NĂM THIẾT LẬP ĐẠO TRÀNG TU PHÁP QUÁN ĐẢNH
14. ĐIỆP VĂN THỈNH BỐN MƯƠI CHÍN VỊ ĐẠI ĐỨC ĐẾN TRỤ CHÙA ĐẠI HƯNG THIỆN-Chùa Định Quốc:
15. ĐIỆP VĂN TỪ BỘ XIN ĐỘ BẢY VỊ TĂNG NHÂN NGÀY KHÁNH ĐẢN
16. CHẾ THƯ XIN Y CỨ BẢN PHẠN PHIÊN DỊCH LẠI KINH NHÂN VƯƠNG BÁT NHÃ
17. CHẾ THƯ CỦA ĐỖ TRUNG THỪA XIN HỒI HƯỚNG CUNG CẤP ỦNG HỘ VÀO VIỆC PHIÊN DỊCH
19. CHẾ THƯ BAN TẶNG CỐ TAM TẠNG KIM CƯƠNG KHAI PHỦ VÀ HIỆU
20. CHẾ THƯ KÍNH BÁI TAM TẠNG PHÁP KHÔNG ĐẶC TIẾN THÍ HỒNG LÔ KHANH VÀ BAN TẶNG HIỆU
1. BIỂU VĂN TẠ ÂN BAN TẶNG QUAN HIỆU V.V... CHO CỐ KIM CƯƠNG TAM TẠNG
2. CHẾ VĂN XIN XẢ Y BÁT ĐỂ GIÚP SA-MÔN ĐẠO HOÀN SỬA CHỮA CHÙA KIM CÁC-Chùa Kim Các ở núi Ngũ Đài.
3. CHẾ THƯ XIN XẢ Y BÁT CÙNG SỬA CHỮA CHÙA THÁNH NGỌC HOA
4. BIỂU CHÚC MỪNG BÌNH CHU TRÍ QUANG
7. CHẾ THƯ XIN CHỌN TĂNG ĐỘ NGƯỜI Ở NĂM CHÙA TẠI NÚI NGŨ ĐÀI
8. CHẾ THƯ THỈNH SA-MÔN TỬ LÂN GIẢNG DẠY Ở CHÙA HÓA ĐỘ
9. CHẾ VĂN XIN ĐỘ NĂM VỊ TĂNG, NHÂN NGÀY KHÁNH ĐẢN
10. CHẾ VĂN XIN CHỌN CÁC VỊ TĂNG CHUYÊN LO VIỆC QUÉT DỌN THÁP TÔN SƯ KIM CƯƠNG TRÍ Ở LONG MÔN
11. BIỂU VĂN TẠ ÂN NGỰ ĐỀ BIỂN NGẠCH BẢO THÁP TÔN SƯ VÀ THIẾT TRAI CÚNG DƯỜNG (có phần trả lời)
12. BIỂU TẠ ÂN BAN VÌ TÔN SƯ THIẾT LỄ HÚY KỴ VÀ BAN TẶNG TRÀ VẬT
13. CHẾ THƯ XIN ĐỘ BA VỊ TĂNG, NHÂN NGÀY KHÁNH-ĐẢN
14. CHẾ VĂN XIN ĐƯA VIỆN ĐÔNG THÁP Ở CHÙA QUANG THIÊN SUNG LÀM VIỆN VÃNG LAI ĐÌNH CHỈ Ở NÚI NGŨ ĐÀI
17. CHẾ THƯ XIN THIẾT TRÍ VIỆN VĂN-THÙ Ở CHÙA CHÍ ĐỨC TẠI PHỦ THÁI NGUYÊN
19. BIỂU THỈNH PHÁP SƯ TUỆ LÂM GIẢNG DẠY TẠI CHÙA BẢO THỌ
20. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG THÍ GIỚI PHƯƠNG ĐẲNG VÀ LƯƠNG LIỆU CHO CHÙA ĐẠI HƯNG THIỆN
21. CÁO ĐIỆP CỦA TỪ BỘ THỈNH SA-MÔN TAM TẠNG ĐẠI QUẢNG TRÍ ĐĂNG ĐÀN TRUYỀN GIỚI
22. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG BÒ SỮA
2. BIỂU TẠ ÂN ĐỨC CHO PHÉP ĐƯA CÁC KINH LUẬN MỚI PHIÊN DỊCH VÀO MỤC LỤC ĐỂ LƯU HÀNH
3. CHẾ VĂN BAN TẶNG BIỂN NGẠCH CHÙA PHẬT ĐƯỜNG Ở PHƯỜNG TÂY UYỂN, HUYỆN TÂY HÀ, PHÂN CHÂU
4. BIỂU ÂN BAN CẦU MƯA, MỪNG ĐƯỢC MƯA
5. CHẾ VĂN TUYỂN CHỌN CÁC VỊ ĐẠI ĐỨC Ở THÁP VIỆN TÔN SƯ VÀ Ở VIỆN CỔ THẠCH GIỚI ĐÀN TẠI ĐÔNG ĐÔ
6. CHẾ VĂN CUNG THỈNH PHÁP SƯ SIÊU NGỘ GIẢNG KINH TRƯỚC SÁU TÔN TƯỢNG BỒ-TÁT Ở CHÙA HÓA ĐỘ
7. CHẾ VĂN BAN LỆNH THIẾT TRÍ VIỆN VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ-TÁT Ở CÁC CHÙA TRONG NƯỚC
8. BIỂU CẢM TẠ BAN SẮC THIẾT TRÍ VIỆN VĂNTHÙ Ở CÁC CHÙA TRONG NƯỚC
9. CHẾ VĂN XIN Ở HAI ĐƯỜNG CÁI TRONG KINH THÀNH, MỖI NƠI LẬP MỘT CHÙA ĐỂ GIẢNG KINH
11. SỚ VĂN KÍNH DÂNG KINH VĂN-THÙ-SƯ-LỢIPHẬT SÁT CÔNG ĐỨC
12. CHẾ VĂN XIN BỔ NHIỆM SA-MÔN ĐẠO NGỘ TRƯỚC ĐÂY GIỮ CHỨC DUY-NA, NAY CHO LÀM CHỨC TỰ CHỦ
13. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG CHO "QUỲNH HOA CHÂN NHÂN MỘT TẠNG NHẤT THIẾT KINH"
16. BIỂU KÍNH VÂNG AN ỦI QUỲNH HOA CHÂN NHÂN QUA ĐỜI
17. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG LỤA TRẮNG
18. CHÚC THƯ CỦA HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG
2. CHẾ VĂN TẶNG THÊM KHAI PHỦ VÀ PHONG TẶNG TƯỚC HIỆU "TÚC QUỐC CÔNG"
3. BIỂU VĂN BÀY TỎ TÂM TÌNH TỪ TẠ CỦA HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG ĐẠI QUẢNG TRÍ BẤT KHÔNG
4. CHẾ VĂN BAN LỆNH CÁC VỊ HIẾU TỬ MỖI NGƯỜI TỰ GIỮ LẤY NGHI PHÁP HÒA-THƯỢNG CHỈ DẠY
5. CHẾ VĂN BAN LỆNH CÁC VỊ HIẾU TỬ MẶC TANG PHỤC ĐÚNG NGHI LỄ
6. CHẾ VĂN THỦ CHIẾU (văn thư chép tay) BAN CẤP GẠO, MÌ CHO CÁC ĐỆ TỬ VÀ CHỌN NƠI CHỐN, NGÀY AN TÁNG
7. ẢNH TÁN CỦA TAM TẠNG HÒA-THƯỢNG ĐẠI QUẢNG TRÍ BẤT KHÔNG VÀ LỜI TỰA
8. CHẾ VĂN ÂN TĂNG LỤA XÂY DỰNG LINH THÁP
9. BIỂU VĂN TẠ ÂN BAN TẶNG BẢY TRĂM NĂM MƯƠI HAI XẤP LỤA ĐỂ XÂY DỰNG THÁP: (có phần trả lời)
10. VĂN TẾ CỦA ĐẶNG QUỐC PHU NHÂN TRƯƠNG THỊ, NHÂN NGÀY AN TÁNG (= nhập tháp)
11. VĂN TẾ CỦA ĐỆ TỬ TỶ-KHEO TUỆ THẮNG
12. TẾ VĂN CỦA LÝ TƯỚNG CÔNG NHÂN NGÀY NHẬP THÁP CỐ HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG
13. CHẾ VĂN BAN TẶNG TƯỚC HIỆU "TƯ KHÔNG", THỤY HIỆU "ĐẠI BIỆN CHÁNH" TAM TẠNG HÒA-THƯỢNG
16. SẮC BẢO SỨ LƯU TIÊN HẠC TRAO DÂNG TẾ VĂN
17. VĂN TẾ CỦA NGUYÊN TƯỚNG CÔNG, NHÂN NGÀY AN TÁNG (NHẬP PHÁP) CỐ HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG
18. BIỂU TẠ ÂN CHẾ VĂN TRUY TẶNG TÔN SƯ VÀ THỤY HIỆU
1. CHẾ VĂN MỜI CHƯ TĂNG NIỆM TỤNG
2. CHẾ VĂN BAN SẮC SA-MÔN TUỆ LÃNG GIẢNG DẠY HÀNG HẬU HỌC
3. CHẾ VĂN BAN SẮC SA-MÔN TUỆ THẮNG Y CỬ THEO SỰ THỈNH MỜI
4. CHẾ VĂN TẠM NGƯNG VIỆC SỬA CHỮA CHỖ ĐẤT THÁP CŨ
5. CHẾ VĂN BAN SẮC XÂY DỰNG LINH THÁP Ở TẠI BỔN VIỆN (có sứ điệp)
6. BIỂU VĂN CỦA SA-MÔN TUỆ LÃNG CẢM TẠ ÂN BAN TẶNG Y TÍA. (có phần trả lời)
7. CHẾ VĂN ÂN BAN BIỂU NGẠCH ĐIỆN CÁC VĂN-THÙ.
8. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG BIỂN NGẠCH
9. SỚ VĂN DÂNG CÚNG XÂY DỰNG ĐIỆN CÁC ĐẠI THÁNH VĂN-THÙ
10. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG PHẨM VẬT CÚNG DƯỜNG NHÂN NGÀY TIỂU TƯỜNG
11. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG GẤM LỤA (có phần trả lời)
12. CHẾ VĂN BAN LỆNH TĂNG NI KHẮP TRONG NƯỚC THỌ TRÌ ĐỌC TỤNG "TÔN THẮNG CHÂN NGÔN"
13. BIỂU CẢM TẠ TRÍ DỤNG "TÔN THẮNG CHƠN NGÔN"
14. BIỂU XIN VÌ TÔN SƯ DỰNG LẬP VĂN BIA
15. BIỂU CHÚC MỪNG LÝ LINH DIỆU CHIẾN THẮNG
16. VÃN CA TỪ CỐ CÔNG ĐỨC SỨ LƯƠNG QUỐC CÔNG LÝ TƯỚNG QUÂN:
17. BIỂU XIN TIẾP TỤC ĐẶT CHỨC QUAN SỨ CÔNG ĐỨC
18. BIỂU TẠ ÂN THIẾT TRAI CÚNG DƯỜNG VÀ BAN TẶNG TRÀ VẬT
20. BIỂU CHÚC MỪNG ĐỘ ĐƯỢC CON GÁI VUA NƯỚC HÀN XUẤT GIA
21. VĂN BIỂU CỦA SA-MÔN ĐÀM TRINH CHÚC MỪNG Ở NAM SƠN CẦU MƯA ĐƯỢC BAN TẶNG PHẨM VẬT
22. BIỂU CHÚC MỪNG TRỜI TẠNH MƯA
23. BIỂU CHÚC MỪNG CẦU MƯA NƠI AO TRỦNG
24. BIỂU BÀY TỎ XIN TỪ KHƯỚC Ở TRONG ĐẠO TRÀNG
26. BIỂU CHÚC MỪNG ĐÁNH DẸP THỔ PHIÊN
27. BIỂU CHÚC MỪNG CẦU MƯA Ở ĐẦM NGỌC NỮ
29. BIỂU CHÚC MỪNG BÌNH TRỊ HÀ NAM CỦA SA-MÔN ĐẠO NHUẬN Ở ĐÀI LINH ỨNG
30. BIỂU DÂNG CÚNG LÔNG CHIM BỒ CÂU
1. BIỂU DÂNG CÚNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA BẢN CHỮ VÀNG, CỦA GIÁM THẦN LÝ HIẾN THÀNH
2. BIỂU CHÚC MỪNG DẸP YÊN LÝ LINH DIỆU
3. BIỂU XIN ĐỘ TĂNG CỦA SA-MÔN NGUYÊN HIỆU
4. BIỂU TẠ ÂN BAN TẶNG PHẨM VẬT CỐ TÔN SƯ TUỆ KIÊN
5. BIỂU TẠ CÁC BÀI CA; TỰ; TỤNG LEO LÊN THANG DAO
6. BÀI TỤNG: SA-MÔN SÙNG TUỆ LEO LÊN THANG DAO
7. BIỂU CẢM TẠ BAN TẶNG Y TÍA VÀ CHÚC MỪNG
8. BIỂU TẤU TRÌNH VIỆC ÂN BAN QUÉT DỌN LAU CHÙI THÁP TƯỢNG CÁC CHÙA Ở KINH THÀNH ĐÃ XONG
10. BIỂU CẢM TẠ ÂN BAN TẶNG GẤM LỤA V..V... TẤT CẢ BỐN MƯƠI XẤP
12. CHẾ VĂN ÂN CHỈ BẢO BAN SA-MÔN TUỆ HIỂU-ĐỆ TỬ HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG VÌ NƯỚC NHÀ NIỆM TỤNG
14. BIỂU CẢM TẠ THÁNH ÂN VÀ TỪ BIỆT ĐỂ ĐẾN NÚI NGŨ ĐÀI PHỤNG TU CÔNG ĐỨC
15. BIỂU CẢM TẠ ÂN BAN BẢO CHO SA-MÔN TUỆ LÃNG ĐỒNG TU CÔNG ĐỨC
16. BIỂU KÍNH DÂNG "BÁU CHÂN THÚC CA" NHÂN TẾT NGUYÊN ĐÁN
17. NGÀY 13 THÁNG 08 BAN TẶNG THƯ CHIẾU (khi ấy đang ở tại chùa Kim Các, núi Ngũ Đài).
18. BIỂU TRÌNH BÀY VIỆC ĐẾN NÚI NGŨ ĐÀI VÂNG TU PHÁP HỘ-MA CÔNG ĐỨC
20. BIỂU TẠ ÂN BAN LỆNH SA-MÔN PHÁP SƯ HỮU TẮC KHAI GIẢNG KINH PHÁP TẠI CHÙA ĐẠI HƯNG THIỆN
21. BIỂU CẢM TẠ CHẾ VĂN BỔ NHIỆM SA-MÔN TUỆ LÃNG CHO LÀM CHỨC THƯỢNG TỌA Ở CHÙA ĐẠI HƯNG THIỆN
22. VĂN BIA HÒA-THƯỢNG TAM TẠNG TẠI BỔN VIỆN
Đại tông triều tặng Tư Không Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng Hòa-thượng biểu chế tập
Sa-môn Thích Viên Chiếu chùa Tây Minh ở Trường An thuộc Thượng Đô biên tập.
Hòa-thượng húy Trí Tạng, hiệu Bất Không Kim Cương. Tiếng Phạn là A mục Khư-bạt-chiếtla, vốn người Tây Vực, ở chùa Đại Hưng Thiện, đời Đường. Ngày trước, Ngài kính thờ Tam tạng Đại Hoằng Giáo Kim Cương, thọ học Mật tông. Năm hai mươi bốn tuổi mang y bát đi thỉnh cầu chỉ dạy thêm, sau khi Đại sư Kim cương trí viên tịch, ngài Trí tạng-Bất Không đi khắp năm xứ ở Ấn Độ, tìm cầu thọ học tất cả các Kinh luận Du-già, rồi trở lại đế kinh, hoặc du hóa ở Hà Tây, hay quay về Quan nội. Khoảng niên hiệu Thiên Bảo (756) từ xứ Hồ, Ngài đi bằng ngựa đến Trung Hoa. Đến niên hiệu Chí Đức thứ 02 (757), khôi phục lại Kinh đô Lạc Dương, Hòa-thượng đích thân vâng thừa Thánh chỉ, tinh thành kiến lập đàn tràng, làm Quán Đảnh Sư, cả ba triều vua đều đãi ngộ rất tôn kính. Các thứ biểu; tạ; đáp; chế thầy trò truyền thừa nhau gồm có một trăm bốn mươi bốn bài, mới chia thành sáu quyển truyền bá tương lai, những người thích học biết được ý chí của Hòa-thượng vậy.
---------------------------------------
Sa-môn Thích Viên Chiếu chùa Tây Minh ở Thượng Đô Trường An biên tập.
Theo bản A và B, biểu có hai mươi bài, đáp chế có tám bài, tất cả là hai mươi tám bài.
I. Ở triều đại vua Túc Tông (756-763)
1. Biểu chúc mừng lấy lại Tây Kinh (có phần trả lời).
2. Biểu chúc mừng lấy lại Đông Kinh (có phần trả lời).
3. Biểu chúc mừng Thượng hoàng trở lại kinh đô (có phần trả lời).
4. Biểu bày tỏ tâm tình cảm tạ ban tặng Danh hương.
5. Chế thư xin tìm hỏi góp nhặt kinh điển trong thiên hạ để sửa chữa và phiên dịch.
6. Chế cáo Điệp của Từ Bộ hứa khả tìm hỏi kinh điển.
7. Biểu chúc mừng sách Hoàng hậu Trương Thị (có phần trả lời).
8. Chế cáo Điệp của Từ Bộ Hứa Khả phiên dịch kinh điển (có phần trả lời).
9. Trạng kính dâng tôn tượng Hổ phách và Phạn bản "Tùy cầu chân ngôn" (có phần trả lời).
10. Trạng xin thiết lập Đạo Tràng tu pháp Quán đảnh ở chùa Đại Hưng Thiện.
11. Chế thư chùa Trí cự phụng tu công đức và Điệp ban sắc thiên hạ binh mã nguyên sư.
II. Ở triều vua Đại Tông (763-780):
12. Trạng hiến dâng tôn tượng Ma-lê-chi và bản Phạn "Đại Phật đảnh chân ngôn" (có phần trả lời).
13. Bài trạng xin mỗi năm thiết lập Đạo tràng tu Pháp Quán Đảnh.
14. Điệp Văn thỉnh bốn mươi chín vị Đại Đức đến trụ chùa Đại Hưng Thiện.
15. Điệp Văn Từ Bộ xin độ bảy vị tăng vào ngày Khánh Đản.
16. Chế thư xin y cứ Phạn bản phiên dịch lại kinh Nhân Vương Bát-nhã.
17. Chế thư của Trung thừa Đỗ Miện xin hồi hướng cung cấp ủng hộ việc Phiên dịch.
18. Biểu cảm tạ Ngự chế lời tựa Kinh Nhân Vương Bát-nhã mới phiên dịch và chúc mừng trăm tòa Khánh Vân.
19. Chế thư ban tặng cố Tam tạng Kim Cương Khai phủ và Hiệu.
20. Chế thư kính bái Tam tạng Bất Không đặc tiến thí Hồng lô khanh và ban hiệu.
*****
Chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Trí Tạng nói: trộm nghe rằng: "Duy trời là lớn lao, nếu chẳng là Nguyên Thánh thì không biết lấy gì để thuận trời mà hành xử. Chỉ Vua là Pháp trời, nếu không hưng thạnh thì chẳng biết lấy ai thay trời để hóa dưỡng muôn loài".
Cúi mong Bệ hạ; công lao vượt hơn cả sự lập cực, Đạo trùm khắp trời đất, tiếp nối cơ đồ của Đế Nghiêu, phục hồi nghiệp lớn của Đế Võ. Từ lúc Nguyên hung hết tàn hại, yêu nghiệt còn mê, Bệ hạ nghĩa trước đợi trở giáo, ân trước khéo tha thứ. Tạm an ủi Tỷ Võ, diệt hẳn sói lang. Từ kinh đô, mọi người quét sạch lâu đài mà trông mong Bệ hạ giũ lòng theo ước muốn của mọi người, khắc phục lẽ sai đối với lòng Trời, núi sông không dời đổi, vườn tược y như cũ. Nay xe loan đã giáng, chính Thánh đã đổi mới, đang cần chiếu soi báo đáp, như trời cao che khắp, nhân từ sống lâu. Xe giá Thượng Hoàng đến phía Bắc sông Phân, giống như lập đàn Thượng Đế ở đồi viên. Giảng nói kiếp số như cát bụi mà quay bánh xe pháp, chiếu soi ngàn muôn thế giới mà treo mặt trời Phật.
Trí Tạng tôi từ lâu được đượm nhiều ân hóa dục của Vua, lại thấy được khuôn phép nơi xứ Hán, sinh thành đã nhiều, đâu mong báo đáp, không hơn sự cùng cực của Phù Tảo. Kính cẩn đến cửa Ngân Đài, dâng biểu trình bày, chúc mừng để Bệ hạ hay biết. Thật là kẻ hèn mọn khuấy nhiễu chốn thâm cung tôn nghiêm, ngỏ lời khâm phục sâu sắc chiến công ưu việt. Sa-môn Trí Tạng tôi hết sức lo sợ kính chúc mừng.
Chí Đức năm thứ 02 (757), ngày 14 tháng 02.
Chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Trí Tạng kính biểu. Càn nguyên Quang thiên Đại Thánh văn võ Hiếu cảm Hoàng Đế phê:
Thụy Văn Minh Võ Đức Đại Thánh Đại tuyên hiếu Hoàng Đế. Bọn nhiều mưu gian lâu ngày sẽ thành tàn bạo. Trời chán ghét họa ấy, lâu ngày cũng làm cho chúng nó bại vong. Nhìn lại Thành Quyết vẫn như cũ, đến như Hiền Sĩ thứ dân đều như cũ, cảm kích sự an ủi cùng cực ấy thật sâu sắc với ước muốn của Trẫm. Đó là điều chúc mừng vậy.
Sa-môn Tam Tạng Trí Tạng chùa Đại Hưng Thiện nói: vâng thừa quan quân giải nạp tù binh báo mừng thắng trận lấy lại Đông Kinh, bè đảng phản nghịch đều tiêu sạch, một mình Bệ hạ chế phục, nhân dân vui mừng vỗ tay hớn hở, dẹp tan mưu đồ. Trí tạng tôi nghe: "Bọn nghịch Đức quên mình tạo tác yêu nghiệt, khó ẩn núp dưới bóng lá tre". Vâng, đó là cách ngôn. Từ lúc bọn rợ Hồ điên cuồng nhiễu loạn đất Trung Hoa gần đến ba năm, thần dân oán giận, chứa nhóm hung ác lâu ngày đầy tràn. Bệ hạ khéo thức khuya dậy sớm, khiến những người phụ tá đắc lực mạnh mẽ, tranh giành nơi chốn trước, không bỏ sót mưu lược, thần công thật không hai. Nhân đó, phá tre, gặp phải bọn nghịch Đức kia phản lại, chỉ một lát giáo đánh được cả ba, kéo dài đến mười ngày mà cả hai đô thành đều khâm phục. Thật là, mưu tính rành rẽ, vận mạng lớn lao, anh hùng chiến lược khác thường, thánh lực giúp đỡ che chở rất cao, hơn hẳn các Vua, đang cần dốc lực nâng cao như mặt trời chiếu soi trên đỉnh núi Thái.
Trí Tạng tôi nay được gánh vác xương minh, được ban thạnh lễ, chẳng dám vỗ tay reo mừng hớn hở. Kính cẩn đến cửa Ngân Đài, dâng biểu trình bày chúc mừng để Bệ hạ xét biết. Thật là kẻ hèn mọn khuấy nhiễu chốn cung sâu tôn nghiêm, ngỏ lời khâm phục sâu sắc chiến công lẫy lừng. Sa-môn Trí Tạng tôi hết sức vui mừng kính chúc.
Hoàng Đế phê:
Đó là điều chúc mừng vậy.
Sa-môn Bất Không nói: Bất Không tôi nghe: "Đạo, chỉ Đạo của Trời và Tiên Đế hòa hợp thì Thần công không gì cắt được. Hiếu là cội gốc của Đức, chí Đức hưng thịnh mà hay nhận Nguyên phù". Cúi mong Bệ hạ vâng chịu mạng trời nối nghiệp Đế Nghiêu, tùy thuận lòng người phục hồi Đế Võ, không sửa đổi vật mà xét xem chính trực Nhị Nghi, chưa hết mười hai ngày mà hai kinh thành đều vắng lặng cả. Thật công cách như trời cao, Đức vượt hẳn các Vua, Đông nhường các Hậu, Tây đón Thượng Hoàng. Rủ áo trời mà từng dẫn xe Loan, rảo bước giữa trời xanh mà kéo dài xe Pháp. Thiên phụ thiên tử, ngày trước ngày sau, bỏ cửa chánh cung mà trở lại ngôi vua. Sửa đổi giềng mối triều đình mà chở che bình an muôn họ. Đó thật là Thượng hoàng giũ lòng dạy bảo, suy công cao trước phép vua. Bệ hạ thừa thời Chí Đức mà đứng đầu hưng vượng. Đủ để làm sáng ngời khuôn phép trong sử sách, soi sáng xem như Đường Ngu. Bất Không tôi sống nhằm thời hưng thạnh này, chợt gặp lúc vinh hạnh vẻ vang, chẳng dám mừng vui đến cùng, kính cẩn đến cửa Ngân Đài, dâng biểu trình bày chúc mừng để Bệ hạ nghe biết. Thật là kẻ hèn mọn xúc phạm đến chốn cung sâu tôn nghiêm, ngỏ lời bội phục chiến công lẫy lừng. Samôn Bất Không tôi vô cùng mừng vui kính chúc.
Chí đức năm thứ 02 (757) ngày mồng 09 tháng 12.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện, kính biểu. Hoàng Đế phê:
Quét sạch khí đó, thôi định hoàn cảnh, Thánh Thượng trở về để sắp đặt yên ổn trong triều, sớm hôm khai lễ, vui mừng rất sâu. Đó là điều chúc mừng vậy.
Sa-môn Bất Không nói: Trung sứ Ngô Du Nham đến Phụng tuyên Thánh Chỉ để Bổn viện của Bất Không tôi ngày nay thiết trai, đặc tặng Danh hương và ban Thiên sứ. Thư riêng đầy đủ, mừng vui thật khó tả, Bất Không tôi vô cùng hoan hỷ, Bất Không được ngâm mình trong dòng Pháp, ý muốn mở rộng Mật giáo, một mình đi muôn dặm, học khắp năm xứ Ấn Độ. Nghĩ tưởng như được ra mắt các Đức Phật ở thế giới Hoa Tạng trong mười phương, chuyên tinh năm bộ, cùng khắp chân ngôn của Nại Uyển. Thường bày tự Quán, gieo thân mong cầu che chở, mong nương năng lực thệ nguyện rộng lớn, được gặp Luân Vương ra đời, trong sạch thành khẩn mười năm dần gặp được Minh Thánh. Năm trước, Hàm quan chưa mở, Bệ hạ dưỡng đức ở cung Xuân, sớm vâng âm vang đức hạnh giũ lòng xét hỏi, lại ban cho thuốc thơm, thầm bảo gia trì. Đến lúc Bệ hạ tuần du phương bắc, Bất Không tôi tuy chẳng theo hầu mà cùng các đệ tử như Hàm Quang v.v... đi về Tây Vức, vừa ra, lại đích thân được gặp xe Loan nơi giữa khoảng núi gập ghềnh xứ rợ Nhung quay trở lại, được dự nghe bàn luận Định Sách. Bất Không tôi tuy thân vùi nơi đất Hồ, tâm thường kính vâng triều đình, luôn thừa mật chiếu, kính dâng đều đạt. Bệ hạ, mưu rành riêng vận, nhờ năng lực Phật pháp thầm che chở, bọn hung nghịch đều thất bại. Phép tắc cung đình trở lại chân chánh. Bất Không tính chất nhỏ mọn, thật hổ thẹn với ân sủng triều đình. Mười tháng ở Thanh cung để lập hội Bích ma, chính triều ban hiệu vẫn vào đàn Quán Đảnh, trang sức vào cung, huân tu ở điện riêng, đã hứa phiên dịch vẫn cùng độ tăng thấm nhuần ân đức đã sâu, muốn dốc sức báo đáp, chẳng biết ngày nào. Nên kính cẩn đáng ba thời tắm rửa tôn tượng, nửa tháng làm Pháp Hộma, ngõ hầu ba mươi bảy Tôn Bảo, cõi nước của minh vương, mười sáu vị Hộ tăng, oai thần của Thánh Đế, sống lâu như núi Nam, vĩnh viễn không cùng. Chẳng gì hơn, cảm kính vui mừng gánh vác đến cùng. Kính cẩn dâng biểu tỏ bày cảm tạ để Bệ hạ nghe biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng mừng vui kính cảm tạ.
Chí Đức năm thứ ba (758) ngày 23 tháng 01.
Chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Bất Không kính biểu. Quang Thiên văn võ Đại Thánh Hiếu cảm Hoàng Đế phê:
Sa-môn Bất Không hiện thân ở Tây Vực, khai pháp ở Trung Quốc. Ngày xưa, thệ nguyện sâu rộng, lòng trẫm hẳn đã biết, trải qua hằng sa, được năng lực phước đức lớn lao, từ khoảng thời gian, đường đi khó khăn, thường nhớ nghĩ nhân duyên, nay Tỳ-kheo khai đạo, trong ý nguyện thảnh thơi. Nay Liên Hoa đã rất mực thanh tịnh, trùng tuyên kinh điển nhiệm mầu không thể suy nghĩ bàn luận của Phật. Cao quý không gì ngăn ngại sợ hãi, là ban thưởng cho mạt Hương, vâng giữ tinh tu, thường không lui sụt. Đó là biết cảm tạ vậy.
Các chùa tại Trung Kinh như Từ Ân, Tiến
Phước v.v...
Các chùa tại Đông Kinh như Thánh Thiện, Trường Thọ, Phước Quang v.v... Đồng thời ở các châu, huyện, quán, chùa, thôn, phường, có các kinh điển do các ngài Tam Tạng Đại Biến Giác Nghĩa Tịnh, Thiện Vô úy, Bồ-đề-lưu-chi, Bảo Thắng v.v... Đem đến.
Tam Tạng Sa-môn Bất Không chùa Đại Hưng
Thiện tấu trình: các kinh điển trước ấy, các vị tam Tạng Pháp sư trước đây phần nhiều chưa phiên dịch hết, do năm tháng đã lâu dài, sách bìa rách nát, rơi rớt lưu lạc, thật đáng buồn thương, nếu không sửa chữa, sợ e trái với Thánh Giáo. Gần đây, vâng mạng ban ân hứa bảo phiên dịch, sự việc vốn là tìm xét hội chứng lời sai, trông mong cho phép các nơi sở tại kiểm duyệt thâu xét. Trong đó, nếu có chỗ rách nát khuyết sót, tùy sự mà thêm vào và với các kinh điển có thể phát huy rộng rãi giúp ích nước nhà thì mở mang, hoằng hóa, tiếp tục phiên dịch để trình bày lên Bệ Hạ xét biết. Nhờ phước đức ấy mà thân thể Bệ hạ rất thù thắng, xin giao phó cho ty sở.
- Trung thư môn hạ.
- Điệp văn của Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện.
- Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y theo Điệp văn cầu xin để chuẩn định. Ban sắc như cố điệp.
Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày 12 tháng
03.
- Đặc tiến hành Trung Thư lệnh Thôi viên-Đặc tiến hành Thị Trung Hoàng Tấn Khanh.
- Tư không Binh Bộ Thượng thư Đông Bình chương sự Lý sứ.
- Tư Đồ Thượng thư Tả bộc xạ Đồng Bình chương sự Thuận sứ.
Các chùa Từ Ân v.v... ở Trung kinh, các chùa Thánh Thiện, Trường thọ ở Đông kinh cùng với các châu; huyện; quán; chùa; thôn; phường có kinh điển của các vị Tam tạng Pháp sư Đại biến giác Nghĩa Tịnh, Thiện Vô Úy, Bồ-đề-lưu-chi, Bảo Thắng v.v... đem đến.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không ở chùa Đại
Hưng Thiện đã trình tấu: các kinh điển ấy, các vị Tam tạng Pháp sư phần nhiều chưa phiên dịch, trải qua năm tháng đã lâu, sách bìa rách nát, rơi rớt lưu lạc, thật đáng buồn thương, nếu không sửa chữa lại, sợ e trái với thánh giáo. Gần đây, vâng mạng ban ân cho phép phiên dịch, sự việc ấy vốn là tìm xét hội chứng lời sai, trông mong cho phép các nơi sở tại kiểm duyệt thâu xét. Trong đó, nếu có chỗ bị rách nát khuyết sót, tùy sự mà bổ sung. Và các kinh điển có thể giúp ích nước nhà mở mang hoằng hóa, tiếp tục phiên dịch để tấu trình lên bệ hạ xét biết. Nhờ phúc đức ấy mà thân thể bệ hạ rất tốt đẹp.
Được Bệ hạ ban ơn chấp thuận, xin giao phó cho tư sở.
Chỉ dụ ban sắc y như Điệp Văn trình tấu.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày 12 tháng 03.
- Đặc tiến hành trung thư lệnh Tập Hiền Viện Đại Học Sĩ tri viện sự giám tu Quốc sử thượng Quế quốc Triệu Quốc Công thần Thôi Viên tuyên cáo.
- Trung thư thị lang Quyết trung Đại phu trung thư xá nhân kiêm Thượng Thư Hữu thừa Tập hiền viện Học sĩ phó tri viện sự thượng Quế quốc tứ Tử kim ngư đại Từ Hoạt vâng lệnh thực hành.
Phụng sắc viên như Điệp văn vâng lệnh thực hành.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758) ngày 15 tháng 03
- Đặc tiến hành thị trung Hoằng văn Quán Đại Học sĩ tri Thái Thanh cung sự giám tu Quốc sử Thượng Quế Quốc Hàn quốc công Tấn Khanh Hoàng môn thị lang khuyết.
- Ngân Thanh Quang lục Đại phu hành cấp sự trung thượng Quế Quốc Tấn vân huyện khai quốc nam dịch Thượng thư từ Bộ.
- Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ như Điệp văn chuẩn định. Ban sắc như Cố Điệp.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày 17 tháng 03. Lệnh sử môn Quý Điệp, chủ sự Đường quốc Hưng viên ngoại lang Vi Thiếu Du.
Sa-môn Bất Không nói: Cúi xuống để nhìn lệnh thần sách ngày nay là Hoàng hậu. Cúi xuống để nghe có trời có đất là sinh muôn vật, một âm một dương, đó gọi là Đạo. Do đó, Thần hóa nhiều thứ, mẹ nuôi dưỡng muôn dân. Ngày xưa, Hoàng hậu như vậy là lễ nghi long trọng.
Cúi mong Hoàng Hậu Đức hạnh sáng ngời, mẫu mực mềm dịu. Có công giúp đỡ Xuân Vi (các đợt thi hội), trông nhìn khí mây mà biết trở về, bước lên cỗ xe cao lớn mà dẫn dắt mọi người. Bệ hạ, trên thật tương phù với Cảnh mạng (= trời), dưới hợp với Khôn nghi (= đất), thuận lòng trăm họ, hòa cùng với mẹ của muôn dân. Trời đất đã định sẵn, muôn vật đều tốt lành. Phàm ở trong đời, ai chẳng ca ngợi vui mừng, huống gì Bất Không tôi nặng mang Tư Đạo, từ lâu đượm nhuần ân sâu, tình cảm vui mừng hớn hở, muôn ngàn chủng loại, không dám tự vui riêng nơi cung vắng. Kính cẩn dâng biểu chúc mừng để xét biết. Bất Không tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758) ngày mồng 08 tháng 04.
Chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Bất Không kính biểu. Càn Nguyên Quang thiên văn võ Đại thánh Hiếu cảm Hoàng đế phê:
Hoàng Hậu Đức trùm cung vi, công thành phụ giúp, dùng lấy sách lễ quý trọng để sửa khuôn phép Khôn nghi (nữ lưu). Đó là điều chúc mừng vậy
Tạng Giáo Đà-la-ni, kinh Kim cang đảnh Du già v.v... gồm tám mươi bộ, các kinh luận Đại Tiểu thừa gồm hai mươi bộ. Tổng cộng một trăm hai mươi quyển.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Bất Không tôi nghe "Tiếp nối cơ nghiệp Đế Vương là tiếp nối ngôi Vua, nhận di chúc của Phật là truyền trì Phật giáo". Lược xét cách ngôn ấy, chưa từng sửa đổi, lưu truyền hưng thạnh muôn đời, sinh sôi ngàn muôn ngõ ngách. Bất Không tôi, chống tích mang bình đi xa đến chốn Thiên Trúc, trải qua núi non khe động, rảo bước đến các nước, hễ gặp các Thánh tích thì đầu thành đảnh lễ, thường nghe kinh pháp, hết lòng cầu mong, tìm tòi cầu học tinh tường, cùng khắp sâu rộng. Thật lòng dặn dò từ phương xa, phát nguyện mở mang, bèn gặp được các kinh luận trước ấy. Từ sau khi đến Trung kinh, chưa phiên dịch được, đã quyết biên chép giữ gìn. Rất trông mong Thánh từ cho phép phiên dịch, ngõ hầu chiếu pháp ban trải, mở lối giữ gìn, mặt trời Phật lên cao, tăng thêm công lao mở mang. Mong ân Bệ hạ cho phép, xin tuyên cáo giao phó cho ty sở.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758) ngày 11 tháng 06. Chỉ dụ ban sắc y như trình tấu.
- Trung thư lệnh khuyết.
- Trung thư thị lang đồng trung thư môn hạ bình chương sự tứ tử Kim ngư Đại Vương Hưng tuyên cáo.
- Triều tán Đại phu Trung thư xá nhân Kiêm Lễ Bộ thị lang thượng Quế quốc Cô, Tang huyện Khai Quốc Công Lý Quỹ phụng hành.
Phụng sắc chiếu chỉ như Điệp văn phụng hành. Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày 16 tháng 06.
- Đặc tiến hành thị trung Hoằng văn Quán Đại học sĩ tri Thái Thanh cung sự giám tu Quốc sứ thượng quế quốc Hàn quốc công Hoàng Tấn Khanh Hoàng Môn thị lang quyết.
- Thông nghị Đại phu hành cấp sự trung tứ tử Kim Ngư đại khai quốc Nam Hưu Thượng Thư từ Bộ.
- Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện.
Điệp văn phụng vâng chỉ dụ như Điệp văn chuẩn định.
Ban sắc như cố Điệp.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày 18 tháng 06.
- Lệnh sử môn Quý Điệp, chủ sự Đường Quốc Hưng, Viên ngoại lang Vi Thiếu Du.
- Một tôn tượng Đức Bảo Sinh Như Lai bằng hổ phách.
- Một bản "Đại Tùng Cầu Đà-la-ni" bằng tiếng Phạn.
Trước kia, Hà Thanh mở vận, nơi cung đình sáng tỏ báo điềm tốt lành, mới thuộc thời tiết Trùng dương (09 tháng 09), vui mừng ngàn năm Thánh Đản. Do Bệ hạ ưng thuận tôn tượng Phúc báu có tên là Bảo Sinh. Do bệ hạ phát khởi xưng niệm tùy thông minh có hiệu là Tùy cầu. Tôn tượng hay phát ánh sáng soi suốt như Bệ hạ ban ánh sáng nhà dân khắp bốn duy. Ánh sáng ấy hay khiến sợ hãi giống như ma oán, như Bệ hạ uy phục muôn nước.
Kính cẩn xét theo Kinh Kim Cương Quán đảnh thì tất cả các Đức Như Lai thành Đẳng chánh giác đều nhận lãnh Pháp Quán đảnh của Đức Phật Bảo Sinh, cho đến Bệ hạ huyền công cách trời, dùng chánh Pháp trị nước, phụng thờ và thời vận đều khế hợp tương phù. Cúi mong Thiếu tu kính niệm gìn giữ mang theo, cho nên phải trì chú ánh sáng soi tỏa rộng ra, Bệ hạ cảm hóa ở Đông Hộ. Bổn tôn ban bố giúp đỡ lâu dài, Thánh thọ so với Nam sơn, không dám vui mừng sâu xa, kính cẩn dâng sớ, thật là kẻ hèn mọn khuấy nhiễu nơi chốn tôn nghiêm, bội phần khâm phục chiến công lẫy lừng. Xin kính dâng.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ nhất (758), ngày mồng 01 tháng 09.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không kính dâng chùa Đại Hưng Thiện. Càn Nguyên Quang thiên Đại thánh văn võ Hiếu cảm Hoàng đế phê:
Thân tướng các Đức Phật như hoa ưu-đàm hiếm khi xuất hiện, Mật tạng của Như Lai, thần chú khó thể suy nghĩ bàn luận. Sa-môn Bất Không mở rộng Không Tông, thọ trì ấn quyết bí mật, dùng chánh Pháp ấy mở rộng che chở cho thân thể trẫm, tin nhận vâng làm, lợi ích thật sâu xa vậy.
Thần trộm nghe: Phương pháp phá trừ tai ương, dứt hết ách nạn không gì hơn giáo Pháp bí mật của Đại thừa. Trong các pháp môn Đại thừa thì Pháp Quán đảnh là trên hết. Nay thuộc tháng Hạ nhuần, trăm hoa đều nở, cúi mong mạng cho Tam tạng Bất không. Với sự việc trên, chùa vì nước nhà mà thiết lập đạo tràng tu Pháp Quán đảnh. Trong Đạo tràng có giáo pháp dứt trừ tai ách, tăng ích phước thọ, có công năng hàng phục mà vui mừng. Kính phụng công lực ấy để dứt trừ hung ác. Đức Bệ hạ thêm lớn, Thánh thọ vô cương. Nhân điềm tốt lành ấy mà dân được thanh bình lâu dài. Thần (bề tôi) vốn không tài năng thực hành, hổ thẹn kính vâng chóng gấp, thành thật kính trình bày, Thần thêm lo sợ toát mồ hôi. Nếu chấp thuận điều Thần trình tấu thì xin Ban chỉ dụ y như điều tấu trình.
Niên hiệu Càn Nguyên năm thứ ba (760), ngày mồng 04 tháng 04 nhuần.
-Cung Uyển Đô tuần sứ, ngự vũ hiệu ủy hữu nội suất Phủ Suất viên ngoại trí đồng chánh viên tứ Tử kim ngư đại nội phi long khu sử thần sử tông kính dâng trạng.
Liên nguyên sư điệp phụng sắc Sa-môn Tam Tạng Bất Không cùng ba vị đệ tử Tăng tuyên cáo ở chùa Trí Cự tu công đức.... Ngày 25 tháng 08, khai phủ phán hành quân Lý phụ quốc, tuyên sắc thiên hạ Binh mã nguyên sư.
Điệp Tam Tạng Bất Không.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ ghi như điều xin thi hành, ban sắc các Điệp văn chiếu theo lý do, ban lệnh sự việc xong ngày thì đình chỉ nên gọi là Điệp.
Niên hiệu Thượng nguyên năm thứ nhất (760) ngày 25 tháng 08. Khai phủ phán hành quân Lý phụ quốc, nguyên sư việt vương tại nội.
- Điêu khắc một tôn Tượng Ma-Lê-Chi bằng bạch đàn.
- Một Bản "Đại Phật Đảnh Chân Ngôn" bản Phạn.
Bất Không tôi may nhân Thánh vận, sớm vâng phụng tốt lành trong sáng, bỗng gặp thời giáng đản, lại gặp ngày Kim Luân. Cúi mong Bệ hạ thọ mạng lâu dài và do phúc báu của Bệ hạ nên Tôn Tượng có tên là Oai Quang (= Ma-Lê-Chi). Do Bệ Hạ đứng đầu trăm vua nên chân ngôn hiệu là Phật Đảnh.
Kính cẩn suy xét theo kinh Đại Phật Đảnh thì tất cả các Đức Như Lai thành Đẳng chánh giác đều thọ trì chân ngôn này, cho đến các vua Chuyển luân Thánh vương đang tại vị không ai chẳng tuân theo mà thực hành. Cúi mong Bệ hạ nương trời mà lên ngôi, Quốc chính của Thánh vương đều đổi mới, dùng chánh pháp để trị nước cùng khế hợp với thiên nhiên. Cúi mong Thiểu tu kính niệm, gìn giữ mang theo thì rộng truyền đến hóa độ Đông Hộ, kéo dài Thánh thọ so với Nam Sơn, không dám vui mừng đến cùng, kính cẩn dâng sớ. Thật là kẻ hèn mọn khuấy nhiễu chốn cung sâu tôn nghiêm, càng gấp bội lần khâm phục chiến công lẫy lừng. Thành thật kính dâng.
Niên hiệu Bảo ứng năm thứ nhất (762) ngày 13 tháng 10.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không kính dâng chùa Đại Hưng Thiện. Hoàng Đế phê:
Triều đại hiệu là Đại Tông, Thụy hiệu là Duệ Văn Hiếu võ Hoàng Đế.
Tôn Tượng Đàm-Ma, chân ngôn Bối diệp, trời Nam đã xa cách, ở Trung Quốc khó gặp. Bất Không Thượng nhân từ mẫn giữ gìn mà đến, chẳng dấu kín Tang môn, truyền các tượng quyết, được chưa từng có, do vậy mà dứt trừ mọi sự lo toan.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện, xin vì nước nhà mà thiết lập Đạo tràng tu pháp Quán Đảnh.
Bất Không tôi nghe rằng: "Thân Phật Tỳ-lôgiá-na bao trùm muôn vạn thế giới, chân ngôn mật ấn gồm thâu các kinh. Chuẩn định về giáo thì có Đốn (nhanh), tiệm (chậm). Tiệm tức vào nơi Học xứ của hàng Thanh văn tiểu thừa, Đốn tức pháp môn quán đảnh của hàng Bồ-tát Đại sĩ. Đó là đến con đường an vui cùng cực, là chánh vị làm Phật. Đảnh nghĩa là Đảnh đầu, biểu thị sự cao quý của hạnh lớn, Quán tức là Quán trì, rõ suốt sự che chở giúp đỡ của các Đức Phật. Vượt lên và ra khỏi phiền não đâu chẳng do từ đó, vì vậy khắc kỷ giữ gìn, siêng năng không buông bỏ, ngày đêm chỉ nguyện khen ngợi kính ngưỡng đâu dám biếng lười. Mong rằng mỗi năm vào giữa mùa Hạ và ba tháng trường trai, y cứ kinh pháp, thiết lập Đàn tràng, nghiêm tịnh hoa hương để khai pháp hội, khiến các loài hữu tình quy hướng chánh chân, ngõ hầu mọi nơi thảy đều nghiêm tịnh, Bệ hạ sống lâu muôn tuổi, khẩn niệm không thể kể xiết, kính cẩn đến cửa Ngân Đài, dâng sớ trình bày xin xét biết. Mong ân Bệ hạ chấp thuận, xin ban chỉ dụ như sớ tấu trình.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ nhất(763) ngày 14 tháng 11.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện, kính dâng trạng văn.
1/ Đại Đức Hoài Cảm.
2/ Đại Đức Hàm Quang.
3/ Đại Đức Pháp Thành.
4/ Đại Đức Huệ Viễn.
5/ Đại Đức Nguyện Hiệu.
- Chùa Kính Ái ở Đông Đô:
6/ Đại Đức Thừa Như. 7/Đại Đức Siêu Độ.
- Chùa Thắng Nghiệp:
8/ Đại Đức Thông U; (được giữ chức thượng tọa)
9/ Đại Đức Huệ Linh (được giữ chức Tự chủ).
- Chùa Tiêu Giác ở phủ Phụng Tường:
10/ Đại Đức Thâm chiếu (được giữ chức Duy-na).
- Chùa Tiên Phước:
11/ Đại Đức Tạng Dụng. 12/ Đại Đức Pháp Chuẩn, 13/ Đại Đức Huệ Thông.
- Chùa Thiên Phúc:
14/ Đại Đức Phi Tích.
15/ Đại Đức Đàm Diên.
16/ Đại Đức Pháp Sùng.
- Chùa Linh Giác ở Hạ Châu:
17/ Đại Đức Tiềm Chân.
- Chùa Sùng Đạo ở Thương Châu:
18/ Đại Đức Tuệ Thông.
- Chùa Phụng Ân:
19/ Đại Đức Tuệ Đoan.
- Chùa Long Hưng ở Đông Đô:
20/ Đại Đức Tuệ Chiếu.
21/ Đại Đức Linh Sơn.
22/ Đại Đức Tánh Như.
- Chùa Quảng Phước:
23/Đại Đức Tuệ Minh.
- Chùa Vĩnh Ninh:
24/ Đại Đức Trí Thuận.
- Chùa Thiên Trúc:
25/ Đại Đức Đàm Nghĩa.
- Chùa Tướng Quốc ở Biện Châu:
26/ Đại Đức Duy Tú.
- Chùa Nam Dương ở Hán Châu:
27/ Đại Đức Đạo Yến.
- Chùa Tịnh Chúng ở Thành Đô:
28/ Đại Đức Đạo Ngộ.
- Chùa Bảo Đảnh:
29/ Đại Đức Tuệ Ánh.
- Chùa Tuệ Nhật ở Kinh Châu:
30/ Đại Đức Pháp Trân.
- Chùa Thiên Trường:
31/ Đại Đức Diên Tú.
- Chùa Thúy Vi:
32/ Đại Đức Đạo Lãng.
- Chùa Đại Vân:
33/ Đại Đức Hải Minh.
- Chùa Tư Thánh:
34/ Đại Đức Thông Do.-Chùa Từ Ân:
35/ Đại Đức Pháp Lâm.
- Chùa Kim Quang Minh:
36/ Đại Đức Đạo Du.
- Chùa Bảo Đài:
37/ Đại Đức Đại Biện.
- Chùa Tây Minh:
38/ Đại Đức Tuệ Hãn.
- Chùa Sùng Phước:
39/ Đại Đức Tuệ Tông. 40/ Đại Đức Như Tịnh.
41/ Đại Đức Tuệ Nguyệt.
- Chùa Thanh Long:
42/ Đại Đức Nam Ngạc.-Chùa Thắng Nghiệp:
43/ Đại Đức Trí Minh, 44/ Đại Đức Hy Thấu, 45/ Đại Đức Khai Xiển.
- Chùa Linh Cảm:
46/ Đại Đức Giác Siêu.
- Chùa Lễ Tuyền:
47/ Đại Đức Tuệ Trừng.
- Chùa Bảo Thọ:
48/ Đại Đức Tuệ Sùng.
- Chùa Kiến Pháp ở Huyện My, phủ Phụng Tường:
49/ Đại Đức Pháp Kính.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: sự việc trên là do ngày trước, chùa thiết lập tại Trường An là muốn gìn giữ đất nước. Lúc đầu, mới xây dựng chùa ấy, thì mái chùa cao rộng toàn dùng một phường. Xưa nay, các đời trụ trì đều là những bậc danh đức, sau khi các bậc lão túc viên tịch, thì tăng chúng điêu tàn, oai nghi phép tắc phạm thảy đều phế bỏ, trải qua nhiều năm, đài điện hoang sơ lạnh lùng. Nhìn đọc bản thanh quy, thật đáng buồn than thương tiếc, tuy có người nối tiếp nhưng giới luật chưa được kiềm thúc, lại bị khó khăn. Phụng thờ cậy nhờ phúc thần ban giáng. Trước, chọn lựa thỉnh mời bốn mươi chín vị tăng đều là đạo nghiệp thanh cao, thông suốt kinh điển giới luật, là những bậc mà mọi người kính phục yêu mến, xứng đáng làm khuôn phép. Lại cúi xin đặt tên chùa ấy, có gì khuyết thiếu thì cho thay điền vào. Ngõ hầu hợp sức giữ gìn, tích tập chỉnh lý những tệ hại, mãi mãi thờ phượng hương hỏa, làm phúc cho bệ hạ, đảm nhiệm giềng mối, trông mong điều y cứ chuẩn định. Lại nhân vì chùa bị nghèo nàn đổ nát nên cúi xin xót thương ban cho các tạp sai định liệu ngôi thứ. Ngõ hầu gọn gàng việc thuế khóa, không cắt dứt sự báo đáp nước nhà mà hành đạo. Nếu ân đức bệ hạ chấp thuận, xin giao phó cho tư sở.
Chỉ dụ ban sắc y như trình tấu.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ 02 (764), ngày 23 tháng giêng.
- Tư Đồ Kiêm Trung tư lệnh Phân Vương quận vương sứ.
- Ngân Thanh Quang lục đại phu hành trung thư thị lang Đồng bình chương sự thần Nguyên tải tuyên cáo.
- Triều tán đại phu hành trung thư xá nhân trường lạc huyện khai quốc hầu thần Phan viêm phụng hành.
Phụng vâng chỉ dụ như Điệp văn phụng hành.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ 02 (764), ngày mồng 02 tháng 02.
- Thị trung sứ.
- Hoàng môn thị lang đồng bình chương sự Vương Tấn.
- Cấp sự trung Cạo.
- Thượng thư từ bộ Điệp, Tam Tạng Bất Không.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ 02 (764), ngày mồng 06 tháng 02
- Lệnh sứ lận côn điệp, chủ sự hà y, viên ngoại tức Sầm sâm.
1) Đại đức Tuệ Thông (năm mươi lăm tuổi) (người họ Vương, ở huyện Khúc Lệ, Hàng Châu, không quê quán, thỉnh trụ chùa Thiên Phước).
2) Đại đức Tuệ Vân hai mươi ba tuổi (họ Đoàn, ở huyện Trường An, phủ Kinh Triệu, không quê quán, thỉnh trụ chùa Đại Hưng Thiện).
3) Đại đức Tuệ Lâm ba mươi tuổi (họ Hà, tên
Quang Vương, cùng quê với Huynh Bột ở Lý Văn Hương, hương Phương Tường, huyện Văn Hương, châu Hổ, thỉnh trụ chùa Đại Hưng Thiện).
4) Đại đức Tuệ Trân ba mươi ba tuổi (họ Vương, tên Đình Hiện, cùng quê với Bá Cao ở lý Phúc Nhuận, hương Hồng Đổng, huyện Vạn Niên, phủ Kinh Triệu, thỉnh trụ chùa Đại Hưng Thiện).
5) Đại đức Pháp Hùng hai mươi tám tuổi, (không quê quán. Ở tại lý Tỷ Do, hương Xích Dương, huyện Phú Bình, phủ Kinh Triệu, thỉnh trụ chùa Tỉnh Pháp).
6) Đại đức Pháp Mãn mười tám tuổi (họ Hồ, cùng quê với Tố Tân ở Lý Văn Viên, hương Sùng Đức, huyện Vạn Viên, phủ Kinh Triệu).
7) Đại đức Tuệ Tấn bốn mươi tuổi.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: bảy vị đại đức trên từ lúc xuất gia đến nay thường tìm học giáo pháp, không hề thiếu sót đạo nghĩa thầy trò, tinh tu giới hạnh, xứng đáng làm pháp khí. Thân tuy lìa tục, theo vết tích vẫn gọi tên riêng, nay nhân bệ hạ khai hội Khánh Đản, triều đình chúc mừng ngày hân hoan, xin ban tên quan (quan danh) để làm chánh độ, nhờ vận may lớn mà phúc đức vô cương. Nếu ân trời chấp thuận, xin giao phó cho tư sở.
Trung thư môn hạ, Điệp Từ Bộ.
Điệp Văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ 02 (764), ngày 19 tháng 10.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Đỗ Hồng Tiệm
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên Tải
- Hoàng môn thị lang Bình chương sự Vương
Sứ.
- Kiểm hiệu thị trung Thư Lý Sứ.
- Đại úy kiêm trung lệnh sứ.
Thượng thư Từ Bộ, Điệp Tam Tạng Bất Không.
Điệp văn vâng phụng trung thư môn hạ, ban sắc Điệp văn như Điệp chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Quảng Đức năm thứ 02 (764), ngày 19 tháng 10. Lệnh sứ điệp chủ sự.
Xét theo bản Phạn kinh Nhân vương để dịch lại bản cựu văn (bản dịch cũ).
Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Kính vì: Diệu chỉ Như Lai, ban giúp sinh linh, kinh báu nhân vương, nghĩa tôn sùng giữ quốc. Bản dịch trước kia nghĩa lý chân dung thông, nhuận sắc lời nhiệm mầu việc làm đồng quy về minh thánh. Cúi mong Tiên vương Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế bệ hạ thông văn mở vận, suốt lý nương thời, mở mang chân ngôn, tuyên dương tượng giáo. Gia phong
Hoàng thượng chấn động phương xa, mặt trời Phật càng sáng. Mỗi khi vì dân đen bảo khai giảng tụng kinh Nhân Vương, xét nhìn theo bản phạn dịch lại cựu văn. Lời trong kinh pháp không hề lược bớt, điều Phật chỉ dạy càng thêm rõ ràng. Mới thỉnh các vị Đại Đức Hoài Cảm, Phi Tích, Tử Lân, Kiến Tông, Quy Tánh, Nghĩa Tung, Đạo Dịch, Lương Bí, Tiềm Chân, Tuệ Linh, Pháp Sùng, Siêu Ngộ, Tuệ Tĩnh, Viên Tịch, Đạo Lâm v.v... ở trong đạo tràng phiên dịch, nương nhờ phúc đức Thánh hoàng mà đượm nhuần hàm linh, những kẻ trộm cướp lạm dụng thảy đều tiêu trừ, khắp nơi đều hòa mục, truyền bá nhiều nơi, cứu giúp sâu xa.
- Trung thư môn hạ, Điệp Từ Bộ.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định. Ban sắc cố Điệp
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày mồng 02 tháng 04.
- Trung thư thị lang Đồng bình chương sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Trung Thư thị lang Đồng bình chương sự Nguyên Tải.
- Hoàng môn thị lang Đồng bình chương sự Vương Sứ.
- Kiểm hiệu thị trung Lý sứ.
- Kiểm hiệu Hữu bộc xạ Bình chương sự sứ.
- Kiểm hiệu Tả bộc xa Bình chương sự sứ.
- Trung thư lệnh sứ.
- Thượng thư từ Bộ, Kinh Nhân Vương xét theo bản Phạn dịch lại cựu văn, Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Hưng Thiện, Điệp văn phụng chỉ trung thư môn hạ ban sắc điệp văn như điệp văn chuẩn định, ban sắc cố Điệp.
Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày mồng 04 tháng 04.
Lệnh lại Trương Tế Điệp chủ sự Dương Hiến lang trung Thôi Y.
Đô phòng Ngự Sử các châu phủ, phường, đặc tiếng thí Đại thường khanh sứ trì tiết các quân sự châu phu, thứ sử châu phu, kim Ngự sử trung thừa thượng Quế Quốc Trịnh Quốc Công Đỗ miện tuyên châu thật Phong Đài Bá Hộ.
Ngày 19 tháng 05, niên hiệu Bão Ứng thứ nhất, chế tặng:
Đỗ Miện trình tấu: Thần (bề tôi) không có công ung đúc, được đượm nhuần ân đức, lầm dẫm lên ân Bệ hạ ban cho. Mong nguyện báo đáp thánh từ, nay nhìn lại: Từ niên hiệu Bảo Ứng thứ nhất (762) về sau, và từ niên hiệu Vĩnh Thái thứ nhất (765) về trước, đã ủng hộ cung cấp ước tính khoảng hơn một muôn quan tiền. Thần xin vì nước nhà hồi hướng tu tạo công đức. Trong niên hiệu Bảo Ứng thứ nhất (762) ban cho trước, xin được hơn hai ngàn một trăm quan tiền, đến kinh đô, giao cho Sa-môn Tam Tạng Bất không chùa Đại Hưng Thiện, ủng hộ việc phiên dịch kinh Phật. Ở đó, xin cho lương thực vật tiền xung cấp vào đạo tràng để lo các việc ăn mặc phiên dịch sao chép v.v... Ở đó, các vị mời mà chưa đến, trước sai bảo đệ tử coi sóc mọi việc, xin trông mong mỗi vị bày tỏ lý do, phát huy sai bảo tiếp tục cúng dường kinh Phật.
Hoặc có những bản Phạn kinh chưa phiên dịch, mong muốn khai mở để phiên dịch. Xưa nay, tuy có soạn dịch nhưng nghĩa lý chưa hoàn toàn. Rất trông mong ân đức Bệ hạ ban cho tân lang võ quân tướng quân Lý Nguyên Tông câu nên cùng Sa-môn Tam Tạng Bất Không và Đại đức Tân Chân chùa Đại Hưng Thiện, đồng thời xét thêm bảy vị Đại đức nghĩa học ở kinh thành cùng tham hội phiên dịch, mỗi vị chép hai mươi mốt bản, ban bố bày khắp các đạo và những chùa lớn ở kinh thành, tức truyền đến cả ngàn nơi lưu bố cả muôn năm, khiến không riêng mình Thần diệt sạch hình phong sái (ong và Bò Cạp), buộc những kẻ tôi mọi điên cuồng quét hết dấu vết tâm tư lang sói.
Cúi mong Bệ hạ nhận nạp phước lộc vô cương, vâng chịu sự nghỉ ngơi vô cùng, tức tấm lòng thành nhỏ mọn của ngu thần vậy, nguyện sinh tử lo xong.
Rất mong Thánh từ chấp thuận điều thần cầu xin.
Trung thư môn hạ.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y Điệp văn chuẩn định.
Ban sắc cố Điệp.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765) ngày 18 tháng 06.
- Trung thư Thị lang Bình chương sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Trung thư Thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình chương sự Vương sứ.
- Kiểm hiệu thị lang Lý sứ.
- Kiểm hiệu Hữu bộc xạ Bình chương sự sứ.
- Kiểm hiệu Tả bộc xạ Bình chương sự sứ.
- Trung thư lệnh tại sứ viện.
Sa-môn Tam Tạng Bất Không nói: Bất Không tôi trước thiếu tu đạo, học xưa ít thông, lạm nhận chiếu chỉ phiên dịch chân kinh, như đi trong sương xuân vào nơi hang suối, cúi mong Bệ hạ dứt trừ tối tăm, mở mang mặt trời trí tuệ, ban rải mây lành, thông suốt phong khí, văn Rồng chuốt ngọc đích thân viết lời tựa, soi sáng khắp cùng Đại Thiên, truyền lưu mưa pháp ở chín cõi, dựng trăm ngọn cờ đẹp, oai nghi dung vệ, uyển chuyển như Đức Thích-ca bước xuống Thứu phong, quan quân kéo đến đông đầy, tợ vua Ba-tư-nặc đến thành Vươngxá, mây lành hiển hiện, khí tất nổi khắp không gian. Đủ để phô bày sự bình đẳng của các cấp bậc, tự được sự che chở vô cùng, kính cẩn dâng biểu chúc mừng bày tỏ để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vừa sợ vừa mừng, kính dâng biểu.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765) ngày mồng 02 tháng 09. Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện, kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng xa từ Liên cung kính giữ Bối diệp, giảng nói huyền giáo cứu giúp quần sinh, phiên dịch đã thành, trời người đều hiểu, sáng ngời cảnh tượng trong lành của ba thu, khai mở mây lành năm sắc, mở mang chân thừa, khế hợp diệu lý, bỗng nhân chỉ dụ, sớm kết thầy trò, thấy vậy, cảm thông cao sâu, càng thêm cung kính.
Ban sắc chỉ dụ Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không;
Cố Tam Tạng Kim Cương trí thiên tính tuấn tú khác thường, bẩm thụ khí chất dung hòa, hiểu biết thấu suốt bốn loài chúng sinh, tâm luôn nương tựa sáu pháp ba-la-mật, vốn từ Tây vức chấn tích đến Trung Hoa. Dùng phạm hạnh bao trùm tự thân, đem từ tâm cứu giúp muôn vật, hoa giác ngộ phô bày bên ngoài, đèn trí tuệ chiếu rọi bên trong, dẫn dắt quần mê, chứng thông viên tịch. Bí mật trao truyền pháp ấn, hiển bày Niết-bàn. Y bát không giữ lại, âm ba vang vọng hoài. Giáo pháp truyền lại đời sau, lễ điểm trong đến cùng. Nên ca ngợi tôn xưng tiếng tốt, hợp với vinh hạnh. Thật đáng ban tặng khai phủ nghi đồng tam tư, nhân tặng hiệu "Đại Hoằng giáo Tam Tạng" vậy.
Niên hiệu Vĩnh thái năm thứ nhất (765) ngày mồng 01 tháng 11.
- Trung thư lệnh sứ.
- Ngân Thanh Quang lục đại phu hành trung thư thị lang Bình chương sự thượng Quế quốc, Dĩnh Xuyên quận Khai Quốc Công Nguyên Tải tuyên cáo.
- Chánh nghị đại phu hành trung thư xá nhân thượng Quế quốc thần phan viêm phụng hành.
Vâng phụng chỉ dụ như Điệp phụng hành.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày mồng 03 tháng 11.
- Thị trung sứ.
Đặc tiến hành trung thư thị lang bình chương sự tri môn hạ tỉnh sự thượng Quế Quốc Hồng Tiệm Ngân Thanh Quang lục Đại phu hành cấp sự trung thượng Quế quốc thần Lư Doãn.... Ngày... tháng. Thời đô sự Hữu ti lang trung.
- Kim tử Quang lục đại phu lại bộ thượng thư Bác lăng huyện khai quốc bá ngẫu.
- Chánh nghị Đại phu lại bộ thị lang thượng Quế quốc Lũng tây huyện khai quốc tử Lý Khanh.
- Ngân Thanh Quang lục đại phu hành lại bộ thị lang thượng Quế quốc phù phong huyện Nam Diên Xương, triều nghị Đại phu thủ thượng thư tả thừa tập hiền viện học sĩ phó tri viện sự kiêm tu Quốc sử quán cáo tặng khai phủ nghi đồng tam tư, nhân tặng hiệu Đại Hoằng giáo Tam tạng.
Phụng chỉ dụ như phù chiếu phụng hành.
Chủ sự phượng, lệnh lại chủ quyên, thư lệnh sứ, lang trung nguyên hội.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765) ngày 20 tháng 11 ban giáng.
Chỉ dụ ban sắc Tam Tạng Bất Không Liên cung, giòng họ Thích, hương giới đạo sư, tánh phô bày chân như. Học tinh thông mật tạng. Thừa diệu chỉ của cám viên, mở bày bốn pháp nương tựa. Phiên dịch kinh pháp của Phật làm bến bờ cho sáu đường chúng sinh. Thân giữ gìn kinh điển bản
Phạn từ đường xa khó khăn đem đến, đèn truyền càng sáng, cam lộ đượm nhuần. Rải mây lành vào trong nhà lửa, soi mặt trời tuệ vào chốn tối tăm. Bỗng dưng thăm hỏi thắng nhân, mở rộng chỉ bày phương tiện, xé rách hẳn dứt trừ lưới nghi, thêm cho hiểu rõ. Tuy tâm xuất trần ngang bằng với từ tạ danh vị mà khen trọng điển thức, nêu cao bậc hiền triết, khiến nên vui mừng, ban dùng hợp với triều chương. Đáng đặc tiến thí Hồng lô khanh, nhân ban tạng hiệu Đại Quảng Trí Bất Không Tam tạng.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày mồng 01 tháng 11.
- Trung thư lệnh sứ.
- Ngân thanh Quang Lộc Đại phu trung thư thị lang Bình chương sự thượng Quế quốc dĩnh xuyên quận khai Quốc Công thần Nguyên tải tuyên cáo.
- Trung thư xá nhân thần Dương viêm phụng hành. Vâng phụng chỉ dụ như Điệp văn phụng hành.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày... tháng 11.
- Kiểm hiệu thị trung sứ.
- Đặc tiến hành trung thư thị lang quyền phán môn hạ tỉnh sự thượng Quế quốc vệ quốc công Đỗ Hồng Tiệm.
Ngân Thanh Quang lục đại phu cấp sự trung thượng Quế quốc Phạm Dương huyện khai quốc hầu lư Doãn.... Ngày 02 tháng 11.
- Thời đô sự.
- Tả ty lang trung.
- Kim Tử Quang Lộc Đại phu lại bộ thượng thư thượng Quế Quốc Bác lăng huyện, khai quốc Bá ngẫu chánh nghị đại phu lại bộ thị lang thượng quế quốc lũng tây huyện, khai quốc tử tứ tử kim ngư đại Lý Khanh.
- Ngân Thanh Quang Lộc đại phu lại bộ thị lang thượng Quế quốc phù phong huyện khai quốc Nam Diên Xương, Triều nghị lang thủ thượng thư hữu thừa tập hiền điện, học sĩ phó tri viện sự kiêm tu Quốc sử quán đặc tiến thí Hồng lô khanh Đại Quảng Trí Bất Không Tam tạng.
Vâng sắc như hữu Điệp văn phụng hành.-Chủ sự hải, lệnh sứ Quyên,-Thư lệnh sứ, Lang trung ngạc.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất (765), ngày... tháng 11 ban giáng.
Biểu văn có hai mươi hai bài, đáp chế có sáu bài, tổng cộng hai mươi tám bài.
1. Biểu văn tạ ân ban tặng Quan hiệu v.v... cho Cố Tam Tạng Kim Cương Trí.
2. Chế văn xin xả y bát để giúp Sa-môn Đạo Hoàn tu sửa chùa Kim Các.
3. Chế thư xin xả y bát đồng tu sửa chùa Thánh Ngọc Hoa.
4. Biểu chúc mừng Bình Chu Trí Quang.
5. Chế văn chọn mời chư tăng tụng niệm ở tịnh Đường Vạn Bồ-tát tại chùa Hóa Độ nhân ba tháng trường trai.
6. Chế thư xin miễn truy hô những thợ tài giỏi lo việc xây dựng các chùa Kim Các, Ngọc Hoa v.v... ở núi Ngũ Đài.
7. Chế thư xin tuyển chọn thỉnh mời chư tăng đến trụ năm chùa tại núi Ngũ Đài.
8. Chế thư thỉnh Pháp sư Tử Lân giảng dạy ở chùa Hóa Độ.
9. Chế văn xin độ năm vị tăng, nhân ngày Khánh Đản.
10. Chế văn xin chọn các vị tăng chuyên lo việc quét tước tháp Long Môn của tiên sư.
11. Biểu văn tạ ân Ngự đề biển Ngạch Bảo Tháp tôn sư và thiết trai cúng dường. (có phần trả lời)
12. Biểu tạ ân ban vì tôn sư thiết lễ húy kỵ và ban tặng trà vật. (có phần trả lời)
13. Chế thư xin độ ba vị tăng, nhân ngày Khánh Đản.
14. Chế văn xin đưa viện Đông tháp chùa Quang thiên sung vào làm viện vãng lai đình chỉ ở núi Ngũ Đài.
15. Chế văn xin thiết trí tòa báu đại thánh Vănthù-sư-lợi nơi trai Đường ở các chùa trong nước.
16. Chế văn: Ngày mồng 05 tháng 07 niên hiệu Đại Lịch thứ năm (770), Sa-môn Tam Tạng Bất Không ở tại phủ Thái Nguyên thiết trai cúng dường muôn người.
-Cùng năm ấy (770), ngày 13 tháng 07, ban sắc thủ chiếu.
17. Chế thư xin lập viện Văn-thù ở chùa Chí Đức tại phủ Thái Nguyên.
Cùng năm ấy (770), ngày mồng 04 tháng 09, lại ban sắc Thủ Chiếu.
18. Chế thư xin an trí tôn tượng ở Lệnh Đường hiệu lệnh tại phủ Thái Nguyên và chọn lựa chư tăng ở viện Tịnh Độ.
19. Biểu thỉnh Pháp sư Tuệ Lâm giảng dạy ở chùa Bảo Thọ.
20. Biểu tạ ân ban tặng chùa Đại Hưng Thiện thí giới phương đẳng và lương liệu.
21. Cáo Điệp của từ bộ thỉnh Sa-môn Tam Tạng Quảng Trí đăng đàn truyền giới.
22. Biểu tạ ân ban tặng năm con bò và nghé con.
*****
Sa-môn Tam Tạng Bất Không nói: Vâng lệnh ngày mồng một tháng này, đặt ban Cố Đại Hòathượng Tam Tạng Kim Cương, đáng tặng "Khai phủ nghi đồng tam tư", nhân tặng hiệu "Đại Hoằng Giáo Tam Tạng". Bất Không tôi Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, nhận ban hiệu "Đại Quảng Trí Tam Tạng". Một cơn mưa từ trời cao đổ xuống, khắp cả cành lá đều thấm nhuần. Một ánh mặt trời ló dạng soi sáng đến tận chỗ tối tăm. Bàng hoàng mang đội, vui buồn lẫn lộn, Bất Không tôi thành thật vừa sợ vừa mừng, vừa thương vừa sợ.
Bất Không tôi nghe: Mười hiệu là tôn xưng đặc biệt biểu thị đức hạnh, Chín Khanh (chín chức quan: Thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, trũng tề, tư Đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư Khấu, và Tư Không) là địa vị quý trọng của tượng hà. Cố Đại Hòa-thượng, đạo hợp truyền đăng thật xứng đáng nêu bày sự mạnh mẽ của người để lại, Bất Không tôi đối với pháp thì tiếp nối lờ mờ không chắc thật mà đồng đảm nhận Hồng tư (Ban tặng lớn lao), tợ như lẫn lộn sắc màu của đá ở đất Yên, lại đồng như Đông Quách lạm xen bổng lộc thổi sáo ở xứ Tề. Vinh hạnh và còn mất, ân sủng ban cho cả thầy trò, kính phụng kinh sợ, ngưỡng trông mệnh lệnh mà bẽn lẽn sắc mặt. Huống là người xuất gia cởi bỏ mọi trang sức, vốn quên mọi vinh nhục, thanh bạch báo đáp nước nhà. Phàm là tăng thì phải rõ phép tắc. Bệ hạ vận chuyển bánh xe vàng rộng lớn, nhận thâu cả ngói sỏi, truyền bá thiền định nơi cung cấm, lễ nghi thù đặc kính trọng thưởng khen. Tuy không sức lực gánh vác núi sông mà dấu vết chân đi gần cùng, thiếu dòng pháp cảm tạ cao quý, điểm vào dấu vết trong sạch của hạnh ít muốn. Vì vậy xuất đầu lộ diện trình tấu cùng Tam Nhượng, nói năng phiền đến cửu trùng. Mong ân soi xét sự khẩn thành, há đích thực vậy mà không cất nhắc lên? Xe Dê trẻ nhỏ hổ thẹn Quảng Trí mà mịt mờ, lộc uyển kém hèn rất thẹn Hồng lô, không dám đảm nhận mà đến cùng, kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vừa sợ vừa mừng kính dâng.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất(765), ngày mồng 05 tháng 11.
Đặc tiến Thí Hồng Lô khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí chùa Đại Hưng Thiện, Bất Không dâng biểu.
Bảo Ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế phê: Hòa-thượng Đạo hạnh ẩn mật song lâm, công phu vượt qua Chánh giác, xa từ Thiên Trúc đến truyền bá Chân ngôn, bỗng dưng được Quy y, đích thân thừa hưởng phú chúc. Thạnh lễ ngợi khen tôn sùng phẩm trật thuở trước, khiến Tăng vinh hạnh của ấn thụ, kiểu mẫu kính trọng thầy trò kiêm bày tỏ ân sủng kính tặng, ngõ hầu phô bày truy niệm vinh hạnh vậy.
Sa-môn chùa Đại Hưng Thiện, đặc tiến thí Hồng lô khanh Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: ngôi chùa nói trên, tiên Thánh viết biển ngạch, song, chùa làm chưa xong, khoảng niên hiệu Khai Nguyên thứ 24 (737), Thiền sư Đạo Nghĩa ở Cù Châu đến núi Ngũ Đài thấy dấu vết chùa Văn-thù Đại Tích, hiệu là "Kim Các viện", có mười ba gian phòng tăng chúng, khoảng một độ muôn người, Đài điện cửa lầu toàn bằng vàng, viết chép vẽ lại, Họa đồ một quyển tập đưa vào nội cung, trăm họ trong thiên hạ đều mong hoàn thành chùa Kim Các, mọi người không ai chẳng ước muốn, khiến Samôn Đạo Hoàn ở Trạch Châu hằng ngày mang đồ vật cúng dường lên núi. Đạo hoàn rất kính mến việc mà Thiền sư Đạo nghĩa thấy được, bèn phát tâm phụng vì nước nhà, y theo bản vẽ mà xây dựng chùa Kim Các, chùa viện ra sao đều như đã thấy.
Mùa hạ năm nay các thợ khởi công, giao phó vật liệu ấy để tự dựng xây sắp xong. Tiên Thánh ngự đề tấm biển "Chung Thành Đạo nghĩa cảm thông". Quán xét Sa-môn Đạo Hoàn chí nguyện không phải nhỏ, có người cho là nhân lành dựng lập của Bồ-tát Văn-thù. Vả lại, chùa Linh Sơn ở núi Ngũ Đài có năm ngôi chùa được đề Biển ngạch, trong đó có bốn chùa: Thanh Lương, Hoa Nghiêm, Phật Quang, Ngọc Hoa đã hoàn thành trước, chỉ riêng chùa Kim Các chưa xong.
Đã là Thánh tích, thì ai không chiêm ngưỡng? Bất Không tôi nguyện xả y bát, theo giúp Sa-môn Đạo Hoàn xây dựng việc lớn. Từng sợ tuổi tác không cho phép, tội lỗi còn nhiều ở trong tâm, thường cũng tấu trình để Bệ hạ xét biết. Ngưỡng mong ân trời thương xót, phàm thánh tích của Bồtát Văn-thù thì Thánh là chính, kết cấu Kim Các, chẳng phải Bệ hạ thì là ai? Phàm rường cột là chỗ nương của Đại Hạ, bầy tôi là gởi gấm của nguyên thủ, cùng thành một thể, hòa hợp cả muôn nước, Kim Các cao quý như thế, chẳng phải do các bậc Tổ phụ tán thành, Quân khách giúp đỡ, ngàn muôn Quan liêu tiếp nối cùng tôn sùng kính trọng thì lấy gì để nói lên sự tốt lành của Vua tôi? Để làm sáng rỡ sự lớn lao của Kim Các? Sa-môn Hàm Quang chùa Bảo Thọ vâng thọ chiếu chỉ đi tuần núi Ngũ Đài cung kính công đức tu sửa. Kính mong nhân chỗ xây dựng chùa mà phụng tuyên Thánh chỉ, cầu nguyện rất mực thiết thành, ngõ hầu linh thần soi sáng để giúp cho cảnh phúc khương ninh, khắp nơi che chở thân thể bệ hạ, nếu ân đức bệ hạ chấp thuận, xin giao phó cho tư sở.
Trung thư môn Hạ, Điệp văn của Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định. Ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ hai (766), ngày mồng 01 tháng 05.
- Trung thư thị lang Bình Chương Sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Đổ Hồng Tiệm.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Vương Tấn.
- Kiểm Giảo thị trung Sứ.
- Kiểm Giảo Hữu bộc xạ Bình Chương Sự Sứ.
- Kiểm Giảo Tả bộc xạ Bình Chương Sự Lý Bảo Ngọc.
- Trung thư lệnh sứ.
Chùa Thánh Ngọc Hoa ở núi Ngũ Đài.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: ngôi chùa nói trên, khoảng ngày mồng 01 tháng 09 niên hiệu Càn Nguyên thứ nhất (758) đồng gặp lúc ban sắc dựng lập chùa Kim Các. Bất Không tôi trước xin tự xả y bát. Kính mong các thượng tọa ở tại chùa lúc bấy giờ, công hạnh được viên mãn, chuẩn định chùa Kim Các đồng thời xem xét việc xây dựng.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng, chỉ dụ y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố Điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), ngày mồng 21 tháng 11.
- Trung thư thị lang Bình Chương Sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Vương Tấn.
- Kiểm Giảo thị trung Lý Sứ.
- Kiểm Giảo Hữu bộc xạ Bình Chương Sự Sứ.-Kiểm Giảo Tả bộc xạ Bình Chương Sự Sứ-Trung thư lệnh sứ.
Sa-môn Bất Không nói: Kính vì Chu Trí Quang dám khinh phụ thánh chỉ triều đình, tự mạo nhận trời phạt, chứa nhóm bạo ác tự hại diệt thân, quả thấy truyền đầu. Mừng tràn khắp nơi, vui như ngày xuân. Bởi do bệ hạ tính toán tinh thông, tài giỏi mưu lược ẩn mật khéo dùng. Võ sĩ còn chưa thi thố sức mạnh, thương sinh vội đã được an vui, khắp nơi đều chuyển thành thanh bình, mọi rợ thảy tiêu tan ý chí. Vậy đủ biết sức mạnh của Thánh vương bèn thành công không cần đánh dẹp, tâm từ của Nhân Vương cứu được mạng sống của hữu tình. Bất Không tôi hổ thẹn đội ân, càng thêm mang nhận. Không gì hơn vui mừng đến cùng, kính cẩn dâng biểu trình bày ân mang đội để bệ hạ xét biết. Bất Không tôi thật vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày 14 tháng giêng.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam
Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế phê: Trí Quang hung bạo điên cuồng, dám nhiễu loạn chốn Quan phố. Vương sư vừa dấy khởi, tự có giết hại. Tông xã oai linh, Đại thánh phù trì. Nhờ sự che chở của Ngài (= Bất Không) mà khí Độc tiêu sạch hẳn. Đó là điều chúc mừng vậy.
Tịnh Đường Văn-thù-sư-lợi hộ quốc Vạn Bồtát ở chùa Hóa Độ mời mười bốn vị Đại đức tụng niệm, nhân ba tháng trường trai.
- Chùa Đại Hưng Thiện: 1/ Đại Đức Tĩnh Siêu 2/ Đại Đức Tuệ Linh.
- Chùa Hóa Độ:
3/ Đại Đức Pháp Chân
4/ Đại Đức Trí Tạng
5/ Đại Đức Đạo Ngạn,
6/ Đại Đức Bồ-Đề-Nê-Sa (= Nghĩa Khoan)
7/ Đại Đức Ba-la-đàn (= Thiện Ngạn) 8/ Đại Đức Đàm Diễn.
- Chùa Tây Minh:
9/ Đại Đức Quang Diễn 10/ Đại Đức Ma-ha Diễn.
- Chùa Hưng Phước:
11/ Đại Đức Đạt-ma.
- Chùa Thiên Phước:
12/ Đại Đức Pháp Sùng.
- Chùa Tuệ Nhật:
13/ Đại Đức Nghĩa Thành.
- Chùa Lễ Tuyền:
14/ Đại Đức Lợi Ngôn.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Kính vì tịnh đường Hộ Quốc Vạn Bồ-tát ở chùa Hóa Độ, đồng y theo chỗ thấy Đại thánh Văn-thù ở núi Ngũ Đài, cỡi mây ngồi voi lướt đi, ánh sáng chiếu khắp tịnh đường chẳng khác gì chùa Kim Các. Ngày 23 tháng chạp năm trước (766), kính vâng ân mạng, ban tặng danh hương và tuyên cáo khẩu lệnh, bảo Bất Không tôi chọn lựa thỉnh mời các vị Đại đức tụng niệm và bảo tự chủ Trí Tạng chuyên việc xem xét Đạo tràng.
Các vị Đại đức nói trên, hoặc chuyên rành chân ngôn, học thông giới luật, hoặc giảng nói diệu chỉ chuyển đọc chân kinh, mong chọn ở tại trong đó, mỗi năm nhân ba tháng trường trai, xây dựng đạo tràng vì nước nhà mà đọc tụng. Nếu có sự cố, hễ thiếu chỗ nào thì thêm vào cho đủ. Ở tịnh đường ấy trong ngoài thi kịp công đức mỗi một vật đã dâng, nay xin thỉnh Tam võng chuyên cú, đang mong không để rơi sót.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không. Điệp văn do Từ Bộ chuẩn định. Lệnh Sứ Triệu Xương chủ sự Huân ý. Lang trung tước y.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố Điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày mồng 16 tháng 02.
- Trung thư thị lang Bình Chương Sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Vương Tấn.
- Kiểm hiệu thị trung Lý Sứ.
- Kiểm hiệu Hữu bộc xạ Bình Chương Sư Sứ.-Kiểm hiệu Tả bộc xạ Bình Chương Sư Sứ-Trung thư lệnh tại sứ viện.
Đô liệu tăng xây dựng chùa Thánh Kim Các ở núi Ngũ Đài tại Đại Châu.
- Các vị Đại Đức Thuần-đà, Đạo Tiên, Pháp Đạt.
- Thợ mộc gồm có: Sĩ Sán, Cốc Lễ, Chiêu Di Khâm (ở huyện Không Tương, châu Hân), Đàn Mạng Huy (ở huyện Ngũ Đài), Ngũ Mậu Lâm,
Dương Hỷ Tử (ở huyện Đường Lâm) Ủng Nhật
Tân.
Đô liệu xây dựng chùa Thánh Ngọc Hoa.
- Thợ mộc gồm có: Ân Đồ (ở huyện Nhạn
Môn), Tượng Hoắc Long (ở huyện Phồn Thời),
Chiêu Như Yến Quách Chiết (ở huyện Đường Lâm), Hàn Thanh, Cổ Lễ, Chi-A-Bát (ở huyện Đường Lâm), Trương Huy (ở huyện Phồn Thời).
- Sửa chữa sáu chỗ thường cúng dường ở núi Ngũ Đài, thợ mộc gồm có: Đinh Tu Linh (ở huyện Định Tương), Ban Tân, Trí Nghĩa Sán, Quách Khuê, Mã Nguyên, Lý Tứ Sư, Phong Đỗ Nhi (ở huyện Ngũ Đài) Mã Nguyên Chiết.
Hữu Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Tam Tạng Samôn Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: Trước kia kính vâng ân mạng, bảo Sa-môn Hàm Quang coi sóc hiệu việc xây dựng các chùa và các chỗ thường cúng dường nói trên. Ở đó, các thứ cây gỗ cần làm thì tại núi có sẵn, đã là Thánh tích linh thiêng thì những người thợ làm phải là tài giỏi. Các thợ nói trên đều được tìm kiếm khắp nơi xa gần, nay thấy ở tại núi xây dựng theo thứ lớp, sợ rằng các Doanh sở, châu huyện hoặc có sự kê gọi, rất mong Bệ hạ ban đặc ân để công đức được hoàn thành mỹ mãn.
Trung thư môn hạ, Điệp văn Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn vâng phụng sắc nghi ủy Vân kinh cú đương vật linh truy nhiễu Điệp văn chuẩn định. Ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày 16 tháng 02.
-Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên Tải, trở xuống đều có bảy Tướng.
Năm chùa Kim Các, Ngọc Hoa, Thanh Lương, Hoa Nghiêm, Ngô Ma Tử ở núi Ngũ Đài tại Đại Châu.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng
Thiện trình tấu:
Thánh tích Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, từ xưa mọi người đã từng kính ngưỡng. Nay gặp Bệ hạ rất quan tâm xây dựng nhiều ngôi chùa, ân ban rất nhiều, vậy đủ biết trăm thần, âm thầm hộ giúp, muôn Thánh hướng về. Nơi chốn linh thiêng dựng xây đến thế là hưng thạnh. Nơi chốn đã trang nghiêm thanh tịnh thì con người ở đó cũng phải như vậy. Từ lúc khó khăn đến nay, tăng chúng dần dần giảm ít, hoặc có vị kinh hành hóa độ bèn ở nơi xứ người, hoặc thuận duyên an trú nơi các A-lan-nhã ở xứ khác, khiến cho trong các thời khóa lễ sám, chuông mõ sớm chiều bị khuyết thiếu. Dưới bóng cây, nơi giường thiền, khám thất Nhện giăng bụi bám tối tăm, ruộng phước chưa được mở rộng, thật hổ thẹn với thánh tâm. Cúi xin Bệ hạ ban ân trước đây tại núi có các hành giả Đồng tử từ lâu tinh tấn tu hành khổ hạnh, mỗi chùa độ mười bốn vị, ở các châu huyện chọn lựa bảy vị tăng đạo hạnh trang nghiêm. Mỗi chùa cần có đủ hai mươi mốt vị vì nước nhà mà hành đạo, có thiếu khuyết thì thêm vào cho đủ. Ở năm ngôi chùa Kim Các v.v... thường tụng kinh Nhân Vương Hộ Quốc và kinh Mật Nghiêm. Lại nữa, chùa "Ngô Ma Tử", tên gọi không được tiện nên đổi thành "Đại lịch Pháp Hoa" thường vì nước nhà trì tụng kinh Pháp Hoa, cả thảy năm chùa đều khỏi sai khiến chọn lựa người. Mong ủy vân kinh tướng quân Tống phụng triều cùng với trung sứ Ngụy Minh Tú. Lại nữa, Sa-môn tu công đức là Hàm Quang chọn lựa, mong không trộm cắp lạm dụng. Lại ở chùa Thanh Lương xây dựng đài các Đại Thánh Văn-thù đã hoàn tất, cúi mong Bệ hạ ban ơn viết tặng biển ngạch bốn chữ "Vĩnh Quang Lai Diệp".
Trung thư môn hạ, Điệp văn của ngài Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày 26 tháng 03.
-Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên Tải, trở xuống đều có bảy Tướng đồng dâng.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của ngài Đại Quảng Trí Bất Không. Điệp văn kính vâng chỉ dụ, đặc tiến thí Hồng Lô Khanh Sa-môn
Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu mời Sa-môn Tử Lân giảng dạy tại Tịnh Đường Vạn Bồ-tát ở chùa Hóa độ, nên y theo Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày 28 tháng 06.
-Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên Tải, trở xuống đều có bảy Tướng đồng dâng.
1. Hành giả Tất Số Diên, năm mươi lăm tuổi (không rõ quê quán châu huyện, tụng bản Phạn kinh Hiền Hộ Tam-muội một bộ và tụng các phẩm Đà-la-ni, xin pháp danh Tuệ Đạt, ở chùa Trang Nghiêm).
2. Hành giả Khương Thủ Trung, bốn mươi ba tuổi (không rõ quê quán, châu huyện, tụng một trăm hai mươi trang kinh và tụng các phẩm Đà-lani, xin pháp danh Tuệ Quán, ở tại viện Đại Hoằng giáo Tam Tạng Tỳ-lô-giá-na, chùa Quảng Phước ở Đông Kinh).
3. Hành giả Tất Việt Diên, bốn mươi ba tuổi (không rõ quê quán châu huyện, tụng bản Phạn Kinh Lăng-già một bộ, tụng Kinh Kim Cương và tụng các phẩm Đà-la-ni, xin pháp danh Tuệ Nhật, ở chùa Trang Nghiêm).
4. Đồng tử Thạch Tuệ Sán, mười ba tuổi (không rõ quê quán châu huyện, tụng bản Phạn kinh Đại Khổng Tước Vương một bộ, tụng Tùy Cầu Đà-là-ni và kinh, xin pháp danh Tuệ Quang, ở chùa Tây Minh).
5. Đồng tử La Thuyên, mười lăm tuổi (không rõ quê quán châu huyện, tụng bản Phạn Kinh Xuất Sinh Vô Biên Môn, tụng thần chú Tùy Cầu Đà-lani và kinh, xin pháp danh Tuệ Tuấn, ở chùa Tây Minh).
Hữu Đặc Tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại
Hưng Thiện trình tấu: các vị Hành giả Đồng tử nói trên, bẩm tính vốn điều nhu, khí chất thuần hòa, đích xác thường cần kinh giới đọc tụng chân ngôn, chí nguyện mong cầu xuất gia tinh tấn tu hành báo đáp nước nhà. Nay nhân ngày khánh đản, xin độ làm tăng, mỗi mỗi được phân phối ở các chùa nói trên, mong phước đức Thánh thọ lâu dài như trời đất.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không. Niên hiệu Đại Lịch thứ hai (767), ngày 13 tháng 10.
- Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Vương Tấn.
- Binh Bộ Thượng Thư Bình Chương Sự Lý Sứ-Kiểm Giảo thị trung Lý Sứ.
- Kiểm Giảo Hữu bộc xạ Bình Chương Sự Lý
Sứ.
- Trung thư lệnh sứ.
Quét dọn Bảo tháp Cố Tôn sư Khai Phủ Nghi đồng tam tư Đại Hoằng Giáo tam tạng Kim cang trí ở Long Môn tại Đông Kinh.
1. Đại đức Tuệ Hoằng, bốn mươi sáu tuổi (họ Trương, tên Cảnh Phương, quê quán ở Lý An Tín, hương Đàn Sơn, huyện Vinh Dương, Trịnh Châu. Cha là Hoại Đạo cùng Hộ, tự thân không sổ sách, tụng Bồ-tát Giới Kinh một quyển, tụng Thanh Văn Giới một quyển, tụng kinh Pháp Hoa 1 bộ, thường luôn niệm tụng. Ở tại Tháp viện Tỳ-lô-giá-na; chùa Quảng Phước, phủ Hà Nam, và xoay về chỗ tháp ở Long Môn, qua lại quét dọn).
2. Hành giả Triệu Nguyên Cập, ba mươi lăm tuổi, ở tại viện này (quê quán ở làng Tu Đức, xóm Vân Long, huyện Vân Dương, phủ Kinh Triệu, cha là Trình Quán cùng hộ, tự thân không sổ sách, tụng kinh Pháp Hoa một bộ, tụng kinh Duy-ma một bộ, tụng Giới Bồ-tát Giới Kinh một quyển, tụng kinh Kim Cang một quyển, tụng kinh Dược sư một quyển, tụng kinh Di-đà một quyển, tụng kinh Kim Quang Minh bốn quyển, tụng kinh Vô Thường một quyển, tụng kinh Vu-lan-bồn một quyển, ở tại chùa Bảo Thọ, pháp danh là Tuệ Tường).
3. Hành giả Điền Vinh quốc, ba mươi ba tuổi (quê quán ở làng Tích Đức, xóm Tích Phước, huyện Vạn Niên, phủ Kinh Triệu, cha là Hoài Thường cùng hộ, tự thân không sổ sách, tụng Đại Tùy cầu chân ngôn, tụng Tôn thắng Đà-la-ni, tụng Di-đà Đà-la-ni, tụng kinh Pháp Hoa một bộ, ở chùa Tổng trì, pháp danh là Tuệ Duệ).
4. Đồng Tử Lý Bảo Đạt, mười ba tuổi (quê quán ở làng Tu Văn, xóm Cố Điệp, huyện Chiếu Ứng, phủ Kinh Triệu, cha là Thủ Tín cùng hộ, tụng kinh Pháp Hoa hai quyển, tụng Tùy Cầu Đà-la-ni, tụng kinh Lý Thú Bát-nhã, ở chùa Đại Hưng Thiện, pháp danh Tuệ Chánh).
Hữu Đặc tiến Thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Các vị Đại Đức v.v... nói trên, trước thường phụng thờ Cố Đại Hòa-thượng, luôn siêng năng hương đèn nhiều năm, chí khí tánh tình mềm mỏng bền bỉ; không biếng lười. Xin ban cho chánh danh để tiện đưa đến tháp ngạch, ở đó lo việc quét dọn, mong tròn võng cực, thành đạt sự triển chuyển đạo nghĩa thầy trò. Các vị hành giả Đồng Tử v.v... nói trên, đều đã từ lâu tu tập chân ngôn, kiêm tụng kinh điển, chẳng lìa viện này, sự nghiệp đã thành tựu, cúi xin ban ân độ cho khiến họ cố gắng tu trì.
Trung thư môn hạ, điệp văn của Đại Quảng trí Bất Không.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768), ngày 13 tháng 06.
Trung thư lệnh Nguyên Tải, môn hạ Đỗ Vương đồng dâng.
Sa-môn Bất Không nói: Bất Không tôi sớm được theo hầu Tôn sư Cố Đại Hòa-thượng, bèn nương chỉ dạy ngợi khen. Thẹn mình không phải là hiền triết để thăng đường, lầm sai hèn mọn gặp lúc nhật thất. Đàn pháp mạn-trà-la Quán đảnh là tông của muôn hạnh, đứng đầu Mật chứng, sắp vào quả vị Giác ngộ không ai chẳng do từ đây, Cố Hòa-thượng tôn sư truyền mở mắt mũi ấy, đèn tuệ soi sáng như mặt trời mặt trăng thật sâu xa. Bệ hạ nghĩ muốn nối tiếp cảnh quang, chớ khiến tỳ vết hoại tàn, ban chiếu khai Pháp Quán đảnh, lập thiết đạo tràng, vừa phảng phất ở tồn niên, há nương về chốn bổ xứ? Lòng từ của Bệ hạ là quyến thuộc, ân nhuần thấm đượm sâu xa. Ban năm vị tăng xuất gia, mây buông theo xuống tóc, cho ngàn người dùng cơm trời, hương thơm theo gió thoảng, huống là nơi Bảo tháp đích thân trị đề "Quế chư y lạc" (vầng trăng rơi rụng!). Dưới long môn, núi cao tự mọc dậy, giữa vầng trăng, Nhạn thường nhóm bay lên. Không dám đội mang Dinh vắng đến cùng, kính cẩn nương nhờ Giám sứ Lý Hiến Thành, dâng biểu trình bày cảm tạ để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768), ngày 13 tháng 06
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng là Tông sư của Đế Thích, Phạm thiên, là nơi hướng về nương tựa của trời người. Từ bi trí lực cứu độ sinh linh, khai mở Đạo tràng giảng nói pháp yếu. Phước đượm đất nước, ân thấm hữu tình. Thẹn tốt lành nhiều, nhọc phiền cảm tạ.
Sa-môn Bất Không nói: Kính mong Bệ hạ ban Ân ngày rằm tháng này là ngày Húy kỵ Tôn Sư Cố Đại Hòa-thượng Đại Hoàng Giáo Tam Tạng Kim cang trí, thiết trai cúng dường một ngàn vị tăng, ban tặng trà vật trị giá một trăm mười quan tiền. Cúi chịu mất mát tình thương mà không nơi bày tỏ, Bất Không tôi thành thật lo sợ, vì thương vì cảm, Cố Đại Hòa-thượng đạo trùm cả bốn sinh, hóa khắp Thập Địa, diện mạo tôn dung đến ngày húy kỵ này lại tăng phần mến thương như sương mốc thấm ướt, chứa nhóm nỗi niềm đau xót của rừng hạc. Bệ hạ cung kính mở mang phó chúc, nhớ nghĩ đạo mầu, bảo ban người tài giỏi nấu nướng cúng dường ngàn vị tăng, để lại danh hương hơn trăm quan tiền, rực rỡ cả chùa viện, thơm ngát sân thiền. Phàm trong nhóm đệ tử chẳng ai dám đảm đương, không gì hơn thương nhớ đến cùng, kính cẩn nương nhờ Giám sứ, dâng biểu trình bày cảm tạ để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768), ngày 15 tháng
08.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam
Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo Ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế phê: Cố Đại Hòa-thượng Kim Cang Trí, pháp lưu truyền như bè báu, đèn trí chiếu soi an ủy, dẫu chứng nhập Niết-bàn từ lâu, song vẫn còn thiết trai húy kỵ, mãi mãi phó chúc, nhớ nghĩ đạo mầu, dâng bày chút hương trà lễ mọn, đâu gì phải phiền hà cảm tạ vậy.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
1) La Văn Thành, ba mươi tuổi (quê quán ở nước Thổ-hỏa-la, tụng kinh Kim Cương Bát-nhã, tụng Luận Khởi Tín, tụng Bồ-tát Giới Kinh, pháp danh là Tuệ Hoằng, xin ở chùa Tây Minh).
2) La Phục Ma, bốn mươi lăm tuổi (nguyên là Bảo ứng công thần võ hiệu úy thủ hữu Vũ Lâm Quân đại tướng quân viên thí Đại thường khanh thượng quế quốc tứ tử kim ngự đại. Quê quán ở làng Cao Đình, huyện Thiên Bảo, Vinh Châu, pháp danh là Tuệ Thành, xin ở chùa Hóa Đô).
3) Đồng tử Tào-ma-ha (quê quán ở làng Vĩnh An, xóm Vạn Niên, Vinh Châu. Cha cùng Hộ. Tụng Kinh Pháp Hoa một bộ, pháp danh là Tuệ Thuận, xin ở chùa Thiên Phước).
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên đều ban độ và phối trí ở các chùa nói trên, theo Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768), ngày mồng 13 tháng 10.
- Trung thư thị lang Bình Chương Sự Nguyên
Tải.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Đỗ Hồng Tiệm.
- Hoàng môn thị lang Bình Chương Sự Vương Tấn.
- Binh bộ thượng thư Bình Chương Lý Sứ.
- Tư đồ kiêm trung thư lệnh sứ.
Thiền sự Tuệ Ẩn ở viện Đông Tháp chùa Quang Thiên, đúc sơn Đẩu và năm đẩu Đồng (?)? gồm một trăm ba mươi cái.
Hữu Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Sa-môn tam Tạng chùa Đại Hưng Thiện, Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: Tuệ Ẩn là đệ tử ngài Bất Không vì nước nhà nên đúc các vật nói trên sung vào các chùa Thánh Kim ở núi Ngũ Đài và những nơi cúng dường thông thường. Chỗ viện của Tuệ Ẩn đang trú ở, xin sung vào tu trợ công đức ở núi Ngũ Đài và đưa cúng làm nơi chúng sinh lui tới dừng nghỉ. Lại bảo Tuệ Ẩn đưa các vật ấy đến núi Ngũ Đài cúng dường vĩnh viễn. Mong phước giúp vận may Hoàng thượng, Thánh thọ vô cương.
Trung thư môn hạ; Điệp văn của Đại Quảng Trí
Bất Không. Niên hiệu Đại Lịch thứ tư (769), ngày 17 tháng 6.
Trung thư thị Lang Bình Chương Sự Nguyên Tải, năm tướng đồng dâng.
Tại kinh thành, Hữu Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: không xứng đáng với vết tích thiền môn, tu hành phạm hạnh đã lâu, tập dịch kinh điển, tỏ ngộ Huyền môn, biết được Đức Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, trong Đại thừa Mật giáo đều có phô bày. Nay thường trú tại núi Ngũ Đài, phước nhuần xa rộng, cúi mong Bảo Ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế Bệ Hạ, Đức hợp với trời đất, sáng đồng như mặt trời mặt trăng, phước hạnh vô cương làm cho Tôi và muôn dân vui vẻ. Cúi mong từ nay về sau, ra lệnh cho các chùa trong nước, phía trên hình tượng Tôn giả Tân-đầu-lô-phả-la-đọa ở trai đường, nên thiết lập bảo tòa tôn thờ Thánh tượng Bồ-tát Văn-thù-sưlợi, tìm xem trong Thánh điển đều có chỉ bày rõ ràng. Các Đức Như Lai trải qua A-tăng-kỳ kiếp còn phải vâng thừa lời chỉ dạy. Phàm người xuất gia, hẳn phải hợp với khu y. Các vị Bồ-tát Phổ Hiền, Quán Thế Âm còn cầm quạt đứng hầu, các vị Thanh văn, Duyên giác còn ôm lọng đứng sau. Đó là các nước Thiên Trúc đều như vậy, chẳng phải cái thấy thô tục của chúng tôi. Nhân vậy, xin thường kính lễ như thế.
Trung thư môn hạ, Điệp văn Từ bộ.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ viết; Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương tử, oai đức Đặc Tôn, là thầy dẫn đường của các Đức Phật, luôn tẩy rửa tai mắt của chúng sinh, làm ta an vui sâu rộng. Ấy là cứu vớt vô biên. Không có nơi tôn sùng, mọi người biết đâu để chiêm ngưỡng? Nay các vị Đại đức ở kinh thành, khẩn thiết trình tấu như thế, thường hợp với thánh điển. Điều thỉnh xin nên y cứ điệp văn mà chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ tư (769), ngày 19 tháng 12.
Trung thư, Bốn tướng đồng dâng.
Ngày mồng 05 tháng 07 niên hiệu Đại Lịch thứ năm (770), Sa-môn Tam Tạng Bất Không ở tại phủ Thái Nguyên thiết trai cúng dường một muôn vị tăng.
Trung thư môn hạ, Điệp Văn Đại Đức Tam tạng Bất không. Điệp Văn kính vâng chỉ dụ nên ở tại phủ Thái Nguyên, thiết trai cúng dường một muôn vị tăng, lấy tiền vật của các quan ở phủ Thái Nguyên, chuẩn định số lượng mà cúng dường chớ để thiếu sót. Nhân vậy ban bảo Tam tạng Bất không xem xét. Điệp văn theo chuẩn định, ban cố Sắc Diệp.
- Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 5 (770), ngày mồng 5 tháng 7.
- Trung Thư thị lang Bình Chương sự Nguyên
Tải.
- Môn Hạ thị lang Bình Chương sự Vương Tấn.
- Binh Bộ thượng thư Bình Chương sự Lý Sứ.-Tư Đồ kiêm trung thư lệnh sứ.
* Đồng năm ấy (770), ngày 13 tháng 07, ban chiếu.
Chỉ dụ viết: Hòa-thượng Tam tạng Đại Quảng Trí, từ lâu tu tập định huệ, sớm khế ngộ Du-già. Tham học nơi Linh Sơn xa xôi, đích thân mong cầu Thánh đạo. Chí linh hẳn ứng, Huyền cảm thông thấu, sen xanh dụ Tâm liễu chứng tại đó, cảnh thu nóng bức khéo thêm trân vệ, để lại chúc thư, chẳng nhiều vậy..... Ngày 13......
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Tam tạng Đại Quảng Trí Bất không.
Điệp văn vâng thừa chỉ dụ, Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Tam tạng Đại Quảng Trí Bất không trình tấu: xin thiết trí xây dựng viện Văn-thù-sư-lợi Bồtát tại chùa Chí Đức ở phủ Thái Nguyên. Đồng thời chọn mười bốn vị Đại đức tinh thông ba học thay nhau mở mang Bổn giáo để đèn pháp mãi được tiếp tục, nhân đó thỉnh mời Pháp sư Đạo Hiếu ở tại chùa Chí Đức giảng dạy trong thời gian lâu dài. Nên y cứ Điệp văn để chuẩn dịch, ban sắc cố Điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ năm (770), ngày 13 tháng 07.
-Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên Tải, cùng bốn tướng đồng dâng.
* Đồng năm ấy (770), ngày mồng 04 tháng 09, lại ban Thủ Chiếu.
Chỉ dụ viết: Hòa-thượng Tam Tạng Đại Quảng Trí, hợp nguồn Đạo sâu, tìm dấu Linh xa, từ bi diệu lực tỏ bày chân tông. Năm uẩn đã không, như như tại đó, tiết thu lạnh lẽo, Hòa-thượng vẫn bình an mạnh khỏe, gởi lại chúc thư chỉ dụ chẳng nhiều vậy..... Ngày mồng 4...
Chùa Đại Đường Hưng Quốc Thái sùng phước ở phủ Thái Nguyên, là nơi Cao Tổ Thần Nghiêu Hoàng Đế khởi nghĩa, tại tịnh đường Hiệu Lệnh xin an trí một tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền. Viện Tịnh Độ là nơi thiết lập đạo tràng Quán Đảnh, xin chọn mười bốn vị Đại đức tăng ở đó, vì nước nhà mà trì tụng kinh chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-lani trong thời gian lâu dài.
Hữu Đặc tiến Hồng lô Khanh, Sa-môn Tam tạng Đại Quảng Trí Bất không trình tấu: trước kia kính vâng ân ban đến núi Ngũ Đài phụng tu công đức, nhân đến phủ Thái Nguyên tham lễ chùa Chí Đức, được nhìn thấy Thánh tích nơi Cao Tổ Thái Tông khởi nghĩa, đồng thời tại chùa ấy, thật là nơi bắt nguồn hưng thịnh của nước nhà và Đế nghiệp, chắc chắn không hợp như các chùa khác, cúi xin Bệ Hạ nghĩ tưởng miễn bỏ tất cả mọi sai liệu và thuế khóa để tiện hồi sung.
Ngày húy kỵ thất Thánh Cao Tổ Thái Tông, thiết trai và hành hương, đồng thời sửa chữa tịnh đường Hiệu Lệnh và an trí tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền. Nhân ba tháng trường trai, mỗi tháng mười ngày trai, ban bảo toàn thể tăng chúng tại bổn tự phụng vị Cao Tổ... Cho đến Túc Tông cả thảy bảy vị Thánh, trì tụng kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát-nhã. Ngõ hầu có được phước đức vô cương, mãi mãi đội ơn của bảy vị Thánh. Pháp ân vô tận trên phù hợp với Hoàng thọ, ấy là sự trì tụng của chư tăng, cúi mong lựa chọn rõ ràng đầy đủ như danh mục. Trình tấu cùng Tiên đình và tục khách, mong rằng tức thời đồng phát khởi.
Trung thư môn hạ, Điệp văn, Sa-môn Tam tạng Đại Quảng Trí Bất không.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban cố sắc Điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770), ngày mồng 1 tháng 10.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Môn Hạ Thị Lang Bình Chương sự Vương
Tấn.
- Binh Bộ Thượng Thư Bình Chương sự Lý tại sứ viện.
- Tư Đồ Kiêm trung thư lệnh tại sứ viện.
Sa-môn Bất không nói: Bất không tôi nghe: "Kinh điển phiên dịch mở mang Phật giáo. Diễn kệ Liên Hoa, vì để phó chúc thiên vương", cúi mong Bệ hạ ngôi vị kim luân quý trọng, tâm sống trong kệ báu, hiếu đức cảm động cả đất trời, ánh sáng như nhật nguyệt, cúi xuống để xét nhìn Sa-môn Tuệ Lâm ở chùa Chương Kính, từ thuở nhỏ đã thông minh dĩnh ngộ, chí nguyện muốn truyền đăng. Giảng nói Đại thừa, trên muốn báo đáp ân lớn dựng lập nên, mỗi ngày thường thì tụng diệu nghĩa, hay nhớ nghĩ công đức chở che. Riêng may đượm nhuần ân đức của trời, Bất Không tôi nay vì nước nhà nên xin thỉnh đến chùa Bảo Thọ vì kẻ tăng người tục mà giảng nói chân kinh, ngõ hầu vận may tông miếu kéo dài đến đại kiếp mà trai tịnh trọn năm. Ruộng phước nơi thương sinh, sống lâu như núi Tu-di. Như ân đức bệ hạ chấp thuận, xin ban sắc chỉ dụ như trình tấu thỉnh mời.
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày mồng 02 tháng 02.
Đặc tiến thí hồng lô khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Sa-môn Bất Không nói: Trung sứ Lý Hiến Thành kính tuyên thánh chỉ, đặc ban chùa Đại Hưng Thiện thí giới phương đẳng, ngay trong đạo tràng mọi vật lúa nếp gạo mè (vừng) dầu, củi v.v... không ai chẳng đầy đủ để cung cấp thiết trai cúng dường. Bỗng đối hổ phận kính sợ mừng lo lẫn lộn. Đồng thời hứa ở đạo tràng ấy, thật rất may mắn, lại còn ban tặng cúng dường chư tăng, ân mưa móc thật sâu xa, tự thẹn không làm sao đáp được, chỉ ngày đêm siêng năng gia công niệm tụng mong báo đáp trong muôn một, đồng thời kính cẩn dẫn dắt chư tăng cầu thọ giới, suốt hai mươi mốt ngày chí thành khẩn thiết niệm tụng kinh sám, tinh tu hành đạo, kính vì nước nhà mà tu tập phước đức thù thắng, mong được vô lượng công đức dâng đáp thân thánh, chẳng gì hơn xin nguyện mang đội đến cùng, kính cẩn nhân Trung sứ Lý Hiến Thành phụ giúp biểu văn trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vừa mừng vừa sợ kính dâng
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày 18 tháng 02.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Thư đáp của Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế:
Sa-môn Tam Tạng (Đại Quảng Trí Bất Không) lòng từ ân tuệ tinh thành, nhớ nghĩ nước nhà sâu sắc, rộng tu phước lợi trùm khắp sinh linh, thiết lập đàn tràng, mở mang pháp mầu, phát huy cho hàng hậu học. Trẫm ban tặng gieo trồng duyên lành. Những gì đã cung cấp chẳng phải tốt lành lắm, đâu có gì phải cảm tạ!
Trung thư môn hạ, Điệp văn chuẩn định viết:
Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện.
Chùa Bảo Thọ thiết lập đàn tràng, các vị Đại đức Tuệ Triệt v.v... trình tấu: Kính vì Tam Tạng Quốc sư là tường thành vững chắc của Phật giáo, là nơi mà cả bốn biển đều kính ngưỡng, cả hai kinh thành đều tôn kính vâng thừa. Giới đàn thanh tịnh, gội nhuần túc đức, kính thỉnh lập đàn thực hành pháp, truyền giới cho đại chúng.
Trung thư môn hạ, Điệp văn từ bộ, Điệp văn Tam Tạng chuẩn định như vậy.
Điệp Văn kính vâng chỉ dụ nên y theo điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày 03 tháng 04.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải
- Môn hạ thị lang Bình chương sự Vương Tấn.
- Binh bộ thượng thư Bình Chương sự Lý Tại
Sứ viện
- Tư Đồ kiêm trung thư lệnh sứ.
- Từ Bộ, Điệp văn chùa Đại Hưng Thiện.
Điệp Văn kính vâng, trung thư môn hạ ban sắc Điệp văn như chuẩn định, ban sắc cố điệp như Điệp văn trình bày lý do.
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày 09 tháng 04.
- Lệnh lại Hà Đồ Điệp, Chủ Sự Chiêu ý, lang trung Huân Tấn.
Sa-môn Bất Không nói: Ngày nay, đặc biệt kính ân ban tặng năm con bò sữa, mỗi con đều có nghé con, tặng thưởng từ thiên đế, hớn hở vô cùng. Bất Không tôi thành thật hổ thẹn nhờ ân, vừa mừng vừa thẹn. Cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế như Nhật Nguyệt chiếu soi, Ân quá mưa móc, tuy là tinh tấn tu tập cả bốn mùa, há báo đáp được trong muôn một, dốc sức tận trung thật khó báo đền, vỗ về tâm cang tu kỷ, giữ gìn mặt mắt, cũng không hơn được ân sủng thấm đượm ưu ái sâu xa đến cùng. Kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày 24 tháng 09.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam
Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng sâu vào Bí tạng, che chở tinh cần tha thiết. Nhìn lại chính là do sự tinh tấn tu tập, nên thừa ban ân, với vật ban tặng đâu phải sâu dày mà phiền lòng tạ ân.
Biểu văn có mười tám bài, đáp chế chín bài, tổng cộng hai mươi bảy bài:
1. Biểu văn xin đưa tất cả kinh điển đã được phiên dịch, suốt trong ba triều vua vào mục lục để lưu hành. (có phần trả lời)
2. Biểu tạ ân đức cho phép đưa các kinh luận mới phiên dịch vào mục lục để lưu hành. (có phần trả lời)
3. Chế văn ban tặng biển ngạch chùa Phật Đường ở phường Tây Uyển, huyện Tây Hà, Phân Châu.
4. Biểu ân ban cầu mưa, mừng được mưa. (có phần trả lời)
5. Chế văn tuyển chọn các vị Đại đức ở tháp Viện Tôn Sư và ở viện Cổ Thạch Giới Đàn tại Đông Đô.
6. Chế văn thỉnh Pháp sư Siêu Ngộ tu sáu pháp Bồ-tát ở chùa Hóa Độ.
7. Chế văn ban lệnh thiết trí viện Văn-thù-sưlợi Bồ-tát ở các chùa trong nước.
8. Biểu cảm tạ ban sắc thiết trí viện Văn-thù ở các chùa trong nước.
9. Chế văn xin ở hai đường cái trong kinh thành, mỗi nơi lập một ngôi chùa để giảng kinh.
10. Chế văn giáng chức tự chủ chùa Đại Hưng Thiện của Sa-môn Viên Kính và đưa về chùa Tuệ Viễn ở phủ Hà Nam.
11. Sớ văn kính dâng kinh "Văn-thù-sư-lợi Phật Sát Công Đức".
12. Chế văn xin bổ nhiệm Sa-môn đạo ngộ trước đây giữ chức Duy-na, nay cho làm chức tự chủ.
13. Biểu tạ ân ban tặng một tạng "Nhất Thiết
Kinh của Quỳnh Hoa chân nhân". (có phần trả lời) 14. Biểu tạ ân ban tặng bánh chưng, tiền v.v... mọi vật, nhân ngày thượng lương điện các Đại Thánh Văn-thù. (có phần trả lời)
15. Biểu tạ ơn vua đã ban sắc cho Tam tạng Hòa-thượng cầu mưa, chúc mừng trời mưa. (có phần trả lời)
16 Biểu vâng chịu an ủy Quỳnh Hoa chân nhân tạ thế. (có phần trả lời)
17. Biểu tạ ân ban tặng lụa trắng ngày mùng 5 tháng 5. (có phần trả lời)
18. Chúc thư của Hòa-thượng Tam Tạng.
*****
Suốt thời gian ba triều vua (Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông), các kinh điển đã được phiên dịch gồm có bảy mươi bảy bộ; một trăm lẻ một quyển đều đưa vào mục lục một quyển:
- Kinh Kim Cương Đảnh Du-già Chân Thật Đại Giáo Vương: ba quyển
- Kinh Kim Vương Đảnh Du-già Bát-nhã Lý Thú: một quyển.
- Kinh Quán Tự Tại Bồ-tát Thọ Ký: một quyển.
- Kinh Du-già Niệm Châu: một quyển.
- Kinh Kỳ Đặc Phật Đảnh: ba quyển.
Kinh Quán Tự Tại Bồ-tát Tối Thắng Minh Vương Tâm: một quyển.
- Kinh Kim Cương Đảnh Du-già Văn-thù-sưlợi Bồ-tát: một quyển.
- Kinh A-lợi-đa-la-a-lỗ-lực: một quyển.
- Tán Phổ Hiền Hạnh Nguyện: một quyển.
- Tán Địa Tạng Bồ-tát Vấn Pháp Thân Tán: một quyển.
- Kinh Xuất Sinh Vô Biên Môn: một quyển.
- Kinh Đại Cát Tường Thiên Nữ: một quyển.
- Kinh Để Lý Tam-muội-da: ba quyển.
- Kinh Thập Nhất Diệu Quán Tự Tại Bồ-tát: một quyển.
- Kinh Kiết tường thiên nữ thập nhị danh hiệu: một quyển.
- Kinh Kim Cương Đảnh Du-già Thập Bát Hội Chỉ Quy: một quyển.
- Kinh Kim Cương Đảnh Du-già Tam Thập Thất Tôn Phân Biệt Thánh Vị Pháp Môn: một quyển.
- Kinh Bồ-đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương: năm quyển.
- Kinh Bảo Khiếp: một quyển.
- Kinh kim Cương Thọ Mạng Đà-la-ni: một quyển
- Kinh Đại Khổng Tước Minh Vương: ba quyển.
- Kinh Đại Vân Thỉnh Vũ: hai quyển.
- Kinh Tương Ngô lê Đồng Nữ: một quyển.
- Kinh Vũ Bảo Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Đạo Cán Dụ: một quyển.
- Kinh Đại Bảo Quảng Bác Lâu Các: ba quyển.
- Kinh Bồ-đề Trường Trang Nghiêm: một quyển.
- Kinh Trừ Nhất Thiết Tật Bệnh Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Thí Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Tam Thập Ngũ Phật Danh: một quyển.-Kinh Bát Đại Bồ-tát Đà-la-ni: một quyển.
Kinh Diệp Y Quán Tự Tại Bồ-tát Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Ha-lợi-đế mẫu: một quyển.
- Kinh Tỳ-Sa-môn Thiên Vương: một quyển.
- Kinh Quán Tự Tại Bồ-tát Thuyết Phổ Hiền Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Văn-thù Vấn Tự Mẫu Phẩm: một quyển.
Kim Cương Đảnh Liên Hoa Bộ Tâm Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Kim Cương Đảnh Du-già Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại: một quyển.
- Vô Lượng Thọ Như lai Niệm Tụng Nghi Quỹ: một quyển.
- A Súc Như lai Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Phật Đảnh Tôn Thắng Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Kim Cương Đảnh Thắng Sơ Du-già Phổ Hiền Bồ-tát Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Kim Cương Vương Bồ-tát Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Phổ Hiền Kim Cương Tát-đỏa Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Kim Cương Đảnh Du-già Ngũ Bí Mật Tu Hành Nghi Quỹ: một quyển.
- Kim Cương thọ mạng Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Nhất Tự Đảnh Luân Vương Du-già: một quyển.
- Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Niệm Tụng Nghi Quỹ: một quyển.
- Nhân Vương Bát-nhã Niệm Tụng Pháp: một quyển
- Như Ý Luân Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Đại Hư Không Tạng Bồ-tát Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Du-già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Cam lộ Quan-tra-lợi Du-già Niệm Tụng Pháp: một quyển.
- Quán Tự-tại Bồ-tát Chân Ngôn Quán Hạnh Nghi Quỹ: một quyển.
- Pháp niệm tụng Quán tự tại Da la Du già: 1 quyển.
- Hoa nghiêm Nhập Pháp Giới Phẩm Tứ Thập Nhị Tự Môn Quán: một quyển.
- Văn-thù Tán Pháp Thân Lễ: một quyển.
- Thọ Bồ-đề Tâm Giới Nghi: một quyển.
- Kim Cương Đảnh Du-già Tam Thập Thất Tôn Lễ: một quyển.
- Lý Thú Bát-nhã Thích: một quyển.
- Đại Mạn-đồ-la Thập Thất Tôn Thích: một quyển.
Kim Cương Đảnh Du-già Hộ-ma Nghi Quỹ: một quyển.
- Chư Bộ Đà-la-ni Mục: một quyển.
Luận Đại Thừa Duyên Sinh: một quyển.
- Kinh Thất-câu-chi Phật mẫu Đà-la-ni: một quyển.
- Kinh Đại Hư Không Tạng Bồ-tát Sở Vấn: một quyển.
- Kinh Nhân Vương: hai quyển.
- Kinh Mật Nghiêm: ba quyển.
- Nhân Vương Niệm Tụng Nghi Quỹ: một quyển.
- Nhân Vương Kinh Sớ: ba quyển.
Sa-môn Bất Không nói: Bất Không tôi từ thuở nhỏ được kính thờ tôn sư Đại hoằng Giáo Tam Tạng Hòa-thượng Kim Cương trí suốt hai mươi bốn năm, bẩm thọ Pháp Môn Du-già. Sau đó, đi khắp năm xứ Ấn Độ tìm cầu những điều chưa được thọ học và các kinh luận, để học tập lại. Tìm được các kinh luận Du-già chân ngôn bản Phạn hơn năm trăm bộ. Kính vì nước nhà mà dịch rõ lời Thánh, rộng gieo phước đức. Vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (746), đi đến Thượng đô, vâng phụng ân ban Hoàng Đế Huyền Tông, ở tại trong cung, thiết lập đạo tràng, đem các kinh luận mang theo được, cố gắng phiên dịch, đến lúc Hoàng Đế Túc Tông kế thừa vương vị, đặc biệt kính vâng ý chỉ, ở tại đạo tràng trong cung kiến lập đàn tràng Hộ-ma quán đảnh. Lại vì nước nhà phiên dịch kinh điển giúp vua Hoằng Hóa. Được nhận đặc ân ban tặng của hai vị Thánh vương (Huyền Tông, Túc Tông) nên các kinh luận bằng tiếng Phạn của các vị Tam Tạng Pháp sư ở đời trước đem đến đều được tìm hiểu. Trong đó có những quyển sách bìa rách nát rơi rớt sót mất bèn được tu bổ. Còn với những bộ không phiên dịch thì tiếp tục phiên dịch để trình lên vua xét biết, cúi mong Bệ hạ kế thừa mà tiếp nối vận Thánh, chở che hàm linh, mở rộng ruộng phước, sáng ngời như nhật nguyệt. Ân nhuần khắp xa, mưa Pháp truyền rộng, bốn biển tâm tưởng là nhà, muôn phương vui mừng mang đội. Vậy đủ biết sự phó chúc của Phật Tổ đều đầy đủ ở Thánh Quân.
Bất Không tôi được nhờ ân đức, vinh hạnh thật sâu. Tự suy xét điều ấy biết làm sao báo đáp nước nhà! Kính Vâng thánh chỉ tiên vương mở bày pháp mầu, lại kính vâng ân ban của bệ hạ cung kính tuân theo chỉ dụ để lại, tiếp tục phiên dịch kinh điển làm lợi ích chúng sinh. Tuy là trọn năm bốn mùa đều cố gắng siêng năng nhưng chưa thể báo đáp trong muôn một. Vì vậy cứ khư khư suốt ngày đêm, lo việc phiên dịch chân ngôn và các kinh điển Đại thừa, mong xem xét lại những sai sót. Trên nương nhờ Hoàng đạo, với các pháp môn trong Kim Cương Đảnh Du-già đã phiên dịch, ấy là con đường thành Phật nhanh chóng. Những ai tu hành theo pháp môn ấy, thì chắc chắn nhanh chóng vượt khỏi cảnh phàm, đạt đến bờ kia. Ngoài bộ chân ngôn ra, phương tiện của các Đức Phật không chỉ là một, nên các kinh điển Đại thừa đã phiên dịch đều là tu tạo phước đức để nước nhà dứt hết sạch tai ách. Trăng sao không gây hoạn nạn, mưa gió thuận hòa. Ngưỡng nhờ năng lực Phật giúp thành nước nhà. Kính cẩn gom góp lại các kinh điển trước sau đã phiên dịch xong, tính từ niên hiệu Khai Nguyên cho đến niên hiệu Đại Lịch thứ 06 (trước năm 742-771), gồm có một trăm lẻ một quyển; bảy mươi bảy bộ và Mục lục một quyển. Đồng thời ghi chép tên tuổi cho kẻ tăng người tục đã xong. Nay nhân ngày khánh đản, kính cẩn trình dâng, ngõ hầu được chân ngôn giúp đỡ, ủng hộ bệ hạ lâu dài. Do oai lực của Đại thừa mà quốc dân mãi an khương. Trong các kinh điển bản Phạn chưa phiên dịch, chỉ có các kinh giữ gìn nước nhà, phước nhuận sinh linh mới tiếp tục phiên dịch, trình tấu lên bệ hạ xét biết. Không gì hơn sự thành kính đến cùng, kính cẩn dâng biểu để bệ hạ xét biết, Sa-môn Bất Không tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 06 (771), ngày 12 tháng 10.
Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Bảo Ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê: Hòa-thượng ngày trước phụng thừa tiên triều mở mang pháp mầu, giảng nói kinh điển, rộng chỉ bày bến mê. Trẫm kế thừa nghiệp lớn, cung kính vâng thừa yếu chỉ sáng suốt, Hòa-thượng lại phiên dịch rõ ràng, khiến mỗi quyển bộ thảy đều hoàn tất, mãi mãi cứu giúp sinh linh, thật đáng vui mừng thấm thiết. Các kinh điển Hòa-thượng đã phiên dịch nên giao phó trong ngoài, đưa vào mục lục Nhất Thiết kinh.
Sa-môn Bất Không nói: Trung sứ Lý Hiến Thành phụng tuyên thánh chỉ đưa các kinh luận mới phiên dịch vào mục lục, ban một bài chế đáp lại biểu văn đưa kinh vào mục lục, ban một chỉ dụ bảo trong ngoài thi hành, vẫn cung kính đưa vào mục lục Nhất Thiết Kinh. Vui mừng ân trọng, không dám vừa mừng vừa sợ, vừa vui vừa thẹn! Cúi mong Bệ hạ vâng thừa phó chúc của Đấng Pháp vương, đầy đủ chí nguyện của tâm người, gìn giữ mật ấn của Phổ Hiền, thực hành chánh giáo của thiên tử, suốt ngày đêm soi sáng ban trải khắp tám phương, trong khoảnh khắc đó rưới ân nhuần đến muôn vật. Đó là khắp đất trời đều rất hạnh phúc, huống gì đối với Bất Không tôi ư? Nhưng Bất Không tôi, suốt hơn bốn mươi năm phiên dịch thánh điển, suốt ba triều đại ca ngợi tu tập công đức với chí nguyện muốn truyền bá. Trên nhờ ân đức bệ hạ, dưới thấm nhuần sinh linh, đâu phải tâm ý ấy trong một triều đại mà nguyện mãn. Ân đức thánh vương thật rộng lớn, nhiều kiếp khó đáp đền, huống gì lại còn đặc ân cho phép phiên dịch bản Phạn các kinh chưa phiên dịch, càng thêm buồn vui, cảm kích, dốc hết sức lực kính vâng thánh chỉ, tiếp tục phiên dịch để dâng lên, mừng sợ mang ân đến cùng không tự kềm chế được, kính cẩn, nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu để bệ hạ xét biết, Bất Không tôi vừa mừng vừa thẹn kính dâng. Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày 27 tháng giêng.
Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng đã chứng Bồ-đề từ lâu, nhập vào tri kiến Phật, các kinh điển phiên dịch thảy đều thấu suốt tinh tường đáng thọ học. Trẫm ban lệnh thi hành phép tắc truyền bá, soi sáng ban bày khắp nơi, rộng cứu giúp hàm linh, còn chưa tỏ sáng thuyền từ, sao nhọc lòng phải trình bày cảm tạ vậy.
Viên Phật đường xưa ở phường Tây Uyển, huyện Tây Hà, thuộc Phân Châu.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: việc chùa Phật Đường nói trên, ở huyện Tây Hà, người dân trong xã ấp, khoảng niên hiệu Chí Đức (756-758), cùng chung chí nguyện tu tập, nên yêu nghiệt đều tan mất, nước nhà phục hồi, cũng nhân vậy, tiên thánh hiếu cảm Hoàng đế lấy làm tên xã, cũng không phiền nhiễu công gia, cũng không có cầu xin riêng. Mọi người ở xã ấy tự đem của cải trong nhà ra để xây dựng. Từ đó về sau, thường xuyên sửa chữa không thôi. Năm trước vâng lệnh vua ban phụng tu công đức ở núi Ngũ Đài, một hôm đến viện Phật Đường ấy tìm hỏi nguyên do, thảy đều rõ biết sự thật, ở đó, Điện đài phòng nhà đều làm hoàn tất, rất mong ân đức bệ hạ ban cho biển ngạch hiệu chùa.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên ban tặng biển ngạch hiệu chùa là "pháp tân", như Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày 04 tháng 03.
- Trung thư thị lang Bình Chương sự Nguyên
Tải
- Môn hạ thị lang Bình Chương sự Vương Tấn.
- Binh bộ thượng thư Bình Chương sự Lý Sứ.
- Tư Đồ kiêm trung thư lệnh sứ.
Sa-môn Bất Không nói: Trung sứ Khương Đình Hoàn đến phụng tuyên thánh chỉ. Nhân vì kháng dương (Hạn hán quá đỗi) nên ra lệnh cầu mưa, chỉ trong bảy ngày là được, Bất Không tôi nghe: lời nhỏ như mây tơ chuẩn xác là vua vậy, ban truyền rộng lớn mà vâng theo là bề tôi vậy. Cúi mong Bệ hạ rõ tứ mục, đạt tứ thông. Trời cao nghe biết khiến tâm lo cấy gặt. Thật đáng gọi là Nguyên thủ rất mực thấu suốt vậy. Đã kính vâng thiên chiếu, hẳn chóng gấp trang nghiêm đạo tràng, không ai chẳng dốc hết lực chuyên nhất tâm, khiến bệ hạ thành khẩn y theo Di giáo của các Đức Phật, tâm vi mật khẩn thiết, chí thành thì cảm cách đến thần linh, không nhọc sự vời đến của yên vũ, đã ban ân huệ khắp trời, dưới thì thuận lòng người trông mong, trên thì phù hợp với thánh tâm. Chân dậm tay múa, không dám nhảy nhót reo mừng, kính cẩn dâng biểu trình bày chúc mừng để bệ hạ xét biết, Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ sáu (771), ngày 03 tháng 04.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không dâng biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng hạnh mầu tròn sáng, lòng từ cứu giúp rộng lớn, lo nghĩ sâu xa về nước nhà, lòng nhân phù hợp với sinh linh. Trang nghiêm thanh tịnh đàn tràng, chí thành mong cầu ân trạch, ngày đêm siêng cầu chân thánh chiếu lâm, chưa đến mười ngày đã có mưa, mầm xanh tươi tốt, hy vọng được mùa. Ngoảnh nhìn lại chỉ vì trẫm đức mỏng nên ôm lòng tự thẹn mà cố gắng vậy.
Tháp viện Cố Hòa-thượng Tam Tạng Đại Hoằng giáo ở chùa Tiến phước tại Đông Đô, xin chọn bảy vị Đại đức nổi tiếng đức hạnh ở các chùa. Ngày tôn sư của Bất Không tôi còn tại thế, đặc biệt được Huyền Tông tiên đế an trí tháp viện nói trên, trải qua nhiều năm tháng đã lâu, mái tháp có phần hư hoại, hương đèn dâng cúng thường thiếu sót, không người lo việc quét dọn. Nay xin chọn bảy vị Đại đức ở các chùa đến ở tại tháp viện ấy, ngày đêm sáu thời sám tụng, vì nước nhà mà tiến tu tam mật du già, tiếp tục kế thừa đạo nghiệp cũ của Tôn sư.
Đồng thời Viện Nhất thiết Hữu bộ Cổ Thạch Giới Đàn cũng chọn mời bảy vị luật sư nổi tiếng đức hạnh mỗi năm kiến lập giới đàn, truyền giới cho chư tăng.
Viện Cổ Thạch giới Đàn ấy là nơi ngày trước Hòa-thượng Bất Không xả y bát mà sáng lập. Ngay trong ngày Bất Không thọ giới cụ túc cũng có tâm nguyện chân thành hứa đồng tu tập. Bất Không tôi được nương ân Thánh, mong rằng gương ngọc lại sáng soi, thấy được phép tắc của tôn sư, trông mong bánh xe vàng luân lại xoay chuyển, nay xin đặt trí biển ngạch viện "nhất thiết hữu bộ Giới đàn", đồng thời chọn bảy vị Đại đức nổi tiếng, bốn mùa vì chư tăng thường giảng nói giới luật, ngày đêm sáu thời vì nước nhà mà tu hành pháp môn tam mật.
Các việc trên, Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Samôn Tam tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: sự việc các viện chọn mời chư tăng và đặt trí biển ngạch, xin có gì thiếu sót thì thay thế vào, ở tại phủ huyện ấy, tất cả mọi sai liệu và tất cả việc tăng, đều xin xóa bỏ, không đồng như các chùa khác. Cẩn trọng các sự việc nói trên.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 7 (772), ngày 16 tháng
6.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
-Môn hạ thị lang Bình chương sự Vương Tấn.
- Binh Bộ Thượng thư Bình chương sự Lý sứ.
- Tư Đồ Kiêm Trung thư lệnh sứ.
Sáu tôn tượng Đại Bồ-tát ở chùa Hóa Độ.
Hữu Đặc tiến Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Trước đây kính vâng ân ban tu tạo công đức nói trên, nay cung thỉnh Pháp sư siêu Ngộ ở trước các tôn tượng, vì nước nhà mà giảng nói Kinh Đại Bát Niết-bàn, mong Bệ hạ sùng tu tẩy rửa mắt tai của hàm linh, thì tâm nguyện vi mật sẽ được viên mãn.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất không. Điệp văn Từ Bộ chuẩn định như vậy.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ, nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày mồng 02 tháng 08.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Môn hạ thị lang Bình chương sự Vương Tấn.
- Binh Bộ Thượng thư Bình chương sự Lý Bão Ngọc.
- Tư Đồ liêm trung thư Lệnh sứ.
- Từ Bộ Điệp Đại Quảng Trí Bất không.
Điệp văn kính vâng Trung thư môn hạ ban sắc Điệp văn như Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày mồng 04 tháng 08.
- Lệnh Sử Thượng Tú Điệp, chủ sự Lưu nghĩa, tức trung Trữ Trường Nhụ.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Tam Tạng Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ ban sắc tại kinh thành, và tăng ni các chùa khắp trong nước. Mỗi nơi phải chọn một vị trí tôn nghiêm, thiết trí viện Đại thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát. Mỗi nơi tại bổn phủ, huyện, trưởng quan cần phải tu tập và tìm kiếm tôn tượng Văn-thù-sư-lợi đắp thắp họa vẽ công phu hoàn tất, mỗi mỗi vẽ lại hình trạng để trình tấu, không được tạo lập riêng ngoài chùa. Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày mồng 16 tháng 10.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Môn hạ thị lang Bình chương sự Vương Tấn.
- Binh Bộ Thượng thư Bình chương sự Lý Sứ.
- Tư Đồ Kiêm trung thư lệnh sứ.
Sa-môn Bất Không nói: "Kính thấy ngày 16 tháng nay, đặc ban tại kinh thành cũng như tăng ni các chùa trong nước, mỗi nơi tự chọn một vị trí tôn nghiêm để thiết lập viện Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, đồng thời tìm kiếm người họa vẽ khắc đắp tôn tượng Văn-thù". Bất Không tôi nghe: Duy Thánh tu đạo pháp lành, công đức ấy kinh động cả trời đất, thấm nhuần ân tuệ khắp sinh linh, cao như Nhật Nguyệt. Bất Không tôi vô cùng vui mừng đội ân, lại vui mừng hớn hở. Cúi mong Bệ hạ khai huyền tạo của Đấng Pháp Vương, mở ruộng phước thật khác thường. Kiến lập chân dung Đức Đại thánh Văn-thù, khiến khắp cả nước đều được chiêm ngưỡng. Ở nơi kẻ tăng người tục sáng ngời vinh hạnh thật sâu sắc. Vả lại, Đức Đại Thánh Vănthù là thầy của các Đức Phật, các Tổ, vì lòng Đại bi phát thệ nguyện rộng lớn không nhận quả chánh giác, vận dụng Đại thừa dẫn đạo lợi lạc không kỳ hạn. Ngày xưa, Đức Thích-ca Như Lai, trước đã có lời huyền ký: giáo điển nhất thừa sẽ hưng thạnh tại Trung Hoa, sẽ có những bậc chí Thánh Đế vương sẽ dùng chánh pháp Đại thừa để trị quốc. Hơn tám trăm năm, trải qua rất nhiều đời Đế vương, Thánh hiền, thật chưa có ai như Bệ hạ cả. Bất Không tôi do nhân hạnh gì mà được sinh gặp thời Thánh triều, tu hành Đại thừa, kính thờ Văn-thù-sư-lợi. Thường đem các chân ngôn của Đại Thánh Văn-thù vì nước nhà mà trì tụng đặt biệt, thường mong hộ niệm, ân đức càng sâu. Ngày đêm suy nghĩ không biết làm sao để báo đáp! Chẳng phải là bỗng nhiên, thiên từ nhuần khắp, rơi lệ túc thành, quên ăn bỏ ngủ, không dám buồn vui, chẳng gì hơn mong đợi đến cùng, kính cẩn nương nhờ trung sứ Dương Quý Trân dâng biểu trình bày nỗi vui mừng để Bệ hạ xét biết, Sa-môn Bất không tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày 27 tháng 10.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo Ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế phê: Đức Đại Thánh Văn-thù chứng chánh giác từ lâu, cứu vớt chúng sinh trong ba cõi, trấn nhiếp rồng dữ nơi Ngũ Đài, đạo từ bi sâu xa, công mở mang sự cứu giúp rộng, cho nên bảo ban tất cả tăng ni hướng về nương tựa. Tôn sư của Tam tạng Bất Không vốn người Tây Vực nên đáng rất an ủy thỏa thích. Đó là điều đáng chúc mừng vậy.
Kinh Đại Hư Không Tạng mới phiên dịch. Đại Đức Pháp sư Nguyên Doanh ở chùa Chương Kính, mời giảng ở chùa Bảo Thọ, Đại đức Pháp sư Đạo Dịch ở chùa Tư Thánh mời giảng ở chùa Tây Minh.
Hữu Đặc tiến Thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: bộ kinh nói trên, kính vâng chiếu ban hành, chưa từng khai giảng, nếu không khen ngợi, thì sao nói lên công đức của bậc Thánh, các Đại đức nói trên đồng thuật sớ giải đã xong, xin ở hai đường cái ở phía Đông và phía Tây mỗi bên lập một chùa để thường giảng kinh ấy, mong cầu phước đức lưu nhuận, trên đội ân Thánh thọ.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), ngày mồng 08 tháng 01.
-Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Môn hạ thị lang Bình Chương sự Vương Tấn.
- Binh bộ thượng thư Bình chương sự Lý sứ.
- Tư Đồ kiêm trung thư lệnh sứ.
Ngày 15 tháng 2, đầu tiên ban sắc ở viện phiên kinh, chùa Đại Hưng Thiện, tu tạo Điện các "Đại
Thánh Văn-thù trấn quốc". Đại đức Tú Nham sung sứ tu tạo, nhờ Sa-môn Tuệ Thắng cùng xem xét, Sa-môn Bất Không nói: cúi mong ân ban thánh chỉ phiên dịch kinh ấy, nhờ thần lực các vị thiên che chở giữ gìn mà cho quyển hoàn tất, tên tuổi tăng tục chứng nghĩa nhuận văn, ngày tháng năm, nơi chốn đều xếp ở cuối quyển. Tháng trước, nhân lễ Đoan ngọ, kính dâng đã xong. Ân tình tháo tiết thánh vương hứa tặng ban tuyên. Bất Không tôi vừa mừng vừa sợ, lại thẹn mà gánh vác. Bất Không tôi nghe. Người lập giáo là Đức Như Lai, còn người mở mang truyền bá thi hành Phật sự chẳng phải Thánh Chúa thì là ai? Cúi mong Bệ hạ quay trời trăng ở Hoàng Đạo, rũ mưa móc nơi thương sinh, thấm nhuần muôn vật hữu tình, kẻ tăng người tục riêng hạnh tu hành thấm đượm vỗ về. Chưa biết báo đáp thế nào! Nhưng kinh này là cội nguồn của các hạnh, là tên gọi riêng của Tịnh Độ, Bồ-tát Đại nguyện công đức trang nghiêm tam muội thần thông, pháp ấn Như Lai, không pháp nào chẳng đầy đủ. Tạm nghe tùy hỷ, phước còn vô lượng, huống gì thọ trì đọc tụng, công đức làm sao hạn lượng được, mong đem pháp lợi này báo đáp trong muôn vật. Rất mong ân đức bệ hạ ban bảo khắp trong nước, ở chùa lớn thì bảy vị tăng, chùa nhỏ thì ba vị tăng ở tại viện Văn-thù mới thiết lập, suốt thời gian lâu dài vì nước nhà mà giảng nói trì tụng, như có thiếu sót tức liền thay thế, mục đích là làm cho pháp âm lưu truyền không dứt, khắp cùng đất nước mãi mãi an khang, bảo hộ thánh vương lâu dài, không gì hơn khẩn nguyện đến cùng, kính cẩn dâng biểu để xét biết, Sa-môn Bất Không tôi vừa kính xin vừa lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày... tháng
06.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Tam Tạng Samôn Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Tự chủ chùa Đại Hưng Thiện là Sa-môn Viên Kính bị phân phối về chùa Tuệ Viễn ở huyện Lục Hồn, Phủ Hà Nam.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện trình tấu: Sự việc Sa-môn Viên Kính trước đây gần sắp giải xem xét tăng, Bất Không tôi bèn đề cử sung chức tự chủ chùa Đại Hưng Thiện, nay được Đồ chúng khiêm nhượng khen ngợi hành trạng v.v.... Sa-môn Viên Kính tự đảm nhiệm giềng mối, xâm đoạt tổn hoại của thường trụ, phá hủy nhà cửa của chúng tăng yên ở mà sửa chữa phòng riêng của mình, phi lý sai sử người nhà, ngàn công đã hạ, vọng bày nhóm họp ni chúng ngủ nghỉ qua đêm, chẳng gìn giữ mọi sự chê bai nghi ngờ, thấy khắp phủ kinh triệu tìm tòi xét hỏi, sự việc bày lộ rõ ràng. Sợ bị chiếu theo luật pháp xử trị, trong hàng Sa-môn thật đáng xấu hổ. Cúi xin lưu giữ pháp phục cho Sa-môn Viên Kính chớ tước đoạt chức danh vị tăng, bắt trở về chùa cũ ở Lục Hồn, cho được sửa đổi lỗi lầm, vì nước nhà mà tu trì.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày 13 tháng 07.
-Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
Môn Hạ Thị Lang Bình Cương sự Vương
Tấn.
Binh Bộ Thượng Thư Bình Chương Sự Lý sứ.
Tư Đồ Kiêm Trung Thư Lệnh sứ.
Kinh Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Phật Sát Công Đức Trang Nghiêm, một bộ gồm ba quyển và hòm Bảo Điền.
Bất Không tôi trước đây vâng thừa chỉ dụ phiên dịch kinh này, được ân Bệ hạ quan tâm nên đều đã hoàn thành, tham khảo so sánh bản Phạn đời Đường, định rõ ngôn âm, tháng năm ghi chép nơi chốn và tên tuổi các vị tăng tục chứng nghĩa, đều ghi ở quyển trung (= quyển thứ hai).
Nguyên do duyên khởi sự tích Đức Đại Thánh Văn-thù ban đầu từ khi mới phát tâm đến thành Chánh giác, cõi nước trang nghiêm, trong kinh đều giảng nói đủ. Lý thể các Đức Phật, hạnh môn các vị Bồ-tát, pháp giới hữu tình, thật tướng vô sinh đều hiển bày rõ ràng, công đức rộng lớn, các kinh khác ít có. Nguyện đem thắng nhân này vun bồi vận may cùng thánh vương, cúi xin tuyên bày khắp nơi để tạo phước cho sinh linh, rất mong ân đức Bệ hạ, do vậy mới an trí tại các viện Văn-thù suốt thời gian dài vì nước nhà mà giảng nói tụng tập. Nếu có chỗ thiếu sót thì liền thay thế. Đó là khiến cho đèn pháp liên tục chói sáng không tát. Linh thần muôn loại không ai lòng chẳng vui mừng. May nhân ngày luân vương giáng sinh. Ngày thiên hạ mở hội vui mừng, mong cảnh phước ấy lớn như núi thọ, muốn dòng pháp vị chảy tràn biển thánh. Kính cẩn tùy trạng trình bày kính dâng để bệ hạ xét biết, như ân đức bệ hạ vui lòng xin ban cho chỉ dụ.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày 13 tháng
10.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Tam Tạng Samôn Đại Quảng Trí Bất Không kính trạng.
Hữu Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam
Tạng Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: Sa-môn Đạo Ngộ giới hạnh tinh khiết, được đại chúng suy tôn, trước đây được làm chức Đô sư, coi sóc mọi việc ở chùa, trước sau như một, đức tánh siêng năng rất sáng suốt. Hiện nay, chùa (Đại Hưng Thiện) bị thiếu người làm tự chủ, nhờ Sa-môn Đạo
Ngộ coi sóc, cúi xin bổ nhiệm cho làm chức Tự chủ.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn vâng phụng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố điệp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày mồng 04 tháng 08.
-Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự Nguyên
Tải.
- Môn Hạ Thị Lang Bình Chương Sự Vương
Tấn.
- Binh Bộ Thượng Thư Bình Chương Sự Lý sứ.
- Tư Đồ Kiêm Trung Thư Lệnh Sứ.
Sa-môn Bất Không nói: giám quan nội yết Ngô Hưu Duyệt kính tuyên thánh chỉ: Quỳnh Hoa chân nhân chơn như kim Cương Nhất Thiết Kinh mật tạng gồm năm ngàn năm trăm năm mươi quyển, đều là trục bằng chiên Đàn hương, dệt thành gáy lụa, các thứ hương hợp thành tạng kinh gỗ hương làm bàn để kinh, vàng báu làm lò hương, ráng mây chiếu nhau, mặt trời, mặt trăng xen tạp nhau, sáng rỡ thơm tho đầy khắp các ngã đường, đều ban tặng cho Bất Không tôi, an trí tại bổn viện, bảo ban tụng đọc, kính rước lễ bái. Tôi vui mừng vô cùng, chưa biết phải làm thế nào để đáp đền ân huyền tạo! Lại xét nghĩ rằng thánh điển của các Đức Phật, chỉ cần thọ trì đã được phước vô biên, mong đem nhân duyên thù thắng ấy để đền đáp trong muôn một. Nên kính cẩn liền sai mười bốn vị tụng đọc thọ trì suốt thời gian dài, nguyện cầu chân nhân chân như Kim Cương phước đức vững chắc, Thánh hoàng được vận báu muôn kiếp đều mới mẻ, ý chí vui mừng không kềm chế được, kính nhờ trung sứ Ngô Hưu Duyệt dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vừa lo vừa mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày 18 tháng
10.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Tam Tạng Samôn Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Sa-môn Tam Tạng Phạm hạnh tinh ròng sâu xa, chân thánh che chở, kinh hành chuyển đọc phước đức vô biên, trẫm kính đem tạng kinh an trí nơi hương sát (= chùa) nguyện cầu phúc đức che chở Quỳnh Hoa, khiến bệnh tật chóng dứt trừ, mọi tốt lành thấm nhuần lâu dài. Đâu có ân đức đặc biệt gì mà phiền lòng tạ ân như thế.
Sa-môn Bất Không nói: điện các Đại Thánh Văn-thù, trước đây kính vâng ân ban lấy ngày 14 tháng này làm lễ thượng lương. Được bệ hạ quan tâm chú ý ban tặng cúng dường trai phạn một ngàn vị tăng, thượng lương tiền đỏ hai trăm quan, chưng bánh hai ngàn cái, bánh Hồ hai ngàn cái, trà hai trăm bao, nước thơm nóng mười hũ, đường mật mười mâm, quýt ngọt mười lăm mâm, mía bốn mươi cây, trung sử tiếp nối ở đường sá, uống ăn tấp nập đầy đủ khắp các ngã đường, thức ngon vật lạ đầy đủ cho cả hội lớn, trà nước cung cấp đủ cho mọi người. Ân đức bệ hạ thật là quá cao, những người hiểu biết đều nói: Từ khi đạo Phật truyền đến Trung Hoa cả ngàn năm nay, các vua ngày xưa đâu phải không tu phước, song làm lợi ích rộng lớn thật chưa có ai như Hoàng thượng ngày nay. Bất Không tôi do duyên may gì mà sinh gặp thời thánh triều, lại truyền bá chân ngôn, phụ giúp Bệ hạ hoằng hóa, tuy có trăm thân cũng không thể chọn lựa, ngày đêm tinh tấn trì tụng, ngõ hầu báo đáp trong muôn một, thật là vừa mừng vừa sợ không gì hơn, kính cẩn nương nhờ giám sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vừa mang ơn, vừa hổ thẹn, kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), ngày mồng 10 tháng chạp.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam
Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng truyền giáo ở Phạm cung, lưu âm nơi Đông Hạ (= Trung Hoa), mở mang thánh điển, hộ trì Chân tông, phước lợi khắp chúng sinh, mừng vui chung của đất nước. Dựng xây điện các Vănthù, khởi đầu thượng lương hương sát. Sắm sửa thức ăn phụ giúp cúng dường trai diên, chớ nhọc lòng trình biểu cảm tạ.
(có phần trả lời)
Sa-môn Bất Không nói: khoảng cuối Đông năm trước dứt tuyết, khiến tháng giêng năm nay đã mãn, còn tự trái mùa, khắp mọi nhà đều nóng bức, cõi lòng bệ hạ lo nghĩ quanh co, vì mọi người chỉ dẫn đều sai trái, tinh cần mong cầu trời, quả được theo thời, ân tuệ thấm nhuần khắp cả, sông ngòi đồng ruộng nước tràn đầy, cỏ cây đơm hoa kết trái. Vậy đủ biết thánh đức cảm động đến trời, thần ứng như tiếng vang, một người có được sự cảm thông mà muôn loài chết rồi được sống lại, vui mừng đến cùng, không kềm chế được, kính cẩn nhân nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng vui mừng đội ơn, kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 05 tháng 02.
Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Tam Tạng Samôn Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Từ mùa đông đã ít tuyết, trẫm lo nghĩ đến nhà nông, bảo ban các quan, tìm cầu khơi ngòi nơi núi cao, tông xã ban cho thần giúp, linh kỳ xót thương, mây mù kéo khắp, mưa thấm ruộng đồng. Hòathượng nhớ nghĩ nước nhà sâu sắc, cung kính thỉnh lập đạo tràng, mùa màng thời tiết điều hòa như có hy vọng, trẫm an ủi vui mừng ở điều đó. Ấy chính là điều biết chúc mừng vậy.
Sa-môn Bất Không nói: Kính vì sự ra đi của Quỳnh Hoa chân nhân, thượng hoàng lo lắng bi thương, bàng hoàng buồn thảm trên bước đường. Bất Không tôi vụng về tự nuôi dưỡng chữa trị kề cận bên giường một thời gian lâu dài. Bệ hạ không vì phàm tăng Bất Không tôi sai khiến nuôi dưỡng chân nhân làm con gái, đau đớn đến cùng thật gấp bội thường tình. Lúc chân nhân thay đổi khác thường, chính tự thân Bất Không tôi vô cùng khốn khổ, không còn năng lực vội vào nội cung để gia trì, chiều hôm qua, là ngày 27, phù sách muốn xin đối, vừa đến góc đông nam tử thành đã nghe tin dữ của chân nhân, giữa đường bèn trở lại, truy cảm lúc còn sống thật không do đâu mà quả quyết, đau thương chẳng xét ý, đau đớn thật vô vàn. Cúi mong thánh từ cho phép Bất Không tôi ngày mồng 02 tháng tới (= tháng 5) giúp lực đến an táng chân nhân, chuyển ý nhớ nghĩ để lấy lại lễ tình, thật là buồn thay! Thường kính thành phát nguyện trên hướng đến các Đức Phật, ngõ hầu nương vào pháp lực, che chở vong linh. Cúi mong lòng thương của Thượng hoàng dũ lòng soi xét, Bất không tôi có ít thời gian thuyên giảm, mong được che chở an ủi, kính dâng biểu để Bệ hạ xét biết, Bất không tôi vô cùng đau buồn kính dâng.
Niên hiệu Đại lịch thứ 9 (774), ngày 29 tháng 04.
Đặc tiến Hồng lô khanh, Sa-môn Tam Tạng Bất Không Đại Quảng Trí Kính Biểu.
Bảo Ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng đế phê: Quỳnh Hoa chân nhân lúc còn sống là người mà trẫm lo nghĩ rất nhiều, vì bệnh tật đã quá lâu, nương nhờ ruộng phước, Hòa-thượng từ bi nuôi dưỡng làm con gái, song bệnh tình không thể cứu thoát, xót thương vô vàn. Hòa-thượng nhiều lúc trái trời, thân thể khí lực yếu mệt, vả lại nên giữ gìn, không nên nhọc lòng, đến lúc an táng, thử trừ nghe thuyên phục vậy.
(có phần trả lời)
Sa-môn Bất không nói: Cúi mong trung sứ
Nguyên ứng Toàn tuyên cáo thánh vấn, đồng thời ban tặng lụa trắng v.v... bưng nhận hổ thẹn lo sợ không biết tính liệu làm sao! Phục dĩ: không cách nuôi sống, từ tấm bé đã bị bệnh khổ, ra sức không kịp đối đầu yêu họa của Quỳnh Hoa. Lại tắm gội ân sủng, hỏi han nhiều lần, không dám buồn giận đến cùng, kính cẩn tuỳ biểu trình bày để bệ hạ xét biết, Sa-môn bất Không tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09(774), ngày mùng 05 tháng 05.
Đặc tiến thí Hồng lô khanh, Sa-môn tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hoà thượng Đạo hạnh tròn sáng, từ bi thấm khắp, từ thuở bé thường bệnh, lo lắng bàng hoàng khác thường, mọi vật đều đượm nhuần, sao nhọc lòng cảm tạ vậy.
Tôi báo cho khắp bốn chúng đệ tử v.v... biết rằng: Đại Giáo Tổng Trì rộng lớn sâu xa, du già bí mật ai dò được cội nguồn, tôi từ tuổi trẻ xuất gia, nương thầy học đạo, tìm kiếm kinh Phật hơn hai mươi năm, ngày đêm siêng năng, cúi vâng thưa hỏi, mới được trao truyền cho bốn ngàn bài tụng pháp Du-già, làm sao chứa nhóm sâu nặng. Tôn sư qua đời, không nơi nương tựa, chẳng biết nhờ đâu mà tiến tu đạo nghiệp? Vì vậy, phải đến tận Thiên Trúc, vượt biển trèo non tham học Du-già, đích thân lễ bái các thánh tích, được mười muôn bài tụng pháp tạng ấn khả, tương truyền về lại đế hương (= Trung Hoa), hành hóa nơi đất phước Sang, nhưng một triều đại mà làm thầy cả ba đời vua, là người chủ trao truyền mật pháp Du-già, bèn từ đó Thánh vương hoằng giáo, mười tám hội Dugià rất sâu sắc thảy điều kiến lập, ba mươi bảy thánh chúng mỗi vị đều tu hành. Mỗi lúc vào đạo tràng, y theo thời khóa niệm tụng, chín trùng muôn thừa bằng quán tâm năm trí, cung đình Bách liêu điều trì ấn Tam mật. Tôi đời nay quán đảnh hơn ba mươi năm, vào đàn truyền pháp cho đệ tử rất nhiều. Năm Bộ trác-ma thành lập thám thứ, dần hồi hao mất chỉ còn sáu người. Đó là sáu vị nào? Đó chính là Hàm Quang ở chùa Kim Các, Tuệ siêu ở Tân-la, Tuệ Quả ở Thanh Long, Tuệ Lãng ở Sùng Phước, Nguyên Kiểu và Giác Siêu ở Bảo Thọ. Sau này nếu có ai nghi ngờ, các ông nên chỉ bày cho họ giúp đèn pháp không tắt tuyệt, để đền đáp ân tôi.
Huống gì, nay tôi tuổi đã bảy mươi, khí lực dần suy yếu, các ông nhiều người còn nhỏ dại, nên trước hết giao phó Bổn viện cho đệ tử tăng là Tuệ Thắng v.v... từ thuở nhỏ đã theo kính thờ tôi, rất cung kính cẩn trọng, không biếng lười, khổ nhọc nhiều năm, thật đáng thương khen. Tuy đối với năm bộ du già chưa được hoàn toàn nhuần thắm, nhưng nhiệt khí tu trì để thành Phật thì có thừa, mỗi người hãy tự cố gắng như ngày tôi hiện còn, phải hòa mục cùng nhau trụ trì. Nếu có hại đến quần chúng, thì tôi không giúp đỡ các ông. Tôi thọ trì Kim Cương, Chung Linh, chày gậy, mâm bạc, chuỗi hạt Bồ-đề, chuỗi hạt thủy tinh v.v..., thảy đều dâng cúng các bậc thánh, xin đưa vào cung.
Đồng thời những ai là đệ tử tôi ở các chùa Bảo Thọ, Hóa Độ, Đại Hưng Thiện v.v... ngày tôi còn sống, các ông nương tựa tôi, tôi che chở các ông, sau khi tôi qua đời, các ông phải y cứ vào nước nhà; Đối với nước nhà phải trung thành, nỗ lực kính thành, vì nước nhà mà trì niệm, nước nhà an bình; nhân dân khương thái, ấy là nguyện tôi đã mãn vậy: Đối với Đàm Trinh ở chùa Thanh Long, thì Đại pháp chân ngôn, tôi truyền trao cho Đàm Trinh trước, còn như khế ấn người nào chưa được, thì các ông nên chuyển trao dùm tôi vậy. Đệ tử là Ấn Tục công đức xử lý khai phủ nương tôi thọ pháp hơn ba mươi năm, siêng năng tinh tấn, tâm hiếu sâu dày, ở Hà Tây, Nam Hải qua lại hỏi đạo, Tịnh Ảnh Hồng Lô, đích thân cúng dường, năm bộ Du-già trước tiên đem trao cho đó.
Thân tôi bảy mươi tuổi, càng tăng thêm bí mật, tôi đủ năm cỗ Ngân Đạo, ba cỗ chày Kim Cương, riêng cỗ Chung Linh đều giữ tại khai phủ, nhớ nghĩ thọ trì, mau chứng tất-địa, chư tăng trong khai phủ qua lại xem xét như ngày tôi hiện còn, mục đích là đáng phải an định, trên dưới phải hòa mục. Giám sứ Lý Đại Phu từ lúc coi sóc tôi đến nay không hề trái ý, qua lại dâng tấu đều hợp với Thánh tâm, không chỉ phụ giúp nước nhà mà cũng là Bồ-tát hộ pháp, Phổ Hiền bí mật tìm để thọ trì, tiếp nối Đại thừa chắc chắc sẽ chứng đắc. Tôi có Ngân Yết ma, chày Kim cương bốn cái đều luân phiên lưu giữ, thọ trì nhớ nghĩ, chứng đắc Bồ-đề, giữ gìn Phật pháp như ngày tôi hiện còn vậy.
Hiền giả Triệu Thiên, lúc tôi phiên dịch kinh, có một thời gian làm người ghi chép, ngoài ra các thứ như sao chép v.. v... ông ấy cũng rất có công. Nếu ông ấy muốn xuất gia thì nên chấp thuận cho ông, còn thích ở đời các ông cũng nên cho ông ấy được như ý.
Thời gian sau này tôi có phiên dịch được: Kinh Văn-thù một quyển, Bảo Lâu Các Niệm Tụng Pháp một quyển, kinh Như Lai tạng một quyển, phiên dịch tuy đã xong, nhưng chưa kịp trình lên, cần nên viết ra, và vì tôi mà tấu trình. Bảo Kim Cương theo hầu tôi lâu ngày, tâm thường hiếu thuận. Còn việc niệm tụng càng luôn tinh tấn, nên giữ lại trong viện, cùng ở cấp dưỡng. Các hành giả đồng tử ở tại nội viện, trên từ những bậc hiền đức dưới đến các kẻ nô sĩ các ông, đại phu nên tấu trình để độ cho họ. Trong đó như Tô-đà-na-dã-xa đều nên thả cho về, tùy theo ý thích, nếu muốn ở lại trong viện cũng tùy theo ý thích. Còn Đình Tú là người già nua mới đích thân được gặp Nam Hải, muốn được theo hầu, cũng nên nói cùng khai phủ thả đi để nuôi thân, Linh Kiêu như là người nhà, vì thời gian lâu nương tựa theo tôi vào nơi nội cung. Thượng Hoàng cũng biết, mỗi lần sai sử khổ nhọc rất nhiều. Sứ Lý Đại phu cùng nên xuất gia, Trang Thượng có hai con bò, có thể chuẩn định tìm vật khoảng hơn mười quan, đem bồi đắp trong thường trú, dùng làm các giá trị, đem chuộc lại Linh Kiêu trong viện để ứng duyên. Trong đạo tràng có phướn hoa cột tượng, các vật công đức biếu tặng như mũ giạ, thảm, dầm, đồ đồng, đồ sứ, chén bát v.v... tất cả đều đưa vào dưới điện các Văn-thù cúng dường vĩnh viễn, không được giao truyền thất thoát ra ngoài cho người mượn. Y áo của tôi đều xả bỏ hết. Vàng có tám mươi bảy lượng, bạc có hai trăm hai mươi lượng rưỡi, đều đem cúng dường vào các chùa Kim Các, Ngọc Hoa ở núi Ngũ Đài. Để trang nghiêm tu tạo công đức. Các vật sẵn có trong nhà như đồ sơn, đồ thiếc, đồ gốm, giường, chiếu, mền, dạ, giường con, dầm v.v... và các tạp vật tôi đều xả bỏ để lại bổn viện sử dụng. Đệ tử tới lui phải có nương gởi. Kinh sách trên điện các trong tạng an trí tạng kinh ấy thế nào phải chỉ bảo người giữ viện an trí.
Các ông phải thường vì nước nhà mà chuyển đọc trì niệm đốt hương cúng dường gìn giữ và không được để lưu lạc tản mất. Tôi trình tấu Thánh thượng dựng lập các điện, phía dưới an trí tôn tượng Đại Thánh Văn-thù Bồ-tát, phía trên tôn trí kinh sách Phạm cũng như tiếng Hán, làm ruộng phước cho nước nhà, trọn đời cúng dường điện các đổi xây dựng lại đã hoàn thành, làm nhà thiếu tiền trang trí chưa xong, mái hiên lan can cửa nhà, phòng tăng cũng chưa thành lập. Như có chỗ đánh rơi rớt tàn tạ mới thay đổi gỗ Phù, ông cùng với đại phu tính bàn khéo làm văn tấu để tu sửa tốt quý hơn, sau khi xây dựng điện các hoàn thành, lại kính vì nước nhà mà mời hai mươi mốt vị tăng tụng niệm kinh sám, giúp cho thánh thọ, ấy là đã tròn bổn phận của tôi vậy. Tháp viện vườn nhà của chư tăng ở tại tháp báu Tôn Sư Hòa-thượng tại Đông Kinh, ông cũng nên vì tôi mà đứng ra thành lập. Như xe bò ở trang trại Hào Nam Huyện Ngọc đều mới mua đất và Ngự Tú Xuyên thêm được đất trồng lúa, vườn, rau, ở Nhai Nam, tôi đều để lại cho bổn viện đạo tràng điện các Văn-thù, chuyển niệm chư tăng, mãi mãi cung cấp lương thực sử dụng các thứ cúng dường như nhang dầu, than lửa v.v..., không được đưa ra ngoài viện phá dùng, người ngoài viện, tất cả không được cản ngăn cho đến có sự chiếm đoạt, còn trang trại Tường Cốc Tử đem tô bồi cho thường trú, và văn khế các trang trại đều giao phó cho nhà chùa.
Tôi lại muốn nói với các đệ tử rằng: các ông phải nên biết đời người vô thường không ai tránh khỏi, Đạo thầy trò như pháp nghĩa tình thân chẳng đồng cốt nhục, so với người thế tục hoàn toàn khác biệt. Nếu các ông y theo lời tôi tức là pháp tử của tôi, nếu trái lời tôi tức không có duyên đối với Phật pháp. Sau khi tôi qua đời, đều không được mặc tang phục hoặc khóc lóc mến tiếc, nếu nhớ thương tôi thì phải gia tâm niệm tụng, đó là báo đáp ân đức của tôi vậy, cũng không được phá uổng tiền của trong việc tang lễ tống đưa, cũng chớ an trí nhọc thân nơi doanh thành tốn hao công người, chỉ để lại trên một chiếc giường, tất cả đều phải niệm tụng rồi đưa ra ngoài thành theo pháp làm lễ thiêu, lấy lại nắm tro để gia trì chú nguyện rồi tán vãi. Cũng không được lập linh vị, họa vẽ hình ảnh tôi, bảy mươi hai vị nho sĩ còn có tâm tang, tôi dạy Quán đảnh tương truyền đều không nên làm như thế, các ông là những người con từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, được pháp phần của Phật, tức thân đồng với thân Phổ Hiền, hạnh đồng với hạnh Phổ Hiền, an trú trong tâm Phổ Hiền, tròn sáng khắp cùng, năm trí đều hiện, tu hành được như vậy thì khế hợp với tâm tôi, sao lại khư khư khổ nhọc làm những việc phi pháp vô ích? Những gì tôi nói, các ông nên làm theo đó, sợ e sau này không có bằng cớ y cứ, nên thỉnh mời Tam cang Trực tuế và những vị nổi tiếng trong đồ chúng, vì ký vào ở Ổba-đà thư cáo. Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) tức ngày mồng 07 (ất tỵ) tháng 5, năm Giáp dần.
- Trực tuế Tuệ Đạt.
- Điển tọa Minh Ngạn.
- Đô-duy-na Pháp Cao.
- Tự chủ Đạo Ngộ.
- Thượng tọa Tiềm Chân.
Biểu văn có mười chín bài, đáp chế có ba bài, tổng cộng hai mươi hai bài.
1- Chế văn xin sắp đặt chư tăng tụng niệm ở hai đạo tràng: Quán đảnh và Điện các Văn-thù-sư-lợi tại chùa Đại Hưng Thiện.
2- Chế văn tặng thêm khai phủ và phong tặng tước hiệu "Túc Quốc Công".
3- Chế văn bày tỏ tâm tình từ tạ của Hòathượng Tam tạng Đại Quảng Trí Bất Không. (có phần trả lời)
4- Chế văn ban tặng đồ vật khi Hòa-thượng mới ra đời.
5- Chế văn ban lệnh các vị Hiếu tử mỗi mỗi tự giữ lấy Nghi pháp Hòa-thượng chỉ dạy.
6- Chế văn ban lệnh các vị Hiếu tử đắp mặc tang phục đúng lễ nghi.
7- Chế văn thư chiếu (văn thư chép tay), ban cấp gạo, bún mì cho các vị Đệ tử và chọn vị trí, ngày an táng (nhập tháp).
8- Khen ngợi ảnh Tả Chân của Hòa-thượng và lời tựa.
9- Chế văn ban ơn xây dựng linh tháp.
10- Biểu văn tạ ân ban tặng bảy trăm năm mươi hai xấp lụa để xây dựng tháp. (có phần trả lời)
11- Văn tế của Đặng Quốc phu nhân Trương Thị, nhân ngày an táng (= nhập tháp).
12- Văn tế đệ tử bí-sô Tuệ Thắng.
13- Văn tế Lý Tướng Công, ngày mùng 5.
14- Chế văn ban tặng tước hiệu "Tư Không", thụy hiệu "Đại Biện Chánh" Tam Tạng Hòathượng. (văn của Sa-môn Phi Tích)
15- Văn bia Cố Đại Đức khai phủ Nghi Đồng tam tư, Thí Hồng Lô Khanh túc Quốc công, chùa
Đại Hưng Thiện, Hòa-thượng Tam Tạng Đại Quảng Trí thời Đại Đường.
16- Ảnh tán Cố Tư Không, chùa Đại Hưng Thiện, Hòa-thượng Tam Tạng Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không, do vua Đại Tông đời Đường ban tặng.
17- Sắc bảo sứ Lưu Tiên Hạc trao dâng tế văn.
18- Văn tế của Nguyên Tướng công, nhân ngày an táng cố Hòa-thượng Tam tạng.
19- Biểu tạ ân Chế văn truy tặng Tôn sư và thụy hiệu.
*****
Các đệ tử tăng Tuệ Lãng, Tuệ Siêu, Tuệ Xán, Tuệ Hải, Tuệ Kiến, Tuệ Giác, Tuệ Huy... các vị Đại đức trên, được mời ở tại đạo tràng Quán Đảnh thường vì nước nhà niệm tụng. Các vị đại đức, Tuệ Cán. Tuệ Quả, Tuệ Nghiêm, Tuệ Vân, Tuệ Tín, Tuệ Trân, Tuệ Thắng, Tuệ Thâm, Tuệ Ứng, Tuệ Hạnh, Tuệ Tích, Tuệ Tuấn, Tuệ Hiền, Tuệ Anh. Các vị đại đức này, được mời ở tại Điện các Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi thường vì nước nhà chuyển độc, sắc ban Nhất Thiết Kinh.
Sự việt trên Đặc Tiến Hồng lô khanh, chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không trình tấu: Bất Không ở tại tu viện này hơn hai mươi năm, thiết lập đạo tràng, vì nước nhà trì tụng kinh sám, linh ứng chẳng phải một, không thể nói hết. Điện các Đại Thánh Văn-thù, được Bệ hạ ân tặng tiền vật dựng xây vừa xong, đã tôn trí kinh sách, lại có ngự kinh, lý hợp với Hoằng Trì vun bồi cảnh phước, hai mươi mốt vị Đại đức như Tuệ Lãng v.v..., từ lâu đã nghiên cứu sâu mật tạng, thấu đạt sâu sắc chân thừa, giới hạnh tròn sáng, khuôn mẫu của pháp môn, mong nương hai đạo tràng nói trên, thường đọc tụng thọ trì kinh sám. Nếu sau này có sự cố, thì liền mời chọn lựa sáng soi, có các vị tăng đạo hạnh thay chỗ thiếu khuyết, ngõ hầu Đèn pháp không tắt, Thánh thọ vô cương.
Trung thư môn hạ, Điệp văn của Đại Quảng Trí Bất Không.
Điệp văn kính vâng chỉ dụ nên y cứ Điệp văn chuẩn định, ban sắc cố Điệp
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 06 tháng 06.
- Trung thư thị lang Bình chương sự Nguyên
Tải.
- Môn hạ thị lang Bình chương sự Vương Tấn.
- Binh Bộ thượng thư Bình chương sự Lý Bão Ngọc.
- Tư Đồ kiêm trung thư Lệnh sử.
Chiếu chỉ viết: Hạnh của Đại Đạo đồng hợp với dị tướng, chí lý các thánh vương đều quay về chánh pháp, mới hóa thành đế cùng ngang nhau. Nho Thích đâu có khác đường. Nên các vị Đế vương đời trước ai chẳng tôn sùng, kính thờ chánh pháp, hoằng hóa mở mang, thời gian nào cũng thực hành. Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện, là bậc thầy của ta, là thuyền buồm của người vượt đến ba học, dứt sạch Kiến thủ, tu trì muôn hạnh, thường hiển hiện ở hóa thành. Giữ gìn luật pháp, xả bỏ ràng buộc, giữ gìn giới cấm làm chuẩn phép tắc, tiếp nối ý chí của giáo pháp trong sáng, tốt lành, đến nhận lời thỉnh mời của Nhân Vương. Trẫm ngày trước sống ở tiên triều, sớm nghe yếu đạo và được phó chúc, thường là chỗ quy y. Thường trì kinh nơi nội điện, khai pháp trước tòa, nương lễ của người giao tự, thuận theo lới hỏi của không đồng, sánh như gió, âm mầu giảng nói tròn đầy, mật hành gìn giữ bên trong, chờ hỏi, như pháp, tự bến bờ đều gặp gỡ, tẩy rửa mờ tối, điều phục ma oán. Trời người rửa lòng nơi cửa độ, Rồng quỷ nhận chức ở Thần ấn. Hẳn dùng khí lực mà tiêu tan dịch lệ, phước đức tốt lành, thật chỉ làm cho bản ngã lớn ra, đâu chỉ lợi đẹp ở ta. Thường có bảo ban pho trật, trọng dụng ưu lễ mà được làm thầy. Vị ngon đạo thấm, ân sâu lại mạnh, phẩm chất bên trong có khác ở Quả địa. Vốn là chuộng đức, kính thuận thời điển. Thật xứng đáng khai phủ nghi đồng tam tư, nhân phong tước hiệu "Túc Quốc Công", ban bổng lộc ấp lớn ba ngàn hộ, ngoài ra đều như cũ.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày 11 tháng 06.
- Ngân thanh Quang Lộc Đại phu, trung thư thị lang bình chương sự Nguyên Tải.
- Tư Đồ kiêm trung thư lệnh sứ tuyên cáo.
- Trung thư xá nhân Dương Viêm vâng làm. Vâng phụng chỉ dụ như Điệp Văn vâng làm.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày 11 tháng
06.
- Thị Trung Khuyết.
- Kim Tử Quang Lộc Đại phu hành môn hạ thị lang Đồng Bình Chương sự Vương Tấn.
Triều nghị lang thủ cấp sự trung Triệu Quyên.... ngày... tháng 06.
Thời đô sự, tả tư lang trung.
- Kim tử Quang Lộc Đại Phu Lại Bộ Thượng
Thư Thượng Quế Quốc Bành thành quận Khai Quốc Công, yến lại bộ thị lang khuyết.
- Thượng thư tả thừa khuyết.
Tuyên cáo: Khai phủ nghi đồng tam tư Túc Quốc Công thực ấp ba ngàn hộ, Sa-môn Tam Tạng Bất Không Đại Quảng Trí chùa Đại Hưng Thiện kính vâng chỉ dụ như điệp phù đáo phụng hành.
- Chủ sự Quang viễn.
- Lệnh sử tịch thành.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày... tháng 06 ban sắc.
Sa-môn Bất Không nói: Bất Không tôi từ thuở nhỏ kính thờ tôn sư suốt hai mươi năm, sớm nương nhờ ân tuệ thánh thượng, hơn ba mươi năm giảng nói pháp môn Du-già, vâng nhờ ân chú ý của các vị thánh vương. Kể từ lúc bệ hạ lên ngôi thì càng sâu đậm hơn, ban tặng hoàng các để yên trú, ban thưởng tử vi mà hỏi đạo, chứa nhóm ân sủng chập chùng. Ngày tháng tiếp nối, tuy là tinh thành khẩn thiết, há báo đáp được trong muôn một, như sương móc điện chớp khó dừng lâu, phận bồ liễu dễ suy tàn. Một lần đổ bệnh, từ xuân đến hạ, bệ hạ thâm thiết lo toan còn hỏi hai ba lần, các trung sứ thầy thuốc nổi tiếng cùng nhau tìm phương cứu chữa, chỉ vì bệnh cao manh, tuy châm chích, thuốc men mà khó khỏi. Thể chất sinh diệt đâu phải mến tiếc mà bền bỉ chắc được. Bỗng nhiên từ chiều hôm qua trở lại, cảm thấy khí lực thêm hồi hợp, thân này chẳng phải của chính mình, chỉ trong nháy mắt hơi thở đã ngừng, tâm thần thấm suy, lìa tạ thánh triều. Bất không tôi nay tuổi qua trung thọ, không phải là chết yểu, chỉ vì ngày trước vượt qua Nam Hải, đi khắp năm xứ Ấn Độ, tìm tòi những gì chưa được thấy nghe, học tập những gì chưa hiểu. Có được mười muôn bài tụng của Kim Cương Đảnh Du-già, các bộ chân ngôn và kinh luận v.v... hơn năm mươi muôn bài tụng, mong đều phiên dịch để báo đáp phần nào ân sâu của nước nhà. Sao nguyện xưa chưa thành, bỗng dưng bến bờ mạng sống đã hết, đó là điều ân hận của Bất Không tôi vậy! Cúi mong Bệ hạ ban ân từ tuệ của các Đức Phật, dưới tùy theo ước muốn của mọi người, Bất Không tôi trước đây kính dâng kinh "Đại Thánh Văn-thù Phật Sát" thánh tình tìm hứa ban bày trong ngoài, cúi mong thương xót một lời ước muốn lúc sắp qua đời, mong phước hoàng gia, thấm nhuần muôn kiếp tốt lành. Thật là tăng nhân vinh hạnh trong sinh tử. Năm bộ kim cương, chung linh, chày, do tôn sư truyền lại và mâm bạc, chuỗi hạt Bồ-đề, chuỗi hạt thủy tinh v.v... đều kính cẩn tùy biểu căn kính dâng phụng cúng. Đã đến lúc, giấy lòa nước mắt buồn rơi lai láng, vĩnh viễn từ tạ thánh vương. Mến nhớ đến cùng không kềm chế được, kính cẩn trông nhờ giám sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày từ tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Bất Không tôi vô cùng thương mến kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 09 (774) ngày 15 tháng 06.
Khai phủ nghi đồng tam tư, Thí hồng lô khanh Túc Quốc Công, Sa-môn Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không chùa Đại Hưng Thiện kính biếu.
Bảo Ứng nguyên thánh văn võ hoàng đế phê:
Hòa-thượng hạnh chứng Thập Địa, đến từ Tây Vực, mở mang Du-già, truyền bá kinh sách, đi khắp muôn dặm, sống qua ba triều, trước kia phiên dịch thánh ngôn, đích thân tiếp nhận từ thầy truyền trao, đương lúc vận lớn của Hạ Võ, tiếp nối lửa của củi trước để truyền bá, mở rộng tâm Bồ-tát, vì chúng sinh bệnh nên có thưa hỏi, thần điệu thêm sâu xa, đồng thời nên nương theo sự cầu thỉnh. Bấy giờ, khai phủ nghi đồng tam tư thí hồng lô khanh
Túc Quốc Công, Hòa-thượng Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không dâng biểu bày tỏ cùng thánh thượng, thánh thượng rơi lệ, ban gấp chỉ dụ, đều y theo sự thỉnh cầu, tình ý của Hòa-thượng nhiếp thân nhất tâm quán hạnh, nằm nghiêng phía hữu duỗi chân an nhiên qua đời. Đệ tử buồn khóc cảm mộ, trung sứ tấu trình lên, thánh thượng, cung điệu rất sâu vắng, bãi triều ba ngày, viện ban trung sứ đến chùa tuyên cáo an ủi đồ chúng và ban cho các vật.
Kính vâng ban cho vải lụa ba trăm xấp, vải bố hai trăm đoạn, nên đưa đến viện Cô Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không ở chùa Đại Hưng Thiện mà ban cho các vật.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 16 tháng 06, tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ bảo ban cùng các vị đệ tử: Hòa-thượng là quốc sư của ba triều (Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông), môn đồ khá đông, nên mỗi mỗi nương nhau hòa thuận sống đúng du-già quán hạnh, y theo bổn giáo tu hành. Nếu có ai sai trái tranh chấp tức liền ghi tên trình tấu.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 16 tháng 06. Giám quan Nội Yết Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ bảo ban cùng các vị hiếu tử mặc tang phục than khóc, oai nghi tống táng, thiết lập linh vị, bảo pháp, họa vẽ tôn dung, v.v... ngoài những điều này ra, tất cả đều y theo chúc thư của hòa-thượng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 18 tháng
06. Trung sứ Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Phụng sắc thủ chiếu ban cho các hiếu tử v.v... các thứ lương thực như gạo, bún mì, đồng thời chọn nơi chốn xây dựng tháp báu và ngày làm lễ nhập tháp v.v... Trong đó gạo trắng năm xe, gạo canh năm xe, bún mì trắng năm xe, củi mười xe, dầu bảy tạ, than ba xe và như kinh tuyên cầu nhưng không chuẩn tấu lại, nên riêng giữ đưa đến.
Ảnh Tán Tam Tạng Hòa-thượng Tán Tạng Đại Quảng Trí Bất Không đời Đường.
Đệ tử Triều Tán Đại phu kiểm giảo tả thứ tử Nghiêm Dĩnh soạn thuật.
Hòa-thượng húy Bất Không. Thánh thượng tôn xưng là Đại Quảng Trí Tam Tạng. Là đệ tử cố Hòathượng A-xà-lê Kim Cang Trí ở nam Ấn Độ.
Xưa kia, Đức Như Lai Tỳ lô giá na đem giáo pháp Du-già vô thượng bí mật tối Đại thừa trao truyền trao Bồ-tát Kim Cương. Bồ-tát Kim Cương trải qua mấy trăm năm mới gặp Bồ-tát Long Mãnh mới trao truyền lại, cho Bồ-tát Long Mãnh. Bồ-tát
Long Mãnh lại trải qua mấy trăm năm mới truyền trao cho A-xà-lê Long Trí. Long Trí lại trải qua mấy trăm năm mới truyền trao cho A-xà-lê Kim Cương Trí, ngài Kim Cương Trí chấn tích đến Trung Hoa và trao truyền cho Hòa-thượng. Từ pháp thân Như Lai cho đến Hòa-thượng, sự trao truyền đạo ấy chỉ có sáu vị mà thôi.
Hòa-thượng xuất gia từ tuổi tấm bé, thông minh đỉnh đạt khác thường, siêng năng cần mẫn khổ nhọc đêm ngày không nghỉ, những gì thoáng qua tai mắt, đều thông thuộc không sót mất, nghe một biết mười như có thần mách bảo. Tôn sư có khen ngợi rằng: "Đạo ta truyền về phương Đông". Sau khi tôn sư qua đời, Hòa-thượng bèn vượt biển đến Thiên trúc trải qua các nước Sư Tử v.v...
Đến chỗ Hòa-thượng A-xà-lê Long Trí lại dự được mười tám pháp hội Du-già, năm bộ Bí Tạng, giáo điển ba thừa còn để lại, pháp nào cũng nghiên cứu chỗ tinh yếu sâu xa. Hòa-thượng dung mạo như người thường, nhưng tâm ngang đồng với các Đức Phật vậy, khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), trở về Thượng Đô, vua Huyền Tông (712756) vô cùng kính ngưỡng được gặp Hòa-thượng, Hòa-thượng lần lượt làm Quốc sư cho cả ba triều vua, vào cửa nơi cung. Thánh thượng mỗi lúc đến nội điện thuận tiện thưa hỏi, lời huyền khéo mở rót vào tai, khiến sự kính ngưỡng ngày càng sâu sắc. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), Sư thị hiện bị bệnh, bảo sai kết triệt, các thầy thuốc lo liệu thuốc thang, song ngày một hư vô, ân ban chiếu chỉ đến tận giường bệnh, tặng thêm "Khai phủ nghi đồng tam tư", y cứ Hồng lô khanh trước kia phong tước hiệu "Túc Quốc Công" ban bổng lộc thực ấp ba ngàn hộ, nhưng Hòa-thượng khước từ không nhận. Đến ngày 15 tháng 06 (năm 774), bỗng nhiên tắm rửa, thay đổi y phục, kháng biểu bày tỏ từ tạ thượng hoàng và an nhiên thị tịch. Hòa-thượng trụ thế bảy mươi tuổi, năm mươi hạ lạp.
Thánh thượng buồn thương, bãi triều ba ngày. Tại chùa Hòa-thượng cư trú có một hồ sen rộng khoảng mấy mươi mẫu, bên bờ không có tưới rót, ở giữa tuôn trào dòng suối ngọt, suối nước ngọt gương trong sáng, mùa đông mùa hạ thảy đều tràn đầy, đến ngày Hòa-thượng thị tịch, trước đó một đêm, nước trong hồ khô cạn, như xưa kia nơi rừng Ta-la song thọ biến thành mầu trắng, sự việc tuy khác nhưng cảm ứng tương đồng vậy. Phàm, pháp thân vững chắc không đến không đi, nhưng ứng theo duyên tục, thị hiện ở thế gian, chứng đắc đạo phẩm thì kết quy Niết-bàn, há thường tình có thể suy lường được ư?
Phụng thờ như lúc sống, huyễn duyên đã hoại, tiếp thuật bản hạnh, ghi lại lời hay, tuyên lại nghĩa này và viết lời khen ngợi rằng: pháp môn Du-già thượng thừa bí mật, vượt các thiền định mau nhập Phật thân, đệ tử chân truyền đến nay có được sáu vị, kính mong Hòa-thượng vì thời mà xuất hiện, bày pháp cứu đời như phô bày Nhật Nguyệt, là bậc tông sư của ba vị thánh vương, như hoa Ưu-đàm lại nở, như nước Cam Lồ mới rót, cảnh Niết-bàn không phải đợi chờ. Chúng con hàng hậu học, tâm chìm trong biển lo buồn, họa vẽ tôn dung, để chiêm ngưỡng như lúc còn sống...
Phụng ban: Bảy trăm năm mươi hai xấp lụa, nên ban tặng viện cố Hòa-thượng Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không ở chùa Đại Hưng Thiện, sung ngay vào việc xây dựng Linh tháp tôn sư.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 28 tháng 06 Nội thị Vi Thú Tông tuyên cáo.
Chư vị Đại đức như Đàm Trinh v.v...: Ngày nay quan nội thị Vi Thú Tông vâng tuyên chỉ dụ ban tặng bảy trăm năm mươi hai xấp lụa, sung vào việc xây dựng linh tháp tôn sư. Bưng đội đặc chỉ dâng tràn buồn thương lẫn vinh hạnh, khiến đất cung kính rung chuyển, mới xây tháp xá-lợi. Trộm nghĩ rằng: Lời vi mật vẫn còn vang vọng, thánh triều thêm phước, do đạo hạnh bệ hạ tôn kính, đâu phải là tâm hiếu của môn nhân có thể chiêu cảm. Chúng tôi Đàm Trinh v.v... gào khóc tỏ sự buồn thương không kềm chế được, kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ để thượng hoàng xét biết. Đàm Trinh v.v... chúng tôi vô cùng buồn thương lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 28 tháng 06
Chùa Đại Hưng Thiện, tăng sĩ Thảo Thổ Đàm Trinh kính biểu. Báo ứng Nguyên Thánh Văn Võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng lãnh đạo tăng đoàn, mở mang diệu chỉ, mãi mãi về nơi vắng lặng. Đại tông tôi hâm mộ tốt lành sâu sắc, nhiều ngày đã ước vọng, song
Hòa-thượng vừa viên tịch gần đây. Tặng ban ít lụa để xây dựng tháp báu, đâu có gì phải cảm tạ ân!
Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 09 (774) nhằm ngày mồng 05 (Nhâm Dần) tháng 07 (Mậu Tuất) năm Giáp Dần, Đặng Quốc phu nhân là Trương Thị kính cẩn dùng thuốc sữa tiến cúng giác linh Cố
Quốc Đại Đức Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không. Cúi mong Hòa-thượng nhiều kiếp căn tu đã vượt ngoài ba cõi, hiện thân hành hóa thường đến các cõi. Truyền tượng giáo ở Đông Lai, bày vi ngôn nơi bắc cực. Khuyên răn thánh chúa, muôn vàn đều kính tuân, ban hương vô giá, tặng vật vô giá, mới muốn un đúc người nông đượm vẻ thông minh, bình trị rộng lớn ở thái giai, dắt dẫn muôn dân đến bờ kia. Há rằng nước sông không dừng, ngày qua chẳng lại, trong đó thị hiện diệt độ, đồng phàm quy chân vội gấp. Ô hô! Thương thay! Buồn nhớ sợ lo, nước mắt chảy tràn từ cung đình đến hàng chợ, cam lồ thâu lại mà lan huyên hết mất, gió nhẹ thổi mà gợn sóng biển sông. Các hàng hữu học, vô học biết thưa hỏi bẩm thọ thế nào? Ô hô! Thương thay! Đệ từ may nhờ đấng chồng, hổ nhục quốc hiệu. Ba nghiệp tham, sân, si, dễ quen mà một việc thánh thiện khó thành. Nhờ Hòa-thượng mở rộng đức từ, đặc ân sủng rũ lòng huấn dụ, nhân đó thọ pháp, tâm thật sợ lo, bên trong thức tỉnh sự kiêu căng si dại, ngoài chẳng phải là xa xỉ buông lung, tuy muôn phần mà chưa bỏ, trọn chín biến mà biết lời. Bỗng chốc trái hẳn, đau thương luyến nhớ khôn cùng, giã từ thượng hoàng cố quận, lên xe mầu trắng, đứng nhìn tháp nhạn, suối lệ tuôn trào. Đem bày buồn thương dâng cùng lễ bạc, kính mong giác linh chứng giám vi thành.
Ô hô! Thương thay! Ngưỡng mong chứng nhận.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) nhằm ngày mồng 05 (Nhâm Dần) tháng 07 (Mậu Tuất) năm Giáp Dần. Đệ tử Tuệ Thắng kính cẩn dùng thuốc sữa cúng tiến giác linh thầy.
Trộm nghĩ rằng: Hiếu đối với cha mẹ, thì đối với thầy trò cũng vậy, huống hồ gần gũi phụng thờ cảm mến sâu sắc duyên xưa, hầu hạ bên thầy hơn hai mươi năm. Tự hổ phận ngu muội, gội mình nhớ thương rất lắm. Ôi! Ân thầy chở con như đất, đức thầy che con như trời, đèn trí tuệ soi chiếu con như mặt trời, dùng pháp như thấm nhuận con như suối. Sao một mai mà trời cách biệt, sao giữa đường mà đất cản ngăn, sao một ngày mà mặt trời đã lặn, sao giữa đường mà suối nước khô dòng! Mắt chạm lệ tuôn, gào thương giữa trời ảm đạm! Tuy sinh diệt là lẽ thường nhiên, song cuối cùng đớn đau thống thiết. Phạm âm đã ngừng dứt, tôn nhan vĩnh viễn xa lìa. Đồ chúng nhìn nhau, pháp hội còn đâu mà nương tựa?
Ô hô! Thương thay! Kính mong thầy chứng nhận.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 05 (nhâm dần) tháng 07 (Mậu tuất) năm Giáp dần. Binh bộ thương thư đồng trung thư môn hạ Bình Chương sự Lý Bão Ngọc kính cẩn phụng dâng hương hoa tiến cúng giác linh cố Đại Hòa-thượng Tam Tạng.
Phàm người đứng đầu pháp khí, bậc tôn quý trong Phật giáo, nếu chẳng phải sinh linh độc giác không lấy gì mong cầu thánh đạo. Nếu chẳng là đức cao nghiệp lớn không lấy gì định đạt tông môn. Cúi mong Hòa-thượng thần ngộ tạng bản, thầm đến chân ngôn, trên hợp nội soi, trí đầy trong mát, ngay nơi "Không" tuy "Hữu", bày tưởng quên sắc, hoa nhóm cung vua, đèn truyền cõi tịnh. Xin thánh hậu của con, bày cầu chỉ dạy, học hỏi làm thầy, nương nhơn giúp đức, mở bày mật chỉ, quyết rõ từ thức, trời rồng cảm linh, quái quỷ ẩn núp. Ứng thời xuất hiện, chuyển đổi phong tục, làm sao chán khổ, bày dứt thân tôi. Than ôi! Có sinh phải có chết, thần mà xuất đi, tháp bày hiển hiện, song lâm biến suy, đường mê chưa tỉnh. Hậu học buồn bã, nhớ hoài mới gặp. Nỗi đau buồn này không thời hạn ngừng dứt! Ngưỡng mong giác linh cố Hòa-thượng chứng giám.
Chỉ dụ ban sắc viết: Vắng lặng là an vui, do đó trở về nơi chân thường, gửi gắm người có duyên, vì vậy tôn quý ở xưng hiệu. Tu các cố sự, ấy hoặc là cưỡng gọi Cố Khai Phủ Nghi Đồng Tam Tư Thí Hồng lô khanh, Túc Quốc Công, chùa Đại Hưng
Thiện Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không. Đức lớn đạo cao, là bậc thầy trẫm hằng kính ngưỡng, tâm mật pháp ấn, hạnh vượt độ môn, nhỏ nhiệm có nói, rộng lớn không hình. Một cơn mưa thấm nhuần rộng khắp chúng sinh. Trăm ngọn đèn truyền soi sáng khắp nơi chánh giác. Tựa đạt nghĩa thú, rộng thông nho huyền. Tình của bậc thánh hợp như phù khế, trẫm thuận phong tước có được mấy năm. Thuyền từ không lưu lại, cầu mộc đã hoại tan, vi âm cách biệt hẳn, cung đình ai điệu sâu xa. Các quan luận đạo, tìm lễ nghiêm sư, nhân đó tôn xưng thêm thụy hiệu, dùng phó danh thật, nên đáng tặng tước "Tư không, nhân tôn thụy hiệu" Đại biện chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hòathượng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 05 tháng 07.
Tư đồ Kiêm Trung Tư Lệnh phân dương quận vương sứ.
Trung thư thị lang bình chương sự Dĩnh xuyên quận khai quốc công thần Nguyên Tải tuyên cáo.
Trung thư xá nhân thần Tôn Túc vâng làm.
Vâng sắc chỉ dụ như hữu điệp văn vâng làm.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 6 tháng 07.
Thị trung quyết kim tử quang Lộc đại phu môn hạ thị lang bình chương sự thượng quế quốc thần Vương Tấn.
Triều nghị đại phu thủ cấp sự trung thần Triệu Quyên.
Một ngày... tháng bảy.
Thời đô sự (01 bản) tả ty lang trung.
Kim Tử quang Lộc đại phu, lại bộ thượng thư thượng quế quốc tả ty lang trung bành thành quận khai quốc trung Công yến. Lại bộ thị lang khuyết Thượng thư tả thừa khuyết.
Tuyên cáo ban tặng Tư không đại biện chánh Quảng Trí Bất Không Tam tạng Hòa-thượng.
Sắc như hữu phù đáo vâng làm.
Chư sự Quang Viễn
Lệnh sứ Tịch Thịnh, Thư Lệnh Sứ Lang trung Du thư lệnh sứ, thư lệnh sứ.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 6 tháng 06, ban tặng.
Chỉ dụ ban sắc Sa-môn Phi Tích xem xét hai pháp viện Thiên Phước, An Quốc và đạo tràng Pháp Hoa soạn thuật.
Một trăng giữa trời, muôn sông chẳng muộn.
Năm trời rũ bóng, ba Tạng giáng sinh.
Sao ai nói thế? Ấy là đại sư chúng ta vậy.
Đại sư pháp húy Bất Không, vốn giòng dõi Bàla-môn, ở Bắc Thiên Trúc. Ban đầu, mẹ ngài gặp một thầy tướng nói: "Chắc chắn là sẽ sinh một vị Bồ-tát", nói rồi bèn mất. Vài hôm sau, quả thật bà nằm mộng thấy Đức Phật mỉm cười, mắt phát ra ánh sáng dọi vào đảnh đầu, đã ngủ say mà như tỉnh, khắp trong nhà chiếu sáng như ban ngày, nhân đó mẹ Ngài có thai. Mẹ ngài mất sớm.
Năm mười tuổi, Ngài theo người cậu đến quận Võ Oai, năm mười ba tuổi, đến phủ Thái Nguyên tìm vào Trường An để cầu xuất ly, gặp ngài Đại Hoằng giáo Kim Cang Trí Tam Tạng, cho rằng chính là bậc thầy của ta. Đầu tiên thử giáo Tất đàm chương, bảo tụng kinh điển bằng tiếng Phạn. Sau đó thiết tha cầu học tiếng Phạn, một khi lọt qua tai thì không còn rơi sót, bèn cho phép vào đàn tràng. Trao Giới Phát Bồ-đề tâm đến năm đủ mười lăm tuổi, mới cho xuất gia, tuổi đủ hai mươi thọ giới cụ túc với Hữu Bộ thành Đại bí-sô, Luật tướng tinh thông, biết mà không trú chấp, sắp muốn học Thanh minh luận, Nghiên cùng Tông Du già, đem ý muốn ấy bạch cùng Tôn sư. Thầy ngài chưa chấp nhận, đêm đến mộng thấy tôn tượng các Đức Phật, Bồ-tát thảy điều đi đến, bèn nghĩ rằng: "Điều ta mộng thấy chính là pháp tạng đã có người giao phó", nên liền trao cho Tam mật, bàn luận năm trí, công phu mười hai năm, sáu tháng thành tựu.
Mùa Thu, niệu hiệu Khai Nguyên thứ 29 (742) Thầy Ngài thị tịch, nhập tháp, có chiếu lệnh mang quốc tín đến nước Sư tử, sóng trắng xoá trùm núi, sóng lớn tung hoành giữa biển khơi, ba đào dữ dội, gió lớn cuồn cuộn, phàm các chướng muôn khởi lên, ngài nắm chày kim cương, trí niệm chương "tùy cầu", các tai chưởng đều yên tĩnh, thuyền đi đến nước ấy an lành, các đệ tử Hàm Quang, Tuệ Biện đều tự kinh sợ. Vua nước Sư Tử ra tận ngoài xa nghinh đón về nội cung cúng dường bảy ngày, dùng bền đồ múc bằng ròng để ngài tắm rửa, khoanh tay lễ độ thăm hỏi, như cách Phạn lễ, quyến thuộc nhà vua cũng như các quan Tể phụ Đại Thần thảy đều chí thành cung kính. Ở nước đó có ngài Phổ Hiền A-già-lê, ngôi vị gần Thánh Địa, đức hạnh tôn quý đương thời, theo mà thưa hỏi, không khai mở mới thật, hiến dâng vàng và vật báu, Ngài nói: "Vật báu của tôi là tâm, không phải vật báu này vậy". Tức thời truyền trao cho mười tám hội kim cương đảnh Du-già và năm bộ Tỳ-lô-giá-na Đại bi thai tạng cùng hơn năm trăm bộ quán đảnh chân ngôn bí điển, kinh, luận v.v... Thêm vì được truyền như vậy, một ngày khác, vua bảo điều voi điên đến thử Ngài. Ngài liền kiết Ấn Phật nhãn, trụ trong định Từ Tâm, trí tụng chân ngôn để điều phục nó, voi điên ấy liền ngã lăn không thể tiến đến, vua kinh sợ lấy làm lạ, cùng với kẻ điều khiển voi điên có gì khác ư? Thì biết được Hoa bảy cánh vốn không mùi thơm, nhà năm uẩn đâu có ngã nhân, trong tam-ma-địa hiển bày công năng trí tuệ ấy.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 06 (747), từ nước Sư Tử trở về, Vua Huyền Tông mời vào cung kiến lập đàn tràng, đích thân trao pháp Quán đảnh, trụ chùa Tịnh Ảnh. Đến khi nắng hạn gay gắt, đang lo lắng gấp gáp, ngày kết đàn đã đến kỳ, mây ùn nổi khắp bốn phương, nước mưa tuôn xuống, vua bèn xuất kho báu, ban tặng một y cà sa sắc đỏ tía, hia trăm xấp lụa, để tiêu biểu cho sức thần diệu dụng. Hoặc tai ương gió lớn nhổ tróc cây, yêu tinh lăng loàn mất độ thường, ngài cử tâm mặc niệm như ảnh hưởng. Niên hiệu Thiên Bảo thứ 13 (754), có sắc lệnh đến Võ Oai đi tiết độ sứ do Ca thư Hàn mời, kiến lập đạo tràng lớn, cùng Sa-môn Hàm Quang và đệ tử cư sĩ khai phủ lý Nguyên Tông v.v... trao năm bộ Quán Đảnh Kim Cương giới Đại Mạn-đà-la pháp, khi ấy đất tại chỗ thiết lập đạo tràng liền rung chuyển, người có nghiệp chướng rãi hoa không rơi xuống mà lại bay bổng lên lọng che, như bầy ong hút mật ở nhị hoa, không thể rời ra, đến lúc việc xong mới rơi xuống. Thần nào giúp như vậy ư? Thập quế tử nhãn nguyệt, ban lệnh trở về kinh đô dừng trú ở chùa Đại Hưng Thiện.
Đến khoảng niên hiệu Chí Đức (756-758), Hoàng đế Túc Tông thân hành đến Linh Võ, ngài kính dâng kinh "Bất Động Tôn bát phương thần kỳ" và định ngày lấy lại kinh đô như phù ấn vậy. Vào niên hiệu Càn Nguyên (758-760) nhà vua mời vào nội cung kiến lập đàn tràng Hộ-ma, đích thân trao pháp Quán Đảnh, thấm đượm ân sâu, có đáp lễ thường. Tiếp đến mời ở chùa Trí Cự để trì tụng kinh sám, cảm ứng đến Bổn Tôn ngọc hào vạch sáng tỏa khắp thấu suốt núi hang, đến lúc bảo ứng (= Đại Tông) lâm triều, kim luân ngự lịch, nhà vua càng thêm kính ngưỡng, ngài giữ đạo kính thờ làm thầy, nên trao ban đặc tiến thí hồng Lô khanh, thêm danh hiệu Đại Quảng Trí, đích thân bẩm thọ pháp bí mật huyền diệu, cát tường đến cùng. Hoặc Phổ Hiền rót thần quang nơi điện tía, sáu cung lễ lạy. Hoặc Văn-thù hiện tướng lành ở gác vàng, muôn thừa đều tu hành tôn sùng. Hoặc phiên dịch bản tiếng Phạm kinh Mật Nghiêm Hộ Quốc, mây ùn năm mầu. Hoặc dịch Bối kệ kho tàng hư không, mưa móc che chở ngàn vị tăng. Ngài vâng mạng mà vượt trên sự trong lành, thừa ân mà trở lại nơi đế ấp. Phàm các sự ứng nghiệm, sai khác khó tỏ cùng, vừa tỏ ngộ phàm hoa của hư không, thể không sinh diệt. Dụng của chân như há có đến đi.
Trước sau, ngài vâng chiếu phiên dịch các kinh luận, tổng cộng gồm tám mươi ba bộ, một trăm hai mươi quyển, đều đã ban hành đưa vào mục lục kinh tạng, đồng thời tấu trình các chùa trong nước tôn thờ Đại Thánh Văn-thù là thượng tọa, nhân đó thiết trí viện thờ và lập tượng, bảo giữ quốc giới, bày tỏ ân cần cung kính. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 08 (773), có tiến chỉ, ở bổn viện chùa Đại Hưng Thiện, lại tạo dựng gác vàng Đại Thánh Văn-thù, cấm tài vật bên trong không được để thất thoát ra ngoài, thợ thuyền con trai làm cả. Lọng báu treo cao trên chín tầng mây, ngự hương cũng do một người cung cấp. Các thứ vi trần như từ dưới đất vọt lên, nhạc của quân thiên như từ giữa không trung nhóm đến.
Đến ngày 11 tháng 06 niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), chế văn ban tặng Ngài là khai phủ nghi đồng Tam Tư, phong tước Túc Quốc Công, và bổng lộc ấp lớn ba ngàn hộ, ngoài ra đều như cũ, vẻ vang thăm hỏi đủ đầy đượm nhuần, ân sủng sáng ngời dần dần thêm lắm, ban tôn quý của bắc cực, làm lễ bậc tông sư, ân tặng phiền tượng, thi ban ngọc bạch, sắc thư đầy hòm. Các trung sứ cùng nhau nghĩ ngợi từ xa xưa đến nay chưa có ai thanh tịnh kính tín như hoàng thượng ta vậy, sắc son thành thật như tôn sư ta vậy! Ngài vốn từ tuổi hai mươi trở lại, theo tâm hơn năm mươi năm, mỗi ngày bốn thời tụng niệm nơi đạo tràng, lên trên ngự điện, xuống dưới ghế giường, trong khoảng sát-na chưa từng luống không. Như đảnh núi cao lạnh buốt muôn vàn, cây tùng trải mình trong sương gió mà vẫn đen nhuần, có thể lấy đó để nhìn thấy tiết tháo cương trực của Ngài. Huống gì vào nơi nhà quyền quý mà vẫn như là ở nhà cỏ tranh, năm năm hết ba như áo chim thuần. Tuy rong ruổi ở Kỳ lân mà thường thanh tịnh an trú ở Cửu Thiền, ở một mình không bằng. Đồng thông suốt mọi màu sắc, ngọc ma ni vốn không có mầu sắc nhất định, có mầu gì là tùy góc độ của người đứng nhìn. Đối với ta thì làm sao? Thật đúng gọi là Huyền tượng của chân như, là báu lớn của đấng pháp Vương vậy. Đối với Hí Bồ-tát ứng hiện thành mà chẳng trụ tâm. Ngài như đến chốn đông đúc, độ chúng hữu tình, thị hiện chút bệnh, tự biết giờ đi, qua ngày 15 tháng 06, nhờ bảo đệ tử dâng biểu từ tạ Thượng hoàng, giao phó hậu sự, cắt tóc tắm gội, nằm nghiêng phía hữu, duỗi chân, lặng lẽ thị tịch.
Ngài trụ thế bảy mươi năm, năm mươi pháp lạp, lúc đó trời mưa như trút nước, chỉ chút ít ánh trời le lói, buồn bã đến nhà vua, thượng hoàng bãi triều ba ngày. Ban ba trăm xấp vải lụa, hai trăm đoạn vải bố, ba mươi vạn tiền, gạo bún tổng cộng bốn trăm thạch, hương, dầu, củi, than và các trai thất bên ngoài chi cấp. Lại ban cấp hai trăm hai mươi lăm vạn tiền để xây dựng linh tháp, đặt để vào trong mà chiên lễ, lại ban lệnh Cao phẩm Lý Hiến Thành câu đáng và công đức sứ Khai phủ Nghi Đồng Tam Tư Lý Nguyên Tông xem xét giúp đỡ, định ngày mồng 06 tháng 07, pháp táng ở Thiếu lăng Nguyên tại phía nam Vu Phụng. Trong ngày đó, trong thư môn hạ ban điệp tặng quan hiệu Tư Không, thụy hiệu Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hòa-thượng, lại sai nội cấp sự Lưu Tiên Hạc tuyên sách cúng tế. Nội xuất gỗ thơm, thiêu đốt kim quan, đầy đủ lễ nghi trà-tỳ vậy. Tại chùa, hồ sen khô cạn và hoa úa tàn là cảnh tượng cáo chung, cờ mộng nghiêng đổ và điện các xiêu vẹo là lúc kinh sợ răn nhắc. Rừng ta-la biến đổi màu trắng, thống cảm suốt thấu, nước chảy ngược dòng. Đâu phải chỉ có ở thời xa xưa! Bá quan tể phụ đã từng lãnh thọ pháp ấn, không ai chẳng buồn thương! Môn nhân được thường tu đạo công đức, các sứ xem xét trong điện, coi sóc chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Đại tế, v.v... bốn chúng đệ tử đến mấy muôn người thống thiết trở lại bóng tối đêm dài, buồn thương đèn tuệ tắt hẳn, chẳng vì tài vụng, khiến ghi phương du, phi tích lầm sai tiếp chiếu của La-thập chịu vâng hội của vua Tần, nhớ đến sự khóc than của Cao Sài, đều đồng huyết kiến xa hoa, thử nêu thuyết của vô thuyết, để ca ngợi rồng trong rồng. Với bài từ rằng:
Giảng nói văn tự tức chân ngôn chừ!
Trời sinh thầy ta dịch các kinh chừ!
Cung rồng bít cửa, suốt cội nguồn chừ!
Tượng giá đến đâu, nhạc tiên nổi chừ!
Việc làm đã xong ta sắp diệt chừ!
Kinh vẳng không trung cùng các hoa chừ!
Cờ xí điều viếng, cùng an táng chừ!
Người sầu đất rung muốn nói gì chừ!
Chống gậy Kim cương mờ về Tây chừ!
Rõ ràng thầy ta cõi an dưỡng chừ!
Con pháp Vương kinh động xe báu chừ!
Thoát hẳn sinh tử phá oán ma chừ!
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) nhằm ngày mồng 06 (kiến Đinh Dậu) tháng bảy năm Giáp Dần.
Đệ tử thọ Pháp Quản Đảnh, bí-sô Phi Tích ở chùa Thảo Đường, núi Tử Các soạn thuật.
Đấng Bất Động tôn thiên tử
Quán đảnh A-già-lê-da
Bậc thầy mô phạm truyền đạo nước nhà,
Trông pháp như rồng, nhìn người tợ ngọc
Tay nâng kinh pháp, bản Phạn suốt thông.
Tâm đồng trăng tỏ, sáng suốt ao ngọc,
Xả bỏ báo thân, Đài lân vẽ ảnh
Tam mật vắng yên, cửu trùng buồn bã,
Nhạc trỗi xe đưa đều theo chiếu sáng.
Muôn dặm mây sầu, ngàn non tùng thảm
Lạnh lùng ai nỡ luống bặt bóng thầy
Nhìn sắc tuyết, không bày cũng không nói,
Truyền mênh mông kiếp, bỏ ư lấy ư!
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 06 (Quý Mão) tháng bảy (Mậu Tuất) năm Giáp Dần. Hoàng thượng sai bảo nội cấp sự Lưu Tiên Hạc đem dâng hương trà đến tiến cúng giác linh cố Hòa-thượng Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng.
Duy; linh trí tỏ rõ, gặp tư chất thông đạt, xưa gieo giống phạm hạnh, sinh ra đã biết thắng nhân, đẹp trội ngũ thiên, đi khắp muôn dặm, tâm như kho biển, lời thông mọi tiếng. Truyền bá kinh điển, giảng nói Du-già, lợi lạc muôn dân, vào ra ba triều. Đạo vốn không lời, lý đều chẳng vết, Niết-bàn thường vắng lặng, chí thánh đồng quy, đất hương gội mình, hóa duyên đã xong, trẫm vâng biểu nghĩa, đủ lễ thầy trò, phút giây vĩnh biệt, thống cảm cấm cung, kính dâng hương trà, kính mong chiếu giám!
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 06 (Quý Mão) tháng bảy (Mậu Tuất) năm Giáp Dần. Trung thư thị lang đồng thượng thư môn hạ Bình Chương sự Nguyên Tải, kính cẩn dâng cúng hương hoa giác linh Cố Đại Hòa-thượng Tam Tạng.
Than ôi! Tượng hình du hóa như gió động bánh xe, lớn như đất nước đều là thân ta, đến như người biết còn mà chẳng giữ, vất bỏ để đến cảnh giới vắng lặng. Được độ nên thường nhàm chán đến với bụi trần nhiễm ái. Đối với Hý đại sư, vui đùa tiếp nối nhân sáng Phật pháp, trông cao đều rõ, thương rộng đồng nhân, sắc tâm thấu suốt, công học vẻ vang. Rành rành sau ta cùng đạo thuận hòa. Đức lớn sinh thời chân tông mở vận, mang sinh chồi lộc, thật truyền mật ấn. Bằng tâm nhàn quản, ban chiếu mời thăm, đông hưởng tôn sư, ba lần kính dâng. Duy thánh trữ phước, vốn thần gặp may, chúng con... bốn chúng nhóm họp đạo tràng, kế thừa phó chúc, mong nhờ nương cậy, sao báo đáp cùng!
Than ôi! Pháp thể tròn soi, suốt cả trước sau, chẳng đợi hình mà sinh, đâu duyên nhóm mà có, linh sơn gặp lại, nhân vì quá lâu, thương mến thần nghi, nhớ hoài từ dụ! Kính mong thùy từ chứng giám.
Sa-môn Tuệ Lãng v.v... nói: hôm qua ngày mồng 06, là đêm hành lễ trà-tỳ Tôn sư, thánh thượng buồn thương, truy tặng tước hiệu "Tư không", nhân phong thụy hiệu "Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng Hòa-thượng Bất Không". Chiếu ban hành lễ quốc táng, sủng mộ rạng ngời thần đạo, tặng tước tam công vượt lệ chương cũ, tôn xưng Hòa-thượng kinh trước chưa ghi, vậy đủ biết đượm ân trời cao nhuần thấm sông biển không bờ, linh ứng u đồ cảnh trời trăng mà soi chiếu. Đệ tử có đến ngàn vị, thương cảm thánh ân, không dám mang đội. Kính cẩn nương nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ lãng v.v... vô cùng lo sợ và tự thẹn kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 07 tháng bảy.
Chùa Đại Hưng Thiện, chúng thảo thổ Sa-môn Tuệ Lãng v.v... đồng kính biểu.
Bảo ứng Nguyên thánh văn võ hoàng đế phê:
Hòa-thượng khởi đầu từ Tây Vực, đi khắp muôn dặm, giảng nói chánh pháp, lợi lạc chúng sinh, trở về Niết-bàn, chân thường, trẫm với lòng hiếu hạnh sùng phong thị hiệu, lễ qua như thế, sao phiền lòng mà tạ ân!.
Biểu văn có ba mươi bài, đáp chế có mười sáu bài, tổng cộng bốn mươi sáu bài:
1. Chế văn mời chư tăng niệm tụng.
2. Chế văn ban sắc Sa-môn Tuệ Lãng giảng dạy hàng hậu học.
3. Chế văn ban sắc Sa-môn Tuệ Thắng y cứ theo sự thỉnh mời.
4. Chế văn tạm ngưng việc sửa chữa chỗ đất tháp cũ.
5. Chế văn ban sắc xây dựng linh tháp ở tại bổn viện. (có sứ điệp)
6. Biểu văn của Sa-môn Tuệ Lãng cảm tạ ân ban tặng y tía. (có phần trả lời)
7. Chế văn ân ban Biển ngạch điện các Văn thù. Biểu tạ ân ban tặng biển ngạch. (có phần trả lời)
8. Trạng văn dâng cúng xây dựng điện các Đại Thánh Văn-thù.
9. Biểu tạ ân ban tặng phẩm vật cúng dường nhân ngày tiểu tường (cố Hòa-thượng Bất Không). (có phần trả lời)
10. Biểu tạ ân ban tặng gấm lụa. (có phần trả lời)
11. Chế văn ban lệnh tăng ni khắp trong nước thọ trì đọc tụng "Tôn Thắng chân ngôn". (có phần trả lời)
12. Biểu cảm tạ trì tụng "Tôn Thắng chân ngôn". (có phần trả lời)
13. Biểu xin vì tôn sư, dựng lập văn bia.
14. Biểu chúc mừng Lý Linh Diệu chiến thắng.
15. Vãn ca từ cố công đức Lương Quốc Công Lý tướng quân.
16. Biểu xin tiếp tục đặt chức Quan sứ Công Đức.
17. Biểu tạ ân thiết trai cúng dường và ban tặng trà vật.
18. Biểu chúc mừng mùa xuân. (có phần trả lời)
19. Biểu chúc mừng độ con gái vua nước Hàn xuất gia.
20. Văn biểu của Sa-môn Đàm Trinh chúc mừng ở Nam Sơn cầu mưa được ban tặng phẩm vật. (có phần trả lời)
21. Biểu chúc mừng trời tạnh mưa. (có phần trả lời)
22. Biểu chúc mừng cầu mưa nơi ao trũng. (có phần trả lời)
23. Biểu bày tỏ xin khước từ trụ trong đạo tràng. (có phần trả lời)
24. Biểu chúc mừng cầu mưa. (có phần trả lời)
25. Biểu chúc mừng đánh dẹp Thổ Phiên. (có phần trả lời)
26. Biểu chúc mừng cầu mưa ở đầm Ngọc Nữ. (có phần trả lời)
27. Biểu Đàm Trinh chúc mừng cầu mưa. (có phần trả lời)
28. Biểu chúc mừng Bình trị Hà Nam của Samôn Đạo nhuận ở Đài Linh Ứng.
Biểu dâng cúng lông chim Bồ Câu. (có phần trả lời)
*****
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Nguyên Tông: các chùa Hóa độ, Bảo Thọ, Đại Hưng Thiện v.v... các vị Đại Đức Tăng trước kia sống bên cạnh Cố Hòathượng tam Tạng lãnh thọ giáo pháp, những người có công nghiệp đều ghi đủ tên họ để tấu trình lại.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày mồng 07 tháng 07. Quan giám Nội Yết Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Vâng phụng chỉ dụ nói cùng Sa-môn Tuệ Lãng, chuyên tri kiểm hiệu viện sự, kiêm giữ chức giảng dạy hàng Hậu học. Mỗi mỗi đều tôn kính khế hợp có thử lớp nghe tấu.
Đại Lịch năm thứ 09 (774), ngày mồng 07 tháng 07.
-Trung sử Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Sa-môn Tuệ Thắng: lúc cố Hòa-thượng tạ thế Sa-môn Tuệ Thắng truyền đạt ý chỉ, nay truyền ban ở tại linh tháp giữ việc hương hỏa, trước kia ở bên cạnh cố Hòathượng thọ lãnh được Pháp Niệm tụng Phổ Hiền, với trẫm là cùng thầy, gắng sức tinh tấn tu trì mãn ba năm sau tức trở lại cùng trẫm thương lượng giáo Pháp Đức Bổn tôn. Nên y cứ sự thỉnh mời mà an trú.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 07 tháng 07. Chung sứ Cao Phẩm Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Nguyên Tông: việc xây dựng tháp Cố Hòa-thượng Đại Biện chánh Quảng Trí Bất Không, bảo ban nên tạm ngưng, để chọn vị trí tốt đẹp hơn mới xây dựng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 15 tháng
07. Trung sử Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Nguyên Tông: sau lễ trà-tỳ cố Hòa-thượng Tam Tạng Đại Biện Chánh Quảng Trí có được xá-lợi, nên bảo ban bổn viện xây dựng tháp thờ xá-lợi.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày 28 tháng 08. Giám quan nội yết Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Ban lệnh các Sứ xem xét việc tu tạo của công đức sứ ở các chùa tại kinh thành nên theo điệp văn chùa Đại Hưng Thiện là Điệp văn được cử xưng kính vâng chỉ dụ như các điệp văn chưa có lý do, xin thi hành theo chỗ ghi chép. Ban sắc điệp văn chùa Đại Hưng Thiện nhân điệp văn theo cố Điệp tại bổn viện cố Hòa-thượng Tam Tạng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 08 tháng 09.
Phán quan tiền Tư châu Tư Mã Lưu hoạt sứ khai phủ nghi đồng tam tư kiêm Hữu long võ quân tướng quân Lý Tông.
Sa-môn Tuệ Lãng nói: Tuệ Lãng tôi nhỏ bé như hạt cải giữa chúng hội Du già, nương nhờ ơn đức thánh thượng, lạm gội mình riêng tư, vào ra nơi cửa vàng, huân tu ở điện riêng, may mắn kính vâng minh chiếu, luôn đối trước cửu trùng, được đặc ân ban tặng y lụa cà sa đỏ tía, không chỉ vẻ vang đối với tôn sư mà thật huy hoàng cùng hàng hậu học. Tuệ Lãng nhỏ bé tôi không giám buồn thương, kính cẩn dâng biểu trình bày để Bệ hạ xét biết. Không gì hơn xin xét đến cùng và vô vàn mừng vui kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), ngày 29 tháng 11.
Chùa Đại Hưng Thiện, đệ tử phú pháp của Cố Hòa-thượng Tam Tạng đại biện chánh Quảng Trí Bất Không, Sa-môn Tuệ Lãng kính biểu.
Bảo ứng Nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Đại sư ngày trước siêng tu phạm hạnh, sớm sống trong dòng giáo pháp, phước tuệ vốn có, muôn vàn sinh linh đang trông mong cậy nhờ, Trẫm ban tặng y phục có gì phải phiền lòng cảm tạ.
Kính vâng chỉ dụ ban tám phân vàng viết một biển ngạch điện các "Đại Thánh Văn-thù Trấn Quốc", nên đưa đến viện phiên kinh chùa Đại Hưng Thiện.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 13 tháng 02 Trung sử Lý Hiến Thành tuyên cáo.
Sa-môn Tuệ Lãng nói: ngày nay cửu nhận thánh chỉ do Trung sử Lý Hiến Thành tuyên cáo và đặc ân ban tặng tám phân vàng viết một biển ngạch điện các Đại thánh Văn-thù. Ngự trác vết thần, thế bút tuyệt diệu, tên hùng "Trấn quốc" chữ sáng thiên văn, chim thước ngoảnh đầu, phượng hoàng quay lại, rõ ràng bay động, thế rồng hùng võ, gấu phóng cuốn gió mây, hãm rủ sương nơi chín tầng mây, lo rơi đá ở ngàn muôn nhận. Ánh quang vàng sáng lạng cùng nhật nguyệt treo cao, dấu Thánh mẫu mực cùng đất trời còn mãi, hầu đón chiêm ngưỡng mặt mắt sáng trong. Nhìn xem suy xét tâm thần tỏ rạng. Tuệ Lãng tôi nhỏ bé may mắn gì được tắm gội ân ba này? Đội mang trời cao, không đất hổ thẹn. Rất vui mừng không kềm chế được, kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Samôn Tuệ Lãng tôi vô cùng mừng vui, mang đội kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 13 tháng
02. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện kính biểu. Bảo ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế đáp:
Viện riêng ở già-lam an trí tôn dung, trên bảng vàng phát huy thử quang Đại Thánh. Đại sư siêng tu hương hỏa, giữ gìn nước nhà. Đó là điều biết tạ ân vậy.
Viện phiên kinh chùa Đại Hưng Thiện xây dựng điện các Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, tính tổng cộng tiền nhận vào là 22. 487 quan 950 văn. Nội xuất thay lụa, (1) văn là một đồng tiền, quan là 100 đồng tiền, nên 100 văn mới được 1 quan. Ở đây giữ theo quan; văn, mà lượt "Đồng tiền" cộng tính nhận vào 13.052 quan văn (11.152 quan văn, chuẩn định theo lụa là 4.117 xấp, chiết sung vào 2000 quan văn thấy tiền nhận vào) 1.084 quan, 503 văn. Tiền y của Hòa-thượng và tiền các tạp vật nhận vào là 8. 852 quan 447 văn. Ngoài thử và bán các tạp vật nhận vào, nên xây dựng điện các Đại thánh Văn-thù-sư-lợi, phá dụng và thấy tại số như sau:
- 4.542 quan 545 văn, mua gỗ vuông 610 căn rưỡi.
- 974.810 văn, mua gỗ hốc làm đòn tay làm cột, cộng 804 căn.
- 1491 quan 170 văn, mua gạch ngói si thú
55.698 viên.
- 214.500 văn, mua sạn 700 bó để dùng.
746.225 văn, mua gỗ bá làm cửa song câu lan...
- 764.000 văn mua đá viên, đá tạp và thuê xe, cước phí lương thực thủ công.
- 116425 văn mua ma đào để sử dụng.
- 339591 văn mua đinh sắt để dùng.
- 80000 văn làm tám phòng tranh ở hai tầng trên và dưới các.
- 85288 văn mua đá vôi, đất đỏ, sáp đen để dùng.
- 2478 quan 946 văn làm cửa kim đồng đinh mua bản lề để dùng.
- 694550 văn thuê người làm tầng cấp và hào thoát v.v...
- 2288 quan 300 văn thuê người san bằng núi dựng cây gỗ và lương thực cho thợ dùng.
800 quan văn mua thái sắc giải lục vẽ La văn mềm, dùng làm lương thực thủ công.
- 1.051 quan 296 văn thuê người xẻ gỗ và lương thực cho thợ dùng.
- 305.000 văn thuê người đúc ngói và lương thực cho thợ dùng.
- 1518 quan 900 văn làm cửa song ngô bách, câu lan che nắng và lương thực cho thợ dùng.
- 330 quan văn đắp đất bùn bờ lũy và lương thực cho thợ dùng.
- 257 quan văn thuê người vẽ nền lăng cách lỗ và mua thái sắc, thủ công lương thực cho thợ dùng.
- 595.687 văn thuê xe thuyền chở gỗ vuông và tiền cước.
- 357.700 văn thuê người sắp xếp bờ gạch và lương thực cho thợ dùng.
- 162 quan 548 văn mua chiếu trúc việt triệu tịch bạc thán hoa, dược cù, giấy bút, dầu v.v...
- 100 quan 982 văn tăng sứ hành giả ngoại sứ thôi sắm lo lương thực, sắp đặt công thợ.
- 52 quan 510 văn mua keo và ma đinh, giây, để buộc các vật.
- 312.790 văn thuê người làm các việc lặt vặt suốt năm tháng.
873 quan 250 văn thuê bốn chiếc xe và sáu con trâu.
- 682 quan 87 văn, mua cỏ đậu thuốc cho bò và tiền bánh cho người kéo đẩy xe.
Về phần phá dụng thì theo số liệu như trên, còn phần mua vào hay tạp thí nhận vào hồi tàn xem như sau:
- Hợp nhận gỗ vuông 685 căn rưỡi, 75 căn, ngoại thí nhận vào 610 căn rưỡi.
- Mua vào 487 căn rưỡi dùng làm gác xong xuất bán 127 căn, còn 71 căn.
- Hợp nhận bác trụ 244 căn, 148 căn, ngoại thí nhận vào 96 căn.
- Mua vào 173 căn làm gác xong, hiện còn 71 căn.
- Hợp nhận vào gỗ đòn tay 2. 414 căn, 1.570 căn, ngoại thí nhập vào 844 căn.
- Mua vào 1. 854 căn, dùng làm gác xong, hiện còn 560 căn.
- Hợp mua vào sạn 700 thúc, 350 thúc dùng làm gác xong, hiện còn 350 thúc.
- Hợp nhận 683 cân keo, nhận của ban tặng 600 cân, ngoại thí 40 cân, mua vào 43 cân, dùng làm gác xong.
Hợp nhận 620 cân sáp, nhận của ban tặng 600 cân, mua vào 20 cân đều dùng làm gác hết.
Trên đây, ngoài tiền vật, gỗ vuông, v. v… nhận vào để xây dựng điện các, và các tạp dụng thì hiện còn với số lượng như trên đã ghi lục, kính cẩn tấu trình để xét biết, đồng thời xin tuân phục theo thánh chỉ.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày mồng 05 tháng 04.
Xem xét công việc xây dựng điện các, Sa-môn Tú Nghiêm v.v... kính dâng sớ văn.
Đồng xem xét xây dựng điện các Sa-môn Tuệ Thắng. Ban sắc xem xét viện sự Sa-môn Tuệ Lãng.
(Cố Hòa-thượng Bất Không) (có phần trả lời)
Trung sứ đoán vật, hoa đến kính tuyên thánh chỉ: Nhân ngày tròn một năm nhập tháp Cố Hòathượng Tam Tạng Đại Quảng Trí Bất Không, ban tặng phẩm vật cúng dường một ngàn vị, đồng thời tặng hai trăm xuyến trà và độ hai vị đệ tử.
Kính vì tiên sư thị tịch thoáng đã tròn năm, thánh ân nhớ tưởng thiết lập cúng thí. Ban tiền xây tháp, soạn lễ cúng tăng, ân mưa móc thấm khắp mọi nơi, đức ngời sáng soi kẻ còn người mất. Phàm là bạn pháp, buồn thẹn giao hòa, trung sứ đến tiến cúng, kính dâng hương trà. Đặt toàn thân nơi tôn tháp Đa Bảo, đặc thù thấm đượm cả chín tầng mây, không dám rất cảm đội, kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ ân sâu để bệ hạ xét biết, rất tỏ sáng không thể nói được, Sa-môn Tuệ Lãng tôi vô cùng mừng vui kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 15 tháng 06. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện kính biểu. Bảo ứng Nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp: Cố Đại Hòa-thượng thị tịch, trở về nơi chân thường, nhanh chóng tròn năm, càng thêm thương nhớ, nghĩ tưởng phước đức che chở, nên thiết trai cúng dường, trẫm suy xét lại chẳng sâu đậm gì sao nhọc lòng tạ ân như vậy!
Sa-môn Tuệ Quả nói: Kính vâng ngày mồng 09 tháng nay, trung sứ Lý Hiến Thành phụng tuyên tiến chỉ ban tặng hai mươi bốn xấp gấm lụa cho tôi. Bưng đội mừng lo như núi lớn đè mình. Tuệ Quả tôi nay gặp tốt lành, dâng chịu thánh ân, đã nhiều năm tháng kính thờ tôn sư Cố Đại Hòa-thượng Bất Không, hơn hai mươi năm giữ gìn khăn gậy. Với tông chỉ Du-già bí mật, yếu chỉ sâu xa của Phổ Hiền, đặc biệt được chỉ dạy, riêng thừa ý chỉ, tha thiết vì nước nhà mà suốt ngày đêm tu hành. Tuệ Quả tôi nhỏ bé, vì vậy quên cả thân hình, thường không gián đoạn, khẩn thành thề nguyện cầu mong báo bổ ân sâu mưa móc, đáp đền ơn tạo dựng riêng, không dám hớn hở đến cùng, kính cẩn dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Quả tôi vừa mừng vừa sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày mồng 10 tháng 11. Sa-môn Tuệ Quả chùa Đại Hưng Thiện kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng Đế phê:
Hòa-thượng để lại lời chỉ dạy, xà-lê khắc niệm tuân hành tông chỉ bí mật, truyền bá đệ tử. Xét thấy Sa-môn Tuệ Quả tinh tấn khẩn thiết luôn biểu lộ sự siêng năng khổ nhọc, trẫm ban tặng chút ít gấm vóc để làm việc hương quả vậy. Đó là điều biết cảm tạ vậy.
Kính dâng chỉ dụ nói với Lý Nguyên Tông, ban lệnh tăng ni khắp trong nước thọ trì đọc tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni, hạn định trong một tháng phải tụng thuộc lòng, trông đó, mỗi ngày trì tụng hai mươi mốt biến. Hàng năm, vào ngày mồng 1 tháng giêng khiển hạ chánh sử, trì tụng đầy đủ biến số như đã hạn định.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776), ngày mồng 08 tháng 02. Giám quan nội yết Lý Hiến Thành tuyên đọc.
(có phần trả lời)
Sa-môn Tuệ Lạng nói cúi dâng ân sắc bảo ban tăng ni khắp trong nước tụng trì "Phật đảnh Tôn Thắng chân ngôn", Tôn Thắng chân ngôn là mắt tâm của các Đức Phật, là bến bờ của muôn dân, bệ hạ được các Đức Phật phó chúc, dùng chánh pháp để cai trị muôn dân.
Tuệ Lãng tôi vốn người xuất gia lại được gần gũi hầu hạ rất mực ngu thành, thật vừa sợ vừa mừng. Cúi mong bệ hạ mưu đức hợp với thánh từ, che mát lợi ích nhơn sinh, đạt đến bờ cực nhân thọ. Ngay một lời nói đã ban rõ sự mừng vui không ngằn mé, bình lặng cả muôn quốc gia. Núi sông quỷ thần cũng không loài nào chẳng được an ổn, chim thú cá rùa đều được vận may, kẻ tăng có đường thắng tấn, người tục thành thục, phong hóa đồng thiện. Đó là ân sâu của bệ hạ vượt ơn thiên hạ, tham thừa chí đạo mà ứng dụng, há phàm tăng như tôi mà có thể biết được ư? Ân sinh dưỡng rất sâu dày, đức dắt dìu men đâu báo đáp! Kính cẩn nhờ trung sứ Nguyên Ứng Kim dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Lãng tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776), ngày mồng 23 tháng 03. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện v.v... kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê.
Phật đảnh chân ngôn thần lực trùm khắp, giúp sức làm lợi ích, trẫm bảo ban thọ trì đọc tụng có gì phải trình biểu tỏ bày cảm tạ.
Sa-môn Tuệ Lãng v.v... nói: Tôn sư Hòathượng Tam Tạng Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không sớm gặp đời có bậc Thánh, mồi ngọn đèn Phật, vượt biển trèo non, tìm cầu pháp bảo, thành đạt mật ấn kim cương, thấu suốt tổng trì tam-muội, xá lợi bao bọc ở sắc thân, gương trí treo ở trăng tâm, mở mang đạo lớn, phụ giúp hoàng gia. Từ niên hiệu Thiên Bảo về sau, các vị hoàng tổ, hoàng khảo đều nghiêng mình cung kính thưa hỏi giáo pháp, đủ lễ thầy trò. Đến lúc bệ hạ lên ngôi, càng thêm ưu đãi, kính trọng đạo đức, sủng ái ban tặng vượt hẳn thường tình, lúc sinh tiền thì tôn xưng là bậc thầy quán đảnh, khi thị tịch, ban tặng chức vị thượng công. Từ lúc tôn sư thị tịch, trải qua năm tháng, xây dựng linh tháp ở song lâm, đức lớn chưa khắc nơi đá tảng. Thánh từ thương kính, hứa chế tặng bia. Ngửa mặt nhìn thiên văn, mong đợi giáng chỉ, Sa-môn Tuệ Lãng v.v... chúng tôi, nguyện xưa mong chờ đã đến lúc cùng, cúi xin hồng ân rũ lòng cho phép, không gì hơn khẩn khoản đến cùng, kính cẩn dâng biểu trình xin để bệ hạ xét biết, khinh mạo long nhan không dám lo sợ. Sa-môn Tuệ Lãng v.v... chúng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776), ngày mồng 05 tháng 04. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện, v.v... kính biểu.
Sa-môn Tuệ Lãng v.v... nói: Tuệ Lãng tôi nghe "Bọn nghịch đức chết rồi còn khó tránh khỏi yêu nghiệt". Cúi mong Bệ hạ anh minh một mình quyết đoán, thầm vận thần mưu, dùng tướng sĩ uy võ rất thành khẩn đánh dẹp. Bắt gấp bọn giặc khấu đảo, tám châu có được khai thông hải ngoại. Vạn nước đến triều chầu, bốn cõi cùng dâng cống. Tuệ Lãng v.v... chúng tôi, rất vui mừng không kềm chế được, kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Lãng v.v... chúng tôi vô cùng vui mừng kính dâng. Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776), ngày mồng 28 tháng 11. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện, v.v... kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Linh Diệu cuồng phản, chống cự kinh đình, quân sư bốn phía lâm trận giặc khấu yêu nghiệt tiêu tan, bắt được hung thủ, sông biện trở lại an khương thái bình. Đó là điều chúc mừng vậy.
Tiền Tả lãnh quân vệ binh, Tào tham quân Hàn lâm đợi chiếu dời Triệu:
Nghiệp lớn thời Đường Nghiêu Công thành quân Văn Tử.
Nhận ân sủng ba triều Xông sáu tỷ năm thần. Vẽ sừng, buồn thổi lạnh
Kèn buồn nghẹn sương mai. Cốt trung nghĩa thánh triều Nay phần mồ hoang lạnh.
Cây lớn buồn gió thổi Tướng quân đi chẳng về. Võ hàn, tâm càng đau Nhìn huyệt, lệ khó cầm. Trăng mai đọng sương cỏ Suối ẩn cản dạ đài.
Lắng nghe bạn ca khóc, Chạm vật đều buồn thương!
Sa-môn Tuệ Lãng nói: "Tuệ Lãng tôi nghe: chỉ có con người gieo trồng cội phước, chỉ có phước đức làm lợi ích con người. Nếu thiếu sót đi thiện công đức thì không do đâu mà sinh trưởng". Cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế bệ hạ, lên ngôi thiên tử chở che muôn dân, cắt dứt dường tà, giữ gìn chánh pháp, muôn cõi nước đều an lành, chứ đâu chỉ có ở kinh thành. Từ lúc quốc gia đặc biệt an trí quan sứ công đức về sau thì phước lành ngày một thêm nhiều, còn hung tà thì mất đi. Chốn hoàng cung khởi vận may cao lớn, cảnh thiền môn yên vui, dứt tuyệt cái nhục. Chỉ trời biết được, người ít rõ vậy. Từ hôm Lý Nguyên Tông qua đời, từ đế kinh cho đến tăng lữ nhìn nhau ảm đạm, mở mắt thêm buồn thương, lệ rơi trong lời nói. Lại lo sợ ác ma được dịp thương tâm, ngoại đạo gặp thời nhiễu loạn, chánh giáo bị hoại diệt, rừng tà càng tươi tốt! Cúi xin thánh từ chọn một vị hiền thần đảm chức Tư công đức, mãi mãi vì nước nhà mà tạo phước đổi đời, cởi mở sự lo buồn để tăng nhân phấn chấn. Kính cẩn nhờ giám sứ Lý hiến Thành dâng biểu trình bày cầu xin để bệ hạ xét biết. Không gì hơn soi xét đến cùng, Sa-môn Tuệ Lãng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776), ngày... tháng 12
Sa-môn Tuệ Lãng chùa đại Hưng Thiện kính biểu.
Sa-môn Tuệ Lãng nói: Kính vì ngày 14 tháng này, thiết trai cúng dường một ngàn vị tăng, ban tặng hai trăm xuyến trà. Ngày này lại mong trung sứ tuyên bày ân mạng an ủi cùng các đệ tử, hành khắp thiên hương, xông khắp kẻ còn người mất, Tuệ Lãng v.v..., chúng tôi vừa buồn vừa lo, tâm hồn rơi lạc, nương sự chở che của tôn sư, gội mình nơi đặc ân của Bệ hạ. Nếu thần lý có còn, âm thầm cảm thánh ân thì ân kết cỏ hẳn do trà thơm vậy, không dám phụ bạc ơn núi biển đến cùng. Sa-môn Tuệ Lãng tôi kính cẩn nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Samôn Tuệ Lãng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày mồng 10 tháng 06. Sa-môn Tuệ Lãng, v.v... kính biểu.
Sa-môn Tuệ Lãng v.v... nói: Ấy là do mùa Đông năm trước quá hạn hán, Thánh tâm lo lắng, rộng bày thắng phước khắp vì sinh linh, quả nhiên thành tựu mây xuân vần vũ, khắp trời tuyết rơi bày điềm tốt, khắp nơi thấm nhuần, ân trùm khắp nơi, bụi mờ tự lắng sạch, lúa thóc trúng mùa, Tuệ Lãng v.v... chúng tôi cả thảy năm mươi ba vị, thường ở tại đạo tràng, vì nước nhà mà trì niệm kinh chú, từ đầu tháng giêng đến nay, cùng nhau sách tấn, có vị đã bảy ngày tuyệt thực, có vị qua hơn mười ngày quên cả ngủ nghỉ, quý vốn chút điều lành nhỏ, trên riêng báo đáp, gội nhuần như những năm tháng thời vua Nghiêu, nhân thẹn ông già miền quê, không dám mừng vui đến cùng, kính cẩn nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày chúc mừng để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Lãng v.v... chúng tôi vô cùng mừng vui kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày 17 tháng giêng. Sa-môn Tuệ Lãng chùa Đại Hưng Thiện, v.v... kính biểu. Bảo ứng Nguyên Thánh văn võ hoàng đế đáp.
Khoảng vì thời gian đang phát sinh từ mùa Đông không có sương tuyết, trẫm thật tình lo lắng bởi tháng ngày hạn hán kéo dài. Các vị tinh thành cầu nguyện, mưa đượm nhuần khắp. Do sự chí thành mà cảm cách, đáng dùng để an ủi vậy. Ấy là điều biết chúc mừng.
Các vị Sa-môn ở kinh thành cũng như các vị thượng tọa ở chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Tuệ Lãng v.v... nói: Cúi vâng thánh chỉ ngày mồng 06 tháng này, độ con gái lớn của vua nước Hàn xuất gia. Hồng ân yên định thiên tôn xuất gia, vận phúc vốn tự Hoàng Hậu sự mến mộ của ái đạo dòng họ Thích. Cúi mong Bệ hạ tâm thật chí Thánh, lợi vật rộng khắp, tuy lớn như trời đất nào ai có thể, huống gì bỏ thân mai hoàng thượng tự cắt bỏ tóc xanh, cởi áo báu châu ngọc để đắp mặc cà sa. Trời người khắp ba cõi đều đượm nhuần ân phước, Sa-môn trong nước mang đội chúc mừng không thể kềm chế, kính cẩn nhờ trung sứ Ngụy Hành Lâm dâng biểu để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Lãng v.v... chúng tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày mồng 09 tháng 10.
Các vị Sa-môn ở kinh thành cũng như các vị
Thượng tọa ở chùa Đại Hưng Thiện, Sa-môn Huệ Lãng v.v... kính biểu.
(có phần trả lời)
Sa-môn Đàm Trinh nói: Ấy khoảng vì trời mưa chưa đến, thánh tâm lo lắng, đặc vâng tiến chỉ bảo ban đến Nam Sơn cầu mưa. Dốc tận tim gan, mong động lòng trời. Đối với pháp, không có công phu nên rồng thần chẳng ứng, không nhọc nghĩ tưởng, hư phí sự cúng dường. Đã không hy vọng trông mong gì, thật đáng tội trách phạt. Thánh từ lại khoan dung tha thứ, ban thưởng rất sâu đậm, vâng nhận bảy mươi xấp gấm lụa. Thật trời che đất chở, chẳng biết cao dày. Há rằng lo giận môn đình, bỗng gặp mưa trông thấm đượm, không dám mừng vui thẹn sợ đến cùng, kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến
Thành dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Đàm Trinh tôi vừa sợ vừa mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777), ngày mồng 03 tháng 08. Chùa Thanh Lang, Sa-môn Đàm Trinh kính biểu.
Bảo ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế đáp: Sư (Sa-môn Đàm Trinh) từ lâu tinh tấn phạm hạnh, thiết tha thành khẩn thanh tịnh đạo tràng, cầu nguyện mưa rãi đượm nhuần khắp nơi, trẫm có phần khen thưởng, sao nhọc lòng tỏ bày cảm tạ vậy.
(có phần trả lời)
Sa-môn Phi Tích v.v... nói: Cúi vâng ngày 26 tháng 08, trung sứ cao phẩm Lý Hiến Thành tuyên cáo thánh chỉ các vị Sa-môn ở tại kinh thành trì tụng kinh Đại Bát-nhã Khổng Tước Vương v.v... cầu nguyện tạnh mưa, để giúp thánh tâm.
Phi Tích tôi nghe: Đế Nghiêu rất mực chí thánh, không đâu mưa nhiều. Kinh Đại vân quý báu cũng có dạy cầu xin tạnh mưa. Khoảng ấy còn như lâm râm, lo nhận bàng hoàng, Bệ hạ đích thân bày tâm nơi người vàng, thường đốt hương ở điện ngọc, bèn khiến trời quang tạnh, mặt nhật lên cao, soi suốt mây dày mà chiếu khắp bốn phương, gió lành phảng phất quét sạch mây mù ở tám hướng. Lúa thóc tốt tươi được mùa, kho vựa thường luôn tràn đầy. Đó đều do ân trời tinh nghệ, phàm tăng đâu biết được. Phàm tại đạo tục, không dám cảm đội, kính cẩn nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày để bệ hạ xét biết. Sa-môn Phi Tích v.v... chúng tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777), ngày mồng 01 tháng 09. Cùng chư tăng ở tại kinh thành, Sa-môn Phi Tích kính biếu. Bảo ứng Nguyên Thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Sư (Sa-môn Phi Tích) lãnh đạo các vị Sa-môn, từ lâu ở tại đạo tràng, siêng năng kết duyên phạm hạnh, phước đức giúp ích chúng sinh, chân thánh che chở, xưa ngầm dần khai mở, nên càng thành kính, để lại an vui cho nước nhà. Ấy là điều đáng chúc mừng vậy.
Sa-môn Giác Siêu, Tuệ Chiếu v.v... nói: ngày 15 tháng này, Trung sứ Dương Quý Trân đến kính vâng thánh chỉ bảo ban các vị Giác Siêu, v.v... cầu mưa nơi ao trũng tại Nam sơn suốt bảy ngày. Bệ hạ nghiêm thân dưỡng vật, lo ơn mưa móc ở Phu thời, lấy lòng người làm lòng mình, thương nông phu trồng trọt giữa năm, bèn khiến có linh, hẳn cầu thần tích và tức khắc tạo phúc, mà muôn họ đội ân từ ái, chúng sinh mừng nghĩa mẹ cha, so với mưa tuy hiếm ít mà cỏ cây đều tươi tốt, hạn hán không phải lo lắng, ngũ cốc đều xanh tươi. Đó tức là bệ hạ thuận với đạo trời ngầm ẩn vận thời, thể nguyên chuyển hóa bên trong hài hòa, Giác Siêu v.v... chúng tôi còn ngu mờ không dám mừng vui quá lắm. Mọi người thảy đều biết, mang đội vui vẻ đến cùng không thể kể xiết.
Giác Siêu tôi cúi vâng thánh chỉ, bèn thiết lập đạo tràng, ngày đêm tinh thành để giúp yếu chỉ của văn ân, chẳng dám biếng lười, làm sáng tỏ lệnh của Quang Trạch, ngay đêm đầu trì tụng kinh chú, mây sương bỗng dưng tụ lại nơi núi sông, khải thỉnh chưa xong thì mưa đổ, nước tuôn tràn đầy rưới khắp cửa thành. Cho nên biết cảm động như thời vua Nghiêu, huyền ứng ngay trong chốc lát, mưa đức như lúc vua Thuấn, vui nhỏ chẳng dám chậm lâu, nơi mầm mống cây, bỗng nhiên như mưa tăng thêm nữa, phàm gọi là lương trữ, thật sẽ càng tàn. Giác Siêu tôi cùng với các vị già trẻ v.v... trong hương thơm, mang đội mừng vui bất giác vỗ tay vào cổng làng, vừa tát vừa dừng, tự nhiên chân đạp đến hang cùng ngõ hẻm, không dám mừng vui hớn hở đến cùng, kính cẩn dâng biểu trình bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Giác Siêu, Tuệ Chiếu v.v... chúng tôi vô cùng mừng vui kính dâng. Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772), ngày mồng 20 tháng 06. Chúa Bảo Thọ Sa-môn Giác Siêu v.v... kính biểu.
Bảo ứng Nguyên thánh Văn võ Hoàng đế đáp:
Các vị Sa-môn (...) kinh hành ngồi thiền, từ lâu đã tỏ ngộ vô sinh, nhớ nghĩ sâu sắc về nước nhà, chí thành mong cầu mưa móc, thánh chân rũ lòng che chở, mưa xuống đúng thời, truyền hợp thu nguyên đem lại mùa màng tốt tươi, tây thành có trông mong, diệu dụng hổ thẹn khó nhọc. Ấy là điều biết chúc mừng vậy.
Sa-môn Giác Siêu, Tuệ Hải v.v... là những vị chuyên trì tụng ở đạo tràng nơi điện Trường Sinh nói: Giác Siêu, Tuệ Hải... chúng tôi vốn không đức nghiệp, lạm nhận kẻ xuất gia, theo hầu tôn sư, vào ra nơi cung cấm, ăn phần cơm vua, mặc lấy áo trời, ngồi ngựa xe công, qua lại bằng xa giá. Dần dà ngày tháng hơn mười lăm năm trời, nhận của thù ân ban thưởng, chất cao đầy gò. Nếu bàn về công lao báo đáp nước nhà thì chưa từng có được mảy may, vỗ mình tu trì đâu kham nhận hổ thẹn. Vả lại, người xuất gia nhận lời Phật dạy, siêng tu công đức, cho ở chốn già-lam, từ lâu ở chốn cung trời, thật để lại vật bàn luận, đêm trước nghĩ suy, đâu dám tự an! Rất mong thánh từ nhủ lòng thương phóng thích cho mỗi người tự trở về chùa cũ, vì nước nhà mà tu hành, nhóm vốn ruộng phước đâu hạn trong ngoài. Khẩn thiết chí thành đến cùng, không thể kể xiết, kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu trình bày cầu xin để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Giác Siêu, Tuệ Hải v.v... chúng tôi vô cùng lo sợ kinh dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777), ngày mồng 22 tháng 05.
Sa-môn tu hạnh tụng niệm Giác Siêu, Tuệ Hải v.v... kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Các vị Sa-môn... diệu hạnh tinh tu, giữ vững chánh giác, lưu lại nơi cung cấm, để làm nhân tốt, không đến không đi, sao lại dâng biểu từ nhượng vậy.
Sa-môn Giác Siêu v.v... nói: ngày 27 tháng 08, cúi dâng trung sứ Ngụy Hành Lâm tuyên cáo. Thánh chỉ: Mưa dầm đã lâu, phải xin cầu tạnh. Giác Siêu v.v... chúng tôi bỗng nhiên vâng thừa chỉ dụ, càng gấp bội khẩn thành khởi cáo rồng thần, ngày đêm tinh ròng thành khẩn, dốc tận tim gan, nương nhờ thiên oai của Bệ hạ, mây tan mưa dứt, mùa màng đều tươi tốt, cúi mong Hoàng đế Thánh Đức kinh động đến trời, Ngài nuôi dưỡng muôn loại, dắt dẫn sĩ dân vui lòng, quan liêu điều an vui, chư tăng v.v... nơi Đạo tràng vui mừng đến cùng không thể kể xiết, kính cẩn nhờ trung sứ Nhạc Lệnh Khâm dâng biểu trình bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Giác Siêu v.v... chúng tôi vô cùng mừng vui kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày mồng 01 tháng 09.
Đạo tràng ở điện Trường Sinh, Sa-môn Giác Siêu v.v... kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Sư lãnh đạo chư tăng, từ lâu ở tại đạo tràng, siêng năng kết duyên phạm hạnh, phước đức lợi giúp lê dân, chân thánh che chở, xưa nay ẩn mật, dần dần tỏ rõ nên càng thành kính, để lại an vui cho nước nhà, đó là điều đáng chúc mừng vậy.
(có phần trả lời)
Sa-môn Giác Siêu v.v... nói: nhìn thấy giữa đường tràn đầy Tử Nghi hạ tướng sĩ phá dẹp Thổ Phiên. Bắt sống cả ngàn tên giặc, chém đầu đến cả số muôn. Kính nghe: Bệ hạ dùng thuận để phạt nghịch, khởi quân chắc chắn chiến thắng, vì nghĩa mà trị gian tà, khắp nơi không ai chẳng khắc phục. Ngày mà bọn giặc Thổ Phiên phụ trái ước, dám phản ân nước nhà. Theo giặc ở biên thùy, nhờ lấp đất đá. Cúi mong Bệ hạ thánh lược thông thật, thiên oai chấn động nơi xa, thế đồng như chẻ trúc, như châm lửa đốt đồng, bắt được tên đầu sỏ, chết cứng đầy đồng. Giác Siêu v.v... chúng tôi hổ thẹn ở nơi cửa Phật, mừng vui nước nhà thanh bình, không dám hớn hở quá lắm, kính cẩn dâng biểu trình bày để bệ hạ xét biết. Sa-môn Giác Siêu v.v... chúng tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày 28 tháng 08.
Sa-môn Giác Siêu nội đạo tràng chùa Bảo Thọ v.v... kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Bọn Tây phiên phụ ân, Nguyên Nhung đặt bày mưu lược, đạo trời giúp sức thuận hòa đánh dẹp hung tàn. Các vị là Sa-môn Thích tử cũng nên an ủy vậy. Ấy là điều đáng chúc mừng.
(có phần trả lời)
Sa-môn Tuệ Siêu nói: ngày 16 tháng trước trung sứ Lý Hiến Thành kính tuyên chỉ dụ bảo ban Tuệ Siêu tôi đến đầm Ngọc Nữ ở huyện Chu Ốc tu hương quả cầu mưa. Tuệ Siêu tôi hạnh thiếu tinh tu, bày sai thiên chỉ, nơi núi sông linh ứng, bất muội cầu nguyện, ban đầu mới lập đạo tràng, từ lạch khe bỗng dưng róc rách và gieo xá-lợi mưa vải như tơ, một tối mà cây cỏ thêm hoa, một đêm mà sông đồng tràn ngập thấm sâu khô cạn, mừng hợp thần dân. Cúi mong Bệ hạ thánh đức kinh động đến trời, ân trời ban phước. Đâu phải là Tuệ Siêu tôi bé nhỏ mà vật tinh thành cảm thông, không dám vui mừng hớn hở đến cùng, kính cẩn nhờ trung sứ Lý Hiến Thành vào cung trình tấu dâng biểu tỏ bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Siêu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại lịch năm thứ 09 (774) ngày mồng 05 tháng 02. Nội đạo tràng... Sa-môn Tuệ Siêu kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Trẫm luôn thương xót lê dân, trông mong trời mưa. Phân ban các làng cầu đảo khắp các linh từ mà hòa trạch thấm nhuần, phủ cùng tuần mẫn. Sư (Tuệ Siêu) từ lâu đã nhọc chí thành khiết tịnh, siêng năng thanh tịnh đạo tràng, có thể trông mong, nhìn lại càng thêm vui mừng vậy. Ấy là điều đáng chúc mừng.
Sa-môn Đàm Trinh v. v… nói: ngày 29 tháng trước, kính vâng trung sứ Lý Hiến Thành đến phụng tuyên thánh chỉ bảo ban Đàm Trinh v.v... chúng tôi đến đầm Ngọc Nữ, ở trước chùa trì tụng kinh sám trợ giúp cầu mưa. Cúi mong Bệ hạ nhân vì mùa đông trước không nhóm tuyết, đến xuân lại nắng gắt. Lo giúp đầu tiên, tinh thành cầu nguyện, các trung sứ v.v... ban đầu tu hương đèn, bầu trời không mảy may bụi nhơ lúc tuyên xưng thánh chỉ, bỗng nhiên linh ứng, gió núi rạt rào như ùn sấm sét, nước đầm ngầm thấm, hoặc phân theo mạch núi tuôn trào bèn khiến tuôn mưa đầy đầm và tràn khắp sông, đồng bằng. Nhâm Cao nhờ đó mà khơi mạch, cỏ cây nhờ đó mà nẩy mầm. Muôn dân mừng vui, ngày thường khó nói hết. Đàm Trinh v.v... chúng tôi học đạo rõ thời, lánh ở nơi hang núi, may thấm nhuần ơn đức thánh vương, hớn hở thêm lên, không dám mừng vui đến cùng, kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu bày tỏ chúc mừng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Đàm Trinh v.v... chúng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774) ngày mồng 03 tháng 02. Chùa Tiên Du ở huyện Chu Ốc, Sa-môn Đàm Trinh kính biểu. Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
(Đáp chế đồng như văn trên) (bài 27).
Kiểm hiệu đạo tràng Quán Âm ở đài Linh Ứng. Các Sa-môn tu hạnh niệm tụng là Đạo Nhuận v.v... nói: Kính vâng các tướng ở Hà Nam đánh lấy được Châu Biện, đánh phá Điền Hoảng, bắt sống Lý Linh Diệu. Bọn cứu vọ bị tan tác, độc bò cạp liền như băng tiêu. Trời đất, Thần, người. Không ai chẳng mừng vui. Cúi mong Bảo ứng nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế Bệ Hạ y cứ chánh giáo của đấng Pháp vương, thực hành hạnh đại bi của đức Quán Âm. Ban ân cho trăm họ, sợ mọi vật mất chỗ, mà bọn Lý Linh Diệu kia cuồng điên, hoành hành chống cự trái ngược đạo trời, nếu trời không giết thì cũng tự chuốc lấy tai họa. Nay đây, biển lặng, mặt nhật soi sáng núi non tĩnh lặng. Còn nghe thiên sư còn chứa thừa sức mạnh giết giặc thù, kế thừa chắc chắn không xa. Kẻ xuất gia nhỏ bé như tôi giờ đây mừng vui sao xiết. Ngưỡng nhờ ân đức Thượng Hoàng, so sánh thì sông biển chẳng sâu bằng, vui mừng đến cùng, không thể kể xiết, kính nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày chúc mừng để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Đạo Nhuận tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776) ngày 29 tháng 07.
Kiểm hiệu đạo tràng Quán Âm ở đài Linh Ứng, Sa-môn Đạo Nhuận kính biểu.
Thần Lý Hiến Thành nói: vô cùng lo sợ! Tội chết! Tội chết! Cúi mong Bệ hạ dùng đạo Hiếu để cai trị thiên hạ, núi ngòi do đó mà ban tốt lành, tin đến cả loài côn trùng, loài lông vảy vộng mà hiện bày điềm tốt. Nay thấy trong kinh Phật ghi rõ; chim Bồ câu sợ chim ưng bay đến bên cạnh ngài Xá-lợiphất, lo sợ vẫn còn, đến bên Đức Phật, lòng sợ hãi đều hết. Người ấy cùng với cốt xương đều đã mục rã, chỉ lông chim bồ câu nay vẫn còn, thể chất nhẹ nhàng, màu xanh biếc, bỏ vào lửa không cháy, gặp gió liền tung bay. Thần Hiến Thành từ lâu hầu cận nơi hiên thiềm, đích thân tự thấy thử đốt lông không cháy, biết rằng Phật Pháp chưa suy vi. Từ đời nhà Chu truyền đến nhà Đường, rõ ràng qua các triều đại lâu xa, chỉ chó ngựa so để hiến cầu, tình của chim muông, sẽ đến hiến dâng, sự tuy thật nhỏ, song không dám chẳng cúng dâng. Thần Lý Hiến Thành tôi vô cùng lo sợ tội chết! Tội chết! Kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày 01 tháng
01.
Nguyên tùng triều Tán Đại phu hành nội thị giả, nội yết thị giả, Giám Đồng chánh viên thượng Quế Quốc Tứ Ngư đại thần Lý Hiến Thành kính biểu.
Bảo ứng nguyên Thánh văn võ Hoàng Đế đáp rằng:
Ông nhờ gần gũi, che chở Phật giáo, từ lâu tỉnh tấn siêng năng, thật có nhiều kinh nghiệm rõ ràng. Với việc dâng cúng lông chim Bồ Câu, rất đáng vui mừng vậy, đó là điều đáng tấu trình.
Biểu văn có hai mươi hai bài, Đáp chế có mười một bài, tổng cộng ba mươi ba bài.
1. Biểu dâng cúng kinh Diệu Pháp Liên Hoa bản chữ vàng, của giám sứ Lý Hiến Thành. (có phần trả lời)
2. Biểu chúc mừng dẹp yên Lý Linh Diệu.
3. Biểu xin độ tăng của Sa-môn Nguyên Hiệu.
4. Biểu tạ ân ban tặng phẩm vật cố tôn sư Tuệ Kiên.
5. Biểu tạ các bài ca; tự; tụng leo lên thang Dao. (có phần trả lời)
6. Bài tụng: Sa-môn Sùng Tuệ leo lên thang Dao. (có phần trả lời)
7. Biểu cảm tạ ban tặng y tía và chúc mừng. (có phần trả lời)
8. Biểu tấu trình việc ân ban quét dọn lau chùi tháp tượng các Chùa ở kinh thành đã xong. (có phần trả lời)
9. Biểu tấu trình việc tiến hành phụng tu một số công Đức ở trong và ngoài điện các Văn-thù tại chùa Đại Hưng Thiện. (có phần trả lời)
10. Biểu cảm tạ ân ban tặng gấm lụa v.v... tất cả bốn mươi xấp. (có phần trả lời)
11. Chế Văn của Hoàng Đế Túc Tông ân ban Sa-môn Tuệ Vu-Đệ tử Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không vào trong đạo tràng để niệm tụng.
12. Chế Văn ân chỉ bảo ban Sa-môn Tuệ Hiểu-Đệ tử Hòa-thượng Tam Tạng vì nước nhà niệm tụng.
13. Chế Văn của Hoàng Đế Đại Tông ân chỉ bảo ban chùa Tây Minh cung cấp cơm cháo cho người qua lại tạm trú, nương nhờ.
14. Biểu cảm tạ thánh ân và từ biệt để đến núi Ngũ Đài phụng tu công đức. (có phần trả lời)
15. Biểu cảm tạ ân ban bảo cùng Sa-môn Tuệ Lãng đồng phụng tu công đức. (có phần trả lời)
16. Biểu phụng dâng "Chân thúc ca bảo" nhân tết Nguyên Đán. (có phần trả lời)
17. Ngày 13 tháng 08 ban tặng thủ chiếu (khi ấy đang ở tại chùa Kim Các, núi Ngũ Đài).
18. Biểu trình bày việc đến núi Ngũ Đài phụng tu pháp Hộ-ma công đức. (có phần trả lời)
19. Chế Văn ban sắc Sa-môn pháp cao đô Duyna ở chùa Đại Hưng Thiện y cứ như trước mà đảm đương công việc.
20. Biểu tạ ân ban lệnh Sa-môn Pháp sư Hữu Tắc khai giảng kinh pháp tại chùa Đại Hưng Thiện. (có phần trả lời)
21. Biểu cảm tạ Chế Văn bổ nhiệm Sa-môn Tuệ Lãng cho làm chức thượng tọa ở chùa Đại Hưng Thiện. (có phần trả lời)
22. Văn bia Hòa-thượng Tam Tạng tại Bổn viện. (Văn Nghiêm Trình)
*****
Giám thần Lý Hiến Thành nói: Con có được việc tốt lành nào thì dâng lên cha. Kẻ bề tôi có được việc tốt lành nào thì dâng lên vua. Nhưng kinh Diệu Pháp Liên Hoa bản chữ vàng, non Linh Thứu giảng bày truyền bá chân kinh, chốn cung rồng chép diệu thú hướng Liên Hoa. Vì vậy, pho quyển làm bằng chất trân kỳ, chữ chép thuộc loại chất vàng, hùng thế hiển lộ rõ ràng, sáng ngời như muôn sao soi chiếu. Mở quyển thọ trì tợ trăm hoa đua nở giữa cây mùa xuân, lật văn giảng nói giống đàn chim hồng vỗ cánh trên biển xanh. Lọc sạch năm thứ vẩn đục, trang nghiêm sáu căn, kính cẩn từ sáng sớm, quỳ mà kính dâng, để bày tỏ điềm tốt lành. Mong được tuổi thọ bằng Như Lai, kéo dài thời kỳ xưng thạnh của bệ hạ, không dám như loài chó ngựa khẩn khoản đến cùng, kính cẩn dâng lên để bệ hạ xét biết, Giám thần Lý Hiến Thành tôi vô cùng lo sợ, cúi đầu kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày mồng 01 tháng giêng. Nguyên tùng triều tán đại phu Quế Quốc Lý Hiến Thành kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Ông nhờ gần gũi, xem xét phụng tu công đức, đáp mừng mới mẻ, có thể thấu đến kinh mầu, mở quyển sán lạn, rất đáng khen chuộng vậy. Ấy là điều đáng cúng dâng.
Thần Triệu Thiên nói: Kính nghe: Hoạt hào tiết độ sứ miễn v.v..., kính thừa mưu sáng, thuận hành trời phạt, Lý Linh Diệu bắt kẻ tù, Điền Hoãn bại vong, quét sạch bụi khói của Hà Hữu, thâu lấy châu huyện của Đại lương. Cứu muôn dân khỏi khổ lầm than, rao lòng từ trắc ẩn của Đại Vương. Muôn nước đều hân hoan, triệu dân đều ca tụng, phô bày linh ban của tông miếu, chiếu rọi oai thần của thánh chúa. Mọi rợ bé bỏng của thần tôi may gặp đời Thánh, nghe vậy rất mừng, hớn hở không gì bằng. Kính nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày chúc mừng để bệ hạ xét biết. Thần Triều Thiên tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776) ngày 29 tháng 10.
Tiền tả lãnh quân vệ Binh Tào Hàn Lâm đãi chiếu Thần Triệu Thiên kính biểu.
Sa-môn Nguyên Hiệu trong mọi hành động. Cúi mong Bệ hạ muôn phước, Nguyên Hiệu sống ở Phước Châu, riêng loại phẩm hèn, lớn lên gặp nhiều may mắn, theo hầu xe loan. Từ khi Linh Võ trở lại kinh thành, gặp nhờ rõ việc Phật, bẩm thọ di huấn của tiên sư, hứa vì nước quên mình, hổ thẹn không mảy may công khó, đã đến tuổi mọi sự theo ý muốn (tuổi 60), thân mang bệnh tật, không người cấp dưỡng, ngưỡng nhớ Thánh từ ban ân thương xót. Có cháu hiếu thường sớm nhờ ơn trời, sai bày sùng ban, thật không lao nhọc báo đáp nước nhà, chí muốn xuất gia. Nguyên Hiệu tôi biết thật nghiệp đó, khắp không bỏ người thân, tuy sống tại gia, thường siêng tụ tập. Cúi mong Thánh ân ban cùng, riêng xin báo đáp, mong dốc thân tàn, vẫn mong đáp lời, không dám khẩn khoản lo sợ đến cùng. Nay nhân ngày giáng đản, kính cẩn nhờ trung sứ Ngụy Hành Lâm bày tỏ cầu xin để bệ hạ xét biết. Nếu Ân trời cho phép, xin giao phó cho sở ti, kính cụ cước sắc như sau. Sa-môn Nguyên Hiệu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày mồng 09 tháng 10.
Chùa Bảo Thọ-Đạo tràng niệm tụng trước điện Trường Sinh, Tự chủ Sa-môn Nguyên Hiệu kính biểu.
Sa-môn Thường Thanh v.v... nói: Kính vâng Trung sứ Mỹ Đình Hoàn tuyên cáo thánh ân ban tặng cố Sa-môn Tuệ Kiên hai mươi xấp lụa, quỳ bưng mà bàng hoàng hổ thẹn, vừa thương vừa sợ. Sa-môn Thường Thanh v.v..., chúng tôi rất lo, rất sợ, đều thọ nghiệp ở Tôn sư Tuệ Kiên với nhiều năm tháng. Đạo không tinh cần khổ nhọc, trên mời tiên sư. Cúi mong Thánh từ nhớ nghĩ đặc tặng, thân làm phẩm cuối. Kẻ tăng bé nhỏ chúng tôi buồn thương không kềm chế được, kính cẩn dâng biểu bày tỏ cảm tạ để Bệ hạ xét biết. Sa-môn Thường Thanh v.v... chúng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 07 (772) ngày mồng 12 tháng 06.
Sa-môn Thường Thanh v.v... đệ tử cố Sa-môn Tuệ Kiên thường niệm tụng trong đạo tràng kính Biểu.
Thời Đại Đường, niên hiệu Đại Lịch thứ 03 (768) nhằm ngày 28 tháng 10 năm Mậu Thân, kính vâng chỉ dụ thiết lập đạo tràng ở chùa Chương Kính, bấy giờ có Sa-môn Sùng Tuệ ở Giang Đông, leo thang Dao, lên cây kiếm, lội vạc dầu sôi, ngồi giường chùy kiếm, ngày ấy trăm cung tinh trì, muôn người nhóm họp, không ai chẳng kinh hồn ca ngợi là việc chưa từng có, thảy đều cúi đầu đứng một chân mà ca ngợi rằng:
Trăm thước giữa không nương tầng kiếm. Ngàn núi yên đứng tiếp trời mây.
Rầm rị sương bày, chim nói đạo. Suối Rồng vàng vàng sinh cầu vòng. Dao làm cây mọc, kiếm núi cheo leo. La-hán Phi tích dạo trong đó.
Mỗi bước mỗi lên, tay vin mao vũ. Bắc Đẩu xán lạn, soi chiếu sáng ngời.
Cang tương kiếm nhận lìa đôi, vạch ngọc chiếu sáng. Người đạp chân lên không nguy hiểm.
Kiếm Mạc-Da; Dao gươm bén nhọn, có thể thổi bay. Như nay đạp lấy, chẳng nhọc phiền.
Trắng như tuyết, trong như băng. Mai rùa vảy cá mấy trăm tầng.
Bốn bộ trông nhìn cùng nhau tranh cạnh.
Muôn nhận đầu non thấy một tăng. Sắt mới văn sinh màu rắn.
Tốt tươi cao ngất lạnh hiểm nguy. Chẳng hề thương tổn khó suy lường. Mới là sức Từ-bi, giải thoát.
Từ xưa võ thần ưa kiếm thuật. Múa đó, quẳng đó đều chẳng mất. Trông kìa gan dạ, thân run sợ.
Ai bảo múa giáo dời mặt Nhật?
Lý Quảng xưa truyền trăm chiến công. Sao bằng nay được thấy thần thông.
Y tía choàng ngang, bay giữa trời.
Vào ra ngang dọc, đạp trên bạch nhẫn. Phỉ thúy sáng ngời ngời.
Tinh Quang hòa năng lợi.
(có phần trả lời)
Từ đời nhà Hán, vua Minh Đế nằm mộng thấy ngài Ca-diếp Ma-đằng và Trúc pháp lan, thiết lập giềng mối ở Lạc Dương, Chúa Tần hoài nghi ngài La-thập, hiển bày gương Phật ở trong bình, phó dịch từ trách, Pháp lâm soạn văn biện chánh, Sùng Tuệ phá tà hiển bày thần dụng ở chùa Chương Kính, sự tướng gầy dựng cây cao trăm thước, trên có hai tầng, nhận báu bao phủ, linh vàng bốn lớp, lò lửa bốn đường. Ao mọc hoa sen, tòa sắt nhọn độc, đều bày bố lan thuẫn ở trong. Ngày đó mặt Nhật thêm sáng, gió bụi chẳng nổi, sương ngưng tựu tán, khí trời ôn hòa. Đến lúc ban sắc Pháp y, đích thân thần sứ trông thấy, Quốc sư tể phụ, văn võ hùng ban, các nước láng giềng giúp hài hòa, bạn pháp rồng voi, mũ vàng cờ đỏ, các loại đua nhau cùng đến nghe Pháp, dân chúng đầy đường, chen chân chiêm ngưỡng. Tiếng Phật vang vọng khắp mười phương, các lò hương báu như mây như lọng, khi ấy tay vịn cây lá hình kiếm, chân đạp rừng dao, lửa dữ khói xông, bước đi qua lại trong đó. Giữa ao trải đồ nằm, như hoa sen vọt nở, các độc tán nhọn, đều đi quanh lấy ăn, nghi dung tăng mạo chẳng sai sót, rửa tắm súc nhổ tán tiêu, đại chúng điều khâm phục ngợi khen là việc chưa từng có. Kẻ bề tôi đích thân thấy rõ việc lớn ấy, mừng vui chẳng kềm chế được, đồng gội trong mây lành, lại thấm đượm ân tốt quý. Lửa dữ bốc cao chiếu soi núi tối tăm. Mở toang dòng vẩn đục, đồng chảy về biển pháp, tụng rằng:
Lớn thay Chánh giác!
Thần lực khó nghĩ.
Mộng cảm Minh Đế
Bay trong ánh sáng.
Bọn tà bỏ chấp
Cúi đầu quy y.
Điện Tần, gương báu
Bình hiện dứt nghi.
Phó Dịch từ trách
"Biện chánh" dẹp liền.
Sa-môn Sùng Tuệ
Dừng quấy dứt lỗi.
Nước, lửa, nhận, độc
Đối nghiệm hiếm lạ!
Lành thay! Việc lớn một thời.
Tương lai ngàn năm chẳng đổi dời.
Sa-môn Sùng Tuệ nói: Hôm qua vâng phụng Quán Quân Dung sứ tuyên cáo tiến chỉ, bảo đến chùa Chương Kính leo lên cây lá kiếm, nhảy qua hầm lửa. Cúi vâng trung sứ Củng Đình Ngọc tuyên cáo tiến chỉ, ban tặng y tía. Sùng Tuệ tôi nghe: Có ước nguyện mà không bị phụ phàng, ấy là lòng từ nhanh chóng của Quán Âm, khắc niệm liền tương ứng, đó là do năng lực Đại hùng của Phật. Vì vậy, vào lửa không bị thiêu đốt, ước muốn mong cầu chắc chắn có hiệu nghiệm, đạp dao không bị cắt thịt vốn đã rõ ràng. Há chẳng là Đức Đại Thánh gia trì oai lực, ân trời trùm khắp, bèn khiến quán thân pháp giới, chịu lửa dữ mà chẳng tổn thương, giở chân đã đến đạo tràng, lướt qua sương gió, gươm dao mà chẳng ướt. Thật mong yêu khí dứt hẳn, biển nghiệp trong hoài. Huống gì kẻ tăng người tục đều vui, trời người đều trông thấy. Ấy chính là do sự chí thành của bệ hạ mà cảm nêu, đâu phải chí khí kẻ tăng bé nhỏ này tạo nên, chịu gội ân riêng, không dám mừng vui, kính cẩn dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Sùng Tuệ tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 03 (766), ngày 23 tháng
10. Sa-môn Sùng Tuệ chùa An Quốc kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế đáp:
Sư (Sùng Tuệ) riêng tu phạm hạnh, từ xưa khế hợp chân thừa, lòng thành cảm thông, được Phật che chở, gởi thân trên lửa dữ, đạp chân trên đầu mũi nhọn, vẫn thản nhiên kinh hành như trên giường chiếu. Đô thành đều thấy, bốn bộ quy y. Điều ban tặng chẳng gì tốt quý, sao nhọc phiền cảm tạ.
(có phần trả lời)
Sa-môn Tuệ Quả nói: Ngày 19 tháng 12 năm trước, kính vâng trung sứ Lý Hiến Thành vâng tuyên chỉ dụ bảo ban kẻ tăng bé nhỏ tôi tuần du các chùa khắp kinh thành, rưới quét điện đường, lau bụi tôn tượng, và khắp tăng ni, đồ chúng đốt hương niệm tụng, vì nước nhà phát nguyện, kính cầu phước đức che chở. Kể từ ngày 20 tháng 12 năm trước, khởi đầu tại chỗ thờ răng Phật ở chùa Trang Nghiêm đến ngày mồng 08 tháng này là hoàn tất. Một trăm mười hai ngôi chùa, như chùa Hưng Thiện v.v..., có điện, tháp, thờ răng Phật, kinh tạng, di tích linh ứng, chỗ thờ Xá-lợi v.v... cả thảy chín trăm năm mươi bảy cơ sở.
Kính vâng tuyên cáo Duệ Thành, phát huy tượng giáo, phất qua tảng đá trong kiếp số nhiều như cát bụi, ban áo trời ở sáu thù, rửa bụi thân vàng, ngàn cánh sáng trên tòa sen, tôn dung cũ soi sáng lại, kinh sách xưa mới mẻ liền. Đốt hương trong điện, rưới quét trong đình. Nương thanh tịnh mà phát nguyện, như linh ứng mà cảm thông. Ngày nay, bốn biển sóng lặng, ba cõi cuốn mù, giặc bụi chẳng nổi, mặt trời mới mọc xua tan bóng tối. Kẻ tăng bé nhỏ tôi lại kính cẩn căn cứ kinh tạp Bảo Tạng v.v... thấy nói rằng: "Nếu quét sạch đất một cõi Diêm-phù-đề, chẳng bằng quét tháp Phật chừng khoảng bàn tay, thường làm vua chuyển luân thánh vương". Vì vậy, đó đều là do bệ hạ khéo lo nghĩ tinh vi, tín tâm mở rộng, làm sạch cõi tịnh, mở rộng cửa "không", giúp Phật giáo đồ lan rộng đến muôn đất nước. Phước như mây nhóm, ứng tợ âm vang, cho nên được các thứ dịch lệ chẳng sinh, khí độc tự tan, hợp cùng ý niệm sâu xa. Nhanh như thế nên kẻ tăng bé bỏng tôi nhân đó mà thầy trò đặc biệt nhờ thánh đức thương nuôi, mượn ân giữ ngựa, giám sủng trong cung vinh mạng tự kính cẩn, nguy sợ thất thố, mảy may không hiệu nghiệm, sao dám đội ân! Khẩn thiết đến cùng, không thể kể xiết, kính cẩn nhờ trung sứ Nguyên Ứng Kim dâng biểu để bệ hạ xét biết, Sa-môn Tuệ Quả tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777), ngày mồng 08 tháng giêng. Chùa Đại Hưng Thiện, kiểm hiệu hai đạo tràng Kiêm Tri viện sự Sa-môn Tuệ Quả kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê.
A-xà-lê Tuệ Quả hạnh mầu giữ gìn, thường tu khiết tịnh, vì vậy trẫm bảo ban tuần du khắp tịnh giới, dùng làm nhân tốt, chùa vâng tặng thêm thanh tịnh, bút ngọc bày sáng soi, rất mực chí thành, thật đáng mừng vậy. Ấy là điều đáng trình tấu.
(có phần trả lời)
Trong điện các Văn-thù Trấn Quốc của chùa
Đại Hưng Thiện, kính vâng chỉ dụ họa vẽ sáu chữ "Đại thánh Văn-thù-sư-lợi" và một tôn tượng Bồtát chín thân, phía ngoài điện các trên tường vách họa bức đồ Văn-thù đại hội thánh tộc Bồ-tát có một trăm lẻ bốn thân, nay đã hoàn thành mỹ mãn.
Sa-môn Tuệ Thắng nói: cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế bệ hạ mở mang sự nghiệp của Bồ-tát Văn-thù, thực hành hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, làm lợi ích cho chúng sinh, gieo nhân tốt đẹp ấy, hẳn hiển bày quả Đức chân nghi, ứng hiện tướng thật của sắc thân. Nay, bảy tai tiêu diệt, muôn phước trang nghiêm. Nếu không gặp được thánh từ, biết do đâu mà thấy được nhà son đèn sáng như nhìn thấy cung mặt trời, ngọc hào đêm đêm chiếu sáng như mở điện mặt trăng. Khiến những người vui vẻ vâng theo, ấy là nhờ uy lực của đế vương, những kẻ quay về mà hướng đến phát tâm Bồ-đề, làm cho vô số chủng loại hữu tình đều nương nhờ ân tuệ của Phật, và hàng xuất gia thích tử riêng tắm gội sóng ân của bệ hạ. Đâu chỉ thọ trì đọc tùng kinh sám mà có thể kính vâng báo đáp được ư? Chỉ mong nhờ pháp lực của Bồ-tát Vănthù-sư-lợi mới đáp được ân lớn. Với các bức đồ họa vẽ ruộng Phước Đại thánh, nay nhân thời giáng đản, kính cẩn trình bày cùng Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tấu trình để bệ hạ xét biết. Samôn Tuệ Thắng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày mồng 08 tháng 10.
Kiểm hiệu hai đại tràng kiêm Tri viện sự, Sa-môn Tuệ Thắng kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Sa-môn Tuệ Thắng xưa vốn siêng tu phạm hạnh, giới luật tinh nghiêm. Từ lâu ở trong đạo tràng, phụng tu công đức, khổ nhọc đã phô bày theo năm tháng, phước đức nhóm họp cho nước nhà, có vô lượng nhân tốt, đáng khen ngợi an ủy ở tại đạo tràng vậy.
(có phần trả lời)
Sa-môn Tuệ Thắng nói: Kính vâng Trung sứ Lý Hiến Thành tuyên cáo thánh chỉ đặc ân ban thưởng gấm lụa v.v... tất cả bốn mươi xấp, quỳ bưng hổ thẹn mang đội, mừng sợ không dám đảm đương. Cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế Bệ hạ là thân thệ nguyện của các Đức Phật, mật hạnh của Phổ Hiền, vì hóa độ rộng lớn, khuất đã thành tôn, riêng sư tăng bé nhỏ tôi thấm đượm ân đức. Nhưng pháp Phổ Hiền vốn là giáo điển của tôn sư truyền thừa, lại là đạo lý mà Bệ hạ giao phó, nên kẻ tăng bé nhỏ tôi xa thì cảm mộ di huấn của tôn sư, ngưỡng mong ân sâu của thánh chúa, bắt chước việc người xưa hiến cầu, có được nhỏ giọt này, trên thấu đạt thánh tình, chẳng ngờ ân trời ban thưởng quá lắm, bèn đem các vật được ban thưởng dâng cúng nơi tháp ảnh tôn sư. Vì nước nhà mà tụng niệm, các hội đạo tràng, phát nguyện thành khẩn, mong chờ Phật lực mãi che chở hoàng gia, mang đội đến cùng không thể tính kể hết, kính cẩn nhờ trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Thắng tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778) ngày mồng 06 tháng 06.
Chùa Đại Hưng Thiện, kiểm hiệu hai đạo tràng kiêm tri viện sự Sa-môn Tuệ Thắng kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Bí tạng của các Đức Phật, tiên sư thọ trì truyền bá trời người. Thật là pháp yếu, trẫm ban thưởng chút ít phẩm vật để giúp việc tu hành. Ấy là điều đáng biết cảm tạ vậy.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Ngân Đài môn gia mời bốn vị Sa-môn Tuệ Vu, Cù Na, Tuệ Thắng, và Tuệ Nguyệt là đệ tử Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không vào trong đạo tràng, giúp phi long Mã Thư cùng Hòa-thượng Tam Tạng thiết lập đạo tràng niệm tụng.
Niên hiệu Chí Đức thứ 02 (757), ngày 16 tháng hai Phẩm Quan Yên Như Chương tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Sa-môn Tuệ Hiểu v. v.. Đệ tử Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không: Các vị ở trong thời giặc giã, đã vì trẫm mà khắc niệm tinh thành âm thầm siêng tu công đức. Nay đã khắc phục được người dân trong nước đều do năng lực Phật cảm ứng nên, từ nay về sau cần phải gia công tinh tấn vì trẫm mà niệm tụng bái sám, chớ vì độ thủ mà không tinh tấn.
Niên hiệu Chí Đức thứ 03 (758) ngày 18 tháng giêng. Tướng quân Đoàn Kiêu Phước tuyên cáo.
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Sa-môn Tuệ Hiểu chùa Tây Minh vì trẫm phụng tu công đức ở tại bổn tự thường luôn hai bữa cơm cháo cho những người vào ra qua lại nương nhờ tạm trú, tất cả đều cung cấp chớ để thiếu sót.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 06 (771) ngày 25 tháng 08. Cao Phẩm Mã Phụng Thành tuyên cáo.
Sa-môn Tuệ Hiểu nói: Ngày mồng 10 tháng này, kính vâng tiến chỉ bảo ban đến núi Ngũ Đài xem xét nhan sắc tôn tượng: Khế ẩn chùa Đại thánh kim các, cho đến tháng 09 thì tạm ngưng công việc, vào chốn cung đình, bảo ban tu công đức nhân ngày giáng đản của bệ hạ. Tuệ Hiểu tôi từ tuổi thiếu niên đã từ biệt gia đình, mến mộ đạo pháp, thừa thuận kính thờ tôn dung Hòa-thượng Tam Tạng Bất Không Đại Quảng Trí hơn ba mươi năm, năm bộ chân ngôn đích thân được chỉ dạy truyền đạo, gần gũi không rời. Được đối diện tôn nhan thánh thượng, thường các điện Hàm Huy, Diên Anh, Trường Sinh thường tu công đức. Có điều ân hận không thể tinh cẩn khẩn thiết, chưa bình trị được yêu nghiệt. Thánh từ lại quan tâm bảo ban đi xứ xa xăm, ban tặng ba mươi xấp lụa bạch, ngựa trạm cởi chở lương thực của công mượn gởi ở chùa. Kẻ tăng bé nhỏ tôi sao may được ân đức quá sâu đượm, thật vô cùng mừng vui, mang đội đến cùng không thể kể xiết, tức lấy ngày nay bắt đầu ra đi, có thể nói rằng mang chở rong ruổi lưng ngựa ngóng trông lầu vàng mà chẳng xa, xuân qua thu lại, yết kiến cung son mà xa vời vợi! Không dám quyến luyến ân đức lo sợ đến cùng, kính cẩn nhờ giám sứ Phẩm quan Ngụy Minh Tú dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Hiểu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (777) ngày 19 tháng 03.
Núi Ngũ Đài, thần sứ phụng tu công đức, chùa Tây Minh, Sa-môn Huệ Hiểu kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Sa-môn Tuệ Hiểu nương tựa cửa Phật, mở mang Thánh giáo, nói tầm hữu tướng, sẽ đến Linh Sơn, trẫm ban tặng phẩm vật chẳng phải nhiều, sao nhọc lòng cảm tạ vậy.
Sa-môn Tuệ Hiểu nói: Trước đây, ngày 11 tháng 03, kính vâng tiến chỉ bảo ban đến núi Ngũ Đài phụng tu công đức. Đến ngày 19 tháng 07, sau khi thọ thai, cùng hơn bảy mươi vị như Trung sứ Lý Đồng Chi v.v..., sắp sửa hương đèn đến tuần lễ, lửa đem theo không giúp được đến nơi đài, khẩn trách tâm mình, biết nhờ đâu mà khởi thỉnh? Đến đảnh núi đồng tử Biện Tài, bỗng thấy trên tảng đá có đống tro nguội, bèn được chút lửa, cúi mong Bệ hạ trên cửu trùng xa giúp, lửa thánh pháp sinh từ tro tàn nguội lạnh. Bèn đốt hương khấn cầu, Bồ-tát muôn hình xuất hiện, chiếu soi rực rỡ, tướng tốt sáng suốt, ngưng nhiên khắp đầy hư không, đến tối vẫn chưa tan biến. Lại cùng giám sứ Ngụy Minh Tú đồng đến núi ấy, vì nước nhà mà cầu nguyện, kế đến phát nguyện, nhiếp thân Bồ-tát quang Viên Quang v.v... các tướng lần lượt, phô bày hiển hiện đến hai mươi bảy lần. Bệ hạ Thánh cảm ngầm vận, Bồ-tát bày rõ, tôn kính núi Ngũ Đài, điềm linh chẳng phải một. Kẻ tăng thấp kém tôi may đâu được trông thấy Thánh tích ấy! Cảm đội mừng vui đến cùng không thể kể xiết, ngày mồng mười tháng này, mong nhờ ân trời bảo ban thường cùng Samôn Tuệ Lãng đồng tu công đức, chiếu soi báo đáp, lại vào cửa vàng, điện báu tu trì, không dám lo lắng, kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Hiểu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778) ngày 17 tháng 11.
Thần sứ phụng tu công đức núi Ngũ Đài chùa Tây Minh, Sa-môn Tuệ Hiểu kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Sư Tuệ Hiểu siêng tu phạm hạnh, từ lâu trong lành, nghiệp rộng giới tròn, ý chí tinh tấn công phu đầy đủ, đều trai khiết, tạo phước lớn cho nước nhà.
Ấy là điều đáng cảm tạ vậy.
Sa-môn Tuệ Hiểu nói: Cúi dâng ân chỉ bảo ban đến núi Ngũ Đài xem xét phụng tu công đức, vì nước nhà mà cầu phước. Đến Nam Đài, ở phía Nam có núi, trước đây từng có các phạm tăng từng đến lễ bái, nói ở núi ấy có "Báu chân thúc ca". Với những người có lòng tham đến đó đều có gió dữ sấm sét. Tuệ Hiểu tôi đốt hương khấn nguyện leo lên núi ấy, có hang đá nhỏ vuông khoảng mấy thước, có dòng nước mầu đỏ, tại đó, thâu lượm được vật báu độ ba mươi tấm, màu sắc như hổ phách, Tuệ Hiểu tôi nghe: "Minh chúa có cảm ứng, đất không chứa vật trân quý, cúi mong Bệ hạ chở che như trời đất, soi sáng như mặt trời mặt trăng, huống hồ dựng cao gác vàng dưới núi, tạo dựng ngọc hoa nơi núi hiểm, kẻ tăng bé nhỏ tôi được thượng hoàng bảo ban đi đến chốn danh sơn ấy, đốt hương chí thành khải thỉnh. Chẳng có sấm sét mưa gió, nên thu nhặt được các vật báu đó. Lại y kinh Bát Niết-bàn nói rằng: "Chân dẫm lên một mảnh đá ở núi Ngũ Đài, từ đó về sau bảy kiếp chẳng đọa vào đường ác". Huống chi vật báu hiếm lạ, nay muôn vật đổi mới, lúc cửu trùng nạp phước vận may kính cẩn nhờ Trung sứ Lý Hiến Thành tùy biểu kính dâng để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Hiểu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778) ngày mồng 01 tháng giêng.
Thần sứ phụng tu công đức ở núi Ngũ Đài, chùa Tây Minh, Sa-môn Tuệ Hiểu kính dâng.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Sa-môn Tuệ Hiểu hỏi đạo ở Linh Sơn, tinh tấn tu hành chánh giác, đá lạ quý báu đem đến hiến dâng, để nói lên sự thành kính tinh cần. Ấy là điều biết hiến dâng vậy.
Ban sắc Xà-lê Tuệ Hiểu, bảo ban Trung sứ Dương Thiện Đức đến đó đảm đương vâng tu công đức. Sư kính cẩn siêng năng thiền tụng, vốn mừng vui của nước nhà vậy, thời mát mẻ sư khiến bình yên tốt đẹp, để lại thư chỉ chẳng nhiều vậy.... Ngày 13.
(có phần trả lời)
Sa-môn Tuệ Hiểu nói: Ngày mồng 10 tháng 04 năm nay, trung sứ Ngụy Minh Tú vâng tuyên tiến chỉ bảo ban kẻ tăng bé nhỏ tôi đến chùa Đại thánh Kim các Bảo Ứng Trấn Quốc ở núi Ngũ Đài vâng tu Hộ-ma công đức. Tuệ Hiểu tôi kính cẩn ngu thành tinh đạt thánh ý, vâng tu công đức trên, trình bày túc nguyện của Đại thánh Văn-thù, khởi cáo minh lực của tiên sư. Nương nhờ việc ít có, ảnh hưởng ứng tượng, bên được sắc lửa sáng tươi, hơi khói chẳng xông, khác lạ ngày thường, thật là phô bày thời buổi thanh bình, là hiển hiện sự yên lặng nơi Hoa Hạ, là hiệu nghiệm của chấm dứt giặc giã binh đao. Đó đều do Bệ hạ chỉ đạo vận ngầm, hợp với đức Trời ở trên cao, khiến muôn loài hưởng phước, trăm họ vui lòng. Yêu tà dứt hẳn, mừng vui ngày một nhóm họp. Tuệ Hiểu tôi hổ thẹn xen lạm đứng vào hàng tăng, kính vâng minh giáo, sợ nhục thánh chỉ, hạnh phúc tốt lành. Không dám hớn hở mừng vui đến cùng, kính cẩn nhờ Trung sứ Ngụy Minh Tú dâng biểu để bệ hạ xét biết. Sa-môn Tuệ Hiểu tôi vô cùng lo sợ kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778) ngày 18 tháng 12. Sa-môn Tuệ Hiểu chùa Tây Minh kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Đức Đại Thánh Văn-thù che chở Linh sơn. Tâm Sa-môn Tuệ Hiểu chí thánh nên thần ban chiêu cảm, tâm chí thành chắc chắn có ứng nghiệm, thật đáng mừng khen. Ấy là điều đáng chúc mừng vậy.
(có sứ điệp)
Kính vâng chỉ dụ nói cùng Lý Nguyên Tông: Sa-môn Pháp Cao đô Duy-na ở chùa Đại Hưng Thiện nên ban lệnh tức y cứ như trước đảm đương công việc của Duy-na.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 17 tháng 04. Cao phẩm Lý Hiến Thành tuyên cáo:
Chỉ dụ ban sắc sứ điệp; Sa-môn Pháp Cao đô Duy-na ở chùa Đại Hưng Thiện đảm đương các chùa ở kinh thành coi sóc việc vâng tu công đức.
Điệp Văn được cử xưng, kính vâng chỉ dụ như chưa có các chỗ lý do thi hành của các điệp văn, phân phát ghi lục ban sắc điệp văn cho Sa-môn Pháp Cao.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), ngày 17 tháng 04.
Sứ khai phủ nghi đồng tam tư kiêm Hữu lang võ quân tướng Lý Nguyên Tông.
(có phần trả lời)
Sa-môn Pháp Cao v.v... nói: Ngày mồng 04 tháng nay, kính vâng chỉ dụ bảo ban Pháp sư Hữu Tắc chùa Chương Kính đến tại bản tự (= chùa Đại Hưng Thiện) khai giảng kinh Kim Quang Minh. Sương móc tại tôn nhan, ty luân lóa mắt, Phật sự bắt đầu, pháp âm thử tuyên cáo, mảy trần đâu nương tựa, quanh quẩn không đựng chứa. Cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế, nhân vương ngự gởi, mật hạnh trì pháp, nhớ lời đông lưu, ấy là để ngoảnh về phương Nam vậy. Vả lại, chùa Đại Hưng Thiện có từ đời nhà Tùy, dựng lập đã gần hai trăm năm. Tuy danh tăng trụ trì thì đời đời chẳng thiếu, nhưng ân ban tuyên xướng pháp âm thì chưa được nghe. Ngày nay, chiếu chỉ từ trời ban xuống, người từ đất vọt lên, kinh văn tuy cũ, nhưng sớ giải thì mới mẻ, bảo ban tăng ni phải nhanh chóng, cầu sĩ nữ mà nai hiền đến, đều là năng lực nhiệm mầu của các Đức Phật là duyên tốt lành của kinh ấy, sướng thích tâm ngoại hộ của Bệ hạ, thành vận may của khó gặp chư tăng v.v..., hẳn mong thánh thượng ban giúp, bày việc mở mang cảnh quan nước nhà, đến năm lúa thóc ở thăng bình, nạp hàm sinh ở thọ vức, mừng vui hớn hở đến cùng không thể kềm chế, kính cẩn dâng biểu tỏ bày cảm tạ để bệ hạ xét biết, Sa-môn Pháp Cao v.v... chúng tôi vô cùng vui mừng kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày 19 tháng 04.
Chùa Đại Hưng Thiện đô Duy Na, Sa-môn Pháp Cao v.v... kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Pháp sư Hữu Tắc, tinh tấn tu hành hạnh mầu, mở cửa phương tiện, giảng nói pháp nghĩa Đại thừa, tuyên dương thánh giáo để mở rộng nhân tốt, kế un đúc sự trung thành của bậc hiền, mở rộng ý chí sâu nhiệm, giúp cho các loài hàm linh đều đượm nhuần phước lớn. Ấy là điều đáng cảm tạ vậy.
(có phần trả lời)
Sa-môn Pháp Cao v.v... nói: Ngày 14 tháng nay, kính vâng chỉ dụ bổ nhiệm Đại Đức Tuệ Lãng giữ chức Thượng tọa ở Đại Tự (= chùa Đại Hưng Thiện). Ánh sáng trời soi chiếu, oai xét tại tôn nhan, cửa dân có người, tượng pháp sẽ lâu dài vậy, Pháp Cao v.v... chúng tôi nghe: ước nguyện của người, trời chắc chắn sẽ thuận theo, đạo nếu còn, vua thật có năng lực, cúi mong Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế bệ hạ xoay chuyển bánh xe vàng, tiếp thừa đèn ngọc, mở rộng ngoại hộ bằng thánh tâm, ban ân từ với vô duyên. Người từ nơi cung cấm, nhớ nghĩ tụng niệm mà không ngại, chùa gần đường cái, nhờ trụ trì nên không tán cử, hớn hở đến cùng không thể kềm chế, kính cẩn nhờ nội công đức sứ Lý Hiến Thành dâng biểu bày tỏ cảm tạ để bệ hạ xét biết. Sa-môn Pháp Cao v.v... chúng tôi vô cùng mừng vui kính dâng.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), ngày 15 tháng 04.
Chùa Đại Hưng Thiện đô Duy-na, Sa-môn Pháp Cao v.v... kính biểu.
Bảo ứng nguyên thánh văn võ Hoàng đế phê:
Các vị Sa-môn v.v... tinh cần thanh khiết, phạm hạnh chu toàn, thích ứng thiền tụng, chi-đề nhóm họp, phải chọn lựa kỷ cương, Sa-môn Tuệ Lãng v.v... cung kính siêng năng, đủ để lựa chọn, đảm nhiệm mọi việc ở chùa. Đó, đáng gọi là chọn được người vậy. Đó là điều đáng biết cảm tạ vậy.
Bia đề biển ngạch của Hòa-thượng Quốc sư Tam Tạng Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không ở chùa Đại Hưng Thiện thời Đại Đường.
- Bia minh cố Đại Đức Hòa-thượng Tam Tạng Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không ở chùa Đại Hưng Thiện thời Đại Đường.
- Ngân thanh Quang Lộc Đại phu Ngự Sử Đại Phu Thượng Quế Quốc Phùng Lãng huyện Khai Quốc Công Nghiêm Dĩnh soạn thuật.
- Ngân thanh Quang Lộc Đại phu Bành Vương Truyền Thượng Quế Quốc Cối Kê Quận Khai Quốc Công Từ Hoạt ghi chép.
Hòa-thượng húy Bất Không, vốn người xứ Tây Vực, giòng họ Không nghe ở Trung Hoa nên không ghi chép.
Vua Huyền Tông soi xét biết được chí đạo nên rất tôn trọng kính ngưỡng, trải qua vua Túc Tông, Đại Tông cả ba triều đại đều làm Quốc sư Quán Đảnh. Dùng huyền nói đức lành, mở danh chí tôn. Đầu thời vua Đại Tông, dùng chức Đặc Tiến Hồng lô khanh để khen thưởng, mãi đến lúc thị hiện bị bệnh không ngồi dậy, nhà vua lại đến bên giường ban thêm chức "Khai phủ nghi đồng tam tý túc Quốc Công", nhưng đều từ chối không nhận. Đặc tặng pháp hiệu "Đại Quảng Trí Tam Tạng". Tháng 06 (Quý Mùi), mùa hạ niên hiệu Đại Lịch thứ 09 (774), Sư thị tịch tại chùa Đại Hưng Thiện ở kinh đô, vua Đại Tông vì vậy, bãi triều ba ngày, ban tặng tước hiệu "Tư không", truy phong hiệu "Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng Hòa-thượng". Đến lúc thiêu nhục thân, ban chiếu bảo lưu lại trong cung để yết kiến, thiết trai tiến chúc tổ phụ, phụng thờ kính ngưỡng như lúc hiện còn, khéo hỏi sâu sắc, mừng tiến lưu phương, lễ bái quần luân, ngợi khen không gì bằng. Cũng năm đó, đến tháng 09, ban chiếu dựng tháp xá-lợi tại bổn tự; nơi ngài an trú để kính thờ xá-lợi.
Hòa-thượng tánh khí thông minh, thấu suốt muôn pháp yếu chỉ của các Đức Phật, một mình đứng giữa chúng xuất gia, cao vợi rung động không ai bằng, kê cứu hiến đạt tự nghĩa chân ngôn, dấu vết lên đàn Quán Đảnh thì thời gian thành Phật rất mau, ứng thanh chứa phước nhiệm mầu, trời xa mà cao, đất rộng mà dày. Nên chẳng thể chưa học mà rõ biết được. Thử đem khái quát để nhìn cả quy mô rộng lớn.
Xưa kia, ngài Kim Cương Tát-đỏa đích thân ở trước Đức Phật Tỳ-lô-giá-na thọ nhận yếu nghĩa du già tối thượng, sau đó khoảng vài trăm năm, truyền trao cho Bồ-tát Long Mãnh. Bồ-tát Long Mãnh lại trải qua vài trăm năm sau, truyền trao cho A-xà-lê Long Trí, Long Trí lại truyền cho A-xà-lê Kim Cang Trí, Kim Cang Trí đem đến phương đông, truyền trao cho Hòa-thượng. Hòa-thượng lại ngược dòng tìm đến Tây Trúc, trải qua các nước Sư Tử v.v... đến chỗ A-xà-lê Long Trí, xiển dương tìm tòi mười tám hội pháp. Pháp hóa tương thừa, từ Đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai cho đến đời Hòathượng gồm có sáu lớp. Mỗi lần trai giới lưu ở trung đạo, đón rước khí lành, đăng lễ đều đáp, phước ứng hiệu nhiên. Cây ấm không nói, chẳng thể ghi đủ, nơi ải cảng hiểm nguy ở Tây vực, voi điên hung dữ xúc phạm, Hòa-thượng nhìn nó bằng ánh mắt hiền lành, chẳng dùng chân đỡ đạp mà voi nằm chẳng dậy. Ở giữa biển Nam Hải, trời rầm rỉ nhiễu loạn, Hòa-thượng dùng định lực để đáp lại, chẳng mấy chốc mà biển lặng hết sóng.
Hòa-thượng lúc ra đời, từ mẫu có điềm lành ánh sáng chiếu rực, lúc thị tịch, nước hồ khô cạn khác thường, Hòa-thượng thọ bảy mươi tuổi, năm mươi tăng lạp. Từ bé thơ cho đến tuổi xế bóng, thường sửa soạn vật cúng, ngồi đạo tràng, tắm lan đốt hương, vào sâu tri kiến Phật, hớn năm mươi năm, sớm tối nóng lạnh, không hề có khoảnh khắc biểu hiện vẻ mỏi mệt biếng lười, hơn người quá xa là như thế đó.
Hàng hậu học lên giảng đường tụng trì, giảng nói, người đạt pháp chẳng phải một, nhưng Sa-môn Tuệ Lãng tiếp nhận dự ký kế thừa, thành đạt ý chỉ truyền đăng, tiếp nối làm sáng ngời Phật pháp. Tiếp theo đời thứ sáu làm đời thứ bảy, lớn thay đến thế vậy!
Đối với Hý Pháp tử hoài diệt hẳn lương mộc, sẽ ghi bản hạnh, nhờ tôi khắc lại. Xưa nương nhờ lời lẽ nhiệm mầu, nay nhìn trông bàn án gậy trượng. Dung nhan ngời sáng, đàn tràng thanh tịnh, toát ghi Chiếu Minh. Tiểu tử sao từ chối!
Minh rằng:
Than ôi Đại sĩ Có ba tông ta, Đạo làm thầy vua Phép đồng giới nghi, Xưa ở Quảng Thành Hiện sâu gió thuận Năm vượt ba ngàn Lại có Túc Công. Du già thượng thừa Chân ngữ mật khế, Sáu cánh trao nhận Truyền đăng tiếp nối Thuật lại điệp văn Sáng ngời có đệ.
Voi cuồng phục đất Nước dứt trời gầm, Tâm từ chế mộ
Sức tuệ dứt ngu. Vắng lặng cảm thông Ai so lường được!
Hai cột mộng điện Song thọ đổi mầu, Tư không sủng mất Biện chánh bày đức Sứ trời cúng Tổ Trang cung ẩn trắc, Chiếu xây tháp báu Ngay tại chùa xưa, Dưới chứa xá-lợi Trên xây dựng tháp. Dấu khác sinh diệt Pháp lìa có không Khắc đá làm kệ Truyền ở Đại Đô.
Niên hiệu Kiến Trung thứ 02 (781) tức ngày 15 (Kỷ Tỵ) tháng 11 (Ất Mão), năm tân dậu, kiến lập.
ĐẠI BIỆN CHÁNH QUẢNG TRÍ TAM TẠNG HÒA-THƯỢNG CHẾ BIỂU TẬP
QUYỂN 6 (HẾT)
Niên hiệu Đức trị thứ hai (Đinh mùi), tức ngày mồng 03 tháng 05, năm Đinh Mùi.
Ở chùa Thần Hộ, viện Thành thân, lấy theo Tế Hoàng Tăng Đô lưu giữ thư bản viết xong, du nhiên. (74) một giao xong.
Điểm bản v.v... lấy theo Đại Tạng kinh ở chùa Khuyến tu, Ngự bản xem xét xong, v.v...