TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỰ VỰNG

SỐ 2125 - NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN

Đời Đường, Tam Tạng Sa môn Nghĩa Tịnh soạn.

MỤC LỤC

SỐ 2125 - NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN

QUYỂN 1

1. Phá hạ chẳng nhỏ:

2. Nghi đối tôn:

3. Ngồi ăn giường nhỏ:

4. Bửa chia dơ sạch:

5. Ăn xong bỏ dơ:

6. Nước có hai bình:

7. Sáng sớm xem trùng:

8. Sáng tước cây xỉa răng:

9. Phép tắc thọ trai:

QUYỂN 2

10. Y thực là chỗ cần:

11. Cách thức mặc ý:

12. Chế áo Ni:

13. Cách kết tịnh địa:

14. Năm chúng an cư:

15. Tuỳ ý thành quy:

16. Muỗng đũa hợp chăng:

17. Biết thời mà lễ:

18. Việc tiện lợi:

QUYỂN 3

19. Phép tắc thọ giới:

20. Tuỳ thời tắm rửa:

21. Đồ ngồi lót thân:

22. Cách thức nằm nghỉ:

23. Kinh hành ít bệnh:

24. Lễ không giúp nhau:

25. Đạo thầy trò:

26. Khách xưa gặp nhau:

27. Nguồn bịnh tiên thể:

28. Cách thức dâng thuốc:

29. Trừ thuốc hư xấu:

30. Xoay đá quán thời:

QUYỂN 4

31. Tắm rửa Tôn nghi:

32. Lễ ca vịnh:

33. Tôn kỉnh trái cách thức:

34. Học pháp phương tây:

35. Tóc dài có không:

36. Của người chết, tăng hiện tiền:

37. Nhận dùng vật của Tăng:

38. Đốt thân không nên:

39. Bàng nhơn mắc tội:

40. Cổ đức không làm:

 


QUYỂN 1

Xưa nay bắt đầu dựng nên ba ngàn thế giới, nương bóng dáng khởi đầu mỗi dựng lập, trăm ức đã còn không có tựa vật hay người, thế giới đã trống rỗng thì mặt trời mặt trăng chưa xuất hiện, thẳm thương vắng lặng thì âm dương chớ bàn.

Đã ở Tịnh Thiên giáng xuống, ánh sáng ở thân tự theo, vì ăn vị đất ngon bèn sanh tham trước. rừng keo lúa thơm lần lượt ăn, ánh sáng nơi thân mất dần, mặt trời mặt trăng xuất hiện, mới khởi việc vợ chồng làm ruộng, mới lập đạo Vua tôi, cha con. nhưng mà nhìn lên trời xanh thì sắc diệu cao mà sáng sạch, nhìn xuống đất vàng bèn gió thổi nước dậy sóng mà thành kiết, mà nói rằng chia phân hai nghi, người sống ở giữa, cảm khí sạch dơ tự nhiên mà có. Đúc luyện âm dương dụ như dùng lò đốt đỏ luyện thành đồ vật, mới ở đó dính đất, cái gọi là riêng cho chiều uốn mà bàn là đây vậy.

Vì thế sao cao vòi vọi, hàm linh lan tràn, bèn khiến có chín mươi sáu món đạo sai khác, đồ phần có hai mươi lăm môn, tăng thì từ một mà sanh muôn vật, giảm thì nhờ sáu thú mà năm đường mới khởi. Hoặc bày thể nhổ tóc đem làm xuất yếu hoặc đốt thân nhổ tóc chấp là thăng thiên (lên trời), hoặc cho sanh là tự nhiên, hoặc nói chết sẽ là thức diệt, hoặc nói rằng u u minh minh mới biết tinh kia, mờ mờ mịt mịt quên hiểu chỗ ra, hoặc nói rằng thường sẽ làm người, hoặc nói chết liền làm linh hồn, hoặc bèn không biết bướm là mình, mình là bướm. Đã là bầy mê ở nơi ổ tò vò, lại nhóm hoặc ở ấu trùng, bươm bướm, so hổn độn nơi gà con mới mờ mịt như trẻ nít, đây đều là chưa rõ, do ái cho nên sanh nhờ nghiệp mà có, luân hồi biển khổ, qua lại bến mê.

Nhưng chính thân chỉ đường bằng, tuyên bày lý mầu, nói mười hai duyên khởi, được ba mươi sáu pháp trược, hiệu là Thiên Nhơn Sư (thầy người trời), xưng là Nhất Thiết Trí, dẫn bốn loài ra khỏi nhà lửa, dắt ba cõi vượt thành tối tăm, ra dòng phiền não, lên bờ Niết Bàn, đại sư Thích Ca Thế Tôn của ta khi mới thành chánh giác như rồng chín sông vượt qua khỏi trần, sau đem ánh sáng về vườn Lộc Uyển, sáu đường đầy đủ tâm quy y. (205) Ban đầu chuyển pháp luân thì năm người được sự giáo hóa, kế bàn đến giới thì ngàn đời cúi đầu. Vì vậy diễn Phạm Âm ở Vương Xá, người chứng quả cao nhất, báo đáp ân huệ của cha ở thành Ca Tỳ La, kẻ phát tâm không thể tính kể. Trước tiên tự dạy con, hội đầu nguyện để nêu răn dạy, sau ở Diệu, Hiền, Khế hội kết kỳ sau chót. Trụ đời tám mươi tuổi, rộng giúp chín cõi, giáo pháp khắp bày, các cơ đều dung nạp. Nếu thiếu làm bạn tục chỉ lược nói năm giới cấm. Cuộc hạn nêu pháp chúng, rộng bày nơi bảy thiên. Cho là nhà có người rất trái, giới khởi thì lỗi diệt, kẻ sống thì ít lỗi, luật hiển thì lỗi mất. Lại như nhuế tổn cành nhẹ, hiện sống cửa rồng. Lòng từ giúp mạng mỏng, Vua cha sanh lên cõi trời, quả báo thiện ác vốn đã rõ ràng.

Vì vậy kinh luận gồm bày, định huệ chung lập, nhiếp sanh nơi khuy chỉ ở ba tạng đây. Đã chính thân đối Đại Sư mà giáo chỉ một thuyết, tùy cơ giúp vật, lý mất người bàn, cho đến ban đầu từ tạ nhà cỏ, ma vương cảm chí vui mừng, sáng rỡ liền sau xướng lý không diệt hiển mất nghi, có thể gọi là hóa duyên đến đây đã hết, công việc đã xong. Bèn là dấu vết diệt hai sông, người trời vọng trông, bóng bày nơi Song Thọ, rồng quỷ xô dẹp tâm, đến đổi rừng Ta La nhỏ lệ thành bùn, người khóc toàn thân ửng máu đỏ như hoa. Đại Sư xướng thị tịch, thế giới trống rỗng.

Kế có hoằng pháp ứng người kết tập, có năm bảy sai khác. Trì luật bộ phận đại tướng là mười tám sai khác. Tùy chỗ thấy nghe, ba tạng đều riêng biệt, mặc quần dưới thì quần có ngay có lệch, mặc áo trên thì có lá hẹp rộng. Đồng ngủ bèn khác nhà, dây vòng quanh, cả hai đều không lỗi. Nhận ăn dùng tay cầm hay vẽ đất, cả hai đều không tội, đều có thầy dạy, sự không hòa nhã (Hữu bộ thì ngay, ba bộ khác đều lệch. Hữu Bộ thì cần phải riêng nhà. Chánh Lượng Bộ thì dùng giường dây. Hữu Bộ tay thỉnh. Tăng Kỳ thì vẽ đất). Lưu phái các Bộ sanh khởi không đồng, Tây Quốc nối nhau, đại cương chỉ có bốn (Một; A Ly Gia Mạt Ha Tăng Kỳ Ni Ca Gia, đời Đường nói là Chánh Đại Chúng Bộ chia ra làm bảy bộ, ba tạng đều có mười muôn bài tụng, đời Đường dịch có thể thành ngàn quyển. Hai; A Ly Gia Tất Tha Bộ Lãm Ni Ca Gia, đời Đường nói là Thánh Thượng Tọa Bộ chia làm ba bộ, ba tạng nhiều ít đồng trước. Ba; A Ly Gia Mộ Lãm Bộ Bà Tất Để Bà Tha Ni Ca Gia, đời Đường nói là Thánh Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, chia làm bốn bộ, ba tạng, nhiều ít đồng như trước. Bốn; A Ly Na Tam Mật Lật Để Ni Ca Gia, đời Đường dịch là Thánh Chánh Lượng Bộ, chia làm bốn bộ, ba tạng có ba mươi bài tụng. Nhưng mà bộ chấp chỗ truyền đều có đồng và khác, lại nương hiện sự nói mười tám kia, chia làm năm bộ, không nghe ở Tây Vức). Trong kia chia phần xuất hiển hay ẩn mất, bộ riêng danh tự, sự chẳng phải một mối, như các chỗ bàn. Đây không phiền thuật lại, cho nên địa của năm trời và các châu Nam Hải, đều nói rằng: Bốn món Ni Ca Gia nhưng kia chỗ có thiếu có đủ nhiều ít bao nhiêu Ma Yết Đà thì bốn bộ thông tập. Hữu bộ rất đầy. Tín Độ La Trà (Tây Ấn Độ là tên nước) thì thiếu gồm ba bộ. Nhẫn đến Chánh Lượng rất nhiều, phương Bắc đều toàn là Hữu Bộ, khi gặp Đại Chúng, mặt Nam thì đều tôn Thượng Tọa Bộ. Các bộ ít còn, các nước Đông Thương xen lưu hành bốn bộ. (Từ đây Chúc đà đông hành trăm năm đều gọi là Đông Thương, nhẫn đến trọn đời. Có núi đen lớn tính sẽ ở ngọn Phiên Nam, truyện nói rằng: "Đây là Tây Nam của Châu Thục, đi có thể hơn một tháng, lại gặp ngọn núi này. Kế mé Nam ngọn này rất gần bờ biển nam, có nước Thất Lợi Sát Chiếu La, kế mé Đông Nam có nước Lang Ca Mậu, kế mé Đông có nước Thổ Hòa Bát Để, kế mé Đông tột đến nước Lâm Ấp, thảy đều rất tôn trọng Tam Bảo, có rất nhiều người trì giới, khất thực đổ đa là quốc pháp của nước đó. Phương Nam thấy có vòng thật khác thường.

Châu Sư Tử đều là Thượng Tọa Bộ mà Đại Chúng thì ít, nhưng các châu Nam Hải có hơn mười nước thuần chỉ là Căn Bổn Hữu Bộ. Khi Chánh Lượng Bộ cong đi, gần đây đã có đến, có ít gồm hơn hai (Từ Tây biện đó, có châu Bà Lỗ Sư, châu Mạt La Du, tức nước Hộ Lợi Phật Thệ ngày nay, châu Mạt Ha Tín, châu Ha Lăng, châu Đán Đán, châu Bồn Bồn, châu Bà Lý, châu Khuất Luân, châu Phật Thệ Bổ La, châu A Thiện, châu Mạt Ca Man, lại có châu nhỏ không thể chép hết). Đây chính là tôn trọng Phật pháp, phần nhiều là tiểu thừa, chỉ Mạt La Du là có ít Đại Thừa.

Các nước vây quanh, hoặc trăm dặm hoặc có thể mấy trăm dặm, hoặc có thể trăm dịch. Biển lớn tuy khó tính dặm, Thương Bá Trung chuẩn biết, bởi vì Khuất Luân mới đến giao rộng bèn khiến gồm lại là nước Côn Lôn. Chỉ có Côn Lôn đây đầu cuộn thể đen, từ các nước khác cùng châu Thần không sai, gót đỏ dám bò gồm là thức kia, rộng như trong Nam Hải Lục thuật đủ. Châu Ly chánh nam bước đi có thể hơn nửa tháng, nếu đi thuyền cũng năm sáu ngày, liền đến Tỵ Cảnh, nam đến Điểm Ba, tức là Lâm Ấp, nước đây phần nhiều là Chánh Lượng, ít gồm Hữu Bộ, tây nam có một tháng đến nước Bạt Nam, xưa nói rằng Phù Nam, trước là nước Khoả, người phần nhiều thờ trời, sau Phật Pháp thịnh hành, ác vương sai diệt trừ, không còn tăng chúng, xen tạp chung ở với ngoại đạo, đây là gốc của Nam Thiện Bộ, chẳng phải Châu biển.

Nhưng đông hạ đại cương phần nhiều làm pháp ủng hộ, trong cửa các chỗ tăng kỳ xưa gồm. Núi Giang Nam, Hữu Bộ rất thịnh, mà nói là Thập Tụng Tứ Phần, phần nhiều là lấy kinh kia, hẹp dùng làm đề mục, rõ xem Luật nghi sai khác của bốn bộ, treo cao khinh trọng, khai chế soi chiếu người xuất gia đều nương bộ chấp, không nên lấy việc nhẹ của người thay thế điều nặng của mình. Tự mở văn thấy nghi các chế, nếu vậy thì nghĩa bộ khác không dính, chấp nhận lý ngăn đó chớ phân, đâu được cho một thân khắp đi cả bốn, dụ áo đỏ gậy vàng bèn nêu chứng diệt, không khác tín đồ hành pháp cần nương tự bộ (Vua Tần Tỳ Bà La mộng thấy chồng lụa là mười tám xấp, một cây gậy vàng cắt làm mười tám đoạn. Thức giấc sợ hải, đến hỏi Phật, Phật nói "Sau khi Ta nhập diệt hơn một trăm năm, có vua A Thâu Ca Oai thạnh cả Thiện Bộ, các Bí Sô bấy giờ chia giáo pháp làm mười tám, nhưng đến môn giải thoát là một mối. Đây là điềm ứng trước, vua chớ lo".

Trong bốn bộ kia, đại thừa tiểu thừa chia phân không nhất định, quận bắc trời nam biển thuần là tiểu thừa. Làng của huyện xích châu Thần, ý ở đại giáo, từ các chỗ khác đại tiểu xen thực hành xét đầu mối kia, thì Luật kiểm không khác, đều chế năm thiên, thông tu bốn đế, hoặc lễ Bồ Tát, đọc kinh đại thừa gọi đó là đại, không làm việc đây gọi là tiểu. Cái gọi là hai món không lỗi của đại thừa: Một là Trung Quán, hai là Du Già. Trung Quán thì tục có chơn không thể trống như huyễn. Du Già thì ngoài không trong có, sự đều chỉ là thức. Đây đều tôn trọng Thánh giáo, ai đúng ai sai, đồng khế Niết Bàn, nào chơn nào ngụy, ý ở đoạn trừ phiền não hoặc cứu giúp chúng sanh đâu muốn rộng bày ồn ào phân vân càng thêm kết nặng. Nương hành thì chung lên bờ kia, trái bỏ thì cùng chìm bến nọ. Nước tây cùng làm lý không chống trái. Đã không có mắt huệ ai xét đúng sai, mặc cho tập khí lâu đời mà tu đó, may mắn không nhọc nơi tự sức.

Vả lại châu Thần trì Luật, các bộ xen lôi kéo, mà nhà giảng nói biên soạn bên là sao chép phiền tạp, năm thiên bảy tụ đổi chỗ liền khó, mới lại phạm trì, hiển mà lại ẩn, bèn khiến che một sọt mà tình dứt, cho một tòa mà tâm lui. Bọn thượng lưu tóc xanh bèn thành, hạng trung hạ đầu bạc há xong, Luật vốn tự nhiên thưa thớt, đọc sớ bèn đến trọn đời, thầy trò nối nhau dùng làm thành phép tắc. Bàn chương đoạn thì khoa mà lại khoa, thuật kết tội thì câu mà lại câu, xét công kia vậy. Thật đến là nhọc núi, nghiệm lợi ích kia, bấy giờ có thấm nhuần hạt châu ở biển.

Lại kể là nhà chế tác, ý khiến người khác dể hiểu, đâu được cố làm mật ngữ mà làm giải sóng dụ cho nước, tràn đầy sông quyết vào giếng sâu. Có ăn uống hít thở là giúp mạng sống không lý do (206) Chuẩn nghiệm văn luật thì không như đây. Luận đoán khinh trọng chỉ dùng mấy hàng, nói tội phương tiện không phiền nửa ngày. Đây thì đại quy của pháp đồ Tây Phương Nam Hải. Đến như châu Thần lễ giáo thịnh hành, thờ kính vua cha, tôn nhường bậc trưởng lão, khiêm nhượng tùy thuận, nghĩa mà sau lấy, con hiếu tôi trung, giữ thân tiết độ.

Hoàng Thượng ân nuôi triệu dân, nhận trân bảo mà lo minh phát, quần thần thảy đều cung tay che kém bày chí ở thông tiếu, hoặc khi rộng mở ba thừa, khắp bày trăm tòa, xây tháp miếu nơi tám đầm. Có người hiểu biết, hoặc đều quy tâm, dựng già lam nơi chín cõi. Kẻ ở đường mê đều hồi hướng, hoàng hoàng, trong nông ca giữa đồng, tề tề là trên thượng vịnh ghe xe, bèn khiến nước kê quý tượng tôn, độn tráng đan trì làng vàng gần núi ngọc đầu thành ngọc bích, là không là sự vô sự, đây vốn không thêm. (Kê Quý phương tây gọi là nước Cao Lệ là Câu Câu Thát Linh Thuyết La. Câu Câu Thát là Kê, Linh Thuyết La là Quý, truyện phương tây nói rằng: "Nước kia kỉnh quý gà, thần mà thủ tôn, cho nên chở cánh mà trang sức. Nói tôn tượng, nước Tây ở vua dùng tượng làm cao tột. Ngũ Thiên đều đồng vậy.) Pháp lữ xuất gia kia giảng nói nghi phép đồ chúng nghiễm nhiên, tuân theo ý chí. Tự có người vào nới hang sâu, cưỡi giày vịn lồng, súc dòng núi để giả tưởng, ngồi rừng sâu mà tịnh tâm, sáu thời hành đạo có thể báo ân tịnh tín, hai kỳ nhập định gồm nhận tôn trọng của trời người. Đây là khéo phò kinh luật nào lại có lỗi.

Nhưng do lầm lẫn nhận truyền, phép tắc lần sai, chứa nhóm sanh thường có trái giềng mối, cẩn thận nương thánh giáo và hiện hành giáo pháp cốt yếu, gồm có bốn mươi chương chia làm bốn quyển gọi là Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện. Lại ở đời đại Đường, cao tăng Tây Vức lại truyền đến một quyển và tạp kinh Luận mười quyển, đều chép phụ quy, cúi xin các Đại Đức khởi tâm hoằng pháp không đoái hoài bỉ ngã (người và ta), khéo tính toán thuận Phật dạy mà làm, chớ có khinh người mà chẳng trọng pháp. Nhưng xưa nay chỗ truyền kinh Luận lý giáo khéo thông thiền môn định nghiệm đầu mối đây khó xa dặn.

Vả lại thô bày hành pháp, phù Luật tướng do trước bày, giúp nêu điều chương, xét tông sư nơi thật chép, dầu khiến mạng chìm cảnh tối, mong thành công của một bài. Sáng rỡ triều quang ngõ hầu có nối tiếp trăm đèn, vui đây thì không nhọc thước bộ, có thể đạp Ngũ Thiên mà lên thềm bậc, chưa luống uổng tấc thời gian, thật giương mê ngàn năm may mắn kiếm tìm ba tạng, trống biển pháp mà nổi nơi bốn sóng, sáng soi năm thiên thiếu ghe huệ mà nêu sáu tượng. Tuy lại chính thân vâng tuân ý chỉ, giúp nghiệm tôn mầu, nhưng chẳng phát xảo tâm trọn e nhận cười nhạo nơi huệ. Mục chép rằng:

1- Phá hạ chẳng nhỏ.

2- Nghi đối tôn

3- Ngồi ăn sàng nhỏ

4- Chia bửa nhỏ sạch

5- Ăn bỏ đồ dơ

6- Nước có hai bình

7- Sáng sớm xem trùng

8- Sáng tước cây xỉa răng

9- Nhận phép tắc thọ trai

10- Y thực chỗ cần

11- Cách thức đắp y

12- Chế áo Ni

13- Phép kết tịnh địa

14- Năm chúng an cư

15- Tùy ý thành quy tắc

16- Muỗng đũa hợp chăng

17- Biết thời mà lễ

18- Việc tiện lợi

19- Phép tắc thọ giới

20-Tắm rửa tùy thời

21- Đồ ngồi lót thân

22- Cách nằm nghỉ

23- Kinh hành ít bịnh

24- Bốn lễ không giúp nhau

25- Đạo hầu Thầy

26- Khách xưa gặp nhau

27- Trước thể nguồn bệnh

28- Cách dâng thuốc

29- Bỏ thuốc hư

30- Xoay đá xem thời

31- Nghi tắm tượng

32- Ca ngâm và lễ

33- Tôn kỉnh trái cách

34- Học pháp phương tây

35- Tóc dài có không

36- Mất tắc tăng hiện

37- Thọ dùng vật tăng

38- Đốt thân nên chăng

39- Bán người mắc tội

40- Cổ đức không làm

Luận đây đều nương căn bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, không thể đem việc bộ khác thấy lẫn lộn ở đây. Đây cũng Thập Tụng Đại Quy gần giống. Hữu bộ chia làm ba bộ sai khác: Một là Pháp Hộ, hai là Hóa Địa, ba là Ca Nhiếp Tỳ. Đây đều không làm Ngũ Thiên, chỉ có nước Ô Trường Na và Quy Tư Ưu Điền có xen làm. Nhưng Luật Thập Tụng cũng không phải cội gốc của Hữu bộ.

1. Phá hạ chẳng nhỏ:

Phàm phá hạ, Bí Sô chỉ không được mười lợi, nhưng là lý bổn vị nên không thành nhỏ, há cho lúc xưa thọ kính nay dịch là lễ tỵ, do thói quen mà thành vốn không chỗ y cứ. Nương hạ nhận mới lỗi trộm dễ sanh, cho nên ứng rõ phiên lý không sẽ lược, nên lấy ngày thọ giới để bàn lớn nhỏ. Dầu khiến mất hạ không lui hàng sau, tìm xét Thánh giáo không văn tự, ai xưa sai làm việc đây.

2. Nghi đối tôn:

Chuẩn nương Phật giáo, hoặc đối hình tượng và thân gần tôn sư, trừ bệnh còn phải qua nghi đây. Không cho liền mang giày dép, riêng bày vai phải, áo che đùi trái, đầu không đội khăn, từ đây hằng dạo đi các nơi. Ở khi mở lỗi, hoặc là nước ở mùa lạnh cho mang giày ngắn các giày khác tùy chỗ nên dùng, đã khác phương khác nước, lạnh nóng không đồng, chuẩn như Thánh giáo, phần nhiều có trái chỗ, lý có thể tháng thạnh đông, quyền mặc nuôi thân, mùa đông mùa hạ cần nương Luật chế. Mang giày không nhiễu tháp Phật, giáo đã trước rõ, phú la chớ dâng hương, lãnh từ lâu, nhưng có loại cố trái tức là gượng mạn lời vàng.

3. Ngồi ăn giường nhỏ:

Tăng chúng ở phương tây khi sắp ăn, mỗi người đều rửa sạch tay chân, đều ngồi giường nhỏ cao bảy tấc vuông một thước, dệt bằng dây chân trong tròn lại nhẹ, hạng nhỏ thấp đóng nhỏ tùy việc. Hai chân chạm đất, trước để mâm, lấy phân trâu chà sạch đất, lá tươi rải trên, tòa chừng một khuỷu xen không chạm nhau, chưa từng thấy có người ngồi ăn trên giường lớn. Vả lại như Thánh chế, lượng giường cao chừng tám ngón tay của Phật, dài thì gấp ba lần là hai mươi bốn ngón tay của người trung bình. Phải thước hết nửa thước cao, chùa Đông hạ giường cao hai thước sắp lên, đây thì vốn không nên ngồi, ngồi thì có lỗi.

Khi đồng chúng, đây muốn như thế nào, hàng mắc tội cần xem dạng thước. Nhưng Linh Nghiêm bốn giường thiền cao một thước. Cổ Đức chỗ chế thật có nguyên do, tức như liền tòa ngồi xếp bằng bày gối mà ăn, đây chẳng phải pháp gốc, may mắn có thể biết đó. Nghe khi Phật thuyết mới đến, Tăng ăn đều ngồi xổm, đến đời Tấn việc đây mới hóa, từ đây về sau người xếp bằng mà ăn. Nhưng Thánh giáo qua đông độ khoảng bảy trăm năm, trải qua mười đời, đời có người kia phạm Tăng nối gót theo nghi đến, đức Hán bèn bày vai nhận nghiệp, cũng có chính thân hành tây quốc mắt buộc đúng sai, tuy còn bảo rằng ai có thể dùng. Lại kinh nói rằng: "Ăn rồi rửa chân", rõ chẳng phải ngồi trên giường, ăn rau bỏ bên chân, biết thòng chân mà ngồi. Là đệ tử Phật nên học Phật, dầu không thể nương chớ sanh chê cười, bởi do trải khăn mới ngồi, khó làm giữ sạch, hết đêm chạm dơ không do đâu được khỏi. Lại nghiệm chúng ăn dư, sâu nghi phải quấy, lấy bỏ lại chạm mâm tăng, ngồi nhà lại cầm đồ sạch. Đây thì luống truyền, giữ sạch chưa thấy công kia, mong xét kỷ cần quán sát được mất.

4. Bửa chia dơ sạch:

Cách ăn nuốt của kẻ tục người đạo ở phương tây, việc dơ sạch sai khác, đã ăn một miệng đều thành dơ, đồ đựng nên chồng lại để một bên, đợi xong rồi bỏ, có đồ ăn dư, nên ăn thì ăn, nếu lại nhận lại đây định không thể, không kể sang hèn, cách thức đều như vậy. Đây là nghi trời chẳng phải riêng loài người, cho nên các Luận nói rằng: Không tước nhành dương, tiểu tiện không rửa tay, ăn không dơ sạch, sẽ cho là xấu. Há có đồ bị dơ lại đem đựng lại, có đồ ăn dư gom vào nhà bếp, bánh dư nên đậy cất trong chảo, hâm lâu lại quay về trong chõ, canh rau sáng ra ăn lại, bánh trái ngày sau vẫn ăn, người trì luật rất biết chia biên giới, kẻ lưu manh lôi đồng một mối. Lại phàm nhận cúng trai tăng và các ăn uống khác, đã vào miệng kia liền thành dơ, sau muốn đem nước sạch súc miệng, mới được chạm vào người khác và đồ sạch khác, nếu chưa súc miệng chạm vào người hay vật khác đều thành bất tịnh. Kia bị người dơ đều cần súc sạch, nếu dơ dính vào chó cũng cần rửa sạch. Kia nếm đồ ăn cần ở một bên, nếm xong rửa tay súc miệng và đồ nếm mới chạm vào nồi chõ, nếu không vậy thì cầu đảo và chú thuật đều không hiệu nghiệm, dầu bày cúng thần linh không nhận, do lời nói đây chỗ tạo cùng lập, muốn dâng Tam Bảo và thần linh và các ăn uống tầm thường đều cần trong sạch.

Nếu thân chưa tắm rửa sạch và đại tiểu tiện lợi mà không rửa sạch, đều không cho làm đồ ăn. Kẻ tục cũng có nói rằng: "Trong sạch mới đặt để". Cắt móng nên xâm cơ bỏ bụi dơ, lỗ lông sắc mặt cũng loại đây, cũng là việc cần sạch sẽ, không do đồ ăn dư mà hưởng ăn. Phàm thiết trai cúng dường và tăng thường ăn, cần người kiểm xét, nếu đợi cúng trai xong sợ quá thời, không kể kẻ đạo người tục, tuy chưa dâng cúng, lấy phần ăn trước, đây là Phật dạy không có lỗi, so thấy Tăng Ni giúp người kiểm xét ăn nhiều, quá ngọ, nhơn phước mắc tội, sự chưa có thể vậy. Nhưng đất Ngũ Thiên nói rằng: "Cùng các nước có sai khác", do đây sạch dơ là nền tảng ban đầu.

Xưa có người sứ nước Hồ phương Bắc đi đến nước Tây, nhiều người thấy cười, bởi do tiểu tiện không rửa, ăn dư trong bồn, khi ăn nhóm ngồi xen nhau rung lắc, không tránh heo chó, không nhằn cây tăm, bèn chiêu lấy sự chê cười. Cho nên người hành pháp rất cần giữ ý, chớ cho là nhẹ. Nhưng Đông Hạ ăn không chạm sạch kia đến đã lâu, tuy nghe thuyết đây, phần nhiều chưa hiểu nghi kia, tự chẳng phải mặt lời nói có thể hiểu ngộ.

5. Ăn xong bỏ dơ:

Khi ăn xong, hoặc lấy đồ đựng, hoặc ở chỗ vắng, hoặc đến ao lớn, hoặc có thể đến thềm, hoặc tự cầm bình, hoặc sai người đưa nước, tay phải sạch súc miệng, nhằn tăm, xỉa răng, cạo lưỡi khiến cho sạch sẽ. Luật khác nếu còn tức không thành trai (sạch), rồi sau dùng vỏ cám đậu, hoặc khi đem đất nước trộn thành bùn chà môi miệng không còn mùi hôi, kế lấy nước sạch nơi tịnh bình đựng đầy chén, hoặc dùng lá tươi, hoặc vốc bằng tay, đồ kia và tay cần phải ba lượt rửa sạch (vỏ đậu, đất khô, phân trâu) rửa bỏ hôi dơ. Hoặc ở chỗ vắng tịnh bình súc miệng, hoặc ở chỗ hiển, Luật có văn ngăn, lược súc hai ba lần mới là sạch. Từ đây về trước súc miệng không nên liền nuốt, đã phá oai nghi mỗi nuốt đều mắc tội, nhẫn đến chưa đem nước sạch, súc lại về sau, khạc nhổ cần bỏ ngoài. Hoặc quá ngọ lại phạm phi thời, đây thì người ít biết, dầu biết giữ cũng khó, do đây mà nói đậu, bún, tro, nước thật khó khỏi tội, bởi là ăn trong răng, trên lưỡi, còn hôi dơ, người trí quán lý đây nên giữ ý, há cho ngay khi ăn rồi bàn nói qua ngày, không súc tịnh bình, không nhằn (tước) cây tăm, trọn ngày ngậm dơ, suốt đêm chiêu lỗi, do đây dâng trọn vốn thành khó. Nước tịnh bình kia hoặc sai môn nhơn trao đến cũng là nghi đây.

6. Nước có hai bình:

Phàm nước chia sạch dơ, bình có hai hiệu. Sạch đều dùng bình sành, dơ mặc tình gồm đồng thiếc. Sạch nghỉ phi thời uống dùng, dơ bèn tiện lợi chỗ cần. Sạch thì tay sạch mới cầm, hẳn nên để chỗ sạch, dơ thì tay dơ tùy cầm, có thể để chỗ dơ. Chuẩn bình sạch đây và lấy đồ sạch mới đựng nước, phi thời nên uống các đồ khác đựng gọi là thời thủy, giữa ngọ, trước ngọ nhận uống là không lỗi, nếu uống sau ngọ liền có lỗi. Kia làm bình phép đậy cần liền miệng, đảnh ra đài nhọn, có thể cao hai ngón tay, trên thông lỗ nhỏ, thô như ống đồng, nước uống có thể đựng trong đây, ở bên mở cái lỗ tròn, đậy miệng khiến trên cao dọc hai ngón, như lỗ đồng tiền, thêm nước nên ở chỗ đây, có thể đựng hai ba thăng nhỏ thì không dùng. Hai lỗ dây sợ trùng bụi nó vào, hoặc có thể đậy nắp, hoặc lấy cây trúc, hoặc vải, lá, mà nút lại. Kia có Phạm Tăng lấy vải mà làm, nếu khi lấy nước cần rửa bên trong cho sạch cấu dơ mới dựng nước mới. Đâu cho nước thì không chia sạch dơ, chỉ chứa một bình đồng nhỏ, đậy nắp nghiêng miệng nước chảy ra, không kham nhận dùng, không chia dơ sạch, ở giữa có cấu, có hơi, không thể đựng nước một thăng hai hợp tùy sự đều thiếu. Cách thức bình vải kia, có thể lấy vải dài hai thước rộng một thước, nhiếp hai đầu góc, đối chỗ may hợp cả hai đầu góc liền làm một cái quai dài chừng một trách, trong đó treo lên mà đi. Túi đựng bát khất thực cũng giống như đây, trên che miệng bát để bụi đất vào, do đáy nhọn khiến bát không động chuyển, túi đựng bát kia cùng đây không đồng như các chỗ khác thuật. bình bát là y vật tùy thân đều để một vai, thông che ca sa cầm dù mà đi.

Những món này đều là Phật dạy nghi của xuất gia, có tay rảnh thì cầm bình dơ và túi dày dép. Tích trượng lệch hẹp tới lui an tường. Chim dụ cho tháng, kinh nhã sẽ dụ kia, đến như Vương thành, cây bồ đề, núi Linh Thứu, vườn Lộc Uyển, Ta La đổi trắng, chỗ túc điều phong thước, lễ tháp, bốn thời mới chung thấu. Ngày xem ngàn số đều đồng cách ngày, hoặc như Đại Đức ở chùa Na Lan đà đa văn và đều đi kiệu, không cỡi xe và chùa Đại Vương nghiệm cũng đồng vậy. Chỗ có đồ dùng đều khiến coi biết, hoặc sai đồng tử giữ gìn đây là cách thức Tăng chúng phương Tây (Ấn Độ).

7. Sáng sớm xem trùng:

Thường mỗi tháng sớm nên cần xem nước, nước có nước bình, nước giếng, nước ao, nước sông sai khác, việc quán sát chẳng phải một chuẩn, cũng đã sáng mai trước xem nước bình, có thể ở bình đồng trắng sạch, đồng điệp, hoặc trong chén sành, trong đồ thêm nước, nghiêng thì rút lấy cho bằng, đặt bình lên, hoặc có thể nghiêng làm cây xem nước, dùng tay che miệng bởi ngó lâu, hoặc ở trong bồn vại nhìn cũng được, nếu trùng bằng đầu lông cần tồn niệm, nếu thấy trùng thì dốc ngược lại trong bình, lại lấy nước khác rửa đồ đựng hai ba lần, không trùng mới bỏ, có chỗ ao sông đem bình đến đó, bỏ nước có trùng lược lấy nước mới sạch, như chỉ có nước giếng chuẩn pháp lược đó. Nếu nhìn nước giếng, khi múc nước ra dùng chén đồng múc nước trong vại châm vốc nước, như trên quán sát, nếu không có trùng qua đêm tùy dùng. Nếu có trùng như nước mà lược. Xem nước ao, sông, rộng như Luật nói.

Phàm lược nước bên phương Tây dùng bạch diệp (lụa trắng) dày, Đông Hạ nên lấy vải dày, hoặc dùng gạo mịn, hoặc có thể chưng, hoặc là lụa sống, trùng nhỏ lọt qua, có thể lấy lụa chín Vĩ dày thước bốn thước, nắm biên kéo dài, túm lấy hai đầu khiến cho dính nhau, tức là giống lưới. Hai góc đặt hai bờ khăn thẳng, giữa để cây ngang trương ra thước sáu, hai bên cột trụ, dưới để bồn hứng. Khi nghiêng đổ nước, đáy vại cần vào trong lưới, nếu không vậy thì trùng theo nước rớt xuống đất, rớt trong bồn còn không khỏi chết. Phàm khi nước mới vào lưới, hứng lấy mà quan sát, có trùng liền cần đổi bỏ, nếu sạch như thường dùng đó. Nước đã đủ rồi liền có thể lật lưới, hai người đều cầm một đầu lật lưới khiến vào đồ phóng sanh, trên lấy nước rửa ba lần, bên ngoài lại dùng nước rửa, bên trong lại đặt nước hứng lấy xem xét, nếu không trùng thì tùy ý bỏ lượt.

Nước đây qua đêm cần phải xem lại, hễ nước qua đêm nếu không xem thì có trùng hay không Luật nói là dùng đều mắc tội. Nhưng hộ sanh lấy nước nhiều món khác nhau. Chỗ giếng thực hành lược đây là rất quan trọng, chỗ ao sông hoặc có thể đặt nắm tay dùng âm dương quyền khi việc trai. Lại tháng sáu tháng bảy trùng kia càng nhỏ không đồng lúc khác, lụa sống mười lớp trùng cũng lọt qua, người ưa hộ sanh lý nên giữ niệm phương tiện khiến khỏi. Hoặc làm bồn ngói, lược cũng là xét cốt yếu. Nhà chùa phương Tây phần nhiều dùng đồng làm, đều là Phật chế việc không thể coi nhẹ.

Đồ phóng sanh kia, làm vại (lọ)nước nhỏ, khiến miệng mở thẳng, đáy bằng lại đặt hai cái vòi, hai dây buông xuống đến nước lại kéo, hai ba lần như vậy rồi sau kéo ra. Nếu là nhà chùa lược nước, Đại Tăng không cho chạm vào, khi nước ở trong phòng cũng vậy, người chưa thọ giới cụ túc lấy mới được uống. Uống phi thời cần dùng lược sạch, bình sạch, đồ sạch mới có thể nhận dùng, ở người là tánh giới, có thể hộ bậc trung, tội thập ác nặng ở đầu, lý khó khinh dễ. Lược nước là một trong số sáu vật, cần phải giữ gìn, nếu đi xa ba đến năm dặm thì không mang lược nước là không đi. Nếu biết chùa không lược nước là không ăn uống, thà chết khát nơi đường dài, đủ làm gương soi, há cho thường dùng nước từng không quan sát. Chỉ có lược trùng lại chết bên trong, giả như muốn cứu ít biết nghi kia, lược trên miệng giếng là chưa hiểu đồ phóng sanh, giả sử có đến được nước, trùng sẽ chết nào có nghi.

Khi làm lược tròn nhỏ, vừa nhận một thăng hai hợp, sống buộc vải mỏng, vốn không xem trùng, treo trên bình bát, khiến người thấy biết, không tâm hộ mạng, ngày ngày chiêu lấy lỗi thầy trò nối nhau dùng làm truyền pháp, thật là đáng than thở đủ buồn than. Đồ xem nước kia người người tự cất, vại phóng sanh chỗ ở cần có.

8. Sáng tước cây xỉa răng:

Sáng sớm mỗi ngày cần nhằn cây xỉa răng, chà răng cạo lưỡi khiến như pháp. Súc miệng sạch sẽ mới làm kỉnh lễ, nếu kia không vậy, nhận người lễ hay lễ người đều mắc tội. Cây xỉa răng kia, tiếng Phạn là Đạm Đa Gia Sắc Tra, Đàn Đa dịch là xỉ (răng) Gia Sắc Tra tức là cây kia, dài mười hai ngón tay, ngắn thì không dưới tám ngón, lớn bằng ngón út, một đầu hoãn, cần nhằn cho mềm, bởi lâu là sạch cửa răng, nếu ở gần người cần tôn trọng nên lấy tay che miệng, bỏ tay bẻ cho cong mà cạo lưỡi, hoặc có thể riêng dùng đồng thiếc làm đồ cạo lưỡi, hoặc lấy cây trúc miếng mỏng như mặt ngón tay út. Một đầu cắt nhỏ dùng xỉa răng, cong thì cạo lưỡi chớ khiến thương tổn, cũng đã dùng bỏ, liền có thể chung ở chỗ vắng rửa bỏ. Phàm bỏ cây xỉa răng, nếu nhổ nước trong miệng và do khạc nhổ đều cần khảy móng tay ba lần, hoặc khi tằng hắng qua hai lần, nếu không vậy mà bỏ liền có tội. Hoặc có thể cây lớn thì chẻ dùng, hoặc có thể cây nhỏ cắt làm. Gần sơn trang thì cây trách, cây cát làm đầu, ở đồng bằng thì tùy ý dùng cây đào, cây mai, cây dương liễu… đầy đủ đừng để thiếu. Ướt thì cần người khác trao, khô thì cho tự cầm giữ. Trẻ tuổi tự tiện nhằn đó, già thì đập cho nát một đầu, cây kia dùng đắng, rít, cay làm tốt đẹp, đầu tước thành nát là tốt nhất, thô hồ là gốc là tinh xảo (Tức lấy lá xanh tai gốc đều cắt chôn vào đất hai tấc) cho răng miệng thơm, tiêu đồ ăn bỏ hôi dơ, dùng chừng nửa tháng hơi miệng liền hết, răng bị bịnh sâu thì ba tuần là lành, cốt yếu cần tước nhuyễn, chà sạch khiến đồ dơ chảy ra, lấy nhiều nước sạch súc đó. Đây là cách thức vậy.

Kế sau nếu có thể trong mũi uống nước một sao. Đây là thuật nhiều năm của Ngài Long Thọ, nhưng trong mũi kia cần phải không bịnh, uống bằng miệng cũng tốt, dùng lâu thì ít bịnh tật, nhưng mà dơ ở chân răng nhóm lâu thành cứng, cạo cho sạch hết, lấy nước đắng súc liền không bị hư, đến cuối đời bịnh răng như nước tây sẽ không có. Bởi vì tước cây chà răng kia, há lại không biết cây đó làm bằng cây dương liễu, nước Tây (Ấn) rất ít có dương liễu, người dịch liền truyền hiệu đây. Cây chà răng của Phật thật ra chẳng phải cây dương liễu. Ở chùa Na Lan Đà chính mắt nhìn, đã không dám tin nơi người, người nghe cũng không nhọc gì gây ra lầm. Xét kinh Niết Bàn bổn tiếng Phạm nói: "Khi tước cây chà răng, cũng có dùng cây dương nhỏ, hoặc năm, hoặc sáu toàn tước trong miệng không phải súc bỏ, hoặc có nuốt nước để trị bịnh, cầu sạch mà lại dơ, muốn bỏ bịnh mà lại chiêu lấy bịnh. Hoặc có đây cũng không biết, chẳng phải ở luận hạn cuộc. Nhưng cách của Ngũ Thiên, kẻ tục nhằn cây chà răng tự là sự thường, đứa bé ba tuổi đều đã được dạy làm. Thánh giáo, hàng tục lưu đều thông lợi ích, đã bày hết chăng, thực hành hay bỏ tùy tâm.

9. Phép tắc thọ trai:

Phàm bàn cách thưa thỉnh ở Phương Tây và các nước ở biển Nam, lược hiển nghi kia. Phương Tây, thí chủ chuẩn bị trước thỉnh Tăng lễ bái, ngày cúng trai đến giờ thì lại thỉnh, chuẩn bị đồ ngồi cho chúng Tăng, hoặc có thể là tịnh nhơn tự giữ, hoặc nhận tịnh vật từ người khác. Đồ đựng chỉ một sắc bằng đồng, cần lấy tro và nước sạch chà rửa. Ngồi bèn đều riêng giường nhỏ, không nên liền tòa chạm nhau. Cách thức giường kia như chương thứ ba đã nói. Nếu đồ sành chưa từng dùng, hoặc dùng một lần đây thành không lỗi. Đã dùng xong, bỏ xuống hào hầm vì kia dùng dơ không thể dùng lại. cho nên nước tây (Ấn) bên đường lập bày chỗ ăn, đồ dư như núi không dùng lại. Tức như giúp dương đồ sành ăn xong dùng lại. Trước nếu bỏ liền đồng pháp sạch. Lại ở Ngũ Thiên vốn không có đồ bằng men sứ, men sứ nếu dầu hợp là sạch không nghi, đồ sứ là hoặc khi khách buôn đem đến phương tây, và ở Nam Hải đều không dùng dùng đồ ăn, bởi vì là nhận dơ bẩn, quyết cần là mới, lấy tro sạch rửa đó khiến hết hơi hôi, dùng cũng được.

Đồ cây kia vốn không phải là đồ ăn mới và dùng một lần vốn không lỗi, dơ nặng là có lỗi sự như Luật nói: Nhà thí chủ kia, chỗ bày đồ ăn, cần lấy phân trâu chà đất cho sạch, riêng đặt giường tòa nhỏ, cần bồn vại sạch sẽ chứa nhiều nước. Khi tăng đã đến, cởi khuy áo đặt bình sạch, liền nên xem nước, nếu không có trùng thì dùng rửa chân, rồi sau đến giường nhỏ nghỉ ngơi một chút, xét thời gian sớm hay trễ, ngày sắp đến ngọ, thí chủ thưa đã đến giờ pháp chúng bèn xếp y trên buộc hai góc trước, thòng góc bên phải che đùi eo bên trái, hoặc vụn, hoặc đất, rửa tay cho sạch, hoặc thí trao nước, hoặc tự dùng quân trì tùy thời trai sự, lại đến tòa ngồi nhận diệp khí kia, dùng nước lược rửa, chớ khiến chảy.

Trước khi ăn hoàn toàn không có pháp chú nguyện thí chủ rửa sạch tay chân ở trước đại chúng, ban đầu đặt cúng Thánh tăng, kế hành thực để dâng Tăng chúng. Lại khi chưa hành thực đặt một bàn ăn để cúng cho Ha Lợi Để Mẫu, Ha Lợi Để Mẫu đời trước nhân sự phát nguyện ăn hết trẻ con nơi thành Vương Xá, vì tà nguyện đó bỏ thân sanh vào loại Dược Xoa, sanh năm trăm đứa con mỗi ngày thường bắt trẻ con ở thành Vương Xá, nhân dân bạch Phật, Phật bèn giấu đứa con út của nó tên là Ái Nhi. Nó đi tìm cho khắp nơi, đến bên Phật mới được, Thế Tôn bảo: "Ngươi thương Ái Nhi lắm ư? Con ngươi năm trăm đứa, mất một còn thấy thương xót huống chi là người khác chỉ có một hai đứa mà thôi". Phật nhân đó giáo hóa khiến thọ giới làm Ô Ba Tư Ca, Ha Lợi Để Mẫu thưa Phật rằng: "Năm trăm mẹ con của con ngày nay lấy gì ăn?" Phật dạy: "Các chùa có Tỳ kheo, mỗi ngày sẽ cúng cho ăn, khiến các người được no đủ". Cho nên các chùa ở phương tây thường ở chỗ cửa hoặc bên nhà ăn vẽ hình mẹ ôm đứa con dưới gối có ba hoặc năm đứa nữa để nêu bày tượng kia, mỗi ngày trước bàn bày đồ ăn mà cúng. Người mẹ kia chính là chúng của Tứ Thiên Vương, có thế lực rất mạnh, người nào có bệnh tật hay không con, dâng đồ ăn cúng đó thì đều toại nguyện. Duyên rộng như trong Luật, đây chì nêu đại ý.

Thần Châu trước có tên Quỷ Tử Mẫu. Lại các chùa lớn ở phương tây đều ở bên cột nhà bếp hoặc ở trước cửa lớn, khắc cây bày hình kia, hai hay ba thước làm hình trạng thần vương ngồi ôm túi vàng chân đạp giường nhỏ, một chân chấm đất. Thường lấy dầu lau, sắc đen làm hình gọi là Mạt Ha Ca La tức Đại Hắc Thần. Đời xưa truyền rằng là bộ thuộc của đại thiên, tâm mến Tam bảo, hộ trì năm chúng khiến không tổn hại. Người cầu được xứng tình, chỉ đến khi ăn, nhà bếp thường dâng hương đèn, có đồ ăn tùy bày ở trước, từng chính thân thấy nói ở chỗ đại Niết Bàn chùa Bát Đan Na, mỗi khi Tăng ăn, hơn một trăm, hai thời lễ bái xuân thu không hẹn mà đến. Tăng chúng năm trăm người gần trưa bổng đến, đã gần đến giờ ngọ không thể nấu ăn kịp, vị tri sự chùa kia bảo với nhà bếp rằng: "Có chúng như vậy nhà kho việc muốn thế nào?" Bấy giờ có bà cụ tịnh nhơn bảo rằng: "Đây là việc thường không nên lo nghĩ", bèn đốt nhiều đèn hương bày đầy đồ ăn mà cúng, bảo Hắc Thần rằng: "Đại Thánh Niết Bàn và đồ chúng còn ở, Tăng bốn phương đến làm lễ Thánh tích, ăn uống cúng dường chớ để cho thiếu, là sức của Ngài, may mắn có thể biết thời". Xong tìm bảo đại chúng ngồi, lấy phép thường ăn của chùa theo thứ lớp mà làm, đại chúng đều no đủ, đồ ăn kia còn dư như ngày thường mọi người đều khen " Lành thay!", khen sức thiên thần rồi chính thân làm lễ và thấy Hắc Thần ngồi trước mâm đại chúng mà ăn.

Hỏi kia ý ra sao, bảo lý do đây Hoài Bắc tuy lại trước không mà Giang Nam phần nhiều có đặt chỗ, người cầu hiệu nghiệm, thần đạo chẳng luống. Chùa Đại Giác, Mục Chơn Lân Đà Long cũng đồng điềm lạ đây. Pháp hành thực kia, trước để dùng muối, gừng một hai miếng lớn như ngón tay, muối thì nửa muỗng hoặc một muỗng, dùng là đựng. Kia hành muối, chấp tay quỳ gối trước Thượng tọa miệng xướng ba lần Bát La Khư Đa dịch là "Thiện chí" (khéo đến), xưa nói là Tăng Bạt là lầm. Thượng tọa bảo: "Bình đẳng hành thực, ý đạo đủ cúng khéo thành". Giờ ăn lại đến, chuẩn chữ nghĩa kia nên phải như vậy.

Nhưng Phật và đại chúng nhận đồ ăn độc của người khác, Phật dạy ba lần xướng "Bát La Khư Đa" rồi sau mới ăn, hể có thuốc độc đều biến thành vị ngon, do lời nói đây chính là lời bí mật, chưa hẳn gọi kia là thiện chí. Đông tây hai âm đến thời nhậm đạo, và phần đó địa xướng thời đến rất có cớ thật. Người trao đồ ăn hẳn cần phải đều hai chân cung kính cong người, hai tay cầm đồ và dùng bánh trái cách một khuỷu tay liền buông, từ các đồ ăn khác hoặc một tấc hai tấc, nếu khác đường đây lý không thành thọ, tùy nhận tùy ăn không nhọc đợi khắp. Đồng cúng ăn khắp hay không là lật chánh, ăn xong tùy ý cũng chẳng phải Thánh nói. Kế trao bánh khô bánh gạo và đậu nấu đặc, rửa dùng thục tô, tay khuấy cho đều chìm các trợ mùi, ăn dùng tay đá, vừa mới nửa bụng mới hành bánh trái, sau hành sửa lạc và bún, khát uống nước lạnh, không kể đông hạ, đây là bửa ăn thường của chúng Tăng và khi lập cúng trai tăng, đại lược đều vậy. Nhưng phép cúng trai tăng ý tồn nơi ân dày, bánh cơm dư đầy mâm bát, sửa lạc ngang dọc tùy ý đều nhận. Cho nên vào ngày vua Thắng Quang (210) cúng Phật và chúng Tăng đồ ăn uống, sửa tô đều dư tràn lan. Luật có thành văn tức là sự kia.

Tịnh Sơ đến nước Đam Mỹ Lập Để ở Đông Ấn độ, muốn nương Khiêm Sách lập cúng trai tăng, người bấy giờ chỉ nói: "Nếu chỉ vừa đủ mà thôi thì làm gì không được", nhưng mà xưa nay truyền nhau, làm cần phải dư nhiều, nếu chỉ đủ no thì sợ người cười. Nghe Phật từ nước lớn đến là người ở xứ giàu có, nếu không dư đầy thà không làm còn hơn, do đây lại nương pháp kia. Đây là tâm thí rộng lớn, lại được quả báo đầy nhiều là không trái lý, hẳn kia nghèo thiếu và ăn xong hành sấn là tùy khả năng. Đã ăn xong dùng miếng nước súc miệng, nuốt mà không bỏ, lấy chút nước đổ vào đồ đựng, lượt sạch tay phải, rồi sau mới đứng dậy. Khi muốn đứng dậy, cần dùng tay phải vốc đầy đồ ăn đem ra ngoài, không lựa là vật của Tăng hay Phật, Thánh sai khắp thí chúng sanh. Trước khi chưa ăn thì Luật không thành dạy. Lại đem một chén đồ ăn dâng lên người chết và các quỷ thần loại nên ăn. Duyên ở Linh Thứu như kinh rộng nói, có thể đem đồ ăn kia hướng quỳ trước Thượng tọa, Thượng tọa bèn lấy miếng nước rưới lên mà chú nguyện:

Do ngày nay tu phước,
Khắp thắm các loài quỷ
Ăn rồi khỏi cực khổ
Bỏ thân sanh chỗ vui
Phước báu của Bồ Tát
Không cùng như hư không
Thí được quả như vậy
Tăng trưởng không hề dứt.

Rồi đem ra ngoài, ở chỗ tối vắng, dưới lùm rừng, hoặc ở trong ao sông để thí cho người chết. Giữa Giang Hoài kế lập trai, ngoài đặt một mâm tức pháp đây. Nhưng người thì kia trao cây xỉa răng, cúng nước sạch, cách súc như chương thứ năm đã thuật. Tăng chúng khi từ biệt miệng nói: "Chỗ tu phước nghiệp thảy đều tùy hỷ". rồi sau mới đi. Chúng Tăng mỗi mỗi tụng kệ, lại không pháp sự. Ăn xong, đồ ăn dư và vật cúng cho chúng tăng, sai trẻ nhỏ đem đi, hoặc thí cho kẻ nghèo, tùy người nên ăn thì ăn. Hoặc khi gặp năm đói khát, hoặc sợ thí chủ xẻn tiếc, hỏi rồi mới lấy, trai chủ toàn không trọng cách lấy ăn, đây là cách nhận cúng của phương Tây.

Hoặc có thể thí chủ mời thỉnh đồng trước, ở trong nhà ấy hình tượng tự lập, giờ ngọ đã đến, khắp đến tôn nghi, ngồi xổm chấp tay, đều tự tâm nghĩ, lễ kính xong rồi ăn đồng như trước. Hoặc có thể riêng sai một người ở trước tôn tượng quỳ dài chắp tay lớn tiếng khen Phật (nói quỳ dài nghĩa là hai gối chấm đất, thẳng hai chân, ngay thân, xưa nói là hổ quỳ là sai, Ngũ Thiên đều vậy, nào riêng đạo hồ) chỉ khen đức Phật không nói lời khác. Thí chủ bèn đốt hương rải hoa một lòng chí thành dùng bột bùn thơm thoa chân Tăng, đốt hương thơm phức không làm gì khác, trống nhạc ca ngâm tùy tình cúng dường, mới bắt đầu chuẩn như trước thứ lớp ăn. Ăn xong đem bình nước kia, khắp rưới trước chúng, Thượng tọa mới vì thí chủ lược tụng Đà Na Già Đà, đây chính hai đường cách ăn ở phương Tây, nhưng mà nước Tây nhai nuốt phần nhiều cùng thần châu không đồng, nhưng có thể lược cứ khoa luật thô bày, đại khái nói rằng:

Luật nói: Nửa là Bổ Thiện Ni, nửa là Kha Đản Ni. Bổ Thiện Ni dùng ngậm nuốt làm nghĩa Kha Đản Ni tức cắn ăn nhận làm tên. Nửa nghĩa là năm. Nửa, Bổ Thiện Ni nên dịch là năm miếng ăn, xưa nói rằng: "Năm chánh", chuẩn theo nghĩa mà dịch. Một cơm, hai lúa đậu, ba bún, bốn thịt, năm là bánh. Nửa Kha Đản Ni nên dịch là năm tước thực: Một là gốc, hai là cành, ba là lá, bốn là hoa, năm là quả. Nếu không duyên thì ăn năm món đầu, năm món quyết không nên ăn. Nếu ăn năm món sau trước, năm món trước nhai liền tùy ý, chuẩn biết sữa, lạc, chẳng thuộc trong hai món năm ấy. Văn Luật lại không gọi riêng, rõ chẳng phải bữa ăn chánh nhiếp, nếu các đồ ăn bột, cắm đứng cái muỗng mà không ngã đều thuộc cơm bánh thau. Bột khô hòa nước, lấy ngón tay vẽ thấy dấu, đây thuộc năm nhiếp.

Vả lại như ở Ngũ Thiên, giới chia xa nhỏ, đại lược mà nói, Đông Tây Nam Bắc đều hơn 400 dịch, trừ bờ mé kia, tuy chẳng tột mà có thể nhìn thấy, cho nên có thể rõ mà hỏi biết chỗ có nhai tước khéo léo chẳng phải một, phương Bắc đủ bột, mé Tây dồi dào sao, nước Ma Yết Đà bột ít gạo nhiều, Nam thương Đông thùy một loại voi Ma Yết Đà. Dầu tô, sữa, lạc ở đó đều có, bánh trái thuộc khó có thể kể số. Người tục sự hôi tanh còn ít, các nước phần nhiều đều gieo lúa, cây dẻ ít cây lúa nếp thì không. Có dưa ngọt, rất nhiều mía, thiếu rau cải, đủ dây tỏi tây. Nhưng hột có đen trắng, đến nay dịch là hột cải, ép dầu đủ ăn, các nước đều vậy. Nhưng ăn rau kia vị cùng với tỏi tây của thần châu không khác, chỉ khác là gốc nó cứng hơn. Kết trái hột thô chẳng phải hột cải kia giống cây quýt mà vì nơi đất nên đổi hình.

Ở Na Lan Đà cho không làm thiền sư cùng bàn luận ôm lòng nghi chưa thể biện. Lại người Ngũ Thiên không ăn các gừng tỏi giã nhỏ và rau sống, do người nước này không bị đau bụng, ruột và bao tử hòa nhuyến, quên lo cứng chắc.

Nhưng mười châu Nam Hải, cúng trai liền thành ân dày, ngày đầu đem một ít trái cau và phiên tử, dầu thơm và ít bột gạo, đều đựng đầy đồ đựng, đặt trong mâm lớn, lụa trắng đậy lên, bình vàng đầy nước, trước rưới đất, để thỉnh chúng Tăng. Trong ngày hôm sau, trước tắm rửa sạch sẽ, ngày thứ hai quá ngọ đến thì đánh trống nhạc, bày hoa thơm, thỉnh tôn nghi bằng xe kiệu, cờ phan sáng mặt trời pháp tục mây bay, dẫn đến sân nhà, trương phan lọng, lấy vàng đồng trang sức tôn tượng sáng rỡ, dùng bùn thơm hoa, đặt trong mâm, hoặc đem nước thơm chí thành tắm rửa, lau xong dùng lụa thơm bưng vào trong nhà, bày đầy hương đèn mới làm ca ngợi. Rồi sau lên tòa vì thí chủ nói đà Na Già Tha (kệ), bày thuật công đức. Xong mới thình Tăng ra ngoài súc miệng rửa tay, uống nước đường cát, ăn nhiều cau rồi sau lấy rải.

Đến ngày thứ ba, giữa ngọ vào chùa thưa giờ đã đến, tăng Tắm rửa rồi dẫn đến nhà trai tăng, lại bày tôn nghi lược làm tắm gội, hương hoa trống nhạc hơn sáng hôm trước, có cúng dường thì bày trước tôn tượng, hai bên tôn tượng đều đặt đồng nữ hoặc năm hoặc mười, hoặc có thể lượng đồng tử thời có không. Hoặc bưng lư hương, cầm bồn tắm bằng vàng, hoặc bưng lư hương, hoa tươi phất trần trắng, chỗ có đài, gương… thảy đều đem đến trước Phật dâng cúng.

Hỏi: Kia ý ra sao? Đáp: Là ruộng phước.

Nay không dâng cúng về sau đâu mong có quả báo. Dùng lý mà nói, đây cũng là việc lành.

Kế thỉnh một vị Tăng trước tòa quỳ gối khen ngợi công đức của Phật. Lại riêng thỉnh hai vị Tăng đều lên ngồi bên tòa Phật lược tụng tiểu kinh nửa tờ hay một tờ, hoặc mừng hình tượng cùng điểm mắt Phật cho đến thắng phước (211), rồi sau tùy tiện đều đến một bên lật xếp ca sa (Ca sa là tiếng Phạm tức là màu càn đà, xưa nay không can hệ đến đông ngữ, nhọc gì dưới đấy để ý. Nếu nương văn luật lời sách, ba y đều tên Chi Đại La). Buộc hai góc trước, rửa tay đến ăn, oai nghi cách thức phân trâu chà đất, xem nước rửa chân và ăn nuốt pháp dụng hành thực đều cùng phương tây phần lớn đồng. Nhưng kia khác là gồm ba sạch và phần nhiều chằm lá làm chén, ruộng như nửa tịch chứa lúa gạo bánh một thăng hai thăng, cũng dùng làm đồ đựng một thăng hai thăng.

Bưng đến chỗ Tăng phải trước trao cho, kế hành các việc ăn, có ba hai mươi loại, đây chính là nhà nghèo cúng. Nếu là nhà vua hay nhà hào phú, đều trao mâm đồng chén đồng và đồ bằng lá lớn bằng một tịch, đồ ăn ngon ngọt số dư trăm vị. Quốc vương bỏ ngôi tôn quý tự xưng là nô bộc, trao đồ ăn cho Tăng cung kính triệt để tùy dính đều nhận, lại không pháp ngăn. Nếu chỉ lấy đủ mà thôi tâm thí chủ liền không vui, thấy kia dư dật mới thành vừa ý, cơm gạo thì bốn thăng năm thăng, bánh trái… thì ba mâm hai mâm, thân thuộc bà con đều chung cúng, hoặc cơm hoặc bánh, canh rau chẳng phải một. Nhưng một người ăn dư, có thể cúng cho ba bốn người, hoặc sắm đầy nhiều, mười người ăn cũng không hết, chỗ dư kia đều mặc tình chúng Tăng sai tịnh nhơn đem đi. Nhưng phép cúng trai của Thần Châu cùng nước Tây (Ấn) không đồng, có đồ ăn dư thí chủ tự lấy, Tăng liền đem đi lý thành chưa thể được, cho nên người xuất gia tướng khi mà động, biết đủ không nhục, không thiếu tâm thí, hẳn như thí chủ quyết tâm không nghỉ lấy lại, thỉnh Tăng đem đi, mặc lượng sự châm chước. Chúng Tăng cũng đã ăn rồi, súc miệng xong bèn quét bỏ đồ ăn dư cho sạch đất, khắp dùng hoa đèn đốt hương thơm phức, đồ cúng bày trước chúng. Kế hành hương nê (bùn thơm) như ngô tử, Tăng đều lau tay cho sạch thơm, kế hành trái cau, vỏ đậu mềm, dùng đinh hương, long não nhấm nháp cho thơm miệng cũng có thể tiêu đồ ăn bỏ hôi. Thuốc thơm kia đều cần nước bình sạch rửa, dùng lá tươi đựng, trao cho chúng Tăng, thí chủ đến trước Thượng Tọa hoặc người có khả năng để nắm miệng bình nước như đưa đồng liền chú không dứt, để bình xuống mâm, thầy bèn trong tay cầm hoa nương giọt nước kia miệng tụng chú (Đà Na Già Tha). Ban đầu cần Phật nói bài tụng, sau thông người làm, mặc tình nhiều ít lượng thời làm độ, cần xưng tên thí chủ mà nguyện khiến họ được giàu vui. Lại giữ phước hiện tại hồi hướng cho người chết, sau vì vua, kế đến rồng quỷ, cầu cho đất nước thành thục mọi người an ổn. Thánh giáo Thích Ca trụ mà chẳng diệt, Già Tha kia dịch đó như riêng, đây chính Thế Tôn lúc còn tại thế chính thân chú nguyện, chỉ đến ăn xong hẳn vì nói Đặc Y Noa Tha là đem vật thí đến cúng, Đặc Y Ni Sư tức là nên hợp nhận người cúng dường đây cho nên Thánh chế, thường chỉ ăn xong, hẳn cần tụng một hai bài kệ mà báo ân thí chủ (tiếng Phạm là Đà Na Bát Để dịch là thí chủ, Đà Na là thí, Bát Để là chủ, mà nói là đàn việt vốn chẳng là chánh dịch, lược bỏ chữ Na. Lấy trên âm đà chuyển gọi là đàn, lại thêm chữ việt, ý đạo do hành đàn xả, tự có thể vượt qua nghèo cùng diệu thích tuy nhiên, trọn trái bổn chánh, xưa dịch là đạt sấn là lầm).

Nếu không vậy, đã trái thánh giáo thì không tiêu đồ ăn của tín thí. Xin đồ ăn dư thời pháp có hành xứ, rồi sau hành vật sấn, hoặc làm cây như ý để cúng Tăng, hoặc làm hoa sen vàng để dâng Phật. Hoa tươi đầy gối, lụa trắng đầy giường quá ngọ hoặc giảng tiểu kinh, hoặc thời liền đêm mới tan, khi từ biệt miệng nói "Bà Độ", gồm xướng "A Nô Mô Tha", bà độ tức sự gọi là khéo dâng. A Nô Mô Tha dịch là tùy hỷ, hoặc thí cho mình, hay thí cho người, đều đồng thuyết đây. Ý trước người đã trình bày, tùy sau mừng khen, đều chiêu cảm phước lợi. Đây là mười châu Nam Hải, một đường nhận cách thức cúng, hoặc ngày đầu trầu cau thỉnh Tăng, ngày thứ hai tắm rửa tôn tượng ăn trưa xong chiều thỉnh kinh, đây là việc làm ở giữa. Hoặc có thể ngày đầu dâng cây xỉa răng thỉnh Tăng, sáng hôm sau chỉ bày lễ trai tăng mà thôi. Hoặc có thể đến Tăng lễ bái nói lời mời, đây là hàng nghèo thiếu cúng trai tăng.

Nhưng chư Hồ phương Bắc, các nước Đổ Hóa La và Tốc Lợi Pháp kia lại khác. Thí chủ trước dâng hoa cúng dường Tháp, đại chúng đi nhiễu khiến xướng chú nguyện mà Đại sư đã rộng bày, rồi sau mới ăn, cách thức dâng hoa kia nhưng trong ký ở phương Tây đã bày. Những sự đây có sơ, phiền, ăn gồm rộng lược, mà cách thức Tăng chúng giữ tay sạch để ăn, phần lớn phép tắc đều gần giống. Chúng Tăng hoặc có đổ phần nhiều khất thực chỉ đắp ba y. Giả sử người khác đến thỉnh, dâng vàng báu bỏ như đàm dãi, vắng dấu vết tận rừng sâu. Tức như pháp trai của đông hạ, sai sớ thỉnh Tăng tuy đến sáng mai không lại thỉnh bạch, chuẩn như thánh giáo tợ có sự không ân cần, hẳn là môn đồ cần dạy cách thức. Nếu làm lễ cúng nên đem lược để Tăng lược nước đều có thể quan sát, kia đã ăn xong cần tước cây xỉa răng, nếu miệng có hơi hôi dư liền không thành trai, tuy là bụng đói trọn tiêu, há khỏi lỗi phi thời. May có thể xem thức ăn phương Tây nghĩ bàn đồng xuyên được không định nên tự nhiên rõ ràng, không nhờ người trí thuật rõ, sẽ suy nghĩ thường thử bàn đó rằng: "Nhưng Vô Thượng Thế Tôn đại từ bi, là cha lành thương xót chúng sanh chìm đắm qua ba đại mà lay động, giúp khiến nương hạnh hiện bảy mươi tuổi mà tuyên dương giáo hóa, do vì làm gốc trụ trì y thực là trước hết. Sự nhiều trần lao kiểm nghiêm thí giới, chế ở ý Thánh lý có thể tuân theo mà làm. Trở lại dùng tâm khinh nói kia không tội, ăn nuốt không biết nhận dơ, chỉ giữ một điều giới dâm, liền nói rằng "Ta là người không tội, nhọc gì lại phiền học Luật", ăn uống, mặc hay cởi vốn không liên quan, thẳng chỉ không môn toan láy Phật, đâu biết các giới đều là ý của Phật. Một quý một khinh đưa ra ức đoán, môn đồ bèn bắt chước nhau, phán là không xem giới kinh, chép được hai quyển không môn liền cho là lý bao trùm ba tạng, không nghĩ miếng ăn nuốt sẽ có đắng như tượng, ai biết bước bước chiêu cảm ương tai giặc đến. Phao nổi không lưng chính là bổn tâm Bồ tát, chớ khinh lỗi nhỏ trở lại thành xướng rốt sau, lý nên đại tiểu song tu mới thuận lời dạy của Từ Tôn (Phật). Ngăn lỗi nhỏ, nhìn hư không lớn, nhiếp vật lắng lòng, có lỗi gì. Hoặc sợ tự mê lầm chúng, chuẩn giáo liền bày một góc, pháp không tin là chẳng luống. Sách Luật nhơn gì khinh mạn, nên nửa tháng nói giới sám hối, hằng vì răn dạy môn đồ, ngày ba lần lễ rằng: "Phật pháp trụ đời ngày càng suy yếu, xét mình tuổi nhỏ có nhìn thì cùng khi lớn có khác gọi là nghiệm đây có thể giữ tâm". Phàm cái lụy ăn uống thường cần nguyện kính vâng, không khinh thánh giáo, lại nói rằng:

Thánh giáo có tám muôn, cốt yếu chỉ một hai, ngoài thuận đường tục, trong ngưng đọng chơn trí. Sao gọi là tục đồ? Là vâng giới cấm mất tội. Sao gọi là chơn trí? Là thấy cảnh đều bỏ. Tuân thắng đế mà không đắm trước, diệt lụy duyên sanh, siêng nhóm tu nhiều, chứng nghĩa mầu viên thành, há cho không học ba tạng, giáo lý đều mê. Tội, lượng lớn như cát sông, vọng nói đã chứng bồ đề, bồ đề là giác, hoặc lụy đều mất, không sanh không diệt gọi là chơn thường, đâu được đồng ở biển khổ mạn nói ta trụ Tây Phương. Lý thường muốn trong sạch làm nền, giữ lỗ nhỏ túi nổi, lấp tội lớn lỗ kim, lỗi lớn đầu tiên, nhiều lỗi là y thực, vâng lời Phật dạy thì giải thoát lỗi lầm. Mạn chê lời Phật bèn chìm đắm từ lâu, liền nêu hành pháp, lược thuật phép tắc, đều nương Thánh kiểm, há gọi là tình đồ. Mong không chê lời nói thẳng, ngõ hầu có lợi ích nơi đường xa. Nếu không lời thật thì ai là người tiến tới, lại liền xét nơi tinh thô.

QUYỂN 2

10. Y thực là chỗ cần:

Có đãi hình lụy, nhờ y thực mà mới giúp, không sanh diệu trí, nương lý diệt mà mới khởi. Nếu kia thọ dụng trái nghi liền chiêu cảm bước bước tội, lắng tâm mất phép tắc bèn gây ra niệm niệm mê, vì đây ở trong thọ dụng, người cầu giải thoát thuận lời thánh mà thọ dụng, ở chỗ lắng lòng tập lý phù hợp tiên giáo để lắng lòng, liền cần cúi nhìn sanh nhai (cuộc sống), là lao ngục mê sống, ngước nhìn bờ tịch làm cửa trống ngộ tịch, mới có thể đậu thuyền pháp nơi bến khổ, bày đuốc huệ soi đêm dài. Nhưng ở chỗ chế đắp y phục và nghi ăn uống, nếu trì phạm rõ ràng Luật có thành phép tắc, hàng mới học cũng biết trọng khinh, đây thì được mất cuộc hạn ở người khác, vốn chính là không phiền bàn bạc, tự có hiện trái Luật kiểm nghiệm mà đem làm kim chỉ nam. Hoặc có thể tập tục sanh thường cho là kia không lỗi. Hoặc đạo, Phật sanh tây quốc, kia xuất gia thì nương hình nghi nước tây, ta ở đông xuyên, lìa tục thì tập phép tắc đông xuyên, đâu có thể đổi kiểu áo của Thần Châu mà nhận phong cách của Ấn Độ, liền là bọn đây cân nhắc thô tháo. Phàm cái nghi y phục là cương yếu của người xuất gia, lý cần nêu đủ chế kia, đâu được khinh mà lược bỏ. Vả lại ba y của pháp chúng, Ngũ Thiện đều cắt lá, riêng chỉ Đông Hạ khai mà không may. Chính thân hỏi các nước phương Bắc, chỗ lưu hành Luật Tứ Phần đều đồng cắt lá, toàn không khai. Phương Tây nếu đồng phục của Thần Châu, may hợp bèn đắp mặc, văn các bộ luật đều nói là cắt hợp. Nhưng mà sáu vật nuôi thân tự có nghiêm điều, mười ba món đồ rộng như Luật nói. Sáu vật:

Một, Tăng Già Chi (dịch là phúc y). Hai, Ôn Chỉ La Tăng Già (dịch là thượng y). Ba, An Chỉ Bà Sa (dịch là nội y, ba y đây đều gọi là Chi Phạt La. Các nước phương Bắc phần nhiều gọi pháp y là ca sa, chính là nghĩa sắc đỏ, chẳng phải lời văn Luật). Bốn, Ba Chỉ La (là bát). Năm, Ni Sư Đàn Na (đồ ngồi nằm). Sáu, Bát Lý Tát La Phạt Noa (đãy lược nước, khi thọ giới cần phải đủ sáu vật đây).

Mười ba món đồ: Một, Tăng Già Chỉ. Hai, Ôn Chỉ La Tăng Già. Ba, An Chỉ Bà Sa. Bốn, Ni Sư Chỉ Na. Năm, Quần. Sáu, Quần kép. Bảy, Tăng Khước Kỳ (áo che nách). Tám, Phức Tăng Phước Kỳ. Chín, khăn lau mình. Mười, khăn lau mặt. Mười một, áo cạo tóc. Mười hai, áo che ghẻ. Mười ba, thuốc.

Y tư cụ. Tụng rằng:

Ba y và tọa cụ
quần, hai khăn có hai
Khăn thân, mặt, cạo tóc.
Áo che ghẻ và thuốc.

Mười ba món y, cho người xuất gia chứa để, đã định cách, liền cần thuận giáo mà dùng. Không so với vật dư khác mình có, mười ba món đây đều cần nêu riêng. Việc kia điểm tịnh, trao giữ, tùy được tùy giữ, không nhọc gồm đủ ngoài y dư khác, lượng sự phân chia, Nếu loại mền, nệm chiếu, chỉ cần khởi tâm ủy phó cho người mà nhận dùng. Có người nói: "Ba y và mười vật, bởi là ý của người dịch, lìa làm hai chỗ, không nương bổn Phạm, riêng nói ba y chia chẻ mười vật". Nhưng số mười kia không thể ủy thác đến đỗi khiển phỏng đoán, thảy đều là các thứ tạp loạn chưa phù hợp ý trước. Thuốc y kia Phật chế chứa cho phải dùng vải có thể hai trượng, hoặc có thể một thất đã mà bịnh khởi không hằng, rốt sau cầu khó giúp, vì đây chế chứa, có thể chuẩn bị đủ. Khi bịnh có chỗ cần không nên liền dùng. Nhưng tu hành môn lợi sanh, nghĩa ở còn nơi thông giúp, đã là căn có ba… không thể cuộc hạn là một đường. Bốn nương bốn làm mười ba đổ đa, chế chuẩn trên mà làm. Chứa phòng nhận thí mười ba tư cụ, bởi gồm trung hạ, bèn khiến người thiểu dục không lỗi chứa dư đầy. Người cầu nhiều quên lỗi thiếu sự.

Lớn thay Từ Phụ! Khéo ứng căn cơ, giỏi dạy người trời xưng là Điều Ngự, mà nói rằng cúng thân trăm lẻ một. Bốn bộ chưa thấy văn Luật, tuy là kinh có lời kia, cho nên là ý riêng thời. Vả lại nhiều việc người đời đồ nhà đều còn không đủ năm mươi, há cho người Thích Tử ít duyên lại quá số trăm kia chuẩn nghiệm đạo lý, thông tắc có thể biết. Phàm bàn vải thô chính là Phật khai, việc gì gượng ngăn luống làm tiết mục, đoán đó làm ý, muốn ít chiêu lấy nhiều, Ngũ Thiên bốn bộ đều đắp dùng, chợt có thể bỏ dễ cầu vải thô tìm khó được vải mịn rất ngăn đạo là ở đây? Chẳng phải chế mà gượng chế tức là loại kia. Bèn khiến ưa việc trì Luật tăng ngã mạn của mình mà khinh người khác, không cầu khách thiểu dục, trong khởi xấu hổ mà ngoài lại thẹn, đây là ngăn thân nuôi đạo cũng lại nào việc gì… mà ý kia sắp là tột hại mạng thương tổn lòng từ, thương xót hàm thức lý có thể tuyệt dứt. Nếu vậy, đắp y ăn cơm nhiều duyên tổn mạng, loài giun dế từng không để tâm, loài tằm nhộng nào thấy nghĩ đến, nếu gồm hộ mạng chúng nó, bèn khiến nương đâu giữ thân nhờ đâu đặt mạng, dùng lý suy gạn, đây không như vậy, mà có người không ăn tô lạc không mang giày da, không mặc tơ lụa là đồng loại đây.

Hễ bàn chuyện giết, trước lấy sự cố ý đoạn mạng căn kia mới thành nghiệp đạo, quyết chẳng cho suy nghĩ. Phật nói không phạm, ba chỗ thanh tịnh, chế ở quên lỗi, giả sử trái như vậy chỉ đây chỉ bị lõi nhẹ, không tâm giết cho nên nhơn bèn cực thành. Còn nếu nhận người dụ liền bày đắp, nhơn vì dụ đã rõ là không lỗi, nương tông tự rõ. Ba chi đạo lý lại đã rõ tàng, huống gì lại từ kim khẩu của Phật nói, nhọc gì lại cho là xuyên tạc, bèn khiến năm trăm nghi, ra khỏi bút tác giả, ba lần lầm. Truyền lời tin nhận, hoặc kia gọi là xin sống tiêu, gọi là nghiệm tổn trùng; đây thì kẻ tục còn không nên làm huống gì tình mong xa lìa, dẫn đây làm chứng rất thành chưa thể.

Nếu có thí chủ tịnh ý mang đến liền nên xướng tùy hỷ, do nhận dùng để nuôi thân mà đủ đức thật không có lỗi. Pháp phục ở Ngũ Thiên mặc cắt mặc tình may, vải sợi không hỏi ngang dọc, vì ngày không quá ba hay năm, tính một xấp vải làm được bảy điều, năm điều, lá trong ba ngón tay, ngoài duyên một tấc, ngoài duyên (bìa) có cắt ba đường, trong lá đều may chần, đủ sự nêu nghi cũng nào nhờ tinh diệu. Nếu đắp y nạp y ý giữ ít sự, hoặc bỏ nơi đống phân, hoặc đem bỏ rừng thây chết, tùy được liền may dùng che lạnh nóng. Mà có thuyết nói rằng: "Trong Luật nói ngọa cụ tức là ba y", thấy chế tằm hoang liền sanh ý khác. Thừa nghĩa là pháp y chẳng phải vải, bèn liền ân cần tìm cầu, đâu nương bổn văn xưa nay là mền, Cao Thế Gia chính là tên con tằm, làm chỉ vải lại được tên đây, thể là vật quý, chế không cho dùng.

Cách làm mền có hai cách: Hoặc may thành túi đựng lông bên trong, hoặc có thể dùng chỉ dệt thành, tức là loại mền lông. Mền kia rộng hai khuỷu dài bốn khuỷu, dày mỏng tùy thời, tự xin bèn ngăn, người cúng cho thì tội, toàn không cho dùng là việc lớn khoa nghiêm, các đồ trải đây, chẳng phải ba y.

Lại Luật nói rằng: "Chánh mạng nghĩa là miệng bụng làm đầu, cày xới cần được nghi kia, gieo trồng không trái lưới giáo, ứng pháp ăn dùng không sanh tội. Ban đầu nói lập thân có thể lớn phước kia, nương như Luật dạy nhà Tăng làm ruộng, cần cùng tịnh nhơn làm phần số kia, hoặc có thể cùng các người nhà, hoặc đều sáu phần trích ra một, Tăng chỉ cấp trâu cho ruộng, các việc đều không biết, hoặc có thể chia số lượng thời châm chước. Các chùa phương Tây đều như vậy. Hoặc có người tham lam không phân chia, tự sai nô tỳ đến kiểm tra nông sản. Tỳ kheo hộ giới không ăn đồ ăn ấy, ý do Tăng tự làm ra, tà mạng nuôi thân xua đuổi người làm thuê, chẳng trừng mắt không thể hoại giống khai khẩn đất, trùng kiến nhiều thương tổn, ngày ăn không quá một thăng ai lại có thể mang trăm lỗi, do đây người ngay thẳng, giận kia nhiều việc, mang bình ôm bát, bỏ chỗ ồn náo riêng ngồi nơi trống vắng, ưa cùng chim, nai làm bạn, dứt danh lợi ồn ào, tu Niết Bàn vắng lặng. Nếu vì mọi nhà tìm cầu lấy lợi thì luật cũng cho. Khai khẩn đất hại mạng, giáo môn không chấp nhận, tổn thương côn trùng ngăn ngại đạo nghiệp có gì hơn đây.

Có mười hạng tội tà sanh, trước tác thì không thấy làm sớ điều, không quá ba y chánh hạnh, mà lại bao nhiêu nhọc nhằn với bút mực, than ôi! Có thể nói cho người tin, khó nói với người nghi, do sợ nhà truyền pháp còn ôm lòng cố chấp. Ban đầu đến nước Đam Ma Lập Đế, ngoài ngôi chùa có khoảnh đất vuông, chợt thấy mọi người đến hái rau, chia làm ba phần, Tăng một phần, Tự lấy hai phần đem về, chưa hiểu cớ gì, hỏi thầy Đại Thừa Đăng: "Đây là ý gì?", Đáp: "Tăng chúng chùa đây đều nhiều giới hạnh, tự gieo trồng thì Đại Thánh đã cấm, do đó cho người mướn đất, chia hoa màu mà ăn, mới là chánh mạng ít duyên tự sống, không có lỗi sát sanh vì cày cấy trồng tưới". Lại thấy Tỳ kheo tri sự, sáng sớm đến bên giếng nhìn nước, không trùng được dùng. một ngày có lệnh cần lấy đãy lượt, lại thấy chỉ là người ngoài lấy, thậm chí một cọng rau cũng đều cần hỏi chúng mới dùng. Lại thấy trong chùa không lập quy chế, chỉ khi có việc nhóm chúng tính lường nếu duyên ý riêng, xử đoán tùy tình, tổn ích tăng chúng, không theo chúng mong, đây gọi là Câu La Bát Để, chúng cùng đuổi đó.

Lại thấy ni vào chùa Tăng, thưa là cách trước tăng đến chùa ni hỏi rồi mới vào. Nếu ra khỏi chùa phải đi hai người, nếu có duyên sự cần đến nhà thế tục, bạch chúng cho rồi bốn người chung đi. Lại thấy ngày chay tháng tư họp đại chúng trong chùa vào buổi chiều (sau trưa) để nghe quy chế của chùa, tuân theo đó mà làm, rất sanh kính ngưỡng.

Lại thấy có một sư nhỏ sai Đồng tử đem hai thăng gạo cho phụ nữ nhà người, tình hợp riêng tư, có người báo với chúng, gọi đến đoái khán, ba lần đều thừa nhận, tuy không phải việc xấu mà tự phụ tâm xấu hổ, liền bỏ ra ngoài cửa chùa gọi là ruồng khứ (đuổi), sư sai người khác trao kia y vật, chỉ là pháp chúng cùng tuân theo, chưa quản chế. Lại thấy phụ nữ vào chùa, không đến trong phòng khách, ở dưới hiên cùng nói một lát rồi đi. Lại thấy có một Tỳ kheo ở trong chùa tên là Ác La Hộ La Mật Đát La lúc đó khoảng ba mươi tuổi, đức hạnh hơn chúng gọi là cao xa, một ngày tụng kinh Bảo tích có bảy trăm bài tụng, rảnh thì xem ba tạng, rỗng suốt Tứ minh của thế tục, ở các Thánh Đông Độ là bậc Thượng thủ, từ khi thọ giới cụ túc, từng không nhìn nói với phụ nữ, mẹ dì có đến cũng ra nhìn mà thôi. Lúc ấy nói rằng: "Đây trái Phật dạy, vì sao làm vậy?" Đáp: Tánh tôi nhiều nhiễm chẳng phải đây không ngăn nguồn kia, tuy là không phải Phật ngăn, ngại tà cũng lại lo gì?

Lại thấy Đại đức đa văn, hoặc có thể tinh nghiêm một tạng, chúng cấp cho phòng tốt, cũng lo tịnh nhơn để sai khiến, bình thường buông bỏ việc tăng, ra ngoài phần nhiều đi xe kiệu, yên ngựa xấu không cưỡi. Lại thấy khách tăng mới đến chùa, trong năm ngày cùng chúng cho tăng kia ăn ngon trái lệnh biếng nhác, sau bên tăng thường, nếu là người tốt, hòa Tăng mới ở, chuẩn theo tuổi hạ, ngọa cụ là giúp, biết người vô học thì một thể với thường tăng, đầy đủ đa văn bèn chuẩn như trước, sắp đặt ghi tên sổ tăng như người ở lâu.

Lại thấy người tâm tốt đến, hỏi đủ nhơn do nếu đến cầu xuất gia thì hòa tăng cạo tóc, tên không can hệ sổ sách nhà Vua, Tăng tự có bộ sách, sau lại làm hạnh phá giới, chỉ cần đánh kiền chùy mà cứ đuổi đi, vì đây là chúng tăng tự kiểm soát nhau, quá khó là mầm móng xấu hổ, bấy giờ than rằng: " Xưa ở Thần Châu tự nói rõ luật, đâu biết đến đây lại làm người mê, trước nếu không đến phương tây, làm sao có thể xét phép tắc chánh đây". Đây chính là hoặc chúng chế của chùa, hoặc riêng làm tâm yếu (214). Bao nhiêu đều chép ở văn luật, đời mạt trụ trì rất quan trọng, đây đều là cách thức của chùa Đam Ma Lập Để Bạt La Ha. Phép chùa Na Lan Đà lại càng nghiêm, bèn khiến tăng chúng số hơn ba ngàn, phòng ấp thì hơn hai trăm thôn đều là chỗ cúng của Vua Tích Đại, nội thạnh không dứt, chẳng phải luật thì ai?

Cũng chưa thấy có người tục làm quan ngồi chính giữa còn tăng chúng thì đứng một bên, khinh dối kêu la không khác hạng phàm phu, đưa cũ rước mới rong ruổi cùng đường, nếu kiểm điểm không đến thì chạy đến cửa công cầu mệnh gặp quan, không hỏi lạnh nóng. Phàm người xuất gia vốn là tình mong lìa tục bỏ đường hiểm năm điều sợ, đi theo đường bằng bát chánh, há lại rong ruổi theo tấm lưới nặng, muốn cầu đơn giản đâu có thể theo ý, có thể gọi là toàn trái giải thoát không thuận túc nhiên, lý cần hai mươi sáu đổ đa, ba mươi tư cụ, tùy duyên nuôi mạng, trừ bỏ thói xưa, báo ân lớn của sư tăng, cha mẹ và trời rồng. Lòng từ sâu xa của vua, đây thì thuận nghĩa Điều Ngự, khéo hợp đường khuyến tu. Nhơn bàn việc hộ mạng, lại nói hiện hành kia, mong các Đại đức, chớ chê phiền nhiều.

Nhưng bốn bộ sai khác là do nêu mặc quần Nhất Thiết Hữu Bộ thì hai bên hướng ra ngoài đều xếp. Đại chúng bộ thì bên phải quần nhìn bên trái, hướng bên trong rút, không cho rớt, phụ nữ phương tây mặc quần không khác với Đại chúng bộ, Thượng tọa bộ, Chánh lượng bộ chế áo cũng đồng đây nhưng lấy hướng bên ngoài thẳng lật rút bên làm khác, dây lưng cũng không khác. Ni thì chuẩn bộ như tăng, toàn không có thể riêng. Vả lại, như Thần Châu Chi Để, Thiên Đản, che ghẻ, quần vuông, khố thiền, áo dài đều trái bổn chế, nào chỉ đồng tay áo cho đến liền vai, đến khi đắp mặc không xứng luật nghi, mặc dùng đều mắc tội, nếu có đi đến phương tây mọi người đều cười, ôm lòng xấu hổ, chế đủ tạp dụng, đây đều là y phục phi pháp. Nếu im lặng không nói thì do đâu mà biết, như muốn nói thẳng thì sợ người nghe lại oán, do đây trục mềm nơi lòng ngắn chìm đắm nơi tiến thoái (tới lui), mong người trí rõ xét biết bổn nghi của y phục.

Lại ở phương tây, hàng thế tục, quan lại, kẻ sang trọng, mặc y phục chỉ có lụa trắng một đôi, kẻ nghèo thì một chiếc. Pháp chúng xuất gia, chỉ chứa ba y sáu vật, người ưa dư đầy mới dùng ba mươi món tư cụ. Đông Hạ không cho áo tay và liền vai, bởi là thói quen của Đông xuyên, vọng bàn nước ư? tức như y phục các người các bờ biển và giữa Thiệm bộ châu có thể lược nói đó. Lại từ Mạt Ha Bồ Đề đông đến Lâm ấp có hơn hai mươi nước chính ngay mé nam của Châu Hoan. Tây nam đến biển bắc, Tề Yết Thấp Di La và hơn mười nước trong nam hải và Châu sư tử đều mặc hai cảm man. Đã không dây lưng lại cũng không cắt may thẳng là miếng vải quấn hai vòng từ eo xuống. bờ mé biển lớn ngoài Tây thiên có nước Ba Lợi Tư và Đa Để đều đóng khố. Nước Khoả thì từ trước không có y phục, nam nữ đều thể đỏ. Từ Yết Thấp Di La trở đi đến Tốc Lợi các nước Hồ, Phiên Đột Khuyết phần lớn gần giống, không mặc cảm man, áo lông là vụ, ít có kiếp cụ thời còn mặc do cõi kia lạnh, đóng khố là thường tức trong các nước đây chỉ có nước Khoả và Ba Thích Tư, Thổ Phiên Đột Khuyết vốn không có Phật pháp còn bao nhiêu đều tôn thờ Phật, mà mặc áo quần lại không giặt sạch, do đây ở Ngũ thiên tự ỷ thanh cao. Nhưng phong lưu nho nhã, lễ tiết cung kính, ăn uống thuần đặc, nhơn nghĩa sung túc, chỉ có Đông Hạ còn bao nhiêu đâu thể bằng. Nhưng do ăn không giữ sạch, tiện lợi không rửa, cành dương không tước, việc khác bốn nước, mà hiện có đắp y phục phi pháp cho là không lỗi, dẫn lược văn giác kia, phương đây bất tịnh, phương khác thanh tịnh, được làm người vô tội, đây chỉ là sai lầm của người dịch, ý không như vậy, đủ như chỗ khác.

Nếu vậy Bí sô ở Thần châu, ngoài ba y ra đều chẳng phải nghi thánh. Đã kia có phạm, lý khó mặc dùng, vả lại như đất nóng phương tây, chiếc vải tự có thể trọn đời. Núi tuyết làng lạnh muốn sai như làm cứu giúp, thân an nghiệp tiến, Phật có lỗi răn dạy khổ thể nhọc nhằn chính là giáo pháp ngoại đạo. Lý chí lấy kia muốn thế nào nhưng Phật khai áo lập bá thông mặc vào mùa lạnh đây chính đủ được nuôi thân, cũng lại thành gì ngăn đạo. Tiếng Phạn nói là Bá dịch là Lý Phúc Y, kia chỗ chế nghi, lược bày hình dạng, tức là bỏ ngay lưng kia mà lấy bày vai, một bên không mặc tay áo, chỉ cần một bức vừa xuyên qua được tay, vai tay áo không rộng mặc bên trái không nên quá rộng, bên phải giao dây chớ cho gió thổi tróc, phần nhiều chứa bông vải việc cần dày ấm, cũng có bên phải thích hợp xuyên qua đầu núc ở nách, đây là bổn chế.

Mắt nghiệm phương tây có Tăng Hồ đến phần nhiều thấy có mặc, ở Na Lan Đà không thấy áo đây, bởi vì là chỗ nóng, người đều không dùng, chuẩn ý khai đây là vì xứ lạnh, người già bày vai che hết lưng, vốn bắt chước đây, mà làm thêm bờ bên phải mất oai nghi gốc, chẳng phải chế tự làm, định chiêu tội vượt pháp, đến như lập bá ôm bụng tự khỏi lạnh rét, áo dày thông đắp đủ ngăn đông lạnh, chỗ hình tượng đối tôn lễ Phật bày vai là thường, che liền mắc tội.

Nhưng người xuất gia ít việc, tháng mùa đông ở trong phòng đốt lửa thang tùy thời mặc nhiều áo, hẳn có duyên bệnh cần phải mặc, đến khi xử đoán chớ khiến trái nghi. Nhưng mà Đông Hạ lạnh như cắt thân thể, nếu không mặc áo dày sẽ có thể bị chết, đã là nạn duyên lý cần rộng giúp. Quần vuông áo bày vai, hình khác thế tục, chỉ có áo lạp bá mùa đông tạm mặc, biết chẳng phải bổn chế, chì là quyền khai, như xe trục thẳng trong sanh tử lần dày, quyết kia không mặc là việc rất tốt. Từ bao nhiêu loại quần áo khác thảy đều cần ngăn đoán, lạnh rét tạm nhờ, đã là không hợp mặc vào thân mà lại liền mặc áo bày vai, thật chẳng phải khai hạn. Đây thì bỏ nhiều lấy cốt yếu, ngước thuận tình thánh, tự theo chợt có thể, một thân truyền trao sợ là lầm chúng, như có thể thấu triệt sửa đây, việc liền mới theo, liền có thể gọi là tiếp tục thất nhơ, nương núi Thứu mà đều cao vút san sát Vương Xá thông gần Vua mà cùng vây quanh. Nương sông lớn thì sáng nơi lằn ao, liễu mịn chính đồng nhìn nơi cây giác, luyến tiếc ruộng dâu mà xanh tốt, bởi kiếp thạch mà nêu sáng rỡ thật đáng thanh thay! Thật đáng tiếc thay!

Nhưng mặt trời Phật đã chìm, giáo pháp để lại đời sau, thật hành đó thì Đại Sư ở trước mặt, trái giáo thì các lỗi hiện tiền, cho nên kinh dạy: "Nếu có thể trì giới, thì như Ta còn ở đời không khác", hoặc nói "Thượng đức xưa nay đều không nói, ngày nay người sau việc gì đổi phép tắc". Vốn không vậy ư? Y pháp chẳng y người dạy có rộng nói, khảo xét Luật tạng, y thực không lỗi mới có thể lấy (215). Chẳng biết đó là khó, nghe nếu không làm người dẫn nào có lỗi, lại nói rằng:

Loại hàm sanh y thực là trước hết, đây là trói buộc khống chế cuộc sống, vâng lời Phật thì xa lìa rõ ràng tự ý, chính tội lụy kéo nhau, người trí cần xem xét, việc ở trước mắt như ngọc ở chỗ bùn, như hoa sen ở nước, tám gió liền lìa, năm sợ hải nào có buộc, áo vừa che thân ăn chỉ nuôi miệng, chuyên cầu giải thoát, không mong làm người trời, ngăn nhiều hết đời, cứu vật trọn kiếp, bỏ hư dối chính cửa, mong bền chắc cửa thập địa, nên nhận thí năm trăm làm phước lợi ba ngàn.

11. Cách thức mặc ý:

Kia đắp ba y và làm khuy nút, cách thức y luật bày. Có thể lấy vải y năm khuỷu làm ba nhiếp, chỗ vải đầu vai kia để thành y, khoảng bốn năm ngón tay để miếng vải vuông chừng năm ngón tay, chung quanh bốn bên may chần, ở giữa xỏ một lỗ nhỏ để đặt khuy vải, khuy kia hoặc điều hoặc vải, thô hay mịn như khuy áo, có thể dài hai ngón tay, kết làm lổ tròn, còn bao nhiêu cắt bỏ đem nút tra vào lỗ kéo ra bên ngoài, chữ thập giao kết liền thành hai khuy. Khuy trong là đặt ở trước ngực, bờ thành đặt nút cũng như khuy nút áo, tức là pháp kia.

Trước trình bổn chế, lược chuẩn đại cương, nếu muốn khéo thể hội phép kia cần phải đối mặt mà trao, khuy dưới bờ y cũng làm, tùy ý đắp lộn lên xuống, đó là Phật khai cho. Hai đầu cách góc chừng tám ngón tay đều làm một khuy một nút. Đây là khi ăn cần đắp, xếp khuy trước ngực liền hợp nhau. Đây thành cốt yếu. Phàm ở trong chùa, hoặc khi đối chúng, hẳn không cột nút và cách lồng vai mà đắp. Nếu ra ngoài dạo đi, và vào nhà thế tục mới cần một nút, các lúc khác chỉ có thể vắt lên vai mà thôi, ở phòng riêng làm việc tùy ý lật trở. Nếu đối tôn tượng việc cần tề chỉnh, dùng góc phải y rộng vắt lên vai trái, rủ về sau lưng, chớ đặt trên khuỷu tay, nếu muốn cột nút liền cần thông vai đắp rồi đem nút vào khuy, rồi hướng ra sau vai chớ khiến nó rơi rớt, dùng góc đắp vai y liền vòng qua cổ. Hai tay rủ ra một góc ở trước, tượng Vua A Dục chính là cách thức kia. Đi ra ngoài cầm dù hình nghi đáng mến, tức là nương giáo tề chỉnh đắp thượng y.

Cái dù kia có thể dùng trúc dệt nó, mỏng như chiếc tre một lớp liền được, trong đảnh lại làm nghĩ thí như mộng kia, mộng kia dài ngắn lượng như dù rộng, hoặc có thể phủi mỏng bằng sơn, hoặc có thể dệt cỏ làm nó, hoặc như loại vải tấc, chỉ hẹp cũng thành chắc chắn.

Thần Châu tuy không làm trước, vì đó cũng là cốt yếu kia. Đi mưa thì không thấm y phục, nắng nóng thì thật có thể được mát mẽ, đã nương Luật mà lợi ích thân, kỉnh đó vốn cũng không tổn, đây đồng chỗ bàn cốt yếu nhiều việc. Và Thần Châu không làm góc ca sa rủ ngay như mũi voi, Phạm Tăng dầu đến đều cũng giống nhau. Bởi vì vải trơn theo vai bèn khiến ngay thì lầm thế. Sau Đường Tam Tạng truyền đến cách vắt vai, nhưng mà Cổ đức chê đó còn nhiều. Đẳng cư mê ở chỗ đều có, ba y kia nếu đặt nút ngắn mà cắt điều dài thì lỗi trái giáo đã khỏi. Mặc quần ngang mà bỏ dây eo lưng, bèn nhọc châm sợi giao dứt, chỗ có bình bát đều treo hai vai, vừa đến dưới nách không nên kết nhau, quần kia không dài chỉ cho mặc đến đùi mà thôi. Nếu giao kết trước ngực khiến người hơi gấp, vốn chẳng phải bổn chế, liền không thể làm.

Nghi túi bát như sau sẽ bàn, phương bắc mau lợi các người, phần nhiều giao kết, tùy phương biến đổi thật chẳng phải Phật chế, giả sử có y dư khác đắp lên vai, nhưng sau thông đắp che y bát kia. Nếu kia đến chùa và đến nhà thế tục, cốt yếu đến phòng đặt dù mới cởi khuy, treo y bát y, trước phòng, trên vách phần nhiều đặt ngà voi, chớ khiến đến lúc đặt vật không có chỗ, còn câu khác giống chương thứ hai mươi sáu "khách xưa gặp nhau" có nói. Nhưng vải mỏng làm ca sa, phần nhiều trơn không chịu dính trên vai, khi lễ lạy dể rớt đất, mặc tình lấy vật không rớt làm đó, xe sợi điệp trắng là cốt yếu kia. Y Tăng Khước Kỳ kia tức là áo che cánh tay, lại thêm một khuỷu mới hợp nghi gốc, cách đắp mặc kia nên ra vai phải giao kết cánh tay trái, trong phòng thường đắp, chỉ đây cùng quần ra ngoài hay lễ tôn túc mặc tình mặc thêm áo khác. Cách thức mặc quần kia rộng bày ở Đại Huống, tức như làm quần của Hữu bộ, rộng năm khuỷu dọc hai khuỷu, vải thô và vải bố tuỳ ý làm đó. Nước bên Tây thảy đều làm đơn (chiếc), Thần Châu mặc tình làm kép (đôi), rộng dọc tuỳ ý, quấn thân xong liền qua rốn, tay phải kéo góc lên bên trái, ở trong kéo bên phải lên eo, quần trên bên trái lấy bên ngoài mà che bờ trái (gần bên tay phải là quần phải, gần bên tay trái là quần trái), hai tay hai bên cùng kéo cho ngay thẳng chặn giữa chồng thẳng liền thành ba gấp, sau lấy hai tay đều rút đến eo, đều đem ba lớp che về phái sau, hai góc đều nâng lên ba ngón tay, đều hướng theo lưng buông xuống, vào eo chừng ba ngón tay, đây dầu chưa buộc đều cũng đắp vào thân không bị rớt.

Sau lấy dây lưng dài chừng năm khuỷu câu đến ở giữa về trước rốn buông xuống, vòng quanh thành trên quần ra đằng sau cả hai đầu, giao độ trước rút kéo hai bên, đều dùng một tay nắm chặt hai bên, buộc hai đầu dây kia chừng ba lần, có dài thì cắt bớt, nếu ngắn thì nối thêm. Đầu dây không nên may nhiều màu vì là mặc quần tròn ngay, thành bộ riêng của Tát Bà Đa. Bát Lý Man Trà La Trước Nê Bà Sa, tức chơn kia dịch là mặc quần tròn ngay. Sợi dây kia bề mặt rộng bằng bề mặt ngón tay, thì là hạng mang vớ cột giày, hoặc vuông hoặc tròn cả hai cũng không tổn. Dây gai thì văn Luật không cho.

Phàm ngồi xổm trên giường nhỏ và khi lấy kéo góc quần trên quần dưới, gấp kéo thành quần che dưới háng chỉ đậy hai gối lộ cổ chân không thương tổn. Cao cần che trên rốn dưới đến mắt cá chân bốn ngón tay, đây là nghi của nhà thế tục. Nếu ở trong chùa nửa đùi cũng được. Đây là chừng hạn chính Phật tự chế, chẳng phải ý của người có cao thấp, há nên cố trái ý chỉ dạy mà tự thuận phàm tình mặc quần dài phết đất, một là tổn đồ tịnh thí của người có tín tâm, hai là chê câu nói của Đại Sư. Giả sử nếu ân cần ai có thể thấy dùng, trong muôn người có được một hai người giữ ý.

Quần áo ở nước bên Tây đều rộng. Vải điệp trắng cõi ấy một bức rộng hai khuỷu, nếu một nửa kia thì kẻ nghèo khó cầu được, liền cần may hai đầu cho hợp nhau, cắt ở trong mở ra để đủ việc. Nghi mặc áo đây văn Luật đủ có chớ kia, nhưng lại lược bày cương yếu, bàn kỹ chẳng phải là không thể được. Lại phàm là y phục xuất gia đều có thể nhuộm làm Càn-đà, hoặc là đất vàng, hoặc vàng của chồi mận gai. Đây đều nên dùng đất đỏ, đá đỏ nghiền bột hoà đó. Lượng màu đậm nhạt cốt yếu xét việc, hoặc lại riêng dùng tim táo, hoặc đất đỏ đá đỏ, hoặc thường lê, đất tía, một phen nhuộm đến hư cũng việc gì cầu cái khác, mà viền xanh da dâu chính là ngăn điều, màu chánh tía phương Tây không mặc. Giày dép tự có thành dạy dài, dây giày toàn là phi pháp. Vậy Phật theo lằn, nếu chế đoạn như da lột, trong sự nói đủ.

12. Chế áo Ni:

Các Ni đông hạ áo điều giống thế tục, có mặc dùng đều trái nghi. Chuẩn như Luật nói y có năm áo: Một, Tăng Già Đề. Hai, Ôn tha la tăng già. Ba, An đát bà la. Bốn, Tăng phước kỳ. Năm, Quần. Bốn y phép tắc không khác với đại tăng, chỉ có quần là có khác. Tiếng Phạm là Câu tô lạc ca dịch là? Y do kia hai đầu may lại hình như () nhỏ dài bốn khuỷu rộng hai khuỷu, trên có thể đậy, dưới rốn đến trên mắt cá bốn ngón tay khi mặc kéo vào trong, liền qua khỏi rốn, đều rút hai bên kéo đè lên xương sống. Cách buộc dây, lượng đồng với Tăng. giữa ngực và nách không có buộc vòng quanh, giả sử tuổi trẻ hoặc già mà vú nổi cao bên trong thì không lỗi, há làn xấu hổ không trộm dạy kiểm điểm mạn làm nghi sức, mặc cởi mắc tội ư? đến khi gần chết tội như mưa thấm, trong muôn có một thời lại có thể sửa. Nhưng nếu ra ngoài và ở trước Tăng và đến nhà thế tục nhận lời ăn, ca sa quần cổ che thân là không nên, cởi nút vai không lộ ngực, dưới ra tay ăn, hạng áo quần kỳ chi thiên đản (mặc áo bằng vai) Đại Thánh thân chế, không nên mặc dùng.

Ni chúng các nước Nam Hải riêng mặc một y, tuy lại chế chẳng giống phương Tây, cũng gọi là Tăng khước kỳ, dài và rộng đều hai khuỷu, hai đầu may hợp lại để chừng một thước đầu góc cắt một tấc, dơ lên xuyên cánh tay suốt qua đầu, đắp ra vai phải, lại không dây lưng, che nách, đậy vú, dưới rốn, quá gối, nếu muốn mặc đồ đây cũng không thương tổn. Sợi thì chỉ bỏ hai đầu càng kham che hình xấu, nếu không ưa liền có thể trở lại cần giống như đại Tỳ kheo mặc Tăng khước kỳ. Ở phòng trong chùa thì Câu tô lạc ca và Tăng khước kỳ hai sự liền đủ (chuẩn kiểm tổn phạm không có tên Phú kiên y tức là Tăng khước kỳ. Đây chính là bổn hiệu của Kỳ chi, đã không nói quần, phần nhiều là truyền dịch sai lầm). Nên bỏ áo trái pháp, mặc áo thuận giáo. Tăng khước kỳ lúc ấy lấy một bức rưỡi hoặc vải to hoặc vải bố, có thể dài bốn đến năm khuỷu. Nếu đắp năm điều, lại vắt lên vai, tức là nghi kia, nếu đến chỗ khác cần khéo che thân, như ở phòng vắng vai cánh tay chẳng phải sự. Mùa xuân hạ, đây có thể đầy thân, lúc thu đông mặc tình mặc cho ấm. Ôm bát khất thực đủ để nuôi thân, tuy nói rằng nữ nhơn có chí trượng phu há cho làm các tạp nghiệp như máy dệt, rộng làm y phục năm lớp, mười lớp, thiền tụng từng không đến tâm, rong ruổi trấn não tình chí, giống thế tục lo trang sức, không đoái hoài gì giới kinh. Nên có thể môn đồ cùng nhau kiểm soát. Ni chúng nước phương Tây hoàn toàn không có việc này, chỉ khất thực nuôi thân ở chùa nghèo mà thôi. Nếu ni chúng xuất gia như vậy, toàn mong lợi dưỡng, ở trong chùa phần nhiều không có chúng ăn, nếu không tuỳ phần lo toan thì mạng sống không có dưỡng, liền trái luật dạy, liền sai với tâm Phật. Tới lui hai đường thế nào gãy ở giữa, thân an đạo thạnh có thể không nghe rõ.

Đáp vốn khế xuất gia tình mong cầu giải thoát dứt giống hai ba châu, yên dòng bốn bạo, nên dốc chí ngăn nhiều, trừ đường tà khổ vui, đôn đốc lòng thiểu dục, việc đường chơn rảnh rổi vắng lặng, vâng giữ giới luật sớm tối, đây tức đạo thạnh há nghĩ thân an cho là xứng lý. Nếu có thể giữ luật quyết luyện trinh sớ, thì rồng quỷ trời người tự nhiên tôn kính, lo gì không sống, luống sự cực khổ, đến như năm y bình bát đủ được toàn thân, một miệng nhà nhỏ càng kham nuôi mạng, lựa môn đồ người ít việc, như ngọc ở bùn, hoa sen ở nước, tuy nói là hạ chúng, thật trí đồng thượng nhân.

Lại nữa mé tang chết, tăng ni mạn lập lễ nghi, hoặc lại cùng thế tục đồng thương cho là hiếu tử, hoặc phòng lập linh cơ, dùng làm cúng dường, hoặc mặc vải mà trái hình thức, hoặc để tóc dài mà khác, hoặc chống gậy khóc, hoặc ngủ nhà tranh, những điều này đều chẳng phải giáo nghi không làm không lỗi, lý nên là quên trang sức sạch một phòng, hoặc có thể tuỳ thời quyền thí lọng tràng phan, đọc kinh niệm Phật đều lập hương hoa, trái sử vong hồn, nương sống chỗ lành mới thành hiếu tử mới là báo ân, há có thể khóc lệ máu ba năm cho là báo đức không ăn bảy ngày mới phù hợp báo ân ư? Đây chính kết chồng trần lao, càng thêm xiềng xích, từ tối vào tối không ngộ ba tiết duyên khởi, muốn chết đến chết cụ chứng viên thành thập địa.

Nhưng nương Phật giáo, Bí sô chết, quán biết quyết chết, ngay ngày đem đến chỗ thiêu liền lấy lửa đốt. Ngay khi đốt, bạn bè đều cùng ngồi một bên, hoặc kết cỏ làm toà, hoặc nhóm đất làm đài, hoặc sắp ngói đá để làm chỗ ngồi, sai một người có thể tụng kinh Vô thường nửa tờ hay một tờ, chớ khiến lâu mà mỏi mệt (kinh kia riêng chép). Rồi sau đều niệm Vô thường, trở về chỗ ở ngoài chùa trong ao đem y đi giặt, đều dùng trước y cũ không tổn áo mới, riêng mặc khô rồi sau về phòng, lấy phân trâu chà đất cho sạch còn các việc khác đều như cũ. Nghi y phục từng không miếng khác, hoặc có lấy Thiết Lợi La làm tháp cho người chết, gọi là Câu La, hình như cái tháp nhỏ trên không có luân cái. Nhưng tháp có phàm thánh sai khác, như trong luật rộng bàn, há cho bỏ Thánh giáo của cha lành họ Thích mà theo lễ tục của Chu Công kêu gào vài tháng để tang ba năm ư? Từng nghe có pháp sư Linh Dụ không làm cử phát không mặc áo hiếu, liền nghĩ trước vì người chết mà tu phước nghiệp các sư kinh lạc cũng theo dấu vết đây, hoặc người cho là chẳng hiếu, đâu biết lại phù hợp với ý chỉ của luật.

13. Cách kết tịnh địa:

Có năm loại tịnh địa; Một là khởi tâm làm, hai là cùng ấn định, ba là như trâu nằm, bốn là chỗ cũ bỏ, năm là tác pháp làm.

Khởi tâm làm: Khi mới làm chùa, định nền đá rồi, nếu một Bí sô làm người coi xét, nên khởi tâm như vầy "Ở một chùa đây, hoặc có thể một phòng, vì tăng làm tịnh trù".

Cùng ấn định: Khi định nền chùa nếu chỉ ba người nên một Bí sô bảo hai vị kia: "Các Đại đức đều có thể dụng tâm ấn định chỗ đây, ở một chùa đây hoặc có thể một phòng vì tăng làm tịnh trù", người thứ hai thứ ba cũng nên nói như vậy.

Như trâu nằm: Chùa kia phòng nhà dụ như trâu nằm, cửa phòng không có định chỗ, dù khiến không tác pháp, chỗ đây liền thành tịnh địa.

Chỗ cũ bỏ: Nghĩa là chỗ tăng bỏ từ lâu, nếu có người đến chạm vào chỗ cũ liền là tịnh địa. Nhưng đây cần tác pháp liền không được qua đêm.

Nói tác pháp làm: Nghĩa là bạch nhị Yết ma kiết giới, văn như trong Bạch nhất yết ma có nói. Như năm món trước tác tịnh pháp rồi, Phật nói "Khiến các Bí sô được hai món an lạc: Một là nấu ở trong chứa ở ngoài, hai là nấu ở ngoài chứa ở trong đều không có 1ỗi". Kiểm nghiệm bốn bộ chúng tăng mắt thấy ngay nay làm việc và lại rõ nhìn ý chỉ luật phần lớn như đây lập tịnh. Nhưng trước khi chưa tác pháp, nếu cùng ăn uống, đồng giới ngủ đều có lỗi nếu ngủ. Đã gia pháp rồi, tuy cùng giới ngủ không lỗi ngủ, nói đây giáo kia.

Nói một chùa là gồm xướng trụ xứ lấy làm tịnh trù, trong mỗi phòng sống chín đều cất chứa. Nếu không cho ngủ trong đó, chẳng lẽ đuổi tăng ra ngoài mà ở, một là tăng không hộ đêm, hai là cất chứa không lỗi. Nước phương tây truyền nhau, đều gồm kết một chùa làm tịnh trù. Nếu muốn cột thâu một bên, đều ở khai hạng không đồng ý luật sư Thần châu. Vả lại Như Lai kiết giới y lìa ngủ chiêu lấy lỗi, tăng nếu kiết rồi lìa liền không mất y. Tịnh trù cũng vậy, đã là Phật chấp nhận chớ có trệ phàm tình. Lại giới pháp hộ y, cỏ cây... không đồng, chỉ hộ phần giới ý chẳng ngăn nữ, tịnh nhân vào nhà bếp, há được tức là thôn thâu, giả như thân vào thôn xóm không đâu chẳng hộ nữ, Duy Na giữ y, kiểm xét đây cũng mạn làm thương tổn.

14. Năm chúng an cư:

Tiền an cư là ngày mùng một hắc ngoạt tháng năm, hậu an cư là mùng một hắc ngoạt tháng sáu, chỉ hai ngày này nên làm an cư, chặn giữa hai ngày đây văn không cho. Đến nửa tháng tám là tiền hạ xong, đến nửa tháng chín là hậu hạ xong. Lúc này pháp tục cúng dường đầy đủ, từ nửa tháng tám về sau gọi là tháng Ca Chúng Để Ca. Giang Nam lập hội Ca Đề chánh là thời tiền hạ xong, ngày mười sáu tháng tám tức là ngày mở y Yết hy na, đây là phép xưa. Lại văn luật nói: "Phàm ở trong hạ nếu có pháp duyên cần thọ nhựt, tuỳ duyên nhiều ít liền chuẩn ngày mà thọ. Việc một đêm thì đến thọ một ngày, như vậy dẫn đến bảy ngày đều đối riêng một người. Lại có duyên đến, luật sai lại thỉnh mà đi, nếu quá bảy ngày và tám ngày rồi đi, nhẫn đến chặn giữa bốn mươi đêm yết ma thọ tám ngày... rồi đi, nhưng không được quá nửa hạ ngủ đêm ngoài giới, vì đây chỉ cho bốn mươi đêm. Nếu có bệnh duyên và các nạn sự cần đến chỗ khác, tuy không thọ nhựt mà không phá an cư.

Năm chúng xuất gia đã làm an cư, chúng dưới có duyên dặn dò mà đi. Chưa đến hạ, trước dự chia phòng xá, Thượng tọa lấy phòng tốt, rồi theo thứ lớp phân chia đến cuối. Chùa Na La Đà hiện thật hành pháp đây. Đại chúng mỗi năm thường chia phòng xá, Thế Tôn chính thân dạy rất là lợi ích, một là trừ tâm chấp ngã, hai là khắp hộ phòng tăng. Chúng xuất gia lý nên cần làm. Nhưng các chùa Giang Tả, khi có chia chùa, đây là cổ đức truyền nhau, còn làm pháp kia, há cho ở một chùa cho là mình có, không quán hợp hay không bèn đến trọn đời. Bởi do đời trước không làm đến đổi người sau mất pháp, nếu có thể chuẩn giáo mà chia, thật là rất có ích.

15. Tuỳ ý thành quy:

Phàm khi hạ xong trọn tuổi, ngàn này nên gọi là tuỳ ý, tức là tuỳ người khác ở trong việc mặc ý cử phát nghĩa nói tội trừ lỗi, xưa nói là tự tứ, là dịch nghĩa. Hẳn cần ở đêm mười bốn thỉnh một kinh sư lên tòa cao tụng Phật, lúc này kẻ tục hay pháp đồ mây nhóm, đốt đèn nối sáng hương hoa cúng dường, sáng mai gồm ra nhiễu thôn thành, thảy đều chí tâm lễ các tháp miếu, kiệu cáng, xe cộ, trống nhạc đầy trời, tràng phan, bảo cái, lưới lọng rợp mặt trời, gọi là Tam Ma Cận La dịch là Hoà Tập. Phàm ngày đại trai thảy đều như vậy, tức là hành pháp cõi Thần châu, giữa ngọ mới về lại chùa ngọ nhựt mới là đại trai, quá ngọ đều nhóm, đều lấy tranh tươi có thể một ôm, tay cầm chân đạp làm việc tuỳ ý, trước là Bí sô, sau mới Ni chúng, kế ba chúng sau. Nếu chúng kia nhiều sợ tốn nhiều thời gian, nên sai nhiều người chia nhận tuỳ ý, được người khác cử tội thì chuẩn pháp nói trừ ngay lúc đó.

Hoặc thế tục làm thí hoặc chúng tăng tự làm, chỗ có vật thí đem đến trước chúng. người đủ năm đức kia nên hỏi Thượng tọa: "Vật đây được cho chúng tăng làm vật tuỳ ý chăng?"

Đáp: Có được y phục, dao kim... nhận rồi chia đều. Đây là kia dạy. Ngày này sở dĩ cúng kim dao là ý cầu thông minh lợi trí. Tuỳ ý đã xong mặc tình mỗi vật, tức là ngồi hạ xong không nhọc gì trải qua một đêm, rộng như chỗ khác đây không nói rõ. Nói thuyết tội là ý muốn bày tội nói lỗi trước của mình, sửa lỗi tu mới chí thành khẩn trách, nửa tháng nửa tháng làm Bào Sái Đà sáng chiều sáng chiều nhớ tội đã phạm (Bào Sái là Trưởng dưỡng, Đà là Tịnh, Ý rõ lớn Thiện tịnh trừ lỗi phá giới. Xưa nói là Bố tát lầm lược). Thiên đầu nếu phạm, sự không thể trị. Thiên thứ có trái cần hai mươi người. Nếu làm tội nhẹ đối người không đồng mà trừ hối đó. Tiếng Phạn gọi là A Bát Để Bát Lặc Để Đề Xá Na. A Bát Để là tội lỗi. Bát Lặc Để Đề Xá Na là đối người mà nói. Nói lỗi mình mong được thanh tịnh, tự cần đều nương phần hạng thì có thể mong diệt tội. Nếu tổng tướng bàn lỗi chẳng phải luật chấp nhận, xưa nói là sám hối, chẳng phải liền nói tội cớ gì sám ma là âm bên tây, tự sẽ nhận nghĩa còn hối là chữ của Đông hạ, theo hối là tự, hối đó cùng nhận lỗi không can hệ nhau. Nếu nương bản Phạn, khi trừ các tội nên nói rằng chí tâm nói tội, do đây rõ xét. Dịch sám ma là truy hối tợ như can do đến. Người nước phương tây chỉ có lầm chạm và thân lầm chạm nhau, không hỏi lớn nhỏ, lớn thì duỗi tay đến nhau, nhỏ thì chắp tay cung kỉnh, hoặc có thể vỗ thân, hoặc lúc cầm tay miệng nói "sám ma", ý là xin tha thứ xin chớ giận trách.

Trong luật nói: Đề Xá Na, sợ ôm lòng sau mang đến người tạ tội, đã nói lời Sám ma, hẳn như tự mình bày lỗi, chính nói là "Đề Xá Na" Sợ ôm lòng sau trệ dùng sửa mê trước, tuy có thể thói quen đã thành từ lâu mà sự cần nương gốc. Tiếng Phạn gọi là Bát Thích Bà Thích Noa dịch là Tuỳ ý cũng là nghĩa no đủ, cũng là tuỳ người khác ý nêu chỗ phạm kia.

16. Muỗng đũa hợp chăng:

Cách ăn ở phương chỉ dùng tay phải, hẳn có bệnh cho nên khai cho chứa muỗng đũa kia thì Ngũ thiên không nghe tên, bốn bộ cũng chưa thấy, mà Đông hạ có việc đây. Kẻ tự là pháp xưa, tăng lữ tuỳ tình dùng chăng? Đũa tức không cho mà chẳng ngăn, tức là ở lược giáo, khi dùng chúng không chê bai, Đông hạ liền có thể làm. Nếu chấp tục có chê cười, cõi tây nguyên không nên cầm, ý chỉ lược giáo việc kia.

17. Biết thời mà lễ:

Phép lễ kỉnh cẩn hợp nghi kia, nếu không thuận giáo thì đất bằng đảo ngược, cho nên Phật nói: "Có hai món dơ không nên nhận lễ cũng không lễ người khác, nếu trái lời dạy mỗi lễ đều mắc tội ác tác. Gì là hai dơ: Một là ăn uống dơ, nghĩa là nếu ăn nuốt tất cả các vật, thậm chí nuốt một miếng thuốc nếu không súc miệng rửa tay rồi đến thì đều không nên nhận lễ hay lễ người khác. Nếu uống tương hoặc nước nhẫn đến nước trà, mật và tô đường, nếu chưa súc miệng rửa tay, lễ đồng trước phạm tội. Hai là bất tịnh dơ, nghĩa là đi đại tiểu tiện dính thân chưa rửa sạch và chưa rửa tay súc miệng hoặc thân hoặc áo bị tiện lợi bất tịnh, khạc nhổ... làm dơ, mình chưa sạch, hoặc sáng dậy chưa tước cây xỉa răng mà lễ đồng phạm như trước.

Lại ở đại chúng nhóm họp trai hội, kế chắp tay tức là chí kỉnh, cũng không nhọc toàn lễ, lễ liền trái giáo, hoặc chỗ ồn náo, hoặc đất không sạch, hoặc giữa đường đi lễ cũng đồng phạm. Các việc đây đều có văn luật nhưng vì lâu ngày truyền nhau ở nơi cõi lạnh, muốn cầu thuận giáo việc cũng khó làm, chớ không dẫn đồng nhiều để tự an ủi rất chịu lưu tâm nơi tội nhỏ.

18. Việc tiện lợi:

Việc tiện lợi lược nêu ra nghi kia, dưới là mặc quần tắm rửa, trên là mặc tăng khước kỳ, kế lấy độc bình châm nước cho đầy, đem lên nhà xí đóng cửa ngăn thân, đất cần mười bốn hòn để ở ngoài nhà xí trên lu đá hoặc trên ván nhỏ, lượng ván và lu đó dài một khuỷu rộng nửa khuỷu, đất kia nát làm bột, riêng làm hai hàng, mỗi mỗi riêng nhóm lại đặt một hòn, lại đem ba hòn vào trong nhà xí đặt ở một bên, một chùi thể một dùng rửa thân. Cách rửa thân, cần dùng tay trái, trước lấy nước rửa, sau chùi bằng đất sạch, dư có một hòn, để lại một bên rửa tay cái kia. Nếu có thẻ đem vào cũng treo, khi dùng xong cần ném ra ngoài nhà xí, hẳn dùng giấy cũ có thể bỏ trong nhà xí.

Đã rửa sạch rồi mới dùng tay phải kéo y kia, bình để một bên, tay phải mở cửa bên, lại tay phải cầm bình mà ra, hoặc lấy tay trái ôm bình, có thể dùng tay phải nâng tay trái đóng cửa mà đi. Đến chỗ kia ngồi xổm một bên, nếu cần vật ngồi tuỳ thời lượng xứ, đặt bình trên đùi trái có thể dùng tay trái đè nó trước lấy bảy hòn đất gần thân mỗi mỗi rửa tay trái, sau dùng bảy hòn còn lại mỗi mỗi rửa sạch hai tay, trên ngói gỗ quyết cần rửa sạch, dư có một hòn đem rửa bình, kế rửa cánh tay và chân đều cho sạch sẽ, rồi sau tuỳ tình mà đi. Nước trong bình này không nên đưa vào miệng môi, lại đến trong phòng, lấy nước ở bình sạch súc miệng, nếu việc kia đến chạm bình này còn cần rửa tay súc miệng mới có thể cầm đồ khác đây chính là nghi đại tiện, thô nói như đây, hẳn kia bớt việc đều mặc ý tự làm, may có người cúng liền rửa chẳng lỗi. Tiểu tiện thì một hai hòn đất có thể dùng rửa tay rửa thân, đây tức trước thanh tịnh là cơ bản cung kính, hoặc người cho là việc nhỏ, luật dạy bèn có quở lớn. Nếu không rửa sạch, không nên ngồi giường của tăng, cũng không nên lễ Tam bảo. đây là cách ngài Thân Tử hàng phục ngoại đạo. Phật nhơn đó gồm chế cho Bí sô, từ đó thì vâng theo luật phước sẽ sanh, không làm là trái giáo thì chiêu lấy tội. Đây là Đông hạ không truyền. Xưa còn vậy giả xử nay mở bày bèn khởi tâm chê cười, liền nói "Đại thừa luống thông gì là sạch gì là dơ trong bụng hằng đầy rửa ngoài ích gì"? Đâu biết khinh khi giáo, vu báng tâm thánh, nhận lễ hay lễ người đều chiêu lấy tội. Mặc áo ăn cơm trời thần cũng chê, nếu rửa sạch Ngũ thiên đồng cười, đến đâu mọi người đều chê, tân đặt nối rộng nên truyền giáo, đã nhàm lìa trần tục, bỏ nhà đến chốn không nhà, liền nên ân cần dùng lời của cha lành họ Thích, đâu được trợn mắt nơi thuyết tỳ ni. Như kia không tin may có thể nương đây, rửa đó khoảng năm sáu ngày, liền biết lỗi không rửa.

Nhưng tháng đông lạnh phải rửa nước ấm, hoặc có ngậm nước đem đi cũng trái phép sạch. Phàm là tăng trước cần làm sạch nhà xí, nếu mình không đủ sức thì sai người khác làm, cùng mười phương tăng lý thông phàm thánh, không phí tổn nhiều, đây là cốt yếu, phải sạch nghiệp mới không luống uổng. Lý cần đại khái có thể nhận một hai viên đá, chứa đất cho đầy đặt ở bên, đại chúng hẳn không riêng phòng có thể chứa. Nếu rốt cuộc không có bình nước, cho dùng chậu ngói... bát... đựng đầy nước đem vào để một bên, tay phải rửa cũng không thương tổn. Ở Giang Hoài đất dưới bồn xí nhiều, không thể ở đây liền là rửa sạch, mà nên làm chỗ rửa riêng, dòng nước thông ra là tốt. Vả lại như Thần châu, Bao Phúc, Đại Khâu, Linh Nghiêm, Kinh Phủ, Ngọc Tuyền, Dương Châu, Bạch Tháp làm sạch nơi nhà xí rất truyền pháp đây, nhưng mà để nước, đất ít có giống vậy. Từ trước khiến sớm có người dạy làm phép cũng không sai Vương Xá, đây chính là cái còn sót lại của Tiên hiền há là lòng mong của kẻ hậu tấn. Nhưng trong nhà xí chứa đất đặt bình đều cần an ổn chớ khiến khuyết sự, thêm bình rửa tưới là tốt, như chứa quân trì là chuẩn làm trước. Bình đồng đầy nắp mà miệng rộng. Xưa nay không trong rửa sạch, nếu bên bụng né riêng là một cái lỗ trên đảnh dùng thiếc cứng, cao nhọn ra giữa đặt lỗ nhỏ, đây cũng là quyền (tạm) dùng lúc cần.

Lại nói: Chép nhọc giấy bút, bao nhiêu ân cần, thuận dòng theo can gián mong có người kia.

Đại thánh đã thị tịch ở Song lâm, La hán cũng đốt thân nơi Ngũ ấn, để lại bao nhiêu giáo pháp ảnh hưởng Chấn Đán đây đi gởi bạn tổn sanh. Hưng do khách bỏ tục, bỏ phiền trược ngây ngô, mộ trong sạch sáng rỡ, cầu ngoài và hoặc trong đều diệt, kiết trên cùng phược dưới đồng rửa sạch, tức đều dấu vết kia, sáng rỡ thần kia, bốn nghi không luỵ, ba tôn là thân thuộc, đã không bị người đời cười há lại sợ thấy vua chết giận, lợi chín cõi mà xét nghĩ thành nhơn thơm ba đời, mong mỏi muôn một mà có thể sửa cũng đâu có từ chối nạn khó hai kỷ. (219).

QUYỂN 3

19. Phép tắc thọ giới:

Nghi tắc xuất gia của nước phương tây đều đầy đủ thánh chế, rộng như Bạch nhất yết ma, đây chỉ lược đưa ra vuông góc. Các vị phát tâm muốn xuất gia tuỳ tình ưa mến, đến bên một thầy bày ý muốn của mình. Sư bèn phương tiện hỏi nạn sự, nghĩa là chẳng hại cha mẹ....Nạn sự đã không mới hứa nhiếp thọ, đã nhiếp thọ rồi trải qua tuần tháng kiến kia giải dứt, sư bèn trao cho năm món học xứ (năm giới) gọi là Ô Ba Sách Ca. Từ đây sắp về trước chẳng phải số bảy chúng đây là mới vào nền Phật pháp. Sư kế đó sắm cho mạn y, tăng khước kỳ, hạ quần và bát, đãy lượt, rồi mới bạch tăng thưa việc xuất gia. Tăng chúng chấp nhận rồi, thỉnh A Giá Lê Gia, có thể ở chỗ sai người cạo đầu trừ bỏ râu tóc mới vừa mát lạnh, dạy kia tắm gội. Sư bèn mặc hạ quần cho, phương tiện kiểm soát chẳng phải là huỳnh môn... kế cho áo trên khiến đội đầu mà nhận. Mặc pháp y rồi trao cho bình bát đây gọi là xuất gia. Kế ở trước bổn sư, A Giá Lê Gia trao mười học xứ (mười giới), hoặc khi thầm tụng, hoặc có thể đọc văn. Đã nhận giới rồi gọi là Thấp La Mạt Ni La (dịch là Cầu tịch, nói muốn cầu đến chỗ Niết bàn viên tịch, xưa nói là Sa di, nói lược mà âm lầm dịch là tức từ ý chuẩn mà không y cứ) Oai nghi tiết độ thỉnh dạy thưa việc cùng tiến đến cụ túc thể không hai chuẩn.

Nhưng ở luật tạng, mười hai điều không phạm chánh học nữ kia hơi có sai hàng. Gì là mười hai? Một là không phân biệt y. Hai là lìa y ngủ, Ba là riêng đốt lửa. Bốn là ăn đủ. Năm là hai vật sống. Sáu là lìa bỏ đồ bất tịnh trên cỏ xanh. Bảy là leo lên cây cao. Tám là chạm vật báu. Chín là ăn đồ ăn cách đêm. Mười là hoại đất. Mười một là không thọ thực. Mười hai là tổn mầm sống. Mười hai món đây, hai nhỏ chẳng lỗi, đây chính học nữ năm món sau liền phạm. Ba chúng sau đây đều chế an cư. Sáu pháp và sáu tuỳ pháp kia như chỗ khác nói, có thể như đây mới thành ứng pháp. Là năm chúng thâu kham tiêu vật lợi, há có người xuất gia rồi sau sư chủ không trao mười giới, sợ kia huỷ phá đại giới không thành, đây là vọng phụ tên cầu tịch, dối ôm danh xưng xuất gia, do ôm miếng lợi đâu biết tổn lớn.

Kinh nói: Tuy chưa thọ mười giới, rơi vào số tăng, vẫn là quyền khai một chỗ, há được chấp tác thời gian dài.

Lại Thần châu xuất gia đều do công độ, đã mong rụng tóc bèn quyền nương một thầy, sư chủ vốn không hỏi kia một giá nạn, đệ tử cũng nào từng thỉnh mười giới, chưa tiến đến cụ túc, lại sợ tình tạo tội, đến ngày thọ cụ túc khiến vào đạo tràng. Luật ni từng không dự dạy, đến thời chẳng chịu điều thuận, đạo trụ trì vốn không vậy. Đã không tiêu của thường trụ, thọ thí mắc nợ nào nghi. Lý nên nương giáo mà làm giải thoát. Phàm mong công độ đều cần dự thỉnh một thầy, sư trước hỏi nạn sự, nếu thanh tịnh thì trao cho năm giới, sau cạo tóc, trao mạn y cho thọ mười giới, cách thức đã rành, tuổi đủ muốn thọ giới cụ túc. thầy bèn xem ý chí kia có thể phụng trì, liền có thể sắm cho sáu vật và thỉnh chín vị khác hoặc vào tiểu đàn hoặc ở đại giới, hoặc tự nhiên giới đều được bỉnh pháp. Nhưng trong đàn tràng, hoặc dùng mền mọi nhà, hoặc có thể người người tự đem vật ngồi, lược sắm hoa hương không ở phí nhọc. Người thọ giới kia dạy khiến ba lần mỗi mỗi lễ tăng, hoặc khi gần trước hai tay cầm chân, hai cái đây đều là nghi thánh dạy lễ kỉnh, cũng đã lễ rồi dạy kia xin giới. Đã ba lần xin rồi, bổn sư đối chúng mà cho y bát, bát kia cần đem tuần hành khắp trình đại chúng. Như hợp dạng, đại chúng người người đều nói là bát tốt, nếu không nói thì mắc tội vượt pháp, rồi sau nương pháp cho thọ, sư yết ma chấp văn mà đọc, hoặc khi tụng thầm đều là thánh giáo, đã thọ giới rồi, gọi là Ô Ba Tam Bát Na (Ô Ba là cận, Tam Bát Na là viên nghĩa là Niết Bàn, nay nhận đại giới tức là thân gần Niết Bàn. Xưa nói rằng cụ túc, nói kia tràn ý).

Nhưng yết ma cũng xong, gấp cần lường ảnh ghi riêng năm thời. Pháp lường ảnh kia, dự lấy một cành cây như đũa nhuyễn dài chừng một khuỷu chẻ một đầu bốn ngón tay dọc như hình khúc xích chớ khiến lìa nhau, dựng dọc đũa giữa ngày, còn bao nhiêu gây rải đất khiến bóng dọc kia cùng gậy nằm tương đương. Mới dùng bốn ngón tay lường bóng nằm kia, đủ một cái bốn ngón gọi là Bố Lạc Sa, nhẫn đến nhiều Bố Lạc Sa, hoặc một Bố Lạc Sa dư một ngón nửa ngón, hoặc chỉ có một ngón… như vậy gia giảm có thể dùng ý lường (nói Bố Lạc Sa dịch là người, sở dĩ bóng bốn ngón tay gọi là một người, tức là bốn ngón khi gậy dọc bóng dài bốn ngón, người đây đứng ở giữa lượng bóng và thân tương tợ, kia tám ngón cùng hai lần bóng lượng thân tương tợ, đây căn cứ người trung bình, chưa hẳn đều như vậy, tự có dài ngắn khác, nghĩa có thế chuẩn đó). Nhưng cần nói kia bữa ăn trước bữa ăn sau hoặc trời mát và ban đêm liền cần chuẩn ước mà nói. Nếu nương cách của Thần châu, hoặc có thể trước dọc giữa ngày lường bóng dài ngắn, hoặc lại ghi kia mười hai thìn số. Nói năm thời đã là cõi nước khác nghi, số tháng lìa hợp, chẳng phải tự ngón tay sự khó để uỷ biết. Một là mùa đông có bốn tháng từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng giêng. Hai là mùa xuân cũng có bốn tháng, từ ngày 16 tháng giêng đến 15 tháng 5. Ba là mùa mưa chỉ có một tháng, từ ngày 16 tháng 5 đến 15 tháng 6. Bốn là mùa cuối chí có một ngày một đêm là ngày đêm của ngày 16 tháng 6. Năm là thời dài, từ ngày 17 tháng 6 đến 15 tháng 9. Đây chính riêng trong luật giáo Phật chế, thứ lớp như vậy rõ có mật ý, nếu nương phương tục hoặc làm ba thời bốn thời sáu thời như chỗ khác nói.

Phàm người phương Tây, Nam Hải xuất gia, mới gặp nhau hỏi rằng: "Đại Đức mấy hạ?" Đáp: "Tôi chừng mấy hạ". Nếu hạ đồng thì hỏi thời lúc nào, nếu thời đồng thì hỏi được mấy ngày, nếu ngày đồng thì hỏi ăn trước sau, đồng ở bữa ăn trước mới hỏi bóng, bóng nếu khác thì lớn nhỏ thành khác, bóng nếu đồng thì không lớn nhỏ. Ngoài thì cứ ai đến trước, người tri sự mặc tình kia sai trước. Từ trước phương Tây cần phải hỏi, không giống như Chi Na (Trung Quốc) ghi ngày tháng mà thôi. Nhưng chùa Na Lan Đà phần nhiều là thời đại, minh tướng mới ra thọ nhận cận viên kia, ý lấy trong đồng hạ nhiều là lớn nhất. Tức ngay Thần châu, ngày 17 tháng 6 minh tướng vừa ra, do không được sau hạ (đây cứ pháp bốn phương ngồi hạ, nếu như làm xưa của Thần châu tức phải là ngày 17 tháng 5). Nếu đêm 16 tháng 6 sắp hết mà thọ giới thì đồng nhỏ nhất trong hạ, do kia được hạ sau.

Đã thọ giới rồi không hành sấn khí, nếu thầy có cho nhiều ít, hoặc dây lưng, hoặc đãy lược nước mang đến đàn để bày tâm không dối. Kế bổn sư chỉ bày giới bổn chỉ biết tướng tội, mới dạy tụng giới. Đã tụng tạng đại luật thuần thục rồi, ngày ngày tụng qua, sáng sáng thử đó, không hằng thọ trì e tổn tâm lực. Tụng luật tạng rồi mới học kinh luận, đây là chánh thức của thầy phương Tây. Tuy là cách Phật rất xa mà pháp đây chưa thiếu, vì hai thầy đây dụ như cha mẹ đâu có lúc muốn thọ cực nhọc vô cùng, cũng đã được rồi giới không đoái hoài, có thuỷ không chung rất là đáng tiếc. Cũng có một hội cầu thọ, thọ rồi không lại thăm thầy, không tụng giới kinh, không mở sách luật, dối thấm thiết pháp vị, tự tổn và tổn người khác, hạng đây thành diệt pháp. Nhưng hành pháp của phương Tây, thọ cận viên rồi đi, gọi là Đạt Hạt La (dịch là tiểu sư) đủ mười hạ gọi là Tất Tha Tích La (dịch là trụ vị) được lìa y chỉ mà ở, lại được làm Ô Ba Đà La. Phàm có sách vở qua lại đều là cầu tịch (A, B) tiểu Bí sô (A, B), trụ vị Bí sô (A, B). Nếu học xong nội ngoại điển, đức hạnh cao cả liền nói là Bí sô đa văn (A, B), không thể nói là tăng (A, B). Tăng là tăng già tự là đại chúng, đâu cho một mình nói bốn người, phương Tây không có phép đây, phàm làm thân giáo sư, cốt yếu càn trụ vị đủ mười hạ sư bỉnh yết ma và dạy chỗ vắng cùng các người chứng minh đều không định năm bao nhiêu sự cần hiểu luật trong thanh tịnh bèn đủ số. Luật nói: Chẳng phải Ô Ba Đà Na, mà gọi là Ô Ba Đà Na, chẳng phải A Giá Lợi Na mà gọi là A Giá Lợi Na, hoặc dịch hai tên đây và thân gần tên Ô Ba Đà Na, đều mắc tội ác tác. Nếu có người hỏi: Vậy thân giáo sư gọi là gì?

Hoặc hỏi: Ông đệ tử ai?

Hoặc có thể tự có việc đến cần nói tên thầy, đều nêu nói ta nhơn việc ấy mà nói tên Ô Ba Đà Na. Ô Ba Đà Na tên mổ giáp, nước phương Tây, Nam Hải xưng ta không phải mạng từ, giả sử khiến nói ông cũng chẳng xưng nhẹ, nhưng muốn riêng bỉ thử kia. Toàn không tâm ngạo nghễ, không đều Thần châu toan làm xấu ác. Nếu kia chê hiềm mà sửa, ta vì nay đây chính đều là thánh giáo nên có thể làm đó, không được sấm đồng không chia đen trắng. Nói rằng: phàm các bạch y đến chỗ Bí sô, hoặc chuyên tụng kinh Phật, tình mong rơi rụng tóc, nguyện mặc áo đen gọi là đồng tử, hoặc cầu ngoại điển tâm không xa lìa gọi là học sanh, hai dòng đây đều cần tự ăn (chùa Tăng nước Tây có nhiều học sanh, đến Bí sô học tập ngoại điển, một là được rong ruổi hầu hạ, hai là dạy phát tâm tốt, đã có lợi mình và lợi người, chứa đó chẳng tổn, hẳn là một Bát Đổ Đa. Hiện thỉ không nhọc, nếu cũng ít có cùng thừa, cũng thành là cốt yếu sai cấp cây xỉa răng khiến kia trao ăn, đủ ứng thời cần, không thương tổn đạo bi).

Nếu ăn của thường trụ thánh giáo toàn ngăn hẳn kia ở chúng có cực nhọc, chuẩn công cũng hợp bữa ăn, hoặc là ăn thông thường, hoặc có thể thí chủ tâm trước tuy lại ăn uống cho nên thành không tội. Rồng chìm bóng dưới sông, núi Linh thứu mất ánh sáng, La Hán truyền pháp có thể còn bao nhiêu, cho nên luận nói rằng: "Đại sư nhắm mắt chứng tuỳ mất, khi phiền não tăng nên siêng năng chớ buông lung, lý phải các đức cùng làm hộ trì nếu uỷ tuỳ mà buông tâm mạn, muốn sai người trời hướng đâu mà quay về". Luật nói: "Có bỉnh yết ma pháp ta chưa diệt, nếu không bỉnh yết ma pháp ta liền hết". Lại nói rằng: "Giới trụ ta trụ, lý chẳng dối nói, đã có ý chỉ sâu thật có thể kỉnh ư?".

Lại nói: Đại sư bóng tạ pháp sắp theo mất núi tà vòi vọi, đỉnh huệ đồi cương, lại sáng mặt trời Phật, là uỷ hiền lương, nếu tuân theo con đường tắt nhỏ, ai hoằng phương lớn, may mắn rủ thông thệ gắng sức tuyên dương, mong nối thạnh không thay thế, truyền hằng kiếp mà càng thêm, càng thêm người nào, biển giới nổi sóng, đây thì giáo sắp diệt mà không diệt, hạnh muốn cảm hoá mà không cảm hoá, phù hợp chánh thuyết ở Vương Xá sự không khuyết ở Thệ Đa.

20. Tuỳ thời tắm rửa:

Phàm luận pháp tắm rửa, nước phương Tây cùng đông hạ không đồng nhưng do thời tiết điều hoà tiêu các chỗ khác, ở tháng 12 hoa quả hằng có, không biết nước tuyết mỏng có sương nhẹ, tuy lại nấu nhiều cũng chẳng khổ nóng, nóng thì thân không rôm sảy, lạnh bèn đủ không áo da, đây là người nhiều tắm rửa thân thể thanh tịnh, thường mỗi mỗi ngày không rửa là không ăn. Lại chỗ ở rất nhiều nước ao, người lúc bấy giờ dùng xuyên ao làm phước, nếu làm một dịch thì trong thấy ba hai mươi chỗ, hoặc rộng một mẫu năm mẫu, ở bốn bên gieo cây Đa La cao bốn năm mươi thước, ao đều đầy nước mưa lắng trong như sông trong, tám tháp đều có ao Thế Tôn tắm, nước ở đó trong mát hơn các chỗ khác. Chùa Na Lan Đà có hơn mười ao lớn, thường mỗi buổi sáng, chùa đánh kiền chùy chúng tăng đi tắm mỗi người đều tự đem đồ tắm, hoặc ngàn hoặc trăm, đều ra ngoài chùa đến các ao mà tắm, cách quần tắm là lấy vải bố dài năm khuỷu rộng khuỷu rưỡi quấn thân cho giáp vào, rút quần cũ ra, xoay hai đầu ra phía trước, lấy góc bên trái lên dùng tay phải kéo xuống eo dưới khiến gần thân và kéo bên phải đè vào trong eo, đây gọi là cách mặc quần tắm, khi nằm cách mặc quần cũng vậy. Khi muốn ra ao, giũ áo từ từ ra chớ cho dính trùng. Cách thức lên bờ rộng như luật biên.

Nếu không đến ao mà tắm trong chùa, mặc quần đồng vậy. Nước bên người mà tắm, tuỳ chỗ tuỳ thời có thể làm đồ che. Thế Tôn dạy làm nhà tắm, hoặc làm ao ngói chỗ đất trống, hoặc làm thuốc thang kẻ bệnh, hoặc lấy dầu thoa khắp thân đêm đêm dầu hằng thoa chân, sớm sớm thoa dầu lên đầu, hôm sau cách gió rất lợi ích, đều có thánh giáo không nhọc thuật đủ rộng như trong luật. Lại tắm rửa nên là lúc đói, tắm rồi mới ăn có hai lợi ích: Một là thân thể sạch sẽ không có cấu dơ, hai là đàm ấm được tan ăn uống ngon miệng. No mới tắm là thầy thuốc kỵ. Cho nên biết nói đói tắm no rửa chưa phải bàn thông phương. Nếu mặc áo tắm ba thước, áo nhỏ lộ thân hoặc nguyên không mặc, thể đỏ mà tắm rất trái giáo lý. Nên dùng quần tắm bốn bức che thân đáng ưa, chẳng thẳng vâng theo thánh giáo cũng không xấu hổ người thần, bao nhiêu đó có thể không trí đủ phải biết. Tắm đêm còn không cách đổi, đối người đâu không che đậy.

21. Đồ ngồi lót thân:

Lễ lạy trải đồ ngồi kia, Ngũ Thiên không thấy làm, chí kỉnh lễ ba lễ, bốn bộ quên dòm sự kia. Phàm cách thức lễ bái như biệt chương đã bày, pháp đồ ngồi kia, cách làm quyết cần làm phúc (đôi) chế khiến an điệp, độ lương không rảnh rõ biết. Kia chỗ cần chỉ nghĩ khi ngồi được mền chiếu khác, nếu dùng vật của người, mới cũ đều xếp cất, như vật của mình, cũ thì không cần. Chớ để dơ hay tổn hư của tín thí. Chẳng làm lễ bái, các Tăng Nam Hải người giữ một miếng vải dài ba hay năm thước, chồng như khăn ăn. Lễ bái dùng lót đầu gối, khi đi thì vắt lên vai, Bí sô nước phương Tây thấy có, đều dùng mỉm cười.

22. Cách thức nằm nghỉ:

Phòng ở của nước phương Tây lại nhiều người ở, sau khi nằm rồi dậy, giường đều dẹp lại, hoặc để lại một bên, hoặc dời ra ngoài phòng, giường rộng hai khuỷu dài bốn khuỷu, mền nệm rõ ràng nhẹ mà không nặng. Rồi sau lấy phân bò khô chà đất cho sạch, đặt toà giường và cây khô, giường nhỏ… tuỳ cao thấp mà ngồi, như nghiệp thường làm chỗ có đồ tư sanh, đều đặt trên sàn, trước giường kia đều không có cách dùng giá y che, kia không nên thì tự không nên nằm, nếu nên thì việc gì ngăn thân. Đồ nằm của chúng tăng hẳn cần để đồ lót mới hợp thọ dụng đồ ngồi ý ở nơi đây, như kia không phải vậy, lại chiêu lấy lỗi luỵ trái. Thánh có lời thành thật không thể không cẩn thận. Lại mười đảo Nam Hải, Ngũ Thiên của nước phương Tây đều không dùng gối gỗ để gối đầu, Thần châu riêng có việc đây. Gối túi phương Tây hình dạng và cách thức gần giống loại kia, lấy lụa hoặc vải nhuộm màu tuỳ tình may làm túi thẳng dài một khuỷu rưỡi rộng một khuỷu, giữa độn đồ tuỳ mình có được, hoặc có thể để lông, hoặc đựng sợi dây vụn, hoặc cót vàng liễu vụn, hoặc cây miên hoa lâu, hoặc lá nhuyễn rêu khô, hoặc đậu mè vỡ ra, tuỳ thời lạnh nóng, lượng ý cao thấp, đây chính lấy sự vừa an thân, thật không lỗi cứng nhắc, nhưng làm gối cây dưới cổ thông gió đến đổi chiếc giường bấy giờ phần nhiều bị đau đầu, nhưng cõi nước sai khác, thói quen không đồng, liền thuật khác nghe làm chăng tuỳ tốt. Đã mà vật nóng trừ phong, đậu mè sáng mắt. Vả lại có ích dùng thành không lỗi. Lại là xứ lạnh phần nhiều bị thương hàn, tháng mùa đông mũi chảy là lỗi kia, hợp thời ấm đầu liền không lỗi đây. Ngạn ngữ nói: "Đông đảnh ôn túc" chưa hẳn thường có thể nương.

Lại trong phòng tăng có để tôn tượng, hoặc ở trên cửa sổ hoặc làm cái khám, khi ngồi ăn, dùng tấm màn che trước tượng, sáng sáng tắm rửa, thường dâng (bông) hoa hương, trưa trưa cung kính ăn gì cúng nấy, hòm kinh cách một bên, khi nằm mới ở nhà khác, phép của các châu Nam Hải cũng đồng đây, đây là phép lễ kỉnh tầm thường ở phòng riêng. Tôn tượng của nhà chùa kia đều riêng có chánh điện, há có tượng thành rồi sau trọc đời lại không lau chùi, tự chẳng phải trai thứ, đâu cho liền bày đồ ăn, do đây nói đó đồng ở cũng lại tổn gì. Đại sư còn sống hứa cho đồng ở, hình tượng ngạo chơn lý nên không ngại nước Tây truyền nhau, kia đến lâu rồi.

23. Kinh hành ít bệnh:

Ở Ngũ Thiên kẻ đạo người tục phần nhiều đều đi kinh hành, thẳng qua thẳng lại chỉ có một đường, tuỳ thời vừa tánh chớ ở chỗ vắng, một là lành bệnh, hai là tiêu đồ ăn, lúc giữa ngày liền đi. Hoặc có thể ra ngoài chùa, hoặc ở dưới mái hiên đi từ từ, nếu không vì thân nhiều bệnh khổ bèn khiến xưng gót phù bụng đau tay nhức đùi, chỉ có đàm ấm là không tiêu, đều là đầu mối ở đó gây ra, nếu có thể làm việc đây (đi kinh hành) thật có thể giúp thân nuôi đạo. Cho nên dưới cây giác ở núi Linh Thứu, trong vườn Lộc Uyển ở Vương thành và các thánh tích khác đều có nền Thế Tôn kinh hành, rộng chừng hai khuỷu dài mười bốn mười lăm khuỷu cao hơn hai khuỷu chồng gạch ngói lên mà làm, trên lấy than đá kết làm hình hoa sen nở cao chừng hai tấc rộng vừa một thước có mười bốn mười lăm dấu chân Phật, trên hai đầu nền đặt tháp nhỏ lượng bằng con người, hoặc có thể vào bày tôn tượng là tượng Thích Ca đứng, hoặc đã kia xoay quanh điện Phật, xoay quanh tháp, riêng vì sanh phước, vốn muốn cung kính kinh hành chính là nghĩa tiêu tán, ý ở nuôi thân trị bệnh. Xưa nói là hành đạo, hoặc nói là kinh hành thì hai việc bao gồm không chia kinh hoạt bèn khiến việc điều thích lâu thiếu Đông Xuyên. Kinh nói rằng xem cây kinh hành, thân ở bên toà kim cang chỉ thấy dấu thẳng chưa thấy nền tròn.

24. Lễ không giúp nhau:

Phép lễ bái cần nương giáo làm tiến cụ, nếu chia bóng như ở trước, liền nên nhận người nhỏ lạy. Phật nói: Có hai hạng người nên nhận lễ bái: Một là Như Lai, hai là Bí sô lớn tuổi" đây là miệng vàng răn dạy nào nhọc chấp sự hiềm hạ. Người nhỏ gặp người lớn vội nên bày cung kính xướng "Bạn đệ" mà lễ. Người lớn nhận người nhỏ lễ, tự có thể thẳng người chấp tay mà nói: "A lộ để" (là dài vậy, lại là chú nguyện cho kia không bệnh) nếu không nói cả hai đều mắc tội. Tuỳ đứng tuỳ ngồi không đổi cách thức, đã là nên nhận không cho kính ngược, đây chính phép tắc của chúng tăng ở Ngũ Thiên, há có nhỏ muốn lễ lớn trước chờ người lớn đứng dậy, lớn nhận nhỏ cung lễ sợ nhỏ hiềm hận mà vội vội vàng vàng làm phép đây. Cao chấp thấp mà không cho cúi đầu, khổ cực nhọc nhằn thấp cầu kỉnh mà không thể đến đất, nếu không như đây nói là trái số lễ, than ôi! Thiếu thành giáo lấy nhơn tình, kính nhận trái nghi thật đáng xét kỹ, kéo dài đã lâu ai sẽ yên các vị.

25. Đạo thầy trò:

Dạy dỗ học trò là tất yếu nối thạnh, nếu không giữ niệm thì pháp diệt đã có thời kỳ, việc nên ân cần, không được sót lại. Luật nói: Mỗi sáng sớm, trước tước cây chà răng, kế có thể đến chỗ thầy lấy cây kia, nước súc miệng, khăn trải đặt chỗ ngồi cho an ổn rồi, sau đó lễ kinh tôn nghi, đi nhiễu điện Phật, liền đến chỗ thầy nhiếp y một lễ lại không liền đứng dậy chấp tay ba lần gõ, hai gối quỳ đất cúi đầu chấp tay hỏi rằng: "Ô Ba Đà Na nhớ nghĩ" (chữ đà là nói ngược âm đình giá, tức không chánh thể, lầm âm nói đó. Ô Ba là thân gần, chữ ba kêu trong có chữ A, A Đà Na nghĩa sẽ dạy khen, nói Hoà Thượng là sai. Phương tây gọi thiếu bác sĩ đều gọi là xã, đây chẳng là lời sách, nếu nương văn kinh luật bổn tiếng Phạm, hoặc nói rằng Ô Ba Đà Na, dịch là thân giáo sư, các nước phương Bắc đều kêu là hoà xã đến đổi khiến truyền dịch với âm lầm kia). Hoặc hỏi rằng: "A Giá Lê Na nhớ nghĩ" (dịch là Quỹ Phạm sư, là nghĩa có thể dạy đệ tử cách thức, trước nói A Xà Lê là lầm). Con nay thỉnh hỏi, không biết Ô Ba Đà Na đêm ngủ có an chăng? Bốn đại điều hoà chăng? Đi đứng nhẹ nhàng, ăn uống có tiêu chăng? Bữa ăn sáng có thể đến chăng? Đây thì rộng lược tuỳ thời.

Thầy bèn lượng thân an hay không đáp đủ việc kia. Kế trước đến phòng gần bên lễ lạy các vị lớn. Kế đọc chút hứa kinh, nhớ điều được dạy ở trước, ngày mới tháng cũ không thiếu tấc bóng. Đợi đến lúc tiểu thực lượng thân nặng nhẹ thưa thỉnh mới ăn. Nào nhọc chưa hiểu vội vàng tìm cháo không kịp thưa bổn sư, không do tước cây xỉa răng, không rảnh xem trùng trong nước, há có thể rửa sạch, đâu biết là một bồn cháo liền trái bốn hạng Phật dạy, lầm thế đó vốn đều từ đây, xin nhà trụ trì khéo nên lượng xứ (trước thưa sự… đây chính là nghĩa

A Ly Na Đề Xá dạy dỗ, A Ly Na dịch là thánh, Đề Xá dịch là phương, tức gọi nước phương tây là phương thánh đó, hiền thánh kia kế thừa phép tắc người đều cùng xưng. Hoặc nói rằng Mạc Cung là trung Đề Xá là quốc là trung tâm bá ức là việc đây, hiện đây người đều biết đó. Nước Hồ phương Bắc kia kêu thánh phương cho là yết, âm trái của hứa y đều là phương ngôn vốn không có nghĩa riêng, nước Tây nếu nghe tên đây phần nhiều đều không biết, nên kêu theo nước Tây là thánh phương, đây thành đầy đủ hoặc có truyện nói Ấn Độ dịch là Nguyệt, tuy có lý đây mà chưa là xưng chung. Vả lại như nước Tây gọi Đại Đường là Chi Na thật là tên kia lại không nghĩa khác. Lại cần biết ở Ngũ Thiên đều nói là nước Bà la môn, phương bắc Tốc Lợi gồm gọi là Hồ Di, không được lôi đồng đều là một tiếng).

Cạo tóc đắp mạn y, xuất gia, thọ cần viên rồi, luật nói rằng: Chỉ trừ năm việc không thưa, còn ra mỗi mỗi đều cần thưa thầy, không thưa thì mắc tội. Năm việc là: Một là tước cây xỉa răng. Hai là uống nước. Ba là đại tiện. Bốn là tiểu tiện. Năm là trong giới chừng bốn mươi chín tầm chế để bạn đệ. Vả lại như muốn ăn, người thưa cần đến bên thầy nương cách lễ bái mà thưa thầy rằng: "Ô Ba Đà Na nhớ nghĩ, con nay xin thưa rửa tay rửa đồ muốn đi ăn". Thầy đáp: "Cẩn thận", thưa các việc khác loại đây nên biết, thầy bèn lượng sự độ thời cùng kia tới lui, biết có nhiều việc liền có thể một thời đồng thưa.

Nếu người hiểu luật và được năm hạ thì được lìa bổn sư đi dạo chốn nhơn gian tiến cầu nghiệp khác, đến chỗ rồi trở cần y chỉ lại. Mười hạ đã đủ mới thôi y chỉ. Đại thánh ân cần rốt cuộc ở đây. Như không hiểu luật nương người khác trọn đời. Giả sử không có người lớn thì nương người nhỏ mà ở, chỉ trừ lễ bái còn bao nhiêu đều phải làm, há được sáng sớm hỏi han từng không y luật, tuỳ có sự đến đâu biết thưa nói. Hoặc có sớm chiều hai thời thỉnh thầy dạy dỗ, tuy lại tạm bày dạy dỗ văn luật ý không như vậy, thì sao người thưa không là việc kia, người đáp chỗ nào thương lượng, lời thưa việc không vậy, nhưng vì nhơn theo lâu ngày bèn bớt ai chịu nhọc phiền, hẳn có thể chuẩn giáo vâng làm tức là giữ gìn không dứt. Nếu cho đây là nhẹ bao nhiêu lại nào thành nặng ư? Cho nên văn luật nói: "Thà làm đồ tể chứ không trao giới cụ túc cho người rồi bỏ họ không dạy".

Lại nước tây nối nhau việc lễ thầy, đầu đêm sau đêm đến chỗ thầy, thầy bèn trước sai đệ tử đặt toà, trong ba tạng tuỳ thời dạy trao hoặc sự hoặc lý không khiến luống qua, xét giới hạnh kia chớ cho thiếu trái, biết có chỗ phạm liền sai trị sám. Đệ tử mới bèn vì thầy thoa chà thân thể xếp chồng y áo, hoặc khi quét lau sân phòng, xem trùng, dâng nước, có việc cần làm thì đều làm thay, đây là lễ kỉnh thượng. Nếu môn đồ có bệnh liền đều tự thân ôm giữ lo lắng thuốc thang, thương như con đỏ. Nhưng giềng mối Phật pháp lấy dạy dỗ làm đầu, như Luân vương nuôi dưỡng con không khinh luật có nói rõ đâu cho có ra khinh mạn.

Trên nói: "Chế để bán đệ", hoặc nói rằng: "Chế để bán đàn na", Đại sư Thế Tôn sau khi Niết bàn, người trời đều để thiêu, chúng nhóm củi thơm thành đống lớn, liền gọi chỗ đây là chế để, nghĩa là chứa nhóm, căn cứ từ sanh lý bèn có tên chế để. Lại giải thích: Một là tưởng Thế Tôn các đức đều nhóm ở đây. Hai là chính do nhóm đất đá gạch mà thành. Rõ truyền chữ nghĩa như vậy, hoặc gọi là Tốt Đỗ Ba, nghĩa cũng đồng đây. Xưa đều nói là tháp, riêng nói Chi đề, đây đều lầm, hoặc có thể đều đúng. Chúng cùng rõ tên, không bàn nghĩa kia, phương tây giải thích tên lược có hai món: Một là có danh nghĩa, hai là không nghĩa danh. Có nghĩa danh mà lập tên có lý do, tức nương danh nghĩa mà giải thích, tên thể một bề xứng nhau, như giải thích tên khéo vào là ban đầu nương vết đức, tức là nương nghĩa lập.

Kế nói rằng: Hoặc cùng rẽ biết, tức là không luận nghĩa kia, chỉ căn cứ người đời cùng gọi là khéo vào, tức là tên không nghĩa.

Bán đệ là kính lễ, phàm muốn ra ngoài lễ bái tôn tượng, có người hỏi rằng: "Đến chỗ nào?" Đáp "Tôi đến chỗ ấy". Chế để bán đệ, phàm lễ bái ý nghĩa kỉnh trên tự thấp, khi muốn chí kỉnh và có thưa hỏi, trước sửa y áo vắt lên vai trái, y nách phải khiến dính thân, tức đem tay trái hướng xuống đậy hiếp y bên trái tay phải tuy y chỗ đậy. Quần đã đến bên dưới, cuốn y đến gối, hai gối đều che chớ cho lộ thân, thành y sau lưng gấp cho gần thêm đậy xếp y áo chớ cho rớt đất, hai gót chân đứng thẳng, cổ ngay ngắn, mười ngón rải đất mới khấu đầu. Nhưng dưới gối chỗ không y vật, lại chắp tay, lại gõ đầu, ân cần chí kỉnh như vậy ba lần, hẳn cũng tầm thường một lễ liền thôi, chặng giữa lại không khởi nghĩa. Nước tây thấy làm ba lạy người đều cho là quái lạ. Nếu sợ trên trán có bụi đất, trước cần tay chà cho sạch rồi sau lau đó. Kế phải phủi bỏ đất dính hai đầu gối, chỉnh đốn y áo ngồi qua một bên, hoặc có thể tạm thời đứng một bên, Tôn giả liền nên cho ngồi, hẳn có quở trách đứng cũng không tổn. Đây chính là khi Phật còn ở đời, xong đến đời sau thầy trò truyền nhau đến nay không dứt. Như kinh Luật nói: "Đi đến chỗ Phật, lễ hai chân Phật, ngồi qua một bên". Không nói trải toạ cụ, lễ ba lạy, đứng một bên. Đây là giáo kia. Nhưng chỗ tôn lão nhiều tòa cần sắp đặt, hẳn có người đến, chuẩn nghe mà ngồi. Hể ngồi thì hai chân phải chấm đất từng không có cách thiếp gối.

Luật nói: Nên trước Ôn khuất trúc ca, dịch là ngồi xổm, hai chân đạp đất. Hai gối đều dọc nhiếp kiểm y phục chớ cho rớt đất, tức là phép thức thường làm trì y, thuyết tịnh... hoặc đối người khác nói tội, hoặc hướng đại chúng mà bày chí kỉnh, hoặc được quở trách mà thỉnh nhẫn, hoặc thọ cụ túc mà lễ Tăng, đều đồng như đây. Hoặc có thể hai gối chấm đất quì nửa thân chấp tay, chính là đài hương chiêm ngưỡng, khen ngợi... Nhưng ở trên giường lễ bái, các nước không có, hoặc trải nệm chiếu cũng không thấy có, muốn cung kính trở lại kiêu mạn há thành đạo lý. Đến như trên giường trên tòa, bằng hàng còn không chí kỉnh huống gì lễ Tôn Sư, Đại sư. Việc đây nếu vì an thì có thể. Trong nhà ăn, giảng đường ở nước tây xưa nay không đặt giường lớn, phần nhiều để cây khô và giường nhỏ, cho khi giảng, ăn đem đến chỗ ngồi, đây là bổn pháp. Thần châu thì giường lớn mới ngồi, việc kia lâu rồi, tuy có thể tuỳ thời lập nghi mà nguồn gốc xưa nay cần phải biết.

26. Khách xưa gặp nhau:

Lúc Đại sư còn ở đời, chính thân làm giáo chủ, khách

Bí sô đến, tự xướng "thiện lai". Lại các chùa phương Tây phần nhiều là chế pháp, phàm thấy người mới đến không kể là khách xưa hay là đệ môn nhơn, người xưa liền rước trước xướng "Sa yết đa" dịch là "thiện lai" khách bèn theo tiếng liền nói: "Tốt sa yết đa" dịch là "cực thiện lai", nếu không nói, một là trái pháp chế của chùa, hai là chuẩn Luật có phạm. Không hỏi lớn nhỏ thảy đều như đây, tức là thâu lấy bình bát, treo ở trên vách, tuỳ chỗ đặt toà cho khách nghỉ ngơi. Nhỏ ở chỗ vắng, lớn ở phòng trước. Thấp thì kính trên mà xoa bóp sau () và khắp thân. Cao quý thì vỗ dưới mà hơi tiếp lưng mà không đến eo chân, bằng tuổi sự như vậy.

Đã hết mệt nhọc mới rửa tay chân, kế đến chỗ Tôn túc bày lễ kính, chỉ lễ một lễ quỳ mà chạm chân. Bậc Tôn túc dùng tay phải vỗ vai lưng người kia, nếu chẳng lâu thì không vỗ vai. Thầy bèn hỏi "khỏe không" đệ tử tuỳ việc mà đáp, rồi lui ra chí kính mà ngồi một bên, thật không có cách thức đứng.

Nhưng phép tắc phương Tây là ngồi nhiều ít đứng, lại đều lộ chân, Đông hạ không có việc đây, lễ chạm chân không làm. Kinh nói: "Người trời đến chỗ Phật, đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên tức là nghi kia. Rồi sau thích hợp thời gian mà cung cấp nước uống, tô, mật đường cát, uống ăn tuỳ ý, hoặc tám thứ nước khác đều cần lược cho trong mới uống gần như cặn đục đây định không cho, nước trái hạnh, thuốc, thể là cặn đục chuẩn y đạo lý toàn chẳng phải hạng uống.

Luật nói: "Phàm nước tịnh lự (lược sạch) màu nhơ huỳnh địch". Đây gọi là lễ ở nước Tây khi thầy trò môn đồ khách xưa đưa rước lúc gặp nhau, há có cảm lạnh, bị sốt nóng, hoặc khắp thân ra mồ hôi, tay chân lạnh cóng mà buông bỏ áo mũ gấp làm việc lễ kính, tình trạng vội vàng rất trái phép tắc. Thầy bèn đứng thong thả hỏi các việc, thật thay quá gấp đem làm nối thạnh. Nói hoà nam, tiếng Phạm nói là "Bán đệ", hoặc nói "Bán đàn nam" dịch là kính lễ, nhưng vì nhặt lời không chơn gọi là Hoà Nam, không thể đổi xưa. Vả lại nói Hoà Nam, lấy chánh âm nên nói là bán đệ. Lại đi đường, chúng nhóm lễ bái là trái nghi. Chấp tay, cúi đầu, miệng nói "bán đệ", cho nên kinh nói rằng: "Hoặc lại chỉ chấp tay, nhẫn đến hơi cúi đầu" tức là chí kính vậy. Người phương Nam không xét kỹ nương mong hợp độ, từ trước khiến sửa là bấn đệ, đây chính toàn đồng luật dạy.

27. Nguồn bịnh tiên thể:

Trước nói rằng lượng thân nặng nhẹ mới ăn tiểu thực, tức là quán bốn đại mạnh yếu. Nếu nhẹ nhàng liền có thể ăn như thường. Hẳn có hơi khác thì cần xem nguyên do nó khởi. đã biết được nguồn bệnh rồi sau toan dứt. Nếu biết nhẹ khoe trong bụng đói, đến khi tiểu thực mới ăn nuốt, phàm là hằng ngày lúc gọi đàm ấm, là đồ ăn đêm qua còn chứa trong bụng chưa tiêu, ăn liền thành lỗi. cánh tay đưa cây củi vào ngọn lửa, củi tím lửa bốc cháy, nếu lửa chưa cháy mà để cỏ vào, cỏ bèn không cháy, phàm tiểu thực là thánh khai chế, hoặc cháo hoặc cơm lượng thân mà ăn, hẳn cũng nhờ cháo có thể nuôi đạo, tức chỉ do đây chứ chẳng phải gì khác. Nếu cần cơm mới nuôi thân thì sáng ăn cơm cũng không tổn. Hễ ăn mà khiến thân không an là làm duyên bệnh cho thân, không cần đau đầu nằm trên giường mới gọi là bệnh. Nếu các thuốc không trị lành, thầy thuốc xử cần ăn phi thời, Phật nói: "Ở chỗ kín mà ăn". Nếu khác hạng đây vốn chẳng khai chế, nhưng trong Ngũ Minh Luận của phương Tây, mục y minh nói "Trước phải xét thinh sắc rồi sau làm tám thuốc", nếu không hiểu khéo mầu đây, cầu thuận trở lại thành nghịch.

Nói tám thuốc: Một luận chỗ có các ghẻ. Hai kim châm đầu bệnh. Ba luận thân hoạn. Bốn luận quỷ chướng. Năm luận ác yết đà dược. Sáu luận người bệnh đồng tử. Bảy luận mở lớn. Tám luận đủ sức thân. Nói việc bệnh gồm trong ngoài. đầu bệnh chỉ là ở đầu, từ yết hầu sắp xuống là thân hoạn. Quỷ chướng gọi là tà mị. Ác yết đà là khắp trị các độc. đồng tử là từ trong thai đến mười sáu tuổi. Tuổi lớn thêm dài giữ lâu. Đủ sức là thân thể mạnh khoe. Tám thuật đây trước là tám bộ, gần đây có người lược làm một hiệp, ở Ngũ Thiên thảy đều tuân theo, nhưng khiến người hiểu không đâu chẳng ăn lộc. Do đây thầy thuốc là quý nhất ở nước Tây, gồm trọng thương buôn là không sát hại, tự lợi ích và giúp người khác. Ở đây y minh đã dụng công học, do chẳng phải chánh nghiệp bèn bỏ đó. Lại cần biết vị thuốc phương Tây cùng đông hạ khác nhau, xen có xen không sự chẳng phải một. Vả lại như nhơn sâm, phục linh, đan quy, viền chí, ô đầu, phụ tử, ma huỳnh, tế tân, các loại này là thượng dược của Thần châu, xét hỏi nước Tây đều không thấy có, Tây phương thì phần nhiều là Ha Lê Lặc, phương Bắc thì có Uất Kim Hương, bên Tây vẫn dồi dào

A Ngụy Nam Hải thì ít long não, ba món đậu () đều ở Đỗ Hoà La, hai sắc đinh hương đều sanh ở nước Khuất Luân chỉ có sắc loại đây là nhà Đường cần, còn các vật thuốc khác không đủ thâu lượm.

Phàm thân bốn đại có sanh bệnh, đều từ ăn nhiều mà khởi, hoặc do lao lực mà phát, hoặc ăn đêm chưa tiêu sáng ra ăn nữa, hoặc ăn sáng chưa tiêu trưa liền ăn lại, nhơn đây phát động bèn thành dịch tả, nấc cục thì liền đêm không dứt, bụng trống liền trọn tuần chẳng dứt. Rồi sau bèn cầu khí hiền nhiều tiền, tìm tần giao giá quý, người giàu việc đây có thể vì người nghèo chia tuỳ sương sớm, bệnh liền thành đó. Đây cầu gì dầu khiến lư oai sáng đến tiến hoàn tan mà không nhân. Chim thước tối đến sai thang cao mà an giúp, lửa đốt kim châm cùng cây đá không khác, nắm chân lắc đầu hỗn cương bốc mà nào khác, đây chính bởi do không thể bệnh vốn không hiểu điều tướng, có thể gọi là dừng dòng mà không tắt nguồn, đốn cây không trừ gốc, cành nhánh tràn lan cầu dứt không nhơn, đến đỗi khiến người học kinh luận nhìn ba tạng mà hằng than, người tập tu tịnh lự tưởng tâm định mà thở dài, kẻ tục bèn vụ rõ bối kinh thì tuyệt dây cương nơi cửa ngựa vàng, hạng cầu tiến sĩ bèn dứt bước ở công sở thạch cừ, ngại tu đạo nghiệp có thể không lớn ư? Bỏ mất vinh quang thật chẳng phải việc nhỏ, liền là thâu đó chớ hiềm phiền nặng, mong khiến chưa tổn nhiều thuốc bệnh cũ có thể trừ, không tạo nhà thuốc mà bệnh mới bèn lành, bốn đại điều hoà trăm bệnh không sanh, tự lợi và lợi người há chẳng lợi ích sao? Nhưng mà ăn độc chết sống bởi là do nghiệp xưa, riêng nay tránh nó chẳng phải không cần là đây.

28. Cách thức dâng thuốc:

Bốn đại nghịch hoà sinh linh chung có, tám tiết giao tranh, phát động không hành. Phàm bệnh sanh liền cần phải dứt cho nên Thế Tôn chính thân nói kinh y phương rằng: "Bốn đại không đều: Một là lũ lỗ, hai là tiếp bả, ba là tất đa, bốn là bà đa. Ban đầu thì địa đại đều tăng khiến thân nặng nề, hai thì thuỷ đại nhóm mũi dãi trái thường, ba thì hoả đại thạnh đầu ngực nóng ran, bốn thì phong đại động khí xung kích. tức ngay Thần châu trầm nặng đàm ấm, nhiệt huỳnh, khí phát… tên khác. Nếu nương tục luận bệnh, bèn có ba món kia, nghĩa là phong nhiệt đàm, nặng thì cùng đàm đồng thể không khác chướng địa đại kia. Phàm hầu nguồn bệnh sáng sớm tự xét, nếu biết bốn hầu trái khác liền lấy tuyệt lạp làm đầu, dầu cho rất khát chớ đem nước đến, đây là cực cấm. Hoặc một ngày hai ngày, hoặc bốn ngày năm ngày dùng bệnh làm kỳ hẹn nghĩa không giao trụ. Nếu nghi bụng có đồ ăn chưa tiêu, lại trích nơi rốn ngực nên cần uống nước sôi chín, lấy ngón tay móc trong họng cho ói hết ra, lại uống lại quyết, cho hết làm độc, hoặc uống nước lạnh lý cũng không tổn thương, hoặc thang thuốc gừng khô, đây là tốt nhất, ngày ấy hẳn phải nghỉ ăn, đến hôm sau mới ăn. Nếu không thể đến thời châm chước, hẳn đồ thật chín rất kỵ rưới nước. Nếu trầm nặng chiến lạnh, gần lửa là tốt nhất, kia Gian Lãnh rồi Nam Nhiệt chướng không thể nương đây. Phát nóng, lặm nước đất nghi. Như gió gấp thì dùng dầu cao, có thể dùng vải bọc hoả cứu mà chà (ủi) chỗ thương tích đây cũng là tốt, thoa dầu nóng, ngày nghiệm giao ích, nếu biết đàm ấm đè trong miệng ngực khạc nhổ, mũi chảy nước xanh, khí nhóm yết hầu, mở cửa đầy thương hầu, nói tiếng không chuyển, ăn cơm không biết vị, động qua một tuần, các bệnh như đây dứt ăn liền lành, không nhập châm đầu chẳng nhờ quay cổ, đây chính là không cần thang thuốc mà không bệnh, là phép tắc lớn của y minh.

Ý do đồ ăn cũ nếu trừ trang nhiệt liền dứt, dòng bến đã cạn đàm ấm liền hết, trong lặng khí tiêu tức cuồng phong tự dứt, đem đây điều đình vạn lần không sai một. Đã không nhọc chẩn mạch, đâu nhờ hỏi âm dương, mỗi người tự là y vương, người người đều thành kỳ quốc, đến như Loan pháp sư điều khí lành bệnh, ẩn mặt bèn làm, Tư thiền sư ngồi trục cong chẳng phải chỗ hạng tục biết được. Hỏi danh y nơi Đông Lạc thì nghèo thiếu tuyệt bến kia, cầu thượng dược ở tây dao thì () độc mất đường kia, chỗ luận tuyệt ăn, bớt mà lại nhiệm màu, đủ thông nghèo giàu há chẳng cốt yếu sao?

Lại như ung nhọt bộc khởi, máu nóng bỗng hoành hành, tay chân đau nhức do thiên hành thời khí, hoặc dao cắt thân thể, hoặc té rớt tổn thân, thương hàn, hoặc loạn, nửa ngày bị tả, đau đầu đau tim, mờ mắt nhức răng, có chút bệnh khởi đều cần nhịn ăn? Lại ba đảng hoàn có thể trị các bệnh, lại chẳng khó được lấy da A Lê Lặc, gừng khô, đường cát ba thứ bằng nhau giã hai phần cho nát, lấy nước hoà đường cát giã làm hoàn, sáng uống mười hoàn làm chừng độ các người không có kỵ nếu bệnh lỵ, uống không quá hai ba lần là lành, có thể phá khí huyền trừ phong tiêu thực, vì chỗ lợi ích rộng cho đây nói. Nếu không đường cát dùng mật cũng được, lại A Lê Lặc nếu có thể mỗi ngày ăn một khoả yết trấp, cũng trọn đời không bệnh, đây đồng y minh truyền nơi Đế Thích, Ngũ Minh một số người Ngũ Thiên tuân theo, trong đó cốt yếu tuyệt thực là hơn hết.

Người xưa truyền rằng: Nếu bỏ ăn bảy ngày không lành, sau mới có thể cầu Quán Thế Âm, Thần Châu phần nhiều đều không rảnh, đem làm riêng là trai giới, kia có uống loại đơn thạch và trường bệnh cùng phúc hồn, hoặc lại nương đây (sợ có người uống đơn thạch, đói chẳng nên uống, lại phi đơn thì các nước đều không, uống thạch thì Thần Châu có, nhưng mà nước đường, đã trắng có ra lửa, nếu uống thì thân thể nóng nảy, thời người không riêng, chết uổng không cùng, do đây mà nói rất cần biết thể). Các độc rắn rết toàn chẳng phải đây trị, mà khi tuyệt thực rất kỵ dạo đi và làm việc, người đi lâu dầu bỏ ăn tuỳ đường không tổn, như kia lành rồi sau cần sắp nghỉ nên ăn cơm mới nấu, uống nước đậu nóng sôi, dùng hương hoà mặc tình uống nhiều ít, nếu biết có lạnh thì uống tiêu, gừng, tất bạt, nếu biết là gió thì uống hồ thông, kinh giới. Y phương luận nói: Các chất cay đều động gió chỉ có gừng khô là chẳng động, thêm đó cũng tốt. Chuẩn sắc ăn hằng ngày mà làm điều tức, kỵ uống nước lạnh, còn bao nhiêu như thuốc cấm. nếu kia ăn cháo sợ đàm ấm lại tăng, hẳn là phong lao ăn cũng không tổn. Nếu bệnh nhiệt, tức thục tiễn thuốc sâm đắng uống rất tốt, mầm chè cũng tốt. Tự lìa nước cũ đến hơn hai mươi năm, nhưng do trị như đây thân không có bệnh khác.

Vả lại như thuốc của Thần Châu, loại đá, gốc, nhánh số đến hơn bốn trăm, phần nhiều sắc vị tinh kỳ, khí hương thơm ngát có thể làm lành bệnh, có thể làm vương thần, thuật châm cứu chẩn mạch, trong châu Thiệm bộ không có thêm. Thuốc lâu năm chỉ có ở Đông hạ, bởi do Liên cương, tuyết hiến và núi đảnh hương các loại thuốc lạ quý hiếm đều mọc ở đây, cho nên thể người tượng vật gọi là Thần Châu. Trong Ngũ Thiên không ai thêm tôn thượng, trong bốn biển ai chẳng vâng theo. Nói rằng Văn Thù Sư Lợi hiện ở nước này, chỗ đến nếu nghe là Đề Bà Phất Đán La Tăng thảy đều rất sanh lễ kinh, Đề Bà là thiên, Phất Đán La là tử, nói rằng Chi Na là chỗ ở của Thiên tử. Xét thuốc đá kia thật là kỳ diệu, sắp hết bệnh do rất có sơ khuyết, cho nên thô bày lớn huống gì do đủ lúc cần.

Nếu nhịn ăn không tổn, sau mới bèn tuỳ nơi chỗ mà trị. Thuốc sâm đắng chỉ trừ bệnh nhiệt dầu tô, mật đặc biệt trị bệnh phong. Nước La Trà nửa tháng hoặc một tháng, cốt yếu đợi bệnh bớt rồi sau mới ăn.

Trung Thiên nhiều nhất là bảy ngày, Nam Hải thì hai ba ngày. Đây do phong thổ sai khác bốn đại chẳng đồng đến đỗi có ra nhiều ít không là một mối. chưa hẳn Thần Châu nên nhịn ăn chăng, nhưng mà bảy ngày không ăn mạng nhiều chết yểu, do kia không bệnh giữ cũ, nếu bệnh ở thân, nhiều ngày cũng không chết, từng thấy có người bệnh nhịn ăn ba tuần sau lại hết bệnh, thì nào cần thấy lạ vì nhịn ăn nhiều ngày. Há cho chỉ thấy bệnh phát mà không xét nguyên do khởi phát của bệnh, củi lửa còn làm chín cháo, ăn uống mang bệnh ăn mạnh rất là đáng sợ, muôn người có một người lành trọn cũng không kham dạy đời. Trong y phương minh rất là kỵ lại do Đông hạ, người bấy giờ cá rau phần nhiều ăn sống, còn nước Tây đều không ăn như vậy. Phàm là rau đều cần nấu chín, thêm A ngụy, dầu tô và các hương hoà rồi sau mới ăn, loại dưa muối người đều không ăn. Khi lại thèm cố ăn đó bèn khiến trong rốn kết đau, tổn đường ruột, mờ mắt, bệnh tật lâu dài càng luống uổng, là do đây vậy. Người trí suy nghĩ xét dùng hạnh xả chứa, nghe mà không làm đâu phải lỗi thầy thuốc, làm thì thân an đạo đủ, mình và người đều có lợi ích, bỏ thì thể tổn trì yếu, công mình và người đều mất.

29. Trừ thuốc hư xấu:

Tự có nơi chỗ từ lâu làm theo thói xấu, bệnh phát liền uống đại tiện tiểu tiện. Bệnh khởi liền dùng phân heo phân mèo, hoặc chứa đầy bồn ngói đá gọi là thuốc rồng tuy đặt tên tốt đẹp mà dơ xấu cùng cực. Vả lại uống hành tỏi còn phải ở phòng riêng bảy ngày tắm rửa thân thể cho sạch mới vào ở chung, thân nếu chưa sạch không vào trong chúng, không cho nhiễu tháp, không nên lễ bái, bởi vì hôi dơ mà không cho chứ không phải bệnh mà không cho. Nói tứ y bày bỏ, tức là bày thuốc cũ bỏ, ý ở xét việc chỉ có thể giúp thân, giá mắc từ ở trong cửa, ăn uống thật thành chẳng tổn. Tiếng Phạm là Bổ Đề Mộc Để Tỵ Sát Xã, Bổ Đề là bày, Mộc Để là bỏ, Tỵ Sát Xã dịch là thuốc (tức là thuốc bày bỏ (trần khứ)). Luật khai đại tiện tiểu tiện chính là phân tiểu trâu bò, cực hình của nước Tây là trét phân lên người rồi đuổi ra đồng trống không cho ở chung với người. Loại trừ bỏ phân dơ làm liền bị đánh gậy là tự khác, nếu lầm xung trước tức liền y khắp tắm.

Đại sư đã chuyên thời ngự vật, ngăn trước sự chê xấu, há sai uống đây mà riêng trái thời mong, do không vậy đủ như trong luật. Dùng đây cho người thật là đáng xấu chớ cho thế tục làm quen cho là thường, người nước ngoài nếu nghe thật tổn phong hoá (Phong tục tập quán). Lại nữa, có thuốc thơm sao không uống, mình đã không ưa đâu lại cho người, nhưng mà trừ độc rắn rết, tự có đá lưu huỳnh, hùng huỳnh, thư huỳnh, miếng nhỏ tuỳ thân thật chẳng phải khó được. Nếu gặp nhiệt trướng liền có thuốc cam thảo hằng sơn và sâm đắng, chứa để nhiều ít lý liền dễ được, gừng, tiêu, tất bạt, đản yết mà gió lạnh toàn pháp, đường cục đường cát, ăn đêm thì khát đói đều hết, không chứa thuốc thang, gạo việc định có, trái giáo không làm sao khỏi tội lỗi. Tiền tại lạm dùng chỗ gấp lại nhàn rỗi. Nếu không bày công ai có thể ngộ thẳng. Than ôi! Không chịu cho thuốc tốt, bèn xét dùng thuốc rồng, tuy lại lợi nhỏ nơi tâm, đâu biết khuyết lớn thánh giáo. Trong Chánh lượng bộ nói "Trần khứ kia đã là bộ riêng, không thể nương đây", rõ luận tuy lại thấy văn, nguyên chẳng phải chỗ học của Hữu Bộ.

30. Xoay đá quán thời:

Nói xoay đá, tiếng Phạm nói là Bát Lặc Đặc Kỳ Noa, chữ Bát Lặc duyên có nhiều nghĩa, trong đây ý thú sự nêu thi hành. Đặt Kỳ Noa là đá, gồm rõ mục tôn tiện, cho nên người bấy giờ gọi thạch thủ là tay Đặt Kỳ Noa, ý là từ bên đá kia làm tôn làm tiện, mới hợp nghĩa xoay quanh. Hoặc Đặc Kỳ Noa mục là nghĩa thí, cùng đây khác nhau, như trước đã thuật. Ngũ Thiện là nước phương Tây đều gọi phương đông là tiền phương, phương nam là thạch phương, cũng không thể nương đây mà bàn hai bên (trái, phải). Các kinh nên nói là xoay đá ba vòng, nếu nói rằng kinh hành bên Phật là sai. Kinh nói xoay đá ba vòng là chánh thuận nghĩa kia, hoặc nói nhiễu trăm ngàn vòng mà không nói đá là lược vậy. Nhưng nhiễu phải hay trái khó định rõ, vì xoay bên phải là nhiễu phải, xoay bên trái là nhiễu trái ư? Từng thấy Đông hạ có học sĩ nói rằng: "Tay phải hướng vào trong là nhiễu bên phải, tay trái hướng vào trong là nhiễu bên trái", lý có thể hướng bên trái kia mà chuyển, việc nhiễu phải mới thành, đây là rút ra từ hông ngực chẳng liên quan chánh lý, bèn khiến mê tục chớ biện phương ty, đại đức anh hùng cũng lầm đồng đây, dùng lý thương lượng thế nào điều hoà. Nhưng có thể nương bổn tiếng Phạm kia đều cần xã tắc nhơn tình nhận hướng bên phải là nhiễu phải, hướng bên trái là nhiễu trái, đây là Thánh chế chớ có nghi hoặc.

Lại nữa thời và phi thời, vả lại như thời kinh đã nói tự nên riêng là hội cơ, nhưng văn luật bốn bộ đều dùng giờ ngọ làm chánh, nếu bóng quá tuyền chấp nhận liền gọi là phi thời. Nếu muốn hộ tội lấy phương chánh, nên cần ban đêm nhìn phương bắc, ban ngày trông cực nam mà định tà chánh kia, biện góc giữa. Lại nên ở chỗ cốt yếu đặt đài đất nhỏ, tròn rộng một thước cao năm tấc, giữa để cây gậy nhỏ, hoặc khi đính dọc trên đá, như đũa tre có thể cao bốn ngón tay, lấy bóng chánh ngọ kia vẽ để ghi nhớ, bóng quá chỗ vẽ liền không nên ăn, ở chỗ phương tây phần nhiều đều có, gọi là Tỵ La Thiết Yết

La (đàn thiệt đạo) dịch là thời luân, pháp xét bóng là nhìn bóng cây kia, lúc ngắn nhất là lúc chánh giữa ngày.

Nhưng ngay Châu Thiệm Bộ bóng phần nhiều không định, tuỳ phương xứ kia lượng có tham sai liền như châu lạc không bóng cùng các chỗ khác không đồng. Lại như nước Thất Lợi Phất Thệ đến giữa tháng tám dùng sao khuê lường bóng không thu hẹp, không đầy tràn. Giữa ngày người đứng đều không có bóng, giữa xuân cũng vậy, một năm là lại một mặt trời quá trên đầu, nếu mặt trời đi phương nam thì bóng bờ bắc dài hai thước ba thước, mặt trời hướng phía bắc, bóng phía nam đồng vậy. Thần Châu thì nam minh bắc sóc không đồng, cửa bắc hướng mặt trời là hằng, lại biển đông mặt trời ngọ cửa tây chưa giữa ngày, chuẩn lý đã vậy sự khó chấp nhất, cho nên luật nói: "Sai lấy giữa ngày ngay chỗ ở làm định".

Phàm người xuất gia cốt yếu nương thánh giáo, việc miệng bụng không ngày nào không cần, xét bóng mà ăn lý nên giữ niệm, đây kia lạc mẫu mực chỗ khác nào giữ được. do đây anh hùng nói nắm không lạ phiền nặng, đi biển còn đợi sao khuê, ở đất há được theo đó cho nên nước tây truyền nhau rằng: "Xem nước xem giờ là luật sư". Lại chùa lớn ở nước tây đều có lậu thuỷ, đều là nhiều đời vua chúa vâng làm và cất lậu tự là các cảnh thời, giới để bồn đồng đầy nước, trên là chén đổng nổi ở trong, chén kia mỏng tốt có thể nhận hai thăng lỗ xuyên ở dưới, nước liền vọt lên, nhỏ như lỗ kim, lượng thời chuẩn nghi, chén nước đã chìm hết liền đánh trống, ban đầu từ sáng sớm, một chén chìm đánh một tiếng trống, hai chén chìm hai tiếng trống, ba chén ba tiếng, bốn chén bốn tiếng rồi sau thổi loa hai tiếng, lại riêng đánh một tiếng gọi là một thời. Tức mặt trời ở góc đông. lại quá bốn chén giống trước đánh bốn tiếng lại thổi loa, riêng đánh hai tiếng gọi là hai thời, tức chánh ngọ. Nếu nghe hai lần đánh thì tăng chúng không ăn, nếu thấy người ăn theo phép chùa liền đuổi ra. Hai thời quá ngọ phép cũng đồng vậy. Đêm có bốn thời gần giống ban ngày. Gồm luận một ngày một đêm thành tám thời. Nếu thời đầu đêm hết, người tri sự ở lầu trên chùa đánh trống để nhắc chúng, đây là lậu pháp của chùa Na Lan Đà.

Lại khi mặt trời sắp lặn và gần sáng đều ở trước cửa đánh một hồi trống, đây đồng tạp nhậm đều là tịnh nhơn hộ nhơn làm. Sau mặt trời lặn dẫn đến sáng, đại chúng toàn không có đánh kiền chùy. Phàm đánh kiền chùy không sai tịnh nhơn, đều là duy na tự đánh, có bốn năm cách sai khác rộng như các chỗ. Chỗ Mạc Ha Bồ Đề và Câu Hộ Na cách lậu hơi khác, từ sáng đến trưa chén chìm mười sáu lần, như nước Cốt Lôn ở Nam Hải thì chảo đồng đựng nước, xuyên lỗ ở dưới, khi nước hết liền đánh trống, một hết một lần đánh, bốn chùy đến trưa, đến chiều lại như vậy, tối đồng tám lần đây cộng thành mười sáu, cũng là chỗ làm của Quốc vương. Do lậu đây, dầu khiến mây dày ngày mù lâu không lầm ngọ hay sáng, mưa dày liên tiếp trọn ít nghi canh đêm. Nếu có thể vâng thỉnh đặt đó rất là yếu sự của nhà Tăng.

Phép lậu khí kia rất cần trước lấy giờ nghỉ ngày đêm, sáng đến trưa thì tám chén chìm, như kia giảm tám xuyên lỗ cho lớn, điều đình tiết số lại cần thợ khéo. Nếu ngày đêm dần ngắn liền có thể tăng nửa sao kia, nếu ngày đêm lần dài lại giảm nửa chước. Nhưng lấy nghĩ ngợi làm chừng độ, duy na nếu phòng bày chén nhỏ chuẩn lý cũng không lỗi. Nhưng mà Đông Hạ năm canh tây phương bốn tiết, Điều Ngự dạy chỉ nêu ba thời, nghĩa là chia một đêm là ba phần. Phần đầu phần sau niệm tụng thiền định, một thời ở giữa buộc tâm mà ngủ, không bệnh mà trái đây liền chiêu lỗi trái giáo, kỉnh mà vâng làm mong có lợi mình lợi người.

QUYỂN 4

31. Tắm rửa Tôn nghi:

Gốc của tu kỉnh không vượt ba tôn, nhơn thế tưởng đâu hơn bốn đế. Nhưng mà đế lý sâu xa sự cách tâm thô, tắm rửa Thánh nghi thật là thông giúp. Đại Sư tuy diệt, hình tượng vẫn còn, chí tâm như còn, lý nên tôn kính. Hoặc có thể hương hoa thường bày, có thể sanh tâm thanh tịnh, hoặc có thể tắm rửa hằng vì làm mỏng nghiệp hôn trầm, do đây nêu niệm, không nêu đó càng tự thâu. Khuyên các người có làm công gồm lợi, người cầu phước nên giữ ý.

Nhưng các chùa nước Tây, tắm rửa tôn nghi thường ở lúc giữa trưa, thọ sự liền đánh kiền chùy (thọ sự, tiếng Phạm là Yết Ma Đà Na, Đà Na là thọ, Yết Ma là sự, ý nói do chúng nhiều việc chỉ nhận ở người, xưa nói duy na là sai. Duy là tiếng nhà Đường, ý nói là giềng mối. Na là Phạm âm, lược bỏ chữ Yết Ma Đà Na). Sân chùa trương bày lọng báu, điện thì bày la liệt bình hương, lấy tượng vàng, bạc, đồng, đá để ở mâm đồng, vàng, cây, đá. Trong sai các kỹ nữ tấu âm nhạc, dùng hương bột thoa, lấy nước thơm mà tắm. (lấy cây chiên đàn, trầm thuỷ nghiền trên đá, lấy nước mài thành bùn để thoa thân tượng, mới lấy nước tắm).

Dùng lụa trắng sạch mà lau chùi, rồi sau để lại trong điện, rải các hoa màu, đây là nghi của các chùa, sai Yết Ma Đà La làm. Nhưng ở trong mỗi phòng tự tắm tôn nghi, ngày ngày đều vì yếu tâm không thiếu, nhưng là hoa cây cỏ đều đem dâng cúng không luận Đông hạ hằng thơm phức. Người mua bán giữa quán chợ cũng vậy.

Vả lại như Đông Hạ, hoa sen thạch trúc thì mùa hạ mùa thu mới tươi tốt, kim kinh, đào hạnh mùa xuân mới xinh. Mộc cẩn, thạch lựu tuỳ thời thay đổi. Chu anh, tử cấm, theo tiết mà phô bày. Hàng thục quỳ xem ở vườn, loài cỏ thơm ở sơn trang hẳn cần đem đến bày la liệt, không nên xa chỉ cây vườn, đông cảnh chút thời hoặc cho khiếm thiếu, cắt các vải lụa, bụi dùng danh hương, bày trước tôn tượng đây thật là tốt. Đến ở tượng đồng không hỏi lớn nhỏ, cần tro nhuyễn, ngói bột lau chà cho sáng sạch, nước trong rửa đó, lóng hoa như gương. Chùa lớn, nửa tháng hay một tháng họp chúng cùng làm chùa nhỏ tuỳ khả năng cần thường tắm rửa, đây thì chỗ phí tuy ít mà phước rất nhiều. Nước tắm tượng, nâng dùng hai ngón, rưới từ trên đảnh, nước đây gọi là kiết tường, mong cầu thắng lợi, dâng cúng hoa không nên đem hoa hôi bỏ, không nên chà đạp, có thể ở chỗ sạch mà rưới đặt đó, há cho để trọn năm bụi trắng đầu tôn tượng từng không chùi rửa. Hoa hồng khắp đồng, vốn tự không tâm dâng hiến, mà bèn lại lược làm biếng, xa chỉ ao vườn liền thôi vì sợ nhọc khổ, mở cửa nhà khắp kỉnh liền bỏ. Đây thì thầy trò tuyệt mối, bèn khiến chí kỉnh không do đâu tạo tháp bùn làm tượng bùn, hoặc in trên lụa, tuỳ chỗ cúng dường, hoặc nhóm làm đống, do nhóm ngói đất liền thành tháp Phật, hoặc ở để đồng trống mặc tình tiêu tan, phép tục phương tây đâu không cho đây là nghiệp. Lại hể tạo hình tượng và tháp bằng vàng, bạc, đồng, thiếc, bùn, sơn, ngói, đá, hoặc nhóm cát, tuyết ngay khi làm. Trong đặt hai món xá lợi, một là thân cốt Đại sư, hai là duyên khởi pháp tụng. Kia tụng rằng:

Các pháp từ duyên khởi
Như Lai nói là nhơn
Pháp kia nhơn duyên hết
Là đại Sa môn nói

Cốt yếu đặt hai ngón tay phước bèn rộng nhiều, do đây trong kinh rộng nói thí dụ, khen lợi ích kia không thể nghỉ bàn. Nếu người tạo tượng như núi mì, tháp như táo nhỏ, trên để luân tướng, lan can như kim nhỏ, nhơn tốt, loại bảy biển mà không cùng, báo thắng khắp bốn đời mà chẳng hết, kia chép đủ ở các kinh khác. Mong các Pháp sư đồng thời có thể làm ư? Rửa kính tôn dung nghiệp đời đời gặp Phật, hoa hương rải bày là nhơn kiếp kiếp giàu vui, tự làm dạy người làm được phước vô lượng. Từng thấy có chỗ bốn tháng tám tháng, hoặc đạo hoặc tục đem tượng để bên đường xối rửa tuỳ nghi, không biết lau chùi, gió thổi nắng táp chưa xứng nghi kia.

32. Lễ ca vịnh:

Ở Thần châu từ xưa truyền nhau chỉ biết lễ Phật nêu tên, phần nhiều không xưng dương khen đức, cớ sao nghe tên chỉ nghe tên suông, đâu biết trí cao thấp, khen ngợi đủ bày đức kia. Tên chính là rộng sâu của thể đức, tức như phương tây cung kính tháp miếu và thường đi lễ kỉnh, thường ở sau trưa và chiều tối, đại chúng ra cửa nhiễu tháp ba vòng, hương hoa đầy đủ và ngồi xổm sai người có thể tụng tiếng rõ ràng thanh hay khen đức Đại sư, hoặc mười bài tụng hay hai mươi bài tụng, thứ lớp vào lại trong chùa đến chỗ thường nhóm. Đã ngồi yên rồi sai một kinh sư lên tòa sư tử tụng tiểu kinh, ngồi trên tòa sư tử kia lượng chỗ nên không quá cao, tụng kinh phần nhiều là ba lần, chính là Tôn giả Mã Minh sắp đặt. Ban đầu có thể tụng mười bài, lấy ý kinh mà khen tam tôn, kế thuật chánh kinh là Phật thân nói, đọc rồi lại bày hơn mười bài tụng, luận hồi hướng phát nguyện, tiết đoạn ba lần cho nên nói là tam khải. Khi xong kinh, đại chúng đều nói rằng: "Tô bà sư đa", tô tức là diệu, Bà sư đa là Lời, ý muốn khen kinh là lời vi diệu. hoặc nói là "Sa bà độ" nghĩa là lành thay. Kinh sư mới xuống Thượng toà trước khởi lễ tòa sư tử, tu kỉnh đã rồi, kế lễ tòa Thánh tăng rồi trở về chỗ cũ. Thượng tòa thứ hai chuẩn trước lễ hai chỗ rồi, kế lễ Thượng tòa rồi mới ngồi lại chỗ của mình. Thượng tòa thứ ba chuẩn trước đồng vậy, xong ở cuối chúng. Nếu đại chúng kia qua ba người năm người, bao nhiêu đều một lúc trông chúng mà lễ, tuỳ tình mà đi. Pháp đây chính là pháp thức chúng tăng của nước Thẩm Ma Lập Để ở phương Đông Thánh đến như chùa Na Lan Đà mọi người ân cần, Tăng chúng số hơn ba ngàn, tạo thứ khó làm lần nhóm, chùa có tám viện, phòng có ba trăm, chỉ có thể tuỳ thời, ngay chỗ ở mà làm lễ tụng.

Nhưng cách đây sai một người có thể xướng đạo sư thường đến buổi chiều tuần hành lễ tán, đồng tử Tịnh Nhơn đem hương hoa dẫn đi trước, viện viện đều qua, điện điện đều lễ. Mỗi khi lễ bái cao tiếng khen ngợi ba tụng năm tụng, tiếng vang đều thấu suốt, xong ở buổi chiều mới nói khắp. Vị xướng đạo sư đây hằng nhận sự cúng dường của nhà chùa, hoặc lại riêng đối đài hương, thì ngồi một mình mà tâm khen ngợi, hoặc biện đến chữ Phạm thì chúng quỳ mà cao diễn, rồi sau mười ngón tay rải đất cúi đầu lạy ba lạy. Đây chính là tây phương mượn nghi lễ kỉnh mà hạng già bệnh mặc tình ở toà nhỏ. Người khen Phật kia xưa đã có nhưng làm hơi khác, không giống cách Phạm.

Vả lại như khi lễ Phật nói rằng khen tướng tốt của Phật tức hợp thẳng tiếng khen dài, hoặc mười tụng hay hai mười tụng là cách kia. Lại Như Lai...các kệ, nguyên là khen Phật, bởi do âm vận hơi dài, ý nghĩa khó hiểu. hoặc có thể nhơn đêm chay tịnh đại chúng xót thương sai một người có thể tụng một trăm năm mươi bài tán bốn trăm bài tán cùng các bài tán khác thì rất tốt. Nhưng mà lễ kỉnh của nước tây thạnh truyền khen ngợi, chỉ người có tài đâu không ở chỗ tôn kỉnh mà làm lời xưng tán. Vả lại như Tôn Giả Ma Thất Lỵ Chế Thát chính là người tài giỏi đức lớn vượt quần sanh ở phương tây, truyền rằng: "Khi Phật còn tại thế, nhơn lúc Phật chính thân lãnh đồ chúng dạo đi chốn nhơn gian. Bấy giờ có con chim? Thấy Phật tướng tốt vòi vọi như núi vàng, bèn ở trong rừng phát tiếng hòa nhã tợ như khen ngợi. Phật bèn bảo các đệ tử rằng: "Con chim đây thấy ta nên vui mừng bất giác ca lên, do nhân duyên đây sau khi Ta diệt độ nó sẽ được thân người tên là Ma Thất Lỵ Chế Thát, rộng làm khen ngợi thật đức của ta". (Ma Thất Lỵ là mẫu, Chế Thát là Nhi). Người kia ban đầu nương ngoại đạo xuất gia thờ Đại Tự Tại Thiên, đã là chỗ tôn trọng, đủ bày ca khen, sau bèn thấy chỗ ghi tên trở lại phát tâm thờ Phật nhuộm y xuất tục, rộng khởi khen ngợi. Hối hận lỗi quấy lúc trước, tuân theo dấu vết thù thắng ở tương lai, tự buồn không gặp Đại sư, chỉ gặp tượng Phật, như hút nước mương đầy, phù hợp điều thọ ký, khen công đức Phật. Ban đầu làm bốn trăm bài tán, kế làm một trăm năm mươi bài tán, gồm bày lục độ rõ Phật Thế Tôn có đức thù thắng, đây có thể gọi là văn tình uyển chuyển đẹp đẻ tranh thơm cùng hoa trời, lý chí tình cao, tranh cáo cùng gò đất, người tạo tám tụng của phương tây đâu không đều đồng học tập. Vô Trước và Thế Thân Bồ Tát đều ngưỡng chỉ. Cho nên ở Ngũ thiên khi mới xuất gia cũng đã tụng được năm giới mười giới, tức cần trước dạy tụng hai tán đây, không hỏi đại thừa hay tiểu thừa đều đồng tuân theo đây.

Có sáu ý: Một, có thể biết đức của Phật sâu xa, Hai, thứ lớp thể chế văn, Ba, khiến thiệt căn thanh tịnh. Bốn, được hông tạng khai thông. Năm, ở chỗ chúng đông không sợ. Sáu, sống lâu không bệnh. Tụng được đây rồi mới học kinh khác. Nhưng mà điều tốt đẹp đây chưa truyền đến Đông Hạ, nhà chú thích cũng nhiều làm hòa đó thật chẳng phải một. Trần Na Bồ Tát chính thân tự hòa, thường ở bài đầu đều thêm hai tên kia làm tạp tán, tụng có ba trăm. Lại Thích Ca Đề Bà là danh Tăng ở Lộc Uyển, ở trước bài tụng của Trần Na đều thêm một bài tụng gọi là Nhữu Tạp Tán gồm có bốn trăm năm mươi bài tụng. Nhưng có hạng chế tác đều dùng làm gương soi.

Lại Long Thọ Bồ Tát dùng thi thay thơ gọi là Tô Hiệt Lý Ly Khư dịch là Mật Hữu Thơ gởi cho đàn việt xưa hiệu Bà Đa Bà Hán Na tên là Bố Diễn Đắc Ca làm Đại Quốc Vương ở phương nam, có thể gọi là văn võ hoa mỹ phát thăm hỏi ân cần, ngón tay giữa đường thân vượt qua xương thịt, đã trúng ý thú thì có nhiều ý. Trước khiến kỉnh tin tam tôn, hiếu dưỡng cha mẹ, trì giới bỏ ác, chọn người kết giao, ở các tài sắc tu quán bất tịnh, kiểm xét nhà ở chánh niệm vô thường, rộng thuật ngạ quỷ bàng sanh, thạnh đạo người trời, địa ngục, lửa đốt trên đầu không rảnh phủi bỏ, duyên khởi vọng tâm chuyên cầu giải thoát, riêng làm ba huệ, rõ tánh thánh đạo, khiến học bốn chơn, chứng hai đắc viên ngưng. Như Quán Tự Tại không lựa oán thân, đồng A Di Đà hằng ở tịnh độ, đây là thuật hoá sanh, cốt yếu không do thêm. Hàng mới học ở Ngũ Thiên đều trước tụng thơ tán đây. Loại quy khâm ngưỡng không ai chẳng nghiên vị trọn đời. Như pháp lữ ở Thần Châu tụng Quán Âm Di giáo, kẻ tục tụng ngàn văn Hiếu kinh, đâu không khâm ngoan dùng làm sư phạm (mẫu mực). Xả Đắc Ca Ma La cũng đồng loại đây (Xả Đắc Ca là bổn sanh, Ma La là quán, nhóm lấy việc các hạnh đời xưa của Bồ Tát, xỏ suốt một chỗ). Nếu dịch có thể thành hơn mười cuộn, lấy việc bổn sanh mà làm thi tán, muốn khiến thuận tục xinh đẹp, người đọc ưa vui, giáo nhiếp quần sanh.

Bấy giờ, vua Giới Nhựt rất ưa văn bút bèn hạ lịnh rằng: "Các vua ai thi tán hay sáng sớm ngày mai đem đến cho Trẫm" và khi nhóm lại được năm trăm bài. Mở ra xem phần nhiều là Xả Đắc Ma La, mới biết trong tán vịnh đây là hay nhất. Các đảo Nam Hải có hơn mười nước, không hỏi pháp hay tục đều phúng tụng, như thi tán trước mà Đông Hạ chưa từng dịch ra. Lại vua Giới Nhựt lấy việc Thừa Vân Bồ Tát lấy thân thay rồng chép tập làm ca vịnh, tấu giai cung huyền cho người làm nhạc, hạng múa nhảy rải ở đời. Lại Đại sĩ Nguyệt Quản ở đông Ấn Độ làm ca từ vồ Thái Tử Tỳ Thâu An Đát La, người đều ca vũ khắp Ngũ Thiên.

Xưa nói rằng là Thái Tử Tô Đạt Noa, lại Tôn giả Mã Minh cũng làm ca từ và trang nghiêm Luận cùng Phật bổn Hạnh Thi, đại bổn nếu dịch có hơn mười quyển, ý thuật một đời Phật pháp của Như Lai từ ban đầu ở cung vua cho đến nơi rừng song Thọ, đều chép là thi, Ngũ Thiên, Nam Hải thảy đều phúng tụng, ý rõ chữ ít mà nhiếp nghĩa rất nhiều, lại khiến người đọc vui lòng quên một. Lại giữ gìn Thánh giáo có thể sanh phước lợi, một trăm năm mươi bài tán và thơ Bồ Tát Long Thọ đều riêng chép ở Ký Quy, nhạc tán vịnh bấy giờ phải tụng tập.

33. Tôn kỉnh trái cách thức:

Nghi lễ kỉnh, giáo có rõ phép tắc, tự có thể sáu thời buộc niệm bốn thể chí thành, ở yên một chỗ, khất thực làm nghiệp, thuận hạnh đầu đà, tu đạo tri túc, chỉ đắp ba y không chứa đồ dư, chí tưởng vô sanh, có luỵ toàn bỏ, đâu được liền khác nghi Tăng riêng làm phép tắc, mặc áo xuất gia không giống loại thường, mà ở trong quán xá lễ các kẻ thế tục, kiểm tìm nơi giáo luật toàn ngăn việc đây.

Phật nói: "Có hai hạng người nên lễ là Tam Bảo và Bí Sô lớn tuổi".

Lại có người giữ gìn Tôn tượng ở trong đường lớn, bụi dính mặt Thánh để cầu tài lợi, hoặc có người câu thân, chích mình, đoạn tiết, xuyên da (cơ) dối làm hảo tâm vốn mong mạng sống, màu mè như đây nước tây toàn không có, khuyên bảo các người chớ làm hạnh này.

34. Học pháp phương tây:

Một âm của Đại Thánh thì suốt ba ngàn mà gồm nhiếp, hoặc tuỳ cơ năm đường bèn bày bảy chín mà rộng giúp (bảy chín là tiếng rõ trong bảy chuyển chín lệ, như dưới lược rõ). Khi có ý nói pháp tạng Thiên Đế lãnh kinh Vô Thuyết, hoặc lại thuận lời bàn nói, Chi Na ngộ chữ bổn thinh đến đổi khiến đầu duyên pháp huệ đều xưng tâm trống lặng, chuẩn nghĩa trừ phiền đều ngưng vắng lặng. Đến nơi thắng nghĩa đế lý xa tuyệt danh ngôn, lại trong tục đạo chẳng có văn cú (Phú tục đế, xưa nói rằng thế tục đế, nghĩa không hết, ý nói việc đời che chơn lý người khác, sắc vốn chẳng phải bình, vọng làm mở bình, tiếng không ca cong dối làm ca tâm. Lại khi thức tướng sanh, thể không phân biệt, vô minh che lấp vọng khởi các hình, không rõ tự tâm cho là cảnh bên ngoài, rắn hay dây đều lầm, chánh trí đây trầm luân do đây che chơn gọi là phú tục. Đây cứ phú tức là tục gọi là phú tục, hoặc có thể chỉ nói rằng chơn đế phú đế).

Nhưng người dịch xưa nay, phép tắc Phạm ít bàn đến, gần đây truyền kinh chỉ nói rằng ban đầu bảy chẳng phải không biết. Vô ích không bàn, nay vọng gồm tập văn Phạm không nhọc phiên dịch là trọng, vì đây xét đề, tiết, đoạn thô thuật nền ban đầu ư? (Nhưng mà Cốt Lôn Tốc Lợi còn có thể gồm luận kinh Phạm huống gì Thiên Phủ Thần Châu mà không bàn bổn thuyết kia. Cho nên phương tây tán rằng: "Mạn Thù Thất Lợi hiện ở Châu Tinh người đều có phước lý nên khâm phục tán thán, văn kia đã rộng đây không phiền chép). Phàm thinh minh, tiếng Phạm nói là Nhiếp Tha Tất Đà (đình dạ phản), Nhiếp Tha là thinh, Tất Đà là minh tức là một minh của

Ngũ minh luận, sách tục ở Ngũ Thiên chung gọi là Tỳ

Hà Yết Lặc Noa, số lớn có năm đồng với Ngũ kinh của Thần Châu (xưa nói rằng Tỳ Ca La luận âm lầm).

Một là người mới học đều bàn chương, cũng gọi là Tất Địa La Tốt Đổ là xưng nêu chương tiểu học, đều lấy thành tựu điềm lành làm mục tiêu, vốn có bốn mươi chín chữ, cùng nương nhau chuyển thành mười tám chương gồm có hơn một vạn chữ, hợp lại hơn ba trăm bài tụng. Phàm nói một bài tụng bèn có bốn câu, một câu tám chữ, gồm thành ba mươi hai chữ, lại có tiểu tụng đại tụng không thể đủ thuật, đồng tử sáu tuổi học đó, sáu tháng mới xong, đây tương truyền là Đại Tự Tại Thiên nói.

Hai, gọi là Tô Đát La, tức là kinh căn bổn của tất cả Thinh minh, dịch là lược thuyên ý minh, lược nói yếu nghĩa có ngàn bài tụng, đây là nhà bác học xưa tên Hồng Nhu Ba Ni Nhĩ làm ra. Là chỗ gia bị của Đại Tự Tại Thiên, mặt hiện ba mắt, người bấy giờ mới tin, đồng tử tám tuổi tụng xong phải tám tháng.

Ba, gọi là Đà Đổ Chương, có ngàn bài tụng chuyên rõ chữ nguyên, công như kinh trên.

Bốn, gọi là Tam Khí La Chương, là nghĩa hoang ngạnh, ý so với ruộng mới khai hoang, nên nói rằng Tam Hoang Chương: Một gọi là Át Sắt Thát Đà Đổ (ngàn bài tụng). Hai gọi là Văn Trà (ngàn bài tụng). Ba tên là Ổ Noa Địa (ngàn bài tụng). Đà Đổ thì ý rõ bảy lệ, hiểu thập la thinh thuật vận hai chín, nói bảy lệ là trên tất cả tiếng thảy đều có. Trong mỗi mỗi tiến đều chia ba, nghĩa là một lời hai lời nhiều lời, chung thành hai mươi mốt lời. Như gọi nam tử, một người gọi là Bổ Lỗ Sái hai người gọi là Bổ Lỗ Sảo, ba người gọi là Bổ Lỗ Sa, trong đây tiếng có hô hấp nặng nhẹ sai khác, ngoài bảy lệ lại có kêu danh tiếng lại thành tám bộ, câu đầu đã ba, các câu khác đều chuẩn đây, sợ phiền không chép. Tôn Tô Bàn Đa Thinh (có ba ngàn tám trăm hai mươi bốn tiếng) Thập La Thinh có mười món chữ La, khi hiển một tiếng liền rõ sai khác ba đời. Hai mươi chín vận là rõ cao thấp của thượng trung hạ, sai khác của kia đây. Nói có mười tám món không đồng, tên Đinh Ngạn Đa thinh. Văn trà thì hợp thành thể chữ.

Vả lại như một mặt của cây, tiếng Phạm nói rằng Tất Lực Xoa, lại dẫn hơn hai mươi câu văn kinh cùng xen tạp nhau mới thành hiệu một việc. Ô Noa Địa thì phần lớn đồng lệ đây, mà do rộng lược là khác. Ba hoang chương đây, đồng tử mười tuổi siêng học trong ba năm mới hiểu nghĩa kia.

Năm, nghĩa là Tất Lật Để Tô Đát La, tức là giải thích Tô Đát La ở trước, thượng cổ làm chú thích, loại kia thật nhiều. Ở Trung Diệu có mười tám ngàn bài tụng, diễn kinh vốn rõ bàn các nghĩa, tột quy cũ hoàn trung, cùng phép tắc của trời người, đồng tử mười lăm tuổi học năm năm mới hiểu. Người Thần Châu nếu hướng phương tây cầu học vấn, cốt yếu cần biết đây mới có thể học tập điều khác, không như vậy chỉ tự luống nhọc công.

Các sách đây đều cần tụng thầm, đây là căn cứ hạng thượng nhơn chứ bậc trung hạ lấy ý có thể so lường, siêng năng ngày đêm không rảnh đâu mà ngủ. Đồng ba tuyệt của Khổng Phụ, bằng trăm bài của Tuế Thích, lông trâu có số ngàn sừng lân chỉ có một, so công Thần Châu rõ gần giống kinh trên, đây là học sĩ Xà Na Điệt Để làm ra, người kia là khí lượng rộng lớn văn chương tuyệt vời, một khi nghe liền lãnh nhiều phước nghiệp ngài mất đến nay đã ba mươi năm. Rảnh giải thích đây rồi mới học tập chuyết thơ biểu chế tạo bài thi, đến tưởng nhơn minh, kiền thành câu xá, tìm lý môn luận so lường khéo thành, tập Bổn Sanh suốt tài ba tú pháp, rồi sau hàm trượng truyền trao ba hai năm, phần nhiều ở chùa Na Lan đà (trung thiên) hoặc ở nước Bạt Não Tỳ (tây thiên), hai chỗ đây, sự đông Kim Mã, Thạch Cừ, Long môn thiếu lý, anh sản mây nhóm bèn tính phải quấy, nếu hiền minh khen lành, xa gần xưng tốt, mới bắt đầu tự ngẫm nghĩ kiếm nhọn, ném đao ở sân vua, hiến sách trình tài hi vọng lợi dùng, chỗ ngồi bàn luận, mình thì nặng toà nêu kỳ, lên tràng phá xích. Người bèn kết lưỡi xưng xấu hổ tiếng chấn động năm núi, âm thanh lưu bốn cõi, rồi sau nhận phong ấp sách doanh ban thưởng tố cao môn lại tu các nghiệp.

Lại có nghị thích Tất Lật Tô Đát La tên Châu Nhĩ có hai mươi bốn ngàn bài tụng, là học sĩ Bát Điên Xả La làm ra. Đây chính lại hiển kinh trước, dụ cơ chia lý, rõ ràng chú thích sau mổ xẻ nhỏ nhiệm, rõ học kinh đây ba năm mới xong, công cùng xuân thu, Chu dịch gần giống. Kế có Phạt Chí Kha Lợi Luận là Tiền chu nhĩ nghị thích, tức Đại học sĩ Phạt Chí Kha Lợi làm ra, có hai mươi lăm ngàn bài tụng, đây thì thạnh bàn cốt yếu nhơn sự thinh minh, rộng chép nguyên do hưng phế của các nhà, rất rõ Duy Thức, khéo luận nhơn dụ, học sĩ đây âm vang chấn động Ngũ Thiên, đức khắp tám cực, tin chắc tam bảo tưởng bốn nhị không, cầu thắng pháp mà xuất gia, luyến triền nhiễm mà trở lại tục, qua lại cả thảy bảy lần, tự chẳng sâu tin nhơn quả ai có thể siêng làm như đây. Tự than thi rằng:

Do nhiễm lại về tục,
Lìa tham, áo đen lại
Làm sao hai loại việc
Đùa ta như trẻ con.

Là người đồng một thời với Hộ Pháp Sư, thường ở trong chùa mà có tâm trở về tục, bị phiền não bức bách không ngừng, liền sai học sinh cùng ra ngoài chùa, người bấy giờ hỏi duyên cớ, đáp rằng: "Phàm là đất phước là chỗ ở của người giới hạnh, ta đã bên trong có tâm tà tức là thiếu chánh giáo, đất của mười phương tăng không chỗ để chân, ông làm người thanh tín, thân mặc áo trắng mới vào trong chùa tuyên dương chánh pháp. Ông mất đến nay đã bốn mươi năm".

Lại có Bạt Ca (ngược chỉ vậy) Luận có bảy trăm bài tụng, chú thích có bảy ngàn, cũng là Phạt Trí Kha Lợi làm ra, bày nghĩa thánh giáo lượng và tỷ lượng.

Kế có Tất Noa, có ba ngàn bài tụng, chú thích có mười bốn ngàn. Bài tụng là Phạt Trí Kha Lợi làm ra, chú thích thì Hộ Pháp luận sư chế tác, có thể cho là tột thâm sâu của trời đất, tột tinh hoa của nhơn lý. Nếu người học đến đây mới gọi là khéo hiểu Thinh Minh, cùng chín kinh của trăm nhà gần giống. Đây đồng các sách, pháp tục đều chung học, nếu kia không học, không được xưng là đa văn. Nếu người xuất gia thì khắp học Tỳ Nại Gia, đầy đủ kinh và luật, khuất phục ngoại đạo như đuổi nai ở trung nguyên, giải gạn hỏi đồng vọt trời cao của đảnh núi, bèn khiến âm vang chảy giữa Thiệm Bộ, nhận cung kỉnh trên trời người, giúp Phật tuyên dương giáo hoá, rộng dẫn dắt quần sanh, đây thì nối đời kéo kiếp hoặc một hoặc hai, thí dụ đồng với mặt trời mặt trăng và voi lớn, đây chính xa thì loại Long Mãnh Đề Bà, Mã Minh, giữa thì Thế Thân, Vô Trước, Tăng Hiền, Thanh Triết, gần thì Trần Na, Hộ Pháp, Pháp Xứng, Giới Hiền và Sư Tử Nguyệt, An Huệ, Đức Huệ, Huệ Hộ, Đức Quang, Thắng Quang, đây đồng đại sư thảy đều đủ các đức trong ngoài và đều ít muốn biết đủ, thật không ai sánh cùng. Trong hàng thế tục hay ngoại đạo thật khó kiếm được người như đây (rộng như trong truyện Tây phương thập đức có chép đủ) Pháp Xứng thì lại hiển nhơn minh, Đức sáng bèn lại hoằng tạng luật, Huệ chính là môn định lắng tưởng, Huệ Hộ thì rộng biện chánh tà, mới nghiệm cá tính ở biển lớn sâu gọi là trân hiện sắc màu, Hương Phong cao vòi vọi, thượng dược (thuốc quý) trình kỳ lạ.

Phải biết Phật pháp sâu rộng chỗ nào không nạp, đâu không ứng vang thành bài, đâu phiền đủ mười bốn, không nhọc khắp trăm. Hai quyển một phen nghe liền lãnh hội (có ngoại đạo làm sáu trăm bài tụng, đến vấn nạn Hộ Pháp Sư, Pháp Sư đối chúng một phen nghe văn nghĩa đều lãnh hội).

Lại ở Ngũ Thiên đều cho Bà la môn là quý thắng, hễ có hội hè đều không đi chung với ba dòng họ khác, tự ngoại tạp loại cho nên xa, kinh sách tôn trọng là bốn bộ vệ đà, có thể mười muôn bài tụng, vệ đà là rõ giải nghĩa, trước nói Vi đà là sai, hoặc là dùng miệng truyền trao nhau mà không viết trên giấy hay lá, thường có Bà la môn thông minh tụng mười muôn đây liền như tây phương truyền nhau có cách học thông minh một là sanh trí thẩm phú, hai là thì chữ mẫu an thần, khoảng tuần tháng suy nghĩ như suối vọt. Một phen nghe liền lãnh hội, không rảnh bàn lại, chính thân thấy người kia vốn chẳng dối, ở Đông Ấn Độ có một đại sĩ tên Nhật Nguyệt Quang là người đại tài hùng như Bồ tát, ngày tịnh đáo người kia vãn còn, hoặc hỏi đó rằng: "Gương độc cùng thuốc độc, làm hại ai là nặng" tuỳ tiếng đó đáp rằng: "Thuốc độc cùng gương độc cách nhau thật xa, thuốc độc uống mới hại, gương độc nghĩ liền đốt".

Lại nữa Thằng Lan chính là Chấn Phương ở Đông Lạc, Chơn Đế thì giá vang ở Nam Minh đại đức La Thập đức nổi bật ở nước người, pháp sư Huyền Trang diễn công của sư ở nước mình. Nhưng các thầy xưa nay đều sáng truyền mặt trời Phật, có không đều đến, học tập ba tạng dùng làm thầy, định huệ song tu, chỉ bảy giác mà làm kiệt xuất, kia hiện tại phương tây thì chùa Đê La Trà có pháp sư Trí Nguyệt, trong Na Lan Đà thì đại đức bảo sư tử, phương đông liền có Địa Bà Yết La Mật Đát La, Nam? Có Đát Tha Yết Đa Yết Bà, nam Hải nước Phật

Thệ thì có Thích Ca Kê Lật Để (nay hiện tại nước Phật Thệ qua Ngũ Thiên mà rộng học) đây đều so sự xuất sắc của Tiền Hiền, theo dấu vết thông minh, hiểu nhơn minh luận thì suy nghĩ Trần na vị Tông Du Già, thật mừng nhớ Vô Trước bàn không thì khéo phù hợp với Long Mãnh, luận có thì Diệu Thể Tăng Hiền, có pháp sư đây tịnh và thân giáp chiếu ghế ăn nhận lời vi diệu, mừng mới biết ở chỗ chưa nghe, ôn xưa hiểu nơi từng được, tưởng một vọng truyền đăng, thật mừng sáng nghe mong buông trần ở trăm nghi, phần tuỳ tối diệt còn bèn bỏ sót châu ở ngọn Linh Thứu thời được chơn kia, chọn báu tận ở sông Long rất bèn nhiệm mầu kia. Ngưỡng mong tam bảo xa giúp, nhờ ân vua thấm gần, bèn được xoay gót về đông, trống buồm ở biển nam, từ nước Chẩm Ma Lập Để đã hiểu Thất Lợi Phật Thệ, dùng ở đã bốn năm, quyến luyến chưa kịp về nước.

35. Tóc dài có không:

Tóc dài thọ giới cụ túc ở Ngũ Thiên không có, luật tạng cũng không thấy văn nói, theo xưa vốn không có việc này. Nhưng hình đồng tướng tục khó mà giữ tội, đã không thể giữ thọ nào ích gì. Hẳn có tịnh tâm mới cầu cạo tóc nhuộm y, niệm sạch cầu giải thoát làm bổn hoài. Năm giới mười giới vâng làm mà không thiếu, tròn đủ tâm viên tuân tu luật tạng Du Già học xong, thể nghèo tám chi không dính (một Nhị Thập Duy Thức Luận, hai Tam Thập Duy Thức Luận, ba Nhiếp đại Thừa Luận, bốn Đối Pháp Luận, năm Biện Trung Biên Luận, sáu Duyên Khởi Luận, bảy Đại Trang Nghiêm Luận, tám Thành Nghiệp Luận. Trong Đây tuy có Thế Thân làm mà công quy về Vô Trước). Nhơn rõ công trước, gương suốt Trần Na tám luận (một Quán Tam Thế Luận, hai Quán Tổng Tướng Luận, ba Quán Cảnh Luận, bốn Nhơn Môn Luận, năm Tợ Nhơn Môn Luận, sáu Lý Môn Luận, bảy Thủ Sự Thi Thiết Luận, tám Tập Lượng Luận) tập A Tỳ Đạt Ma thì khắp xem sáu túc, học A Cấp Ma kinh bèn toàn tham bốn bộ, rồi sau hàng tà phục ngoại đạo, suy dương chánh lý, rông giáo hoá quần sanh, hằng dẫn dụ quên bệnh, liên tưởng hai không, lắng trong tám đương, kỉnh tu bốn định, khéo hộ bảy thiên, dùng tống trọn đây lành trên hết, nếu không vậy, tuy ở nhà không nhiễm thất riêng, nhưng thẳng một thể để mong xa lìa tuỳ xin để cúng công thượng, mặc áo thô mà ngăn xấu hổ, giữ gìn tám giới (một là không sát sanh, hai là không trộm cắp, ba là không tà dâm, bốn là không vọng ngữ, năm là không uống rượu, sáu là không làm nhạc đeo hoa thoa hương, bảy là không ngồi giường cao rộng lớn, tám là không ăn phi thời). Trọn đời dùng yếu tâm vi kính tam tôn, khế hợp Niết Bàn mà gần tưởng, đây kế kia, hẳn kia hiện chỗ ràng buộc, nuôi dưỡng vợ con, tâm cung kính người trên, lòng từ bi với kẻ dưới, thọ trì năm giới hằng làm bốn trai. Ngày mùng tám (hắc ngoạt, hoặc ngày mười bốn, hoặc ngày mười lăm, bạch ngoạt mùng tám, mười lăm, cốt yếu cần thọ tám giới mới xứng thánh tu, nếu không thọ bảy giới trước, chỉ trì giới thứ tám thì phước rất ít. Ý ở ngăn trừ bảy lỗi, không chỉ đói bụng mà thôi).

Với người thì trung thực, tha thứ, với mình thì nghiêm khắc và siêng năng, làm việc thì vô tội để dâng quan thâu, đây cũng tốt (vô tội là khởi đổi, do kia không tổn chúng sanh. Nước tây bấy giờ kẻ tục đều cho đi buôn là quý, không nặng nghiệp như nông phu do cày cấy gieo trồng mà tổn mạng sinh vật. Lại nuôi tằm giết heo bò là nhơn khổ, trong mỗi một năm tổn hại cả ức, làm đã từ lâu không cho là trái, trong đời vị lai chịu khổ không cùng, không làm nghiệp đây gọi là vô tội). Đến như kẻ tục mờ mờ không biết tam quy, mịt mịt trọn đời không biết trì một giới, không hiểu Niết Bàn là vắng lặng, đâu ngộ sanh tử là luân hồi, chấn làm tội nghiệp ở dưới đây.

36. Của người chết, tăng hiện tiền:

Muốn chia vật của Bí sô chết, luật đủ văn rộng, đây đủ thời cần chỉ lược sớ ra, trước hỏi thiếu nợ, dặn cho ai và cho người nuôi bệnh, nương pháp thương lượng vật chớ cho trái ý, vật còn dư chuẩn sự nên biết.

Ôn Đà Nam nói:

Ruộng nhà giường toạ cụ
Đồng sắt và các da,
Dao cạo cùng bình y,
Các sào và tạp vật
Ăn uống và các thuốc
Giường toà và khoán khế
Vàng bạc của tam bảo
Thành chưa thành không đồng
Các loại vật như vậy
Nên chia hay không chia
Tuỳ ứng lựa riêng biết
Là lời Thế Tôn nói.

Nói tuỳ ứng, cái gọi là ruộng vườn, nhà cửa, giường nệm, mền chiếu, các đồ đồng sắt, đều không nên chia. Ở trong đó bát sắt, bát nhỏ và chén đồng nhỏ, khoá cửa, kim chùy, dao cạo, dao con, thìa sắt, lò lửa và nồi chõ… cùng các túi dựng các thứ đây. Hoặc đồ ngói như bát, bát nhỏ, tịnh xuất, quân trì và vật đựng dầu cùng đồ đựng nước, đây đều nên chia, còn bao nhiêu không nên chia. Kia đồ cây, đồ tre và vật nằm bằng da, đồ cắt tóc, nô tỳ, ăn uống, lúa đậu và ruộng nhà… đều vào của tứ phương tăng, nếu vật có thể chuyển đổi nên chứa ở các kho cho tăng bốn phương đều dùng. Nếu ruộng nhà, thôn vườn ở không thể đổi, nên vào của tăng bốn phương, nếu có dư tất cả áo mặc, không hỏi pháp y, áo tắm, hoặc nhuộm hay không nhuộm và da, dầu bình giày dép đều hiện tiền nên chia. Trước nói là đồng tay áo không chia, áo trắng vào vật nặng, bởi là do ý châm trước. Sào lớn có thể làm sào treo tràng phan chỗ Thiệm Bộ quang tượng (nói Thiệm Bộ quang tượng tức như trong luật rút ra, duyên khởi nguyên là khi Thế Tôn không xử chúng, chúng không oai nghi đến đỗi khiến cho Trưởng giả Cấp Viên thỉnh Thế Tôn rằng: "Xin làm Thiệm Bộ Quang Tượng cho chúng để trên đầu" Đại sư hứa làm, nhỏ có thể làm tích trượng cho Bí sô đi. (nói tích trượng tiếng Phạm nói là Khiết Khí La, tức là nghĩa kêu ra tiếng, người xưa dịch là tích, ý lấy tích làm tiếng kêu, gậy tích mặc tình xưng gọi là nghiệm. Phương tây trì tích trượng, trên đầu chỉ có một mâm thiếc cuốn có thể chừng hai ba tấc đặt kia như ống dài bốn năm ngón tay. Sào kia dùng cây gỗ, thô nhỏ tuỳ thời, cao bằng vai, dưới để? thiết, có thể chừng hai ba tấc, vòng kia hoặc tròn hoặc lệch, cong nên chặng giữa có thể xỏ ngón tay cái, hoặc sáu hoặc tám, xỏ đặt trên cánh đồng sắt mặc tình. Nguyên ý chế là khi khất thực ngăn bò chó, nào dùng cực nhọc ràng buộc nhọc lòng mà lại thân gồm sắt đầu đặt bốn cánh, nặng mang đem giữ chẳng thường lạnh rít chẳng phải bổn chế).

Trong bốn chân, nếu là voi ngựa lừa lạc đà, phải cho quốc vương, bò dê của tăng bốn phương không nên chia, nếu loại có sừng cũng của nhà vua, binh đao… có thể đem đập làm kim chùy giao và đầu tích trượng cho hiện tiền tăng già (dầu không phổ biến theo lớn mà làm). Thuộc lưới cá nên dùng làm lưới cửa sổ, nếu màu sắc lại là vàng đỏ bích xanh, lục… nên vào điện Phật đem cúng dường tượng. Đất trắng sắt đỏ và dưới sắc xanh, hiện tiền tăng nên chia. Nếu rượu muốn chua nên chôn dưới đất đợi thành dấm đầy đủ rồi tăng nên ăn đó. Nếu hiện là rượu nên đổ bỏ không nên bán cho hàng quán. Phật nói: "Bí sô các ông nếu nương ta không được đem rượu cho người và tự mình uống, dẫn đến không nên lấy cỏ tranh thấm rượu để vào miệng một giọt, nếu đem rượu và bã rượu làm miếng và canh hèm để ăn đều mắc tội vượt pháp. Luật có thành chế không cần phải nghi (linh nghiêm đạo trang thường dùng nước cám làm bột để tránh lỗi, người xưa thật là có ý).

Có các loại thuốc tạp nên để trong kho, dành cho người bệnh tuỳ ý nên dùng. Có các trân báu, châu ngọc thì chia làm hai phần, một phần của pháp, một phần của tăng, vật của pháp có thể vẽ Phật, chép kinh, làm toà sư tử, của tăng thì hiện tiền tăng nên chia, nếu đồ báu đã thành giường quạt nên đem bán lấy tiền cho tăng hiện tiền chia, cây đã thành thì vào của tăng già bốn phương. Có kinh sách chương sớ đều không nên chia, phải nạp vào kinh tạng cho Tăng bốn phương cùng đọc. Sách ngoài thì bán cho Tăng hiện tiền chia. Nếu có vật của bằng khoán, nếu có thể sớm bán được liền có thể chia, nếu chưa bán được phải chứa lại kho, lúc sau bán được cho Tăng bốn phương dùng. Nếu vàng bạc và đồ thành hay chưa thành đồ răng các tiền, đều chia làm ba phần, một phần Phật, một phần Pháp, một phần Tăng. Vật của Phật nên lo sửa điện Phật và tóc, móng, tháp bị hư. Vật của Pháp thì chép kinh, làm toà sư tử. Vật của chúng Tăng hiện tiền nên chia. Sáu vật sẽ cho người nuôi bệnh, tự bao nhiêu vật lộn xộn khác chuẩn đây nên biết đủ như đại Luật.

37. Nhận dùng vật của Tăng:

Hiện nay phương tây, các chùa có y phục của Tỳ kheo, phần nhiều xuất thường trụ Tăng hoặc là vườn ruộng, hoặc là lợi tức của cây trái, mỗi năm chia cho để đủ y áo, hỏi rằng: "Người chết có thóc gạo còn sai nhập vào Tăng huống gì lúa đậu các nhà riêng người sao nên chia dùng?" Đáp: Thí chủ vốn bỏ thôn trang nguyên vì cúng cho chúng Tăng, há chỉ riêng cho ăn mà để lộ thân thể ư? Lại xét rõ việc đây đều có công lao của mọi người, còn tự cho y gặp chủ sao nên hay không nên, do đạo lý kia cúng ăn bao nhiêu đủ y chẳng tổn". Đây chính Tăng chúng nước tây bàn luận nhiều, nhưng kia sách Luật thời làm còn mất.

Lại các chùa nước tây riêng đặt cúng trang phục đạo tràng Thần Châu tự có cấp y, cùng được ăn thông cả đạo tục, đây căn cứ nơi tâm của thí chủ, giả sử khiến ăn no lý cũng chẳng lỗi. Phàm cúng cho Tăng ruộng nhà nhẫn đến tạp vật, đều thông y thực của chúng Tăng, đây thật không có lỗi nghi ngờ. Nếu vốn tâm khởi ý vô tận vô chướng tuy thí cho Tăng tình bèn khắp thông tất cả, nhưng ăn dùng đều không tội, đều do thí chủ vốn tâm không kỳ hạn. Nhưng ở Thần Châu, người khác không được nhận áo Tăng, vì đây chăm chỉ thật thành ngăn nghiệp, giả sử nên cúng tồn mạng chẳng phải áo tăng liền có thể ngay đó cho không cần ra cửa chùa cũng là rất thành ít việc. Huống gì quét phân ba y thay phiên xin ăn. Lan nhã nương cây chánh mạng tự sống, định huệ dung nạp, cực tưởng đường giới luật, từ bi phát ra ngoài, nêu tâm bến khắp giúp, dùng đây dâng trọn làm trên hết. Nhưng vật của thường trụ dùng làm y đắp mền nệm và các tạp vật chia đều nhận dùng không thuộc riêng ai, ưa mến giữ gìn còn hơn vật của mình. Có người lớn đến liền thôi người nhỏ mà cho, đây là thánh giáo Phật tự nói rõ, như pháp mà dùng thật không tội lỗi, đủ việc nuôi thân, khỏi phí công tìm cầu. Đâu cho nhà chùa chứa lúa gạo đầy kho nô tỳ đầy đủ, tiền tài chật kho, không biết nhận dung cùng nhau ôm nghèo, có phải là người trí biết thời chăng? Hoặc có nhà chùa không lập chúng ăn, vật

Tăng chia dùng riêng ăn, ngăn người khác thường ở, tà mạng mười phương chỉ còn một mình, đây là tự làm phi pháp, ai thay thế quả báo khổ ở đời sau cho đây.

38. Đốt thân không nên:

Các chúng xuất gia trong đoái hoài có một đường, hạng mới học tình còn lanh lợi, chưa rảnh nơi sách thánh, lấy tin trước người, toan đốt ngón tay làm siêng năng, dùng đốt cỏ làm phước lớn, tuỳ tình liền làm đoạn ở tự tâm. Nhưng trong kinh có nói rõ, sự còn thông tục, thân mình còn cố gắng cúng dường huống gì các vật ngoài thân, cho nên trong kinh chỉ nói nếu người phát tâm, không nói chúng xuất gia, ý nói người xuất gia thuộc nơi luật tạng, trong giới không phạm mới được thông kinh, ở giới có trái phạm chưa thấy kia có thể được. Dầu khiến đài hương cỏ tốt há tổn một cọng, đồng trống riêng đói thà ăn nửa hột nhưng chúng sanh mừng thấy, đây chính tục lưu đốt cánh tay cúng dường, thật là nên vậy. Có thể do Bồ tát xả con trai con gái bèn khiến Bí sô cầu con trai con gái để xả. Đại sĩ tổn mắt tổn thân, liền khiến khất sĩ đem thân mắt mà bố thí, tiên đoán đoạn mạng đâu phải chỗ làm của luật. Sức từ bỏ thân chẳng phải tăng chúng nên làm, so nghe hàng tuổi trẻ phát tâm dõng mãnh ý cho là đốt thân liền lên chánh giác bên theo nhau tập khinh bỏ thân kia, hà tắc mười kiếp trăm kiếp khó được thân người, ngàn đời muôn đời tuy người ít trí, ít nghe bảy giác, không gặp tam tôn, nay đã nương thể thắng tràng, để tâm nơi diệu pháp, vừa trì một tụng, bỏ cơ xa mà còn khinh, tạm tưởng Vô thường, bỏ trần cúng mà đâu trọng, lý nên bền tu giới phẩm, đền đáp bốn ân, bền tưởng môn định mong giúp ba cõi, lỗi nhỏ nhiều sợ, như vượt biển sâu giữ gìn phao nổi. Hạnh huệ bền ngăn đồng che nước mỏng mà sách tấn bôn chạy, rồi sau nương sức bạn lành, lúc lâm chung giúp không tâm sợ, Chánh niệm lòng thành đời nguyện thấy từ thị. Nếu mong tiểu quả liền tám Thánh có thể cầu như học đại nhơn thì ba tờ khắc bắt đầu, vội vàng bị đoạn thân mạng thật cũng chưa nghe lý kia, tội tự sát việc xấu ở Đẩu thiên, kiếm tìm ở lục tạng không thấy sai làm việc thọ thân nói phương cốt yếu, đoạn hoặc há do đốt mình. Trong phòng đánh thế Phật ngăn không cho, trong ao còn sông tôn tự xưng thiên, phá giới trọng mà tuỳ tự ý, miệng vàng ngăn không theo, do đây quy tâm thật chẳng phải Thánh giáo, hẳn có làm hạnh Bồ Tát không nhận luật nghi, quên mình giúp người vốn ở ngoài lời.

39. Bàng nhơn mắc tội:

Phàm loại đốt thân đều nêu trong thành Phật, hoặc ba người hai người đồng tâm kết khế, dẫn dụ các người sẽ học rõ là khuyên chết, ở người chết trước tự mắc tội Thâu Lan Giá, người chết sau cũng mắc tội Ba La Di, không chịu trì cấm mà còn muốn chứng đắc, phá giới cầu chết vốn giữ chuyên tâm từng không nhìn giáo, thẳng có bàng nhơn khuyên làm liền phạm lời lỗ kim. Nếu nói sao không nhảy vào lửa liền chiêu lỗi chẻ đá, than ôi! Việc đây thật có thể cẩn thận.

Tục nói rằng: "Giết thân không bằng báo đức, diệt danh không bằng lập tiết". Nhưng mà buông thân miệng hổ đói là Bồ Tát cứu khổ, cắt thân hay thịt chim, chẳng phải chỗ làm của Sa môn, do đây đồng liệu thật chẳng phải dụ kia, liền chứng tam tạng, lược bày có thể chăng.

Lượng tới lui nên người trí rõ xét, nhưng trong sông Hằng ngày giết mấy người, bên núi Già Gia tự vẩn chẳng phải một, hoặc đói mà không ăn, hoặc lên cây buông mình, hoặc mê mờ đây Thế Tôn phán là ngoại đạo.

Lại có người tự cắt thế, rất trái sách luật, giả sử có đem làm lỗi, sợ tội không dám can gián nhau, nếu duyên kia đây trí mạng liền lầm một đời đại sự. Phật nhơn lý đây chế mà không chấp nhận, thượng nhơn thông biết tự không chịu làm, cổ đức truyền thuật nhau như sau.

40. Cổ đức không làm:

Vả lại như tịnh quán giáo sư thì khéo gặp pháp sư.

Quỷ Phạm Sư thì huệ trí Thiền sư. tuổi quá bảy năm mong được thân gần hầu hạ hai thầy, đều hang kiệu vàng Thái sơn thánh nhơn rõ Thiền sư tạo đại đức cho chùa Thần thông. Tục duyên còn ở đức đủ hai châu, hai đức dùng làm, độc thiện ở núi riêng đường lợi sanh, bèn cùng đến khe xanh ở phủ Bình lâm, ở chùa Thổ Quật thử tu tịnh cư liền cách thành Tề Châu bốn mươi dặm, do không hết tạng thực cúng dường không ngại, chỗ nhận đàn việt hoặc tuỳ hỷ xả có thế gọi là bốn thệ nguyện rộng lớn cùng trời đất mà rộng lớn, bốn nhiếp ruộng giúp đồng trần xa mà không cùng, kính sửa chùa chiền, thạnh khởi phước nghiệp, lược bày bảy đức của Pháp sư.

Một, Pháp sư rộng nghe, bên chánh dòm ba tạng, riêng liếc nhìn trăm nhà, hai học đều gồm, sáu nghề không đủ, thuật thiên văn địa lý, ký lạ của âm dương lịch toán chỉ có kinh tâm thì nhiệm mầu suốt thần phủ. Biển huệ mênh mông, chép hết mực mà quên khát, vườn văn sáng lạn, trấn mở bày mà phí tàn, chỗ chế văn nghệ và tất cả kinh âm và các chữ viết hơi truyền ở đời, thường tự nói rằng "Ta nếu không biết thì chẳng phải là chữ".

Hai là Pháp sư nhiều khả năng khéo chữ triện chữ trứu chung trương, nghe tiếng tỏ đồng như Tử Kỳ nghiệm sơn thuỷ, vận búa rìu bằng thợ đá làm bay bùn, người thông minh không khí là ở đây.

Ba là thông huệ của Pháp sư. Đọc kinh Niết bàn một ngày liền hết, ban đầu tụng sách đây bốn tháng hết bộ. Nghiên cứu tôn sâu xa, khéo tham ý chỉ nhiệm mầu. Dạy tiểu đồng thì dùng bán tự để dẫn dụ, thật không xét nghi kiếm, trao đại cơ thì chép đó nguyên khí, thật có ích phụng trân quý. Xưa nhờ Nọa Lý đạo Toả Pháp sư bèn vươn đến dương phủ, chư tăng thấy đều nói là "Lỗ Hán" thể nhiều chất phát, bèn khiến pháp sư đọc kinh. Niết bàn, sai hai tiểu sư đem nhìn theo cầu, Pháp sư lúc này giọng nói hùng hồn kích dương âm chỉ, sáng đến chiều ba lần đã hết. Người bấy giờ đều mừng khen mời nghỉ ngơi và khen ít có, đây là mọi người cùng chẳng phải riêng khen.

Bốn là độ lượng của Pháp sư. Chỉ có chợ đổi tuỳ yêu sách mà thù đáp không luận cao thấp từng không giảm giá, giả sử có tính thẳng đến rồi trở lại cũng không nhận lại. Người bấy giờ cho là nhã nhặn siêu quần.

Năm là lòng nhân ái của Pháp sư, trọng nghĩa khinh tài, tuân theo hạnh Bồ Tát, có người đến xin đều không trái lời, ngày thì ba và là sở nguyện bình thường. Lại thường ở tháng thạnh đông, khách Tăng Đạo An đội tuyết đi xa chân đùi đều nứt, ở trong thôn mấy ngày lỡ loét chảy mủ, người trong thôn lấy xe chở đến chùa, Pháp sư mới mua được một cái áo choàng mới, vừa mới đắp lên thân, ra cửa chợt thấy bất giác dùng áo choàng đậy máu mủ kia, người ở bên ngăn rằng: "Nên tìm vật cũ chớ dơ đồ mới" Pháp sư nói: "Giúp nhau đang cực khổ nào rảnh để tìm vật khác". Người bấy giờ thấy nghe đều rất khen ngợi, tuy là việc chẳng quá lớn mà có thể cố cũng xa.

Sáu là sự gắn bó của Pháp sư. Đọc tám bộ Bát Nhã đều trăm biến, chuyển tất cả kinh cho xong đầu như cuối. Tu nghiệp cõi tịnh ngày đêm siêng năng, lo dọn đất Phật và tăng ít sanh biếng nhác, phần lớn bôi chân sợ tổn chúng sanh, vẫn tưởng nêu tâm từng không trễ lời, lau quét đài hương, hoa sen cõi An Dưỡng nở ra chín phẩm, trang nghiêm thất để kinh như trời mưa bốn hoa ở Linh Thứu, người ngó thấy thảy đều khen ngợi công đức, thân quên mỏi mệt lấy cuối đời làm kỳ hạng. Lại chuyển đọc các kinh, niệm Phật A Di Đà, bốn oai nghi không thiếu, tấc bóng chẳng luống, tính hạt đậu nhỏ có thể đầy hai năm, đầu mối rộng giúp vốn chẳng phải một phẩm.

Bảy trì mạng của Pháp sư: Trước khi pháp sư mất khoảng một năm, có văn chương sách sử... nhóm hết chớ làm bùn giấy cho đại chúng, chùa làm hai thân kim cương cho để đủ dùng kia, mọi người đến can rằng: "Tôn giả hẳn cầu giấy, xin đem giấy trắng đến đổi", sử nói: "Mê đắm văn đây lâu ngày lầm ta, há ở ngày nay mà lầm người khác ư? Thí như nay uống độc chẩm, chỉ qua đường núi là chưa có thể chấm bỏ chánh nghiệp tập làm công một bên, thánh khai thượng phẩm, đắm mê thành lỗi lớn, mình đã không muốn chớ đem cho người". Môn đồ khen hay mà nuôi. Kia nói văn và chữ viết may nhờ ban cho bèn giũ lòng dặn rằng: "Ông được mở sử kinh, văn tự biết cạn, nên có thể khâm phục tình hơn sách chớ đắm trước luỵ này". Khi sắp lâm chung bảo mọi người rằng: "Ta vái ba ngày sẽ đi, nhưng ở ngày cuối ôm chổi quét mà đi. Bao nhiêu hài cốt của ta hãy bỏ nơi đầm rộng."

Sáng sớm hôm sau cúi nhìn khe trong, tiêu điều dưới bạch dương, ngập ngừng bên trúc xanh, rồi riêng ngồi cầm chổi mà mất, thiền sư Huệ Lực gần sáng đến báo, mà lạ thay không phát ra tiếng được bèn nắm tay dẫn đến chỉ thấy hơi nóng xông lên đầu, tay chân đều lạnh bèn khóc òa, bốn bên xa gần đều nhóm. Bây giờ pháp lữ đều buồn khóc, máu lệ chảy như nước sông rưới khắp đất, kẻ tục kêu gào giống như xô núi ngọc, nát châu sáng, thương cây đạo sớm tiêu, than nghe pháp sách chìm, chôn ngải ở vườn tây, thọ sáu mươi ba tuổi. Sau khi Pháp sư mất, kiểm đồ tư cụ chỉ có ba y và hai đôi giày cũ cùng ngọa cụ tuỳ nghi mà thôi. Ngày Pháp sư mất Tịnh năm mười hai, đại tượng đã mất không nơi nương tựa bèn bỏ sách ngoài tình khâm sâu nội điển, năm mười bốn được thấm nhuần bạn xuất tục, năm mười tám muốn đến trời tây, năm ba mươi bảy mới toại nguyện. Tịnh đến mộ lễ bái từ tạ, bấy giờ sương rừng vây bạc một nửa, cỏ đêm điền doanh thần đạo tuy mất mà kính như còn sống xoay vòng trông ngóng, thuật tâm muốn đi xa, nhờ phước lợi nơi u linh, báo đức dày của Tử Nhan. Thiền sư thì chuyên ý nơi luật nghi lắng lòng nơi bến định ngày đêm sáu thời mà không mỏi, sáng tối dẫn bốn bọn mà quên một, có thể gọi là xử loạn chẳng ồn náo mà càng tịnh, đạo tục đều chẳng cong thân.

Tụng kinh Pháp Hoa hơn sáu mươi năm mỗi ngày một vòng tính ra hơn hai muôn biến dầu trải qua tuỳ quý ván trôi theo mạng sống đổi nhưng khế tâm đây từng không bỏ, hiện được sáu căn thánh thiện, bốn đại kinh hoà. Trong năm sáu mươi tuổi rõ không bệnh gì khác, thường cúi khe tụng kinh, lại có chim linh dừng đậu góc nhà chuyển đọc, thì cảm gà kêu thì nghe, duyên lành tình thể hội âm luật, rất tinh thảo lệ, xướng đạo không cùng, tay không để tâm nơi sách ngoài mà thiên túng như vậy. Làm tụng luật độ và văn phát nguyện đều chép ở đài Đăng nơi chùa Thổ Quật. Bèn tâm thành trong sạch chép kinh Pháp Hoa. Cực tuyên danh thủ tột thượng thì kia, ngậm hương nhả khí, tắm rửa trong sạch bỗng ở trên kinh cảm thấy xá lợi, kinh xong bên thếp chữ vàng cùng bạc viền mà hợp màu, đựng bằng hòm báu cùng cuộn ngọc mà ánh sáng giao nhau.

Giá Tân, Thái Sơn vua nghe biết mời vào nội cung cúng dường, hai sư đây liền nối gót tiên Thánh rõ sau Thiền sư. Rõ Thiền sư chính khi hiện sanh hai Tần, nêu tiếng bày năm chúng, chia thân nhận cúng dường. Thân đến cửa người cúng tuỳ sự dẫn cơ, nguyện sự hợp cơ tình, chỉ vì hoá vượt vật ngoài cho nên dùng thần thông mà mạng chùa. Thần đức khó suy nghĩ, rộng như liệt truyện đã chép. Ban đầu muốn làm chùa, mới vào thì thấy hổ gầm ở sông bắc gần xa lại nghe ngựa rồng ở hang nam, múc nước giếng trời mà không giảm trời xanh, bỏ gạo xuống đất bằng tuy dấu thần lâu nổi mà các gió khác chưa dứt mà thân giáo hai sư và các đại đức trụ trì Minh Đức thiền sư v.v... đều có thể gọi là khéo nhãn y luật, giỏi thể hội tâm kinh, đốt cơ, đốt ngón tay từng không phải giáo đây, môn đồ thầy dạy chế không cho làm, đều là thân thừa vốn chẳng phải truyền nói.

Lại nữa, rõ quán thông minh xưa, so lường nghe quy tắc trước. Từ ban đầu ngựa trắng dùng kiệu, voi xanh sau treo yên. Đằng Lan mở ánh sáng làm mặt trời mặt trăng ở Thần Châu, từng hiển phép tắc làm cầu bến cho trời cúi xuống, an xa thì hổ quỳ ở Nam Giang Hán, thôi gắng gổ bằng chim ưng dương ở bắc Giang Tề. Pháp đồ nối tiếp bền huệ vẫn trong, kẻ tục xưng khen, cỏ phương bụi chẳng nghĩ, từng chưa nghe sai đốt ngón tay cũng không thấy cho đốt thân, gương sáng trước mắt người trí phải rõ.

Lại Thiền sư thường ở đêm vắng thấy đứa trẻ tết bím tóc cong thẳng đến dẫn dụ, hoặc lời dụ ở lá vàng khiến càng lo nhớ mẹ, hoặc dụ nói chim thú mong báo đức nuôi dưỡng, ông có thể làm việc nối thạnh tam bảo khiến không dứt, chớ buông tâm trăm họ mà dối bỏ một đời, đã là đồng niên mười tuổi, chỉ lãnh lời kia mà chưa thấm sâu ý chỉ. Thường đến canh năm đến thất tham thỉnh, thiền sư hẳn đem lòng từ ban cho vỗ về vai yếu, thật như mẹ hiền nuôi con đỏ. Hoặc ăn ngon ngọt phần nhiều chuyết vị thấy tặng, chỉ có lấy cầu không trái chỗ thỉnh, Pháp sư bèn ân cần khuyên gắng cha nghiêm. Thiếu nữa thì lòng từ bày như mẹ thương, trọng thiên tánh thật không gì thêm, cho đến đủ tuổi thọ giới cụ túc lại nương lấy thiền sư làm Hoà thượng, đã thọ giới rồi, bỗng ở đêm vắng, mé hành đạo đốt hương, khóc lóc mà hối rằng: "Đại Thánh Niết Bàn đã lâu, pháp giáo thay thế giáo hoá, người phần nhiều ưa thọ ít có trì, ông chỉ bền tâm trọng cấm, chớ phạm thiên ban đầu, có bao nhiêu tội lỗi giả sử có phạm ta sẽ thay ông vào địa ngục chịu cho, còn đốt ngón tay đốt thân là không nên làm".

Tiến dâng ý chỉ, mong lòng từ bi ban cho thánh giới tuỳ sức bày chí, dám có thiếu trái, tuy ở tội nhỏ có lòng sợ lớn, ở trong năm niệm kinh cầu sách luật, văn sớ khuyên gắng của luật sư hơi bàn chỗ thâm sâu, sao thuật tuyên bày của Luật sư trộm bàn trung chỉ. Đã biết trì phạm sư bèn giảng một lần, mới nghe đại kinh, khất thực một bữa, ngồi nhiều không nằm, tuy chùa núi xa thôn cùng chưa từng có bỏ, thường nhớ lời dạy từ bi của Đại sư, bất giác rơi lệ không ngừng, mới niệm ân cứu khổ của Bồ tát nhảy vào lửa lớn. Trưởng giả buồn nghĩ đến cùng tử, dòm cửa nhỏ hiểm hóc vốn chẳng phải lầm. Thường thân gần bên chân không cho đi xa, lại ân cần bảo rằng: "Ta từ nay lại có các ngươi hầu hạ khác cha cấp cho ngươi, chớ bỏ nghe đọc mà thường không trụ ở đây" chính gậy tích đồng ngụy hơi chìm tâm nơi đối pháp, gánh hòm sách đến tay kinh mới mở đọc tưởng ở Câu Xá Duy Thức, ngày nay từ kinh lại về thôn cũ, thân thỉnh Đại sư rằng: "Con tuổi đã già, tình mong dạo đi xa tìm xem chỗ chưa nghe mong có lợi ích rộng, chưa dám tự quyết". Sư bèn để lại lời day rằng: "Ông khi làm duyên lớn không thể làm lại, kích nơi nghĩa lý há riêng lòng lưu luyến, ta thác hay còn, nếu thấy ông truyền đăng nên liền có thể làm, chớ việc đoái hoài, quan sát và lễ dấu vết thánh ta thật tuỳ hỷ, nối thạnh việc trọng ông còn không ngừng vậy. Đã vâng nghe lời từ khó trái thượng mạng". Bèn đến tháng mười một Hàm Hưởng năm thứ hai nương thuyền Quảng Châu dong buồm ra Nam Hải, đi qua các nước chống gậy đến Tây thiên. Đến ngày mùng tám tháng hai năm Hàm Hưởng thứ tư mới đến nước Chẩm Ma Lập Để, tức cửa biển phía đông Ấn Độ, đến tháng năm theo bạn chinh tây đến Na Lan đà và toà Kim Cang, bèn khắp lễ thánh tích xoay theo thệ của Phật. Có thể gọi là đại thiện tri thức có thể toàn đủ phạm hạnh, thật giáo của Điều Ngự đây há sai ư? đại sư bèn ứng vật đản sanh làm thay mô phạm tự thân khen ngợi để người chí thành, như bè biển gặp sắp hết một ngày liền sanh Tân, Hội hai sư của luật. Dùng tiểu thiện tiểu huệ còn lan rộng tốt đẹp nơi huyền ca, huống gì đại trí đại ân mà không truyền, ở văn tán viết rằng:

Lành thay cha mẹ
Nhiều kiếp giữ nhau
Con thời măng sữa
Dắt đến minh sư
Đồng niên còn nhỏ
Dừng ái rút bi
Học mà thời tập
Gậy đức, điều răn
Đức rõ hai diệu
So đức hai nghi
Mài ta lưỡi huệ
Dài ta cỏ pháp
Dẫn dắt nuôi nấng
Thân dạy quên mệt
Giữa đêm bỏ ngủ
Ban ngày dừng đói
Thượng đức không đức
Xa mà đâu biết
Lấp sáng đầu non
Che đức đồng bờ
Mênh mông biển huệ
Cành thiền tươi tốt
Nhành rong sán lạn
Màu định rực rỡ
Mài mà không nát
Niết mà không đen
Ngồi dời nêu khác
Gà nghe bóng kỳ
Tuổi ở năm kém
Một giữ một bỏ
Chỗ có phước nghiệp
Đều dùng huân giúp
Báo ân chết xa
Đáp đức sống lìa

Nguyện ở tại tào hội mà chúc mừng, đời đời vâng lời dạy để thành cởi áo. Nhóm nghĩa lợi ở đồng khâu, uỷ tịnh định cũng như ao.

Mong hội đầu Long Hoa nghe huyền ý của Từ Thị, khắp bốn đời mà vận tưởng, đủ ba đại trường kỳ.

Sợ người nghe cho là hư dối, tạm sơ chỗ chế của

Pháp sư. Đại sư từng nhơn ngày mười lăm tháng hai, kẻ tục người pháp đều đến chỗ thánh tích Lãng Công ở núi Nam để xem kho trời kỳ lạ, lễ khám linh miếu linh dị kỳ, không xa ngàn dặm thạnh khởi cúng dường. Bấy giờ Tề Vương hạ văn học đều tụ tập ở đây, đều ôm bút biển và đán văn núi, đều tranh? dùi, đều giành hòm ngọc, muốn vịnh miếu tượng Lãng Công cùng suy Pháp sư làm trước, sư bèn không nhường đương nhơn, sông ao trước đầy giúp bút chép vách từng không nghỉ một chút, múa bút thành bài rồi không thêm điểm thơ rằng:

Thượng Thánh trước tươi tốt, anh hiến bày biển cả, hang trống tự đậu dừng, nhọc mạng luống đợi nhau, muôn xưa núi sông đồng trống, ngàn năm người thay đổi, chơn thức rõ vô sanh, luống thấy Đan Thanh còn. Các văn sĩ đã thấy chế tác của Pháp sư đều hổ thẹn trong lòng, gác bút nhánh cây tùng, hoặc ném nghiên ở đầu núi. Đều nói rằng: Tây Thi bày mặt, Mô Mẫu mày nào, tài tử như rừng, không một di hoà. Bao nhiêu văn chương khác đủ như riêng nhóm.

Nghĩa Tịnh kỉnh bạch các Đại Đức Đại Chu, hoặc từng nghe thọ chiếu trống, hoặc hỏi bàn nghĩa pháp, hoặc biết nhau nhược quan, hoặc thông biết lúc trung niên hoặc khi đã lớn Hoà Thượng nhỏ ngàn muôn, chỗ bày bốn mươi điều, luận việc yếu lược. Phàm chỗ đây chép đều là hiện làm của thầy trò phương tây, chép ở lời Thánh chẳng phải là ý riêng. Phàm mạng… thệ sông sớm không mưu chiều e khó bày mặt đến nỗi đây trước trình ra lúc có rảnh thì tìm mong chiếu ý xa, đây nương Tát Bà đa, chẳng phải bộ khác.

Lại nói rằng: Kỉnh bày lịnh thì rộng nơi đạo lớn, hoặc nương thánh giáo, há nói rằng tình cầu sợ khó yết kiến, nương đây trước thù đáp, mong nguyện gõ càng xe không bỏ, người quê mùa thấy thâu, theo dấu trăm đời gieo đẹp ngàn thu, thật mong tiếng Linh Thứu ở thất nhỏ và Vương Xá nơi Thần Châu.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sự Vựng][Mục lục tổng quát]