TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỰ VỰNG

SỐ 2128 - NHẤT THIẾT ÂM NGHĨA KINH

Phiên dịch kinh Sa-môn Huyền Ứng soạn.

MỤC LỤC

SỐ 2128 - NHẤT THIẾT ÂM NGHĨA KINH

QUYỂN 71

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 1

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 2

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 6

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 7

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 8

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 9

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 10

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 11

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 12

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 13

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 14

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 16

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 18

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 19

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 20

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 21

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 22

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 23

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 24

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 25

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 26

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 27

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 28

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 29

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 30

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 31

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 32

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 33

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 34

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 35

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 37

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 38

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 39

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 40

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 41

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 42

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 43

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 44

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 45

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 46

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 47

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 48

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 51

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 52

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 53

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 54

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 55

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 57

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 58

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 59

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 60

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 62

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 66

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 67

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 68

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 69

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 70

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 73

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 74

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 75

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 76

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 78

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 79

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 80

QUYỂN 72

HIỂN TÔNG LUẬN

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 1

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 2

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 3

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 4

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 5

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 6

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 7

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 8

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 10

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 11

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 12

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 13

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 15

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 16

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 17

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 20

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 21

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 22

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 23

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 24

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 25

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 27

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 28

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 29

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 35

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 36

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 37

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 38

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 40

A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 4

PHÁP THẮNG A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

PHÁP THẮNG A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 6

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 1

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 2

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 3

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 4

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 5

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 7

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 8

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 9

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 10

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 11

QUYỂN 73

A-TỲ-ĐÀM CAM LỘ VỊ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

TÙY TƯỚNG LUẬN

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 1

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 2-3

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 4

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 5

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 6

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 7

TAM PHÁP ĐỘ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

NHẬP A TỲ ĐẠT MA LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

THÀNH THẬT LUẬN

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 1

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 4

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 5

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 6

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 7

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 9

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 11

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 12

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 15

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 16

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 17

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 2

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 3

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 4

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 5

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 8

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 9

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 10

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 1

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 2

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 3

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 4

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 7

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 8

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 10

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 6

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 11

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 13

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 14

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 19

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 21

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 22

NGŨ SỰ TỲ BÀ SA LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 3

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 4

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 5

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 9

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 10

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 12

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 13

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 14

TAM DI ĐỂ BỘ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 1

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 2

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 3

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 4

TỨ ĐẾ LUẬN

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 1

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 2

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 4

BÍCH CHI PHẬT NHÂN DUYÊN LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

THẬP BÁT BỘ LUẬN

BỘ DỊ CHẤP LUẬN

DI BỘ TÔNG LUẬN

QUYỂN 74

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 1

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 2

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 3

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 4

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 5

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 1

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 3

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 4

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 5

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 6

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 7

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 1

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 4

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 7

XUẤT DIỆU KINH

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 1

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 2

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 3

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 4

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 5

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 7

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 8

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 9

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 10

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 11

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 12

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 14

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 15

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 16

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 17

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 18

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 19

HIỀN NGU KINH

HIỀN NGU KINH QUYỂN 1

HIỀN NGU KINH QUYỂN 3

HIỀN NGU KINH QUYỂN 4

HIỀN NGU KINH QUYỂN 5

HIỀN NGU KINH QUYỂN 6

HIỀN NGU KINH QUYỂN 7

HIỀN NGU KINH QUYỂN 8

HIỀN NGU KINH QUYỂN 9

HIỀN NGU KINH QUYỂN 10

HIỀN NGU KINH QUYỂN 11

HIỀN NGU KINH QUYỂN 12

HIỀN NGU KINH QUYỂN 13

HIỀN NGU KINH QUYỂN 14

HIỀN NGU KINH QUYỂN 15

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP

LỜI TỰA

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN THƯỢNG

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN TRUNG

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN HẠ

QUYỂN 75

ĐẠO ĐỊA KINH

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 1

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 2

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 3

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 4

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 5

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 2

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 3

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 4

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 5

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 6

BÁCH DỤ TẬP KINH

BÁCH DỤ TẬP KINH QUYỂN 4

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 1

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 2

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 3

ĐẠI THỪA TU HÀNH TÁT HẠNH MÔN CHƯ KINH YẾU TẬP (3 QUYỂN)

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 1

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 4

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 5

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 6

TỌA THIỀN TAM MUỘI KINH

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

PHẬT Y KINH

DUY VIẾT TẠP NAN KINH

CA DIẾP PHÓ PHẬT KINH

BỒ TÁT HA SẮC DỤC KINH

TỨ PHẨM HỌC PHÁP

KIM CANG LỰC SĨ AI LUYẾN KINH

CA CHIÊN DIÊN THUYẾT PHÁP MỘT TẬN KỆ KINH

PHẬT THUYẾT TRỊ THÂN KINH

PHẬT THUYẾT TRỊ Ý KINH

NGŨ MÔN THIỀN KINH YẾU DỤNG PHÁP

DẬT MA ĐA LA THIỀN KINH

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

THIỀN PHÁP YẾU GIẢI KINH

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

TẠP THÍ DỤ KINH

KINH A HÀM DI GIẢI THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

TƯ DUY LƯỢC YẾU KINH

PHẬT THUYẾT PHÁP THÂN QUÁN DƯƠNG CÚ KINH

PHÁP QUÁN KINH

THIỀN YẾU KINH HA DỤC

PHẬT THUYẾT THẬP NHỊ DU KINH

A DỤC VƯƠNG THÍ DỤ KINH

TẠP BẢO TẠNG KINH

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 1

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 2

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 3

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 4

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 5

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 6

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 7

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 8

NA TIÊN TỲ KHEO KINH

QUYỂN THƯỢNG

THÍ DỤ KINH

QUYỂN 1

QUYỂN 2

TẠP THÍ DỤ KINH

QUYỂN 76

A DỤC VƯƠNG KINH

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 1

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 2

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 3

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 4

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 5

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 6

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 7

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 8

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 9

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 10

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 1

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 2

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 3

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 4

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 5

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 6

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 7

A DỤC THÁI TỬ PHÁP ÍCH HOẠI MỤC NHÂN DUYÊN KINH

TỨ A HÀM MỘ SA GIẢI

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

PHÁP CÚ KINH

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 1

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 2

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 3

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 4

PHẬT THUYẾT PHÁP CÚ KINH

CA DIẾP KIẾT KINH

TAM HUỆ KINH

TUYỂN TẬP TAM TẠNG KINH CẬP TẠP TẠNG

A TỲ ĐÀM NGŨ PHÁP HÀNH KINH

TIỂU ĐẠO ĐỊA KINH

NHẤT BÁCH NGŨ THẬP TÁN PHẬT TỤNG

KIM CANG ĐẢNH KINH THẬP LỤC ĐẠI BỒ TÁT TÁN

VĂN THÙ SƯ LỢI PHÁT NGUYỆN TÁN

PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN TÁN

LỤC BỒ TÁT DANH DƯƠNG TỤNG TRÌ KINH

LIÊN HOA BỘ NHẤT BÁCH BÁT DANH TÁN

TÁN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TỤNG KINH

NGŨ TÁN BÁT ĐẠI BỒ TÁT TÁN ĐẲNG

VÔ MINH LA SÁT TẬP

BÁ THIÊN TỤNG ĐẠI TẬP KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT THỈNH VẤN PHÁP THÂN TÁN

PHẠM BỔN PHỔ HIỀN TÁN

PHẠM ÂM VĂN THÙ TÁN

KIẾT TƯỜNG TÁN

LONG THỌ BỒ TÁT VI THIỀN ĐÀ CA VƯƠNG THUYẾT PHÁP YẾU KỆ

KHUYẾN PHÁT CHƯ VƯƠNG YẾU KỆ

MÃ MINH BỒ TÁT TRUYỆN

LONG THỌ BỒ TÁT TRUYỆN

ĐẠI A LA HÁN NAN ĐỀ MẬT ĐA LA SỞ THUYẾT PHÁP TRỤ KÝ

PHÂN BIỆT NGHIỆP BÁO LƯỢC TẠP

BÀ TẨU BÀN ĐẬU TRUYỆN

LONG THỌ VI THIỀN ĐÀ CA VƯƠNG THUYẾT PHÁP YẾU KỆ

LONG THỌ BỒ TÁT KHUYẾN GIỚI VƯƠNG TỤNG

TÂN ĐẦU LÔ VỊ VƯƠNG THUYẾT PHÁP KINH

THỈNH TÂN ĐẦU LÔ PHÁP

ĐỀ BÀ BỒ TÁT TRUYỆN

CA ĐINH THUYẾT ĐƯƠNG LAI BIẾN KINH

THẮNG TÔNG THẬP CÚ NGHĨA LUẬN

KIM THẤT THẬP LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

QUYỂN 77

THÍCH CA PHỔ

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 1

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 2

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 3

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 4

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 5

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 6

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 7

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 8

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 9

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 10

THÍCH CA THỊ LƯỢC PHỔ

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

THÍCH MÔN HỆ LỤC

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 1

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 2

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 3

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 4

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 5

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 6

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 8

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 9

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 10

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 11

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 12

QUYỂN 78

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 1

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 2

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 3

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 4

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 5

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 6

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 7

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 8

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 9

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 10

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 11

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 12

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 13

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 14

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 15

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 16

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 17

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 18

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 19

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 20

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 21

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 22

QUYỂN 79

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 23

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 24

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 25

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 26

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 27

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 28

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 29

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 30

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 31

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 32

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 33

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 34

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 35

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 36

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 37

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 38

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 39

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 40

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 41

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 42

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 43

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 44

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 45

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 46

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 47

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 48

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 49

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 50

QUYỂN 80

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 1

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 2

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 3

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 4

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 5

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 6

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 7

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 8

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 9

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 10

TỤC ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 1

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 2

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 3

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 4

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 5

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 6

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 7

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 8

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 9

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 10

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 11

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 12

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 13

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 14

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 15

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 16

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 17

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 18

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 19

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 20

QUYỂN 81

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 1

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 2

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 3

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 4

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC CẦU PHÁP CAO TĂNG TRUYỆN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

QUYỂN 82

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 1 BA MƯƠI BỐN NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 2 TAM QUỐC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 3 TÁM NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 4 MƯỜI LĂM NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 5 SÁU NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 6 BỐN NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 7 BA NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 8 MA-YẾT-GIÀ QUỐC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 9 MA-YẾT-HÀ QUỐC HẠ

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 10 MƯỜI BẢY NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 11 HAI MƯƠI BA NƯỚC

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 12 HAI MƯƠI HAI NƯỚC

QUYỂN 83

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 1

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 2

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 3

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 4

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 5

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 6

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 7

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 8

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 9

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 10

QUYỂN 84

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 1

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 2

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 3

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 4

TỤC CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 1

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 2

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 3

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 4

ĐỘC CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH

LỢI THIỆN LUẬN HÀNH

ĐẠO NHÂN ĐỊNH TAM GIÁO LUẬN HÀNH

QUYỂN 85

BIỆN CHÁNH LUẬN

TỰA

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 1

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 2 - TAM GIÁO TRỊ ĐẠO THIÊN HẠ

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 3 - THẬP ĐẠI PHỤNG PHẬT THÊN THƯỢNG

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 4 - THẬP ĐẠI PHỤNG PHẬT THIÊN HẠ

QUYỂN 86

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 5 - PHẬT ĐẠO TIÊN HẬU THIÊN

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 6 - THẬP DỤ THIÊN

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 7 - THIÊN TÍN HỦY GIAO BÁO

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 8 - XUẤT ĐẠO NGỤY MẬU THIÊN

QUYỂN 87

PHÁ TÀ LUẬN

TỰA

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

SÙNG CHÁNH DUYÊN

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 1

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 2

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 4

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 12

CHÂN CHÁNH LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

THẬP MÔN BIỆN HOẶC LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

QUYỂN 88

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN

TỰA

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 1

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 2

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 3

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 4

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 5

TẬP SA MÔN BẤT ỨNG BÁI TỤC ĐẲNG SỰ LỤC QUYỂN TINH TỰA

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 1

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 2

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 3

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 4

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 5

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 6

QUYỂN 89

CAO TĂNG TRUYỆN

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 1

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 2

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 3

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 4

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 5

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 6

QUYỂN 90

CAO TĂNG TRUYỆN

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 7

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 8

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 9

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 10

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 11

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 12

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 13

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 14

QUYỂN 91

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 1

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 2

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 3

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 4

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 5

QUYỂN 92

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 6

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 7

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 8

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 9

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 10

QUYỂN 93

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 11

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 12

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 13

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 14

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 15

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 16

QUYỂN 94

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 17

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 18

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 19

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 20

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 21

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 22

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 23

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 24

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 25

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 26

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 27

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 28

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 29

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 30

QUYỂN 95

ÂM HOẰNG MINH TẬP

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 1

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 2

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 3

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 4

QUYỂN 96

ÂM HOẰNG MINH TẬP

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 5

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 6

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 7

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 8

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 9

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 10

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 11

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 12

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 13

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 14

QUYỂN 97

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

TỰA

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUY CHÁNH THIÊN QUYỂN 1

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 2

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 3

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 4

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 5

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 6

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 7

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 8

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 9

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 10

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 11

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 12

QUYỂN 98

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 13

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 14

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 15

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 16

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 17

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 18

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 19

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 20

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 21

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 22

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 23

QUYỂN 99

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 24

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 25

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 26

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 27

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 28

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 29

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 30

QUYỂN 100

PHÁP HIỂN TRUYỆN

HUỆ SIÊU VÃNG NGŨ THIÊN TRÚC QUỐC TRUYỆN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

KINH CHÂU SA MÔN VÔ HÀNH TỪ TRUNG THIÊN PHỤ THƯ VỚI CÁC ĐẠI ĐỨC ĐƯỜNG QUỐC VÔ HÀNH PHÁP SƯ THƯ

KHẢI LUẬN

TỰA

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

CHỈ QUÁN MÔN LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

AN LẠC TẬP

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

CỔ PHÁP NGHĨA LUẬN

NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

KIM PHI QUYẾT MÔ LUẬN

TỲ KHEO NI TRUYỆN TỰA

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 1

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 2

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 3

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 4

QUÁN TÂM LUẬN

THẬP NGHI LUẬN

CỤ LỤC TÂY QUỐC DỤC TƯỢNG NGHI QUỶ

THUYẾT TỘI YẾU HÀNH PHÁP

TRÙNG HIỆU NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA TỰA

 


QUYỂN 71

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 1

(Tám Mươi Quyển)

Gia thụy ngược lại âm giả hà ngược lại âm dưới thời thụy sách Nhĩ Thất cho rằng: Gia là lời nói hay tốt, cũng như thiện ngôn tốt đẹp. Thiên Thương Hoét ghi: Thụy là ứng hợp gọi chung ngọc dùng để làm tin, nói có đức tốt đẹp, tức là nên làm như vậy, đây là ngọc để làm tin.

A-thị-đa ngược lại âm thường nhĩ đây dịch là vô thắng xưa nói là A-kỳ-đa hoặc viết là A-đạt-đa đều sai, tức là Ngài Di-lặc kim sanh vậy.

San báng ngược lại âm sổ gian Thiên Thượng Hoét ghi rằng: San là chê bai. Quảng Thất cho rằng: San là hủy báng, chê bai, nói xấu.

Lậu tiết ngược lại âm tức liệt Quảng Thất cho rằng:

Tiết là nước tràn ra, phát ra, cũng là nước rỉ dột.

Chỉ mang ngược lại âm mạc ban tức là Ương-quậtma-la Ương-quật đây dịch là chỉ mang hoặc gọi là kiết đoạn chỉ người dùng kết tràng hoa trang nghiêm trên đầu cho nên có tên gọi này.

Ô lô tần loa ca diếp ba đây dịch là mộc hoa lâm dưới tu đạo bởi vì vậy mà gọi tên Ca-diếp-ba-la-họ. Xưa nói là Ưu-lâu-tần-loa đúng như kinh Pháp Hoa nói thời thượng cổ ba anh em Ca-diếp là người ở nơi trưởng giả giàu có vậy.

Đường giảo ngược lại âm cổ uyển đường là đi bộ, là trống không uổng phí. Tự Thư cho rằng: Giảo là quấy rối, ngược lại âm hồ đao nạo là quấy nhiễu, sách Thuyết Văn cho rằng: Nạo là nhiễu loạn.

Đát-sách-ca ngược lại âm đô đạt ngược lại âm dưới sơ cách tên của loài rồng.

Khấu kích sách Thuyết Văn viết cú cũng đồng, ngược lại âm khổ hậu khấu cũng là kích tức là đánh gõ. Hoán nhuyễn ngược lại âm nô khóa ngược lại âm dưới diện luyến Tam Thương cho rằng: Nhuyễn là ốm gầy. Quảng Thất cho rằng: Nhuyễn là mềm mại, yếu mềm.

Xứng huyền ngược lại âm cự viên Quảng Thất cho rằng: Xứng là quả cân. Gọi là huyền tức là trọng nặng, là biết nặng nhẹ vậy chữ viết từ bộ thủ.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 2

Điều nhiên ngược lại âm đồ điêu điều là xa lắc, xa lơ, xa xăm. Xa xôi. Âm đối ngược lại âm đồ kế.

Cụ-ba-lạc-ca đây dịch là ngưu kinh.

Tốt-đổ-ba ngược lại âm tô một ngược lại âm dưới Đô-cổ đây dịch là miếu thờ. Hoặc gọi là phần mộ, hoặc nói là tụ tướng, hoặc nói là thạch quả v.v... cao đó cho là tướng. Xưa nói là đẩu tẩu ba hoặc gọi là thâu bà đều là tùy theo địa phương mà đọc có nặng nhẹ, âm có khinh trọng.

-Quyển 3, 4, 5 trước đều không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 6

Hối minh ngược lại âm hồ đối sách Tiểu Thất cho rằng: Sương mù dày đặc gọi là hối nói sương mù dày đặc là từ đất giao hợp nên tối tăm. Minh là chỗ không nhìn thấy rõ, sương mù che phủ thì ban ngày cũng tối tăm.

Phân dụ lại viết chữ phân cũng đồng, ngược lại âm phu vân Thích Danh cho rằng: Phân là bột thơm không khí ẩm ướt vươn vào cây cỏ vì vậy mà rất lạnh, màu sắc ngưng đọng trắng xóa giống như bột, sách Tiểu Thất cho rằng: Khí của thiên địa phát ra không ứng hợp gọi là sương, sương là khí âm, ẩm thấp.

Khuếch thanh ngược lại âm khẩu quách sách Tiểu Thất cho rằng: Khuếch là to lớn.

Sở ban lại viết chữ ban cũng đồng, ngược lại âm bổ gian sách Tiểu Thất cho rằng: Ban là trải chiếu, sách Tiểu Thất cho rằng: Ban là biến khắp phong phú cùng khắp vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 7

Đàn trách ngược lại âm đồ thiên ngược lại âm dưới si diệc Quảng Thất cho rằng: Đàn là phanh ra xé ra, âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Trách là không dùng, cũng là buộc phải đi xa. Trách là chỉ, âm phanh ngược lại âm phổ canh.

Huyền diệu ngược lại âm hồ mạch Quảng Thất cho rằng: Huyền là hoặc loạn, diệu là chiếu sáng.

Ngoan ngân ngược lại âm ngũ hoàn ngược lại âm dưới ngư cân Quảng Thất cho rằng: Ngoan là ngu độn, Thiên Thương Hoét ghi: Ngân là xấu ác, theo Tả Truyện cho rằng: Ngân là tâm không có đức, theo nghĩa kinh là ngoan là miệng nói lời không có đạo đức trung thực, nói là không có niềm tin là ngân.

Sính dĩ ngược lại âm sửu tĩnh sách Thuyết Văn viết chữ sính cũng thông dụng, sách Tiểu Thất cho rằng: Sính là vui vẻ, sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải cho đến cửa đông gọi là sính giữa sông Giang Hoài Trần, Sở gọi tốt đẹp vui vẻ là hảo.

Thông duệ ngược lại âm dĩ nhuế thông gọi là nghe được rất nhỏ, rất nhỏ mà nghe rõ, duệ là tri thức. Lại nữa biết trước gọi là thông hiểu sâu xa gọi là duệ.

Phương duy ngược lại âm dĩ hoài Quảng Thất cho rằng: Vùng xa xôi hẻo lánh, sách Hoài Nam Tử nói rằng: Trời có bốn duy gọi là đông, tây, nam, bắc, tử, duy, thượng, hạ.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 8

Trù trừ ngược lại âm trường lưu ngược lại âm dưới là trường ư Quảng Thất cho rằng: Trù trừ là do dự, cũng gọi là dùng dằng không muốn tiến tới.

Dị sanh tiếng Phạm nói là Ba-la-tất-lật-thác-ngật-na Ba-la đây dịch là ngu, Tất-lật-thác đây dịch là dị ngật-na dịch là sanh nên nói ngu là dị sanh. Xưa nói đứa trẻ sanh ra khác biệt, cũng nói là đứa bé ngu phàm phu lại nói đứa trẻ nhỏ phàm phu đều là một nghĩa.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 9

Táo động lại viết chữ táo cũng đồng, ngược lại âm tử đáo táo là xao động không yên tĩnh. Thích Danh cho rằng: Táo là làm cho khô ráo, nói vật làm cho khô ráo tức là động là bay lên.

Trung dung ngược lại âm dĩ dung Quảng Thất cho rằng: Trung bình dung hòa, sách Tiểu Nhĩ Thất cho rằng: Dung là tốt lành. Gọi là hòa bình, người sống trong cảnh hòa bình an vui tốt lành.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 10

Xi tiếu ngược lại âm xướng di sách Tiểu Nhĩ Thất cho rằng: Xi là làm trò vui. Thiên Thương Hoét ghi rằng: Xi là khinh thường, Tiếu là vui vẻ, làm trò vui, chữ viết từ bộ cổ đến bộ triệt tức là chữ xi.

Bao biếm ngược lại âm bổ cao ngược lại âm dưới bể liễm theo chữ bao là khen thưởng tốt đẹp, biến là truất phế thối lui.

Khưu nghị ngược lại âm mạc hậu Khưu là luận bàn nghị là vạch ra kế hoạch. Bàn luận công việc là mưu nói rõ ràng bàn luận là nghị

Đích luận ngược lại âm đồ đích sách Quảng Thất cho rằng: Địch là đương đầu, đối đầu, sách Nhĩ Thất cho rằng: Địch là chống cự. Hoảng loạn ngược lại âm hồ quang hoảng gọi là lo sợ ở trong lòng. Quảng Thất cho rằng: Hoảng là lo sợ nơm nớp trong lòng, Thiên Thương Hoét cho rằng: Hoảng sợ e sợ.

Thực đa ngược lại âm thị lực sách Nhĩ Thất cho rằng: Thực là đúng thời, điều thực, cái có cụ thể. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thực là trên.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 11

Tham ách lại viết chữ ách cũng đồng, ngược lại âm ô cách ách là đè lên cổ con trâu, con ngựa, ách cũng là cách âm cách là âm cách.

Trách phạt ngược lại âm chư cách Văn thông dụng cho rằng: Phạt tội gọi là trách mắng, quở trách cũng là tội lỗi, phạt là triết phục.

Mông hội ngược lại âm mạc băng ngược lại âm dưới công nội Tam Thương cho rằng: Mong là không sáng tỏ. Hội là phiền loạn.

Ngã ích ngược lại âm khưu dĩnh sách Sử cho rằng: Khoảnh khắc chờ đợi để hỏi thăm theo chữ khoảnh đó là giống như phút chốc cũng gọi là không lâu.

Kỵ đạn ngược lại âm cự ký ngược lại âm dưới đồ đán Quảng Thất cho rằng: Kỵ là e sợ, sợ sệt, nghi nang, sách Thuyết Văn cho rằng: Kỵ là oán ghét.

Cố miến ngược lại âm cô bố ngược lại âm dưới miên kiến sách Thuyết Văn cho rằng: Quay đầu nhìn lại gọi là cố nhìn nghiêng liếc nhìn gọi là miến.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 12

Phiêu xí ngược lại âm ty diệu ngược lại âm dưới xương chí Văn thông dụng cho rằng: Huy hiệu gọi là phiêu. Sách Tư ký cho rằng: Chữ xí đều từ bộ cân hoặc là viết từ bộ mộc viết thành chữ phiêu gọi là lấy cây làm tiêu thức mà viết lên làm hiệu lệnh đây cũng gọi là hai thông dụng.

(769) Mạt-nô-sa ngược lại âm mạc bát cũng nói là Ma-miễn-sa đây dịch là người.

Võng lượng văn cổ viết chữ võng lượng hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm vong cường lực dưỡng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Võng lượng là tịnh vật của núi sông, Văn thông dụng cho rằng: Cây đá quái trụ gọi là võng lượng vậy.

Tỳ Thấp Phược Yếu Ma Thiên đây dịch là các loại công nghiệp. Theo Tây Vực các nước phương tây, công nghiệp nghề thủ công khéo léo đó có rất nhiều, nên phải cúng tế trời đây vậy.

Da-phu ngược lại âm cô-hà sách Nhĩ Thất cho rằng: Da là thêm nhiều lớp. Nay lấy nghĩa này, gọi là ngồi tréo chân, trong kinh hoặc là viết kiết giao phu tọa là ngồi tréo chân kiết già. Sơn Đông nói giáp phu Giang Nam nói bán khoa âm bán ngược lại âm bình hoạn âm khoa ngược lại âm khẩu qua cũng có viết từ bộ túc viết thành chữ da trong văn tự không có chữ này.

Ô-đà-di ngược lại âm Ô-cổ tên người. Đây dịch nghĩa là xuất hiện.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 13

Hy hý lại viết chữ hy cũng đồng, ngược lại âm hư chi sách Thuyết Văn cho rằng: Hy là vui. Thiên Thương Hoét ghi rằng: Hy hý là vui cười đùa giỡn.

Nhữ tào lại viết chữ tào cũng đồng, ngược lại âm tự lao sách Lễ Ký cho rằng: Một nhóm hơn mười người đi tuần, Như Thuần cho rằng: Tào là một nhóm đông người.

Tỳ-sắc-nô ngược lại âm nô cố tên ở cõi trời, xưa gọi là tùy nữu thiên cũng nói tỳ sưu nữu thiên là sai vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 14

Thê đăng ngược lại âm đô đặng Quảng Thất cho rằng: Đăng là mang giày dép, dựa theo mà đi lên, chữ viết từ phụ.

Thất-lộ-ca xưa nói là Du-lô-ca hoặc gọi là Thủ-lô-ca lại nói là Thủ-lô-khả theo Tây Vực số pháp của kinh đều lấy ba mươi hai chữ là một Thất-lộ-ca. Lại cho rằng: Quá nhiều ước đính cho phàm phu thế gian ca ngâm vịnh tán thán khen ngợi. Đây là một trong số Lan-đà-luận.

-Quyển 15. Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 16

Thăng trắc ngược lại âm tri cước nói là tiến đỉnh cao gọi là trắc theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trắc là leo lên núi nam kia rất cao vậy. Sách Nhĩ Thất cho rằng: Trắc là thắng lên gọi là đi lên cao vậy.

Phi lôi ngược lại âm bổ tội ngược lại âm dưới lô tội. Sách Tự Lược nói rằng: Phi lôi là vết sưng nhỏ, nay lấy nghĩa này.

Ba-đạp-ba-dũng ngược lại âm đồ đáp tức là họ của Bà-la-môn.

-Quyển 17 Trước không có âm.--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 18

Trì chiểu ngược lại âm chi nhiễu sách Thuyết Văn cho rằng: Chiểu là cái ao, cái ao nhỏ.

Mạng mạng đổi tiếng Phạm nói đó Bà-hựu-bà-điểu. Tử tức ngược lại âm tư lực nhi tử gọi là tức tức hơi trong thân mình chỗ dùng bẩm sinh, sách Đông Quán Hán Ký cho rằng: Đây là chỗ ta phải che đậy tử tức nay người xuất tiền sanh lợi cũng gọi là tức cùng một nghĩa vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 19

Thị trù ngược lại âm trù lưu sách Sổ Từ cho rằng: Ai có thể cùng với con trai, chia làm thất trù, Vương Dật cho rằng: Hai người là một thất, bốn người một trù trù là các loại thứ cũng gọi là bạn lữ

Nhũ bôi lại viết bôi cũng đồng, ngược lại âm thất hồi gọi là rượu chưa có lọc. Nói rằng như tức là sữa, có thể thanh lạc mà lạc có thể thành rượu.

Quảng thụ Trụ Văn viết chữ thụ cũng đồng, ngược lại âm thời chú Quảng Thất cho rằng: Thụ là cây đứng thẳng. Phàm là cây an trí đứng thẳng gọi là thụ, thụ cũng là trồng cây giống, gieo giống.

Lũ biện ngược lại âm lực cú sách Thượng Thư cho rằng: Lũ là nhiều lần lượt bớt đi mà thành, Khổng An Quốc cho rằng: Lũ là nhiều lần.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 20

Trì quyến lại viết chữ quyến cũng đồng, ngược lại âm cổ khuyển công huyền hai âm. Theo Thanh Loại cho rằng: Quyến là dùng dây giăng lưới để bắt chim thú.

Vãn xuất văn cổ viết chữ vãn cũng đồng, ngược lại âm vô viển sách Thuyết Văn cho rằng: Văn là lôi kéo chiếc xe.

Bỉ lý thể chữ viết chữ lý cũng đồng, ngược lại âm lực tử sách Thuyết Văn cho rằng: Năm nhà làm một bỉ bỉ cũng là thói tục, hủ lậu, Thiên Thương Hoét ghi rằng: cũng đồng, nghĩa ấp dưới gọi là lý sách Hán Thư cho rằng: Nghèo mà không có thôn xóm, Như Thuần cho rằng: Tuy nghèo cũng giống như nơi xa xôi làng mạc gọi là bỉ. Nói bỉ đó là xấu ác hủ lậu. Quảng Thất cho rằng: Bỉ là bị sỉ nhục âm tán ngược lại âm tổ đản gọi là trăm nhà làm một bỉ.

Thượng niên ngược lại âm thị nhương Thương Hoét giải thích chữ văn cổ rằng: Thượng là trên, giống như nhiều năm.

Suy mạo thể chữ viết chữ suy cũng đồng, ngược lại âm sở quy sách Thuyết Văn cho rằng: Suy là giảm tổn. Sách Lễ Ký cho rằng: Năm mươi tuổi bắt đầu suy giảm. Suy là biếng nhác, ngược lại âm dưới, văn cổ viết chữ hao mạo hai chữ tượng hình. Nay viết chữ hao cũng đồng, ngược lại âm mạc báo sách Lễ Ký cho rằng: Tám mươi tuổi gọi là mạo Mạo hôn muội, hay quên, ám loạn. Cưu-ma-la-thiết-ma đây dịch là đồng tịch tạo nhiều thơ ca vịnh đó là người tên Phiến Trật Lược ngoại đạo. Tạo ra đó là người phát minh sáng suốt, tức là trong luận Tỳ-bà-sa, Phiến-đề-la ngoại đạo vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 21

Vô phiền ngược lại âm phò viên theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tháng giêng nẩy sinh có nhiều sương, theo truyện cho rằng: Phồn là nẩy sinh ra rất nhiều.

Thủy trạc ngược lại âm trực giác sách Thuyết Văn cho rằng: Trạc là tẩy rửa, gọi là lấy nước sạch tẩy rửa vật.

Thiết chi xưa nói là xá chỉ đây dịch là có thể trói buộc gọi là người nữ sanh tâm ái nhiễm yêu thương người nam. Cho nên Thông Dụng gọi là thiết chi.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 22

Nhẫm nhiễm ngược lại âm nhi thuận ngược lại âm dưới nhi diễm nói là trong phút chốc, giải thích chỉ một khắc.

A-nô-luật-đà cũng viết là Luật-lô gọi là, thuận theo nghĩa tên của người.

Khuông trợ ngược lại âm khưu phương sách Tiểu Thất cho rằng: Khuông là sửa cho đúng, trợ là cứu giúp, phò trợ, khuông cũng gọi là sửa lại.

Thế-la-ô-bà ngược lại âm ô cổ đây dịch là tiểu thạch. Chúc tư ngược lại âm chi dục chúc là chuyên chú, tập trung vào, cũng gọi là liên tục, thích hợp nối liền với nhau.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 23

Sư vũ ngược lại âm vu cũng gọi là mùa mưa phải an cư. Nói sư đó tức là hạ lạp.

Đồng thụ ngược lại âm chu du gọi là người ở chùa còn nhỏ tuổi, tuổi còn để chởm chưa đội mủ, để sai khiến công việc lặt vặt trong ngoài vậy. Người tuổi nhỏ này không theo khuông lễ xuất ra phương tiện, sai khiến rất mau.

Tiêu tiêu âm tiêu tiêu sách Nhĩ Thất cho rằng: Tiêu tiêu là con nhện giăng tơ, âm văn ngược lại âm cư nghị Quách Phác cho rằng: Con nhện cao cẳng tục gọi là hỷ tử theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tiêu tiêu là con nhện trong cửa.

Hồng điện văn cổ viết chữ hồng cũng đồng, ngược lại âm hồ công tục âm là phong âm nghĩa sách Nhĩ Thất cho rằng: Con gà trống xuất ra hai cái màu trên đầu màu sắc sáng rực gọi là hồng con gà mái, cái màu trên đầu tối tăm gọi là nghê âm nghê ngược lại âm ngũ kê, sách Thuyết Văn cho rằng: Cầu vồng Giang Đông gọi là lễ tế cầu mưa, cũng gọi là cầu vồng, Thích Danh cho rằng: Cầu vồng tan mưa. Đột nhiên công phá khí âm, khí dương âm đới là âm đế âm đông là âm đồng.

Phược khát quốc ngược lại âm hồ cát ở phía bắc sông Lâm Phược Sô con sông trong nước này có Đức NhưLai múc nước tắm gội, có thể nói là hơn một đấu nước, các màu sắc trong nước rất nhiều, sáng rực óng ánh như kim thạch, vàng sáng chói. Lại có thể gọi là có răng của Phật, lại có thể gọi là có Phật tảo trừ, dùng cỏ làm cây chổi ca-xà dài hơn hai thước rộng bảy tấc quét tạp dơ trong sức bảo tòa cho Đức Phật thuyết pháp.

Ba-sá-ly ngược lại âm lực chi cũng gọi là Ba-sá-lợida. Xưa nói là Ba-liên-phất sách Thuyết Văn cho rằng: Là tên của loài hoa thụ, bởi vì hoa của cây cổ thụ lấy từ mục thành.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 24

Xích hoạch ngược lại âm ô quách sách Thuyết Văn cho rằng: Xích hoạch là con sâu đo. Sách Nhĩ Thất cho rằng: tên loại sâu đo, từng bước co duỗi, Tống Địa cho rằng: Gọi là tầm tang, người nước Ngô gọi là tang hợp. Âm hội ngược lại âm cổ hợp tức là con sâu ăn lá dâu.

A-nê-luật-đà xưa nói là A-ma-luật hoặc nói là Amiển-lâu-đà cũng nói là A-nê-lô-đậu đều là một nghĩa.

Đây gọi là vô diệt cũng gọi là như ý, xưa gọi là thí toái khi, khi ăn trong cõi trời người tám mươi kiếp, qua lại thọ vui, đến nay vẫn không mất. Cho nên gọi là vô diệt. Lại nữa cũng có chỗ gọi là cầu như ý, cũng gọi là như ý, tức là con của Cam-lô Phan Vương, đường đê của Phật vậy.

Bằng hữu ngược lại âm bổ băng ngược lại âm dưới vu cữu sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng môn gọi là bằng đồng chí gọi là hữu Quảng Thất cho rằng: Hữu là thân cận thương yêu nhau.

Phương vực ngược lại âm vi bức vực là chỗ ở. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vực là một nước, sách Chu Lễ cho rằng: Phương vực gọi là thành lập một nước tạo ra đô thị, có vùng xa xôi hẻo lánh, có làng mạc thôn xóm, ấp. Khốc độc ngược lại âm khẩu mộc gọi là bạo ngược, sách Thuyết Văn cho rằng: Khốc liệt, mau chóng, gấp vội, rất cấp bách. Bạch Hổ Thông cho rằng: Khốc là rất cực kỳ. Giáo lịnh cùng cực.

Ký trừ lại viết chữ ký cũng đồng, ngược lại âm ky trí sách Tiểu Thất cho rằng: Ký trông mong, hy vọng trông ra xa.

Phiêu cổ ngược lại âm thất diêu ngược lại âm dưới công hộ phiêu là gió thổi lay động. Theo ngữ phàm vật lay động gọi là cổ.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 25

Sư đồ ngược lại âm đạt hồ gọi là đồ loại. Trang tử nói rằng: Là đồ đệ của Khổng Khưu. Tư Mã Bưu cho rằng: Đồ đệ tử.

Nhân hiếu ngược lại âm nhi thân nhân gọi lấy sự yêu thương người và vật gọi là nhân trên dưới tương thân với nhau gọi là nhân. Thân cận kính quý hiền nhân gọi là nhân sát thân thành người gọi là nhân sách Nhĩ Thất cho rằng: Việc tốt lành với cha mẹ là hiếu sách Ích Pháp nói rằng: Từ ái quên lao nhọc gọi là hiếu, theo lệnh không chống trái gọi là hiếu.

Thừa bẩm ngược lại âm bỉ cẩm bẩm thọ nhận.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 26

Cẩu dục ngược lại âm công hậu sách Quảng Thất cho rằng: Cẩu thả, cũng gọi là thành thật.

Ngôn từ ngược lại âm ngư kiên ngược lại âm dưới tợ tư. Nói thẳng gọi là ngôn ngôn là người dùng lời nói thẳng vào sự việc phân tích, thuật lại đối đáp. Sách Lễ Ký cho rằng: Nói khóc ba năm mà nói không ra lời. Ngôn cũng gọi là phát ra lời quý báu, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ đó là ý ở trong mà nói ra ngoài, cũng gọi là thẳng xét lời nói.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 27

Bỉ độ theo chiếu định giải thích văn cổ, quan thượng thư viết chữ bỉ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm đạt hộ ngược lại âm dưới đồ các sách Quảng Thất cho rằng: Bỉ độ là bàn luận nghị định, cũng gọi là mưu kế, độ là đánh giá, đo lường.

Mỗi ngôn ngược lại âm mạc bội Tam Thương cho rằng: Mỗi là từ chẳng phải nhất định. Mỗi cũng gọi là nhiều.

Xi tiếu ngược lại âm tài tiếu tiếu gọi là trò quấy nhiễu, trách mắng, cũng gọi là quở trách.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 28

Nữu thắng ngược lại âm nữ trân Tự Lâm cho rằng: Sợi dây đơn gọi là nữu nữu cũng gọi là sợi dây lớn.

Bạo lưu ngược lại âm bổ báo Thương Hoét giải thích văn cổ cho rằng: Bạo là nước nổi lên tràn ngập.

Bà-sáp-ba-ngôn ngược lại âm sở lập đây gọi là khí cũng gọi là hơi sương v.v...

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 29

Vi trượng ngược lại âm trực lượng Trượng cũng giống như nương tựa vào, ký thác vào cây gậy.--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 30

Nhiễm-ô-vu-tỏa ngược lại âm ô cố ô hồ hai âm. Tự Thư cho rằng: Ô là bụi đất dơ bẩn, Tự Lâm cho rằng: Bụi đất dơ bẩn, ô uế.

Tự tước lại viết chữ tự cũng đồng, ngược lại âm tài dữ ngược lại âm dưới từ dược ngậm mùi vị gọi là tự Văn thông dụng cho rằng: Nhai gọi tước.

Tân dịch ngược lại âm tử lân ngược lại âm dưới di thạch tam Thương cho rằng: Tân dịch là nước dịch, sách Thuyết Văn cho rằng: Tân dịch là nhuận trơn, Quảng Thất cho rằng: Tư dịch nhuận trạch, ướt trơn láng.

Thành ngôn ngược lại âm thị doanh Quảng Thất cho rằng: Thành thật, sách Thuyết Văn cho rằng: Thành tín, cung kính.

Sạ khả ngược lại âm sĩ giá Quảng Thất cho rằng: Sa là tạm thời, Thiên Thương Hoét cho rằng: Sạ là hai từ; chợt nóng, chợt lạnh, bỗng nhiên.

Tề tâm ngược lại âm tạc mê sách Thuyết Văn cho rằng: Tề là rốn, cuốn rốn, chữ viết từ bộ nhục âm bề ngược lại âm bổ mê.

Cơ thích ngược lại âm cư y âm dưới viết chữ giản cũng đồng, ngược lại âm thất tý sách Quảng Thất cho rằng: Cơ thích là châm biếm, giễu cợt, sách Thuyết Văn cho rằng: Cơ là chê bai phỉ báng.

Sổ thuấn lại viết chữ thuấn cù ngược lại âm thi nhuận sách Thuyết Văn cho rằng: Thuấn là con mắt mở ra nhắm lại nhiều lần gọi là chớp mắt.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 31

Tuấn phương ngược lại âm sổ lực gọi là chánh phương, đúng hướng.

Khai tịch ngược lại âm ty diệc sáng Thuyết Văn cho rằng: Tịch là mở mang.

Quan bế ngược lại âm bổ kế hai âm. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đóng cánh cửa lại, lấp kín, giữ chặt hoặc viết chữ bế tục dùng thông dụng.

Trà độc ngược lại âm đạt hồ Quảng Thất cho rằng: Trà độc là đau bệnh khổ, cũng gọi là làm ác.

Trùng lũy lại viết chữ lũy cũng đồng, ngược lại âm lực quý lũy cũng là trùng, nghĩa là bức tường nhiều lớp. Phiên lượng ngược lại âm bổ canh gọi là đàn mặc, bắn cung, công kích, đàn hặc gọi là phiên Giang Nam gọi là phanh âm phanh ngược lại âm phổ canh.

Tầm tô ngược lại âm tức hồ tô là sống, sách Tiểu Nhĩ Thất cho rằng: Chết mà sống lại gọi là tô tô là ngộ tĩnh ngộ.

Thư lại ngược lại âm sĩ da ngược lại âm dưới lực ngãi Văn thông dụng cho rằng: Cắt cỏ còn dư lại gốc gọi là thư Quảng Thất cho rằng: Thư là cự ly cách xa. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Giống như kia đậu lại dừng lại nghỉ ngơi.

Nhiêu túc lại viết chữ giảo cũng đồng, ngược lại âm ngũ giảo nhiêu là cắn nhai, Quang trung dùng âm này. Lại âm dưới là giảo Giang Nam dùng âm này.

Khả cảnh tự lâm âm khưu da ngược lại âm dưới cư tĩnh nói là dùng miệng gọi là khả cắn ngạm lấy. Nay gọi là dùng tay, cổ tay phía trước cắn lấy.

Phách dần ngược lại âm bổ mạch âm dưới lại viết thân cũng đồng, ngược lại âm dẫn nhân thịt chứa trên xương sống gọi là dần Phách là phân ra mở nứt ra.

Quặc phục ngược lại âm cữu phược cư hoạch hai âm, sách Thuyết Văn cho rằng: Quặc là dùng móng vồ chụp lấy, giữ lấy, Văn thông dụng cho rằng: Dùng tay nắm bắt gọi là quặc, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tóm bắt con thú, đuổi chạy đến cùng tóm bắt lấy.

Thao tâm ngược lại âm tha lao sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là đào lấy ra, âm quan ngược lại âm nhất hoạt Trung quốc nói là gánh, âm thiêu ngược lại âm thổ điêu. Sàm thích ngược lại âm sĩ sam ngược lại âm dưới thất diệc sách Thuyết Văn cho rằng: Sàm là cây cuốc rất bén, người nông phu sử dụng.

Lộc chư hoặc là viết chữ lộc cũng đồng, ngược lại âm lực mộc.

Lộc lược nước chảy xuống, lọc nước.

Ôn-bát-la ngược lại âm ô một đây gọi là bông hoa màu đen. Xưa nói là Ưu-bát-la hoặc nói là Âu-bát-la đều sai.

Bát-đặt-ma ngược lại âm đồ đắc đây dịch là hoa sen màu đỏ. Xưa nói là Ba-đầu-ma đều sai.

Thê kình ngược lại âm thả hề âm dưới cư chính. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Thê là lạnh lẽo, theo truyện cho rằng: Gió thổi lạnh lẽo phải dùng sức vận khí gắp chống lại.

Đồn tụ ngược lại âm đồ côn Quảng Thất cho rằng: Đồn là tụ tập, đóng quân, âm tụ ngược lại âm tài cú.

Cương ngạnh ngược lại âm cư lương ngược lại âm dưới là ngũ canh sách Tự Lược cho rằng: Bất hủ gọi là cương, không có gì phá hoại được, vật cứng gọi là ngạng.

Khẩn-nại-lạc ngược lại âm nô cát đây gọi là người chẳng phải người, Ca-thần đầu như con ngựa, đầu ngựa. Xưa nói là Khẩn-na-la hoặc viết là Chân-đà-la là sai.

Cự giam ngược lại âm kỳ lữ âm dưới theo thanh loại. Nay viết chữ châm cũng đồng, ngược lại âm chi thậm bó đuốc gọi là cự may áo đó gọi là kim châm là cây kim để may áo.

Không ẩu lại viết âu Cũng đồng, ngược lại âm ư khẩu ẩu là ói ra, nôn ra, Thích Danh cho rằng: Âu là gù lưng, đem chỗ ói ra tức là xương sống phải cong lại, gọi là lưng gù.

Độc hy lại viết chữ hy cũng đồng hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm hỏa cân Giang Nam nói rằng: Hy là sưng thủng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thịt lồi ra. Quỷ yết lại viết chữ yết cũng đồng, ngược lại âm nhất thiên gọi là yết hầu, người phương bắc gọi là cổ là yết hầu vậy.

Bì tề âm bì âm dưới lại viết chữ thúc cũng đồng, ngược lại âm tử lễ Quảng Thất cho rằng: Lòi là tước lột vỏ, tề là vắt lấy nước, xuất ra nước.

Hưởng thọ lại viết chữ hưởng cũng đồng, ngược lại âm hư ngưỡng giáo lý hâm hưởng, thần linh hưởng nhận lễ cúng tế, cũng gọi là hiến dâng, hâm hưởng, âm hâm là âm hư.

Câu trân ngược lại âm trắc thân. Sách Tiểu Thất cho rằng: Trân là đến.

Hoan ngu giải thích cổ, văn cổ viết ngu nay viết chữ cũng đồng, ngược lại âm nghi khu sách Thuyết Văn cho rằng: Ngu là làm trò vui, nói cười đều có vui vẻ.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 32

Ô-thí-la-mạt tên của loại cỏ, hình như đất này gọi là cây tế tân thể của nó rất lạnh.

Khắc thắng lại viết chữ khắc cũng đồng, ngược lại âm khẩu đắc Tự Lâm cho rằng: Khắc là có thể, khắc cũng là thắng là có thể vượt qua.

Lâm đằng ngược lại âm đồ đăng Quảng Thất cho rằng: Đằng là dây leo mọc um tùm. Nay gọi là Cátmạng-diên đó là đằng.

Suất thổ ngược lại âm sở luật sách Nhĩ Thất cho rằng: Suất là tự nơi mình, đi tuần hành.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 33

Di duyệt ngược lại âm dư chi sách Thuyết Văn cho rằng: Di là bình cũng gọi là sáng suốt, bình lặng, bình thường vui vẻ.

Sở dược lại viết chữ dược ba chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm du chước Văn thông dụng cho rằng: Lấy vật bỏ vào nấu cho sôi lên gọi là dược Quảng Thất cho rằng: Dược là trong nấu nước cho sôi mà tràn ra ngoài, Giang Đông gọi dược là diệp âm diệp ngược lại âm thợ giáp.

Bất tiếu ngược lại âm tư diệu sách Tiểu Nhĩ Thất cho rằng: Bất tiếu, bất tợ nói là xương và thịt không giống nhau, cho nên nói là bất tiếu gọi là loại người học làm ác, chữ viết từ bộ nhục thanh tiểu Yểm đảo ngược lại âm ư nhiễm ngược lại âm dưới đô đạo. Tự Uyển cho rằng: Yểm là ngủ bên trong nên không rõ. Tâm phục hợp gọi là yểm, âm dưới là đảo. Sách Thuyết Văn cho rằng: Báo cáo cho biết việc cầu xin gọi là hảo cũng gọi là mời thỉnh nơi quỷ thần.

Chế tát ngược lại âm chi thế chế là cắt ngay làm ra, chế là cắt rọc đoạn ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Làm chế tạo ra.

Yểm-một-la xưa nói là Yểm-ma cũng viết A-ma-lặc đều sai, lá giống như nhỏ mà có gai, quả giống như hồ đào, mùi vị chua mà lại cay rất thô, đem vào phân ra làm thuốc.

Chủ tể ngược lại âm tổ đãi sách Lễ Ký cho rằng: Tể là người giết mổ hiến cho người chủ đầu bếp, gọi là người làm quan ngự thiện là nấu thức ăn.

Chiên lập ngược lại âm thị chiến Quảng Thất cho rằng: Chiên là chuy môn, tự mình giỏi về một việc gì đó. Chuyên kỹ ngược lại âm chi chuyên chuyên giống như là tự làm chuyên nhất một nghề, nhận trách nhiệm chuyên nhất.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 34

Ốc vũ văn cổ viết chữ vũ trụ văn viết chữ vũ cũng đồng, ngược lại âm tử bổ sách Thuyết Văn cho rằng: Vũ là bên mái hiên nhà. Thích Danh cho rằng: Vũ là lông vũ giống như cánh chim tự che, trong nước thì có bốn gốc rũ xuống che lại gọi là vũ.

Nhân kim lại viết chữ chi cấm hai chữ tượng hình cũng đồng, Thích Danh cho rằng: Viết chữ cầm cũng đồng, ngược lại âm cự kim kim là cầm nắm gấp vội.

Chùy thác lại viết chữ chùy cũng đồng, ngược lại âm chi nhụy âm dưới văn cổ viết chữ thác cũng đồng, ngược lại âm tha đạt Quảng Thất cho rằng: Chùy thác là đánh gõ.

Cương giới ngược lại âm cư lượng cương là cảnh giác, cũng gọi là biên thùy, nơi xa xôi. Sách Nhĩ Thất cho rằng: Cương là biên thùy, (771) nơi chiến trường, biên giới ngoài biên thùy xa xăm.

Mô phóng lại viết chữ mô cũng đồng, ngược lại âm mạc hồ sách Nhĩ Thất cho rằng: Mô là khuôn phép, pháp đắc, gọi là khuôn hình nẩy mực gọi là mô giống như là ấn xuống để lấy, giữ lấy mẫu mực.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 35

Bình luận ngược lại âm bì bình Tự Thư cho rằng: Bình là bàn luận sự vật phải trái, tốt xấu, âm đinh ngược lại âm đường đảnh.

Vi tỏa ngược lại âm tổ ngọa sách Thuyết Văn cho rằng: Tỏa là bẻ gãy, gọi là bẻ gãy cây kim. Tỏa là chặt chẻ ra.

Hung nhâm ngược lại âm cư ngâm sách Thuyết Văn cho rằng: Nhâm là vạt áo, tay rộng, theo Thanh Loại cho rằng: Cổ áo chéo lại.

-Quyển 36: không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 37

Da-xá đây dịch là dự tức là khen ngợi. Gọi là danh dự. Tô-đà-di xưa gọi là Tu-đà-da đây dịch là cộng khởi.

Đại sanh chủ xưa nói là Ma-ha-bà-xà dịch là Đại Ái Đạo đó vậy.

Hất kim ngược lại âm hư ngật sách Nhĩ Thất cho rằng: Hất là đến tức là từ xưa đến nay.

Vô phiếm ngược lại âm phò pháp tạm thời gọi là vô danh phiếm là thiếu có thể làm ngược lại, có thể làm đúng chánh là phiếm tự ý vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 38

Bà-thư-tử-bộ âm bà ngược lại âm bổ hạ đây dịch là độc tử bộ xưa gọi là Bạc-tư-phất-đa-la. Thời thượng cổ tên của vị tiên nhân. Mẹ của vị tiên nhân tên là Bạc Tư sinh ra vị tiên nhân này cho nên có họ là Bạc tư vị Lahán là con của người đàn bà này, theo mẹ nên mới đặt tên trong tất cả luật hữu bộ đều có nói ra.

Củ-ma-la-đa ngược lại âm câu vũ cũng có viết Cưuma đây gọi là đồng thủ gọi là các đồng tử trong thượng thủ.

Ớt-đa-la-tăng ngược lại âm ô một xưa nói là Uất-Đa-la cũng gọi là Út-đa-la đây gọi là y đắp mặc. Đây gọi là y thường đắp mặc rất cần thiết, trên hết cũng gọi là y giải thoát.

Kiều đáp di xưa nói là kiều đàm di, hoặc nói là cù di đều sai. Đây nói mười hai người nữ đi đầu. Trong kinh nói rằng: Người nữ này có trí tuệ rất sáng suốt.

Bác hý văn cổ viết là bạc cũng đồng, ngược lại âm bổ mạc sách Phương Ngôn cho rằng: Bác hoặc gọi là kỳ sách Thuyết Văn nói bạc cục hý là sáu chiếc đũa con cờ. Xưa gọi ô trụ viết là bạc cũng gọi là trợ

Cúc nghiệt ngược lại âm ngư liệt sách Thuyết Văn cho rằng: Mầm hạt gạo gọi là hạt thóc, lúa mạch ngâm vào nước nẩy mầm.

Vẫn nhưỡng ngược lại âm ư vấn ngược lại âm dưới như lượng sách Thuyết Văn cho rằng: Vẫn là cất rượu, làm rượu, ủ rượu, gọi là những là men rượu, nấu ủ gây men rượu.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 39

Báng độc ngược lại âm âm đồ mộc theo Tả Truyện cho rằng: Người dân không có lời oán trách, oán hận. Đỗ Dự cho rằng: Độc là lời chê bai phỉ báng. Quảng Thất cho rằng: Độc ác sách Phương Ngôn cho rằng: Độc là đau khổ.

Thâm khiên văn cổ viết chữ khiên hai chữ tượng hình cũng đồng, trụ văn viết khiên nay viết chữ khiên cũng đồng, ngược lại âm khứ liên sách Thuyết Văn cho rằng: Khiên là tội lỗi, sai sót.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 40

Sơn trạch ngược lại âm trực cách thủy tụ lại gọi là trạch Thích Danh cho rằng: Người ở Luyến Châu gọi là trạch. Nói tóm lại trạch là nước ngưng chảy đình lại ngưng đọng lại một chỗ như trong cái nắm tay.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 41

Môi cấu ngược lại âm âm cô hậu Bạch Hổ Thông cho rằng: Cấu là hậu tức kết hôn thành hôn gọi là cấu.

Vô cô ngược lại âm cổ hồ sách Nhĩ Thất cho rằng: Cô là tội lỗi. Ách uyển lại viết chữ cách cũng đồng, nhiếp ư trách sách Thuyết Văn cho rằng: Ách là nắm giữ cổ tay gọi là ách Quảng Thất cho rằng: Ách là giữ lấy, sách Sử Ký cho rằng: Là nói biểu thị sự đồng tình.

Dụng dương ngược lại âm sắc lượng Quảng Thất cho rằng: Dương là đạt tới rõ ràng.

Huy đao ngược lại âm hứa quy sách Thuyết Văn cho rằng: Huy là bay lên, gọi là phấn chấn, hưng phấn lên.

Hấp thủy văn cổ viết chữ hấp hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm hy cập Quảng Thất cho rằng:

Hấp là uống vào, hít hơi thở vào.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 42

Chú trở lại viết chữ chú sách Thuyết Văn viết chữ thù cũng đồng, ngược lại âm chi thọ thù trở là nguyền rủa, âm dưới văn cổ viết chữ cứ cũng đồng, ngược lại âm trắc cứ sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc chúc gọi là lấy lời tốt xấu mà chúc nhau, trở là ngăn trở, gọi là sai khiến người làm việc ngăn trở, trong lời nói ngăn trở việc làm của người.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 43

Ca-lật-sa-bát-nã lại viết là Ca-lý-sa-bát-nã âm nã ngược lại âm nữ giá. Bát-nã đây dịch là mười sáu điều đồng bất nã là một Ca-lợi-sa-bát-nã.

Lậu một văn cổ viết chữ một cũng đồng, ngược lại âm Nô-cốt lậu là xấu, bỉ lậu hèn hạ, cũng gọi là tiểu nhân. Nột là chậm lụt đần độn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nột là khó khăn.

Thất-lợi-cúc-đa đây dịch nghĩa là kiết tường tốt đẹp. Xưa nói là Thi-lợi-cúc-đa là sai vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 44

Mai-đát-lệ-dược ngược lại âm đô đạt đây dịch là từ tức xưa gọi là từ thị đó là từ có hai nhân duyên. Một là trực từ tức là Phật phát tâm; hai là sơ từ tức là tâm tam muội. Bởi vì vậy mà gọi tên, nói là Di-lặc hoặc nói là Mai-để-lê là sai vậy.

Hãn văn ngược lại âm hồ hãn hãn là hiếm ít người cô quả, goá bụa kham chịu cô quả gọi hãn chữ viết từ bộ can đế bộ võng.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 45

Câu-chỉ-la-điểu ngược lại âm cư nhĩ hoặc là viết câu trước là đây dịch là con chim có tiếng hót hay.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 46

Khách quán lại viết chữ quán cũng đồng, ngược lại âm cổ ngoạn gọi là nhà khách, sách Chu Lễ cho rằng: Năm mươi dặm có một nhà khách, có một uỷ tích dùng để chiêu đãi khách mời.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 47

Lượng tương ngoại đạo cụ phược ca.

Na-địa-ca-thành đây dịch là chim kêu, hoặc gọi là hà chủ thành thuộc quận thị Ca Lâm. Đây gọi là túi vải bố thưa thô tên gọi là lâm.

Lam-bác-ca-kinh đây nói là viết kinh là động.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 48

San-nhã-bà-bệnh ngược lại âm tang can đây nói là phế bỏ bệnh phong, khi phát ra là không khởi lại.

Bảo ngoạn văn cổ viết chữ ngoạn cũng đồng, ngược lại âm ngũ hoán Tự Lâm cho rằng: Làm trò vui chơi cười đùa. Quảng Thất cho rằng: Vui chơi.

-Quyển 49, 50 Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 51

Ngu tráng ngược lại âm đô giáng sách Thuyết Văn cho rằng: Ngu si tráng là ngu độn.

Ư khối văn cổ chữ khối cũng đồng, ngược lại âm khổ đối khối là đắp đất thành đống khối, khối đất.

Ngu mong lại viết chữ mong cũng đồng, ngược lại âm mạc công mong gọi là che lấp không sáng suốt, tối tăm, vô tri không biết gì cả.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 52

Danh giá lại viết chữ giám cũng đồng, ngược lại âm cỡ sàm sách Quảng Thất cho rằng: Giám là chiếu soi, sáng rực rỡ, giám chỗ gọi là giám sát hình tượng, soi xét. Ngụy thiết ngược lại âm cư hủy gọi là dối trá không có chân thật, cũng gọi là khinh khi.

Khoa đản ngược lại âm khổ hoa ngược lại âm dưới đồ đàn Văn thông dụng cho rằng: Tự kiêu căng gọi khoa sách Ích Pháp nói rằng: Khoác lát không thật gọi là khoa.

Đản là khinh mạn, không chân thật tự cao, tự đại.--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 53

Khế vô lại viết chữ khế Thiên Thương Hoét viết chữ khế cũng đồng, ngược lại âm khư lệ sách Nhĩ Thất cho rằng: Khế là nghỉ ngơi.

Toàn toại lại viết chữ toại cũng đồng, ngược lại âm từ tưng chỗ sinh ra lửa, sách Luận Ngữ cho rằng: Toàn toại là đổi lấy lửa, Thế Bổn cho rằng: Tạo ra lửa đó gọi là toại, dụng cụ để người ta làm ra lửa vì vậy mà đặt tên gọi vậy.

Ma-kiền-địa-ca khế kinh.

Ba đào ngược lại âm đồ lao Tam Thương cho rằng: Sóng lớn gọi là đào.

Tứ cầu ngược lại âm tập từ tiên sử hai âm. Tự Lâm cho rằng: Tứ là hầu hạ, tứ là theo dõi giám sát để hầu hạ.--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 54

Hy di ngược lại âm hư chi chữ chi hai âm, sách Thuyết Văn cho rằng: Hy di là vui vẻ, hòa thuận, sách Phương (770) ngôn cho rằng: Di là vui vẻ tốt đẹp. Giữa Tương Đàm gọi là ban di hoặc gọi là hy di.

Đam thoại trụ văn viết chữ hội văn cổ viết chữ thoại chú hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cổ khoái theo Thanh Loại nói rằng: Thoại là nói sai, Quảng Thất cho rằng: Thoại là nói đùa bỡn cợt, điệu cũng gọi là làm trò đùa vui.

Ngận lệ ngược lại âm hồ khẩn ngược lại âm dưới là lực kế ngận là làm trái lại, lệ làm cho cong lại, chữ viết từ bộ xước thanh cấn.

Toan nghê ngược lại âm tiên hoàn ngược lại âm dưới ngũ hề tức là con sư tử. Xuất ra từ nước Tây Vực. Sách Nhĩ Thất cho rằng: Toan nghê là con mèo mà to lớn, hay ăn thịt hổ báo, sách Mục Thiên Tử Truyện nói rằng: Toan nghê gọi là đi năm trăm dặm âm bàng ngược lại âm thổ bản

Si cấu ngược lại âm sung thi sách Thuyết Văn cho rằng: Si là tập trung lại, cũng gọi là ghèn trong mắt, âm tập ngược lại âm mạc kiết.

Giới xĩ ngược lại âm hạ giới sách Thuyết Văn cho rằng: Răng bằng khít với nhau, Tam Thương cho rằng: Nghiến răng.

Thân tỏa ngược lại âm tài qua Quảng Thất cho rằng: Tỏa là thấp lùn, ngắn, Văn thông dụng cho rằng: Thấp lùn gọi là tỏa.

Khoa huyễn văn cổ viết chữ huyễn hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm hồ miến công huyền hai âm. Sách Thuyết Văn cho rằng: huyễn là đi nói khoe khoang nói rằng: Khoe ngọc, nhưng bán đá.

Tuẫn danh ngược lại âm từ tuấn Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tuẫn là cầu, Quảng Thất cho rằng: Ham danh không kể gì thân mạng sống.

Văn thức ngược lại âm vũ phân ngược lại âm dưới thư dực Quảng Thất cho rằng: Vấn thức tức là lau chùi bụi bặm, cũng gọi là cứu giúp, sách Nhĩ Thất cho rằng: Lau chùi cho sạch nói vấn thức đó là chỗ đã lau chùi cho sạch sẽ thanh khiết.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 55

Vũ miệt văn cổ viết chữ vũ cũng đồng, ngược lại âm vọng phủ Quảng Thất cho rằng: Vũ là khinh nhờn, sách Thuyết Văn cho rằng: Vũ là khinh thường, xem thường, gọi là khinh nhờn.

-Quyển 56 Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 57

Câu-chỉ-la ngược lại âm lặc lý xưa nói là Ma-ha-câuxi-la đây dịch là đại tất. Tất là xương đầu gối to lớn, tức là cậu của Ngài Xá-lợi-tử. Căng móng ra, tượng trưng cho người Phạm chí.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 58

Bình khí ngược lại âm ty lĩnh bình là vật che chắn, ẩn bên trong, che giấu.

Hiếp-tôn-giả ngược lại âm hư nghiệp tức là trong phó pháp tạng Ba-xà-tỳ-khưu thường ngồi, người này từng thệ rằng xương hông không dính đất, nghĩa là ngồi không có nằm, cho nên gọi tên vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 59

Quy độ lại viết chữ quy cũng đồng, ngược lại âm cữu xuy âm dưới là đồ các quy là cầu mưu tính quy là mực thước mô phạm. Thế Bổn cho rằng: Quy là cái compa dụng cụ để vẽ hình tròn, thước ê-ke vẽ hình vuông, chữ viết từ bộ phu đến bộ kiến văn nói Phàm thấy tất thông suốt, hợp với quy cách mẫu mực vậy.

Hồi phục ngược lại âm hồ hối âm dưới là phò phúc Tam Thương cho rằng: Hồi là nước xoáy chuyển phục cũng là nước xoáy sâu.

Hạp ố văn cổ viết chữ hạp cũng đồng, ngược lại âm hồ giáp hạp là cận kề một bên, Quảng Nhã cho rằng: Hạp là thói quen, quen lớn gần giũ, bỡn cợt, cười đùa vậy.

Bạc-củ-la ngược lại âm câu vũ xưa nói là Bạc-câula. Đây dịch là thiện dung hợp gìn giữ một là không sát, ngũ giới được năm mà không phạm lỗi lầm.

Diên di các sách đều viết diên di diên bốn chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tường diên Tự Lâm cho rằng: Trong lòng ham muốn nên miệng chảy nước dãi, cũng gọi là đứa trẻ thường chảy nước dãi.

Ban bác lại viết chữ biện cũng đồng, ngược lại âm bổ biến Thiên Thương Hoét cho rằng: Ban là màu sắc lẫn lộn, loang lở có vằn gọi là ban.

Ly ám ngược lại âm lực hề ngược lại âm dưới ư trảm Văn thông dụng cho rằng: Ban là màu đen cũng là ly ám tối tăm.

Tiếu đệ ngược lại âm đồ kế sách Toán cho rằng: Cố quay đầu lại nhìn gọi là đệ Đệ cũng là nhìn nghiêng, sách Lễ Ký cho rằng: Không dám nhìn thẳng.

Đạm phạ ngược lại âm đồ tạm ngược lại âm dưới thất bạch sách Thuyết Văn cho rằng: Đạm là an phạ là tĩnh. Lại cũng gọi là vô vi tự đắc.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 60

Thác mang Bì Thương cho rằng: Viết chữ bị Đông Quán Hán Ký viết chữ bài cũng đồng, ngược lại âm bì bái nay gọi là lò đúc ống gia dụng dùng để thổi lửa khiến cho lửa cháy sáng rực lên.

Thặng biện ngược lại âm thực chúng thặng giống như là dư thừa nhân ra vậy.

Hình khỏa văn cổ viết chữ hình cũng đồng, ngược lại âm hồ định Tự Lâm cho rằng: Cẳng từ chân lên đầu gối. Thích Danh cho rằng: Hình cũng gọi là tầm ngược lại âm tự lâm sách Tiểu Thất cho rằng: Bốn thước là một nhẫn gọi là tầm là bồi thêm vào tầm gọi là thường, sách Phương Ngôn cho rằng: Tầm là dài lâu.

Duy cục ngược lại âm cù ngọc sách Tiểu Thất cho rằng: Cục là đến gần sát, sách Tiểu Thất cho rằng: Cục là phân ra, bộ phận, tả hữu chia thành phần ai coi phần nấy, chữ viết từ bộ khẩu đến bộ cú trong bộ xích dưới.

- Quyển 61 Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 62

Khả kế ngược lại âm trắc ký Quảng Thất cho rằng: Xí là khoảng giữa trống, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Xí là thứ lớp tạp nhơ nhớp.

- Quyển 63, 64, 65 Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 66

Ớt đạt lạc ca hạt la ma đây dịch là cực vui, cực hỷ.

Khảo lượng ngược lại âm khô lảo khảo gọi là chất khảo hạch thi cử đính chính, sửa sai.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 67

Ly mị lại viết chữ ly hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm lặc tri âm dưới lại viết chữ vật sam hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm mạc ký sách Thuyết

Văn cho rằng: Tinh của lão vật Văn thông dụng cho rằng: Kỳ quái ở sơn trạch, núi sông gọi là ly mị.

Xung hư sách Thuyết Văn viết chữ xung cũng đồng, ngược lại âm trừ long Tự Thư cho rằng: Xung là bay vọt lên không trung.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 68

Tự vẫn văn cổ viết chữ vẫn cũng đồng, ngược lại âm vong phân sách Tự Lược cho rằng: Đoạn cái đầu gọi là vẫn Vẫn là cắt lìa ra, Văn thông dụng cho rằng: Tự vẫn là khắc vào cổ gọi là vẫn.

Dung ngu ngược lại âm du dung dung gọi là thường ngu, đoản trí vậy.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 69

Tôn-vân-thú-nã ngược lại âm Nô-da.

Cự phú ngược lại âm kỳ lữ sách Tiểu Thất cho rằng: Cự là to lớn, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tề Lỗ gọi to lớn là cự.

Thú-na-phỉ-nghi ngược lại âm phu phỉ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Phỉ là đến trao đổi tơ lụa. Theo truyện cho rằng: Phỉ là giặc cướp, không phải trao đổi tơ lụa.

Phó dược ngược lại âm phương vụ phó là phụ cận, cũng gọi là bám vào, thoa vào, sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm uống thuốc mà có độc tức bám vào mà hại Manh nha văn cổ viết chữ manh cũng đồng, ngược lại âm mạch canh Quảng Thất cho rằng: Manh là bắt đầu, manh cũng là tối tăm u ám.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 70

Miểu nhiên ngược lại âm vọng chiểu miểu là nhìn xa, cũng gọi là sâu thăm thẳm, rộng lớn.

Khể trì ngược lại âm cổ hề sách Thuyết Văn cho rằng: Lưu lại dừng lại gọi là khể

-Quyển 71, 72 đều không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 73

Yết-địa-la ngược lại âm khư yết xưa nói là Khư-đàla tên của cây.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 74

Tư sản ngược lại âm tử tư sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Đông Sở gọi là phàm người mắn đẻ mà sinh đôi, ly-tư ngược lại âm dưới sở hạn gọi là sinh sôi nẩy nở tăng trưởng giống gọi là sản sách Thuyết Văn cho rằng: Sản là sinh đẻ.

Triều cống ngược lại âm cổ lộng gọi là cống hiến cho, dâng nạp.

Quảng Thất cho rằng: Cống là dâng lên bực trên.--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 75

Mậu dịch ngược lại âm mạc hậu sách Tiểu Thất cho rằng: Mậu là trao đổi. Tam Thương cho rằng: Mậu cũng là trao đổi.

Tẫn truất lại viết chữ truất cũng đồng, ngược lại âm sĩ luật Quảng Thất cho rằng: Truất là đuổi đi, cũng gọi là buông thả cho đi, phóng thích, cũng là thối lui.

Kiêu kiện ngược lại âm cổ nhiêu Quảng Thất cho rằng: Kiêu cũng là kiện Gọi con ngựa có sửa mạnh, dũng mãnh, chạy mau, phóng nhanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa tốt, ngựa hay, thuộc tuấn mã.

Hoài dựng văn cổ viết chữ dựng cũng đồng, ngược lại âm di chứng bao hàm thật gọi là dựng Tam Thương cho rằng: Dựng là ôm đứa con trong lòng. Quảng Thất cho rằng: Dựng là hoài thai, người đàn bà mang thai, chữ từ bộ tử đến bộ nải sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng là chữ hoài âm hoài.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 76

Hỏa chung ngược lại âm chi dung nay Giang Bắc Thông gọi là trung tức là loại châu chấu, gọi là chung cũng gọi là kỳ chung đều một tên trung thuộc loại tư trung đều một tên, cũng là công tư tục viết là xuân thử công ngược lại âm tư dung âm tư ngược lại âm tư dữ.

Thệ đa ngược lại âm thời chế đây dịch là chiến thắng, là nước thắng Câu-tát-la, con của vua Ba Tư Nặc thái tử vừa mới đản sanh trong cung vua, phá giặc quân tặc loạn quân trong cung, nghe lời tâu vì vậy mà đặt tên. Xưa gọi là kỳ đà hoặc (773) gọi là Di-đa.

-Quyển 77 Trước không có âm.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 78

Nhiễu loạn Tam Thương là nải liễu nhiễu là quấy phá, gọi là làm nhiễu loạn, đùa nghịch làm trò đùa.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 79

Sa thích ngược lại âm thất diệc cát trong nước chảy tràn ra sỏi đá, bãi cát nước cạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Bãi đất nhỏ nổi lên trong nước có đá sỏi gọi là thích âm than ngược lại âm thổ đan.

--------------------------------------

CHỈ ÂM A-TỲ-ĐẠT-MA THUẬN CHÁNH LÝ LUẬN QUYỂN 80

Xa xỉ ngược lại âm mạo thị xỉ cũng là xa gọi là phung phí quá mức.

Ni tư ngược lại âm nữ liệt tên nước. Xưa nói là nước Ba-la-nại. Ốc lệ ngược lại âm bổ bốc ngược lại âm dưới là lực kế. Quảng Thất cho rằng: Đứa đầy tớ chưa quá mười lăm tuổi theo hầu phục dịch để sai khiến, phốc là thân cận, gần gũi, gần để theo người, sách Chu Lễ cho rằng: Người bé trai bị ghép vào tội lệ. Trịnh Chúng cho rằng: Làm nô lệ kẻ hạ tiện hàn, sai khiến phục dịch.

Cầu tình lại viết chữ tinh hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tự dinh theo Thanh Loại cho rằng: Mưa vừa mới tạnh gọi là tình tình cũng là tinh minh sáng sạch, trời trong xanh.

QUYỂN 72

- Âm Hiển Tông luận bốn mươi quyển-Huệ Lâm.

- A-tỳ-đàm-tâm luận bốn quyển-Huyền Ứng.

- Pháp Thắng A-tỳ-đàm-tâm luận sáu quyển-Huyền Ứng.

- Tạp A-tỳ-đàm-tâm luận mười một quyển-Huyền Ứng.

Bên phải bốn luận sáu mươi mốt quyển đồng âm với quyển này.

HIỂN TÔNG LUẬN

Hiển Tông luận Tam tạng Thánh giáo tựa âm nghĩa trước ban đầu quyển thứ nhất tựa đầu đã giải thích đầy đủ rồi. Đây chỉ lược mà không âm.

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn.

Phái diễn ngược lại âm trên phách mại sách Quảng Thất cho rằng: Phái là nước tự phân rẽ ra chảy. Sách Thuyết Văn cho rằng: Phái là nước chảy xuyên ngã khác, nước theo chảy ngược lại. Theo Lệ sách viết chữ phái Văn Luận viết từ bộ thủy cũng đồng, ngược lại âm dưới diên điển Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Diễn là dẫn, Vi Thiệu cho rằng: khí thủy thổ thông là diễn Thiên Thương Hoét ghi rằng: Diễn là kéo dài sách Thuyết Văn cho rằng: Diễn là trường lưu nước chảy dài lâu kéo dài, chữ viết từ bộ thủy thanh dần

Vi toát ngược lại âm tổ hoạt Tự Lâm cho rằng: Toát là dùng tay nắm giữ lấy. Sách Thuyết Văn Tự Điển nói rằng: Toát là ba ngón tay chụm lại gom lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh tối.

Đàm đẳng ngược lại âm trên đường cam sách Văn Tự Tập Lược nói rằng: Bệnh tật, sách Khảo thanh cho rằng: Bệnh trong ngực, trong lá lách bệnh có đàm, nước tức bệnh phổi, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ tật ngược lại âm nữ ách thanh đạm Văn Luận viết chữ đàm là chẳng phải.

Quyên trừ ngược lại âm quyết duyên sách Thượng Thư cho rằng: Thượng đế không từ ai. Sách Phương Ngôn cho rằng: Nam Sở gọi là bệnh tật mau lành là quyên sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thục thanh ích.

Thông duệ ngược lại âm trên thương hồng sách Thượng Thư cho rằng: Nghe rõ gọi là thông lại viết chữ triết Khảo Thanh cho rằng: Thông là tai nghe rõ ràng, chính xác, sách Thuyết Văn cho rằng: Chính xác chữ viết từ bộ nhĩ Thanh Thông âm thông ngược lại âm thốc hồng ngược lại âm dưới duyệt huệ sách Thượng Thư cho rằng: Duệ là làm bậc thánh, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký cho rằng: Duệ là tinh của tư duy, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Duệ là sáng tỏ sâu xa chữ viết từ bộ duệ đến bộ cốc tóm lược thanh mục âm duệ ngược lại âm tại an.

Năng khử ngược lại âm khư ngư theo Hàn Thi ngoại truyện cho rằng: Khử là bỏ đi trừ bỏ, theo Khảo Thanh cho rằng: Khư là bỏ, trừ đi sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh khứ.

Hiêu báng ngược lại âm hư kiều Cố Dã Vương cho rằng: Hiêu giống như huyên náo ồn ào, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hiêu là chỗ đông người ồn ào, sách Thuyết Văn cho rằng: Khí xuất lên đầu, chữ viết từ bộ hiệt thanh tập âm tập là âm tập ngược lại âm dưới bác bàng sách Khảo Thanh cho rằng: Báng là lấy lời nói mà hủy nhục người, nguyền rủa, nói xấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Báng là hủy nhục người, chữ viết từ bộ ngôn thanh báng.

Điên trụy âm trên điển niên sách Tiểu Thất cho rằng: Điên là đỉnh cao. Trịnh Tiển chú giải sách Lễ Ký rằng: Điên là lo buồn, suy nghĩ ưu tư, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hiệt Thanh chân ngược lại âm âm dưới là mộc loại Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trụy giống như rơi rớt xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ trụy là từ trên cao mà rơi xuống thấp, chữ viết từ bộ phụ đến chữ toại thanh tĩnh đến bộ thổ đó là tục dùng cũng thông dụng.

Ế mạc ngược lại âm trên nhất kế sách Lược cho rằng: Ế là mắt bị ngăn che chướng ngại, sách Y Văn Tự Điển nói rằng: Ế là mắt bệnh chữ viết từ bộ mục thanh y âm đồng với âm trên ngược lại âm dưới mạng bác sách Thuyết Văn cho rằng: Mạc là màng mỏng, màng thịt mỏng, chữ viết từ bộ thảo thanh mạc.

Tiêu gia ngược lại âm trên là tất diêu Chiên quốc nói rằng: Đưa cao lên làm tiêu biểu rất cao. Quảng Thất cho rằng: Tiêu là tâng bốc khen ngợi, đề cao nhau, sách Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh tiêu âm tiêu đồng với âm trên.

Phạt-sa ngược lại âm dưới thương hà tiếng Phạm.

Phiêu hữu hải ngược lại âm thất diêu sách Thuyết Văn cho rằng: Phiêu là nổi trên mặt nước, chữ viết từ thủy thanh tiêu âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 2

Thấp noãn ngược lại âm trên thâm nhập Cố Dã Vương cho rằng: Thấp là ướt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thấp là chỗ tối tăm ẩm thấp, chữ viết từ bộ tư đến bộ nhất đất bị che mà có nước cho nên ẩm thấp. Tư văn cổ viết chữ u Văn Luận viết chữ thấp này là chẳng phải, ngược lại âm dưới nô đoản sách Thuyết Văn noãn là ấm áp, chữ viết từ bộ hỏa thanh nhuyễn âm nhuyễn nhân nhi nhuyễn.

Đẳng hoàng ngược lại âm hồ mãnh sách Thuyết Văn cho rằng: Hoàng là thiết đồng còn nguyên chất chưa có biến ra, chữ viết từ bộ thạch thanh hoàng.

Đà miêu ngược lại âm trên Đà-la kinh Sơn Hải nói rằng: Trên núi có nhiều con hổ mang vác đồ đạt gọi là đà Quách Phác chú giải, sách Nhĩ Thất rằng: Con lạc đà mang vác đồ đạc trên lưng, lưng con lạc đà có gù lên cục thịt, nghĩa là mang vác ngàn cân, biết nơi nào có giếng nước, suối nước. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh âm đà ngược lại âm dưới là uyển bao sách Lễ Ký cho rằng: Đón con mèo, gọi là đem con mèo hay bắt chuột đồng. Cố Dã Vương cho rằng: Con mèo giống như con hổ mà nhỏ hơn, người ta hay nuôi trong nhà để bắt chuột, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thỉ thanh miêu Văn Luận viết từ bộ khuyển biết thành chữ miêu tục dùng thông dụng âm thỉ là âm trỉ.

Si đẳng ngược lại âm xỉ chi Tự Thư cho rằng: Si là thuộc giống diều hâu, Tự Lâm, Thống Tự đều cho rằng: Si là loài chim ưng to lớn, si cũng gọi là mang điểu dữ tợn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điểu thanh để âm mang ngược lại âm mạc giảng âm để ngược lại âm để nê Tự Thư lại viết từ bộ chí viết thành chữ chí âm nghĩa đều đồng nhau.

Phân tích ngược lại âm tinh lịch Cố Dã Vương cho rằng: Phân tích sách Khảo Thanh cho rằng: Tích là mỗ xẻ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chặt phá cây, chữ viết từ bộ mộc thanh cân chữ hội ý.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 3

Tràng kích ngược lại âm trên độc giang Cố Dã Vương cho rằng: Tràng cũng là kích Quảng Thất cho rằng: Tràng là đâm vào va vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Tràng là dùng tay đánh gõ, chữ viết từ bộ thủ thanh đồng, âm tấn là âm tín ngược lại âm dưới kinh diệc

Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư cho rằng:

Kích là phủi, vỗ nhẹ. Cố Dã Vương cho rằng: Kích là đánh công kích, xông vào, Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Kích giống như là động, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh kích âm kích đồng với âm trên.

Khiếu khích ngược lại âm trên khinh yếu Trinh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khiếu là lỗ, sách Thuyết Văn cho rằng: Lỗ không, trống rỗng, chữ viết từ bộ huyệt thanh khiếu âm khiếu ngược lại âm kiếu âm dưới hương nghịch Cố Dã Vương cho rằng: Khích là khe hỏng xuyên qua, sách Thuyết Văn cho rằng: Vách tường nứt có khe lỗ hỏng, chữ viết từ bộ phụ thanh khích âm khích đồng với âm trên.

Nhiên tạ ngược lại âm tình dạ Ứng Thiệu giải thích rằng: Cỏ khô làm chiếu gọi là tạ sách Thuyết Văn cho rằng: Tạ là lễ bày ra cúng tế, chữ viết từ bộ thảo thanh tích âm tích là âm tịch.

Phòng viện ngược lại âm trên là phù vong Trịnh Tiển chú giải. Mao Thi Truyện rằng: Phòng cũng là viện sách Thuyết Văn cho rằng: Phòng là cái đê ngăn chặn nước tràn, chữ viết từ bộ phụ thanh phương âm dưới là viên nguyện sách Quốc ngữ cho rằng: Được lân bang bốn bên trợ giúp, theo Tả Thị truyện nói rằng: Cần phải kết hợp lại đại đoàn kết lớn lao để trợ giúp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh viên.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 4

Khứu thường ngược lại âm trên hưu hựu sách Luận

Ngữ cho rằng: Ngửi ba lần mới ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng mũi chính để ngửi chữ viết từ bộ tỵ thanh xú âm xú ngược lại âm xủ thú.

Phả-tri-ca ngược lại âm trên Phá-ba âm giữa trí ly tiếng Phạm. Xưa dịch là pha lê, giống như thủy tinh, lại chẳng phải thủy tinh. Nhưng mà cũng cùng một loại pha lê.

Nhãn hiểm ngược lại âm kiếp yểm sách Giai uyển chu tòng nói rằng: Liểm là bên mí mắt lông mi. Văn Tự Điển nói da ngoài mí mắt, sách Khảo Thanh cho rằng: Liểm là mắt, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh liểm âm liểm ngược lại âm tiếp diêm.

Hưu lưu âm trên hưu âm dưới là lưu tức là loài chim ban ngày thì nằm, ban đêm thì bay đi tìm thức ăn theo tiếng kêu của nó mà gọi tên, hoặc gọi là chim ác hầu, loài chim quái lạ trực viết từ bộ điểu hai chữ đều chữ hình thanh.

Trù trừ ngược lại âm trên trụ lưu ngược lại âm dưới dư lư sách Khảo Thanh cho rằng: Trù trừ giống như là không đi. Lại gọi là bồi hồi đi đi lại lại. Theo Hàn Thi ngoại truyện nói rằng: Gảy đầu trù trừ, do dự xưa nay Chánh Tự cho rằng: Trù trừ là nói do dự, đều từ bộ túc đều thanh thụ trước.

Hoạt sáp ngược lại âm trên hoàn bát Quảng Thất cho rằng: Hoạt là trơn mịn đẹp, sách Thuyết Văn nói hoạt là danh lợi, chữ viết từ bộ thủy thanh cốt âm mỹ là âm mỹ ngược lại âm dưới sâm tập vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Sáp là khó Quách Phác chú giải sách Phương

Ngôn rằng: Sáp giống như không trơn láng, sách Thuyết Văn cho rằng: Sáp là không có trơn sần sùi, chữ viết từ bộ chỉ hai bộ thẳng, hai bộ ngược, hoặc là viết chữ sắc Văn Luận viết từ bộ thủy viết thành chữ sáp Tục tự dùng là chẳng phải.

Toan hoa ngược lại âm tủy hợi sách Khảo Thanh cho rằng: Toan đó gọi là hồ toan tên của loại rau có mùi thơm, sách Thuyết Văn cho rằng: Toan là có thể bỏ vào miệng làm thơm, chữ viết từ bộ thảo thanh tuấn âm tuấn ngược lại âm thất tuần.

Hoa mộc âm trên hoa hóa sách Khảo Thanh cho rằng: Tên cây hoa mộc Tự Thư cho rằng: Viết chữ sư lại cũng viết chữ hoạnh sách Thuyết Văn cho rằng: Cây mộc hoa chữ viết từ bộ mộc thanh hoa.

Chỉ tang ngược lại âm tang lãng Bì Thương cho rằng: Cây gỗ làm cái trống, Văn Tự Điển và sách Thuyết Văn cho rằng: Tang là thân trống chữ viết từ bộ hồ thanh tang âm hủ là âm hồ.

Chỉ đạp ngược lại âm dưới đàm cáp Thanh Loại viết chữ đạp chỉ đạp sách Khảo Thanh cho rằng: Đạp da nhuyễn bên trong. Âm nột là âm nột xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đạp là không xuyên qua được chữ viết từ bộ vi thanh đạp âm đạp đồng với âm trên, lại cũng viết từ bộ cách viết thành chữ đạp cũng thông dụng.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 5

Tường tiệm ngược lại âm trên tương dương Cố Dã Vương cho rằng: Tường là bức tường vách tường cao, theo Tả Truyện cho rằng: Con người có bức tường để ngăn che điều xấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Tường là vách tường để ngăn che, chữ viết từ bộ sắc thanh tường âm sắc ngược lại âm sử lực âm tường là âm tường ngược lại âm dưới thiên diểm Quảng Nhã cho rằng: Tiệm là cái hầm. (774) Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là ao bao quanh thành là tiệm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh trảm.

Xĩ ngạc ngược lại âm dưới ngang các sách Khảo Thanh cho rằng: Ngạc là lợi răng, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ cốc âm cốc ngược lại âm cự khước cốc là cái hang trong miệng tức hàm ếch, há miệng ra chữ tượng hình, Văn Luận viết chữ ngạc tục tự chuyên dùng.

Thủ dịch ngược lại âm dinh ích Bì Thương cho rằng: Dịch là khủy tay sáu tức cùi chỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Dịch giống như dưới nách, chữ viết từ bộ nhục thanh dạ âm cách là thanh các.

Thôn tước ngược lại âm tường lược sánh Hoài Nam Tử nói rằng: Tước là không thể không có mùi vị mà nuốt vào cổ họng, Quảng Thất cho rằng: Tước là nhai, sách Văn Tự Điển nói tước cũng là tự tức là nhai, chữ viết từ bộ khẩu thanh tước âm tự ngược lại âm tường dự.

Từ thạch ngược lại âm tự tư Bì Thương cho rằng: Từ cũng là thạch xưa nay Chánh Tự cho rằng: Từ thạch là thiết thạch, tức là đá nam châm, chữ viết từ bộ thạch thanh từ lại cũng viết chữ tư.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 6

Trích phạt ngược lại âm trên trào cách Đỗ Dự chú giải, Tả Truyện rằng: khiển trách, Giả Quỳ chú giải, sách Quốc ngữ cho rằng: Trách mắng tội lỗi, Văn Tự Điển nói: Chỉ trích quở trách cũng gọi là phạt, chữ viết từ bộ ngôn thanh trích âm đích là âm đích.

Dũng hãn ngược lại âm trên dung dũng Cố Dã Vương cho rằng: Dũng gọi là quả cảm quyết đoán, theo Tả truyện cho rằng: Có đầy đủ nghị lực gọi là dũng, sách Ích Pháp cho rằng: Biết trước là chỗ chết mà không tránh gọi là dũng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lực thanh dũng âm dũng là âm dũng Văn Luận viết chữ dũng tục tự dùng chẳng phải, ngược lại âm dưới hàn thả Thiên Thương Hoét ghi rằng: Hãn là kiệt chống đỡ có sức mạnh, Cố Dã Vương dám ăn thịt đó gọi là dũng cảm, mà còn gọi là hung hãn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hãn cũng là dũng chữ viết từ bộ tâm thanh hãn âm kiệt ngược lại âm ngược nghiệt.

Đăng mộng ngược lại âm trên đằng đăng ngược lại âm dưới mặc bằng sách Khảo Thanh cho rằng: Đăng mộng là mới vừa nằm ngủ lại ngồi dậy rầu buồn, lo âu, âm lăng là âm lăng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mộng là buồn rầu, sách Văn Tự Điển nói: Mộng là con mắt không sáng, chữ viết từ bộ mộng đến bộ tuần âm tuần ngược lại âm hồ quyên Mộng hội ngược lại âm trên mặc băng ngược lại âm dưới khôi hối Thiên Thương Hoét cho rằng: Hội là loạn, sách Thuyết Văn cho rằng:

Hội cũng là loạn, chữ viết từ bộ tâm đến thanh hội.

Cố miến ngược lại âm dưới miên kiến sách Phương Ngôn cho rằng: giữa Tần Tấn chi rằng: Liếc nhìn gọi là miến sách Thuyết Văn cho rằng: Miến là nhìn nghiêng, gọi là liếc xéo, chữ viết từ bộ mục thanh miến âm miến ngược lại âm miên điện.

Xác chấp ngược lại âm trên khống giác Hàn Khang Bá chú giải, sách chu dịch rằng: Xác là cứng chắc, Thống Tự cho rằng: Xác là gõ bên trong cứng chắc, sách Khảo Thanh cho rằng: Xác là cứng chắc kiên cố, chữ viết từ bộ thạch thanh xác âm xác đồng với âm trên.

Ngạo dật ngược lại âm trên ao cật Quảng Nhã cho rằng: Ngạo mạn, khinh thường, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngạo là không cung kính, sách Văn Tự Điển nói: Kiêu ngạo, chữ viết từ bộ nhân thanh ao âm ao ngược lại âm ngũ cao Phiêu xí ngược lại âm tất diệu ngược lại âm dưới si chí Quảng Nhã cho rằng: Xí là cái phướn, sách Khảo Thanh cho rằng: Xí là cờ có viết chữ, hoặc là vẽ rồng rắn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ cân thanh thức âm thức ngược lại âm chưng thực.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 7

Yển giang ngược lại âm trên yên hiến Cố Dã Vương cho rằng: Yển là chỗ chứa nước, sách Khảo Thanh cho rằng: Yển là lắp bít lại tắt nghẽn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phụ thanh yển âm yển đồng với âm trên, Văn Luận viết chữ yển tục dùng cũng thông dụng.

Cương phó ngược lại âm trên khước hương ngược lại âm dưới bằng bắc sách Khảo Thanh cho rằng: Té nhào phía trước, theo Thanh Loại cho rằng: Cương là ngã trên đất, sách Văn Tự Điển nói rằng: Cương cũng là phó phó cũng là cương đều một nghĩa là té ngã, chữ viết từ bộ nhân đều thanh cương bốc âm cương đồng với âm trên, viết chữ phó lại âm phó giải thích cũng đồng, âm phấn ngược lại âm bổ vận.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 8

Ôn giá giới ngược lại âm trên ôn cốt tiếng Phạm.

Suy-a-nhất-y ngược lại âm trên A-khả âm kế A-cố ngược lại âm dưới nhân dật đều tiếng Phạm.-Quyển 9, chữ không khó có thể âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 10

Vô lạm ngược lại âm Lam-đàm Cố Dã Vương cho rằng: Lạm cũng là phiếm lạm toàn ngập nổi lên trên, sách Khảo Thanh cho rằng: Lạm là giả danh làm bừa bãi không cẩn thận, lạm dụng, trộm cướp, sách Thuyết Văn cho rằng: Mất bình thường gọi là lạm, cũng gọi là lạm dụng. Chữ viết từ bộ thủy thanh lạm.

Khoan hiệp ngược lại âm hàm giáp sách Thượng Thư cho rằng: Người không tự do, rộng rãi là hiệp Tự Lâm cho rằng: Khiếp giống như là ngoài vùng biên ải chật hẹp, hiểm yếu Văn Tự Điển nói khiếp là bức bách, chật hẹp không rộng rãi, chữ viết từ bộ phụ thanh hiệp âm hiệp ngược lại âm kiêm trấp.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 11

Hoa đới ngược lại âm đinh kế sách Khảo Thanh cho rằng: Đới là hạt của quả, ngược lại là lá chỗ có sợi tơ rất nhỏ trong nụ hoa, sách Thuyết Văn nói: Đới cuống quả dưa, nụ sắp kết trái dưa, chữ viết từ bộ thảo thanh đới.

Đốt tai ngược lại âm trên đôn cốt sách Khảo Thanh cho rằng: Đốt là tiếng than, tiếng mắng mỏ vì giận, sách Thuyết Văn cho rằng: Đốt là tiếng quát mắng nói to tiếng, chữ viết từ bộ khẩu thanh xuất.

Bác thế ngược lại âm trên bác mạt theo Tả Truyện cho rằng: bác giống như tuyệt dứt hẳn, sách Khảo Thanh cho rằng: Bác bỏ, trừ bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hoạt bác, chữ viết từ bộ thủ thanh phát.

Càng táo ngược lại âm tô đáo sách chu dịch nói rằng: Lửa chính là làm cho khô ráo, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh táo âm táo đồng với âm trên.

Bất lan ngược lại âm lan thả sách Lã Thị Xuân Thu nói rằng: Chín mà không nát nhừ, sách Thuyết Văn cho rằng: Lan cũng là thục nghĩa là chín nhừ, chữ viết từ bộ hỏa thanh lan.

Tẩm nhuận ngược lại âm trên tử bí Cố Dã Vương cho rằng: Tẩm là giống như tiệm lại gọi là tẩm là chìm đắm dưới nước, Tự Thư hoặc là viết chữ đối lại cũng viết chữ tẩm sách Văn Tự Điển nói: Tẩm gọi là dẫn nước vào tưới, chữ viết từ bộ thủy thanh xâm âm xâm ngược lại âm thả nhẩm.

Lực luy ngược lại âm lụy nguy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Luy giống như yếu mềm, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Luy là bệnh, Quảng Nhã cho rằng: Luy là rất gầy ốm, Tự Thư cho rằng: Luy là nơi mỏi mệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Gầy ốm, yếu gầy, chữ viết từ bộ dương thanh loa âm loa ngược lại âm lô hóa.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 12

Tài phát tâm ngược lại âm trên tạc lai sách Khảo Thanh cho rằng: Tài là tạm thời, Cố Dã Vương cho rằng: Tài là chẳng qua, âm cẩn là âm cận xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tài là cạn cợt, chữ viết từ bộ mịch thanh sàm âm sàm ngược lại âm sĩ hàm.

Nhược nhị ngược lại âm ni lợi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nhị là trơn, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhị là có chất mở dơ bẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhị là mở, béo phì, chữ viết từ bộ nhục thanh nhị.

Noãn xác ngược lại âm khống giác sách Khảo Thanh cho rằng: Noãn là da rỗng bên ngoài cái trứng, nói như cái trứng nó biến hóa còn lưu lại cái vỏ không, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Xác là tin tưởng tức là cái da vỏ ngoài của trứng chim. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ noãn thanh xác âm xác đồng với âm trên.

Nga văn ngược lại âm trên là ngũ hà sách Đại Đái Lễ nói rằng: Loài sâu ăn lá dâu, đó có tơ chỉ mà gọi là nga sách Khảo Thanh cho rằng: Loài bướm biết bay, gọi là côn trùng này biến hóa ra hình mà bay. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trùng thanh nga ngược lại âm dưới là vũ phân Tục Tự và Thống Tự cho rằng: Là con muỗi bay cắn chích người, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trùng thanh dân Văn Luận viết chữ văn tục tự dùng cũng thông dụng.

Do diên ngược lại âm trên dĩ chu ngược lại âm dưới là dĩ chiên sách Phương Ngôn cho rằng: từ Quan Đông mà gọi là diễn diên sách Thuyết Văn cho rằng: Do diên cũng gọi là yển diên tức là con sên, con cuốn chiếu, cũng gọi là con rít có nhiều chân, chữ viết đều từ bộ trùng đều thanh do diên âm diễn là âm dẩn âm yển là âm yển.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 13

Xích hoạch ngược lại âm chú quách Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tức tựu sách Chu Dịch cho rằng: Xích hoạch là loại sâu đo, sách Thuyết Văn cho rằng: Xích hoạch là loài côn trùng khi đi thân cong lại thẳng ra, tức là sâu đo, chữ viết từ bộ trùng thanh hoạch ngược lại cũng là âm vu noãn âm tức là âm tức âm tựu ngược lại âm tử lục.

Át-phược-giới ngược lại âm trên An-hán tiếng Phạm.

Tả hiếp ngược lại âm hâm nghiệp theo Tả Truyện cho rằng: Nghe nói xương sườn dính liền với nhau, sách Khảo Thanh cho rằng: Hiếp là xương sườn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiếp là ở hai bên xương sườn, chữ viết từ bộ phục thanh hiếp âm hiếp là âm diệp âm lặc là âm lặc. Phong phiêu ngược lại âm thất tiêu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Thất cho rằng: Phiêu là gió nổi lên xoáy trong lốc, gió cuốn cao lên, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Giặc gió cuồng phong cuốn đi sách Thuyết Văn cho rằng: Phiêu là gió xoáy, chữ viết từ bộ phong thanh tiêu âm tiêu ngược lại âm ất diêu Văn Luận viết chữ phiêu cũng thông dụng.

-Quyển 14. Không có chữ có thể âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 15

Tự tước ngược lại âm trên tài dữ Thượng Lâm Phú Truyện nói rằng: Tự tước là nhai củ ấu, củ sen, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tự giống như nhai, sách Thuyết Văn cho rằng: Tự là ngậm có mùi vị chữ viết từ bộ khẩu Thanh Thư hoặc là viết chữ tự ngược lại âm dưới tường lược văn trước trong quyển năm đã cùng giải thích xong rồi.

Bất lãm ngược lại âm lặc cảm Vương Dật chú giải sách sở từ rằng: Lãm là nắm giữ, Cố Dã Vương cho rằng: Lãm là nắm vật lôi kéo dẫn ra, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lãm là nắm giữ, chữ viết từ thủ thanh lãm âm lãm đồng với âm trên. Hoặc là viết chữ lãm văn cổ viết chữ lãm.

Hổ tương ngược lại âm trên hồ Cố Dã Vương cho rằng: Hổ gọi là thay phiên nhau, sách Khảo Thanh cho rằng: Hổ giống như giao kết qua lại sách Thuyết Văn cho rằng: Hổ là có thể thâu nắm tóm lấy sợi dây, chữ tượng hình, trông giống như cái tay chỗ gọi là đẩy ra, nắm lại, xưa nay Chánh Tự viết chữ hổ cũng đồng dùng.

Thuấn động ngược lại âm trên thủy nhuận tục tự sách Trang Tử nói rằng: Nhìn suốt ngày mắt không nháy, sách Thuyết Văn viết chữ thuấn gọi là nháy mắt, chữ viết từ bộ mục thanh dần.

Huất nhiên ngược lại âm trên huân uất Tân Tông chú giải tây kinh phú truyện rằng: Huất là bổng nhiên chợt đến, Văn Tự Điển nói rằng: Huất đó là bổng nhiên nổi lên sách Thuyết Văn cho rằng: Có gió thổi nổi lên, chữ viết từ bộ khiếm thanh đàm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 16

Bàn kiết ngược lại âm âm trên phò mãn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bàn giống như uốn cong, kết chéo với nhau, Cố Dã Vương cho rằng: Bàn uốn lượn, uyển chuyển. Quảng Nhã cho rằng: Bàn là uốn cong lại, sách Phương Ngôn cho rằng: Con rồng chưa lên trời gọi là bàn long sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trùng âm phiên là âm phiên.

Như thuyên ngược lại âm thị duyên Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Thuyên tức là cái nan tre, âm độn là âm độn sách Khảo Thanh cho rằng: Thuyên là ruột tre, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy trúc tre đan thành cái sọt để chứa ngũ cốc, chứa thóc, lúa, chữ viết từ bộ trúc thanh đoan cũng viết chữ đoan cũng đồng âm đoan là âm đoan.

Yết-địa-lạc-ca ngược lại âm âm trên khiên nhụy tiếng Phạm là một trong tên núi kim.

Củ-la-bà-châu ngược lại âm trên câu vũ âm kế lam đáp tiếng Phạm.

Đường ôi ngược lại âm trên đãng lãng ngược lại âm dưới Ô-hồi sách Khảo Thanh cho rằng: Đường là lửa than nhỏ còn nằm trong tro, Văn Tự Điển nói: Thiêu đốt còn dư lại tro tàn chữ viết đều từ bộ hỏa đều thanh đường ôi.

Tác phanh ngược lại âm trên vong tác Cố Dã Vương cho rằng: Quấn lấy làm sợi dây gọi là tác sách sở từ cho rằng: Bện dây tơ nhỏ cho rằng tác Văn Hới cho rằng: Mười tằm gọi là tác xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh tác âm ngược lại âm bổ vật ngược lại âm dưới là bổ canh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phanh là sai khiến, sách Khảo Thanh cho rằng: Phanh là búng ngón tay, sách Vận Thuyên cho rằng: Căng sợi dây nẩy mực, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Phanh là theo, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh tĩnh.

Tra lại ngược lại âm trên Sạ-sa sách Khảo Thanh cho rằng: Tra là bè gỗ trong nước chảy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh sa kinh văn viết chữ tra cũng đồng, ngược lại âm dưới lai đối Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Lại cũng là thoan lại (775) Hán Thư cho rằng: Ngô Sở gọi lại xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lại là bãi nước cạn, nơi nước chảy trên bãi cát, chữ viết từ bộ thủy thanh lại.

Xú sáp ngược lại âm trên xủ thủ sách Thuyết Văn cho rằng: Loài cầm thú khi chạy đi thì ngửi mùi để biết dấu tích đường mà trở về chính là loài chó, cho nên chữ viết từ bộ khuyển đến bộ tự tự là chữ tỵ cổ chữ hội ý, ngược lại âm dưới sâm tập văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích đầy đủ rồi.

Chủy lợi ngược lại âm túc tủy sách Văn Tự Điển nói rằng: Chủy là mỏ của con chim, chữ viết từ bộ thích thanh thư Văn Luận viết chữ chủy cũng thông dụng âm thứ ngược lại âm thất tứ.

Táp thực ngược lại âm trên cửu đáp Thống Tự cho rằng: Bỏ vào miệng gọi là táp sách Khảo Thanh cho rằng: Táp là đốp mồi cũng viết là sáp lại cũng viết là chữ tiềm sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh táp âm táp đồng với âm trên.

Tiêm lợi ngược lại âm trên tức diêm âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Tiêm cũng là lợi Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tiêm là cái khoan, cái liềm âm liềm ngược lại âm tử liêm sách Khảo Thanh cho rằng: Tiêm là đao kiếm, sách Văn Tự Điển nói: Rất bén, chữ viết từ bộ sộ kim thanh thiệt.

Ô bác ngược lại âm bang mạc Văn Tự Điển nói rằng: Bác là con ngựa vằn, loang lỗ màu sắc lộn xộn, chữ viết từ bộ mã thanh bác.

Niết thủ ngược lại âm trên cân kiết sách Lễ Ký cho rằng: Không có nhai cắn xương, sách Thuyết Văn cho rằng: Niết là cắn, chữ niết từ bộ xỉ thanh niết âm niết ngược lại âm ất kiết.

Giảo túc ngược lại âm trên lạc giải sách Thuyết Văn cho rằng: Giảo cũng là niết tức là cắn, chữ niết từ bộ xỉ thanh giao.

Khả cảnh ngược lại âm trên là khánh nha là cắn, Bì Thương cho rằng: Khả là cắn ngạm miếng lớn, Văn Tự Điển nói rằng: Khả là cắn chữ viết từ bộ xỉ thanh khả.

Phách du ngược lại âm trên phan oái cách Cố Dã Vương cho rằng: Dùng tay phá vật ra phanh ra, Quảng Nhã cho rằng: Phách là phân ra, Văn Tự Điển nói rằng: Phách là phá ra, nứt ra, chữ viết từ bộ thủ thanh tích ngược lại âm dưới là du chu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký cho rằng: Du là mập béo phì, sách Thuyết Văn cho rằng: Du là cái bụng dưới mập gọi là bụng phệ, chữ viết từ bộ nhục thanh du âm du đồng với âm trên.

Quắc phúc ngược lại âm trên quy bích kiểm lại các kinh sử và tự thư đều không có chữ này, nay Văn Luận dùng chữ quắc phúc nghĩa là lấy tay hủy phá cái bụng.

Thao tâm ngược lại âm trên thảo đao sách Chu Thư nói rằng: Bạt binh thao kiếm, thao luyện binh kiếm, múa đao luyện võ, sách Khảo Thanh cho rằng: Thao gọi đào moi lấy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là tóm lấy giữ lấy, âm quản ngược lại âm âm nhất hoạt chữ viết từ bộ thủ thanh hiểu âm hiểu ngược lại âm diêu tiểu.

Tra xế ngược lại âm chả-sa sách Khảo Thanh cho rằng: Tra là dùng tay nắm tóm lấy vật. Lại viết chữ tra hoặc là viết thả cũng viết chữ tra cũng đồng, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dùng móng tay cấu lấy vậy, chữ viết từ bộ thủ thanh tra âm tra ngược lại âm tạc hà ngược lại âm dưới xương thế sách Khảo Thanh cho rằng: Xế là đốn ngã, níu kéo lại Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủ thanh chế lại viết chữ chấp giả là viết chữ xế đều đồng nghĩa.

Sàm thích ngược lại âm trên là sĩ sam Cố Dã Vương cho rằng: Sàm là mũi kiến nhọn đâm vào, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Sàm là cây đục, đục xuyên qua, Quảng Nhã cho rằng: Sàm là cây kim lớn, âm phi ngược lại âm phổ bì sách Văn Tự Điển nói rằng: Sàm là cái dùi nhọn đâm vào, chữ viết từ bộ kim thanh sàm âm sàm đồng với âm trên, ngược lại âm dưới là thanh tích Cố Dã Vương cho rằng: Thích cũng gọi là dụng cụ của cây kim bén nhọn đâm vào tròn thịt người ta, sách Khảo Thanh cho rằng: Thích gọi là lấy mũi kiếm nhọn đâm vào, Văn Tự Điển nói: Thích giống như là giết, chữ viết từ bộ đao thanh thứ âm thứ ngược lại âm chủy tứ.

Thám trác ngược lại âm trên đáp nam sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thám là lấy tin từ xa, theo Thanh Loại cho rằng: Thám là lấy từ dưới sâu, cũng gọi là sâu xa, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy tin từ xa, chữ viết từ bộ thủ thanh thâm âm thâm ngược lại âm âm đại cảm ngược lại âm dưới là trúc giác theo Mao Thi Truyện cho rằng: Không có lúa thóc thì ta không mổ ăn, Quảng Nhã cho rằng: Trác đó là cắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Trác là mỏ chim mổ ăn, chữ viết từ bộ khẩu thanh thỉ âm thỉ ngược lại âm sửu duyên.

Đao thương ngược lại âm dưới tích tướng sách Quốc Ngữ cho rằng: Cây thương có hai đầu mũi nhọn kẹp lại Thiên Thương Hoét cho rằng: Thương là hai đầu cây nhọn bén, sách Thuyết Văn cho rằng: Thương là cây súng rất nhạy bén bắn đi rất xa, chữ viết từ bộ mộc thanh thương âm hiệp là âm diệp.

Ngự hãn ngược lại âm dưới hàn thủ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hãn là bảo vệ, hãn cũng là ngự bảo vệ phòng ngự, ngăn chặn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hãn là phòng bị chữ viết từ bộ thủ thanh hãn.

Xác-bà ngược lại âm trên Ha-các tiếng Phạm, Đường Huyền Trang dịch là tên của địa ngục Bát-hàn.

Bao liệt ngược lại âm vân pháo Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Mụt mụn nổi trên mặt, sách Thuyết Văn viết chữ pháo cũng đồng, chữ viết từ bộ bì thanh bao.

Phẩu tích ngược lại âm trên phổ khẩu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phẩu giống như là phân ra Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Gọi là phân trong ra là phẩu. Thiên Thương Hoét cho rằng: Phẩu cũng là tích Văn Tự Điển nói rằng: Phẩu là mổ trong phanh ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm tha phẩu ngược lại âm dưới tinh tích văn trước trong quyển thứ hai đã giải thích đầy đủ rồi.

Quai ngoa ngược lại âm dưới ngũ qua Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Ngoa là ngụy tạo, giã dối, Khổng An Quốc chú giải sách Thương Thư rằng: Ngoa là nói giã dối ngụy tạo không thật, chữ viết từ bộ ngôn thanh hóa cũng viết chữ nguy nghĩa cũng đồng.

Tiển nhiếp ngược lại âm trên tiền tiển Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiển là mang giày dép đạp, giẫm lên, Trịnh Tiển chú giải sách Luận Ngữ rằng: Hôn muội không biết giẫm đạp lên, Văn Tự Điển nói: Đạp lên chữ viết từ bộ túc thanh tàn âm tàn là âm tàn ngược lại âm dưới niêm triếp sách Phương Ngôn cho rằng: Niếp là đi lên, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Nhiếp cũng là giẫm đạp, âm diệp là âm diệp Quảng Nhã cho rằng: Nhiếp cũng là mang giày dép. Văn Tự Điển nói: Đạp lên chữ viết từ bộ túc thanh nhiếp âm nhiếp đồng với âm trên.

Sắc phương ngược lại âm trên sơ sắc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sắc giống nhân nghiêng Cố Dã Vương cho rằng: Góc vuông thẳng, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ điền đến bộ nhân thanh phản.

Giác thắng ngược lại âm trên giang nhạc sách Khảo Thanh cho rằng: Giác đó là chuyên lợi thao lược, cũng là đánh giá đo lường. Tự Thư lại viết chữ xác sách Thuyết Văn cho rằng: Giác là đánh gõ chữ viết từ bộ thủ thanh giác.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 17

Cơ sắc ngược lại âm trên cư khơi sách Khảo Thanh cho rằng: Cơ là ký sinh trùng đẻ trúng trên người lẫn súc vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Sắc đó là loài côn trùng hay cắn người giống như con chấy, rận, chữ viết từ bộ côn thanh tấn âm côn là âm côn âm tấn là âm tín Văn Luận viết chữ sắc tục dùng cũng thông dụng.

Quáng mạch ngược lại âm trên hộ mảnh Thiên Thương Hoét cho rằng: quáng là thóc lúa, Quảng Vật Chí cho rằng: Một thứ lúa chín muộn mà không có chất dẻo, thứ lúa đen, âm canh là âm hắc quáng là lúa đen, âm canh ngược lại âm cổ xung sách Thuyết Văn cho rằng: Quáng là lúa mà loại lúa lá dài nhọn, chữ viết từ bộ hòa thanh quảng.

Huyên trách ngược lại âm trên hủy viên theo thanh loại cho rằng: Huyên là ồn ào, Cố Dã Vương cho rằng: Huyên cũng là ồn ào, huyên náo, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ ngôn thanh huyên ngược lại âm dưới trách cánh, Cố Dã Vương cho rằng: Trách đó là nay cho rằng tranh Tự Thư cho rằng: Tranh là khuyên can, sách Khảo Thanh cho rằng: Tránh giống như là tranh nói tranh luận với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Tranh là ngăn chặn, dừng lại, chữ viết từ bộ ngôn thanh tránh.

Lân giác ngược lại âm trên là lật trân văn trước kinh Bảo Tích âm nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi.

-Quyển 18, 19 Đều không có chữ có thể giải thích âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 20

Á dương ngược lại âm trên lưu nhã Bì Thương cho rằng: Á là ám tức là âm, sách Khảo Thanh cho rằng: Á gọi là không thể nói, không nói được cũng viết chữ Á sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm nữ ách.

Tư lược ngược lại âm trên tức tà Mao Thi Truyện nói rằng: Túc túc giăng lưới bắt thỏ, theo truyện nói rằng: Tư là giăng lưới bắt thỏ, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tư giống như che trùm ở trên, Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ võng Thanh Thư ngược lại âm dưới cường hướng sách Văn Tự Điển nói rằng: Lược giăng lưới bên đường bắt chim, chữ viết từ bộ cung thanh kinh.

Ky thi ngược lại âm trên ký hy Hà Hưu chú giải Công Dương truyện rằng: Ky giống như là khiển trách, Trịnh Huyền chú giải sánh Lễ Ký rằng: Xác thật là la mắng, quở trách, sách Quảng Thất cho rằng: Khuyên can cật vấn, cũng gọi là châm biếm, cười cợt, sách Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ ngôn thanh ky ngược lại âm dưới thư tử theo Mao Thi Truyện nói rằng: Thích là trách mắng, sách Khảo Thanh cho rằng: Thích cũng là ky nghĩa là châm biếm, giễu cợt, chê bai, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh thứ âm thứ đồng với âm trên, Văn Luận viết chữ hiệp tục dùng thông dụng.

Hung bột ngược lại âm trên húc cung chữ viết từ bộ nhân đến thanh hung Văn Luận viết chữ hung này là sai, ngược lại âm dưới buộn một sách Khảo Thanh cho rằng: Bột là nổi giận sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bột là làm bừng lên thịnh vượng Cố Dã Vương cho rằng: Bột là bạo phát tràn trề, dạt dào. Trịnh chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Bột là làm nghịch lại sách Phương Ngôn cho rằng: Loạn sách Thuyết Văn cho rằng: Bột là xô ra bài trừ, chữ viết từ bộ lực thanh bột âm bột đồng với âm trên Văn Luận viết từ bộ phù viết thành chữ bột là chẳng phải.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 21

Phiến đệ ngược lại âm dưới là xích-da Tiếng Phạm người không đầy đủ nam căn.

Khanh tĩnh ngược lại âm trên khách canh Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khanh là cái hang, cái hầm, sách Khảo Thanh cho rằng: Khanh là chỗ trũng, chỗ lõm, Văn Tự Điển nói rằng: Khanh là hố sâu, chữ viết từ bộ thổ thanh khang âm khang là âm cang ngược lại âm dưới là tình đĩnh Quảng Thất cho rằng: Tĩnh cũng là khanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Tĩnh là đào xuyên qua đất làm cái hố để bẩy thú, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ thanh tĩnh Văn Luận viết chữ tĩnh tục dùng cũng thông dụng hoặc là viết chữ tệ tĩnh chữ cổ.

Diện trứu ngược lại âm dưới trâu cứu sách Khảo Thanh cho rằng: Trứu là da tụ lại, Văn Tự Điển nói: Da rộng ra tụ lại, tức là da nhăn nhúm, chữ viết từ bộ bì thanh trứu âm trứu ngược lại âm trắc câu.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 22

Xà yết ngược lại âm trên xạ giá sách Khảo Thanh cho rằng: Xà là loại rắn độc lại cũng là tha người xưa làm chỗ ở trong hang ổ, lúc ban đêm thường hỏi nhau, không có nó đến chăng? Sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ trùng âm tha thanh đà Văn Luận viết chữ xà nay tục dùng cũng thông dụng. Ngược lại âm dưới hiên yết Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Yết là con bò cạp độc, Quảng Nhã cho rằng: Yết là con giòi cắn, đục múc.

Sách Bát Nhã cho rằng: Loài côn trùng đi gieo độc hại Văn Tự Điển nói: Thuộc giống bò cạp có đuôi dài, tên gọi khác của bò cạp, chữ viết từ bộ trùng thanh yết âm yết đồng với âm trên, âm sái ngược lại âm trách giới âm thư ngược lại âm thất dư âm thích ngược lại âm thức diệc.

Lung lệ ngược lại âm trên lung chung ngược lại âm dưới lê đề ý nghĩa của Văn Luận là dáng điệu can cường, ngang ngạnh.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 23

Giá sắc ngược lại âm trên Da-hà Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Năm giống ngũ cốc gọi là giá Văn Tự Điển nói rằng: Bông lúa gọi là giá, chữ viết từ bộ hòa thanh gia ngược lại âm dưới sanh trắc Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Thâu thuế gọi sắc Văn Tự Điển nói rằng: Giống lúa chín sau ít dẻo gọi là sắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Gặt lúa có thể thâu gom đem về gọi là sắc chữ viết từ bộ hòa thanh sắc.

Khao giác ngược lại âm trên xảo giao ngược lại âm dưới không giác Cố Dã Vương cho rằng: Khao là cứng, sách Mạnh Tử nói: Đất có mầu mở gọi là khao sách Hoài Nam Tử nói rằng: Tránh nơi đất cứng có đá sỏi theo Thanh Loại cho rằng: Khao giác là đất cằn cổi, không mầu mở, Văn Tự Điển nói rằng: Giác là đất xấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Khao giác là cũng là đất có đá lớn, đất phèn, chữ viết đều từ bộ thạch đều thanh nghiêu giác âm bàn ngược lại âm khẩu ách.

Quả lạt ngược lại âm dưới lan dát sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Lạt là cay, sách Khảo Thanh cho rằng: Quá cay, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tân thanh thứ.

Hất kim ngược lại âm trên hân ngật theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hất là từ xưa đến nay, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hất là đến, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ xước thanh ngật âm xước ngược lại âm sửu lược.

Pháo song ngược lại âm trên bao nhi văn trước trong quyển thứ mười sáu đã giải thích đầy đủ rồi.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 24

Khắc-già tiếng Phạm, ngược lại âm trên kình chưng âm dưới kình khư.

Tập cú ngược lại âm trên xâm nhập Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tập là nối tiếp theo. Mao Thi Truyện cho rằng: Mục văn vương nối tiếp theo hy kính mà ngăn chặn, Văn Tự Điển nói Tập là chứa nhóm, chữ viết từ bộ mịch thanh tập âm tập ngược lại âm sâm tập.---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 25

Bạo lưu ngược lại âm trên bao mạo Văn Tự Điển nói rằng: Nước sông Giang Hà dâng cao chảy xiết, sách Thuyết Văn cho rằng: Mưa to nước chảy gấp, chữ viết từ bộ thủy thanh bạo âm bạo đồng với âm trên.

Ái-la-phạt-nã ngược lại âm trên Ai-cải ngược lại âm dưới Nạch-da tiếng Phạm tên của Long Vương.

-Quyển 26 Không có chữ khó có thể giải thích âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 27

Lưu ách ngược lại âm trên anh cách sách Khảo Công Ký nói rằng: Người ta làm cái ách xe dài sáu thước, Quách Phác cho rằng: Càng xe đè thẳng lên cổ con trâu, sách Văn Tự Điển nói: Thanh gỗ cong trên cổ con trâu, chữ viết từ bộ xa thanh ách âm ách đồng với âm trên, Văn Luận viết chữ ách tục dùng thông dụng.

Táo lợi ngược lại âm trên tao tháo Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Táo là không yên tĩnh, sách Khảo Thanh cho rằng: Táo là tính nóng nảy, cũng gọi là động, sách ích pháp cho rằng: Con người hay biến động gọi là táo sách Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ túc thanh táo âm táo ngược lại âm âm tao táo.

Bất nại ngược lại âm nải đại theo Tả Truyện nói rằng: Tính không chịu đựng, Cố Dã Vương cho rằng: Nại giống như có thể, sách Khảo Thanh cho rằng: Có thể nhẫn chịu, sách Văn Tự Điển nói rằng: Gọi là pháp độ có thể vượt qua, chữ viết từ bộ thốn thốn là đo đánh giá, không quá mức cái pháp này, chữ viết từ bộ nhi đến bộ thốn.

Bất âm ngược lại âm ám hàm sách Đông Quán Hán Ký nói rằng: Trong vườn cây trong xó góc, cây nẩy mầm đều biết rõ, số của cây Văn Tự Điển nói am là hiểu rõ, chữ viết từ bộ ngôn thanh am.

Nặc dĩ ngược lại âm nữ lực sách Chu Lễ nói rằng: Theo quân chạy trốn Đỗ Dự chú giải Xuân Thu Truyện rằng: Nặc cũng là tàng tức là ẩn nấp trốn tránh, Quảng Nhã cho rằng: Nặc là trốn mất, chữ viết từ bộ ẩn đến bộ nhất tức là che đậy thanh nhược âm ẩn là âm ẩn.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 28

Thanh ứ ngược lại âm dưới ư cứ sách Khảo Thanh cho rằng: Ứ là trong da thịt máu bị ngưng tụ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Ứ cũng là máu tích tụ lại, chữ viết từ bộ tật thanh ư âm tật ngược lại âm âm nữ cách.

Đăng mộng ngược lại âm trên là đằng ngược lại âm âm dưới mặc băng văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích đầy đủ rồi.

Trì độn ngược lại âm đột đốn Cố Dã Vương cho rằng: Độn cũng là trì sách Sử Ký nói rằng: Là người ngu độn sách Thuyết Văn cho rằng: Độn cũng là ngoan ý nói là không lanh lợi, chữ viết từ bộ kim thanh độn.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 29

Giáng trướng ngược lại âm trên phác bang Bì Thương cho rằng: Giáp cũng là trướng Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ nhục thanh phong ngược lại âm bộ đông Văn Luận viết từ bộ phùng viết thành chữ giáng tục dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới trương lượng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trướng là bụng đầy hơi, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ nhục thanh trường.

Khu tẫn ngược lại âm dưới tất nhẫn Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Tẫn là phế bỏ, sách Sử Ký nói rằng: Cùng nhau xô đẩy lôi kéo ra ngoài, đuổi đi, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ thủ thanh tân.

Bị nang ngược lại âm trên bi bái Cố Dã Vương cho rằng: Bị là chỗ lò đúc có cái ống để thổi lửa khiến cho lửa cháy bừng lên, Bì Thương cho rằng: Chữ viết từ bộ vi viết thành chữ bị Văn Tự Điển nói: Bị là cái túi da để thổi lửa từ bộ vi thanh bị âm bị ngược lại âm bì bí Văn Luận viết thác xưa nay Chánh Tự không có chữ này.

Khoang bể ngược lại âm ai quan Bì Thương cho rằng: Khoang là xương tận cùng của cột sống, sách Khảo

Thanh cho rằng: Xương đùi sách Thuyết Văn cho rằng: Khoang là chỗ xương đùi trên chữ viết từ bộ cốt thanh khoang cũng có viết từ bộ nhục viết thành chữ khoang cũng đồng nghĩa, âm khào ngược lại âm khảo cao âm bể là âm bề ngược lại âm dưới bình mễ sách Vận Thuyên cho rằng: Bể tức là xương đùi bên trong gọi là cổ bên ngoài gọi là bể sách Lễ Ký cho rằng: Không nhàm chán xương đùi, sách Thuyết Văn cho rằng: Bể là xương đùi trong và ngoài chữ viết từ bộ cốt thanh bi cũng viết chữ bể văn cổ tục viết chữ bể.

Hình khỏa ngược lại âm trên hình kính Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Hình là cẳng chân từ chân đến đầu gối, Cố Dã Vương cho rằng: Bắp chân phía trước là xương, sách Văn Tự Điển nói: Hình là cái xương của bắp chân, chữ viết từ bộ nhục thanh kính âm kính là âm kinh âm phù là âm phù phi âm hanh là âm hạnh hoặc là viết chữ hình nghĩa cũng đồng, ngược lại âm dưới hoa ngõa Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khỏa là gót chân, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khỏa là mắt cá chân, theo Thanh Loại cho rằng: Khỏa là mu bàn chân trên bên trong, ngoài là xương, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc thanh giả Văn Luận viết từ bộ nhục viết thành chữ khỏa là chẳng phải âm phu ngược lại âm phương vu.

Đề hồ ngược lại âm trên Đệ-nê ngược lại âm dưới Hộ-cô Đề hồ xuất phát từ sữa đặc tức là tô tinh sữa đặc không ngưng đông đặc đó là đề hồ, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết đều từ bộ dậu đến bộ thị thanh tĩnh thanh hồ.

Huề đạo ngược lại âm trên là hồ khuê sách Mạnh Tử nói rằng: Bệnh là trong màu nơi luống rau, Lưu Ly cho rằng: Nay tục gọi là hai mươi lăm mẫu ruộng là một tiểu huề, năm mươi mẫu là đại huề. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Huề giống như là khu sách Thuyết Văn cho rằng: Năm mươi mẫu là huề chữ viết từ bộ điền thanh khuê.

-Quyển 30, 31, 32, 33, 34, năm quyển trên đều không có chữ khó có thể giải thích âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 35

Tư sản ngược lại âm trên tử tư Văn Tự Điển nói rằng: Vạn vật đều nẩy mầm sanh sôi nẩy nở, nẩy mầm sanh trưởng, sách Thuyết Văn cho rằng: Tư là sữa để nuôi sống, sinh sản mà cũng thấm vào sinh sản ra nhiều chữ viết từ bộ tử thanh tư.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 36

Kiêu kiện ngược lại âm trên hiểu nghiêu Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Kiêu giống như là mạnh mẽ, Quảng Nhã cho rằng: Kiêu cũng là kiện, sức mạnh dũng mãnh sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mã thanh nghiêu.

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 37

Quỷ sanh ngược lại âm trên quy ủy sách Lương Cốc Truyện cho rằng: Quỷ là phép tắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Vết bánh xe chữ từ bộ xa thanh cửu văn cổ viết chữ quỷ lại viết chữ quỷ Văn Luận viết chữ quỷ tục dùng thông dụng.

Phiếm nhĩ ngược lại âm trên phù phạm sách Khảo Thanh cho rằng: Không chỉ định, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh phiếm cũng có viết từ bộ phàm đó là chẳng phải.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 38

Câu duyên âm trên là câu âm dưới là ở Tây Vực cho rằng: Tên của quả.

Nhiễu loạn ngược lại âm trên nê điểu sách Khảo Thanh cho rằng: Nhiễu là cùng nhau làm trò vui đùa giỡn cợt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh nghiêu lại viết chữ niểu là chọc ghẹo cũng dùng thông dụng.

Quyển 39 không có chữ, có thể giải thích âm.

---------------------------------

A-TỲ-ĐẠT-MA HIỂN TÔNG LUẬN QUYỂN 40

Như-bờ-la-ni-tư âm ni ngược lại âm minh yết tiếng Phạm xưa dịch là Ba-la-nại âm yết ngược lại âm yến trác.-Trên là Huyền Ứng đã âm.

*******

A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

Quyển 1, 2, 3 trên đều không có âm.

A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 4

Đâu suất xĩ ngược lại âm đãi ngã trong kinh hoặc là viết Đâu-sử-đa hoặc là nói Đâu-suất-đà đều là sai, nói cho đúng là Đổ-sử-đa đây gọi là cõi trời biết đủ, lại cũng gọi là diệu túc.

Phạm phúc lâu đây dịch sơ thiền cõi trời thứ hai đây gọi Phạm tiền, cõi trời tư ích, trong Phạm tiền thực hành tư duy, cõi trời Phạm thiên lợi ích cho rằng: Cái tên xưa nói là Phạm tiên hành thiên cũng gọi là cõi trời Phạm phụ, tiên hành phụ là cõi trời Phạm vương tức vua Phạm ở đây.

*******

PHÁP THẮNG A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

-Quyển 1 trước không có âm.

PHÁP THẮNG A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

Huyền Ứng soạn.

QUYỂN 2

Biện phát Tam Thương cho rằng: Cũng viết chữ biến cũng đồng, ngược lại âm bổ điển sách Thuyết Văn cho rằng: Bện tóc đuôi sam.

Hệ tại văn cổ viết kế hệ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cổ đế sách Thuyết Văn cho rằng: Hệ là kết, bó buộc, kết nối, kế thừa, tiếp tục.

----------------------------------------

QUYỂN 3

Quán tập lại viết xuyến quán hoàn ba chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cổ hoạn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Xuyến cũng là tập nghĩa là thói quen.

Hoài dựng Tam Thương cho rằng: Văn cổ viết chữ hoài âm dưới văn cổ viết chữ dăng cũng đồng, ngược lại âm dư chứng sách Thuyết Văn nói hoài là ôm đứa con trong lòng, sách Quảng Thất cho rằng: Dựng là người đàn bà đã thọ thai, gọi là dựng là đứa con trong bụng. Bao hàm thật gọi là dựng chữ viết từ bộ tử thanh nải.

-Quyển 4, 5 đều trước không có âm.

----------------------------------------

QUYỂN 6

Nhãn si ngược lại âm sung chi sách Thuyết Văn cho rằng: Gọi là Miệt-đâu-si nay Giang Nam gọi si là si đâu tức là ghèn trong mắt, âm miệt ngược lại âm mạc kiết Văn Luận viết chữ chi này là chẳng phải.

*******

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn

Mâu-ni trong kinh hoặc là viết văn ni xưa dịch là nhân, Ứng Thiệu cho rằng: Mâu-nê đây gọi là vị tiên nhân thông suốt trong và ngoài, gọi là ở lâu trong núi rừng tu tâm học đạo vậy.

Thân nhữ cũng nói là thân nhữ ba lâm đây dịch là thật sâm gọi là trinh thật tức là chắc thật.

Nhuyễn trung đứng thể chữ viết từ bộ nhuyễn cũng đồng, ngược lại âm nhi nhuyễn trong bổn tiếng Phạm nói là Một-lật-độ đây dịch nhu nhuyễn mềm mại.

Sáp hoạt lại viết chữ sắc cũng đồng, ngược lại âm sở lập gọi là không trơn mịn, chữ viết từ bốn bộ chỉ bốn bộ chỉ tức là không thông chữ chỉ ý, Văn Luận viết chữ sáp hai chữ tượng hình là chẳng phải thể.

Thiên trúc hoặc nói thân độc hoặc nói là hiền đậu đều sai. Nói đúng là Ấn Độ tên gọi là Ấn Độ gọi là nguyệt mà nguyệt có ngàn tên gọi riêng nhưng xưng chỉ có một, gọi là xứ sở kia tốt lành có thánh hiền nối tiếp nhau khai ngộ quần sanh, đem ánh sáng đến như ánh sáng của mặt trăng, bởi vì vậy mà gọi tên. Một là nói rằng: Hiền đậu vốn gọi tên là Đà-la-bà-đà-na đây gọi là chủ xứ là Thiên đế, thường lấy tên gọi Thiên đế chỗ hộ trì cho đời lâu dài cho hiệu là tên gọi vậy.

Di-ly-xa hoặc là viết Di-lệ-xa đều sai. Nói cho đúng là Miệt-lệ-xa gọi là người hạ tiện biên di thấp hèn, không có chỗ biết vậy.

Quân chúng ngược lại âm cư vân Tự Lâm cho rằng: Quân bao vây bốn ngàn ngàn (4. 000) người là quân ba ngàn năm trăm (3. 500) người là sư chữ viết từ bộ giao âm bao ngược lại âm bổ giao bao chiếc xe là quân bộ táp bộ phụ là sư đều là chữ chỉ ý.

Cật vấn ngược lại âm khứ chất Quảng Nhã cho rằng: Cật là trách móc, quở phạt, sách Thuyết Văn cho rằng: Cật vấn là tra hỏi.

Hoa mạn lại viết chữ hoa cũng đồng, ngược lại âm hồ qua âm dưới tiếng Phạm nói là Ma-la đây gọi là mạn âm mạn là âm man theo Tây Vực kết hoa làm tràng dùng làm trang sức, phần nhiều dùng Tô-ma-na-hoa kết thành hàng, cho rằng đều xâu suốt vòng hoa, cần hỏi nam hay nữ, sang hay hèn, đều lấy đây làm trang nghiêm trên đầu, hoặc là trên thân mình, cho rằng: trang sức đẹp, trong các kinh đều nói: Thiên mạn báu, mạn hoa mạn cũng đều kết hoa mạn dùng làm trang sức đều là vậy, Văn Luận viết mạn đều chẳng phải đúng thể chữ.

Đoàn thực ngược lại âm đồ quan Văn thông dụng cho rằng: Lấy tay vo tròn gọi là đoàn Tam Thương cho rằng: Đoàn là dùng tay vắt cơm cho dính lại, Văn Luận viết chữ sủy ngược lại âm sơ ủy gọi là đo lường đánh giá rộng, tiền nhân gọi là suy Giang Nam dùng âm này, lại âm đô quả sách Thuyết Văn cho rằng: Sủy là đo lường (777) cho nên gọi là sủy Quan Tuy dùng âm này, đều chẳng phải âm nghĩa đây dùng vậy.

Khái chi ngược lại âm cư vị sách Thuyết Văn cho rằng: Khái là tưới nước, rót nước tưới.

Như tình lại viết chữ tinh tinh hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tự dinh gọi là không có mưa, theo Thanh Loại cho rằng: Trời mưa mới tạnh, nên bầu trời trong quang đãng, Văn Luận viết tình là chẳng phải.

Hộ xu ngược lại âm xĩ du gọi là then cửa sách Nhĩ Nhã cho rằng: Xu gọi là then chốt, Quách Phác cho rằng: Cánh cửa gọi là xu Quảng Nhã cho rằng: Xu là căn bản nguồn gốc cơ chế then khoá cửa chủ cửa cơ chế chuyển động, âm ôi ngược lại âm âm ngũ hồi.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 2

Ỷ-tức ngược lại âm ư khỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Ỷ giống như nương dựa vào, Quảng Nhã cho rằng: Ỷ là nhân gọi là nhân ỷ là dựa vào mà nằm, chữ viết từ bộ nhân Văn Luận viết chữ ỷ ngược lại âm nhất kỳ ỷ là đẹp, xanh tốt um tùm.

Táo động lại viết chữ táo cũng đồng, ngược lại âm tử đáo táo cũng là động táo là quấy nhiễu sách Luận Ngữ nói rằng: Chưa đề cập tới mà nói gọi là táo Trinh Huyền chú giải rằng: Gọi là không yên tĩnh Thích Danh cho rằng: Táo là làm cho khô ráo. Nói vật khô ráo tức động mà nhẹ bay lên vậy.

Vi điệu ngược lại âm đồ điếu Tự Lâm cho rằng: Điệu là lắc lư. Quảng Thất cho rằng: Điệu là chấn động Văn Luận viết chữ khiêu là chẳng phải.

Tâm kỵ ngược lại âm lương ký kỵ là khó cũng gọi là e sợ, sách Thuyết Văn cho rằng: Kỵ là ghen ghét đố kỵ. Vi tật văn cổ viết chữ tật hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tình lật sách Sở Từ cho rằng: Cố giữ tâm mà sanh ra tật đố, Vương Dật cho rằng: Hại người hiền gọi là tật hại sắc gọi là đố.

Giải đãi ngược lại âm cổ nại ngược lại âm dưới là đồ cải sách Nhĩ Thất cho rằng: Giải đãi là biếng nhác trễ nải, sách Tập Chú cho rằng: Giải đó là rất cực kỳ, đãi đó là biếng trễ, Thích Danh cho rằng: Giải đó mở ra tháo ra, nói rằng những đốt xương rời rã rất mỏi mệt.

Chấn đoán hoặc là viết chân đán lại nói chân đán Lại nói chân đan đều là một nghĩa, xưa dịch là Trong kinh Hán Quốc cũng viết Chỉ-na nay viết là Chi-na đây là không đúng, dịch thẳng gọi là tên chung của Thần Châu. Do dự ngược lại âm dực chu âm dưới văn cổ cũng đồng, ngược lại âm dực thứ sách Thuyết Văn cho rằng: Ở Thiển Tây gọi là chó con là do do là tánh nó có nhiều dự tính trong người trước, cho nên phàm không quyết định đó đều gọi là do dự, lại sách Nhĩ Thất cho rằng: Do giống như con hươu hay lội trong nước, Quách Phác cho rằng: Có sức mạnh là ở trên cây.

Vi-mi ngược lại âm vong bì mi là xán lạn, rải rác tán hoại.

Hộ hướng ngược lại âm hứa lượng sách Thuyết Văn cho rằng: Hướng bắc có cửa sổ, Quảng Nhã cho rằng: Cửa sổ thông gió, thể chữ từ bộ miên đến bộ khẩu âm miên ngược lại âm vong tiên.

Quách mạch ngược lại âm qua mảnh sách Thuyết Văn cho rằng: Quáng là loại lúa có hạt không dẻo, nay gọi là đại mạch là quán mạch.

Câu lũ hoặc viết là Câu-lô-xá hoặc gọi là câu-lâu-xa gọi là năm trăm (500) cây cung, Ứng Thiệu nói: Câu-lôxá-lư ngược lại Huỳnh câu gọi là âm thanh tiếng rống của con trâu lớn, nghe tới năm dặm tám Câu-lô-xá là một Du-thiện-na tức là bốn mươi dặm. Xưa đó là thánh vương đi một ngày du hành.

Trung yểu ngược lại là ư kiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Yêu là cong lại Quảng Nhã cho rằng: Yêu là bẻ gãy, Thích Danh cho rằng: Trang thiếu niên mà chết gọi là yểu, như lấy vật bên trong mà bẻ gãy chữ viết từ bộ đại chữ tượng hình không thẳng không hết thiên niên gọi là yểu.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 3

Đồ dương ngược lại âm đạt hồ sách Thuyết Văn cho rằng: Đồ là phanh ra, Quảng Nhã cho rằng: Đồ là hư hoại, theo chữ đồ là người giết mổ phân bổ thịt súc sinh.

Tư lạp Quảng Nhã cho rằng: Tư là người chủ, sách Thuyết Văn cho rằng: Là tôi thần người hầu hạ làm việc bên ngoài, lại hầu hạ phía sau gọi là tư chữ chỉ ý.

Thính tụng ngược lại âm tha định sách Chu Lễ cho rằng: Lấy năm âm thanh nghe ngục cầu đình, một là hình thính hai gọi là sắc thính ba giáo lý khí thính bốn gọi là nhĩ thính năm gọi là mục thính thính gọi là nghe xác thật phải trái, sách Thuyết Văn cho rằng: Tụng là tranh tụng. Trai giới văn cổ viết chữ giới cũng đồng, ngược lại âm cổ giới dịch khác là lấy đây là trai giới Hàn Khang Bá cho rằng: Tẩy rửa cái tâm gọi là trai phòng ngừa hoạn nạn gọi là giới Tự Lâm cho rằng: Trai giới là sạch sẽ thanh khiết, trai cũng là tề là đồng đều, bằng nhau. Quảng Nhã cho rằng: Giới là phòng bị chữ viết từ bộ cũng cũng là hai tay nắm giữ, đến bộ qua tức là nắm giữ cây giáo, không sợ sệt, lo lắng, âm cũng là âm cũng lại viết chữ bái cũng đồng.

Bà-la-môn đây nói sai lược Ứng Thiệu cho rằng: Bàla-hạ-ma-nã đây dịch nghĩa là Thừa tập đại pháp, các loại người này tự cho rằng: Được sinh ra từ miệng Phạm Thiên, trong bốn họ tộc là vượt trội hơn cả cho nên độc quyền nắm giữ tên là Phạm chỉ có Ngũ Thiên Trúc các nước tức là không, trong kinh Phạm Chí cũng gọi tên này. Nói cho đúng là Trịnh Dẫn nói là hạt giống của Phạm Thiên dẫn dắt.

Sát lợi nên nói là sát-đế-lợi đây dịch là điền thổ, chủ trì ruộng đất, gọi là quý quý tộc của vua chúa vậy.

Bại xá ngược lại âm bệ hề nói đúng là Phệ-xá đây gọi là tọa gọi là tọa giá theo Thiên Trúc tục gọi là công là nhiều vật báu hàng hóa vải vóc tơ lụa, đây gọi doanh cầu, chứa nhiều tài sản của báu lớn chỉ ngồi một chỗ mà xuất ra thâu vào cho nên gọi tên vậy.

Thủ đà nên nói là Thú-đạt-la là quan trông coi về điền nông, các học giả vậy, đây là bốn họ tộc lớn của nước.

Tư dĩ ngược lại âm di tư Quảng Nhã cho rằng: Tư là lấy dùng riêng, cũng gọi thành của riêng.

Uất-đơn-viết hoặc nói là Uất-đát-la-việt hoặc viết là Uất-đa-la-câu-lâu hoặc gọi là Đô-đa-la-cưu-lưu nói đúng là Uất-đát-la-cừu-lưu đây dịch là cao thượng, gọi là làm cao thượng hơn các phương khác, cũng nói là Thắng-châu-cưu-lưu đây cũng gọi là tát cũng gọi là họ, chưa rõ thành lập nghĩa nào gọi tên nào?.

Diêm-phù-đề hoặc nói Diểm-phù-châu hoặc nói là chiêm phù châu hoặc gọi là Thiềm-bộ-châu Diêm-phù đó là từ cây mà đặc tên đề đó là nói lược, nên nói là Đềbệ-ba đây dịch là Châu-chiêm âm chiêm ngược lại âm chi hợp.

Phất-bà-đề hoặc gọi tên là Phất-vu-đãi hoặc gọi là Phất-tỳ-đề-ha hoặc nói là thông-lợi-bà-ty-đề-hạ-bổ-lợibà Đây gọi là mũi trước, Đề-hạ đây gọi ly thể rời xa thân thể.

Cụ-đà-ni hoặc viết Câu-da-ni hoặc gọi là Cụ-da-ni hoặc nói là Cù-già-ni đều sai, cù đây dịch là Ngưu-đà-ni đây dịch là chiếm giữ lấy kia nhiều trâu mà dùng, trâu đem ra chợ mua bán trao đổi như giữ đây dùng tiền để mua các thứ, hoặc gọi là các thanh ngưu tức trâu đá.

Tì cước ngược lại âm tự tư sách Nhĩ Thất cho rằng: Tì là tên gọi thứ cỏ như cây tật lê Quách Phác cho rằng: Đất thưa xấu nên cỏ mọc um tùm chằng chịt như dây leo là nhỏ, có hạt có ba góc có gai đâm người vậy.

Tư nhục sách Phương Ngôn viết chữ tư cũng đồng, ngược lại âm tư lực sách Thuyết Văn cho rằng: Tư là thịt mọc lạ kỳ, Tam Thương cho rằng: Thịt xấu ác, Văn Luận viết chữ tư chẳng phải thể.

Tác mô lại viết chữ mô cũng đồng, ngược lại âm mạc nô gọi là quy cách mẫu mực là mô cũng gọi là phép tắc, mô phạm, gọi là giống như đè ấn xuống sợi chỉ lấy mực của người thợ mộc.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 4

Ngôn thử ngược lại âm trắc thị tử lễ hai âm sách Thuyết Văn cho rằng: Thử là gom lấy, âm trịch ngược lại âm cư nghịch gọi là nắm lấy, gom lại, tóm lấy, Văn thông dụng cho rằng: Nắm lấy lôi kéo cho vãn ra gọi là thữ.

Nhủ anh ngược lại âm nhi chủ sách Thuyết Văn cho rằng: Con người và chim sanh con gọi là nhủ Tam Thương cho rằng: Nhủ là sanh con, nuôi dưỡng con, âm anh ngược lại âm ư danh Tam Thương cho rằng: Con gái gọi là anh con trai gọi là nhi Thích Danh cho rằng: Con người bắt đầu sinh ra gọi là anh nhi, phía trước ngực gọi là anh gọi là bỏ vào phía trước anh là nuôi dưỡng bằng sữa cho nên gọi là anh nhi.

Hữu ách lại viết chữ ách cũng đồng, ngược lại âm yên cách chỗ gọi là ách đó thanh gỗ cong chồng thẳng lên cổ con trâu, ách cũng là cách.

Tiết lậu ngược lại âm tư liệt Quảng Nhã cho rằng: Tiết là đầy tràn ra cũng gọi là phát ra, rò rĩ nước.

Hưng cự đây nói sai, nên nói Hưng ngu chữ hưng mượn âm, ngược lại yên dăng xuất ra từ nước Quan-ôtrà-bà-tha-na, nước kia người thường có thức ăn dồi dào, phương này tương truyền rằng đài hoa sen nhưng phải âm yên ngược lại âm hư diên.

Ngoan xà văn cổ viết chữ nguyên Tự Lâm âm là ngũ quan xà là rắn độc. Thôi báo xưa nay chú giải rằng: Thái nguyên là một tên của loài rắn độc, lớn đó là dài ba thước màu sắc của nó là đen, có thần lực hay khiến cho người mê muội, một tên gọi nữa là Huyền nguyên Hán Thư cho rằng: Huyền ngoan Vi Thiệu cho rằng: Huyền là màu đen, ngoan là loại rắn mối. Trong kinh nói con rắn màu đen, vậy này còn nghi ngờ, mà không nói độc hại người chưa rõ mục đích trong các kinh, cũng viết chữ hũy ngược lại âm vu quỷ là loài côn trùng độc, một thân hai đầu, hai miệng, đầu và đuôi giống nhau, cũng gọi là rắn trun có hai đầu.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 5

Phiêu bạt ngược lại âm bổ mạc bạt là mỏng, bức bách, gió thổi cận kề bức bách gọi là bạt.

Ứ hoại ngược lại âm ư lự sách Thuyết Văn cho rằng: Ứ là tích tụ máu, Quảng Nhã cho rằng: Ứ là bệnh, Văn Luận viết chữ ứ là cặn bã dơ bẩn, bùn đất cặn bã.

Sở thích ngược lại âm thư diệc sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng gieo độc hại, Quan Tây dùng âm này, lại âm hồ các Sơn Đông dùng âm này tức là âm triết ngược lại âm tri liệt Đông Tây thông dụng ngữ này.

Phòng la ngược lại âm lựu hạ thuộc trú đóng phòng thủ, gọi là đi diễn binh lấy sự ngăn cấm phòng ngự, cũng gọi là đi tuần hành, việc này là trái lại chẳng phải.

Tiểu bính lại viết chữ tinh ba chữ tượng hình đều đồng, ngược lại âm bổ tránh bính là chạy tán loạn. Giang Nam nói bính là đi tứ tán rải rác khắp nơi, âm tán ngược lại là âm tán,

Triết lâu trùng tên gọi là tằm ăn lá dâu, cũng gọi là con sâu đo, hoặc gọi là con sâu nắp trong lá dâu, hoặc gọi là khuất bộ tức là sâu đo.

Tô tức ngược lại âm trên hồ theo Thanh Loại cho rằng: Cánh sanh gọi là tô cũng gọi là nghỉ ngơi, lại gọi là canh tức.

Đăng tộ ngược lại âm tồ cố tộ là địa vị ngôi thứ, sách Quốc ngữ cho rằng: Chỗ thiên địa ban phúc lành gọi là tộ Giả Quỳ chú giải rằng: Tộ là phước lộc.

-Quyển 6 không có âm.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 7

Tỳ-đà hoặc nói là Vi-đà đều sai, nên nói là Bại-đà đây dịch là phân ra, cũng gọi là biết, có bốn tên gọi đó là Một gọi A-do đây dịch là mạng, cũng gọi là phương thuốc các việc; hai gọi là Dạ-thù là cúng tế; ba gọi là Bàma đây dịch là đẳng gọi quốc nghi, bói tướng, âm nhạc. Chiến pháp các việc; bốn gọi là A-xà-bà-nã gọi là chú thuật. Bốn việc đây là chỗ Phạm Thiên, nói như là Phạm dũng sanh chủng tử từ Phạm Thiên, bảy tuổi chính là học với thầy, học thành tức là quốc sư, là người chủ chỗ tôn kính Phạm Thiên như Tôn-kỳ-da-bà tiên nhân, lại cũng viết là Bát-bại-đà.

Sở độ ngược lại âm đường các độ là đo lường, Quảng Nhã cho rằng: Độ là đánh giá, cũng gọi là trắc nghiệm.

Chi đề lại cũng gọi là chỉ đế phù đồ đây dịch là tụ tướng, cũng gọi là Lụy Thạch v.v... cao gọi là tướng hoặc nói là phương phần hoặc nói là miếu đều tùy nghĩa mà dịch.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 8

Hình cốt lại cũng viết chữ hình cũng đồng, ngược lại âm hạ định sách Thuyết Văn cho rằng: Hình là cẳng chân, âm hành ngược lại âm hạ mảnh nay Giang Nam gọi hình là hành Sơn Đông gọi hành là oa oa ngược lại âm văn mạnh hình hành đều là chân từ đầu gối xuống, gọi là hai xương ống quyển cẳng chân. Thích Danh cho rằng: Hình là (778) cổ chân, thẳng mà xuống như cọng của vật.

Khoang cốt lại viết chữ khoang cũng đồng, ngược lại âm khẩu hoàn Bì Thương cho rằng: Khoang là xương tận cùng của xương sống, sách Thuyết Văn cho rằng: Khoang là xương đầu trên, Văn Luận viết chữ khoang là chẳng phải thể.

Giao cốt ngược lại âm lực diêu Tự Lâm cho rằng: Bát giao Văn thông dụng cho rằng: Xương chỗ tận cùng của xương sống ở mông đít gọi là bát giao Văn Luận viết chữ liệu chỉ cao tức là chất mở đọng lại. Liệu chẳng phải nghĩa đây dùng.

Ngũ cốc theo sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh cho rằng: Thiên tử đến mùa xuân ăn lúa mạch. Trịnh Huyền cho rằng: Lúa mạch thật có tin tưởng cho giáp, thuộc mộc mùa hạ ăn thúc đậu, thúc đậu thật có tin tưởng cho giáp cứng hoàn toàn thuộc thủy mùa hạ ăn lúa rắc, ngũ cốc, trường mạng thuộc thổ thổ là trung ương, mùa thu ăn rau ma, ma thật có văn lý thuộc kim mùa đông ăn lúa, bông lúa thử tức là nếp dẻo, bông lúa thử có thư thái thoải mái thuộc hỏa đều thuận theo thời mà ăn, lấy sự an tịnh, thư thái cho thân thể tính khí hợp với trời đất.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 9

Cực bỉ ngược lại âm bổ mỹ Bỉ là xấu ác Quảng Thất cho rằng: Bỉ là bị sĩ nhục hổ thẹn, xấu hổ.

Sở bẩm ngược lại âm bổ cẩm sách Thuyết Văn cho rằng: Bẩm là ban tặng cho. Quảng Thất cho rằng: Bẩm là cùng nhau nhận.

Đê đường văn cổ viết chữ định cũng đồng, ngược lại âm Đô-hề âm dưới Đồ-lang sách Thuyết Văn cho rằng: Đê đường là đập bờ đê ngăn nước tràn vào, sách Nhĩ Thất cho rằng: Đề gọi là cây cầu, Lý Tuần cho rằng: Đê là ngăn phòng, cản ngăn âm Hán không có chữ đê cùng Vôi Vi Thiệu cho rằng: Chứa đất làm bờ đê phong tỏa ngăn phòng nước tràn.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 10

Câu lân kinh Hiền Kiếp viết cư luân kinh Đại Ai viết câu luân hoặc là viết cư lân đều là tiếng Phạm nói sai, đây dịch là bổn tế là giải pháp thứ nhất. Trong kinh nói Tôn-giả-tiểu-bổn-tế kinh Phổ Diệu nói: Câu lân đó là giải bổn tế, A-nhã đó là nói đã biết, nói cho đúng giải hiểu rõ suốt thấu, câu lân cũng là họ đây gọi là Kiều Trần Như là sai. Trong kinh Bổn Khởi nói: Ban đầu năm người đó, một gọi là Câu lân; hai gọi là Phã-bệ; ba gọi là Bạt-đề; bốn gọi là Thập-lực-Ca-diếp; năm gọi là Ma-nam-câu-lợi.

Dương đồng ngược lại âm dĩ lương gọi là nấu cho tiêu tan nhừ ra nước gọi là dương dương cũng gọi là biển lớn, sách Nhĩ Thất cho rằng: Dương là đầy tràn. Nói quá nhiều nên đầy tràn ra, đây lấy nghĩa này.

Như cự ngược lại âm kỳ lữ đây ngoại đạo gọi là cái bình tròn giống như cái bầu, không có chân, lấy ba cây gậy chéo vào nhau đưa bình lên, trong các kinh hoặc viết kỳ lập cự hoặc nói là Tam-xoa-lập đều là nghĩa đồng vậy.

----------------------------------

TẠP A TỲ ĐÀM TÂM LUẬN QUYỂN 11

Cơ cẩn văn cổ viết chữ phiếm cũng đồng, ngược lại âm phàm trị ngược lại âm dưới kỳ trấn sách Nhĩ Thất cho rằng: Lúa thóc không chín là cỏ rau mà không chín là cẩn sơ thái Lý Tuần chú giải rằng: Phàm có thể ăn được là thái tức rau cải đều không chín gọi là cẩn lại nữa Xuân Thu Cốc Lương truyện nói rằng: Hai loại cốc không mọc lên gọi là cỏ ba cốc không mọc được gọi là cẩn ngũ cốc không mọc gọi là đại cỏ tức là đói lớn. Thăng đăng là thành, tức là mọc lên được.

Kha-lê-lặc đây gọi là thiên chủ trì lai quả này là vị thuốc có công dụng đến nhiều, như đây nhân gian gọi là sâm thạch hộc v.v... không có chỗ nào mà không nhập vào.

Tuyển tập Tam Thương viết chữ tuyển cũng đồng, ngược lại âm trợ miển Quảng Nhã cho rằng: Tuyển là định tuyển cũng là thuật cũng là nói thẳng ra, chữ thuật lại thị duật thuật gọi là giải thích nghĩa này, nghĩa lý nói giải thích gọi thuật, Nhĩ Thất cho rằng: Thuật là tu sửa tuần hành.

QUYỂN 73

- Âm A-tỳ-đàm-cam-lộ-vị luận hai quyển-Huyền Ứng soạn.

- Tùy Tướng Luận một quyển-Huyền Ứng.

- Tôn-bà-tu-mật Luận mười quyển-Huyền Ứng.

- Tam Pháp Độ Luận hai quyển-Huyền Ứng.

- Nhập A-tỳ-đạt-ma Luận hai quyển-H. Lâm.

- Thành Thật Luận hai mươi quyển-Huyền Ứng.

- Lập Thế A-tỳ-đàm Luận mười quyển-Huyền Ứng.

- Giải Thoát Đạo Luận mười hai quyển-Huyền Ứng.

- Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm Luận hai mươi hai quyển-Huyền Ứng.

- Ngũ-sự-tỳ-bà-sa Luận hai quyển-Huệ Lâm.

- Bại-bà-sa Luận mười bốn quyển-Huyền Ứng.

- Tam Di Để Luận ba quyển-Huệ Lâm.

- Phân Biệt Công Đức Luận bốn quyển-Huyền Ứng.

- Tứ Đế Luận Bốn quyển-Huyền Ứng.

- Bích-chi-phật Nhân Duyên Luận hai quyển-Huyền Ứng.

- Thập Bát Bộ Luận một quyển-Huệ Lâm.

- Bộ Vị Chấp Luận một quyển-Huệ Lâm.

- Di Bộ Tông Luận một quyển-Huệ Lâm.

- Bên phải mười tám luận một trăm ba mươi ba (133) quyển đồng âm với quyển này.

A-TỲ-ĐÀM CAM LỘ VỊ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng soạn.

Lỗ ô đây là chữ Hán cổ ngược lại âm hồ quan đây nên viết chữ cát ngược lại âm La-hạp.

Tâm khấu ngược lại âm tiết hầu sách Thượng Thư cho rằng: Khấu là tặc gian cừu, sách Phạm Ninh Tập giải thích rằng: Gọi là một nhóm người đi công phá, cướp giật. Nay lấy nghĩa này, sách Thuyết Văn cho rằng: Khấu là bạo, Quảng Nhã cho rằng: Khấu là cướp giật, chữ viết từ bộ hoàn đến bộ chi âm phiếu ngược lại âm thất diệu.

Chí thâu ngược lại âm dữ thị kỹ chí hai âm dựa theo chữ chí là hại ghét.

-Quyển Hạ Trước không âm.

*******

TÙY TƯỚNG LUẬN

Sanh tra ngược lại âm trắc gia gọi là trái nghi tra, giống như cái ô lặc, hình lớn như cái bát, có mùi vị, không trơn láng, giống như rượu không thể ăn nhiều, Luận Văn viết chữ tra chẳng phải thể chữ.

Thấu khứu ngược lại âm sưu trứu ngược lại âm dưới khưu cữu nay Giang Nam nói trái chín trên rừng Cầm Nại, làm thành bột khô gọi khứu cũng gọi là lương thực khô.

Tam lạt Tự Uyển viết chữ thu cũng đồng, ngược lại âm Lô-cát Văn thông dụng cho rằng: Rất cay gọi lạt Giang Nam nói cay là lạt Trung Quốc nói cay là tân Văn Luận viết chữ thích nghĩa ngược lại quái lạ, thích chẳng phải thể chữ đây dùng.

*******

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Ma-du ngược lại âm Dĩ-chu tên người dựa theo chữ du là biến đổi.

Đường nhĩ ngược lại âm sắc hành Thiên Thương Hoét ghi rằng:

Đường là nhìn thẳng.

Ý-hồ ngược lại âm Ư-ký sách Nhĩ Thất cho rằng: Ý là tốt đẹp, chữ viết từ bộ ế Thanh Tứ Văn Luận viết chữ khánh là sai lầm thiếu sót vậy.

Bạt tranh ngược lại âm văn manh.

Tiển hoạt ngược lại âm cổ hoạt Thích Danh cho rằng: Tiển là tiến vào nghĩa này vốn gọi đầy đủ thể chữ này gọi là cán cán tức là ngọn gọi là hoạt hội cũng gọi là chui của cây cung, cán của cung tên. Hoạt là bên tay cầm, cán cầm gọi là xoa hình giống như lưỡi liềm.

Ô-sa ngược lại âm nhất hồ cái ao lớn gọi hoàng ao nhỏ gọi là ô sách Thuyết Văn cho rằng: Ô là ao nước đục không chảy.

Môn-khổn lại viết chữ khổn cũng đồng, ngược lại âm khổ bổn sách Lễ Ký cho rằng: Nói rằng ở ngoài không vào được nơi cửa trong là khổn lại chú giải rằng: Khổn là cửa hẹp.

Nha pháo ngược lại âm bành hiếu sách Thuyết Văn cho rằng: Trên mặt nóng nhiệt nổi mụn, nay lấy nghĩa này, Văn Luận viết chữ bao là chẳng phải.

Xà hủy văn cổ viết chữ trùng quỷ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm hồ quỷ gọi là độc trùng. Hàn Phi Tử Truyện cho rằng: Trùng có loài rắn một chân có hai miệng tranh nhau ăn, tranh nhau cắn, tranh nhau giết hại.

Đàn-sấn hoặc nói đạt-sấn ngược lại âm Xoa-cẩn đây dịch là tài thí, pháp thí, được phước báo, nên gọi là Đạtsấn theo Tây Vực ký ghi rằng: Nói đúng gọi là Đạt-sấnnã hoặc nói là Đà-khí-ni giáo lý dùng tay hữu, tức tay phải mà thọ nhận người khác, thí cho là khiến cho sanh phước cho nên theo đây mà lập thân vậy.

-------------------------------------

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 2-3

Môn quắc văn cổ lại viết chữ hạp cũng đồng, ngược lại âm vu vực lại là âm vực sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chật hẹp gọi quắc Quách Phác cho rằng: Cửa hẹp âm trật ngược lại âm thiên kiết.

Xác thiên lại viết chữ bức cao hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm khẩu giác sách Chu Dịch (778) cho rằng: Khô cứng tự nhiên là khác đi. Theo Hàn Khang Bá cho rằng: Xác là cứng, dáng vẻ cứng tự nhiên, Văn Luận viết chữ xác là chẳng phải thể.

Nãng tích ngược lại âm nô lang sách Nhĩ Thất cho rằng: Nãng là lâu rồi. Giống như qua lâu rồi cổ xưa.

Táo quán ngược lại âm công hoãn sách Thuyết Văn cho rằng: Táo là rửa tay, phàm tẩy rửa vật đều gọi là quán nhưng không nói rửa tay.

Oán cừu văn cổ viết chữ thuật cũng đồng, ngược lại âm cự ngưu oán là vợ chồng gặp nhau gọi cừu sách Nhĩ Thất cho rằng: Cừu là thù

-------------------------------------

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 4

Tập bất ngược lại âm trổ lập Tam Thương cho rằng: Tụ tập, sách Thuyết Văn cho rằng: Theo chữ tập là cất giấu, thâu gom.

Đề lệ ngược lại âm tha lễ tên cây.

-------------------------------------

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 5

Phiếu khiên ngược lại âm bệ diệu âm dưới khứ yên tên Tam-muội.

Quyên quyên ngược lại âm cổ huyền Tự Lâm cho rằng: Dòng nước nhỏ gọi là quyên quyên cũng là trong sạch.

Sổ-át văn cổ viết chữ các cũng đồng, ngược lại âm ư hạt sách Nhĩ Thất cho rằng: Át là ngăn chặn, gọi là ngăn chặn sự phản nghịch là át cũng gọi là che trùm, trấn át.

Vi vi đúng nghi là chữ vi ngược lại âm vu phỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Vi là ánh sáng rực rỡ cũng là đỏ rực.

-------------------------------------

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 6

Ngu tráng ngược lại âm trúc hạng Lý Đăng Thanh loại tập âm là sửu hạng tráng cũng là ngu đần độn ngu dại.

Ngoan lỗ ngược lại âm ngũ hoàn âm dưới lực cổ sách Luận Ngữ âm là săm Khổng An Quốc cho rằng: Lỗ là ngu độn Văn Luận viết chữ lỗ là chẳng phải thể.

Phân để ngược lại âm phủ bần âm dưới văn cổ viết chữ nể cũng đồng, ngược lại âm trực cơ đây nói sai, nói đúng Tãn-trà-đà-tã-tà đây dịch là đoàn cùng với xưa dịch là Cấp cô độc giống như là tên khác Tu-đạt-đa Tu-đạtđa đây là thiện dữ.

Minh thệ ngược lại âm phi kinh sách Lễ Ký cho rằng: Chư hầu nhận việc đến phàm trong nước có nghi ngờ đồng hội mà thường là lập thệ ước nên gọi là minh. Nghê lộc lại viết chữ tề cũng đồng, ngược lại âm cát hề sách Nhĩ Thất cho rằng: Con nai cái, nghê tên gọi chung các con thú con, thú nhỏ ám hà là âm da.

Sử tuyển ngược lại âm tợ nhuyễn sách Vận Tập âm là dực tuyển sách Thuyết Văn cho rằng: Bú mút, bú sữa, cũng là hút vào uống vào.

-------------------------------------

TÔN BÀ TU MẬT SỞ TẬP LUẬN QUYỂN 7

Trừ bộ ngược lại âm trực ư gọi là trù trừ dùng dằng không chịu tiến tới, cũng là do dự, âm trù ngược lại âm trực lưu âm xúc ngược lại âm trì lục.

- Quyển 8-10 đều trước không có âm.

*******

TAM PHÁP ĐỘ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

- Không có âm giải thích.

QUYỂN HẠ

Tỏa trì ngược lại âm thủ ngọa sách Thuyết Văn cho rằng: Tỏa là chém chặt bị thương, theo chữ tỏa giống như chém là chặt.

Giới hoán ngược lại âm hồ giới sách Vận Tập viết giới giới hạ Thương Hoét giải thích văn cổ viết ai nhuế tiếng than buồn giận, Văn thông dụng viết hội đại ngữ nói lớn tiếng, giới giống như la mắng, giận, mắng mỏ, đều là vậy.

Y khí ngược lại âm ất giới sách Thuyết Văn cho rằng: Y là tiếng than, thở dài.

*******

NHẬP A TỲ ĐẠT MA LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Sa-môn Huệ Lâm soạn.

Tuấn phương ngược lại âm sở lực theo chữ tuấn phương đó là giữ người trong và ngoài nói chuyện với nhau, bốn mặt đều bằng nhau, gọi là đốn phương, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điền đến bộ nhân đến bộ truy chữ hội ý giống như thửa ruộng vuông bốn góc.

Tư lược ngược lại âm trên tinh da cũng âm dữ-sa đều đồng, theo chữ thố tư đó là giăng lưới bắt thỏ, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Đan lưới bắt thỏ ting ting là vậy, theo truyện nói rằng: Thố tư tức là con thỏ đã sa lưới. Quách phác chú giải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tư giống như che trùm trên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ võng thanh thả ngược lại âm dưới cường lượng theo chữ lượt đó là bắt cầm thú, nói cho đủ là dùng cây cung gỗ lớn che trên tấm lưới bên đường bắt con thú, có cơ hội nảy sinh ra con thú đi bất ngờ bị tóm lấy, sách Thuyết Văn viết từ bộ cung đến bộ lược thanh tĩnh.

Tàm quý ngược lại âm trên tạng hàm ngược lại âm dưới quy vị văn trước âm nghĩa đã giải thích rồi đây không giải thích trùng lấp nữa Văn Luận viết chữ tàm quý cũng thông dụng.

Dũng hãn ngược lại âm hàn ngạn sách Thuyết Văn cho rằng: Hãn là dũng mãnh, hung hãn, chữ viết từ bộ tâm thanh hạn hoặc là từ bộ thủ viết thành chữ hãn hoặc từ bộ phộc bộ khuyển viết thành chữ hãn cũng đều thông dụng.

Giao tất ngược lại âm trên giáo hào sách Khảo Công Ký cho rằng: Khất keo nấu bằng da nai màu xanh trắng, keo da ngựa màu trắng đỏ, keo da trâu màu cũng đỏ, keo da chuột màu đen, keo da cá, keo sừng là màu vàng. Trịnh Huyền cho rằng: Đều gọi là lấy các da thú nấu làm thanh keo, hoặc dùng sừng mà nấu thanh keo. Cố Dã Vương cho rằng: Keo là chỗ lấy liên tục các da con vật, cho nên dính liền với nhau. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Keo là dán chắc chắn, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh giao âm giao ngược lại âm kinh do.

Trù trù ngược lại âm trên trường lưu lại cũng âm trì đều thông, theo Hàm Thi truyện cho rằng: Yêu thương nhưng không gặp dùng tay đè ấn xuống, dùng dằng, chần chừ, giống như do dự, hoặc viết là tri trì giống như bồi hồi đi đi lại lại. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ túc chữ hình thanh.

-------------------------------------

QUYỂN HẠ

Ai-y-ô âm trên là ai ngược lại âm A-khả âm kế là y ngược lại âm Y-dĩ âm dưới là ô ngược lại âm Ô-cổ ba chữ đều chữ phạm âm, Văn Luận viết ai ế hai chữ, theo Tả Truyện cho viết sai thoát ra một chữ ô ý của luận nói rằng: Tên gọi của tam thân tức là ba thân, câu văn chữ thân đây gọi là ba, các khác biệt như Ai-y-ô ba chữ, thí dụ như là Ma-hê-thủ-la Thiên vương là vua của trời Mahê-thủ-la. Trên mặt có ba con mắt, trong kinh Niết-bàn cũng nói rõ ràng, nghĩa này thể cũng là một, dùng riêng thiếu đi một chữ, không thể cộng thành một nghĩa, gọi là tam tụ thân vậy.

*******

THÀNH THẬT LUẬN

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng.

Trác phủ văn cổ viết chữ trác cũng đồng, ngược lại âm trúc giác sách Thuyết Văn cho rằng: Trác là chặt đốn, trác là chặt bằng búa.

Đam phù ngược lại âm trượng âm tên của ngoại đạo, theo Phật mười hai năm bắt đầu là căn thục.

-Quyển 2, 3 Trước không có âm.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 4

Tề-nạch lại viết chữ di cũng đồng, ngược lại âm tử lễ Quảng Nhã cho rằng: Tề là lọc nước, gọi là tề dùng vải thưa ép ra nước, Văn Luận viết chữ tề ngược lại âm tử nghệ tề là nắm kéo ra, bài trừ, chẳng phải nghĩa đây dùng, ngược lại âm dưới nô cách nô trác hai âm nạch là nắm, cầm, bắt lấy, nắm trong tay, âm lộc là âm lộc.

Đông-tỳ lại viết chữ đông hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm đồ đông theo Thanh Loại cho rằng: Viết chữ nông sách Thuyết Văn viết chữ đông gọi là đau nhức âm dưới phương nhị Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tay chân bị tê cứng, Văn Luận cho rằng: Bị bệnh tê thấp, nay nói thời tiết lạnh nên bệnh phong tê đều là vậy.

Mạo mượn âm mạo mạo là sầu muộn, dáng điệu như chết rồi vì vậy mà gọi tên.

Dược thạch trị bệnh gọi là dược thời thượng cổ người ta lấy đá mài làm kim để trị bệnh, thời nay người ta lấy thiết chì mài làm kim đều gọi là để trị chữa bệnh vậy.

Cổ-phù chiếu theo định văn cổ quan thượng thư viết chữ bao phù hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm phù cưu gọi là cái dùi trống, sách Thuyết Văn cho rằng: Bao là đánh trống, cái cán dùi trống.

Biều-chước lại viết chữ biều cũng đồng, ngược lại âm tỳ diêu Tam Thương cho rằng: Biều là cái bầu cái thìa. Khưu Nam gọi là biều là chức người Thục nói chức là cái bầu đựng nước, âm dưới lại viết chữ chước cũng đồng, ngược lại âm thị ngược có thể dùng cái hộc múc thức ăn đó gọi là chước tức cái thìa, cái muỗng. Âm chức là âm thức âm lễ ngược lại âm lang để.

Nhãn bề ngược lại âm hổ bề Chương Tiểu Học cho rằng: Bề là cái lược dày, nay gọi là cái lược cấm lông mi, lược chải đầu đều là làm vậy.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 5

Tương tranh lại viết chữ tranh ba chữ tượng hình đều đồng vậy, ngược lại âm văn canh tranh là va chạm, cũng gọi là nô đùa va chạm với nhau.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 6

Chất cốc ngược lại âm chi dật âm dưới là cổ lộc gông cùm ở tay gọi là chất gông cùm ở chân gọi là cốc cũng gọi là nữu giới tức gông cùm xiềng xích.

Như tiệp sách Thuyết Văn viết chữ hiệp Thích Danh viết chữ tiệp, cũng đồng, ngược lại âm tử diệp tiệp là lông mi mắt, giữ Sơn Đông điềm ly âm tử cập Văn Luận viết chữ diêm điệp hai chữ tượng hình là chẳng phải.-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 7

Xuyết-điểu ngược lại âm trúc quát Nhĩ Thất chú giải rằng: Xuyết lớn như chim bồ câu, hoặc là nói giống như chim cú gáy, cũng giống như con gà mái, chim trĩ, chân giống chân chuột, không có ngón sau, đuôi dài gọi là lạo chim cảm cấp, bay từng đàn, thường ở phương bắc, sa mạc, thịt nó rất ngon, tục gọi là chim đột quyết, giống như chim sẽ, thường sanh sống trên tổ cao, âm cảm ngược lại âm hồ lam.

-Quyển 8 Trước không có âm

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 9

Xá-lư ngược lại âm lực cư gọi là nhà riêng, cũng gọi là nhà trọ, chỗ nghỉ nhờ. Vua là trong nhà này chỗ gọi là tránh nóng, lạnh, đến mùa xuân, mùa thu thì đi, đến mùa đông mùa hè thì đến ở.

Nhập chi ngược lại âm chữ di gọi là cái bình của ngoại đạo tròn giống như cái bầu, mà không có chân, lấy ba cây gậy chéo vào nhau mà đưa cái bình lên vậy, trong các kinh hoặc nói cầm ba cây gậy đứng chống đỡ thật kỳ lạ. Hoặc là nói cây gậy đứng xen vào nhau chống đỡ đều là đúng vậy, Văn Luận viết chữ chi này là chẳng phải.

Kim thương ngược lại âm thiên dương Thiên Thương Hoét giải thích văn cổ rằng: Hai cây thẳng bén nhọn gọi là (780) thương sách Thuyết Văn cho rằng: Thương là cây súng bắn rất xa, Văn Luận viết chữ phù là chẳng phải thể vậy.

Toàn mâu ngược lại âm thô loan toàn gọi là ném lao âm dưới lại viết mâu hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm mạc hậu sách Thuyết Văn cho rằng: Cây mâu dài hai trượng.

Cẩu giảo lại viết chữ nạo cũng đồng, ngược lại âm ngũ giảo sách Thuyết Văn cho rằng: Nạo là cắn nhai xương, Quảng Nhã cho rằng: Nạo là cắn nhai Giang Nam chú giải rằng: cắn gọi là giảo.

Điện phúc ngược lại âm tợ duyên sách Thuyết Văn cho rằng: Nước xoáy sâu âm dưới lại viết phúc phục ba chữ tương hình cũng đồng, ngược lại âm phò phúc là sâu thẩm cũng gọi là nước xoáy.

Tài cán ngược lại âm tắc tài ngược lại âm dưới văn cổ viết hiến cán mộc ba chữ tượng hình cũng đồng, nay viết chữ khái cũng đồng, ngược lại âm ngũ hạt sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cán là dư thừa, nói là cây mọc dư thừa, cũng gọi là trồng cây quá nhiều chen lấn nhau mà mọc lên.

-Quyển 10 không có âm giải thích-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 11

Huân tân ngược lại âm hứa vân Thiên Thương Hoét cho rằng: Huân là loại rau có chất cay nồng, phàm là vật có mùi cay nồng đều gọi là huân.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 12

Cô quỳnh văn cổ viết chữ quỳnh hai chữ tương hình cũng đồng, ngược lại âm cư dinh không có cha gọi là cô không có con gọi là độc không có anh em gọi là đơn quỳnh quỳnh là không có chỗ nương nhờ, chữ viết từ bộ tấn đến bộ dinh thanh tĩnh âm tấn ngược lại âm truy nhuận.

Yết-tử lại viết chữ yết hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm u yết Tự Lâm cho rằng: Bệnh thương nhiệt gọi là thương nhiệt phiền muộn muốn chết đi. Lại cũng gọi là bệnh thương phong đỏ bầm tím gọi là mất sắc gọi là yết tức là bệnh cảm nắng, trúng nắng, nên viết chữ này.

-Quyển 13, 14 Trước không có âm.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 15

Bất-thí ngược lại âm thí thị Thiên Thương Hoét ghi rằng: Không chỉ nhiều như vậy.

Nhất hoành văn cổ viết chữ hoành hai chữ tượng hình cũng đồng, nay viết chữ hoành cũng đồng, ngược lại âm cổ hoàng theo Thanh Loại cho rằng: Viết chữ hoành là trục xe ngang dưới, nay gọi là thang sàng xe bậc thang bước lên xe, cùng là thanh gỗ ngang dưới xe đều gọi là quang.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 16

Viên hầu lại viết chữ viên cũng đồng, ngược lại âm vũ phiền viên giống như loại khỉ mà lớn hơn, tay nó dài, màu sắc có đen, có vàng, tiếng kêu rất buồn thảm, xưa nay chú giải rằng: Loài vượn sống năm trăm (500) tuổi hóa làm giả nhân sống ngàn tuổi âm hoắc ngược lại âm cư phược.

Trập trùng ngược lại âm trì lập sách Thuyết Văn cho rằng: Trập là loài thú ẩn giấu mình, mùa đông ẩn mình bất động, tức là loài thú lông thưa ngắn, như con gấu, con bi v.v... đều gọi là trập.

-------------------------------------

THÀNH THẬT LUẬN QUYỂN 17

Khảo kiểm ngược lại âm khổ lão gọi là tra hạch chất vấn.

Thổ phong ngược lại âm bổ long gọi là mô đất cao lên làm ranh giới gọi là phông gọi là đất gom lại thành mô cao.

Tắc-hy lại viết chữ hy cũng đồng, ngược lại âm hư y

Tự Lâm cho rằng: Hy là làm cho khô ráo sách Phương Ngôn cho rằng: Hy là bạo ngược, giữa bắc yến hải đảo gọi bạo ngược dữ tợn là hy.

Dụng sản lại viết chữ sản cũng đồng, ngược lại âm sơ nhãn sách Thuyết Văn cho rằng: San bằng, Văn thông dụng cho rằng: Tấn công, công phá giết sạch gọi là sản sản là cây đao vuông có cán cầm.

Bao noãn thể chữ viết chữ bao lại viết chữ bao cũng đồng, ngược lại âm âm bổ mạo Văn thông dụng cho rằng: Cái trứng nằm ẩn trong khe nước. Bắc Yến gọi là bao Giang Nam gọi là hồ lô âm lô ngược lại âm ương phú âm phụ ngược lại âm bổ hựu.

Xác xuất lại viết chữ xác cũng đồng, ngược lại âm khẩu giác ngô hội giang âm là khốc gọi là các vỏ trứng bên ngoài nó cứng, trên trứng giữa gọi là xác.

-Quyển 18, 19, 20 Trước không có âm.

*******

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Tỳ-xá-khư hoặc gọi là Tỷ-xà-khư đây dịch là biệt chi tức là để túc đã sinh ra gọi là sở trục túc là tên, theo Tây Vực nhiều khi lấy đây làm tên.

Lộc tử mẫu tiếng Phạm nói là Mật-lợi-già-la lại cũng gọi là Lộc-ma-đa lại cũng gọi là Mẫu-bã-la-sa-đà đây dịch là đường cũng nói là điện xưa gọi là Ma-già-la-mẫu gọi là đường đó là sai lược vậy.

Ưu hống ngược lại âm ư ngưu âm dưới là hồ cẩu đều là tiếng rống của các loài thú.

Diễm phù ngược lại âm dĩ nhiễm hoặc là diêm phù hoặc gọi là chiêm phù hoặc nói là thiềm bộ đều là tiếng Phạm chuyển đọc sai. Diễm phù đó là từ gốc cây mà làm tên gọi, chữ đề đó là nói lược nên nói là Đề-bệ-ba đây dịch là châu.

Lưu tiết ngược lại âm lực chu Văn thông dụng cho rằng: Thịt nổi khối u lên gọi là lưu gọi là thịt nổi giống như lóng cây mắc lóng, cũng gọi là bệnh ung thư.

Chỉ giáp lại viết chữ giáp cũng đồng, ngược lại âm cổ hộp sách Thuyết Văn cho rằng: Hữu giáp, giáp tức là cánh tay, kế đến dưới viết chúng nghi là chữ giáp này.

Tũng thân văn cổ viết chữ tũng ba chữ tượng hình, nay viết chữ tũng cũng đồng, ngược lại âm tu phụng, sở tụng hai âm Quảng Nhã cho rằng: Tũng là trên cao, nhảy lên cao.

Thi-đà-lâm nói cho đúng là Thi-đa-bà-na đây gọi rừng lạnh, rừng này u tối mà còn giá lạnh cho nên gọi tên. Trong thành Vương Xá người chết nhiều đưa vào trong rừng này, nay gọi chung là chỗ bỏ thây ma. Gọi là Thi-đà-lâm đó là tên gọi của khu rừng kia vậy.

Cung thiềm theo Thanh Loại viết chữ chiêm cũng đồng, ngược lại âm thời điểm gọi là trợ giúp Tự Thư cho rằng: Thiềm là đầy đủ, gọi là chung quanh đầy đủ.

Dưỡng di sách Thuyết Văn âm là tù chí di là lương thực Quảng Nhã cho rằng: Lương thực khô Thiên

Thương Hoét giải thích văn cổ cho rằng: Di là no rồi, gọi là ăn cùng với người gọi là di Văn Luận viết chữ di ngược lại âm dực chi chữ cổ, chữ giả tá, Văn thông dụng là chẳng phải thể.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 2

Lưu đọa ngược lại âm lực cứu Thiên Thương Hoét giải thích chữ cổ cho rằng: Lưu là nước nhỏ xuống.

Lộ chữ ngược lại âm chi dữ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Châu nhỏ, cồn cát nhỏ, đảo nhỏ là chữ Lý Tuần gọi là bốn mặt đều có nước độc riêng có một cao lên có thể cư trú được là chữ.

Lê hoa văn cổ viết chữ mộc hoa hai chữ tượng hình cũng đồng, nay viết chữ hoa văn cổ cho rằng: Chữ này khác lạ hiếm thấy kỳ lạ lại viết chữ ngu cũng đồng, ngược lại âm dưới là huyền qua lê là cây đao kiếm sách Thuyết Văn nói hai cây kiếm hai đầu nhọn.

Giang bồ ngược lại âm thất hộ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Đây là tĩnh nhơ sách Hoài Bồ Truyện nói rằng: Bồ là bến nước.

Ma lệ chữ cổ nay viết chữ lệ cũng đồng, ngược lại âm lực chế Kinh Sơn Hải nói rằng: Đá mài dao trên núi phần nhiều có đá mài dao. Quách Phác cho rằng: Tức là ma thạch sách Thượng Thư cho rằng: Như loại kim dùng các loại đá để mài Khổng An Quốc cho rằng: Loại đá mịn gọi là lệ đều có thể mài dao, mài kiếm âm chỉ là âm chỉ.

Khanh tĩnh văn cổ viết chữ tĩnh hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm từ tính Quảng Nhã cho rằng:

Cái hầm đào xuyên qua đất, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái hố hầm lớn sách Chu Lễ cho rằng: Người ta đục xuyên đá như cái cối. Trịnh Huyền cho rằng: Đào xuyên qua đất làm hầm chỗ gọi là phòng ngự thú cầm, mảnh hổ hung hãn hoặc gọi là nhảy vượt qua mà rơi xuống hầm. Khi trắc lại viết chữ khi ba chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm khưu tri gọi là không chánh, sách Thuyết Văn cho rằng: Khi là nguy hiểm, nghiêng lệch một bên không an toàn, không thể đứng lâu được.

Phong sái ngược lại âm sửu giới loài côn trùng độc hại. Sơn Đông gọi là con bò cạp, Thiển Tây gọi là bò cạp là sái âm lạt ngược lại âm chủy hạt lực lực hạt hai âm.

Ti nghê lại viết chữ ty nghê hai chữ tượng hình. Tam Thương cho rằng: Viết chữ bi nghê hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm phổ mễ ngũ lễ Quảng Nhã cho rằng: Bi nghê là bức tường trong của người nữ, Bì Thương cho rằng: Bức tường nhỏ trên thành cao, Thích Danh cho rằng: Ty nghê là bức tường trên thành, trên bức tường có lỗ hỏng, chẳng phải thường cũng nói là bi là trợ giúp trên thành cao, hoặc gọi là bức tường của người con gái, nói bức tường này nhỏ so với bức tường ngoài thành, như là người con gái với người quân tử, hoặc gọi là diệp là bức tường thấp trên thành, lấy nghĩa này nó trùng lấp vậy.

Bảo sách ngược lại âm hựu bách sách Thuyết Văn cho rằng: Sách la bện gỗ đứng, Văn thông dụng cho rằng: Làm bức tường là hàng rào.

Phiến dạng ngược lại âm kích kiếm ngược lại âm dưới là dực thượng theo chữ phiếm dạng đó là rập rềnh, nước dao động.

Bảo hàm ngược lại âm hồ giam gọi là chứa nhiều kinh sách tạp vật v.v... gọi là hàm văn lượng viết hàm ngược lại âm hồ cam hàm là nhuận trạch trơn ướt thấm nước, hàm chẳng phải nghĩa đây dùng.

Tích đệ ngược lại âm tích mịch ngược lại âm dưới tha hề sách Phương Ngôn cho rằng: Con dã thú nhỏ mà hay lặn dưới nước Nam Sở gọi là tích đệ. Loại thú này lớn đó gọi cốt đế mở của nó có thể dùng dao cắt làm dinh dưỡng.

Thủy tiền lại viết chữ tiệt cũng đồng, ngược lại âm tử kiếm Văn thông dụng cho rằng: Nước thấm một bên gọi tiền Giang Nam là tử thả.

Tự truy lại viết chữ chùy cũng đồng, ngược lại âm trực ngụy sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng sợi dây chỗ treo lên gọi là ấn giữ yên Quảng Nhã cho rằng: Truy là sợi dây lớn cột đè ép trên trấn giữ chỗ chật hẹp.

Âu ca lại viết chữ âu cũng đồng, ngược lại âm ư hầu sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng ca gọi là âu Quảng Nhã cho rằng: Âu là vui vẻ, sách Nhĩ Thất cho rằng: Bài hát ngắn không có dương khúc gọi dao ca dao.

Trụ sở ngược lại âm sở cử sách Hoài Nam Tử cho rằng: Mây phủ che chân núi bốc lên sương mù làm ướt trụ cột đá. Hứa Thúc Trọng cho rằng: Người nước Sở gọi là trụ liêu là sơ tức chợ búa, âm ngược lại âm tư diệc.

Thị triền ngược lại âm trực liên sách Lễ Ký cho rằng: Nơi chợ búa đông đúc người mà không dẹp được. Trịnh Huyền cho rằng: Thị triền là chợ chứa đồ vật mua bán đổi chác. Triền cũng là chỗ ở, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Hải Đảo Đông Tề gọi chỗ ở là triền.

Gia thanh hoặc là viết chữ hà cũng đồng, ngược lại âm cổ hà nay gọi nhạc khí, trong dùng lá lau vấn lại mà thổi, vì vậy mà gọi tên.

Truyền giác ngược lại âm trì nghi ngược lại âm dưới cổ học theo truyền giác gọi là rui nhà vật rộng tên gọi khác là giác âm giác là âm giác âm suy là âm suy âm lạo là âm lão.

Trì chiểu ngược lại âm chi nhiễu Thiên Thương Hoét cho rằng: Chiểu là cái ao.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 3

Hoa hàm lại viết chữ hàm cũng đồng, ngược lại âm hồ cảm gọi là hoa ở ra còn hàm tiếu.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 4

Đề-đầu-lại-sá hoặc nói là Đề-đa-la-sá lại nói Đệ-lêđa-hạt-la-sá đây dịch là trì quốc đó là người chủ lãnh, Kiền-hạt-ba và Tỳ-xá-xà hoặc gọi là Tý-xa-giá gọi là trong ngã quỉ là hơn cả.

Nãi-chí ngược lại âm Nô-cải sách Nhĩ Thất cho rằng: Nãi cũng là chữ nải Quách Phác cho rằng: Nải cũng là chữ nải Thiên Thương Hoét cho rằng: Là đi xa đến.

Tỳ-lưu-lặc-xoa hoặc gọi là Tỳ-ly hoặc gọi là Tỳ-lâulặc-xoa hoặc nói là Tỵ-lưu-trà-ca đây dịch là tăng trưởng, Chủ-lãnh-cung-bàn-trà và bế-lê-đa-cung-bàntrà, (781) đó hoặc gọi là Cưu-bàn-trà đó là hình đầu đều giống nhau gọi là Đông-qua-bế-lê-đa đó gọi là Tích-lêđa. Trong ngã quỉ là kém hơn hết.

Tỳ-lưu-bác-xoa hoặc gọi là Tỳ-lữ-bác-xoa hoặc gọi là Tỷ-lưu-ba-a-nhân. Đây dịch là tạp ngữ hoặc nói là Xũ-nhãn là thủ lãnh loài rồng và gọi là Phú-đơn-na Phúđơn-na đó là loài ngã quỷ trong loài ngã quỷ hôi thối hơn cả.

Tỳ-sa-môn hoặc nói là Tỳ-xá-phệ-bà-nã đây dịch là Ly-văn cũng gọi là Phổ-môn hoặc gọi là Đa-văn vị vua này rất giàu có vật báu tự nhiên là chủ của loài Dạ-xoa, ngược là Dạ-xoa-la-sát. Đây gọi là thương tổn cũng gọi là làm thương tổn hại đến người La-sát hoặc gọi là Laxoa-sa.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 5

Phan-xí văn cổ viết chữ chí cũng đồng, ngược lại xướng chí Văn thông dụng tủ ký cho rằng: Xí tức là cờ xí, quảng Nhã cho rằng: Xí tức là cái phướn, cái phan, Mặc tử cho rằng: Xí là bức trướng vải hoặc là lụa viết lời chúc mừng, hoặc chia buồn dài một trượng năm tấc rộng là nữa bức.

Châu-la đây dịch là nhỏ, hoặc gọi là búi tóc nhỏ.

Phủ phức ngược lại âm phương mục bổ cứu hai âm sách Phương Ngôn cho rằng: Phức hoặc gọi là bức sách Thuyết Văn cho rằng: Phức là cái nồi mà miệng nồi lại to lớn. Tam Thương cho rằng: Phức là cái nồi nhỏ âm bức là lịch.

Hý-giả lại viết chữ hy hý hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm hứa nghi sách Phương Ngôn cho rằng: Cái bầu đựng nước hoặc gọi là hý nay Giang Nam gọi là chước tức là cái muỗng là hý Tam Thương cho rằng: Là cái bầu đựng nước, cái gáo múc nước, Văn Luận viết chữ hy là chẳng phải thể.

Tần ngưu âm tần Tử Lộ cho tên của con trâu.

Biển lận ngược lại âm bì miến sách Thuyết Văn cho rằng: Biện là nhỏ chật hẹp, sách Nhĩ Thất cho rằng: Nóng nảy, gấp gáp, chật hẹp.

-Quyển 6 Trước không có âm.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

Binh ty lại viết chữ ty cũng đồng, ngược lại âm tư di Quảng Nhã cho rằng: Ty gọi kẻ sai khiến, thân mạng mình để cho người ta sai khiến, Tự Thư cho rằng: Ty là người phục dịch cũng gọi là kẻ thấp hèn, Hán Thư cho rằng: Ty là người đầy tớ, nô bộc, Trương Yến cho rằng: Ty là nhỏ bé, Vi thiệu cho rằng: Là người chẻ củi, chăn ngựa, nấu nước thức ăn dâng lên gọi là cung dưỡng.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 8

Sơn khái ngược lại âm khổ cái sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng đá va chạm cũng gọi là tiếng đá đập vào nhau rất lớn. Nay Giang Nam phàm là nói đập đá cho vỡ vụn ra gọi là khái cũng gọi là đập phá đá ra.

Phiên phủ ngược lại âm phủ viên Bì Thương cho rằng: Phiên là cái xẻng.

Như sam ngược lại âm sở nham gọi cắt cỏ, theo Mao Thi Truyện rằng: Sam là cái xẻng trừ cỏ.

Thống lạt ngược lại âm lực đạt Văn thông dụng cho rằng: Rất cay gọi là lạt Văn Luận viết chữ lạt chẳng phải đúng thể vậy.

Phanh sát ngược lại âm phổ canh phanh là nấu nước, sách Phương Ngôn cho rằng: Phanh là đun lửa nóng lên, giữa nung nhạc và Nam Trần Dĩnh gọi phanh là nghi lễ phàm là nấu nướng dâng thức ăn gọi là phanh.

Như đạn ngược lại âm xác nhàn Bì Thương cho rằng: Con chó cắn theo chữ phệ giống như là cắn, chữ viết từ bộ khuyển.

Tứ lăng ngược lại âm lực tăng sách Thuyết Văn cho rằng: Lăng là vật có góc cạnh, âm cô là âm cô Văn thông dụng cho rằng: Cũng là vật có bốn góc tức là tứ cũng là thăng, cũng là vật có tám góc cạnh.

Khoa đằng ngược lại âm khổ hòa sách Hải Chí cho rằng: Khoa là tên của loại dây leo chằng chịt.

Lang lý ngược lại âm diêm chưng lăng lý tên của loại cá chép có chân xuất ra đất Phương Nam.

Hoặc lãn ngược lại âm Tha-hạt-tha-hại hai âm, giống như là con chó nhỏ mà sống dưới nước hay ăn loài cá, Văn Luận viết chữ thư ngược lại âm đô đạt tên của loài thú, thư chẳng phải nghĩa đây dùng.

Hoặc vị lại viết chữ quý cũng đồng, ngược lại âm vu quý có loại thỏ nhím, giống như chuột nhím tức là con sóc đuôi dài.

Sĩ-bì ngược lại âm lặc nhĩ trực chỉ hai âm Quảng Nhã cho rằng: Sĩ là cướp đoạt lột, sách Thuyết Văn cho rằng: Lột y áo nay gọi là lột da người.

Trúc đát ngược lại âm đô đạt sách Thuyết Văn cho rằng: Đát tên loại tre thân nhỏ là dài, lá to, có thể gói đồ vật, âm nhược ngược lại âm là âm ngược tên của loại cật tre, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Giang Đông gọi là đan chiếu tre, thẳng hàng có hoa văn mà thô gọi là dát hoa văn xéo đó gọi là phế một tên gọi nữa là hàng đường âm phế là âm phế âm hàng ngược lại âm hồ lang âm đường là âm đường.

Thao-niết ngược lại âm khẩu hiệp gọi là dùng móng cào cấu làm bị thương gọi là thao sách Vận Tập cho rằng: Viết chữ hiệp ngược lại âm khẩu hạp gọi là nhập vào.

Thiết tào ngược lại âm tại lao lại viết chữ tao cũng đồng theo Thanh Loại cho rằng: Tào là cái máng cho heo ăn.

Thung thang ngược lại âm xích dung ngược lại âm dưới đồ lang thế bổn ung văn chữ thung là cái chày giã gạo, tôi thần của vua là lại viết khác, Quảng Nhã cho rằng: Thang là giã gạo, sách Vận Tập cho rằng: Bá thang là giã gạo, nay Trung Quốc nói giã gạo Giang Nam nói giã gạo là thang Luận Văn viết chữ thang là chẳng phải thể âm bái là âm đại là chày nhỏ.

Lạc cang lại viết chữ cang cũng đồng, ngược lại âm cổ lảng sách Phương Ngôn cho rằng: Khang là cái bình miệng nhỏ mà bụng to, nay Giang Đông thông dụng nói là cái hủ to là cang.

Não tiển lại viết chữ tiềm cũng đồng, ngược lại âm tử đản Tam Thương cho rằng: Tiềm là cao nước đục Giang Nam nói ao nước đục là tiềm Sơn Đông âm tiền nghĩa là gột rửa, ngược lại âm tử kiến.

Tiên sao văn cổ viết chữ bốn chữ tượng hình nay viết chữ tiên nay sách Thôi Thực Tứ Dân Nguyệt Lịnh viết chữ sao xưa nay Chánh Tự viết chữ sao cũng đồng, ngược lại âm sơ giảo sách Phương Ngôn cho rằng: Ráng nấu nướng cho chín, dùng lửa làm cho khô, sách Thuyết Văn cho rằng: Rang cho khô.

Lợi phất sách Tự Uyển âm sơ nhãn gọi là lấy cây niên nhỏ nhọn xâu thịt nướng trên lửa, âm tiêm ngược lại âm thả liêm.

Đà-ngạc ngược lại âm đại hà ngược lại âm dưới là ngũ các Quảng Nhã cho rằng: Ngạc là tên của loài cá, dài hơn hai trượng, có bốn chân giống như cá sấu, răng nó rất bén nhọn, như có loài cầm thú hoặc là nai rơi vào nước tức thì nó cắn nuốt đoạn ra liền.

Cảnh nha ngược lại âm ư nha giống chim cổ trắng, Quang Trung gọi là A-nhã sách Nhĩ Thất cho rằng: Chim học tư loài chim giống nhân chim thước, mỏ ngắn, ở dưới nước giống như con vịt, Quách Phác cho rằng: Chim nhã ô tức con quạ, thân nhỏ mà bay từng đàn, dưới bụng nó trắng Giang Đông gọi là ô xa âm xa là âm sơ.

Ứng ngạc ngược lại âm ngũ các loài chim mảnh cầm dữ tợn kinh Sơn Hải nói: Thân nó giống như diều hâu thân đen, đầu trắng, chân và mỏ thì đỏ.

Chủy thủ ngược lại âm bổ lý tên của loại kiếm, sách Chu Lễ Khảo Công Ký ghi rằng: Chủy thủ là cây kiếm thân dài ba thước, nặng hai cân một lượng, nhẹ mà tiện dùng, đầu kiếm giống như cái muỗng. Bởi vậy mà gọi là chủy thủ sách Sử Ký nói: Chàng tráng sĩ Kinh Kha tay trái cầm cây kiếm chủy thủ.

Mộc bái ngược lại âm phù phế Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bái là thư từ, tờ trình, sách Thuyết Văn cho rằng: Lột vỏ cây để viết văn thư vào. Giang Nam gọi là bái Trung Quốc gọi là trác Sơn Đông gọi là Phác đậu âm trác phác là âm vu đậu.

Thiết dực ngược lại âm dư chức sách Nhĩ Thất cho rằng: Thức cũng gọi là dực Quách Phác cho rằng: Dực là cây trụ cột. Văn Luận viết chữ dực là chẳng phải thể dùng.

Trậm sát ngược lại âm trừ cấm kinh Sơn Hải nói rằng: Mấy người con gái phần nhiều độc như loài chim trậm, lông của nó có chất độc có thể chết người, Quách Phác cho rằng: Chim trậm lớn như chim diều hâu màu sắc tím xanh lạc, mỏ đỏ hay ăn rắn, nếu lấy lông của nó ngâm vào trong rượu uống vào tức thì chết liền.

Tuẫn lệnh ngược lại âm từ tuấn tuẫn giống như tuần sách Nhĩ Thất cho rằng: Tuẫn là đi biến khắp, sách Thuyết Văn cho rằng: Tuẫn là đi thị sát xem xét tuần tra, tuẫn cũng là tuần chữ viết từ bộ xước âm xước ngược lại âm sĩ diệc.

Luyện thiết lại viết chữ luyện cũng đồng, ngược lại âm lực kiến sách Thuyết Văn cho rằng: Luyện là lò đúc kim. Thiết là loại đồng đen.--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 9

Hoặc lũ ngược lại âm lực đấu sách Thuyết Văn cho rằng: Cổ có bệnh sưng lên, nay dưới nách, ẩn chỗ trong, đều có con vi trùng.

Phiêu tật ngược lại âm ty diêu bệnh ung thư đã thành, Bì Thương cho rằng: Phiêu là bệnh ung thư, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh ung thư đã lâu ngày nên đã thành tích tụ máu độc.

Phó địa văn có viết chữ bồi cũng đồng, ngược lại âm bổ bắc sách Thuyết Văn cho rằng: Phó là đốn ngã, gọi là phía trước bị che chắn nên vấp té ngã ngửa.

--------------------------------------

LẬP THẾ A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 10

Tương phí ngược lại âm phò vị người Phương Nam gọi là thoáng qua trong chốc lát, cũng gọi là lãng phí tiêu tiền lãng phí.

Xuy-trì lại viết chữ yến trì hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm trừ ly sách Thuyết Văn cho rằng: Ống tre có bảy lỗ tức là một loại sáo, Thế Bổn cho rằng: Tô Tân Công viết chữ trì.

Thủy đài ngược lại âm đồ lai gọi là trong nước con cá mặc áo màu xanh lục, tức là lớp rêu xanh mọc dưới đáy nước cũng có thể gọi là sợi chỉ xanh.

Tịnh nê lại viết chữ bảng cũng đồng, ngược lại âm bài hàm bạch lam hai âm, không có thuyền là không thể qua sông, sách Thuyết Văn nói là lội nước qua sông.

Tắc ao Thiên Thương Hoét ghi rằng: Viết chữ dung cũng đồng, ngược lại âm ô hiệp sách Tự Uyển cho rằng: Ao là khuyết lõm sâu xuống, cũng gọi là cái hầm.

********

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Thao ngận ngược lại âm tha lao âm dưới hồ khẩn thao là tham, sách Phương Ngôn cho rằng: Thao là cạn cợt, Bì Thương cho rằng: Thao là tham ăn, sách Thuyết Văn viết chữ thao này cũng đồng.

Trang thúc ngược lại âm trở lương trắc lượng hai âm, âm dưới sư cú nay Trung Quốc người ta gọi là trị liệu, đi đầy đủ là phải bó buộc âm phụ là âm âm thúc là âm thú sách Thuyết Văn viết chữ trang thúc gọi là gói.

Thư khuất ngược lại âm tài dữ Thiên Thương Hoét ghi rằng: Thư là thấm ướt từ từ hư hoại, Văn Luận viết chữ thư ngược lại âm trắc lữ gọi là dụng cụ để chứa rượu, tương tên gọi khác nữa là để thịt trên thớt mà xắt, thư chẳng phải nghĩa đây dùng.

--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 2

Ma-bán Tự Uyển viết chữ bản cũng đồng, ngược lại âm bố mãn loại thức ăn nay gọi là gạo làm với đậu, gọi là bột đậu đều viết chữ này.--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 3

Hàng giới ngược lại âm hồ lang ngược lại âm dưới là hồ giới Văn thông dụng cho rằng: Câu thúc tội nhân lại gọi là hàng giới cũng gọi là gông cùm xiềng xích.

Phanh đang ngược lại âm bi chánh ngược lại âm dưới đô lãng gọi là quét trừ nhơ bẩn Quảng Nhã cho rằng: Phanh là trừ bỏ.

Y-y ngược lại âm ư căng mượn âm, gọi là tương đáp ứng thanh.

--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 4

San khứ ngược lại âm sở gian (782) Tam Thương cho rằng: San là trừ bỏ diệt sạch.

Y bà lại viết chữ bà cũng đồng, ngược lại âm thất á Quảng Nhã cho rằng: Bà là khăn tay, Văn thông dụng cho rằng: Hai cái áo, áo kép gọi là bà.

Ngận tích sách Toán Văn viết chữ ngận cũng đồng, ngược lại âm hồ cân Văn thông dụng cho rằng: Cái sẹo gọi là ngận.

Linh dũ ngược lại âm lực định sách Thuyết Văn cho rằng: Dũ giữa khe hở, Văn thông dụng cho rằng: Cánh cửa thưa gọi linh nay viết chữ dũ linh đó là cửa sổ của xe đều là vậy.

Hàng tiết lại viết chữ hoàn cũng đồng, ngược lại âm hồ quán Văn thông dụng cho rằng: Thiêu đốt xương cốt lấy đem rải xuống sông gọi là hoàn Thiên Thương Hoét giải thích văn cổ cho rằng: Hoàn là lấy hòa tan trong nước. Nay Trung Quốc người ta nói là hoàn Giang Nam nói là mai táng, tức là đem chôn cất âm, mai ngược lại âm thụy lai xưa chữ viết là chữ lai.

Trì cẩu ngược lại âm nữ giai tên người dựa theo chữ trì là lau chùi, chà.

Giảo quái ngược lại âm cổ oán âm dưới văn cổ lại viết hôn để hai chữ tượng hình nay lại viết chữ khoái cũng đồng, ngược lại âm cổ khoái Văn thông dụng cho rằng: Đứa trẻ nhỏ đùa nghịch tinh quái gọi là giảo quái nay Quan Trung nói là giảo quát là sai.

-Quyển 5, 6 Trước không có âm.

--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 7

Xu câu ngược lại âm khương cú. Lâm bà ngược lại âm lực kim.

Hà lật ngược lại âm cổ ngã. Bát tha ngược lại âm thổ hà.

Oa lâm Trương Tập Tạp Tự viết chữ oa là bệnh, Tự Thư viết chữ qua cũng đồng, ngược lại âm cổ hòa Thiên Thương Hoét ghi rằng: Qua là bệnh trọc đầu, sách Vận Tập cho rằng: Bệnh ung nhọt, tới mùa xuân là phát ra, đó gọi là yến qua đến mùa thu phát ra gọi là nhạn qua.

Bí-tắc ngược lại âm bĩ ký Mao Thi Truyện nói: Ta nghĩ không thận trọng, theo truyện cho rằng: Bí là đóng kín lại, lại cũng gọi không theo Văn Luận viết chữ bí là chẳng phải thể.

--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 8

Phẫn sất ngược lại âm xĩ dật sách Phương Ngôn cho rằng: Sất là quát mắng, giận dữ, vạch bày ra gọi là ha theo chữ sất giống như là ha sất quát mắng, nổi giận.

Thấp quái ngược lại âm hồ ngõa nên viết chữ quái ngược lại âm hồ quả còn tươi sáng. Lại gọi là tinh vật không có tạp gọi là quái.

- Quyển 9 Trước không có âm.

--------------------------------------

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN QUYỂN 10

Giáp tất ngược lại âm cổ hạp gọi là kẹp, kẹp vật hai bên cận gần Tam Thương cho rằng: Giáp là đòn xe, sách Thuyết Văn cho rằng: Kẹp nắm giữ, thúc dục, cận kề đến.

Như địch lại viết chữ đích cũng đồng, ngược lại âm đồ lịch tức là cây lau, sậy rất dẻo vai, bền bỉ, âm kiêm là âm cổ hâm.

- Quyển 11, 12 Trước không có âm.

*******

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Tuẫn hữu ngược lại âm từ tuấn Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tuẫn là cầu cũng là lợi mà không kể đến thân mạng.

Tây chẩn ngược lại âm chi nhẫn sách Hoài Nam Tử nói rằng: Nước bắn lên gọi chấn Hứa Thúc Trọng gọi khẩn là đoàn xe vận chuyển.

Lãng phong ngược lại âm lực lai Quảng Thất cho rằng: Ở đất Côn Lôn có ba ngọn núi lãng phong có cây ngô đồng, cũng có vườn rau, hoa quả.

Âm âm ngược lại âm ư châm theo Thanh Loại cho rằng: Âm là êm ả, yên tĩnh Tam Thương cho rằng: Tính hòa vui.

-Quyển 2, 3, 4, 5 Đều trước không có âm.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 6

Toàn lam ngược lại âm lực hành hoặc là Viết-tỳlam-bà hoặc là nói Bại-lam-bà hoặc là viết Phệ-lam đều là tiếng Phạm gọi là Sở-hạ-nhĩ đây dịch là gió mau rất dữ dội, gọi là gió bảo.

Nhận thức ngược lại âm nhi cẩn gọi là vật đã mất mà ghi nhớ nhận biết đó, ghi chép lại, Văn Luận viết chữ nhận là chẳng phải thể vậy.

Lao tửu ngược lại âm lực đao Thiên Thương Hoét cho rằng: Lao gọi là cặn rượu, trong rượu có cặn.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

Toàn mâu ngược lại âm thô loan toàn là ném lao, âm dưới lại viết mâu hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm mạc hậu Văn Luận viết chữ thoán mâu hai chữ tượng hình.

-Quyển 8, 9, 10 Trước đều không có âm.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 11

Tất đậu ngược lại âm phương mật.

-Quyển 12 Trước không có âm.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 13

Trùy khước lại viết chữ truy cũng đồng, ngược lại âm trực ngụy Văn thông dụng cho rằng: Treo lên trấn giữ gọi là trùy lại là treo cái chày đá cho kéo xuống chì xuống, Văn Luận viết chữ chùy là chữ giã tá.

Hồ giáp ngược lại âm hồ giáp sách Thuyết Văn cho rằng: Giáp là uống vào.

Tẩm dâm ngược lại âm di trậm tẩm đam đó là chuyển động lớn nói là thấm dần dần, tẩm dâm cũng gọi là dời chỗ ở chuyển đi nơi rộng rãi. Thích Danh cho rằng: Bệnh lở loét u nhọt.

Mạc tử âm mạc ở Sơn Nam có rất nhiều con vật này giống như con muỗi mà nhỏ hơn, nó bay tụ lại chỗ có ánh sáng, gọi là cắn chích người làm có sẹo như sợi lông vậy.

Xa lịch ngược lại âm lực các, lực đích hai âm, gọi là bánh xe ghiền nát, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ chiếc xe cán lên gọi là lịch.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 14

Tiên pháo lại viết chữ tỷ cũng đồng, ngược lại âm tư tiện Tự Lâm cho rằng: Vết thương đã khô sắp lành, theo chữ tiên đó là bệnh nấm, có khô, có ướt trên da hai loại. Thích Danh cho rằng: Bệnh nấm trên da dần dần lan ra to rất ngứa cho nên thanh từ gọi là tiên là tỷ là di dời đi. Đới hạ lại viết chữ đới cũng đồng, ngược lại âm trúc thế đinh kế hai âm quan trung âm đa trệ Tự Lâm cho rằng: Thông là màu đỏ, Thích Danh cho rằng: Nặng dưới là màu đỏ, màu trắng gọi là đới nói là lệ đới rất khó trị.

Côn sắt ngược lại âm bổ hề sạc Thuyết Văn cho rằng: Loài ký sinh trùng, loại côn trùng trên con trâu, bò. Nay nói trên con trâu, bò, ngựa, con gà, con chó đều có loài côn trùng này, âm dưới là sở ất loài côn trùng hay cắn đốt người, Sơn Đông và Hội Kê đều dùng âm này.

- Quyển 15, 16, 17, 18 Trước đều không có âm.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 19

Tự bát ngược lại âm từ dữ sách Thuyết Văn cho rằng: Tự là đầu mối dây, cũng gọi là đầu mối.

Giá sắc ngược lại âm da hà âm dưới sở lực Tự Lâm cho rằng: Các loại giống gieo trồng gọi là giá thu hoạch đem về gọi sắc sách Thuyết Văn nói bông lúa thật gọi là giá cũng gọi là ngoài đồng, thôn dã gọi là giá.

- Quyển 20 Trước không có âm.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 21

Thác sư Bì Thương viết chữ lược lại viết chữ bài cũng đồng, ngược lại âm bổ giới Vương Bậc chú rằng: Sách viết chữ thác nãng nang gọi là dụng cụ lấy lửa, thổi lửa khiến cho lửa cháy rực lên.

----------------------------------------

XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 22

Cốt pháo lại viết chữ pháo cũng đồng, ngược lại âm bổ hao gọi là mụt nhọt nhỏ sưng lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Pháo là nóng nhiệt trên mặt nổi mụn. Nay lấy nghĩa này, Văn Luận viết chữ bao hoặc là viết chữ bao hai chữ tượng hình đều chẳng phải.

Đài cử ngược lại âm đồ lai Văn thông dụng cho rằng: Phấn chấn đưa cao lên cũng gọi là tiến cử.

Nhiếp trứu ngược lại âm chi thiệp tri lạp hai âm, nhiếp giống như nhiều lớp áo nhăn nhúm lại cũng gọi là tay áo nhỏ.

Quán địch ngược lại âm hồ quan giáo lý cây lau nhỏ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cây cỏ thô sơ gọi là hà cũng gọi là dây leo mọc chằng chịt đến mùa thu mà xanh tốt thì gọi là quán đến mùa hè thẳng đứng nhỏ bé đó gọi là vi tức cây lau sậy, chưa trổ bông gọi là quán đã trổ bông rồi cũng gọi là quán âm dưới lại viết là đích cũng đồng, ngược lại âm dồ lịch tức là cây lau sậy, sống rất dẻo dai đó vậy, âm kiêm ngược lại âm chiêm điềm âm hà là âm da âm đạm là âm tha cảm âm quán ngược lại âm ngũ hoạn.

*******

NGŨ SỰ TỲ BÀ SA LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Huệ Lâm soạn.

Trinh thật ngược lại âm trên là trắc tình sách Chu Dịch cho rằng: Trinh là chánh tức là thẳng thắn, sách Ích Pháp cho rằng: Đức chánh ứng hòa gọi là trinh trong ngoài không hư hoại gọi là trinh: Thẳng con đường không quấy rối gọi là trinh, sách Thuyết Văn nói: Đoán hỏi thăm, bói quẻ gọi là trinh. Trịnh Huyền gọi là hỏi thăm các việc chánh sự, chữ viết từ bộ bốc thanh bối hoặc là từ bộ đỉnh thanh tĩnh kinh văn viết từ bộ thị hoặc là viết từ bộ mộc viết thành chữ diệu trinh là chẳng phải vậy.

Diêu dương ngược lại âm trên diệu chiếu Thiên Thương Hoét cho rằng: Gió thổi lay động, Bì Thương cho rằng: Gió thổi lay động trên, âm dưới là chưởng tưởng sách Khảo Thanh cho rằng: Gió thổi tốc lên, tung lên quét sạch hết, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ gió cuốn tung lên, bay lên chữ viết từ bộ phong đều thanh diêu dương.

Thân khiếp ngược lại âm dưới kiêm diệp Ngọc Thiên cho rằng: Khiếp là cái rương, sách Khảo Thanh cho rằng: Loại rương chứa đựng đồ vật, sách Thuyết Văn viết chữ khiếp giam chữ viết từ bộ phương âm phương là âm phương thanh giáp.

Trợ giáp âm dưới lại viết chữ hạp Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Gọi là áo giáp, theo truyện nói rằng: Viết chữ áp là giam giữ, sách hảo Thanh cho rằng: Giáp trụ, sách Thuyết Văn cho rằng: Kinh Đại Nhất nói giáp là cái mũ giáp trụ đội trên đầu là giáp giáp giống như đầu người, kinh văn viết chữ giáp là tên lửa, nghĩa kinh nó kỳ quái âm giáp ngược lại âm cổ diêm.

Đao sóc ngược lại âm dưới là sơn trác Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây mâu giáo dài, sách Thuyết Văn cho rằng: Còn thiếu, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Sóc là cây giáo dài bốn trượng tám thước, chữ viết từ bộ mâu thanh tiếu.

-------------------------------------

QUYỂN HẠ

Toát ma ngược lại âm trên thất hoạt Quảng Nhã cho rằng: Toát là nắm lấy, Ứng Thiệu giải thích Hán Thư cho rằng: Bốn khuê gọi là toát cũng là ba ngón tay chụm lại, sách Lễ Ký cho rằng: Thiên địa đất nhiều trong một nắm tay. Tự Lâm cho rằng: Toát tay giữ lấy. Xưa nay (785) Chánh Tự cho rằng: Cũng là hai ngón tay chụm lại, chữ viết từ bộ thủ thanh tối.

*******

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Bạt-kim ngược lại âm cự kim tên người.

Phó thái ngược lại âm phương căn phó gọi là sơn phết trét thêm vào thoa vào, thoa thuốc, thoa phấn đều là viết chữ phó này vậy, Văn Luận viết chữ phủ ngược lại âm phu chủ phủ là phủi, vỗ nhẹ, chẳng phải nghĩa đây dùng, ngược lại âm dưới thả tại thái giống như là sắc thái, màu sắc.

-Quyển 2. Trước không có âm.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 3

Ma thúc lại viết chữ thúc hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm thư dục tên người.

Chiên ngư văn cổ viết chữ thiện cũng đồng, ngược lại âm tri liên gọi là cá vàng lớn, cái miệng ở hàm dưới, thân không có vẫy giáp nhau, thịt màu vàng, thân to lớn dài ba trượng, Giang Đông gọi là cá vàng, tức là con lươn vậy.

Như hàm chữ cổ viết từ bộ kim thanh hàm nay viết chữ châm cũng đồng, ngược lại âm chi dâm Quảng Nhã cho rằng: Châm là cây kim lớn đâm vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Hàm chỗ gọi là cây kim may áo.

Đê già ngược lại âm đô hề gọi là chủng tử.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 4

Sắc mạc ngược lại âm vong các sách Thuyết Văn cho rằng: Lớp mỏng giữa thịt Văn Luận viết chữ từ bộ cách viết thành chữ mạc là chẳng phải.

Đằng thư ngược lại âm đồ đăng sách Thuyết Văn cho rằng: Đằng là bám vào, nương vào chỗ chồm lên, lên cao, chuyên chở, Quảng Số cho rằng: Đằng là chạy nhanh vút lên.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 5

Ngược ế sách Vận Tập viết chữ ế cũng đồng, ngược lại âm nhất kế, sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt bị bệnh sanh ra che, Tam Thương cho rằng: Ế là mắt bệnh Luận Văn viết chữ ế gọi là trời âm u mà có gió gọi là ế, ế là chẳng phải nghĩa đây dùng.

Âm toại văn cổ viết hai chữ tượng hình, nay viết chữ toại hoặc là viết chữ toại cũng đồng, ngược lại âm từ túy âm toại là xuất ra nước từ mặt trăng, toại là xuất ra lửa từ mặt trời, dụng cụ lấy lửa từ mặt trời như là đồng ngọc đá tinh thể tròn. Âm toại lấy thiết vuông.

Đàm thủy ngược lại âm đồ nam nước ngưng chảy, người nước Sở gọi là nước sâu làm đàm Văn Luận viết chữ đảm ngược lại âm âm đồ lam đạm là lờ lững, điềm tĩnh an nhiên, đạm chẳng phải nghĩa đây dùng.

- Quyển 6 Trước không có âm.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 7

Ky biếm ngược lại âm cư y Quảng Số cho rằng: Ky là châm chích, châm biếm, cười cợt, sách Thuyết Văn cho rằng: Ky là chê bai, âm dưới văn cổ viết chữ sào cũng đồng, ngược lại âm bi liễm biếm là hạ thấp, chìm xuống giảm, cũng gọi là hạ xuống, cách chức.

- Quyển 8 Trước không có âm.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 9

Như lược ngược lại âm cự hướng sách Vận Tập cho rằng: Giăng lưới bên đường gọi là cướp đoạt, thời nay gọi là săn bắt, gọi là giăng lưới để bắt thú, lưới hình giống như cây cung.

Chân nịnh ngược lại âm ư nhân gọi là khổ. Di nịnh gọi là thói quen.

Đà phá là hết.

Đà la gọi là phá đao.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 10

Đạo tích lại viết chữ tích hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tử diệc dấu chân, Văn Luận viết chữ trật giao hai chữ tượng hình là chẳng phải.

-Quyển 11 Trước không có âm.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 12

Vấn mô ngược lại âm vô phân Tự Lâm cho rằng: Vấn là lau chùi, mô là sờ mó, mò tìm, âm tác ngược lại âm tảng các.

Câu trác ngược lại âm đô giác trác là đánh gõ, gõ nhịp, âm xao ngược lại âm khổ giao Văn Luận viết chữ trác này là chẳng phải.

Hoa-bì ngược lại âm hồ lạt gọi là có thể làm trang sức cho cây cung.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 13

Thiết bà lại viết chữ sắc cũng đồng, ngược lại âm bình da sách Phương Ngôn cho rằng: Bà gọi là cầm nắm cái bừa, cái cuốc to lớn, Quách Phác chú giải rằng: Cái bừa có răng gọi là bà không có răng gọi là bát âm bát là âm bát. Nay Giang Nam gọi có răng đó là bà nã chữ viết từ bộ mộc âm nã ngược lại âm âm nữ ư.

Hạ bộ ngược lại âm bổ hồ sách Hoài Nam Tử cho rằng: Đi đến lòng từ bi, thương xót, dung chứa đó là bộ lúc gọi là thêm thẳng vào, tức là bú mớm còn ở trong nôi.

---------------------------------------

BỆ BÀ SA A TỲ ĐÀM LUẬN QUYỂN 14

Xích hoạch ngược lại âm xỉ diệc ngược lại âm dưới ô quách, ư hoạch hai âm, sách Nhĩ Sở cho rằng: Xích hoạch là loại sâu, sách Phương Ngôn cho rằng: Xích hoạch là tên của sâu đo, cũng gọi là tầm tang, là con sâu nằm trong lá dâu, sách Toán Văn cho rằng: Người nước Ngô gọi sâu đo là tang âm hạp ngược lại âm cổ hiệp hai cũng gọi là tức tựu ngược lại âm tử lục.

Phong ngưu Chu Thành Nam Tự viết chữ phong ngược lại âm phi phong Hán Thư âm là phong tức là loại trâu này nhỏ mà chân trước có khắc phong.

Bất huyễn liệt tử viết chữ thuấn Văn thông dụng viết chữ huyễn cũng đồng, ngược lại âm thi nhuận sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ thuấn gọi là mắt mở ra nhắm lại nhiều lần, gọi là nháy mắt. Phục Kiền cho rằng: Con mắt bị động gọi là huyễn.

Cù dục lại viết chữ cụ cũng đồng, ngược lại âm cụ câu âm dưới lại viết chữ du cũng đồng, ngược lại âm dĩ chúc đầu lưỡi chim nhọn có hai bên góc có lông nhỏ, kinh Sơn Hải chú giải Công Dương Truyện rằng: Đều viết chữ cụ âm cụ.

Thục trùng ngược lại âm thời chúc theo Mao Thi Truyện nói rằng: Loài côn trùng lúc nhúc đó là thục tức là ấu trùng, theo truyện rằng: Thục là con ấu trùng của giống bướm, tức sâu ăn là dâu, lớn như ngón tay, giống như con tằm, sách Nhĩ Số cho rằng: Cũng là loài sâu đo tên gọi là ô thục.

*******

TAM DI ĐỂ BỘ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Huệ Lâm soạn.

Nhược lũ ngược lại âm dưới là lực chủ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lũ là người lưng không thẳng, tức là người lưng gù. Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Thân có tật bệnh, Quảng Nhã cho rằng: Lưng cong, sách Thuyết Văn cho rằng: Khiễng chân, chữ viết từ bộ nhân thanh lữ.

Nhược tích ngược lại âm dưới tinh tích Cố Dã Vương cho rằng: Tích gọi là cái chân bệnh khô không thể đi được, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ chỉ thanh tích kinh văn viết chữ xúc tục dùng cũng thông dụng.

Khiêu nhãn ngược lại âm trên khiêu điêu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khiêu là khiều móc ra, sách Vận Thuyên cho rằng: Khiêu là vặn bẻ dùng dao khoét móc ra trừ bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh triệu kinh văn viết chữ khiêu là chữ đúng thời dùng.

QUYỂN TRUNG

Nhục đoàn ngược lại âm trên như lục Cố Dã Vương cho rằng: Nhục đó là thịt của cơ bắp. Phàm là loại có khí huyết đều gọi là nhục sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ tượng hình.

--------------------------------------

QUYỂN HẠ

Nhương khư ngược lại âm trên là chữ xương âm dưới kiếp ca tiếng Phạm nói nhương là hợp theo người, chữ viết từ bộ nhân viết thành chữ nhương kinh văn viết chữ nhương là dùng chữ sai lầm.

Kha-la-la tiếng Phạm xưa dịch hoặc gọi là Yết-lA-lam hoặc nói là Ca-la đều là một nghĩa, đây tức là nói người đàn bà ban đầu thọ thai mới bảy ngày.

*******

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn

Tỷ giảo văn cổ viết chữ xác cũng đồng, ngược lại âm cổ học giảo đó là đo lường, so sánh cho rõ ràng hơn kém. Xác giống như là còn thô lược, thương lượng, bàn bạc.

Hạo đại Tam Thương cho rằng: Văn cổ viết chữ hạo cũng đồng, ngược lại âm hồ lão hạo cũng gọi là rộng lớn, mặt trời mới mọc sáng tỏ.

1) Tỳ tế ngược lại âm bổ tây phò chỉ hai âm, ngược lại âm dưới tạ mê sách Thuyết Văn cho rằng: Tề là rốn người, cuống rốn, Văn Luận viết chữ phì là chẳng phải.

2) Án như ngược lại âm ư đản án là làm theo cũng gọi là xem xét dòm ngó, cũng gọi là kiếm tầm.

3) Trình Phật ngược lại âm trì kinh trình là kiến, tức xem thấy, cũng gọi là kiến nơi Phật, Văn Luận viết chữ trình giải thích là chẳng phải thể hoặc là viết chữ trình cũng chẳng phải.

4) Địa phi ngược lại âm phò phi gọi là kiếp ban đầu lúc mới chỉ là lớp mở, cũng gọi là địa vị, Văn Luận viết chữ thiên là chẳng phải.

Cung thỉ lại viết chữ thất cũng đồng, ngược lại âm thi chỉ Tam Thương cho rằng: Thất là mũi tên xưa đó Di Mâu viết chữ thỉ.

Khuy du lại viết chữ khuy cũng đồng, ngược lại âm khưu qui âm dưới là dực chu sách Thuyết Văn viết chữ khuy là nhìn trộm.

-------------------------------------

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 2

Tử tai lại viết chữ mạ cũng đồng, ngược lại âm tử tư tử là thương lượng, sách Thuyết Văn nói: Suy nghĩ.

Tạc tai chữ viết đúng nghi là tạc hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tử các sách Thuyết Văn cho rằng: Gạo thô, một đấu lấy đem đi xay giã còn lại dính thăng gọi lạt, gạo chưa giã trắng, Tam Thương cho rằng: Tinh gạo thô, tức gạo còn cám. Nay Giang Nam cũng gọi là bái là gạo thô âm lạt là âm lạt Văn Luận viết chữ tạc là chẳng phải thể.

Hoàng thủy ngược lại âm ô hoàng Văn thông dụng cho rằng: Nước ngưng chảy gọi là hoàng hoàng là ao nước không chảy. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hoàng là ao rất sâu rộng.

Tự vẫn văn cổ viết chữ vẫn cũng đồng, ngược lại âm vong phân Dương Công Truyện nói rằng: Công không thành danh không toại, tự thắt cổ mà chết, Hà Hưu cho rằng: Vẫn là cắt cổ chết.

Bà nam hoặc là nói hòa nam đều sai. Nói cho đúng là bàn đạm đây dịch là ngã lễ là ta làm lễ.

Thiện thực ngược lại âm thị chiến âm dưới là thị lực thiện là tu bổ sửa chửa thực là bồi đắp thêm đất, gọi là hòa đất vào nước trét phết thêm vào, sửa chửa.

Hung hung ngược lại âm hứa cung hung hung là tiếng sôi nổi bên trong, Hán Thư cho rằng: Hung hung là tiếng ồn ào của hơn ngàn người, Văn Luận viết từ bộ thủy viết thành chữ hung là chẳng phải.

Đẩu tẩu lại viết chữ tẩu cũng đồng, ngược lại âm tô tẩu Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Đẩu tẩu đó là giơ cao lên, Văn thông dụng cho rằng: Đẩu tẩu đó gọi là chim tụ (784) hợp mổ thóc, chữ khó âm là đô cốc âm dưới tô cốc Văn Luận viết đẩu tẩu là chẳng phải. Ký kim theo Thanh Loại cho rằng: Văn cổ viết chữ tuyền cũng đồng, ngược lại âm kỳ khí theo Tả Truyện cho rằng: Giống như lo sợ không an. Lại chú giải rằng: Ký là đến.

-------------------------------------

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 3

Ứ tự ngược lại âm từ dữ sách Thuyết Văn cho rằng: Tự là thứ đệ, sách Nhĩ Số cho rằng: Tự là mối dây, gọi là đầu mối dây.

Thù tạc lại viết chữ độc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Viết chữ thù cũng đồng, ngược lại âm thị chu gọi là chủ và khách đáp lễ rót rượu mới gọi thù khách báo đáp chủ gọi là tạc.

Sâm sâm ngược lại âm sở kim sách Thuyết Văn cho rằng: Cây mọc dài nhiều. Nay lấy nghĩa này.

Ưỡng nhiên ngược lại âm ư lượng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Ưỡng là bực bội khó chịu, cũng gọi là buồn bã, tâm không yên.

Tiên hoàn ngược lại âm trên là tử điền ngược lại âm dưới là hồ mãn Tam Thương cho rằng: Tiên là tưới nước tẩy rửa, gọt rửa sạch sẽ. Thu ngâm ngược lại âm tử do âm dưới ngưu kim Thiên Thương Hoét cho rằng: Thu là tiếng đông người ồn ào, sách Thuyết Văn cho rằng: Thu là tiếng đứa trẻ khóc hu hu, ngâm là thán, tiếng ngâm, phúng tụng ca vịnh, Văn Luận viết chữ ngâm là chẳng phải.

-------------------------------------

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC LUẬN QUYỂN 4

Phồn diễn ngược lại âm phò viên ngược lại âm dưới là dĩ thiện phồn là nảy sinh ra nhiều, phồn thịnh, diễn là nước tràn lai láng, nước chảy dài lênh láng.

Toàn nhật ngược lại âm thả tuyền Hán Thư Ứng Thiệu cho rằng: Toàn là cái cân lường đong đo, Vi Chiếu cho rằng: Toàn là quả cân.

-------------------------------------

TỨ ĐẾ LUẬN

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Tù thủy văn cổ viết là phù cũng đồng, ngược lại âm tợ do sách Thuyết Văn cho rằng: Tù gọi là nổi lên nước, tức là bơi lội. Nay Giang Nam gọi là chỉ người nổi trên mặt nước là tù.

Khí thấu ngược lại âm tô đậu sách Thuyết Văn cho rằng: Là hơi đi ngược, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tề Đô gọi thấu là ho âm khái ngược lại âm khổ đại Giang Nam dùng âm này.

------------------------------------

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 2

Cấm tắc lại viết chữ khâm cũng đồng, ngược lại âm cự cẩm, cự ấm hai âm, sách Thuyết Văn nói: Cấm là ngậm miệng, cấm khẩu.

Xạ bằng âm bằng tự lược cho rằng: Xạ là bắn trúng đích, cũng tức là bắn trúng ụ đất cắm bia tập bắn, âm đóa ngược lại âm đồ quả.

-Quyển thứ ba. Trước không có âm.

------------------------------------

TỨ ĐẾ LUẬN QUYỂN 4

Điều can ngược lại âm công hạn Tự Lâm cho rằng: Can là thân mũi tên, Văn Luận viết chữ cán hai chữ tượng hình đều chẳng phải.

Ngự xa nay viết chữ ngự cũng đồng, ngược lại âm ngư cứ gọi là điều khiển chiếc xe, gọi là chỉ huy khiến con ngựa chạy thẳng, phàm là nói điều khiển đó chỗ gọi là đánh cho ngựa chạy bên trong khéo chế ngự con ngựa. *******

BÍCH CHI PHẬT NHÂN DUYÊN LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng.

Nhất tập ngược lại âm từ lập sách Sử ký cho rằng: Tặng một bộ quần áo, âm tập nghĩa gọi là áo đan phúc gọi đầy đủ là một bộ đan tập, âm đan là âm đan.

Bất tuất lại viết chữ tuất cũng đồng, ngược lại tu luật sách Nhĩ Số cho rằng: Tuất là lo buồn cũng gọi là thâu gom, gọi là cùng với người động lòng thương xót gom tài vật cứu giúp ban tặng vậy.

Bậc tường ngược lại âm bổ báo Thiên Thương Hoét cho rằng: Nước chảy vào cũng là thác nước nổi cho lên gọi bậc.

Bột nghịch văn cổ viết chữ bột hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm bổ hội bổ một hai âm, Quảng Số nói rằng: Bột là loạn, cũng là nghịch lại trong lòng buồn phiền.

1) Thân nặc lại viết chữ nặc cũng đồng, ngược lại âm nữ lật sách Nhĩ Số cho rằng: Nặc là gần gũi Quách Phác cho rằng: Tương cận với nhau cũng là thân thiết, gần gũi thân thiết riêng tư, rất thân thiết nhiều lần, âm cực ngược lại âm khư ký.

2) Nhuận đông văn cổ viết chữ tuần cũng đồng, ngược lại âm nghi luân sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt dao động, nay gọi là mi mắt nháy động nhiều lần, nên gọi là nhuận động.

3) Nhược trù Thiên Thương Hoét giải thích chữ cổ cho rằng: Chữ thù cũng là thù gọi là báo thù, nắm mũi kiếm đánh với nhau.

--------------------------------------

QUYỂN HẠ

Câu quái ngược lại âm cổ mại Quảng Nhã cho rằng: Quái là treo lên.

Man vương ngược lại âm mạc bàn nay người ở Cao Xương gọi nghe là mạn sách Thuyết Văn cho rằng: Nghe tiếng là nhận biết.

Đồ chi ngược lại âm đạt hồ nghĩa là đồ cũng gọi là mưu kế, sách Nhĩ Số cho rằng: Đồ vạch bày tìm mưu tính kế, cũng gọi là nghĩ ra kế hoạch mưu mô, Quảng Nhã cho rằng: Đồ là mưu tính đo lường.

Nguy chuyết ngược lại âm tri liệt theo Thanh Loại cho rằng: Xuyết là hơi ngắn, chuyết cũng là lo lắng.

Viện trợ ngược lại âm vũ quyến gọi là nương dựa vào sự hộ trợ, trợ giúp gọi dựa vào hàng rào nay lấy nghĩa này vậy.

Tài hối văn cổ viết chữ hối cũng đồng, ngược lại âm hồ tợi Văn thông dụng cho rằng: Tài là trao đổi của cải hàng hóa. Hối đó là theo Chu Lễ cho rằng: Vàng ngọc Trinh Huyền cho rằng: Hàng hóa vải vóc gọi là hối.

Vĩ trực ngược lại âm sơ lục gọi là đoan trực.

Luật xa hoặc là viết chữ Ly-xa-tử hoặc là viết lật xướng hoặc là viết tạp xương đều là tiếng Phạm, nói sai.

Nói đúng là Lật-thiếp-bà đây dịch là thuộc loại dùng họ tộc tiên vương, âm thiếp ngược lại âm xương diệp.

*******

THẬP BÁT BỘ LUẬN

Huệ Lâm soạn

Chỉ để khả ngược lại âm cổ ngã đây là tiếng Phạm Tây Vực gọi là tên của núi, chỗ của luật chủ cư trú.

Nhưng sơn ngược lại âm nhi chứng nhi chứng hai âm, Văn thông dụng cho rằng: Ở Tây Vực tên của núi cũng là chỗ cư trú của luật bộ chủ.

Tha-bệ-la ngược lại âm Bệ-mễ tiếng Phạm, Đường Huyền Trang cho rằng: Bộ thổ hoặc gọi là tôn túc.

Thâu bà hoặc gọi là Tô-thâu-bà tiếng Phạm nói sai, nói cho đúng Phạm âm gọi là Tốt-đổ-ba đây dịch là phương phần hoặc gọi là phần tháp tức là thân của Đức Như-Lai còn lưu lại Xá-lợi gọi là phần tháp. Xưa gọi là Phù-đồ.

*******

BỘ DỊ CHẤP LUẬN

Huệ Lâm soạn.

A-thâu-khả âm dưới là ca tiếng Phạm không thiết thanh, chuyển đọc có nặng, có nhẹ, cùng với chữ ca cũng đồng, ngược lại âm tán như cũng gọi là A-ca-vương xưa gọi là A-đục. Tên tiếng Phạm gọi vị vua vô ưu là không lo buồn.

Át-tất-đa ngược lại âm trên an hạt tiếng Phạm ở Tây Vực là tên của núi ở ngoài biển, gọi là núi sở nhập xứ.

Phù-lam-ma âm giữa là lam tiếng Phạm, tên gọi khác của Chư Thiên ở chỗ thiền định.

Uất-đa-la-cưu-lâu tiếng Phạm gọi tên Bắc Châu. Xưa gọi là Vất-đơn-việt chuyển thanh sai vậy, đây dịch là cao thắng.

*******

DI BỘ TÔNG LUẬN

Huệ Lâm soạn.

Yết-lạt-lam âm lạt ngược lại âm Lang-hạt tiếng Phạm tên gọi là ban đầu của thai tạng, trinh như là sữa đạc mỏng.

Kiện nam ngược lại âm càn ngạn cũng là tiếng Phạm, tên gọi thứ đệ trong thai tạng.

Bất khứu ngược lại âm hưu cứu sách Thuyết Văn nói rằng: Dùng cái mũi chính là để mũi ngửi gọi là khứu chữ viết từ bộ tỵ đến bộ xú xú cũng là thanh, âm xú ngược lại âm âm xương chú kinh văn viết chữ từ bộ khẩu viết thành chữ khứu tực tự dùng chẳng phải đúng.

Văn khiếp ngược lại âm kiêm diệp Quảng Nhã cho rằng: Ý có thể, Khảo Thanh cho rằng: Đương phải như vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Vui vẻ viết đúng là chữ khiếp chữ từ bộ tâm thanh khiếp âm khiếp đồng với âm trên. Nay Tương Huyền viết chữ khiếp này cũng không mất đi ý nghĩa chỉ là một vậy.

QUYỂN 74

- Âm Phật Sở Hành Tán kinh truyện-bảy Quyển.

- Huyền Ứng trước không có âm Huệ Lâm âm lại.

- Tuyển tập Bách Duyên kinh, mười quyển-H. Ứng.

- Xuất Diệu kinh, hai mươi lăm quyển-Huyền Ứng.

- Hiền Ngu kinh, mười lăm quyển-Huyền Ứng.

- Tăng-già-la-xát tập, ba quyển-Huệ Lâm.

- Bên phải là sáu tập truyện, cộng sáu mươi lăm quyển đồng âm quyển này.

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Di chúc ngược lại âm trị dắng Văn thông dụng cho rằng: Nhìn thẳng gọi là di kinh văn viết chữ trừng ngược lại âm trực canh hai chữ tượng hình cũng thông dụng, âm dắng ngược lại âm dĩ chứng.

Cang mạn thể chữ viết là vãn ngược lại âm mạc bàn vãn là che đậy, kinh văn viết mạn hai chữ tượng hình này là chẳng phải.

Điều đệ ngược lại âm đồ điêu ngược lại âm dưới đồ đế Tả Tư Ngô Đô Phú truyện cho rằng: Chiêm ngưỡng rộng rãi từ xa đến, Lưu Quỳ cho rằng: Điều đệ trông ngóng mong chờ từ xa.

Hổ tòng ngược lại âm bồ cổ hổ là rộng lớn, cũng gọi là người sai khiến, nuôi ngựa.

Hàm đầu ngược lại âm ngô cảm Quảng Số cho rằng: Lắc đầu, sách Thuyết Văn cho rằng: Cuối đầu, kinh văn viết chữ hàm này là chẳng phải.

Khiếp liên nay viết chữ liên cũng đồng, ngược lại âm lực nhiên gọi là liên tục với nhau, theo Thanh Loại (785) cho rằng: Sợi chỉ nối kết với nhau dứt, sách Thuyết Văn cho rằng: Liên tức là liên là đến kịp lúc.

Đỉnh trực ngược lại âm tha đảnh đỉnh trực là kéo thẳng, sách Thuyết Văn cho rằng: Dài ra đỉnh đỉnh là chánh trực.

Xa thức ngược lại âm thư dực thức là đòn ngang của chiếc xe cao ba thước dài ba tấc, sách Thuyết Văn cho rằng: Thức là đòn ngang trước xe sách Nghi Lễ cho rằng: Vua đi chiếc xe này. Trinh Huyền cho rằng: Xưa đó cũng là chiếc xe chuyên chở, thức còn gọi là xe kéo nhỏ lấy lẻ là người chủ.

Hình tiết ngược lại âm tư liệt gọi là thô tục, bỉ lậu, khinh miệt làm nhục, gọi là chỗ riêng tư, chẳng phải nơi công hội đông người, cũng gọi là tiết tức là áo lót.

Húc lệ ngược lại âm hư ngọc húc gọi là cố gắng hết sức, gắng sức, sách Phương Ngôn cho rằng: Tề Lỗ gọi gắng sức là húc khuyến khích, khích lệ cố gắng lên.

--------------------------------------

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 2

Siểm dịch ngược lại âm thức nhiễm âm dưới thức diệc siểm dịch đó là tạm thời, nhìn trộm, chớp mắt, không định, kinh văn viết chữ dịch là chẳng phải.

Lam lũ văn cổ viết chữ lam lại cũng viết chữ lam cũng đồng, ngược lại âm lực cam gọi là áo hư rách, phàm người mặc áo rách rưới xấu xí che đậy đều gọi là lam lũ. Bất trục lại viết chữ xúc cũng đồng, ngược lại âm trì lục âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Ngã theo đấu vết của bánh xe, cũng gọi là chần chừ, bù thêm vào, lại gọi là chỗ dấu chân của con trâu gọi là trục.

Trù mậu ngược lại âm trực lưu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trù mậu là dùng dây bó củi, theo truyện cho rằng: Trù mậu giống như là ràng buộc Quảng Nhã cho rằng: Trù là sợi dây thao, buộc sợi dây thao, âm thao ngược lại âm thổ lao.

--------------------------------------

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 3

Phiền lung ngược lại âm phò viên theo chữ phiền tức là cái lồng, Trang Tử dịch là con chim trĩ không mong cầu được nuôi trong lồng, phiền cũng là hàng rào.

Oanh oanh ngược lại âm hồ manh sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng xe chạy ầm ầm, rầm rầm.

Hồ hạp ngược lại âm hồ giáp sách Thuyết Văn cho rằng: Hạp là uống vào, Tử Hư Phú truyện nói rằng: Hạp là uống say, âm sáng nghĩa là áo nổi căng phồng lên, kinh văn viết chữ hồ hạp âm hổ ngược lại âm hồ giao.

Liệt xế ngược lại âm tại kế sách Thuyết Văn cho rằng: Hai bên bờ mắt, sách Sử Ký cho rằng: Viết chữ ngai xế ngược lại âm ngũ mại ngược lại cũng là âm tài mại gọi là quát mắng, trừng mắt, sách Hán Thư viết chữ ngai xế đều là nghĩa này, sách Hoài Nam Tử nói rằng: Sân là con mắt trợn nứt ra gọi trừng mắt.

Tốn độc ngược lại âm tô muộn Văn thông dụng cho rằng: Nước sông bắn vọt lên gọi là tổn Bì Thương cho rằng: Tổn là uống vào, kinh văn viết tôn là chẳng phải, âm hấp ngược lại âm phổ mạch.

Vi nhẫn lại viết chữ nhẫn cũng đồng, ngược lại âm như chấn sách Thuyết Văn cho rằng: Ngăn chặn chiếc xe, sách Sổ Từ cho rằng: Sớm sớm ngăn chặn chiếc xe, Vương Dật cho rằng: Dùng khúc gỗ chèn bánh xe ngăn chặn không cho bánh xe lăn.

Phong tế ngược lại âm tử nghệ sách Thuyết Văn cho rằng: Mưa vừa tạnh Nhĩ Nhã chú giải rằng: Người ở Nam Dương gọi mưa tạnh là tế.

--------------------------------------

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 4

Vũ bảo hoặc viết chữ vũ này cũng đồng, ngược lại âm bổ đạo Gọi là tụ hợp lại năm màu sắc lông vũ gọi là bảo Hán Thư cho rằng: Vũ bảo là năm màu sắc lông.

Hỏa dung ngược lại âm du chung sách Thuyết Văn cho rằng: Lò luyện kim Hán Thư cho rằng: Giống như là kim còn trong lò, nên gọi là thiết chì.

ÂM PHẬT SỞ HÀNH TÁN KINH TRUYỆN QUYỂN 5

Quan cổn ngược lại âm cô bổn sách Nhĩ Số cho rằng: Cổn là lễ phục, Quách Phác cho rằng: Là cái áo có cái yếm che có thêu, áo màu đen có viền thêu giống như rồng gọi là lễ phục của vua, kinh văn viết chữ tỷ là chẳng phải, âm bổ ngược lại âm bổ vật.

Yêm tư lại viết chữ yêm cũng đồng, ngược lại âm khi yêm âm dưới là tử từ kinh Sơn Hải nói rằng: Chim và chuột ở đồng một hang núi phía tây, cách ba trăm sáu mươi dặm có núi tên gọi là Yêm Tư, gọi là chỗ vào, sách Sổ từ nói rằng? Trông hướng núi Yêm Tư mà đến, Vương Dật cho rằng: Tên của núi dưới núi lại có hào nước trong khe sâu đó gọi là chỗ vào núi.

Sất vu ngược lại âm hư khất sách Nhĩ Số cho rằng: Sất là đến kịp lúc.

*******

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn âm.

Tiên thánh ngược lại âm trên tương nhiên theo truyện viết chữ tiên này là sai.

Hoán trạc ngược lại âm trên hồ quan theo Mao Thi Truyện nói rằng: Hoán cũng là trạc Lưu Triệu chú giải Công Dương truyện rằng: Trừ bỏ đi cấu dơ bẩn gọi là hoán. Kinh văn viết chữ hoán tục dùng thông dụng, hoặc là viết sai, viết chữ hoán cũng chẳng phải ngược lại âm dưới trực giác Quảng Nhã cho rằng: Tẩy rửa, Mao Thi Truyện nói: Tẩy rửa cấu uế dơ bẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy đến bộ trạc âm trạc ngược lại âm trực cách.

Thao thiết ngược lại âm trên thảo đao Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tham tài vật của cải gọi là thao sách Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thực đến bộ hao Hoặc là viết chữ thao nay tục viết chữ thao ngược lại âm dưới tha kiết Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Tham ăn gọi thiết sách Thuyết Văn viết từ bộ thực đến bộ khân kinh văn viết chữ thiết tục dùng cũng thông dụng, âm chân ngược lại âm chân nhẫn.

Phách cúc ngược lại âm trên phổ bách sách Thuyết Văn cho rằng:

Phách là đập, vỗ, phủi, chữ viết từ bộ thủ đến bộ bạch ngược lại âm dưới cung lục sách Thuyết Văn cho rằng: Cúc là cong tay lại bưng vật, hoặc là viết chữ cúc văn cổ viết chữ cửu căn truyện viết cúc tục dùng thông dụng.

Hồ nghê ngược lại âm hồ âm dưới ngũ hề Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nghê là con hươu con. Táo nhiễu ngược lại âm trên tử đáo Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Táo là không yên tĩnh, sách Ích Pháp cho rằng: Trong lòng dân hay biến động gọi là táo sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ túc đến bộ táo âm táo ngược lại âm tô đáo ngược lại âm dưới nhi chiểu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nhiễu là loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phiền nhiễu, chữ viết từ bộ thủ đến bộ ưu âm ưu ngược lại âm nô đao Văn Truyện viết từ thỉ đến bộ ưu đó là sai chẳng phải.

Pháp đình ngược lại âm dưới địch đinh Bì Thương cho rằng: Đình là ao nước sạch không chảy.

Khối lỗi ngược lại âm trên ngũ lỗi ngược lại âm dưới lợi ủy sách Thuyết Văn cho rằng: Khối là đá cao lỏm chỏm, Văn Truyện viết chữ khảo lỗi là chẳng phải.

Lao khải ngược lại âm trên lạc đao Cố Dã Vương cho rằng: Lao là nhà lao chắc chắn kiên cố, Quảng Nhã cho rằng: Bền chắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngưu gọi là lấy bốn chiếc thuyền làm vòng quanh lại, ngược lại âm dưới khai cải sách Thuyết Văn nói: Khải là áo giáp.

Lợi thốc ngược lại âm tông mộc sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thốc là đầu nhọn của mũi tên, sách Thuyết Văn cho rằng: Mũi tên đâm thẳng vào, âm thứ ngược lại âm thất tứ.

Vi can ngược lại âm dưới cát hãn hoặc là viết chữ can Văn Truyện viết chữ can là chẳng phải.

Kim cang chủy âm dưới là tức tùy văn truyện viết chữ chủy tục dùng thông dụng.

Ngôn bi ngược lại âm tất di sách Thuyết Văn cho rằng: Bì là cái búa lớn, âm tư ngược lại âm âm tử tư.

Phủ phất ngược lại âm trên phương vũ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Là thêu may, sách Khảo Công Ký cho rằng:

Xe sợi như là sợi trắng cùng với sợi chỉ đen đánh dệt đan vào nhau gọi là phủ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giống như lông con dê con và lông con cáo xen lẫn với nhau đen trắng gọi là phất có vằn có đóm, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Phủ là hoa văn thêu để trang sức trên lễ phục ngày xưa, hình như cái búa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trĩ đến bộ bổ Văn Truyện viết chữ phủ là chẳng phải, âm trĩ nhân tri trĩ. Ngược lại âm dưới là phương vật sách Khảo Công Ký cho rằng: Thêu vẽ đánh sợi đen cùng với sợi chỉ xanh đan xen vào nhau gọi là phất. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Phất là thêu viền mép, sách Thượng Thư cho rằng: Phủ phất là thêu thùa, xe sợi sách Thuyết Văn viết từ bộ trĩ đến bộ bạt Văn Truyện viết chữ phất là chẳng phải âm bạt ngược lại âm bàn bát.

Trĩ lập ngược lại âm trì lý sách Thuyết Văn cho rằng: Trĩ là bước đi mà không tới phía trước chữ viết từ chỉ đến bộ tư hoặc là viết chữ trĩ văn truyện viết từ bộ lập viết thành chữ trĩ là chẳng phải.

Đâu thuật cung ngược lại âm trên đẩu hầu văn truyện viết chữ đâu này là sai.

Du ư ngược lại âm trên du chu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Du là vượt qua, sách Bátnhã cho rằng: Đi xa hoặc là cũng viết chữ du.

Thiết chân ngược lại âm trên Thiên Kiết sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kim đến bộ thiết âm thiết ngược lại âm điền kiết Văn Truyện viết chữ thiết tục dùng thông dụng, ngược lại âm dưới diệp lâm hoặc là viết chữ châm viết đúng là chữ châm.

Phu tiên ngược lại âm trên phủ vô Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phu là công bố lại cũng gọi là thư thả, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phộc đến bộ phu âm phộc ngược lại âm phổ mộc âm phu ngược lại âm phủ vô âm dưới là tương nhiên sách Bát Nhã cho rằng: Tiên là còn tươi tốt, Tự Thư cho rằng: Trong sạch.

Quý sầu ngược lại âm trên là quý quý Quảng Nhã cho rằng: Quý là phẫn nộ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tâm giao động tim đập mạnh, vì sợ hãi.

Cự quang ngược lại âm trên là cự cử sách Thuyết Văn cho rằng: Cự là lấy cỏ bó lại đốt làm cây đuốc chiếu sáng Văn Luận viết chữ cự cũng đồng, ngược lại âm dưới quảng hoàng sách Thuyết Văn cho rằng: Quang là ánh sáng, chữ viết từ bộ hỏa trong bộ nhân trên gọi là sáng tỏa quang minh, Văn Truyện viết chữ quang tục dùng cũng thông dụng.

Vi khoang ngược lại âm dưới hoạt quan Bì Thương cho rằng: Khoan là xương mông, Quảng Nhã cho rằng: Xương mông đít, Bì Thương cho rằng: Cũng là xương tận cùng của xương sống, ở mông đít, sách Thuyết Văn cho rằng: xương đùi. Văn Truyện viết chữ Khoan tục dùng cũng thông dụng, âm hạng ngược lại âm ngũ hoàn âm khả ngược lại âm âm khả ca âm đồn ngược lại âm đồ môn âm khào ngược lại âm khảo cao.

Bã ngã ngược lại âm trên bác ngã ngược lại âm dưới ngũ khả sách Thuyết Văn cho rằng: Bã ngã là cái đầu lắc lư, văn truyện viết chữ khả.

Hoảng dục ngược lại âm trên hoàng quảng Quảng Nhã cho rằng: Hoảng là chói sáng, rực rỡ, sách Bát Nhã cho rằng: Ánh sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chiếu sáng rõ ràng, ngược lại âm dưới dung chúc Quảng Nhã cho rằng: Dục là ngọn lửa bừng lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngọn lửa sáng rực chữ viết từ bộ hỏa thanh dục Văn Truyện viết dục là chẳng phải âm dục ngược lại âm dĩ chúc.

Uyển diên ngược lại âm trên ư viễn uyển là áo thêu, lại chú giải rằng: Uyển là áo chùng tức là áo choàng, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Quai mũ cũng là áo rộng lớn, ngược lại âm dưới diễn tiền Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Diên là cái mũ che trên, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Miển che trên, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch đến bộ diên âm dùng ngược lại âm trực long âm hoành ngược lại âm hộ manh âm mịch ngược lại âm mịch bích.

Miêu duệ ngược lại âm dĩ chế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Duệ là gấu áo, tức là phần viền của áo, phần lai của quần, sách Thuyết Văn viết từ bộ y Thanh Cảnh.

Nãng cửu ngược lại âm nhạ lang Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nãng là ngày xưa, trước kia, trước đây, sách Nhĩ Nhã, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng giải thích đồng âm hướng ngược lại âm hứa lượng.

Niên kỳ ngược lại âm cự di sách Lễ Ký cho rằng: Sáu mươi tuổi gọi là kỳ chỉ huy, sai khiến, sách Thuyết Văn viết chữ kỳ này là sai, chẳng phải.

Nhãn hiệp ngược lại âm dưới tử diệp sách Trang Tử nói rằng: Hiệp là bên mi mắt, lông mi, Văn Truyện viết chữ tiệp tục dùng thông dụng.

Định hộ ngược lại âm thi ngô cũng đồng, với chữ hô đồng tức là san hô.

Trù điệu ngược lại âm trên là trắc giao Thiên Thương Hoét ghi rằng: trù cũng là điều sách Thuyết Văn cho rằng: Trù là dương dương tự đắc, Văn Truyện viết chữ trào tục dùng thông dụng, ngược lại âm dưới điều điếu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Điều là lấy lời nói chế nhạo, cười nhạo. Quảng Nhã cho rằng: Khinh khi, ngông cuồng, dối trá.

Khiêu cân ngược lại âm trên địch liêu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khiêu là nhảy vượt qua, Trịnh Huyền chú giải sách Thượng Thư Đại truyện rằng: Chân không thể bước qua, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhảy qua ngược lại âm dưới cổ âm Thích Danh cho rằng: Gót chân sau gọi cân sách Thuyết Văn viết từ bộ túc đến bộ cấn hoặc là viết chữ cân cũng đồng.

Lan thuẫn ngược lại âm trên lạc hàn Thiên Thương Hoét ghi rằng: Lan là che trùm trên, Quảng Nhã cho rằng: Nhà lao chắc chắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy cây gỗ che trên để ngăn ngừa kẻ trộm viết từ bộ môn đến bộ lan văn truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ lan là chẳng phải, ngược lại âm dưới thực duẫn sách Hán Thư cho rằng: Hàng rào lan can trên điện (786) gọi là thuẫn Thượng Lâm Phú truyện cũng cho rằng: Là lan là hàng rào, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc đến bộ thuẫn âm lan là âm luyện âm thuẫn là âm thuẫn.

Thể trứu ngược lại âm dưới trắc sưu sách Vận Lược nói: Trứu là da tụ lại, tức là da nhăn, Văn Truyện viết chữ trứu tục dùng cũng thông dụng.

Thượng đỉnh ngược lại âm đinh định.

Nhuyễn động ngược lại âm trên nhuận chuẩn sách Thuyết Văn nói: Nhuyễn là côn trùng bò lúc nhúc, chữ viết từ bộ trùng đến bộ nhuyễn Văn Truyện viết chữ nhuyễn là chẳng phải âm nhuyễn ngược lại âm nhi nhuyến âm trĩ ngược lại âm trì nhĩ.

Quang thuyên ngược lại âm trên quảng hoàng ngược lại âm dưới thuyên nhuyễn thuyên là đường ruột bị bệnh, chữ viết từ bộ nhục đến bộ đoan Văn Truyện viết chữ bác tục dùng cũng thông dụng. Âm phì là âm phi âm trường ngược lại âm trượng lương âm đoan ngược lại âm đoản loan.

Bể thượng ngược lại âm trên bộ mễ sách Thuyết Văn cho rằng: Bể là xương đùi ngoài, văn truyện phần nhiều viết chữ bệ đó là chẳng phải.

Kiểu thiên ngược lại âm trên ngữ liêu.

Sử lưu ngược lại âm trên sư sự Thiên Thương Hoét cho rằng: Sử là chạy mau, ngựa phi nhanh.

Tý dung ngược lại âm trên ty nghị sách Thuyết Văn cho rằng: Cánh tay trên gọi là tý chữ viết từ bộ nhục đến bộ tích ngược lại âm dưới sắc long sách Nhĩ Nhã cho rằng: Dung là trên dưới đều nhau, Văn Truyện viết chữ dung là sai.

Loa súc ngược lại âm trên lạc hòa sách Thuyết Văn cho rằng: Loa là con ốc sên hoặc là viết chữ loa Văn Truyện viết chữ loa là sai, ngược lại âm dưới là sở lục.

Cường lương ngược lại âm dưới là lực trương Văn Truyện viết chữ truân là chẳng phải.

Diên di ngược lại âm trên tiện diên sách Thuyết Văn cho rằng: Diên là nước dãi trong miệng, chữ viết từ bộ thủy đến bộ khiếm Văn Truyện viết chữ diên tục dùng cũng thông dụng, hoặc là viết chữ diên văn cổ viết chữ diên, ngược lại âm dưới là dĩ chi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Nước dãi gọi là thế nước mũi gọi là di sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy đến bộ di. Nay kinh văn phần nhiều viết chữ thế giải thích gọi là nước dãi chẳng phải nước mũi.

Yên hung ngược lại âm trên yên hiền Quảng Nhã cho rằng: Yên là yết hầu, cổ họng, hoặc là viết chữ yến văn cổ viết chữ yên sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục đến bộ nhân Ngược lại âm dưới húc cung sách Bát Nhã cho rằng: Hung là ức sách Thuyết Văn cho rằng: Hung là ngực chữ viết từ bộ bao đến bộ hung Văn Truyện viết từ bộ hung đến bộ nhục viết thành chữ hung tục dùng cũng thông dụng, âm bao là âm bao.

Ky lạt ngược lại âm ký nghi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Lấy sợi dây cương buộc đầu con ngựa gọi là ky sách Bát Nhã cho rằng: Cũng gọi là sợi dây cương, sách Thuyết Văn viết từ bộ võng đến bộ ky văn cổ viết chữ ky ngược lại âm dưới lực đắc Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Lấy sợi dây trắng, đen đan lại làm trang sức gọi là tạp sắc, màu sắc lẫn lộn gọi là lạt sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng làm chế ngự mõm con ngựa, âm liệu ngược lại âm biểu miêu.

Kim tiếu ngược lại âm tiêu yếu sách Phương Ngôn cho rằng: Tiếu là bao đựng kiếm đao, hoặc là viết chữ tiếu văn cổ phần nhiều viết chữ tước.

Chu bà ngược lại âm bách giá.

Khang tiều ngược lại âm khang lãng sách Thuyết Văn cho rằng: Khang là làm cho khô, văn truyện viết khanh là chẳng phải, ngược lại âm dưới tử diêu Quảng Nhã cho rằng: Tiều là ngọn lửa cháy làm thương tổn, sách Vận Lược cho rằng: Cũng làm cho khô ráo, sách Thuyết Văn viết chữ tiều văn cổ viết chữ tiều.

Thế khắp ngược lại âm trên tha lễ theo Mao Thi Truyện nói: Thế là nước mũi, nước dãi. Lại chú giải rằng: Nước mắt do khóc chảy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước mắt, ngược lại âm dưới khâm lập sách Thuyết Văn cho rằng: Nước trong con mắt chảy ra do xúc động khóc.

Mục huyễn ngược lại âm huyền miến Thiên Thương Hoét ghi rằng: huyễn là nhìn mà không thấy rõ, sách Bát Nhã cho rằng: Con mắt bị che, mê hoặc, sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt không làm chủ bình thường.

Hoắc nhiên ngược lại âm trên hang quách.

Ẩn chân ngược lại âm trên, âm cẩn ngược lại âm dưới chân nhẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Ẩn chân đó là trên da có phong nổi lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật đến bộ chân Văn Truyện viết từ bộ nhục viết thành phiêu dẫn là chẳng phải âm tật ngược lại âm nữ ách âm chân ngược lại âm chân nhẫn.

-Quyển 2: không có âm giải thích.

--------------------------------------

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 3

Đảm liển ngược lại âm trên đam lạm Tự thư cho rằng: Đảm là gánh vác vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ đến bộ đảm viết từ bộ mộc đó là chẳng phải vậy, ngược lại âm dưới liên triển Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Người nước Yên gọi là liển sách Thuyết Văn cho rằng: Là chiếc xe kéo, chữ viết từ bộ bạn đến bộ xa chiếc xe phía trước có hai người kéo, âm bạn là âm bạn.

Hủy thế ngược lại âm trên huy quỷ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hủy là con rắn thân to rộng ba tấc, đầu lớn như ngón tay người. Nay lại gọi là phúc hủy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trùng đến bộ ngột ngược lại âm dưới thổ ngoại Tự Lâm cho rằng: Con rắn lột da là thuế âm trùng ngược lại âm hứa quỷ.

Tiểu tật ngược lại âm trợ hào theo Nhĩ Thất truyện chú giải rằng: Tiểu là rất nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, sách Bát Nhã cho rằng: Dùng sức mạnh trừ bỏ đi.

Tạp nữu ngược lại âm dưới nữ cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nữu cũng là tạp sách Nhĩ Nhã cùng với sách Thuyết Văn nói rằng: Giải thích cũng đồng nhau, Văn Truyện viết chữ nhu giải thích cũng đồng, nghĩa là xen tạp, lôn xộn, lung tung.

Mã đấu ngược lại âm đô hầu Thiên Thương Hoét cho rằng: Tranh đấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Gặp, hai bên gặp nhau, tức là đấu, chữ viết từ bộ đẩu đến bộ trác đấu cũng là âm, ngược lại âm đương hầu âm trác ngược lại âm đinh giác Văn Truyện viết từ bộ môn viết thành chữ đấu đó là sai, chữ đấu từ hai chữ nghịch âm nghịch ngược lại âm cư nghịch.

Hổ lang ngược lại âm trên hồ cổ Cố Dã Vương cho rằng: Con hổ thú cắn xé người, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hán Nghi Đế lúc ở Quận Nam bắt được con hổ trắng, hiến dâng cho vua lột da lấy xương, răng, móng là vậy, ngược lại âm dưới lang đường sách Thuyết Văn cho rằng: lang giống như là con chó, nói là cái đầu nó trắng, hai bên má cao, phía trước rộng hơn sau, chữ viết từ bộ khuyển đến bộ lương.

Chỉ phãng ngược lại âm trên chỉ di Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Chỉ là mở tụ đọng lại, ngược lại âm dưới phóng phòng sách Thuyết Văn cho rằng: Phãng cũng là chất béo cao lại, chữ viết từ bộ nhục thanh phương.

Trù túc ngược lại âm trên trực như theo Hàm Thi truyện nói rằng: Trù trừ, do dự, dùng dằng, âm trù ngược lại âm trực lưu âm trịch ngược lại âm trình thạch âm xúc ngược lại âm trùng lục.

Kim đồng ngược lại âm dưới là động đông. Lăng xử ngược lại âm lặt đăng.

Nhu tiển ngược lại âm trên nhĩ do Thiên Thương

Hoét ghi rằng: Nhu cũng là tiền sách Lễ Ký và sách Thượng Thư giải thích cũng đồng, ngược lại âm dưới là tiền tiên Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiển là mang giày dép giẫm đạp lên, nói là mang giày dép mà đi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc đến bộ tiển âm tiển ngược lại âm tại hàm.

Đình liệu ngược lại âm trên định đinh sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiễm đến bộ đình văn truyện viết từ bộ hỏa viết thành chữ đình là chẳng phải âm nghiễm ngược lại âm ngư liêm âm đình là âm đình ngược lại âm dưới là lực chiêu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lấy cỏ gai khô làm cây nến đốt phía ngoài cửa gọi là cây nến lớn, bên trong sân gọi là đình liệu chỗ gọi là chiếu nhiều ánh sáng, sách Thuyết Văn viết chữ liệu.

Cô cán ngược lại âm trên cổ hồ Văn Truyện viết chữ cô là chẳng phải ngược lại âm dưới cát hãn viết đúng là chữ cán cũng viết chữ cán hoặc là viết chữ can Văn Truyện viết chữ can là chữ mượn âm.

--------------------------------------

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 4

Bị điệp ngược lại âm dưới đan hiếp.

Nạo giảo ngược lại âm trên hồ cao Quảng Nhã cho rằng: Nạo là quấy rối làm loạn, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Quấy rối nhiễu loạn, Văn Truyện viết chữ hao là chẳng phải ngược lại âm dưới giao xảo Mao Thi Truyện chú giải rằng: Giảo là quấy rối nhiễu loạn, sách Bát Nhã cho rằng: Quấy phá, khuấy động, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ đến bộ giác thanh giác.

Thán trá ngược lại âm dưới trắc giá sách Khảo Thanh cho rằng: Sá là đàn cong lưỡi lên làm thanh tiếng. Hán Thư cho rằng: Trá là la hét, quát tháo, Tự thư cho rằng: Rất giận dữ phẫn nộ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng chê trách chữ viết từ bộ khẩu đến bộ trạch ngược lại âm trác cách Văn Truyện viết từ bộ trạch viết thành chữ trá Là chẳng phải.

Hịch áp ngược lại âm trên là hình kích ngược lại âm dưới ô hạp.

Hãn trí ngược lại âm âm trên hồ hãn Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: hãn là hiếm thấy, ít có, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ võng đến bộ can là chẳng phải, ngược lại âm dưới là trực lợi Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trí là dày đặc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch.

La duyệt kỳ thành ngược lại âm khung tuyết ngược lại âm dưới cự di.

Nhương hắc ngược lại âm lý di.

Liêu trích ngược lại âm trên lực điêu sách Bát Nhã cho rằng: Liêu là nắm lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Khơi động ra, bới móc, ngược lại âm dưới trình thạch sách Thuyết Văn cho rằng: Trích là ném Văn Truyện viết chữ trịch tục dùng cũng thông dụng.

A-lạp ngược lại âm lam đáp.

Tích lịch ngược lại âm trên phổ mịch ngược lại âm dưới là lữ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tích lịch đó là tiếng sấm sét chấn động, Văn Truyện viết chữ tích lịch là chẳng phải.

Câu-siểm ngược lại âm trên củ ngu âm dưới là thất nhiễm tiếng Phạm.

Tân miễn ngược lại âm nô hầu.

Anh vũ ngược lại âm trên ách canh ngược lại âm dưới vô phủ sách Lễ Ký cho rằng: Anh vũ là loài chim có thể nói được tiếng người, bay không rời nhau, văn trước trong kinh Đại Bát Nhã đã giải thích đầy đủ rồi sách Thuyết Văn viết chữ hạt.

Sài báo ngược lại âm trên là sừ nhai ngược lại âm dưới bao mạo Văn Truyện viết chữ phụ báo là chẳng phải.

Quy miệt ngược lại âm trên thúc truy Bạch Hổ Thông cho rằng: Quy là loài thủy tộc sống lâu. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Một thước hai tấc, gọi là con rùa lớn xuất ra từ chín con sông, sống trong nước. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Ngô Hưng Quận Dương Tiện có một cái ao, trong ao xuất ra ba chân con rùa, lại cũng có sáu con mắt, rùa sống dưới đất, nơi chỗ gọi là địa lý phong thổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ tượng hình ngược lại âm dưới tiên diệt trong kinh Sơn Hải nói rằng: Miết là con ba ba, phần nhiều sống khe núi có ba chân, Văn Truyện viết chữ miết tục dùng thông dụng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mảnh đến bộ tệ âm mảnh là âm mảnh âm tệ ngược lại âm tỳ duệ.

Cù dục ngược lại âm trên cụ ngu âm dưới là dục Cố Dã Vương cho rằng: Cù dục thuộc loại chim yểng, lưỡi nó nhọn, có trăm nhánh, đầu chim có hai lông cứng, sách Khảo Công Ký cho rằng: Cù dục không bay vượt qua sông, Văn Truyện viết chữ cù cũng thông dụng.

Phách liệt ngược lại âm trên phổ mịch Bì Thương cho rằng: Phách là cắt ra, sách Thuyết Văn nói là phá ra, chữ viết từ bộ đao đến bộ tích Văn Truyện viết chữ tích là chẳng phải âm dưới là liệt.

--------------------------------------

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 5

Thâm thúy ngược lại âm dưới tuy toại sách Thuyết Văn cho rằng: Thúy là sâu xa, chữ viết từ bộ huyệt đến bộ toại âm huyệt ngược lại âm hồ quyết.

Sang bị ngược lại âm trên sở thương chữ mượn âm, hoặc là viết chữ sang văn cổ viết chữ nhẫn.

Thiết trước ngược lại âm trên thiên kiết sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kim đến bộ thiết âm thiết ngược lại âm điền kiết ngược lại âm dưới là trực lược Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ trước là chẳng phải.

Du liệp ngược lại âm dưới liên triếp Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Liệp là săn bắt lấy. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đuổi theo con thú chữ viết từ bộ khuyển đến bộ liệp Văn Truyện viết chữ liệp tục dùng cũng thông dụng, liệp cũng là âm liệp

Cốc cứu ngược lại âm dưới là cửu hựu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cứu là chuồng ngựa, Văn Truyện viết chữ cứu tục dùng cũng thông dụng.

Huệ phê ngược lại âm thôi khuê sách Thuyết Văn viết từ bộ chuyên đến bộ tâm ngược lại âm dưới (787) lữ chế kinh Sơn Hải cho rằng: Phê loại đá mài dao, sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch văn truyện viết lệ tục dùng cũng thông dụng, âm chuyên ngược lại âm thuyên quyến.

Trung si ngược lại âm dưới di chi sách Vận Anh cho rằng: Si là nước trong con mắt kết đọng lại, gọi là ghèn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt bị bệnh.

Noa thủ ngược lại âm nải hòa sách Thuyết Văn cho rằng: Noa là dùng tay nắm vuốt, xoa, chà, chữ viết từ bộ thủ đến bộ noa âm sa ngược lại âm tô hòa âm noa ngược lại âm tha quả.

Hám đầu ngược lại âm trên hàm cảm Quảng Nhã cho rằng: Hám là dao động, sách Thuyết Văn cho rằng: Lung lay, chữ viết từ bộ thủ đến bộ cảm.

Ky bạn ngược lại âm ký nghi Văn Truyện viết chữ ky là chẳng phải văn trước quyển thứ hai đã giải thích rồi, ngược lại âm dưới là bát bang sách Khảo Thanh cho rằng: Bạn là buộc hai chân lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Trói buộc chân ngựa, theo chữ trấp cũng là dây cương trói buộc ngựa. Văn truyện viết từ bộ cánh viết thành chữ bạn là chẳng phải, âm trấp ngược lại âm tri lập.

Kiếm kích ngược lại âm dưới là kinh nghịch theo Thanh Loại cho rằng: Kích là loại binh khí, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nay cây kích dài ba liêm, sách Chu Lễ cho rằng: Cây kích dài một trượng sáu, Quách Phác chú giải Phương Ngôn rằng: Nay trong cây kích có mũi dao nhỏ, nhọn là hùng kích, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ qua đến bộ can Văn Truyện viết tóm lược, viết chữ kích tục dùng thông dụng cán là âm cổ thả.

Như phốc ngược lại âm phổ bốc Quảng Nhã cho rằng: Phốc là đánh, Cố Dã Vương cho rằng: Phốc giống như đánh bằng chày, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ đến bộ bộc âm bộc ngược lại âm bổ mộc.

--------------------------------------

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 6

Liệt toát ngược lại âm trên lân kiết Quảng Nhã cho rằng: Liệt là xe xoắn, quay, Bì Thương cho rằng: Liệt là vặn bẻ, viết đúng là chữ liệt ngược lại âm dưới cảm quát sách Thuyết Văn cho rằng: Toát là dùng tay nắm giữ sợi dây.

Phảng phất ngược lại âm trên phương võng ngược lại âm dưới phi bất theo Thanh Loại cho rằng: Phảng phất là thấy không chính xác, mơ hồ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tiêu âm tiêu ngược lại âm biểu miêu.

--------------------------------------

BỔN HÀNH TÁN QUYỂN KINH QUYỂN 7

Hấp thậm ngược lại âm trên áp hạm ngược lại âm dưới trực cảm theo Thanh Loại cho rằng: Hấp thậm là rất đen, đen thâm, Cố Dã Vương cho rằng: Không sáng sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ hắc đến bộ hấp Văn Truyện viết từ bộ hắc viết thành chữ yểm cũng thông dụng, âm hấp ngược lại âm yểm liểm.

Đạm nhuận ngược lại âm trên đàm lam Quảng Nhã cho rằng: Đạm là lững lờ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước dao động, chữ viết từ bộ thủy đến bộ chiêm âm chiêm ngược lại âm thức liêm.

Bà quắc ngược lại âm trên bạch ma ngược lại âm dưới cư bích lại cũng âm cuống phược Thiên Thương Hoét ghi rằng: Quắc là nắm lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng móng vuốt giữ lấy, hoặc là viết chữ quặc cũng đồng nghĩa, chụp lấy, vồ lấy.

Hao thán ngược lại âm hồ cao sách Bát Nhã hao là tiếng thét lớn, ồn ào. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiếng rên đau nhức, chữ viết từ bộ hao đến bộ hổ Văn Truyện viết chữ hao là tiếng hổ gầm rống, chẳng phải chữ nghĩa đây dùng, âm hiểu ngược lại âm hứa kiêu.

Mị ngữ ngược lại âm trên nghê kế theo Thanh Loại cho rằng: Mị là ngủ không biết nói mê vọng, Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành chữ mị là chẳng phải.

Tận thanh ngược lại âm trên tân dẫn.

Lâu lổ ngược lại âm trên lổ hầu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bốn mặt đều cao, gọi là chỗ hiểm trở, nơi vùng biên giới chật hẹp mà có chỗ cong ngoằn ngoèo gọi là lâu sách Thuyết Văn cho rằng: Nhà chòi gác, lại âm dưới lô cổ Văn Tự Tập Lược nói: Lổ là cái thuẫn lớn, cũng là trên thành lâu, trên có chòi gác canh giữ địch quân.

Nguy thúy ngược lại âm trên ngụy vi ngược lại âm dưới thất tuế Quảng Nhã cho rằng: Thúy là mềm yếu dễ gãy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục đến bộ nguy thanh tĩnh.

Giấc lực ngược lại âm trên giang nhạc Quảng Nhã cho rằng: Gọi là dùng sức mà kéo lôi ra.

*******

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn

Dũ đọa ngược lại âm du nhủ gọi là lười biếng uể oải, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Dũ là lao nhọc, Quách Phác nói: Lao nhọc nhiều, nên sanh ra uể oải lười nhác.

- Quyển 2, 3 không có giải thích từ.

-------------------------------------

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 4

Lộc nghê lại viết chữ nghê cũng đồng, ngược lại âm mạc hề sách Nhĩ Nhã cho rằng: Con hươu đực là mê con hươu cái gọi là u cũng gọi là con hươu con, âm hà là âm da âm u ngược lại âm ư ngưu.

- Quyển 5, 6 không có âm giải thích từ

-------------------------------------

TUYỂN TẬP BÁCH DUYÊN KINH QUYỂN 7

Tháp tranh ngược lại âm trạch canh theo chữ tranh giống như là cột trụ, cây cột trụ của tháp phù đồ đều là vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Tranh là quan tài nơi thờ linh cốt.

*******

XUẤT DIỆU KINH

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 1

Vũ bảo viết đúng nghi là chữ bảo lại viết chữ bảo cũng đồng, ngược lại âm bổ đạo gọi là hợp tụ năm màu sắc lông gọi là bảo.

Sáp thấu văn cổ viết chữ tập lại viết chữ sáp cũng đồng, ngược lại âm tử hạp Văn thông dụng cho rằng: Nhập vào miệng gọi là táp ngược lại âm dưới lại viết chữ thác Cũng đồng, ngược lại âm sở giác Tam Thương cho rằng: Thấu là bú sữa, Văn thông dụng cho rằng: Là hít vào uống vào gọi là thấu.

Si hưu ngược lại âm xích chỉ ngược lại âm hứa ngưu sách Nhĩ Số cho rằng: Giống chim kỳ quái, người ta còn gọi là quái điểu. Lại cũng gọi là hưu tức là chim cú mèo, ở Nam Dương gọi là câu khách.

Siểm kiến Tự Thư hoặc là viết chữ chiên cũng đồng, ngược lại âm thức nhiễm sách Thuyết Văn cho rằng: Siểm là thò đầu vào trong cửa nhìn trộm.

Kiêu kỳ thủ ngược lại âm chiêm nhiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Cái đầu treo ngược, gọi là đoạn đầu treo ngược, tội ác bêu đầu nơi hàng quán ngoài chợ, chữ hoặc là viết chữ kiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Loài chim bất hiếu khi mùa đông đến gọi là bắt chim mẹ xé ra mà ăn thịt, cái đầu treo trên cây, hai chữ tượng hình trên đều thông dụng.

Diên thực ngược lại âm thức diên ngược lại âm dưới thời lực Tự Lâm cho rằng: Diên là mềm yếu, nay nói là mềm mại, thuận theo nắm kéo dẫn dắt, hòa với đất, đất dính dẻo gọi là thực, Thích Danh cho rằng: Đất màu vàng mà nhuyễn mịn gọi là thực, tức là đất màu mở, giống như có chất béo.

Dĩ trữ lại viết chữ trữ cũng đồng, ngược lại âm trừ lữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái thoi dệt, hai bộ phận của máy dệt, tức nay gọi là khung cửi.

Tuy bà thi đây dịch là chủng chủng kiến.

Tháo trượng ngược lại âm thô lao sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là cầm lấy giữ lấy, cũng nắm lấy.

Tập tại ngược lại âm trắc lập tập là gom lại tụ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Tập là chỗ cất chứa binh khí.--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 2

Dăng tiềm ngược lại âm tử liệp sách Thuyết Văn cho rằng: Tiềm là ngậm lại. Cắn răng lại, sách Trang Tử nói con muỗi cắn chích ngoài da.

Khấu địa ngược lại âm khổ hậu khấu là đánh gõ.

Nghễ ế ngược lại âm hoàn sạn gọi là con mắt bệnh có màng trắng.

Văn Luận viết là hoàn chân hai chữ tượng hình này chẳng phải.

Ô tặc ngược lại âm ư hồ âm dưới lại viết tặc tức hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tài lặc Bì Thương cho rằng: Ô tặc là con cá dưới bụng nó đen, có xương xuất ra ngoài, ở Quận Nam Hải có con cá trên lưng có một xương rộng hai tấc, có râu rất dài trong miệng có mực chảy ra, con mắt lồi tức là con cá người vào trong biển lớn. Lại ghi rằng loại cá ôm miếng ván cho nên có tiểu sử cá này là con mực.

Trùng khủ lại viết chữ khủ cũng đồng, ngược lại âm khưu vũ sách Thuyết Văn cho rằng: Khủ là răng bị sâu ăn.

Linh cữu ngược lại âm cự cứu sách Tiểu Nhã cho rằng: Trong quan tài có xác chết gọi là cữu quan tài rỗng không sấn cữu lại cũng nói là cừu Bạch Hổ Thông cho rằng: Cữu đó là nói lâu dài người không lại biến đổi.

Đào hà chữ viết đúng nghi là đào ngược lại âm đồ đao Trung Quốc nói là đào hà tức là móc lấy ra, Giang Nam nói hệ lưu cũng nói là lê lưu gọi là cây cỏ mọc hoang sơ gọi là đào hà chữ đệ cũng viết là di Quách Phác chú giải Tam Thương âm lê ngược lại âm đại hề.

Bạch lộ Tự Thư viết chữ biện cũng đồng, ngược lại âm lại cố gọi là chim trắng, tức con cò, cánh trên lưng, từ đầu tới cánh trên lưng từ đầu tới cánh trên đều trắng, có bộ lông dài, Văn Luận cũng có viết chữ ngật âm ngật ngược lại âm hồ cốt.

Quán tước lại cũng viết chữ quán cũng đồng, ngược lại âm cổ loạn loài thủy điểu tức âm tướng cả hai tức kêu gáy.

Phì lỗi lại viết chữ phì cũng đồng, ngược lại âm bổ tội âm dưới là lực tội phì lỗi là bệnh phù thủng nhỏ, nay lấy nghĩa này.

Tự quắc viết đúng nghi là quặc ngược lại âm câu phược quặc là chịu cắt phân chia, chụp lấy, nắm giữ, vồ lấy.

Cốt cán lại viết cán cũng đồng, ngược lại âm, ngược lại âm cổ ngạn Quảng Nhã cho rằng: Cán gọi là xương sườn, xương hai bên hông, cũng viết chữ cán là đúng thể.

Khoa vô ngược lại âm khổ hoa Văn thông dụng cho rằng: Kiêu căng tự đại gọi là khoa sách Ích Pháp nói: Khoa là khoe khoang nói không có thật gọi là khoa.

Sang di văn cổ viết chữ sang nhẫn hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm sở lương sách Thuyết Văn cho rằng: sang là bị thương, ngược lại âm dưới, dương chi Văn thông dụng cho rằng: Thân thể vết thương đã lành còn để lại sẹo gọi là di sẹo trên đầu gọi là dương.

Dược mẫu ngược lại âm vong hậu Văn Luận viết chữ thược dược âm dưới là mẫu theo chữ gọi là giống cái và giống đực, chỗ gọi là phong cố là bức tường vững chắc đóng lại, khiến không thể mở ra được Văn Luận viết chữ mẫu này là chẳng phải thể.

Gian quỉ văn cổ viết chữ quỉ thù hai chữ cũng đồng, ngược lại âm cư mỹ Quảng Số cho rằng: Quỉ là kẻ trộm theo Tử Truyện cho rằng: Ở bên trong gọi là gian bên ngoài giáo gọi là quỉ lại cũng gọi là loại, bên trong là quỉ sách Quốc Ngữ nói kẻ trộm tài báu quý giá gọi là quỉ bởi vì quỹ là tài sản của cải cất trong hòm, rương là quỉ cũng là gian.

Tiêu hoàn ngược lại âm tử điền âm dưới văn cổ viết là hoán cũng đồng, ngược lại âm hồ mãn tiên là tẩy rửa, hoán cũng là rửa tẩy trạc cho sạch sẽ.

Hướng pháp thứ pháp hoặc nói rằng: Pháp thứ pháp hướng, gọi là vô vi là diệt đế, là chỗ hướng pháp hữu vi, đạo đế là có thể hướng đến đạo đế là diệt cho nên gọi là thứ pháp, dựa theo đạo đế mà tu hành, cũng nói như thuyết mà tu hành.

Vũ nha ngược lại âm dưới là ngũ da Quảng Nhã cho rằng: Nhà chính dưới cũng đồng là nhà gọi là vũ gọi là nhà nhỏ, cái chái bên nhà lớn, để khách ở trọ nhà, nay người ta gọi là phòng trọ lớn, nơi làm việc công.

Thương oán ngược lại âm ô hoán Tư Lược cho rằng:

Oán than thở, kinh dị.

Quát quát ngược lại âm cổ hoạt lại cũng viết chữ quát cũng đồng, Văn thông dụng cho rằng: Đầu mũi tên nhọn gọi là quát Thích Danh cho rằng: Quát là bao gồm tập trung tụ hội, cùng nhau tụ hợp bàn luận.

Bằng sĩ ngược lại âm bì băng Tam Thương cho rằng: Bằng là dựa vào âm dưới văn cổ lại viết chữ sĩ ba chữ tượng hình đều đồng, ngược lại âm sàng sử sách Nhĩ Số cho rằng: Sĩ là đợi chờ.

Dẫn hệ lại viết chữ đà duyên hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm trực nhẫn gọi là dùng sợi dây xỏ lỗ mũi con trâu, Quảng Nhã cho rằng: Dẫn là sợi dây lớn.

Anh quán ngược lại âm ư tinh sách Thuyết Văn cho rằng: Giải buộc mũ, tua mũ gọi là anh âm dưới là sĩ hoàn gọi là xâu xuyên qua, Văn Luận viết chữ anh quán hai chữ tượng hình này là chẳng phải.

Kiều khách ngược lại âm kỳ kiêu kiều là người khách ở làng khác đến ở trọ, Quảng Số cho rằng: Kiều là người khách, Văn Luận viết chiều kiều là cao, kiều là vừa mới, kiều chẳng phải nghĩa đây dùng.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 3

Phiên thiêu lại viết chữ phiền cú ngược lại âm phò viên thêm lửa gọi là phiền phiền là thiêu đốt.

Ư tư văn cổ viết chữ tư hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tử tà sách Nhĩ Nhã nói: Giăng lưới bắt thỏ gọi là tư Quách Phác nói: Tư là tấm lưới che trùm ở trên, che để bắt thỏ.

Sàn sàn ngược lại âm sĩ sơn sĩ hoàn hai âm Tự Thư nói nước chảy róc rách, tí tách, theo đường núi đi sáu, bảy dặm nghe tiếng nước chảy róc rách.

Trập trùng ngược lại âm trì lập sách Thuyết Văn cho rằng: Trập là loài côn trùng mùa đông ẩn mình bất động, theo Mao Thi Truyện giống như con gấu, con bi đều thuộc giống thú mùa đông ẩn mình trong hang.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 4

Thân khoản lại viết chữ khoản cũng đồng, ngược lại âm khẩu hoản Quảng Sớ nói rằng: Khoản là yêu thích, Thiên Thương Hoét ghi khoản là chân thành, ân cần, trân trọng, tiếp đãi, sách Thuyết Văn nói khoản là ý có chỗ mong cầu, mong muốn.

Ngu xuẫn ngược lại âm đinh giáng thương cung hai âm, Thiên Thương Hoét giải thích văn cổ rằng: Ngu là chỗ biết, cũng là độn ngu dại.

Đốn chất ngược lại âm đo khốn trắc lợi đốn là phía trước bị che chắn nên vấp té, chất là thất bại không có lợi, vấp váp, trở ngại.

Như bột lại viết chữ phất cũng đồng, ngược lại âm bổ đối tên người.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 5

Hổ tự lại viết chữ tự hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm từ di kinh Sơn Hải nói: Tự là loài thú hình trạng giống như con trâu lông màu xanh đen, sách tiểu Số nói: Giống như con trâu, Quách Phác nói: Có một sừng màu xanh, nặng ngàn cân, sách Thuyết Văn nói: Tự giống như con trâu hoang dã màu sắc xanh chữ tượng hình.

Khiêu trạo ngược lại âm đạt nhiêu gọi là treo lên cao mém xuống đất, ngược lại âm dưới lặt giảo tha điếu hai chữ tượng hình gọi là xa xôi.

Quỷ nhiễu ngược lại âm cư hủy không thật cũng gọi là khinh khi dối trá, Tự Lâm cho rằng: Âm nải liễu Tam Thương cho rằng: Nhiễu là làm trò, gọi là làm trò vui, quấy nhiễu.

Như khái ngược lại âm cổ đại Thiên Thương Hoét cho rằng: Khái là thanh gạt ngang trên cái hộc khi đo lường, Giang Nam dùng âm này, Quan Trung âm công nội.

Lỗi thạch sách Vận Tập âm lực bối gọi là lấy đá ném vật, nay theo chữ đó là nghĩa trên thành lăn đá xuống để đánh tặc loạn gọi là lỗi Văn Luận viết chữ lôi là chữ giả tá là mượn âm.

Sản trị lại viết chữ sản cũng đồng, ngược lại âm sơ nhãn Quảng Số cho rằng: Khắc đấu tước lột da, theo Thanh Loại nói: San bằng, diệt sạch.

Bể đầu ngược lại âm phổ mễ sách Thuyết Văn nói: Bể là nghiêng, Thiên Thương Hoét ghi: Không thẳng, Quảng Nhã cho rằng: Bể là nghiêng lệch Văn Luận viết chữ ty là chẳng phải thể.

-Quyển 6 không có âm giải thích từ.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 7

Tuần hành viết đúng nghi là chữ tuần ngược lại âm tợ quán sách Thuyết Văn nói tuần hành là đi nhiễu quanh, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tuần tự đi theo đây cũng cùng với chữ tuần là tóm lược cũng đồng.

Bất cách văn cổ viết chữ cách ba chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cổ hoạch cách là thay cũng gọi là đổi thay, sách Thuyết Văn cho rằng: Con thú thay lông, bỏ đi lông gọi là cách nói sửa đổi lông, hay là biến đổi, cho nên chữ viết từ bộ vi âm vi là âm vi lại gọi là trong Quốc Ấp, trong ba mươi năm mà thay đổi pháp luật, lấy pháp luật đặc biệt, ý khác biệt âm vi là âm vĩ.

Sô cảo văn cổ chữ sô cũng đồng, ngược lại âm trắc câu ngược lại âm dưới cổ lão sách Tiểu Nhĩ Số nói rằng: Thân nhánh cây lúa gọi là sô cũng gọi là cỏ để cho thú ăn gọi là sô nuôi sống gọi là sinh sô cũng gọi là cỏ héo khô, sách Thuyết Văn cho rằng: Cắt cỏ, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Cảo là bông lúa chín, Văn Luận viết chữ cảo là chẳng phải.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 8

Ky xi ngược lại âm cư y Quảng Nhã cho rằng: Ky là khuyên can, sách Thuyết Văn cho rằng: Ky là chê bai ngược lại âm dưới sung chi Quảng Số nói: Xi là khinh thường, Thiên Thương Hoét ghi: Xi là xem thường khinh nhờn, âm gián là âm giáp.

Cầu lộ ngược lại âm lực cố gọi là lấy tài vật đút lót để nhờ vả một việc gì gọi là lộ lộ cũng là đưa tặng quà.

Oán tiếm ngược lại âm trắc cấm Quảng Số nói rằng: Tiếm là chê bai phỉ báng, hủy nhục, Tam Thương cho rằng: Tiếm là nói xấu hại người cũng gọi là báng nhập là tiếm, tức là gièm pha vu cáo.

Tiết xuất ngược lại âm tư liệt tiết là tràn ra ngoài, phát ra ngoài, cũng gọi là rỉ nước.

Thoán chi Trụ Văn viết chữ thoán cũng đồng, ngược lại âm thất hoang Tam Thương cho rằng: Thoán là hun đốt, chữ viết từ bộ cửu là giữ lấy cái cối đến bộ phửu là lò gốm, cũng đồng với chữ táo ngược lại âm khẩu cũng gọi là đẩu cu vào lửa cháy bừng lên, chữ chí ý âm cũng là âm cũng.

Điềm nhiên chữ cổ, nay viết chữ diệp cũng đồng, ngược lại âm tha giáp Quảng Số nói rằng: Điềm tĩnh, cũng gọi là an tĩnh, cũng gọi là điềm phục.

Ngưu đồng ngược lại âm trúc dung đô đồng hai âm. Văn thông dụng cho rằng: Nước sữa gọi là đồng nay người Giang Nam cũng gọi sữa là đồng.

Tranh trị lại viết chữ tranh cũng đồng, ngược lại âm văn trách trượng hành hai âm. Gọi là va chạm, chà xát.

Bát thuyên ngược lại âm thị duyên Giang Nam cùng âm này, lại cũng âm thượng tiên Trung Quốc dùng âm này, sách Thuyết Văn cho rằng: Chẻ tre đan cái sọt để chứa lúa thó, Văn Luận viết chữ đan âm đan là cái rương chẳng phải nghĩa đây dùng.

Kiềm tỳ ngược lại âm cự diêm tên của nước.

Xí vọng văn cổ viết là xi quốc ngược lại âm khư thị Văn thông dụng cho rằng: Nhấc chân giơ cao gọi là xí xí cũng là trông mong, chữ viết từ bộ chỉ.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 9

Bồi đích ngược lại âm bổ lai bồi là vách tường cao, ven bồi đất làm bờ đê, đây nên viết chữ phụ ngược lại âm tài duẫn Văn thông dụng cho rằng: Mục tiêu để bắn gọi đôn đôn là trung tâm chính giữa gọi là đích.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 10

Cự hư cự hư hai âm giống như con lạc đà mà nhỏ hơn, con trâu con, ngựa con.

Tế túc ngược lại âm tử duệ sách Thuyết Văn cho rằng: Tế là lúa tắc, loại lúa không dẻo để nấu cháo, giống như lúa tắc nhưng không dẻo, Quan Tây gọi là lúa mi, âm mi ngược lại âm vong bì.

Lao đậu lại viết liệu lao hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm lặc đao Văn thông dụng cho rằng: Loại đậu hoang dã gọi là lao đậu giống như hạt đậu lớn, mà cũng có hạt nhỏ màu vàng mọc ngoại hoang dã thân dây leo.

Như trách ngược lại âm trắc cách theo cảnh trách giống như đè ép xuống nay gọi là ép ra nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Trách là chật hẹp, bức bách.

Sĩ tu ngược lại âm lặc giai lại cũng âm lặc giai hai âm, tên người.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 11

Hữu tốt ngược lại âm tồn một sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng tay nắm đầu nhổ tóc gọi là tốt tốt cũng là đánh gõ.

Nghỉ ngã ngược lại âm ngư lý Tự Thư cho rằng: Nghỉ là gượng đến, sách Thuyết Văn nói: Ý nghĩ về hướng bắc để hóa độ, Văn Luận viết chữ sĩ là chẳng phải nghĩa đây dùng.

Lục vật Một là Tăng-già-lê; hai là Uất-đa-la-tăng; ba là An-đà-hội, bốn là Bát-đa-la, năm là Ni-sư-đàn; sáu châm đồng.

- Một Tăng-già-lê là y chín điều.

- Hai Uất-đa-la-tăng: Y bảy điều.

- Ba An-đà-hội: Y năm điều.

- Bốn Bát-đa-la: Tức bình bát đựng cơm, thức ăn dùng đi khất thực.

- Năm Ni-sư-đàn: Tức là tọa cụ trải ngồi thiền sau khi dùng cơm.

- Sáu châm đồng: Tức ống đựng kim may vá khâu.

Hãn thanh ngược lại âm hạ thả sách Thuyết Văn cho rằng: Nằm ngủ có tiếng ngáy, sách Tự Uyển âm hồ vu

Giang Nam dùng âm này. Thư trùng Tự Lâm âm là thiên dư Văn thông dụng cho rằng:

Trong thịt có con giòi gọi là thư gọi là con giòi nó đục là chất sữa trong thịt, Văn Luận viết chữ thư ngược lại âm tể dư là con dế, chẳng phải nghĩa đây dùng.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 12

Tư cấp ngược lại âm tử tư ngược lại âm dưới là cư cập Quảng Số cho rằng: Tư cấp là gấp vội, sách Thuyết Văn nói: Cấp vội gấp đi mau lấy nước.

Nhĩ chùy ngược lại âm trực ngụy sách Phương Ngôn cho rằng: Chùy là quả cân nặng.

Viện thuẫn ngược lại âm vũ phiền ngược lại âm dưới thực duẫn viện là dẫn dắt nắm kéo lên, thuẫn là xô đẩy.

Phanh trực ngược lại âm bổ canh gọi là búng dây nẩy mực gọi là phanh.

-Quyển 13 không có âm giải thích từ.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 14

Hàm xa lại viết chữ hàm cũng đồng, ngược lại âm hồ cảm gọi là má, phần má phía dưới, Thích Danh cho rằng: Hàm là ngậm, gọi là xe chứa trong miệng vật. Hoặc gọi là bổ nghĩa là đòn ngang xe thêm sức mạnh, chỗ gọi là đòn áo hai bên xe nắm giữ cái miệng, hoặc gọi là nha xa tức là tăm xe. Nha chỗ gọi là duyên chở, vận chuyển, hoặc gọi là giáp xa tức là áp hai bên chiếc xe, chỗ gọi là tải giáp chuyên chở hai bên đòn xe ràng buộc vào xe đó đều lấy chỗ trên dưới xe để chuyên chở vận chuyển vật, tục gọi là hạp xa ngược lại âm công hạp Ngô Hội gọi là hàm cổ âm cổ ngược lại âm khổ cô Văn Luận hoặc là viết chữ tai tức là phần má.

Tiểu khối văn cổ viết chữ khối nay viết chữ khối cũng đồng ngược lại âm khổ đối sách Tiểu Thất nói khối là đống đất, đất nhô lên cao, đất dính lại, âm bức bức ngược lại âm phổ bức.

Chí ngại âm chí Văn thông dụng cho rằng: Việc không tiện lợi gọi là chí ngăn trở đến gọi là ngại.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 15

Tả nhậm ngược lại âm nhi chậm Thương Hoét giải thích văn chữ cổ nói rằng: Cái áo lớn để mặc làm tế lễ và giao tiếp, gặp gỡ, hoặc gọi là vạt áo. Lại cũng gọi là tay áo rộng, âm trật là âm trật.

Kiếm phù ngược lại âm phù lưu tên của mười sáu nước lớn.

Quỳ hoắc ngược lại âm hồ quách quỳ là lá đậu, tùy theo mà gọi đó, gọi là đậu hoắc v.v... đều là vậy.

Vu tiếu ngược lại âm vũ vu sách Thuyết Văn cho rằng:

Vu là nói thêm vào, cũng gọi là khinh khi, lấy lời nói xấu tốt, thiện ác gọi là vu. Quệ chí ngược lại âm cự nguyệt cư nguyệt hai âm, sách Thuyết

Văn cho rằng: Trật ngã trật chân vấp té nằm ngửa, Quảng Sở nói rằng: Chí là giẫm đạp lên, đốn ngã, thất bại.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 16

Ca lam phù vương hoặc viết là ca lợi vương hoặc gọi là ca lợi vương nói đúng là yết lợi vương đây dịch là ông vua đấu tranh.

Trữ thuyền ngược lại âm thời nhữ trừ lữ hai âm Quảng Nhã cho rằng: Trữ là cán gàu múc nước, âm thao ngược lại âm dực chiểu gọi là dây cột cán gàu múc nước dưới giếng, âm loan ngược lại âm cửu (789) vạn sách Thuyết Văn cho rằng: Loan trữ là cán gàu múc nước.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 17

Bác yểm bác là trò chơi, dùng sáu chiếc đũa, sáu con cờ gọi là lục bát, lấy con cờ đè lên bàn cờ tròn, sách Toán Văn gọi là phốc yểm gọi là làm trò nhảy lên, đạp lên tục gọi là xạ ý lại cũng gọi là xạ số lại còn là bác hý là đè lên thài vật, tức là trò chơi cờ bạc đánh bạc.

Cao chữ ngược lại âm phương tảo Tự Thư cho rằng: Ít nước đem đi nấu gọi là không có lửa mà nóng chín gọi là chữ.

Ngoan lỗ ngược lại âm lực cổ sách Luận Ngữ cho rằng: So le gọi là lỗ Khổng An Quốc cho rằng: Lỗ là ngu độn, Văn Luận viết chữ lỗ là chẳng phải chữ đây dùng.--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 18

Yểm thậm ngược lại âm ô cảm lại âm tha cảm Thiên Thương Hoét ghi rằng: Thậm là đen thâm không sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đen thâm đen xanh.

Như quyển ngược lại âm mạc văn Thiên Thương Hoét ghi rằng: quyển là loại chuồng, lan can, song cửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chuồng nuôi súc vật, nuôi nhốt con thú. Lại cũng gọi là giam tội nhân.

Kiêu tán lại viết chữ tiện tiên hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tử thả sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩy rửa nước do, sách Sử Ký nói: Đứng trong năm bước máu trong cổ bắn ra trúng áo của đại vương, lại viết chữ tiên.

--------------------------------------

XUẤT DIỆU KINH QUYỂN 19

Lương sạn Tam Thương cho rằng: Viết chữ sạn cũng đồng, ngược lại âm sĩ gián sách Thuyết Văn cho rằng: Sạn là quán trọ Văn thông dụng cho rằng: Gọi là ván gác là sạn.

Nạch tiển lại viết chữ nạch cũng đồng, ngược lại âm nữ trác, nữ cách hai âm, nạch là nắm bắt, cầm nắm, sách Thuyết Văn nói: Nạch là đè ấn xuống.

Hoằng nhiện ngược lại âm nhất hoằng gọi là đều hết sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Hoằng là ao sâu, rộng lớn. Nay lấy nghĩa này.

Man đản ngược lại âm mạc quan ngược lại âm dưới đạt thản sách Thuyết Văn cho rằng: Mạn là khinh khi, không tin tưởng, đản là càn láo, dối trá không thật.

-Quyển 20-25 không có âm giải thích từ.

*******

HIỀN NGU KINH

HIỀN NGU KINH QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Khẩn trắc văn cổ viết chữ khẩn cú ngược lại âm khẩn ngận Văn thông dụng cho rằng: Chí thành gọi là khẩn khẩn cũng gọi là kiên nhẫn, âm dưới văn cổ viết chữ trắc cũng đồng, ngược lại âm sở lực Quảng Nhã cho rằng: Trắc là bi thương trắc ẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Trắc là đau khổ.

Uyển chích ngược lại âm ô hoàn gọi là lấy dao đâm vào thịt, dùng dao khoét thịt gọi là uyển chích là hun đốt cũng gọi là nướng.

Vương hoăng ngược lại âm hồ hoằng Quảng Nhã cho rằng: Hoăng là chết, điều xấu, Thích Danh cho rằng: Đại phu chết gọi là tốt chư hầu chết gọi là hoăng cũng gọi là đốn hoại, ngã hư hoại. Bạch Hổ Thông cho rằng: Băng Thiên Tử chết gọi là băng hoăng, đều chế ra từ đời nhà Chu.

Kiểm nhiên ngược lại âm thử liêm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kiểm là bao gồm đều, sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến đông vương quốc gọi đều bằng là kiểm.

Ấp ấp ngược lại âm ư cấp Tự Lâm cho rằng: Ấp ấp là không yên Thiên Thương Hoét ghi: Ấp ấp là dáng điệu không thư thả thoải mái, buồn buồn rầu rầu.

Khẩu cấm văn cổ viết chữ khâm cũng đồng, ngược lại âm cự cẩm cấm là đóng lại Văn thông dụng cho rằng: Miệng không mở ra gọi là cấm.

Ngạn ngôn ngược lại âm nghi tiển sách Thuyết Văn cho rằng: Ngạn là lời nói được lưu truyền, gọi là truyền lại cho đời thường nói.

Bính trước văn cổ viết chữ bính hai chữ tượng hình. Nay viết chữ bính cũng đồng, ngược lại âm bích mảnh Quảng Nhã cho rằng: Bính là sáng rõ, sáng sủa.

-Quyển 2 không có âm giải thích từ.

----------------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 3

Vãn ngưỡng ngược lại âm vô biện vãn là cái đầu, nói thương xót hoàn cảnh đáng thương mà thôi.

Táo quán ngược lại âm cổ hoản sách Thuyết Văn cho rằng: Táo là rửa tay, phàm là rửa tẩy gọi là quán chữ viết từ bộ cửu đến bộ thủy nói là trên cái chậu mà rửa, âm cửu ngược lại âm cư lục gọi là hai tay bưng vật.

Giác cách nay viết chữ giác cũng đồng, ngược lại âm cổ học giác là thử, gọi là thử sức, cách là đo lường độ lượng, chữ viết từ bộ mộc.

Hấn trương ngược lại âm nghi chấn sách Nhĩ Nhã nói: Ban tặng cho con vật để cúng tế gọi là hấn, Quách Phác gọi là nói tự phấn tấn khí thể chỗ xuất ra ban ra.

Hằng xuyên ngược lại âm ca đặng theo Mao Thi Truyện nói rằng: Hằng là một thứ giấy đẹp đùng để viết thư gọi là hằng cũng là cây lương thực đen. Hằng cũng có nghĩa biến khắp lâu dài, cũng là ý này.

Phi thúy ngược lại âm thanh tuế sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh thiếu máu dễ gãy, Nhĩ Số cho rằng: Thúy là mềm mại, cũng gọi là ốm yếu, kinh văn viết tuyển hai chữ tượng hình chẳng phải thể.

Đằng tiện ngược lại âm đồ đăng sách Thuyết Văn cho rằng: Đằng là chuyên, đằng cũng là chuyên chở, Quảng Nhã cho rằng: Đằng là chạy mua, âm chuyên ngược lại âm trị luyến gọi là chuyên chở chế ngự con ngựa.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 4

Huyễn nhãn ngược lại âm hồ biến lại cũng âm mạc báo sách Quốc Ngữ nói: Con mắt có tật bệnh, Giả Quỳ chú giải rằng: huyễn là hoa mắt, mê hoặc, lẫn lộn.

Phả ngã ngược lại âm phổ ngã gọi là dao động không an, kinh văn viết chữ cự ngã hoặc là viết phải ngã đều chẳng phải.

Vi xác ngược lại âm hồ các sách Thuyết Văn cho rằng: Canh thịt, gọi là có rau là canh, không rau là xác.

Yểm hài ngược lại âm hồ đại Văn thông dụng cho rằng: Hoạn nạn buồn khổ gọi là hài hài cũng là khổ hận, nay nói giống như hoạn nạn là có chỗ buồn khổ.

Kích thiết ngược lại âm công đích gọi là cảm kích, sách Sở Từ nói: Hoặc là nước sạch bắn lên tung tóe việc làm không có chỗ thông, Vương Dật gọi là cảm kích.

Như phẩu ngược lại âm mãn giao Văn thông dụng cho rằng: Tay cầm nắm gọi là phẩu chữ viết từ bộ thủ thanh phẩu kinh văn viết chữ bao là chữ cận nghĩa âm phẩu ngược lại âm phòng tẩu.

Nhung y ngược lại âm nghi dung Tự Lâm cho rằng: Thảm lông, sách Toán Văn cho rằng: Nhung là lấy lông làm trang sức đẹp.

Tảo dương ngược lại âm tang lão sách Thuyết Văn cho rằng: Tảo là cạo sạch, tảo cũng là gãi chỗ ngứa. Kinh văn viết chữ tảo ngược lại âm tang đáo gọi là bệnh ghẻ lở, ngược lại âm dưới là dư dưỡng sách Thuyết Văn cho rằng: Tảo dương là không ngứa là không gãi chữ viết từ bộ trùng đến bộ dương nay đều viết chữ dưỡng văn kinh viết chữ dương ngược lại âm tợ dương Tự Lâm cho rằng: Tên của bệnh ghẻ ngứa, dương chẳng phải nghĩa đây dùng.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 5

Gián bệnh ngược lại âm huyền gian theo Thanh Loại cho rằng: Đứa trẻ nít mắc bệnh động kinh, sách Thuyết Văn nói bệnh phong.

Côn độn lại viết chữ con độn cú ngược lại âm hồ tổn đồ tổn Văn thông dụng cho rằng: To lớn mà không có hình gọi là côn độn.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 6

Chung ngôn ngược lại âm thất dung Thích Danh cho rằng: Chung đó là nói đã là chỗ cung kính gọi là chung chung là tự tề khéo léo thêu thùa, tề gia nội trợ.

Chấn sát ngược lại âm trắc trần sách Thuyết Văn cho rằng: Chấn áp, kinh văn viết chữ điền âm là điền điền chẳng phải đây dùng.

Trung khác văn cổ viết chữ khác cũng đồng, ngược lại âm khổ các sách Thượng Thư nói rằng: Khác là cẩn thận thiên mạng, Khổng An Quốc gọi là khác là cung kính Tự Lâm cho rằng: Khác là khiêm cung.

Hàn huệ Phàm là viết chữ thái cũng đồng, ngược lại âm từ túy sách Thuyết Văn nói: Bông lúa đã chín chỗ người ta thu hoạch đem về.

Kiều đãng ngược lại âm đồ lãng đãng giống như trên cao, chỗ người ta xướng lời nói sai vậy.

Võng nhiên văn cổ viết võng tứ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm vô vãng dùng chữ võng nhiên là ý không biết vô tri, cũng gọi là dáng điệu dựa theo lo sợ, kinh văn viết từ bộ tâm viết thành chữ võng là chữ cận nghĩa.

Tín thượng văn cổ viết chữ đồng tử hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tiên tiến tiên tử hai âm, sách Thuyết Văn cho rằng: Thóp trên đầu não bị che lại trán rỗng không, kinh văn viết chữ tai chưa rõ chỗ xuất phát sách nào.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 7

Bỉ miêu ngược lại âm mị kiêu gọi là cây mạ chưa có chín, Thiên Thương Hoét ghi: Chưa có trổ bông gọi là miêu tức cây mạ, nay lấy nghĩa này. Đây tục thường nói như vậy, nay quy cách nghi viết là chữ mạc chưa rõ loại rau gì, cây mọc trên đất v.v... là tri mộ là biết bắt chước theo.

Tích thể ngược lại âm tư địch tích giống như phân ra, chẻ ra, chữ viết từ bộ mộc đến bộ cân gọi là lấy búa phân chẻ ra, gọi là tích nay tục viết đều từ bộ cân.

Hạch thân ngược lại âm hồ cách hạch là ngăn cản, chướng ngại, kinh văn viết chữ kích ngược lại âm khẩu đích kích là đánh kích chẳng phải nghĩa đây dùng.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 8

Trác lao ngược lại âm lực giác gọi là kỳ lạ khác thường.

Tao tao ngược lại âm tô lão sách Thuyết Văn cho rằng: Tao là quấy nhiễu, quấy rối, lại cũng gọi con ngựa chạy loạn, cũng gọi là chạy mau, ngựa phi nước đại, chữ viết từ bộ mã kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ tao là chẳng phải thể.

Sắc nhiên ngược lại âm sở lực Bì Thương cho rằng: Lo sợ e ngại, Văn thông dụng cho rằng: Lo sợ nhỏ gọi là sắc

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 9

Tiểu tử ngược lại âm sĩ giao gọi là chiến thắng tiện lợi, gọi là dùng sức mạnh thần tốc tiêu diệt, tiểu trừ diệt sạch, sách Thuyết Văn nói: Viết chữ nhiễu Quảng Sớ cho rằng: Kiêu là chiến thắng, theo Thanh Loại cho rằng: Kiêu là đến mau.

Tỏa liệt ngược lại âm tổ ngọa tỏa là bẻ gãy. Lại gọi là hình phạt chém chặt ngang lưng, sách Thuyết Văn nói: Tỏa là bẻ gãy, âm liệt ngược lại âm lực kiết.

Ma tiểu ngược lại âm mạc khả nhỏ bé gọi là ma kinh văn viết chữ tiểu là chữ cận nghĩa.

Thoa cổ ngược lại âm sở duy công hộ cổ chân gọi là cổ nay lấy nghĩa này.

Kế mại ngược lại âm cổ đế, mạc bại kế là tiếp tục, mại là đi đến gọi là tiếp tục qua lại với nhau tiếp tục đến với nhau.

Bao hao ngược lại âm bổ giao hồ giao sách Thuyết Văn cho rằng: Bao hao là tiếng rống làm kinh hãi giựt mình, cũng gọi là đại phẫn nộ.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 10

Chước thích ngược lại âm chi nhược sĩ kích chước là lo sợ ưu não, cũng gọi là đau khổ, rầu buồn, lo lắng.---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 11

Cô huỳnh văn cổ viết chữ huỳnh vinh hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cự dinh huỳnh là cô đơn, đơn độc, không anh em gọi là quỳnh, gọi là quỳnh nhiên lặng lẽ âm thầm.

Thí cổ ngược lại âm cổ hộ đây dịch là kết dây làm lưới gọi bủa lưới bắt cá, kinh văn viết chữ tư ngược lại âm tử tà tư cũng là lưới võng, hai chữ tượng hình tùy theo mà viết.

Bàn tỷ ngược lại âm bổ đan Tự Lâm cho rằng: Bàn là bộ, bàn (790) cũng là loại, kinh văn viết chữ bàn chữ giả tá, chẳng phải thể.

Yểm thủy ngược lại âm ất sam gọi là dìm người trong nước, cũng gọi là chìm.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 12

Ban lan lại viết chữ ban ban hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm bổ gian âm dưới lại viết chữ lân cũng đồng, ngược lại âm lực hàn lô gian Bì Thương cho rằng: Dáng mạo rực rỡ văn chương, sáng sủa, điêu luyện trau chuốt thành thục gọi là ban lan kinh văn viết chữ ban lan là chẳng phải thể.

Kiện tích ngược lại âm ty dịch gọi là nhanh nhẹn, dũng mảnh.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 13

Xí hổn ngược lại âm hồ khốn Thích Danh cho rằng: Xí là nói người ở chỗ tạp nhạp dơ bẩn, hoặc gọi là hổn nói là chỗ nước đục dơ, hoặc nói từ chỗ sạch mà đến ở chỗ dơ bẩn cho nên phải tu sửa cho sạch sẽ.

Phanh đang ngược lại âm ty chính đô lãng gọi là quét trừ rác rưởi cho sạch, Quảng Nhã cho rằng: Phanh là trừ bỏ.

Thanh nhiện lại viết chữ thanh tranh phanh tịnh bốn chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm tự tinh gọi là an định, nghỉ ngơi, cũng là không có tiếng động gọi là yên tĩnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Thanh là sạch trang sức sạch sẽ, thanh khiết, cảm thấy trong lòng yên tĩnh.

Phúc hội văn cổ viết chữ hội cũng đồng, ngược lại âm hồ đối sách Thuyết Văn cho rằng: Hội là thấm nước rỉ nước thấm vào, tràn vào, lại cũng gọi là tan vở, vở đê nước tràn vào.

Khiêu tường ngược lại âm tha điếu khiêu là dùng dằng, sách Vận Tập nói chữ khiêu là nhảy vượt qua, kinh văn viết chữ khiêu là chẳng phải thể.

Phong trùng lại viết chữ trung cũng đồng, ngược lại âm sớ hung hoặc là viết chữ hương trùng sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng cắn chích người, kinh văn viết dư thừa đây cũng là viết sai, nên viết là hương trong kinh văn cũng có viết hương trùng âm thích là âm thích. Dịch dịch ngược lại âm dư thạch dịch dịch là đức rộng lớn sáng chói, Quảng Nhã cho rằng: Dịch là tràn đầy thể chữ viết từ bộ đại kinh văn viết từ bộ cũng viết thành chữ dịch chữ dịch gọi là truyền dịch chẳng phải thể chữ, âm cũng ngược lại âm cự hung.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 14

Chủng di có bổn văn lại viết chữ tắc.

Lợi chí văn cổ viết chữ chấp hai chữ tượng hình nay viết chữ cũng đồng, ngược lại âm trắc lợi Văn thông dụng cho rằng: Bắt lợi gọi là chí ngăn trở hạn hẹp đến cũng gọi là thất bại trở ngại.

---------------------------------

HIỀN NGU KINH QUYỂN 15

Tài hối văn cổ viết chữ hối cũng đồng, ngược lại âm hồ tội tài vật hàng hóa gọi là hối hối cũng là tài sản của cải, Văn thông dụng nói: Tài vật vải vóc gọi hối sách Chu Lễ nói rằng: Thông cả hàng hóa Trịnh Huyền cho rằng: Vàng bạc, ngọc ngà hàng hóa vải vóc gọi là hối.

Cổ đạo ngược lại âm công hộ theo Thanh Loại cho rằng: Âm dực giả gọi là loài côn trùng đi gieo độc hại.

Xa quán ngược lại âm thỉ giá ngược lại âm dưới là thời dạ sách Thuyết Văn nói: Quán là mua, gọi là mua hàng hóa Quảng Số cho rằng: Mua chịu, mua nợ lại.

Đào diễn ngược lại âm đồ đao theo Mao Thi Truyện nói: Trong lòng lo buồn, đào là hun đúc, rèn luyện, thỏa thích đạt đến mức thông suốt.

Trà ca ngược lại âm trực da kinh văn viết từ bộ túc viết thành chữ trà là chẳng phải.

*******

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP

Huệ Lâm soạn.

LỜI TỰA

Cự đát ngược lại âm dưới hằng đát sách Sở Từ cho rằng: Đát là mau vội gấp giương dây cung, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch đến thanh đát.

Tăng già bạt trừng ngược lại âm bàn bát âm dưới trừng sở nói ở Tây Vức tên vị tăng.

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN THƯỢNG

Thông ổi ngược lại âm trên tông đồng sách Khảo Thanh cho rằng: Thông là đều gom lại, Quảng Nhã nói tóm lại đều nhau, kết lại sách Thuyết Văn nói tụ lại, bó lại tóm tắt, gom lại, chữ viết từ bộ thủ thanh hốt ngược lại âm dưới ổi hối.

Trừ bộ ngược lại âm trên trữ chữ sách Bát Nhã nói: Trù trừ dùng dằng, do dự, sách Khảo Thanh cho rằng: Không muốn đi, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh trước.

Thô quáng ngược lại âm dưới cổ mảnh sách Tập Huấn nói: Quáng là hung hãn dữ dằn, con chó hung hãn không ai dám đến gần, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh quảng.

Mi lộc ngược lại âm dưới mị bi sách Thuyết Văn nói:

Mi thuộc con nai, con hươu, đến mùa đông gọi là cởi bỏ cái sừng chữ viết từ bộ lộc thanh mể.

Giá nhập ngược lại âm trên ngôn kiện Tự Thư cho rằng: Giá là nghinh đón, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ xước thanh ngôn.

Lũ khúc ngược lại âm trên lương chủ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Người cong lưng, cũng gọi là gù, sách Thuyết Văn nói Khiển chân, thọt chân, chữ viết từ bộ đến bộ lũ thanh tĩnh, kinh văn viết từ bộ tật viết thành chữ lũ là chẳng phải.

Tần xúc ngược lại âm dưới sái dục theo Tả Truyện nói rằng: Xúc là bức bách thúc dục, Quảng Nhã cho rằng: Cấp bách bức bách, sách Khảo Thanh nói: Tụ lại, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ túc thanh thích kinh văn viết từ bộ hiệt viết thành chữ xúc là chẳng phải.

Vi chẩm ngược lại âm dưới châm nhậm sách Thuyết Văn cho rằng: Chẩm là lấy cỏ khô héo lúc nằm kê đầu tức là cái gối, chữ viết từ bộ mộc thanh đam.

-----------------------------------

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN TRUNG

Mộc sách ngược lại âm dưới sơ cách sách Thuyết Văn nói: Sách là bện gỗ đương làm hàng rào, chữ viết từ bộ mộc thanh sách chữ tượng hình, kinh văn viết chữ sách tục dụng dùng thông dụng.

Bỉ tiệm ngược lại âm dưới tiếp diểm sách Khảo Thanh cho rằng: Cái hầm dài.

Vi khải ngược lại âm dưới khai ái sách Thuyết Văn cho rằng: Khải là áo giáp chữ viết từ bộ kim thanh khải. Trỉ lập ngược lại âm trên trì lý sách Thuyết Văn cho rằng: Trì là đi bộ mà không tiến về phía trước mặt, sách Thuyết Văn cho rằng: Đi vòng vòng trong nhà, hoặc là viết chữ trĩ chữ viết từ bộ túc thanh tự.

Cảnh đoản ngược lại âm dưới đoan quản sách Thuyết Văn cho rằng: Đoản là không dài, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Gấp gáp, vội vã, chữ viết từ bộ thỉ đến bộ đậu kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ đoản là chẳng phải.

Đạm phạ ngược lại âm trên đàm lạm Cố Dã Vương nói: Đạm là điềm tĩnh Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đạm là an, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ tâm thanh chiêm ngược lại âm dưới phổ bạch Quảng Nhã cho rằng: Phạ tĩnh yên tĩnh, sách Thuyết Văn nói: Phạ là vô vi chữ viết từ bộ tâm thanh bạch kinh văn viết từ bộ thủy viết thành chữ đạm là chẳng phải.

Ấm cái ngược lại âm trên ấp cấm sách Quốc Ngữ nói: Cây có cành lá giống như con người, có tỳ âm tức là che đậy, sách Thuyết Văn nói: Cây cỏ dưới là âm chữ viết từ bộ thảo thanh âm ngược lại âm dưới cát ngãi sách Thượng Thư nói: Cái là che sách Khảo Thanh cho rằng: Che đậy, lấy cỏ may che đậy lên, chữ viết từ bộ thảo thanh cái.

Vân ế ngược lại âm dưới y kế sách Nhĩ Số nói: Trời âm u mà có gió gọi là ý Văn Tự Điển nói: chữ viết từ bộ nhật thanh ế.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi ủy sách Thuyết Văn nói: Vi là lửa cháy sáng rực, chữ viết từ bộ hỏa thanh vi kinh văn viết chữ vi là chẳng phải.

Hữu trứu ngược lại âm dưới trắc cứu Văn Tự Điển nói: Da rộng ra tụ lại, tức là da nhăn, chữ viết từ bộ sơ thanh bì kinh văn viết chữ trứu tục dùng cũng thông dụng.

Nhãn hiệp ngược lại âm dưới tử diệp sách Thuyết Văn nói: Hiệp lông mi mắt, Thiên Thương Hoét nói: Lông mi chữ viết từ bộ mục thanh hiệp kinh văn viết chữ tục dùng thông dụng.

Sang di ngược lại âm dưới dĩ chỉ sách Chu Dịch nói: Di là vết thương đã lành còn để lại sẹo, sách Thuyết Văn nói chữ viết từ tật thanh di.

Hạt thi ngược lại âm trên hàn cát Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Chim hạt giống như chim trĩ mà lớn hơn màu xanh, có lông nhọn. Tính thích đá nhau cho đến chết mới ngừng, âm nghĩa Hán Thư gọi tên là tô lấy đuôi của con chim này, các võ sĩ cắm trên nón mũ tượng trưng đánh nhau quyết liệt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chim hạt kê, chỗ xuất ra từ nước yến chữ viết từ bộ điểu thanh hạt ngược lại âm dưới ti di Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chim quạ, nhỏ mà phải nhiều dưới bụng nói trắng, Giang Đông gọi là chim ty, chữ hình thanh.

Yết-bể ngược lại âm trên là Cư-yết tiếng Phạm, kinh văn viết chữ yết là chẳng phải thể vậy.

Thùy đóa ngược lại âm dưới đô quả đóa là đống đất cao, hình dáng đống đất nhô cao cho nên gọi là tên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh thùy kinh văn viết từ bộ vương viết thành chữ diêu là chẳng phải chữ đây dùng.

Dung bệ ngược lại âm trên lung long Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Dung là đều bằng nhau sách Thuyết Văn cho rằng: Quân đều thẳng chữ viết từ bộ nhân thanh dung âm dưới là bể mễ sách Văn Tự Điển nói: Bể là xương đùi ngoài, chữ viết từ bộ cốt thanh bệ hoặc là viết chữ bệ kinh văn viết từ bộ nhục viết chữ dung bể đều là tục dùng thông dụng.

Chuyên trường Tự Thư cho rằng: Chuyên là ruột có mở, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh đoan hoặc là viết chữ thuyên âm phì là âm phò phi.

Nhuyễn động ngược lại âm nhuận chuẩn sách Khảo Thanh cho rằng: Không chân gọi là nhuyễn có chân gọi là trùng sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh nhuyễn.-----------------------------------

TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP QUYỂN HẠ

Chúng thích ngược lại âm dưới thư tý sách Phương Ngôn nói: Phàm cây cỏ có gai nhọn đâm người gọi là thích sách Thuyết Văn nói: Gai đâm thẳng vào bị thương chữ viết từ bộ đao thanh thúc.

Ương-quộc-phảng ngược lại âm trên giáp hương ngược lại âm dưới Mạn-ban tiếng Phạm, kinh văn viết chữ thư là chẳng phải.

Khoảnh á ngược lại âm dưới lưu giá Tự Thư cho rằng: Á là dựa vào nương nhờ, chữ viết từ bộ nhân thanh á.

Khước nhiếp ngược lại âm dưới niêm triếp Quảng

Nhã cho rằng: Đi giày dép giẫm đạp lên gọi là động cơ dưới chân, chỗ mang giày dép, Thiên Thương Hoét ghi: Nhiếp là đạp lên sách Thuyết Văn cho rằng: Đạp lên chữ viết từ bộ túc thanh nhiếp.

Miết thần ngược lại âm trên nghiêng kiết sách Lễ Ký nói: Không cắn nhai xương, sách Thuyết Văn nói: Niết là cắn chữ viết từ bộ xỉ thanh niết âm niết ngược lại âm khổ bát.

Tích lịch ngược lại âm trên thất mịch ngược lại âm dưới linh đích Văn Tự Điển nói: Tích lịch là tiếng sấm sét lớn, đánh vật, chữ viết từ bộ vũ đều thanh tích lịch kinh văn viết từ bộ thạch viết chữ tích lịch tục dùng cũng thông dụng.

Xuyết thử vị ngược lại âm trên ấp cẩm kháp là uống vào chữ viết từ bộ thứ thanh xuyết âm xuyết ngược lại âm dụng duyệt kinh văn viết từ bộ nhục viết thành chữ khảm là chẳng phải văn cổ viết kỳ lạ xuyết.

Tam thùy ngược lại âm túy duy sách Nhã âm tài quy Quách Phác chú giải rằng: Trên đỉnh đầu chót núi cao chót vót, sách Vận Thuyên cho rằng: Thùy đó trên đỉnh núi, dáng vẻ cao chất ngất, chữ viết từ bộ hán âm hán là âm hán kinh văn viết từ bộ tang là chẳng phải.

Ty nghê ngược lại âm trên phổ kế ngược lại âm nghê kế sách Lễ Ký cho rằng: Ty nghê giống như là nhìn, cho rằng nhìn xa, sách văn cho rằng nhìn nghiêng chữ viết từ bộ mục đều thanh ty nghê kinh văn viết từ bộ nhân viết thành chữ ty nghê là chẳng phải thể chữ đây dùng.

Đăng minh ngược lại âm trên đắc đằng sách Hán Thư nói: Ban đêm va chạm đèn nến, cháy sáng lên, chỗ cũng gọi là đốt lửa. Văn thông dụng cho rằng: Chữ viết từ bộ hỏa thanh đăng Văn Tự Điển viết từ bộ kim thanh đăng.

Ma-đu-la âm du ngược lại âm tha lũ tiếng Phạm.

Uyển diên ngược lại âm trên ư viễn ngược lại âm dưới dĩ chiên chữ giả tá, như lấy chữ nghĩa này tức là ý kinh quái lạ theo uyển diên đó là thảm trải đất, tức là vũ diên tục gọi là thảm lông, nhung có thêu, kinh văn viết chữ uyển vân thể chữ văn nghĩa đều quái lạ. Nay không theo sau đó truyện viết nghi chữ từ bộ thảo.

Cương bạn ngược lại âm trên cư lương sách Tập Huấn nói rằng: Dây cương ràng buộc con ngựa, sách Thuyết Văn viết chữ cương chữ hình thanh, từ bộ cách thanh cương ngược lại âm dưới bàn man sách Thuyết Văn nói bàn là dây buộc chân con ngựa (791) âm trấp ngược lại âm tri lập chữ viết từ bộ mịch thanh bán kinh văn viết từ bộ cách viết thành chữ ban là chẳng phải.

Áo não ngược lại âm trên áo hạo ngược lại âm dưới nhu lão sách Khảo Thanh nói: Áo não là đau khổ, oán hận, sách Tập Huấn nói rằng: Trong lòng oán kết, kinh văn viết chữ nùng tục dùng chẳng phải.

A-điều ngược lại âm cố tùy tiếng Phạm, không sắc âm nói đúng âm thâu hồi cư gọi là vô ưu ông vua vô ưu, không buồn não phiền, xưa dịch tên là vua A-dục.

Phiên dịch kinh Sa-môn-Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 75

- Âm Đạo Địa Kinh một quyển-Huệ Lâm soạn.

- Tu Hành Đạo Địa Kinh sáu quyển-Huệ Lâm soạn.

- Bách Dụ Kinh bốn quyển-Huyền Ứng soạn.

- Bồ-tát Bổn Duyên Kinh ba quyển-Huyền Ứng.

- Đại Thừa Tu Hành Chư Yếu Tập ba quyển-Huyền Ứng.

- Phó Pháp Tạng Truyện sáu quyển-Huyền Ứng.

- Tọa Thiền Tam Muội Kinh ba quyển-Huệ Lâm.

- Phật Y Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- Duy Viết Tạp Nam Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Phật Bát-mê Hoàn Ma-ha-Ca-diếp Phó Phật Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Bồ-tát Ha-sắc-dục Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- Tứ Phẩm Học Pháp một quyển-Huệ Lâm.

- Phật Nhập Niết Bàn Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Ca-chiên-diên Thuyết Một Tận Kệ Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- Phật Trị Thân Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Phật Trị Ý Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Ngũ Môn Thiền Yếu Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Đạt-ma-đa-thiền Kinh hai quyển-Huyền Ứng.-Thiền Pháp Yếu Giải Kinh-Huyền Ứng.

- Cựu Tạp Thí Dụ Kinh hai quyển-Huyền Ứng.

- Tạp Thí Dụ Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- A-hàm Khẩu Giải Thập Nhị Nhân Duyên Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Tư Duy Yếu Lược Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- Nội Thân Quán Dương Cú Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Pháp Quán Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Thiền Yếu Ha-dục Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Thập Nhị Du Kinh một quyển-Không.

- A-dục Vương Thí Dụ Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Tạp Bảo Tạng Kinh tám quyển-Huyền Ứng.

- Na-tiên-Tỳ-kheo Kinh ba quyển-Huyền Ứng.

- Thí Dụ Kinh mười quyển-Chưa âm.

- Tạp Thí Dụ Kinh hai quyển-Huệ Lâm.

- Tạp Thí Dụ Kinh một quyển-Không.

Bên phải ba mươi ba kinh bảy mươi bốn quyển đồng âm với quyển này.

ĐẠO ĐỊA KINH

Sa-môn Huệ Lâm soạn.

Trách cam lộ trên là chữ trách kinh văn sai lầm, sách nghi ngờ, cổ văn thiên tự mời các vị trí tuệ thẩm xét suy nghĩ chữ trách không có nghĩa.

Phiêu lạc ngược lại âm trên thất diệu sách Phương Ngôn nói rằng: Phiêu là nhẹ, giữa kinh sở gọi nhẹ là phiêu, kinh văn viết sai chữ lạc từ bộ nhân đến bộ lạc văn cổ viết chữ phiêu từ bộ nhân đến bộ tín đến bộ hỏa viết thành chữ phiêu là sách viết không hiểu tiện bút mà viết, từ bộ phiêu đó là rất sai, sách Thuyết Văn nói: Phiêu là nhẹ từ bộ nhân thanh phiêu nay tục biến đổi bộ hỏa là bộ tiểu.

Bất khả hộ ngược lại âm Ô-hô sách Khảo Thanh cho rằng: Dùng tay mà nắm giữ vật, chữ viết từ bộ thủ thanh hộ kinh văn viết đớn viết chữ hộ cũng thông dụng, từ bộ hoàn âm hoàn cũng từ bộ hưu văn cổ viết từ bộ thủ.

Trác mộc âm trên là trác sách Thuyết Văn cho rằng: Chim mổ thức ăn, chữ viết từ bộ khẩu thanh trĩ âm trĩ ngược lại âm sửu lục.

Mai mao ngược lại âm trên mỗi bôi Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mai là câu roi quất ngựa, âm dưới là mao sách Khảo Thanh cho rằng: Mao là con ngựa có lông xanh trắng lẫn lộn dài ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ tượng hình âm thông là âm thông đông.

Trì trù ngược lại âm trường lưu sách Thuyết Văn cho rằng: Trù là tính toán, vạch kế hoạch, chữ viết từ bộ trú thanh trú kinh văn viết từ kỳ viết thành trù là sách viết sai.

Tác chẩm ngược lại âm chi nhẩm sách Thuyết Văn cho rằng: Cỏ khô làm gối kê đầu nằm, chữ viết từ bộ mộc thanh đam âm đam là âm dâm lại cũng từ bộ quynh đến bộ nhân.

Đảm một nhân ngược lại âm đa cam sách Khảo Thanh cho rằng: Đảm là gánh vác chữ viết từ bộ thủ thanh chiêm.

Trừ khổn ngược lại âm hồn khốn sách Thuyết Văn nói: Hổn là nhà xí, nhà vệ sinh, chữ viết từ bộ vi âm vi là âm vi bộ trĩ bên trong bộ vi.

Mô tử ngược lại âm mã ba gọi là con ễnh ương sống dưới nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh mạc hoặc là viết chữ mô.

Đãn khỏa ngược lại âm trên là đường la sách Khảo Thanh cho rằng: Y trên vai, theo Tả Truyện cho rằng: Bên vai lộ ra bày ra, sách Lễ Ký nói: Làm việc lao nhọc thì không bày vai ra, Trịnh Huyền cho rằng: Vai bên trái thì miễn không đắp y, sách Thuyết Văn viết bộ đàn đến bộ nhục viết thành chữ đàn giải thích cũng là lộ vai ra ngoài. Nay lại dựa theo Văn thông dụng cho rằng: Chữ viết từ bộ y ngược lại âm dưới lan quả sách Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ nhân viết thành chữ khỏa gọi là cởi y để lộ ra ngoài thân thể, tục âm hoa ngỏa hoặc là từ bộ thân viết thành chữ khỏa âm đều đồng, chữ hình thanh, trong kinh hai chữ đều từ bộ nhục đến bộ đản viết thành chữ đản là viết không thành chữ, trong tạng kinh cải sửa nghi theo đúng như trước chỗ nói.

Trường trảo ngược lại âm trang giảo cũng viết chữ trảo chữ tượng hình, kinh văn viết từ bộ thủ viết thành trảo này là chẳng phải âm giới là âm kiết chẳng nghĩa của kinh văn.

Thỉ tân phát âm thỉ ngược lại âm thực nhĩ văn cổ viết chữ thỉ âm kế là chữ tân ngược lại âm tất sửu sách Thuyết

Văn gò má giáp với tai và tóc, chữ viết từ bộ tiêu thanh tân, kinh văn viết từ bộ hiệt viết thành chữ tu là sai. Ngược lại âm dưới phiên miệt Văn Tự Tập Lược nói rằng: Tóc trên đầu, theo Văn Tự Điển nói trên đầu có tóc, chữ viết từ bộ tiêu thanh phát âm bạt ngược lại âm bà mạt.

Quan diệp âm trên là gian sách Khảo Thanh cho rằng: Quan loại cỏ may, loại cỏ này cái lá như mũi kiếm, chữ viết từ bộ thảo thanh quan.

Vô hữu lõa ngược lại âm lang quả Tự Thư cho rằng: Quả của cỏ dây leo, sách Thuyết Văn cho rằng: Trên cây gọi là quả tức là trái, dây leo bò dưới đất gọi là lõa chữ viết từ bộ thảo đều từ hai bộ qua viết thành chữ lõa âm lõa là âm du.

Phân thảm ngược lại âm tha cảm theo Mao Thi Truyện nói thảm là loại cỏ nhung, cỏ lau. Lại cũng gọi là áo lông mịn như thảm lông vậy, chữ viết từ bộ thảo đến bộ đạm cũng là chữ hình thanh, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đạm là loại cỏ lông mịn, có màu sắc trắng xanh.

Tiệm nham ngược lại âm trên sào hàm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tiệm là núi đá cao chót vót, hoặc là viết chữ sàm tiệm ba thể chữ đều tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới nhã hàm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Nham là núi nhiều đá, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nham là núi cao mà hiểm trở, sách Thuyết Văn nói nham là vách núi, chữ viết từ bộ sơn thanh nghiêm hoặc là từ bộ thạch viết thành chữ nham tục tự dùng cũng thông dụng, văn cổ viết từ bộ phẩm viết thành chữ nham cũng thông dụng.

Điểu đoạt ngược lại âm đoàn hoạt nghĩa cũng đồng với chữ đoạt sách Khảo Thanh cho rằng: Chữ viết từ bộ phộc viết thành chữ đoạt đoạt giống như cưỡng lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh sung chữ đúng, biện luận hoặc gọi là đoạn giải, niễn, dưới văn kinh nói con chim thay đi bộ lông, âm tháp ngược lại âm đàm hợp.

Nhập hạm ngược lại âm hàm ảm sách Khảo Thanh cho rằng: Hạm là củi lớn, nhà lao, chuồng nhốt tội nhân chữ viết từ bộ mộc tham lam.

Tứ kích âm kiếu Tự Thư nói nước chảy gấp bắn lên tung tóe.

Phãn chi đây là hai câu và sau đó trong kinh văn viết huyết ky, lậu lạc v.v... nói đều là âm dương trong pháp số, nói ngày xấu gọi là người dịch kinh dẫn ra, nói là dụ hiển bày ý sâu xa.

Quát loát ngược lại âm trên quan quát Văn thông dụng nói: Lưỡi kiếm ngang gọi là quát ngược lại âm dưới thuyên quát Tự Thư cho rằng: Loát cũng là quát tức là cạo sạch, chà xát, chữ viết từ bộ đao đến bộ loát thanh tĩnh âm quát ngược lại âm ngoan hoạt âm thuyên ngược lại âm tóc tiên chữ viết từ bộ mộc thanh toàn.

Kiến âu ngược lại âm a hầu sách Phương Ngôn cho rằng: Cái chậu nhỏ đó gọi là âu chữ hình thanh. Nay kinh văn tương truyền từ bộ quốc viết thành chữ quắc tức là người viết sách viết sai lầm, lâu rồi rất là không có nghĩa gì, chữ viết từ bộ âu là đúng.

Cứ kinh ngược lại âm trên cự ngự sạc Khảo Thanh cho rằng: Có chỗ nắm giữ dựa vào mà đi gọi là cứ sách Vận Thuyên cho rằng: Bổng nhiên giựt mình, Tự Thư cho rằng: Lo sợ con ngựa nhảy chồm lên xe.

Dăng can ngược lại âm trên tằng hoàn ngược lại âm dưới du lãng hoặc gọi là can dăng hoặc là từ bộ bì viết thành chữ can văn Tự Tập Lược nói rằng: Trên mặt có nốt ruồi đen, hoặc là trên mặt có bệnh nổi chấm đen. Xưa dịch kinh văn viết chữ trạch cán rất là không có nghĩa lý gì, hoặc là người viết kinh sách sai lầm, hoặc là người dịch dùng chữ sai lầm quái lạ. Nay lại sửa lại là can dăng người trí lại hiểu rõ.

Quán triệt ngược lại âm huynh viên cũng nghi ngờ chữ này chẳng huống chi nơi văn không có giải thích.

Giai ngọa ngược lại âm biểu muội sách Khảo Thanh cho rằng: Mặt hướng ra ngoài, hoặc là viết chữ bối cũng đồng.

Nùng huyết ngược lại âm nô đông theo Thanh Loại cho rằng: Bệnh ung thư máu mủ đã tràn ra ngoài, sách Thuyết Văn cho rằng: Sưng lên máu tụ lại, chữ viết từ bộ huyết đến bộ nùng thanh tỉnh kinh văn viết chữ quán văn cổ.

Nghĩ táo ngược lại âm trên ngã cái Văn Tự Điển nói: nghĩ là ngăn chặn, chữ viết từ bộ mộc thanh nghi nay tục dùng từ bộ thạch viết thành chữ ngại hoặc từ bộ tâm viết thành chữ nghĩ cùng thông dụng, ngược lại âm dưới tao lão theo Mao Thi Truyện nói loại cỏ rong rêu mọc trong nước, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư nói rằng: Cỏ mọc trong nước, có vân vân đó theo Hàn Thi truyện nói: Nổi trên mặt nước gọi là tảo tức là rong, chìm đó gọi là tần đều từ trong nước, cũng chỉ văn chương, văn vẻ đẹp, nét tô điểm cho đẹp loại rong này ẩn dưới loài cá, ba ba rùa ăn, hoặc ẩn náu, sách Thuyết Văn còn thiếu không nói hết.

Khảng khái ngược lại âm trên khang lãng ngược lại âm dưới khang cái sách Tập Huấn nói Khảng khái đó là người tráng sĩ chí không được toại nguyện, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Quá tức tối, bực bội, Quảng Nhã cho rằng: Dựa vào hoặc là viết chữ Khảng khái sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm đều là chữ hình thanh.

Diên di ngược lại âm trên tường diên sách Tập Huấn nói: Nước dãi trong miệng, chữ viết từ bộ thủy đến bộ khảm trong kinh viết từ bộ dương viết thành chữ tiện là chẳng phải, âm dưới là di sách Thuyết Văn âm là thiên kế sách Khảo Thanh ghi cho rằng: Nghi ngờ e rằng chẳng phải.

Cứ phong ngược lại âm là cừ ngự văn trước đã giải thích rồi; Giả quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Mau chóng sách Thuyết Văn viết từ bộ tẩu thanh cứ kinh văn viết từ bộ thảo là chẳng phải.

Châm phong ngược lại âm trên dương nhậm tục dùng viết từ bộ thập viết thành chữ châm hoặc viết từ bộ trúc viết thành chữ châm sách Thuyết Văn nói dụng cụ cây kim may áo, ba thể chữ đều là chữ hình thanh, theo Thanh Loại cho rằng: Châm là cây kim đâm thẳng vào, kinh văn nói: Châm phong đó là người lúc sắp chết biến sanh một thứ gió đi trong thân thể, giống như cây kim đâm thẳng vào thân, thọ nhận các thống khổ.

Tủy dịch ngược lại âm trên tuy dinh sách Thuyết Văn nói tủy mở trong xương, chữ viết từ bộ cốt đến bộ tùy thanh tĩnh ngược lại âm dưới thiên diệc sách Vận Thuyên nói: Tủy đó là ở giữa xương nước vàng, người ta nói đến khi sắp chết, tủy biến làm dịch nước màu vàng, chảy ra cũng là chữ hình thanh.

Tất hiếp ngược lại âm trê tân thất âm dưới hương diệp văn trước âm nghĩa trong số độ giải thích đều là chữ hình thanh.

Tắc sáp ngược lại âm sâm tập sách Thuyết Văn nói không trơn, chữ viết từ bộ thủy đến bộ chỉ trên hai bộ chỉ đảo ngược, sách viết dưới hai bộ chỉ đứng thẳng, sách viết cho là ý nghĩa của chữ sáp, chữ hội ý. Văn kinh viết từ bộ nhân đến ba bộ chỉ là chẳng phải, không thành chữ người viết sách viết sai.

Cốt cách ngược lại âm canh ngạch sách Khảo Thanh cho rằng: Xương của người chết, âm cửu ngược lại âm lâm cửu.

Xế chấn ngược lại âm chân nhiệt.

Như đăng diệt âm trên là đăng hoặc là viết từ bộ hỏa viết thành chữ đăng tục thường dùng Văn Truyện Thông Dụng nói văn đỉnh đỉnh tức là đăng là đèn, không chân gọi là đăng có chân gọi là đỉnh hoặc là từ bộ cũng viết thành chữ đăng hoặc là từ bộ ngõa viết thành chữ đăng đều là chữ cổ.

Sanh thủng ngược lại âm diêu dũng văn kinh viết từ bộ cốt viết thành chữ dũng là chẳng phải ý kinh không thành, chữ nghĩa hợp là chữ thủng nghi là sách viết sai lầm.

Như thục ô khư ngược lại âm khưu cử Thiên Thương Hoét ghi rằng: Nấu cháo lúa mạch gọi là khư chữ viết từ bộ mạch thanh khư chữ mạch từ bộ lai dưới là đến bộ duy âm duy là âm tuy.

Ngũ đóa ngược lại âm đương quả người đàn bà mang thai trong tinh tự phân tụ năm chỗ gọi là đóa hoặc gọi là ngũ bao kinh văn viết từ bộ nhục viết thành chữ đóa là chẳng phải, đúng là từ bộ thổ thanh đóa hoặc là viết chữ đóa đều là văn cổ, đều đúng thể chữ, có lúc không dùng nhiều.

Lưỡng tân ngược lại âm tần mẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Xương đầu gối, chữ viết từ nhục thanh tân hoặc viết từ bộ cốt viết thành chữ tân cũng thông dụng.

Trước hầu ngược lại âm trên là trường lược sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo đến bộ giả kinh văn viết từ hai bộ điểm dưới viết trước là sách viết thảo tục tự dùng cũng thông dụng, văn dưới viết chuẩn đây biết là âm hầu giải thích là yết hầu.

Trước hình ngược lại âm hình định sách Thuyết Văn cho rằng: Cẳng chân từ chân đến đầu gối, gọi là ống xương, xương ống quyển, chữ viết từ bộ nhục thanh hình.

Ổi lỗi ngược lại âm trên ô hối chữ thượng thanh, ngược lại âm dưới lôi ổi sách Khảo Thanh cho rằng: Xương nhiều tụ lại, chồng chất lên, kinh văn viết chữ ổi từ bộ quỷ viết thành chữ khối lỗi là sai, hoặc là viết chữ lỗi hoặc là viết chữ lỗi đều là chữ cổ.

Thọ phì âm phì sách Thuyết Văn viết cho rằng: Bệnh phong, chữ viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm nữ ách thanh phi.

Bài xế ngược lại âm trên bại mai ngược lại âm dưới xương nhiệt gọi là phát bệnh phong.

Miệt lệ ngược lại âm trên miên tất sách Lã Thị Xuân Thu nói: Miệt là manh tức là mù, sách Thuyết Văn nói: Con mắt tối vì ghèn, chữ hình thanh ngược lại âm dưới liên kiết sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hộ đến bộ khuyển chữ hội ý. Kinh văn viết từ bộ mục viết thành chữ lệ là chẳng phải.

Hoặc uyển chữ này các chữ trong sách đều không có chữ này chuẩn nghĩa hợp là chữ uyển ngược lại âm ôhoàn chữ từ bộ thân viết đó là chưa rõ.

Hoặc đồi ngược lại âm đồ lôi người dịch kinh dùng sai, chữ viết từ bộ quỷ đến bộ chuy, đó là tên giống thú, đặc biệt là chẳng phải nghĩa của kinh, đúng hợp là từ bộ hiệt viết thành chữ đồi đồi đó là bụng nhỏ có bệnh tật, cũng gọi là bệnh nhỏ có bệnh tật, cũng gọi là bệnh đường ruột sưng to lên, bệnh rơi xuống.

Khào huyết ngược lại âm khả cao sách Vận Thuyên nói rằng: Khào là xương tột cùng của xương sống, bên trong xương mông đít.

Tà quỷ thỉ ngược lại âm sĩ lợi Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Thần yêu đó gọi là thỉ mị tức thần ở đầm, ở núi, tục gọi âm là sửu lật chuyển thanh sai, sách Thuyết Văn cho rằng: Quỷ lệ tức quỉ thần cây bệnh tật, kinh văn viết hoặc là chữ thỉ đều thông dụng.

Chúc kỳ ngược lại âm trên là thục âm dưới là kỳ lại âm cự ký yêu tinh khác thường, sách ghi rằng: Chúc kỳ đó là loài quỷ ngang eo lưng nhỏ, ngược lại âm loài quỷ cũng là đi gây bệnh dịch.

Mỵ hư ngược lại âm trên mi bị hoặc là viết từ bộ vị viết thành chữ mỵ theo chữ đó là loại quỷ này có rất nhiều, hoặc là loài chồn, loài cáo, hoặc là các loại khác, hoặc là quỷ hoặc là thần, đều có thể làm mê hoặc người, ngược lại âm dưới là hư tức là hư hao quỷ làm cho hư hao, sách khác như sách Giai Uyển nói: Quỷ hư hao chỗ đến đâu là khiến cho người ta tổn thất tài vật, kho lẫm chứa đều rỗng không, cạn kiệt hết sạch, nên gọi là quỷ làm hư hao hình của loài quỷ này không phải là một giống như quái vật.

Khẩu trung thượng ngạc ngược lại âm ngã các sách Khảo Thanh cho rằng: Hàm ếch lợi răng trên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ còn thiếu, sách hoặc là viết từ bộ xỉ viết thành ngạc sách Tập Huấn nói rằng: Trong miệng lợi răng trên, viết đúng từ bộ nhục thanh ngạc âm ngạc đồng với âm trên, cũng từ bộ khấu đến bộ nghịch âm nghịch là âm nghịch. Nay tục viết từ bộ tử viết thành chữ ngạc kinh văn viết chữ hoắc âm hoắc ngược lại âm hồ quách ý kinh quái lạ, cho nên nay sửa đổi lại không lấy nghĩa này.

Túc thuyên ngược lại âm thù nhuyễn sách Thuyết Văn cho rằng: bụng bắp chân, hoặc từ bộ túc viết thành chữ thuyên hoặc là viết chữ duyên âm đều đồng thể chữ có khác đó là các nhà nho không thể ghi nhớ hết, nên ý còn sơ suất, hoặc là viết từ bộ túc sau đó người ta bắt chước theo thói quen chuyên dùng, cho nên không đích xác. Nay đều tùy theo mà dùng vậy.

Thỉ lợi ngược lại âm thực nhỉ dùng sai chữ, sách Thuyết Văn nói: Lấy lưỡi liếm lấy vậy, viết đúng từ bộ dị viết thành chữ dị hoặc là viết chữ đà đều đúng thể chữ,

Tự Thư hoặc là viết chữ thỉ đều tục dùng thông dụng, đều chữ cổ.

Thị điềm ngược lại âm trên thời lợi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ưa thích ngọt không nhàm đủ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kỳ là tham, sách Thuyết Văn nói muốn, chữ viết từ bộ khẩu thanh kỳ ngược lại âm dưới diệp kiêm Quảng Nhã cho rằng: Điềm là ngọt, sách Thuyết Văn nói ngon, chữ viết từ bộ cam đến bộ thiệt chữ hội ý cũng viết chữ điềm đều dùng thông dụng.

Tiên tháp ngược lại âm trên tiền diễn Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Chiếc xe lăn cán đạp lên, lại gọi là tiên đó là mang giày dép giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh tàn âm tàn là âm tàn ngược lại âm dưới đàm hạp Cố Dã Vương nói: Tháp là đá, Quảng Nhã cho rằng: Mang giày dép đạp lên, sách Thuyết Văn nói đạp giẫm lên chữ viết từ bộ túc thanh tháp âm tháp là âm náp, kinh văn viết chữ tháp là chẳng phải.

Trì kiềm ngược lại âm dưới liểm chiêm sách Phương Ngôn nói: Từ quan ải mà đến cửa tây gọi là kiềm là lưỡi liềm cắt gặt lấy vật, dụng cụ của nhà nông, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh kiêm kinh văn viết chữ kiềm tục dùng thông dụng.

Độc lâu ngược lại âm trên đồng lộc ngược lại âm dưới lặc hầu Bì Thương cho rằng: Xương đầu sách Thuyết Văn nói xương trên đỉnh đầu chữ viết từ bộ cốt chữ hình thanh, kinh văn viết từ bộ hiệt viết thành chữ độc lâu tục dùng chữ cũng thông dụng, nhưng chẳng phải chánh thể.

Ố lộ ngược lại âm trên ô cố Cố Dã Vương cho rằng: Ố giống như là ghét, Ngọc Thiên nói ố lộ là tiết ra nước là không che đậy lại, chữ hình thanh, kinh văn viết từ bộ nhân viết thành viết ố lộ tục tự cho rằng chẳng phải thể đúng.

Y hức trên là chữ y kinh văn viết đơn chữ y là chẳng phải, chuẩn hợp nghĩa từ bộ nhân viết thành chữ y ngược lại âm dưới hức vực sách Chu Lễ cho rằng: Hức chỗ gọi là nước chảy thông ra sông, sách Thuyết Văn cho rằng: Mười dặm là bờ mương, bờ mương rộng tám thước, sâu tám thước gọi là hức tức ống cống rảnh nước. Chữ viết từ bộ thủy thanh huyết hức cũng là cấu tức bờ mương.

Bệnh sâm ngược lại âm sơ cẩm lục cỏ Hán cao tổ gọi là công, tụng là mang mang vũ trụ thương sâm gọi là trời đất vũ trụ mịt mù, xa xăm, thượng xâm hạ độc, trên thấm nước dưới đen ngòm, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ thổ thanh sâm kinh văn viết từ bộ thạch cũng thông có khi cũng dùng.

*******

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

(Quyển thứ nhất cùng với quyển sau Tu Hành Đạo

Địa cũng đồng một kinh)

Đại giảo văn cổ viết chữ xác cũng đồng, ngược lại âm cổ học sơ lược Quảng Nhã cho rằng: Giao giống như rõ ràng, cũng là so sánh.

Trọng tài ngược lại âm tử lai tài là trồng trọt thời nay gọi là trồng cây cỏ, gọi là tài đây gọi là cây có thể đoạn, chặt cũng có thể trồng trở lại.

Biển ngược lại âm bổ hiển cổ nhân nói người lương y họ Trịnh theo Hán Thư Vi Thiệu nói: Người to lớn như núi, mà cũng nhỏ như cây sậy cây lau. Gọi vượt qua con người thời nhà Ngụy hoàng hậu là nghề thuốc.

Thương đầu sách Hán Thư nói: Thương Đầu Ứng Thiệu nói: Nhà Tần gọi đan là kiềm thủ kiềm tức là đen, tức là đầu đen, nô lệ gọi là thương đầu chẳng thuần là đen là tên gọi khác bọn dân đen.

Mất mạo ngược lại âm ư vật sách Nhĩ Nhã cho rằng: Uất hơi cũng gọi là buồn suy nghĩ, ngược lại âm dưới văn cổ viết chữ mạo hai chữ tượng hình, nay viết chữ mạo cũng đồng, ngược lại âm mạc hiệu gọi là dung mạo, cũng thấy rõ tướng mạo. Lại cũng viết chữ mạo gọi là huyễn mạo ngược lại âm mạc báo kinh văn viết chữ mạo là che đậy, mạo là chữ giả tá.

Chư tạng ngược lại âm tài lãng gọi là chỗ cất chứa, giống như kho lẫm để chứa, con người có ngũ tạng, gọi là Can, phế, tỳ, tâm, thận. Văn kinh viết chữ triết là chẳng phải.

Thấm nhân ngược lại âm trắc cấm Quảng Nhã cho rằng: Thấm là hủy nhục, cũng gọi là gièm pha nói xấu hại người. Lại cũng gọi là chê bai gọi là thấm.

Tri thù văn cổ viết chữ tri thù hai chữ tượng hình cũng đồng, âm tri thù con nhện giăng tơ. Kinh văn viết chữ triết là chẳng phải.

Thấu hầu lại viết chữ thấu cũng đồng, ngược lại âm sở trứu gọi là thấu tức uống vào kinh văn viết chữ số tục dùng thông dụng.

Đồng hiện ngược lại âm trúc dụng đô đồng hai âm, Văn thông dụng cho rằng: Nhủ trấp gọi là đồng tức là sửa, nay người Giang Nam cũng gọi sửa là đồng kinh văn viết chữ đồi ngược lại âm nô tội là chẳng phải.

Ngân sài kinh văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ ngân sai hai chữ tượng hình này sai.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 2

Bôn tẩu văn cổ viết chữ bôn nay viết chữ bôn cũng đồng, ngược lại âm âm bổ môn sách Nhĩ Nhã bôn tẩu là chạy, cũng gọi là chạy nhanh.

Bàn kiết ngược lại âm bạc hàn sách Quảng Nhã cho rằng: Bàn là rồng uốn khúc, uyển chuyển uốn lượn.

Cấm giới ngược lại âm cự cẩm ngược lại âm dưới hồ giới sách Thuyết Văn cho rằng: Giới là răng mọc đều nhau, sách Phương Ngôn cho rằng: Giới là phẫn nộ, Quách Phác cho rằng: Nói ngậm miệng là lòi răng ra.

(793) Quan vi ngược lại âm hồ quan theo Mao Thi Truyện nói: Cây cỏ mọc hoang sơ gọi là vi cũng gọi là cây lau sậy, đến mùa thu là trổ bông, thì gọi là quan đến mùa hạ nhỏ lại mềm yếu gọi là vi chưa trổ bông sau đó mới trổ bông gọi là quan ngược lại âm ngũ hoạn.

Phi điểu ngược lại âm bổ vi nói chim bay lên cao.

Kinh văn viết từ bộ khuyển viết thành chữ phi là sai.---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 3

Tông giải ngược lại âm tử tống tông là gộp, sửa chửa chỉnh lý, sách Thuyết Văn cho rằng: Tông là đầu mối sợi chỉ gọi là giềng mối nắm giữ dệt sợi nọ với sợi kia, có hoa văn đường nét dệt cho ngay thẳng.

Nguyên đà ngược lại âm ngư viên loài bò sát giống như con ba ba, mà lớn hơn, ngược lại âm dưới đồ hà giống như con rắn mối mà dài một trượng, có vảy có màu sắc tức là cá sấu. Kinh văn viết chữ nguyên đà hai chữ tượng hình đều chẳng phải thể.

Như miến ngược lại âm mạc biến nói rằng: Chưa nát vụn như bột mì, kinh văn viết chữ miệt thanh miệt đó là sai lầm.

Phanh trực ngược lại âm bổ canh gọi là búng dây nẩy mực gọi là phanh kinh văn viết chữ phanh tức là vải lụa không có văn màu đó chẳng phải nghĩa đây dùng.

Thiết vương ngược lại âm cự vương Văn thông dụng nói: Sợi dây buộc để kéo xe gọi là vương vương cũng là nối theo hổ tương với nhau, âm tao ngược lại âm tang lão âm hổ là âm hộ.

Phiền chi lại viết chữ phiền cũng đồng, ngược lại âm phò viên thêm lửa vào gọi là phiền phiền cũng là thiêu đốt làm cho khô.

Thiết uyển chữ uyển ngược lại âm sơ nhãn gọi là lấy tim tre nhọn xỏ xâu thịt đem đi nướng, tiêm ngược lại âm thả liên.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 4

Trào thuyết văn cổ viết chữ trào nay viết đều cũng đồng, ngược lại âm trắc giao lại Thiên Thương Hoét ghi xung quanh đều làm trò vui đùa bỡn cợt với nhau.

Tương tranh lại viết chữ tranh ba chữ tượng hình đều đồng, ngược lại âm trượng canh gọi là va chạm với nhau, tranh cũng gọi là va vào cây cột.

Bất tư lại viết chữ tư cũng đồng, ngược lại âm tử tư tư là đánh giá, độ lượng, sách Thuyết Văn nói: Tư là suy nghĩ, kinh văn viết chữ tư là tài sản riêng tư chẳng phải nghĩa đây dùng.

Tương khái văn cổ viết chữ khái cũng đồng, ngược lại âm cổ ngại Quảng Nhã cho rằng: Khái là chà xát, khái là thanh gỗ ngang gạt cho bằng, gọi là thanh gạt cho bằng khi đong lường gọi khái.

Cửu thiều lại viết chữ bỉ cũng đồng, ngược lại âm thị chiêu tên nhạc thời vua Thuấn, thiều cũng là thừa kế, nói vua Thuấn có thể thừa kế đức của vua Nghiêu, sách Thượng Thư nói: Ống tiêu thiều có chín lỗ mà thành nhạc.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 5

Hộ thảo ngược lại âm ư hổ Quảng Nhã cho rằng: Nắm giữ. Tây Kinh Phú Truyện nói rằng: Thu hoạch được, nói là săn bắt, nắm giữ được niền mới nước hồ tân, lại gọi là nắm giữ lấy âm tạm là âm sàm.

Xưng chùy ngược lại âm trực nguy Quảng Nhã cho rằng: Chùy là quyền tức là quả cân, sách Phương Ngôn nói: Chùy là quả cân nặng, đời Tống Lỗ gọi là chùy.

Si chữ ngược lại âm xích chỉ âm dưới là trắc ư gọi si căng ra nói người này, si căng lớn như con lợn vậy.

Bác yểm sách Toán Văn gọi là bác là lục bát, dùng sáu chiếc đũa, sáu con cờ gọi là lục yểm, gọi là đè xuống bốc lên, đè đồng tiền nhảy lên làm trò vui, cũng gọi đánh bạc tục gọi là xạ số, hoặc gọi là xạ ý.

Lịch tư ngược lại âm lực đích ngược lại âm dưới tang hề Văn thông dụng cho rằng: Dụng cụ tra khảo kẻ tù tội gọi là lịch tư. Tự Lâm nói đè chận ép ký tên vào.

Luyến luyến ngược lại âm lực chuyển gọi là thịt cắt thành miếng lớn đó là kích cắt thành miếng nhỏ đó gọi là nhục luyến kinh văn viết chữ liên chữ liên là chẳng phải âm kích ngược lại âm trắc sư.

Bộ diêu Thích Danh cho rằng: Trên có rủ xuống hạt châu bước đi thì lắc lư dao động, kinh văn viết chữ quỳnh diêu chữ diêu là chẳng phải.

Kiết thảo ngược lại âm cổ bát sách Thượng Thư nói: Ba trăm dặm lại có cái chòi rơm, nhà tranh lộ bằng rơm rạ. Khổng An Quốc nói: Kiết là cây khô chòi tranh để cho người phục dịch ở,

Hồ khẩu lại viết chữ di cú ngược lại âm hộ cô sách Phương Ngôn nói: Hồ khẩu là ăn nhờ, giữa Giang Hoài gọi là đi kiếm sống nơi phương xa là hồ sách Nhĩ Nhã nói rằng: Hồ là cháo đặc, Quách Phác chú giải rằng: Tức là cháo, âm chiên là âm chi nhiên.

- Quyển 6 không có âm giải thích.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH

(Quyển thứ nhất trùng tu không lược lại cùng với quyển trước đồng một kinh)

Huệ Lâm soạn.

Chiếu ngụ ngược lại âm ngũ cố theo Mao Thi Truyện nói ngụ là ngũ tỉnh dậy, kinh văn viết chữ ngụ là sai.

Manh minh ngược lại âm trên mạc canh sách Thuyết Văn nói: Manh đó là con mắt không có con ngươi, chữ viết từ bộ mục thanh chỉ âm dưới là mạc đinh Mao Thi Truyện nói minh là ban đêm tối tăm, kinh văn viết chữ minh tục tự dùng thông dụng.

Đại giảo ngược lại âm giang nhạc sách Bát Nhã nói so sánh hơn kém, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh giao.

Cơ vi ngược lại âm ký hy Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cơ cũng là vi nay Tự Thư phần nhiều không theo bộ mộc viết đơn chữ cơ ngược lại âm dưới vĩ phi kinh văn viết chữ vi là chẳng phải, viết đúng là chữ vi không theo người.

Triếp chánh ngược lại âm trắc diệp Hán Thư nói: Triếp là chuyên, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ xa thanh triếp kinh văn viết chữ triếp là chẳng phải âm triếp ngược lại âm trắc diệp.

Kiêu mạn ngược lại âm kiêu kiều ngược lại âm dưới là man biện kinh văn viết chữ kiêu là chẳng phải. Lại cũng viết chữ kiêu.

Tứ cù ngược lại âm cụ câu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cù là đường lớn thông đạt bốn phía, sách Thuyết Văn viết từ bộ hành thanh cù.

Điêu thứu ngược lại âm điểu liêu sách Khảo Thanh cho rằng:

Điêu giống như chim ó. Loài mảnh cầm giống diều, sách Mục Thiên Tử truyện nói: Gọi tên chung những giống chim hung dữ, lại cũng viết chữ điêu âm dưới là tựu kinh Sơn Hải nói: Tên của loài chim thứu, còn một tên nữa là man viết đúng là chữ man.

Mao mã âm trên mao Tự Thư đều nói không có chữ này, tự điển phần trung cũng không nói tới loài ngựa này. Bởi vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương nói là con ngựa báu, lông màu cam xanh dài, giống như lông đầu con thú, cũng giống như lông con voi, lông dài cho nên gọi tên ngựa lông.

Trừ hổn ngược lại âm hồn khổn sách Bát Nhã nói: Hổn là chỗ nước đục dơ bẩn, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ mộc thanh hổn âm hổn đồng với âm trên.

Chỉ bể ngược lại âm dưới bể nhị sách Thuyết Văn cho rằng: Xương đùi ngoài, cũng viết chữ tất chữ viết từ bộ cốt thanh.

Khỏa tiển ngược lại âm trên hồ ngõa Mạnh Tử nói rằng: Khỏa để lộ thân thể ra ngoài, cũng viết là chữ khỏa hoặc là viết chữ loa ngược lại âm dưới tiên điển sách Thuyết Văn nói: Tiển là chân thân với đất, tức là đi chân trần không mang giày dép, chữ viết từ bộ túc thanh tiển. Tróc duệ ngược lại âm diên tiết sách Khảo Thanh nói: Duệ là lôi kéo, dẫn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ âm duệ ngược lại âm dĩ lao âm đà ngược lại âm thác hà. Số tác ngược lại âm song tróc kinh văn viết chữ sổ tục dùng thông dụng.

Đoàn vũ ngược lại âm đoạt loan.

Nhiếp đạo ngược lại âm ni triếp sách Thuyết Văn nói: Dược cũng là đạo tức là nhảy lên, chữ viết từ bộ túc thanh nhiếp kinh văn viết chữ niếp tục dùng cũng thông dụng, âm nhiếp đồng với âm trên, ngược lại âm đào đáo, sách Thuyết Văn nói: Đạo là giẫm đạp lên, chữ viết từ bộ túc thanh đạo cũng đồng âm dưới.

Tháp đạo ngược lại âm đàm lạp kinh văn viết chữ tháp là chẳng phải, sách Thuyết Văn nói: Tháp là giẫm đạp lên, chữ viết từ bộ túc thanh tháp âm tháp ngược lại âm tham hạp.

Bát xế ngược lại âm trên bác mạt ngược lại âm sất chế kinh văn viết chữ xế là chẳng phải.

Nhãn tiệp ngược lại âm tiềm thiếp.

Đạo khấu ngược lại âm thổ đao sách Khảo Thanh nói: Móc lấy sâu hoặc là viết chữ đào sách Thuyết Văn nói viết từ bộ thủ thanh thao âm khấu là âm khẩu.

Đa nhiễm ngược lại âm nhiễm hiền sách Thuyết Văn nói: Cấu nhiễm chìm đắm trong cấu nhiễm, chữ viết từ bộ tu thanh nhiễm kinh văn viết nhiễm cũng thông dụng.

Cổ đạo âm trên là cổ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cổ là loài trùng có độc, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh mảnh.

Bì bác ngược lại âm trên bị bi sách Khảo Thanh cho rằng: Bì cũng là bác kinh văn viết từ bộ đao viết thành chữ bì tục dùng thông dụng, ngược lại âm dưới bang giác sách Hạ Tiểu Sớ nói rằng: Bác là lột da ra bóc ra. Sách Thuyết Văn cho rằng: Khắc dấu, chữ viết từ bộ đao thanh bác.

Diên trực ngược lại âm thức liên theo Mao Thi Truyện nói rằng: Diên là cây gỗ dài, sách Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ mộc thanh diên.

Chiên hựu ngược lại âm trên chi thiện âm dưới là hựu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chiên là cái đầu không ngay thẳng, sách Thuyết Văn nói hựu là cái đầu lắc lư, đầu bị bệnh, chữ viết từ bộ tật thanh hựu.

Quá bổng ngược lại âm trên trác qua theo Thanh Loại cho rằng: Quá là đánh bằng chày, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh quá ngược lại âm dưới bao giảng sách Khảo Thanh cho rằng: Bảng là đánh, chữ viết từ bộ mộc thanh phụng.

Ngũ pháo sắc ngược lại âm bao mạo sách Thuyết Văn nói: Thân sanh nóng nhiệt nổi mụt nhọt, cũng viết chữ pháo chữ viết từ bộ bì thanh bao.

Trước khoan ngược lại âm hoạt hoàn Quảng Nhã cho rằng: Khoan là xương tận cùng của xương sống, mông đít, âm đồn ngược lại âm đồn côn âm khào ngược lại âm khảo cao cũng viết chữ khoan.

Thuyên cốt ngược lại âm thù nhuyễn sách Thuyết Văn nói: Thuyên là bắp chân. Bụng của bắp chân, chữ viết từ bộ nhục thanh đoan cũng viết chữ duyên âm phì ngược lại âm phù phi âm trường là âm trường âm đoan ngược lại âm đoản loan.

Thỉ niệu ngược lại âm thi chỉ Tự Thư cho rằng: Thỉ là phân cức, viết đúng là chữ khuẩn kinh văn viết chữ thỉ tục dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới nô điếu sách Thuyết Văn nói: Tiểu tiện, tức là đi vệ sinh, cũng viết chữ niệu tục viết chữ niệu là chẳng phải.

Châm chủy ngược lại âm trấp lâm sách Thuyết Văn nói: Châm là kim may vá, chữ viết từ kim thanh hàm cũng viết chữ châm ngược lại âm dưới tức tủy Tự Thư nói: Cái mỏ con chim, cũng viết chữ chủy kinh văn viết chữ chủy tục dùng thông dụng.

Tháo diên ngược lại âm thác ngoa sách Thuyết Văn nói: Thóa là trong miệng nhổ nước dãi ra, chữ viết từ bộ khẩu thanh thùy cũng viết chữ thóa ngược lại âm dưới tiện diên sách Khảo Thanh nói diên là nước dãi trong miệng, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh khiếm kinh văn viết chữ diên tục dùng cũng thông dụng.---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 2

Tích lịch ngược lại âm trên tứ mịch ngược lại âm dưới linh đích sách Nhĩ Nhã nói rằng: Tích lịch là tiếng nổ sấm sét, kinh văn viết chữ tích lịch tục dùng cũng thông dụng.

Hóa cầu ngược lại âm củ ngu sách Bát Nhã nói: Cầu là phương pháp, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh cầu.

Bàn kiết ngược lại âm bán can sách Bát Nhã nói: bàn là con rồng uốn khúc, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ trùng thanh phiên.

Đa trứu ngược lại âm trâu sưu sách Khảo Thanh cho rằng: Trứu là da tụ lại, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ bì thanh sô kinh văn viết chữ trứu tục tự dùng cũng thông dụng.

Cấm giới ngược lại âm cập cấm sách Sở từ nói rằng: Cấm là ngậm miệng lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh cấm.

Nga mâu ngược lại âm trên ngã khả Cố Dã Vương cho rằng: Nga hình nó giống như chim nhạn người ta thường nuôi trong nhà, tức là con ngỗng, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh ngã âm dưới là mộc sách Nhĩ Nhã nói: Mâu là tên gọi khác của con vịt, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh mâu.

Quán vi ngược lại âm hồ loan Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Quán cũng là vi sách Thuyết Văn viết từ thảo thanh quan âm đồng với âm trên, kinh văn viết chữ quán là chẳng phải, ngược lại âm dưới vi quỉ sách Thuyết Văn nói: Vi là câu lau sậy chữ viết từ bộ thảo thanh vi.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 3

Ủy di ngược lại âm trên ủy vi ngược lại âm dưới đồ hà.

Bôn tẩu ngược lại âm bổn môn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bôn cũng là tẩu tức là chạy trốn, cũng viết chữ bôn Hán Thư viết chữ bôn.

Lộc bưu ngược lại âm dưới ty diêu sách Thuyết Văn cho rằng: Bưu (794) là một bầy chó chạy.

Mạo tuyệt ngược lại âm trên mạo mạo tuyệt theo ý kinh mạo là sầu muộn không có chỗ biết, buồn vô cớ.

Toàn xuyên ngược lại âm toán quan sách Mạnh Tử nói rằng: Toàn là cây đục, đục xuyên qua có lổ hổng, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ kim thanh toàn âm dưới là xuyên.

Quá bàng ngược lại âm trên trác qua sách Thuyết Văn nói rằng: Quá là đánh nện cũng viết chữ ngõa ngược lại âm dưới bạch canh sách Thuyết Văn cho rằng: Bàng là đánh bằng roi, chữ viết từ bộ thủ thanh bàng.

Quán ngược lại âm quan uyển lại cũng âm cổ hoán Cố Dã Vương cho rằng: Phàm tẩy rửa vật đều gọi là quán sách Thuyết Văn cho rằng: Quán là rửa tay, chữ viết từ bộ mảnh đến bộ cửu đến bộ thủy kinh văn viết chữ quán là chẳng phải.

Phanh thân ngược lại âm ban manh sách Khảo Thanh cho rằng: Phanh là búng ngón tay, gãy đàn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh biện kinh văn viết chữ phanh tục dùng thông dụng.

Nhược trách ngược lại âm trắc giá sách Vận Thuyên cho rằng: Trách là thuộc nan tre. Ống tre chữ viết từ bộ trúc thanh sạ âm đồng ngược lại âm sở trứu.

Bể nghê ngược lại âm trên sơ kế âm dưới nghê kế sách Thuyết Văn cho rằng: Bi nghê là nhìn nghiêng, chữ viết từ bộ nhục đều thanh ty nhi.

Trách kỳ ngược lại âm trên trắc cách sách Khảo Thanh cho rằng: Trách là căng ra, sách Bát Nhã cho rằng: Giết mà xé cánh tay ra gọi trách sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thạch thanh kiệt kinh văn viết chữ kiệt tục tự dùng cũng thông dụng, âm kiệt.

Châm chủy ngược lại âm chi lâm hoặc là viết chữ châm ngược lại âm dưới tức tủy cũng viết chữ chủy kinh văn viết chữ chủy chẳng phải chữ.

Thiết sản ngược lại âm thiên kiết ngược lại âm dưới xác nhãn sách Bát Nhã cho rằng: Sản là rẩy bỏ, tước lột, cũng viết chữ sản gọi là diệt sạch san bằng, chữ viết từ bộ kim thanh sản.

Y sao ngược lại âm sở giao sách Phương Ngôn nói: Sao là cướp đoạt, cưỡng lấy vật cũng viết chữ sao.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 4

Tỏa trảm ngược lại âm trên thô hóa sách Khảo Thanh cho rằng: Tỏa là chặt chém ra từ mảnh nhỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh tọa kinh văn viết chữ tỏa là chẳng phải, âm dưới trắc giảm sách Khảo Thanh nói: Trảm là chặt đốn. Sách Thuyết Văn nói: Diệt sạch chữ viết từ bộ cân thanh xa.

Kỳ hội ngược lại âm trên cự nghi Bì Thương cho rằng: Kỳ là ngọc báu quý trọng, viên ngọc đẹp cũng gọi là ngọc quý hiếm, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh kỳ ngược lại âm dưới cốt hồi Tự Thư nói: Hội là ngọc xấu kém giống như đá, Bì Thương cho rằng: Ngọc quý hiếm, sách Thuyết Văn nói: Viên ngọc tròn tốt đẹp, chữ viết từ bộ ngọc thanh hội kinh văn viết chữ hội tục dùng thông dụng, cũng viết chữ hoài cũng viết chữ khôi.

Ngu ngai ngược lại âm trên ngu câu ngược lại âm dưới nhai giai Thiên Thương Hoét ghi rằng: Ngai là ngu, sách Tập Huấn cho rằng: si chữ viết từ bộ mã thanh ngai. Phù nhạn ngược lại âm trên phụ phù sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thư phù tên gọi khác nữa là thu cũng thuộc loại vịt, tức là con le le, chữ viết từ bộ điểu thanh kỹ.

Quyển đã ngược lại âm quỳ viên cũng viết chữ quyền sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh quyến.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 5

Hoạch thảo ngược lại âm trên hoàng quách sách Thuyết Văn cho rằng: Hoạch là cắt gặt thâu gom đem về chữ viết từ bộ mộc đến bộ hoạch thanh tĩnh.

Liềm nghệ ngược lại âm trên kiểm diêm sách Thuyết Văn cho rằng: Liềm là dụng cụ như cái liềm để cắt gặt lúa đem về nhà, một tên gọi khác nữa khiết ngược lại âm khẩu kiết chữ viết từ bộ kim thanh liêm cũng viết chữ trác ngược lại âm ngư khế.

Lạc đà âm trên là thác ngược lại âm dưới đồ hà kinh Sơn Hải nói rằng: Lạc đà trên lưng nó gù lên cục thịt, kham vác nổi ngàn cân biết chỗ có suối nước, tục gọi lạc đà.

Nguyệt nhĩ ngược lại âm nguyên quyết sách Khảo Thanh cho rằng: Nguyệt là tên của loại hình phạt, sách Chu Lễ cho rằng: Chặt chân, kinh văn viết chữ liệt tục ngữ đều không dùng chữ này.

Áp già ngược lại âm dưới giá dã sách Vận Thuyên nói rằng: Loại chim đa đa, loại chim lưng màu tro xanh có chấm đen.

Tiều quý ngược lại âm trên tức diêu ngược lại âm dưới quỉ quý sách Thuyết Văn nói: Tim đập mạnh vì sợ hãi. Chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Chí kiêu ngược lại âm trên xỉ chi ngược lại âm dưới hiểu nghiêu Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Chí kiêu là loài chim tiếng kêu của nó rất ghê sợ, sách Thuyết Văn nói: Loài chim bất hiếu.

Thô lược ngược lại âm trên là thương hồ ngược lại âm dưới cường lượng Tự Thư cho rằng: Lược là dụng cụ bắt lấy loài chim thú, chữ viết từ bộ cung thanh kinh.

Luyến hạt ngược lại âm lực chuyển Tự Lâm cho rằng: Luyến là cắt thịt mỏng, chữ viết từ bộ nhục thanh luyến âm luyến ngược lại âm lực viên ngược lại âm dưới can khác sách Bát Nhã cho rằng: Lấy dao cắt vật.

Mộc tiết ngược lại âm tiên kiết sách Thuyết Văn nói: Tiết là dụng cụ mở cây ra tức là vật để niêm, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết.

Đầu phách ngược lại âm thất mịch sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy dao mà phá bổ tách vật ra, chữ viết từ bộ đao thanh tích.

Như ngoan ngược lại âm ngũ hoàn tên loài rắn.

---------------------------------------

TU HÀNH ĐẠO ĐỊA KINH QUYỂN 6

Hãn thanh ngược lại âm trên hàn thả sách Thuyết Văn cho rằng:

Hãn là nằm ngủ tiếng ngáy, chữ viết từ bộ ty thanh can.

Thủ quắc ngược lại âm quỉ bích lại cũng là âm quỉ hoặc hai âm đều thông, Tự Thư cho rằng: Dùng móng tay cào giữ lấy.

Hữu hoàng ngược lại âm ô quang xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ao nước lớn, sách Khảo Thanh cho rằng: Ao nước không chảy, sách Thuyết Văn viết đúng chữ hoàng từ bộ thủy thanh hoàng.

Tùy đoàn ngược lại âm trực truy ngược lại âm dưới đoan loạn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đoàn là đánh, rèn luyện, cũng gọi là đánh ném, sách Thuyết Văn viết chữ từ bộ kim thanh đoàn.

*******

BÁCH DỤ TẬP KINH

-Quyển 1, 2, 3 trên Huyền Ứng đều không có âm.

BÁCH DỤ TẬP KINH QUYỂN 4

Yểm mễ ngược lại âm ô cảm Tự Lâm nói rằng: Yểm là ăn gọi là hướng về cái miệng, gọi là yểm âm đạm ngược lại âm đồ cảm.

Đam tam Thiên Thương Hoét ghi sam cũng đồng, ngược lại âm tô nam gọi là lông rủ xuống, Văn thông dụng cho rằng: Lông dài lòa xòa gọi là tam tam.

*******

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn

Hoăng vẫn ngược lại âm hồ hoằng Quảng Nhã cho rằng: Hoăng là mất, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hoăng là chết chư hầu chết gọi là hoăng. Kháng ngự ngược lại âm ngư lữ ngự là đương đầu phòng ngự Mao Thi Truyện nói: Cấp cho gọi là có phòng ngự dễ khinh nhờn, theo truyện nói rằng: Vỏ thần bẽ gãy phòng ngự gọi là chống đỡ khinh lờn.

Quỹ địa văn cổ viết chữ quỹ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cư mỹ Quảng Nhã nói là quỹ là vết tích của bánh xe, sách Thuyết Văn nói: Vết bánh xe, sách Quốc Ngữ nói: Quỹ là pháp tắc.

Thủy độc ngược lại âm đồ đấu sách Khảo Công Lý nói rằng: Thác nước trên núi cao ba thước, Trịnh Huyền cho rằng: Đường nước chảy trong cung, tức là cống rảnh, khoét đào, rỗng, trống.

Tài hối văn cổ viết chữ hối cũng đồng, ngược lại âm hồ tội Văn thông dụng nói rằng: Tài sản của cải, vải vóc gọi là hối sách Chu Lễ nói rằng: Thông với hàng hóa của cải, Trịnh Huyền cho rằng: Vàng ngọc và vải vóc tơ lụa gọi là hối.

------------------------------------

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 2

Ách uyển lại viết chữ cách cũng đồng, ngược lại âm ư trách sách Thuyết Văn nói: Cách là nắm giữ, nắm trong tay nhiều gọi là ách Quảng Nhã cho rằng: Ách là nắm giữ.

Nhuận động ngược lại âm nhi luận sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt nháy nhiều lần, liếc mắt, kinh văn viết chữ nhu là chẳng phải thể.

Hắc trùng ngược lại âm man bắc sách Phương Ngôn cho rằng: Người phương bắc gọi con dơi là thức hắc trong nước Thục gọi ba bắc từ Quan Đông đều gọi là phục dực Quan Tây gọi là biến bức.

------------------------------------

BỒ TÁT BỔN DUYÊN KINH QUYỂN 3

Giác trương ngược lại âm cổ nhạc gọi là trái ngược không thuận theo kinh văn viết từ bộ mục viết thành cảnh giác là chẳng phải.

Phất uất ngược lại âm phụ vật phất uất là trong lòng không yên, ý cũng không thư thả, tức giận, buồn rầu.

Khanh giáo ngược lại âm cổ hiệu sách Thuyết Văn nói: Hầm đất đào xuyên qua đất làm hầm chứa ngũ cốc.

*******

ĐẠI THỪA TU HÀNH TÁT HẠNH MÔN CHƯ KINH YẾU TẬP (3 QUYỂN)

Bên phải một kinh này đều sao chép trong đại tập trước v.v... các kinh Đại Thừa văn trước trong bổn kinh, đều đã âm và giải thích rồi, đây không dùng âm trùng lắp lại, mà lại kiểm qua bổn kinh âm nghĩa thấy cũng được.

*******

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 1

Huyền Ứng soạn.

Tức hy ngược lại âm hư y sách Thuyết Văn nói: Khô gọi là khóc khô nước mắt, cũng gọi nhìn ra xa trông ngóng.

-Quyển 2, 3 Trước không có âm.

----------------------------------------

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 4

Quẩn cấp ngược lại âm quân vẫn sách Thuyết Văn nói quẫn bách, Mao Thi Truyện nói: Quẩn là khốn khổ túng quẩn.

----------------------------------------

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 5

Ma-trác-la ngược lại âm sắc giác.

Nhãn kiểm ngược lại âm quân nghiêm gọi là ngoài mí mắt.

Truy thù ngược lại âm trắc cơ phong tục thông thường gọi thù là đơn vị trọng lượng bằng sáu thù, tức là quả cân, quả cân tức là quy định lên rõ ràng, hai tùy tức là truy truy sáng rực rõ ràng, hai truy tức là hai lạng.

----------------------------------------

PHÓ PHÁP TẠNG TRUYỆN QUYỂN 6

Thuần túy lại viết chữ túy cũng đồng, ngược lại âm tư loại sách Thuyết Văn cho rằng: Túy là không có tạp cũng gọi là nhỏ bé, gọi khác là thuần là tinh túy, cũng gọi là đồng đều nhau gọi là túy.

Luy xuyết ngược lại âm tri liệt theo Thanh Loại nói rằng: Xuyết là (795) hơi ngắn, xuyết cũng gọi là buồn rầu.

*******

TỌA THIỀN TAM MUỘI KINH

QUYỂN THƯỢNG

Thượng nghi chất ngược lại âm trên nghi kỹ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lớn gọi là kiến càng, nhỏ gọi là con kiến, hoặc là viết chữ khải phù xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hủy âm hủy là âm hủy thanh nghị ngược lại âm dưới là chân viết Thiên Thương Hoét ghi chất là loài côn trùng sống dưới nước, tên gọi khác nữa là kỳ có thể hút máu người, sách Thuyết Văn nói là con đĩa, chữ viết từ bộ hủy thanh chí.

Trứu mi ngược lại âm trên là trắc sưu sách Vận thuyên nói: Da mặt tụ lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ bì chữ sô ngược lại âm sở câu thanh sô ngược lại âm dưới mỹ bi sách Thuyết Văn nói mi mắt trên, lông mi, chữ viết từ bộ mục thanh mi chữ hình trên giống như là cái trán, gọi là trau chuốt lông mi.

Miến lai ngược lại âm trên miệt biến sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến giữa tây Tần, Tấn gọi là miến sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn nghiêng gọi là nhắm một bên con mắt mà nhìn, giống như là liếc mắt chữ viết từ bộ mục thanh miến âm miến đồng với âm trên, ngược lại âm dưới lai đại Quảng Nhã cho rằng: Lai là nhìn, sách Thuyết Văn nói con ngươi không thẳng, giống như là liếc xéo, liếc nhìn, chữ viết từ bộ mục thanh lai.

Cấu giới ngược lại âm gian bái sách Khảo Thanh cho rằng: Giới cũng là cấu tức là nhơ bẩn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ thổ thanh giới.

Xúc chu ngược lại âm thu dục Thiên Thương Hoét ghi rằng: Xúc là đạp lên, hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Chân đá ngược phía sau gọi là xúc sách văn nói nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ túc thanh tựu ngược lại âm dưới trắc câu sách Thuyết Văn nói: Chu là rễ cây chữ viết từ bộ mộc thanh chu.

Tiên si ngược lại âm trên tất miên Cố Dã Vương cho rằng: Roi quất ngựa gọi là tiên âm sách ngược lại âm sở cách sách Thuyết Văn nói: Thúc con ngựa chạy mau, chữ viết từ bộ cách thanh tiện ngược lại âm dưới là sửu chi âm nghĩa Hán Thư nói rằng: Si là hình phạt đánh bằng roi, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Là đánh, chữ viết từ bộ trúc thanh si.

--------------------------------------

QUYỂN TRUNG

Lộc chuyên ngược lại âm thời nhuyễn sách Thuyết Văn nói: Chuyên là bắp chân, từ cổ chân đến bắp chân, cũng viết chữ thuyên từ bộ túc thanh duyên âm trên lung cốc.

Nhãn hiệp ngược lại âm tiêm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Lông mi trên mí mắt, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh hiệp hoặc là viết chữ tiệp kinh văn viết từ bộ thiếp viết thành chữ thiếp tục dùng thông dụng.

Khắc lệ ngược lại âm lữ chế Cố Dã Vương nói rằng: Lệ giống như gắng sức, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lệ cũng là khuyến khích, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ lực âm lệ đồng với âm trên thanh lệ.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Giai thê ngược lại âm tiềm để Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thê là cây thang sách Thuyết Văn nói: Cũng là thềm bậc thang, chữ viết từ bộ mộc thanh đệ.

Sử lưu ngược lại âm trên sư sử Thiên Thương Hoét ghi rằng: Sử là chạy mau, sách Khảo Thanh nói: Cũng là con ngựa chạy mau, lại cũng gọi là rất mau, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cũng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ mã thanh sử.

Tuấn túc ngược lại âm tôn tấn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tuấn là con ngựa chạy rất mau, Quách Phác chú giải rằng: Tuấn giống như tấn tốc mau như gió, sách Thuyết Văn nói con ngựa hay tài giỏi, chữ viết từ bộ mã thanh tuấn âm tuấn ngược lại âm tử tuấn.

Khí ế ngược lại âm dưới yên kiết theo Mao Thi Truyện cho rằng: Ế là không thể thở được, sách Thuyết Văn cho rằng: Ăn cơm bị nghẹn chữ viết từ bộ khẩu thanh ế âm thất ngược lại âm trân lật.

Thân lũ ngược lại âm lực củ Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Lũ là có tật bệnh, Quảng Nhã cho rằng: Thân thể cong lại sách Thuyết Văn nói: Bị khiển chân, lưng gù, chữ viết từ bộ nhân thanh lũ.

Trí ngại ngược lại âm tri nhị Cố Dã Vương nói rằng: Trí là đốn ngã, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trí là vấp ngã, sách Thuyết Văn viết từ bộ tục thanh chất.

Thất bị ngược lại âm dưới bài mại Thương Hoét cho rằng: Cái túi bằng da, sách Khảo Thanh cho rằng: Dụng cụ thổi lửa, Bì Thương cho rằng: Chữ viết từ bộ vi viết thành chữ bị xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ cách thanh bị âm bị là âm bị kinh văn viết chữ thác chữ cổ.

*******

PHẬT Y KINH

Bất tư lại viết chữ tư cũng đồng, ngược lại âm tử di tư là độ lượng, đánh giá, sách Thuyết Văn cho rằng: Suy nghĩ độ lượng đánh giá nơi ý.

Chế cẩu Tự Thư viết chế thư hai chữ tượng hình, lại viết chữ chế cũng đồng, ngược lại âm xương chế cư thế hai âm, gọi là cho dại tức là cho điên, dữ tợn hung ác.

*******

DUY VIẾT TẠP NAN KINH

Huệ Lâm soạn.

Thọ biệt ngược lại âm biến liệt theo Khảo Thanh Thiết Vận cũng từ bộ trúc viết thành chữ biệt nghĩa là thẩm xét cái xấu và cái tốt, hoặc là từ bộ ngôn viết thành chữ biệt kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ biệt e rằng truyện viết sai.

Nổi cơ ngược lại âm trên nô tội Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nổi là đói, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh ủy ngược lại âm dưới cư nghi sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lúa thóc không chín gọi là cỏ tức là đói, hoặc là viết từ bộ chữ này sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh kỹ.

Tranh thân ngược lại âm trên trạch hành Quảng Nhã cho rằng: Tranh là chống cự, sách Thuyết Văn cho rằng: Tranh là trụ cột chữ viết từ bộ mộc thanh đường.

Tảo khởi ngược lại âm tao lão theo chữ tảo kinh sử phần nhiều viết chữ này. Bởi vì chữ tảo là sắc tức là con muỗi mắt, hoặc là con ký sinh trùng, sống trên người và súc vật như rận, chấy, bọ chét, thời nay theo thông dụng gọi là viết chữ tảo.

Nhiêu nhân ngược lại âm nhiễu chiêu sách Quảng Số nói rằng: Nhiêu là nhiều đầy đủ, gọi là phong phú dồi dào, dư thừa cũng gọi là có lợi ích, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh nghiêu kinh văn cũng có viết chữ nhiêu là chẳng phải.

Nại thống ngược lại âm trên nải đại Cố Dã Vương nói rằng: Nại giống như là có thể Tô Lâm gọi là, hai tuổi sắp lên hình là có thể chịu đựng, cũng là có thể nhận chịu tội thay, Đỗ Lâm Hán Thư chú giải rằng: Phàm là pháp độ chữ đều từ bộ thốn sách Thuyết Văn nói từ bộ thốn thanh nhi.

Thượng khiên ngược lại âm dưới khiết kiên Cố Dã Vương nói rằng: khiên cũng là dẫn dắt ra phía trước, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ huyền đến bộ miên đến bộ ngưu.

Ý giá sanh ngược lại âm ngôn kiện Thiên Thương Hoét ghi: Giá là nghinh đón, sách Thuyết Văn cho rằng: Xuân thu nghinh đón công du về miền sơn dã, chữ viết từ bộ ngôn đến bộ xước âm xước ngược lại âm sửu lược. Bất tập ngược lại âm trang lập theo Mao Thi Truyện nói: Tụ tập hợp lại Trịnh Tiển chú giải rằng: Tập là sức mạnh của trang kiếm sĩ tức gom sức mạnh lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Chứa binh khí chữ viết từ bộ qua thanh tập.

Kiền-trắc? Ngược lại âm trên là cùng tiếng Phạm.

Thái tử Tất Đạt cởi con ngựa trắng tên là Kiền trắc.

Thỉ túc ngược lại âm trên thời chí sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng lưỡi mà liếm thức ăn, chữ viết từ bộ thiệt thanh thị âm thị đồng với âm trên.

Tác chẩm ngược lại âm châm nhẩm Cố Dã Vương cho rằng: Khi nằm có chỗ kê đầu sách Thuyết Văn nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ mộc thanh chẩm Mao Thi

Truyện nói: Lần lần chuyển qua nằm xuống cái gối.

Nhất hủy ngược lại âm vu quỷ Cố Dã Vương cho rằng: Nay Trang Tử cho rằng lấy chữ phúc hủy sách Thuyết Văn cho rằng: Phúc hủy là rắn hổ, một giống rắn độc, chữ viết từ bộ hủy thanh ngột.

Thứ-thấu-mật trong khao thanh gọi là âm Thấu-tấu tiếng Phạm.

*******

CA DIẾP PHÓ PHẬT KINH

Huệ Lâm soạn.

Hạp ngược lại âm trên hàm giáp Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Hạp là gần gũi thân cận, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hạp là quen nhờn, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh giáp ngược lại âm dưới tỳ ty Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Thuộc loại báo, xuất ra bộ tộc ở đông bắc Trung Quốc, sách Thượng Thư cho rằng: Giống như con hổ có nơi bảo giống con gấu, Khổng An Quốc chú giải rằng: Cũng là thuộc hổ theo Mao Thi Truyện nói rằng: Cũng là giống thú dũng mảnh sách Thuyết Văn viết từ bộ trĩ thanh tỳ âm trỉ là âm trĩ kinh văn viết chữ tỳ tục dùng cũng thông dụng.

Bác chi ngược lại âm trên bổ lạc Cố Dã Vương nói Bác giống như là phủi, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Giữ lấy Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bác cũng là đến, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh phu âm phu là âm phù.

*******

BỒ TÁT HA SẮC DỤC KINH

Huyền Ứng soạn.

Phu chất ngược lại âm trên phương phù trong sách viết chữ phu hoặc là âm phủ tức là cái búa ngang to lớn, xưa đó dùng để giết người bằng búa, ngược lại âm dưới viết chánh thể chữ chất ngược lại âm chi dật sách Thuyết Văn cho rằng: Búa chém ngang lưng Bì Thương cho rằng: Cái búa có cán dài, Công Dương truyện nói rằng: Không nhẫn chịu được cộng thêm tội tức là phu chất Hà Hưu chú giải rằng: Chém ngang eo lưng tội người tội.

Trở kỹ ngược lại âm trắc lữ, Tự Thư cho rằng: Trở là tấm thớt để cắt thịt. Trở cũng gọi là cái mâm có bốn chân nhỏ.

*******

TỨ PHẨM HỌC PHÁP

Huệ Lâm soạn.

Câu ngại ngược lại âm cự ngu Quảng Nhã nói: Câu là bức bách, sách Khảo Thanh cho rằng: Che, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngăn trở, chữ viết từ bộ thủ thanh cú.

*******

KIM CANG LỰC SĨ AI LUYẾN KINH

Huệ Lâm soạn

Trân lâm ngược lại âm trên sĩ trân Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Cây mọc um tùm gọi là trân sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh trân.

Minh huyễn ngược lại âm trên miên biến sách Thượng Thư nói rằng: Giống như chế thuốc mà nhắm mắt, làm càng còn thiếu sót thì tật bệnh không có lành khỏi được, sách Thuyết Văn cho rằng: Minh là nhắm mắt chữ viết từ bộ mục thanh minh ngược lại âm dưới là huyền quyến Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: huyễn hoặc Thiên Thương Hoét nói: Nhìn thấy không rõ sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh huyền kinh văn viết từ bộ diện viết thành chữ miến là chẳng tục dùng thông dụng.

Tê túy ngược lại âm tiên hề Bì Thương cho rằng: Tê là tiếng khàn, sách Phương Ngôn cho rằng: Tiếng bị uất nghẹn sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng đau buồn, chữ viết từ bộ khẩu thanh tư hoặc là viết chữ tê.

 *******

CA CHIÊN DIÊN THUYẾT PHÁP MỘT TẬN KỆ KINH

Huyền Ứng soạn.

Cấp cấp ngược lại âm cư cập sách Thuyết Văn cho rằng: Cấp cấp là đi mau gấp vội, Quảng Nhã cho rằng: Cấp cấp là dựa theo, nay đều theo bộ thủy viết thành chữ cấp.

Khoán biệt ngược lại âm khu vạn sách Thuyết Văn nói: Khoán là khế ước, chứng thư riêng gọi là dùng dao rọc ra một bên, cho nên gọi là khế Thích Danh cho rằng: Chứng thư lớn trong phá ra lập riêng ra.

*******

PHẬT THUYẾT TRỊ THÂN KINH

Huệ Lâm soạn

Dĩ hiệt ngược lại âm trên nhàn tiết sách Khảo Thanh cho rằng: Hoét là lanh lợi, sách Phương Ngôn cho rằng: Trí tuệ, giữa Triệu, Ngụy gọi trí tuệ là hiệt theo chữ dĩ hiệt là trí tuệ, người xưa nói là chất xám.

*******

PHẬT THUYẾT TRỊ Ý KINH

Huệ Lâm soạn

Tảo đắc ngược lại âm tao lão âm trên chỉ là tạp khó, kinh đã giải thích rồi.

*******

NGŨ MÔN THIỀN KINH YẾU DỤNG PHÁP

Huệ Lâm soạn.

Hệ miệm ngược lại âm trên kê duệ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hệ là tiếp nối theo sách Thuyết Văn cho rằng: Hệ là bó buộc, ràng buộc. Nay cũng viết chữ hệ, hệ cũng là nối kết liên tục, chữ viết từ bộ nhân thanh hệ âm hoặc ệ ngược lại âm hề nghệ.

Dịch hạ Ngược lại âm trên doanh ích Thiên Thương Hoét nói: Khuỷu tay phía sau, tức cùi chỏ, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ nhục thanh dạ.

Như tiên ngược lại âm tiên tiển sách Chu Lễ cho rằng: Người thợ may nắm xe sợi chỉ may áo trong cung vua, Trịnh Chúng cho rằng: Tuyền cũng là sợi chỉ, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ mịch thanh tàn âm tàn là âm tàn, kinh văn viết chữ diên âm diên nghĩa là mũ trên che đậy chẳng phải chữ tiên hoặc là viết chữ tuyến cũng thông dụng.

Hoán giác ngược lại âm trên nô noãn kinh văn viết chữ hoán là chẳng phải, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hỏa thanh nhuyễn âm nhuyễn ngược lại âm nhi luyến.

Đạm dũ ngược lại âm trên là đàm chiêm Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đam là an, Cố Dã Vương đạm là điềm tĩnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh chiêm âm chiêm là âm chiêm ngược lại âm du tu Trịnh Huyền (796) chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dũ là nhan sắc hòa nhã vui vẻ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vui vẻ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh du.

Khẩn trắc ngược lại âm trên khang ngận Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Bền chắc, cứng, sách Lễ Ký nói rằng: Khẩn gọi là chí thành, sách Thuyết Văn nói: Khẩn là viết từ bộ tâm thanh khẩn âm khẩn đồng với âm trên chữ viết từ bộ thỉ đến bộ cấn kinh văn viết từ bộ trĩ viết thành khẩn là sai.

Môn mạc ngược lại âm trên mạc bôn ngược lại âm dưới man bác theo Thanh Loại cho rằng: Môn cũng là mạc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Mạc cũng là môn sách Thuyết Văn cho rằng: Đều từ bộ thủ đều thanh môn mạc. Thê đăng ngược lại âm trên thể nê ngược lại âm dưới đăng đặng Quách Phác chú giải rằng: Đăng là lên vóc núi, đất vóc âm phản là âm phản sách Khảo Thanh cho rằng: Mang giày dép giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Đăng là ngước lên chữ viết từ bộ phụ thanh đăng kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ tranh là chẳng phải.

Hoàn phi ngược lại âm trên hồ nguyên sách Khảo Thanh cho rằng: Hoàn phi là ấu trùng của con bọ cam, âm cốc là âm hộc sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến cửa đông hoặc gọi là hoàn cốc sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh hoàn ngược lại âm dưới phụ úy Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tức là con gián ngửi mùi, theo Tả Truyện cho rằng: Có con gián cũng không phải là tai nạn. Xưa nay Chánh Tự viết chữ phi từ bộ côn lại cho rằng: Từ bộ trùng viết thành chữ phi.

*******

DẬT MA ĐA LA THIỀN KINH

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng soạn.

Phát chẵn ngược lại âm chi nhẫn chẵn gọi là dấu tích, vết tích bánh xe lăn chuyển, sách Khảo Công Ký nói rằng: Đòn ngang ở sau xe bốn thước. Lại chú giải rằng: Thanh gỗ ngang ở sau xe, nay gọi là cỗ bánh xe lăn chuyển chỗ phát ra.

Phân quỳ lại viết chữ quỳ cũng đồng, ngược lại âm ký quy sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đường lớn thông ra chín hướng gọi là quỳ Quách Phác chú giải rằng: Đường lớn thông ra bốn phía, giao nhau xuất ra lại có một bên thông đó gọi là quỳ.

Sàn nhạn ngược lại âm sạn gian gọi là dáng mạo thận trọng, cũng gọi là gầy yếu là sàn Quảng Nhã cho rằng: Sàn là hèn mạt, xấu.

Tương ký theo Thanh Loại viết chữ nghiệt cũng đồng, ngược lại âm kỳ khí theo Tả Truyện cho rằng: Giống như sợ sệt không yên, lại chú giải rằng: Ký là đến sách Nhĩ Số nói: Ký là không kịp, ký là cùng đều nhau. Nhất quỹ ngược lại âm quỳ vị sách Khảo Thanh cho rằng: Quỹ là cái lồng tre, cũng từ bộ trúc viết thành chữ quỹ kinh văn viết quỹ này là sai.

Hạp chúng ngược lại âm hồ lạp sách Thuyết Văn cho rằng: Hạp là đóng cửa lại.

Siểm lịch ngược lại âm thức nhiễm ngược lại âm dưới là thư đích siểm lịch là tạm thời, thấy rồi mất, không nhất định kinh văn viết từ chữ tiềm là chẳng phải. Nhĩ-đạm tiếng Phạm Nhĩ-đạm đây dịch là sở tri cũng là ứng tri.

Thê đế ngược lại âm tha đệ ngược lại âm dưới lặt tế kinh văn gọi là tâm trụ một chỗ.

Quyến lưu ngược lại âm cổ huyễn Tự Lâm cho rằng: Nước chảy nhỏ, dòng nước nhỏ chảy ít ỏi cũng gọi là dòng nước sạch.

Tiêm hoại ngược lại âm tư hạp Văn thông dụng gọi là thấm chìm dưới nước gọi là tiêm thấm nước nhiều, Tự Lâm cho rằng: Thấm nước, ngâm vào trong nước.

Bần lũ ngược lại âm cụ du sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lũ là nghèo, Quách Phác cho rằng: Tính chất thô lậu xấu, Tự Thư cho rằng: Rổng không. Mao Thi Truyện nói rằng: Nghèo suốt, lại chữ bần theo truyện nói rằng: Cũng là lũ là người không có lễ nghĩa.

QUYỂN HẠ

Trần ma ngược lại âm vũ cai, vũ hạ hai âm Văn thông dụng cho rằng: Đất nóng lên gọi là ma ma cũng là bụi trần.

Nan thư ngược lại âm tài dữ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hà Hưu nói vùng đất bùn lầy, theo truyện cho rằng: Đất trũng, đất lầy, xấu, Tam Thương cho rằng: Từ từ sa lầy, hư hoại.

Phãng sang ngược lại âm phủ phãng sách Thuyết Văn cho rằng: Phãng là chất mở béo, ngược lại âm dưới tiên an Quảng Nhã cho rằng: Chất mở của con dê đóng băng lại cũng gọi là giữa ruột và mở.

Thiết thương ngược lại âm thiên dương sách Thuyết Văn cho rằng: Thương là cây súng bắn từ xa, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Hai đầu cây gỗ nhọn nhạy gọi là cây thương tức là cây súng. Kinh văn viết chữ tương tương là miếng ngọc bội thanh tương tương chẳng phải nghĩa đây dùng.

Phục lại viết chữ phục cũng đồng, ngược lại âm phò súc gọi là kê tức là con gà đẻ trứng là nằm lên tức là ấp trứng, sách Hoài Nam Tử cho rằng: Ấp trứng mà chưa nở đều là vậy.

Bể cốt nay viết chữ bể cũng đồng, ngược lại âm bộ mễ sách Thuyết Văn cho rằng: Xương đùi ngoài gọi là bể Giang Nam âm là tất nhĩ.

*******

THIỀN PHÁP YẾU GIẢI KINH

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng.

Phảng san ngược lại âm phủ phàng ngược lại âm dưới tảng an sách Thuyết Văn cho rằng: Phảng là chất mở, Quảng Thương cho rằng: Mập, béo phì.

Kỳ lộ lại viết chữ kỳ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm cự di gọi là con đường có nhánh phân rẽ, sách Nhĩ Số cho rằng: Con đường thông cả ba ngã gọi là kỳ Phách Phác chú giải rằng: Kỳ con đường rẽ bên xuất ra các ngã khác.

-Quyển hạ. Không có chữ cần phải âm.

*******

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng.

Khảm kha viết đúng nghi chữ khảm cũng đồng, ngược lại âm khẩu cảm ngược lại âm dưới khẩu tá sách Sở Từ nói rằng: Khảm khả là trắc trở, mà lưu trệ Vương Dật nói: Khảm khả là không gặp may.

Nhất tụ văn cổ viết chữ tụ hai chữ tượng hình cũng đồng, nay viết chữ tụ cũng đồng, ngược lại âm tài cú Quảng Nhã cho rằng: Tụ là gom lại một chỗ, gọi là người gom tụ lại một chỗ để ở, kinh văn viết chữ tụ là sai.

Tích thâm ngược lại âm thi nhậm thâm là sâu đối ngược là cạn, kinh văn viết chữ tông ngược lại âm tàng tông sách Thuyết Văn nói tông là tiếng nước chảy, Quảng Nhã cho rằng: Tông là thấm sâu vào nước chẳng phải nghĩa kinh.

Bảng mộc lại viết chữ bảng cũng đồng, ngược lại âm bao giảng gọi là cây gậy lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Bảng là cây gậy có góc cạnh chữ viết từ bộ mộc viết thành chữ lăng ngược lại âm đồ hoạt.

Tuần hành lại viết chữ tuần cũng đồng, ngược lại âm từ tuấn tuần cũng giống tuần sách Nhã cho rằng: Tuần là biến khắp cũng gọi là vòng quanh biến khắp, cũng gọi là huyên lệnh.

Kiền dùy nói đúng là kiền thực gọi là đánh bản gỗ, hoặc là viết chữ duy là sai kinh văn cảnh chữ dùy ngược lại âm đồ lễ cũng chẳng phải.

Thành ô ngược lại âm ô cổ Tự Lâm cho rằng: Thành nhỏ, Văn thông dụng cho rằng: Cư dinh gọi là ô chữ viết từ bộ phụ.

Tập trì văn cổ viết tập cũng đồng, ngược lại âm từ lập tập là nhận, Quảng Nhã cho rằng: Tập là kiệp, cũng gọi là con cháu được hưởng bổng lộc, theo Tả Truyện nói: Phàm khi bệnh gọi là tập. Lại chú giải rằng đè xuống chồng chất lên không phòng bị gọi là đánh úp ban đem gọi là tập.

----------------------------------

QUYỂN HẠ

Trậm sát ngược lại âm trừ cấm kinh Sơn Hải nói rằng: Mấy người con gái trên núi phần nhiều dùng lông chim trậm, Quách Phác nói rằng: Lớn như con diều, màu xanh lục, tím, cổ dài, mỏ đỏ, ăn thịt rắn giống chim độc. Thao hoan ngược lại âm lạc đáo ngược lại âm dưới hư viên Quảng Nhã cho rằng: Thao hoan là tiếng chim hót, sách Thuyết Văn nói rằng: Nói rì rầm bên tai, cũng gọi là ồn ào huyên náo.

Ma sa ngược lại âm tô hà theo Thanh Loại cho rằng: Ma sa là sờ mó, Thích Danh cho rằng: Xoa bóp, âm sát ngược lại âm tang hạt.

Cai bộ ngược lại âm hồ đại sách Thuyết Văn cho rằng: Cai là khổ cũng là nhàm chán.

Đáo địa ngược lại âm đô lão đáo là té ngã ngửa, kinh văn viết chữ đáo là chẳng phải lại viết chữ điểu điểu là chữ triện, điểu chẳng phải chữ nghĩa.

Ngôn tát ngược lại âm tảng hạt nói đúng là sa độ đây dịch là thiện tai, tức là lành thay, kinh văn viết chữ sát là chẳng phải.

Xuyết thường ngược lại âm xương duyệt sách Thuyết Văn nói: Xuyết thường là uống húp thử, Quảng Nhã nói là xuyết là ăn, Nhĩ Nhã nói xuyết là cho ăn Quách Phác cho rằng: Xuyết đó là nhặt lấy mà ăn, kinh văn viết chữ duyệt ngược lại âm thỉ nhuyến gọi là cúng tế, duyệt chẳng phải chữ nghĩa đây dùng.

Chuyết tư ngược lại âm đô hoạt gọi là cúng tế, sách Thuyết Văn gọi là nhặt lấy, theo Mao Thi Truyện nói: Thu xếp, dọn dẹp, sửa sang, theo truyện nói sửa sang.

*******

TẠP THÍ DỤ KINH

Huyền Ứng.

Soạn duyết ngược lại âm sĩ quyến ngược lại âm dưới trương nhiễm sách Thuyết Văn nói soạn là dụng cụ đựng thức ăn, cũng gọi là bày ra ăn uống, sách Phương Ngôn nói duyết là biếu tặng thức ăn cũng gọi là cúng tế, âm quỹ ngược lại âm cự quý.

*******

KINH A HÀM DI GIẢI THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

Huệ Lâm soạn.

Xác sanh ngược lại âm trên khống giác Cố Dã Vương cho rằng: Phàm là da ngoài đều gọi là xác Văn Tự Điển nói: Mai con rùa chữ viết từ bộ thù thanh xác âm xác ngược lại âm khẩu giang.

Tảo sắc ngược lại âm tử lão sách Thuyết Văn cho rằng: Tảo là loài côn trùng hay nhảy lên cắn hút máu người, chữ viết từ bộ côn thanh tảo âm côn ngược lại âm cốt hồn âm tảo là âm trảo ngược lại âm dưới sở ất sách Thuyết Văn nói cũng là loài côn trùng cắn người, chữ viết từ bộ côn thanh tấn.

*******

TƯ DUY LƯỢC YẾU KINH

Huyền Ứng soạn.

Si lệ ngược lại âm sung chi sách Thuyết Văn nói là Ghèn đóng ở khóe mắt, âm miệt ngược lại âm mạc kiết. Đinh ninh ngược lại âm đô lịnh ngược lại âm dưới nải lịnh Bì Thương cho rằng: Đinh ninh là chất dơ cấu trong lỗ tai.

Hoạch nhiên ngược lại âm hồ mạch Quảng Nhã cho rằng: Không cung kính, nghịch ngợm, giống như ngang ngược.

*******

PHẬT THUYẾT PHÁP THÂN QUÁN DƯƠNG CÚ KINH

Huệ Lâm soạn.

Át truất ngược lại âm trên an hạc Thương Hoét cho rằng: Trên sống mũi Mạnh Tử nói rằng: Ngẩng đầu trăm họ nghe tiếng chuông rống, tiếng sáo tiêu của vua, đều nhức đầu nhăn mũi mà cùng bảo nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Sống mũi chữ viết từ bộ hiệt thanh an ngược lại âm dưới duyên liệt theo Thanh nói nốt ruồi đen trên mặt, sách Sử Ký nói Hán Cao long nốt ruồi trên mặt vua, sách Thuyết Văn trên đầu, chữ viết từ bộ hiệt thanh xuất. Ngân tự ngược lại âm từ ký sách Nhĩ Nhã nói: Tự là tiếp nối theo, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cũng gọi là tiếp tục sách Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ vi đến bộ san âm vi là âm vi thanh tư kinh văn viết chữ biên là chẳng phải là sai.

Đồ đồ âm trên là đồ sách Khảo Thanh cho rằng: Đồ trét đất bùn dơ, ngược lại âm dưới là trạch da giải thích nghĩa cũng đồng như trên, vẽ chấm đen một bên cũng không có khác, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh đồ âm đồ là âm đồ kinh văn viết chữ đồ từ bộ thủ viết thành chữ đồ tục dùng ý chẳng phải đúng.

Tiêm lậu ngược lại âm tử liêm Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Tiêm là thấm ướt, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tiêm là chìm, sách Thuyết Văn nói là thấm ướt, chữ viết từ bộ thủy thanh tiêm âm tiêm là âm kiểm kinh văn viết chữ tiêm tục tự dùng cũng thông dụng.

Chỉ phí ngược lại âm dưới là thất tỳ sách Khảo Thanh cho rằng: Thoát hơi ra, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dẫn ra kinh Sơn Hải nói rằng: Con cá mà hình dáng nó giống như con nhái, một đầu mà có chín cái mình rất hôi thối, như là cỏ héo không thoát ra được, bị mắc nghẹn nên dưới, hạ hơi tức là địt, chữ viết từ bộ mễ thanh phí hoặc là viết chữ thí kinh văn viết từ bộ nhục viết thành chữ phí là chẳng phải, âm mi là âm ni âm thử là âm từ.

Lão tử trách ngược lại âm tranh cách Cố Dã Vương cho rằng: Trách giống như đè ép xuống, sách Thuyết

Văn cho bức bách chật hẹp chữ viết từ bộ trúc thanh sạ.

*******

PHÁP QUÁN KINH

Huệ Lâm soạn

Ngu trung ngược lại âm trên ngộ câu Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Vùng đất xa xôi biên giới, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Xuất ra từ vùng Dương Cốc, Cốc Ngung Di bộ tộc vùng xa xôi chữ viết từ bộ phụ viết thành chữ ngang nghĩa cùng với chữ ngung cũng đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ phí thanh nhữu âm phí là âm phất âm nhữu ngược lại âm nhân liễu.

Nhị mi ngược lại âm trên ni trí sách Sở Từ nói rằng: Phung phí xa xỉ tiêu hao chất mở, Vương Dật chú giải rằng: Nhị là trơn láng (797) sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh nhị kinh văn viết từ bộ mục viết thành chữ nhị là chẳng phải.

Xích nhứ ngược lại âm tư nhữ sách Khảo Thanh cho rằng: Bông còn thô sách Thuyết Văn cho rằng: Bông xấu chữ viết từ bộ mịch thanh như.

Tứ khả ngược lại âm cố nga Cố Dã Vương nói rằng: Khả là cành cây.

Hữu uyển ngược lại âm bá mạo theo ý kinh trong mắt như là có nước, hố nước.

Chỉ nạp ngược lại âm dưới nô cốt Tự Thư cho rằng: Thịt béo tốt, xưa nay Chánh Tự cũng giải thích đồng nghĩa chữ viết từ bộ nhục thanh nội, kinh văn viết từ bộ nhiễm viết thành chữ nhiêm là sai.

Cách tỳ ngược lại âm trên canh hạch sách Khảo Thanh nói: Màng ngăn tròn ngực, tức là ngực, sách Văn Tự Tập Lược nói: Cách là màng trong ngực, ngược lại âm dưới tỳ ty Bạch Hổ Thông cho rằng: Tinh của thổ, sách Thuyết Văn nói: Phế tạng chữ viết từ bộ nhục thanh ty.

*******

THIỀN YẾU KINH HA DỤC

Hàm cốt ngược lại âm hàm cảm sách Phương Ngôn cho rằng: Hàm là hai bên má, giữa Nam Sở ngoại gọi là hàm là xương ngoài trên mặt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thanh hàm.

Suy tộ ngược lại âm tại cố Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tộ là phúc báo, Tự Thư cho rằng: Tộ là phước sách Thuyết Văn viết từ bộ thỉ thanh sạ kinh văn viết từ bộ dậu viết thành chữ tạc âm tạc là âm tạc nghĩa là thù tạc rót rượu mời qua lại với nhau, dùng chữ sai.

*******

PHẬT THUYẾT THẬP NHỊ DU KINH

Một quyển không có chữ có thể âm.

*******

A DỤC VƯƠNG THÍ DỤ KINH

Huệ Lâm soạn.

Lỗ nhục ngược lại âm trên lộc đổ Hán Thư nói rằng: Loại cỏ rất độc đoán ở quanh ấp thôn, gọi là vua xuất hành xa giá hộ tống gọi là lỗ bạt ngược lại âm dưới nhu chúc theo Tả Truyện nói rằng: Đoàn quân đi bên phải càng xe bên trái là đuổi theo đêm chiếu, Đỗ Dự chú giải rằng: Đuổi theo câu lấy cho được loại cỏ mềm là mũ rơm, hoặc là chỗ dựa.

Nhất chỉ ngược lại âm chi nhĩ cũng viết chữ chỉ kinh văn viết chữ chỉ tục dùng cũng thông dụng.

Vi tôn ngược lại âm tổ ôn Hán Thư nói rằng: Tôn là bình đựng rượu, xưa nay Chánh Tự cho nghĩa cũng đồng, đúng là chữ tôn tục viết chữ tôn tôn từ bộ mộc thanh tôn.

Bắt thấp ngược lại âm thâm chấp kinh văn viết chữ thâm là sai hoặc là viết chữ thấp.

Đẩu tốc ngược lại âm trên đâu khẩu ngược lại âm dưới tô lộc kinh gọi là đẩu tốc giống như là đẩu đẩu tức là phấn chấn lên.

Cầu thân ngược lại âm trên cựu vưu sách Khảo Thanh cho rằng: Cái bè, theo Mao Thi Truyện nói: Thấm nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh cầu.

Thiên hộc ngược lại âm hồ cốc sách Nghi Lễ nói rằng: Mười đấu là một hộc, sách Thuyết Văn nói nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ đẩu đến bộ giác kinh văn viết từ bộ bách viết thành chữ hộc tục tự dùng cũng thông dụng.

Ngạn ngữ ngược lại âm trên ngôn kiến Hàn Khang nói điếu văn chia buồn của người sống đối với người chết gọi là ngạn sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh ngôn.

Huyên hý ngược lại âm hư viên theo Thanh Loại cho rằng: Huyên là ồn ào. Lại cũng gọi là quên mất, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh huyên.

*******

TẠP BẢO TẠNG KINH

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 1

Huyền Ứng.

Xác nhiên ngược lại âm khẩu giác sách Chu Dịch nói rằng: Phàm là làm cho khô là xác nhiên nhưng là người ta lại gọi khác đi vậy. Hàn Khang Bá nói rằng: Xác là vỏ cứng.

Lê nguyên ngược lại âm lực hề lê là đông nhiều, nguyên là thiện nói thiện là con người, bởi vì thiện là khởi đầu cho nên gọi là lê nguyên, nói nguyên đó là chẳng phải một thứ dân vậy.

Nhuận đông văn cổ viết là chữ tuần cũng đồng, ngược lại âm nhi luân sách Thuyết Văn nói con mắt dao động, chuyển động tức là nháy mắt.

Thích thích ngược lại âm thể lịch Mao Thi Truyện nói rằng: Trong lòng lo lắng gọi là thích thích, theo truyện nói rằng thích thích giống như xe thắc cũng gọi là đau khổ lo sợ.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 2

Diện phú ngược lại âm phương cú gọi là cấp cho, đo lường, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ban ra Quách Phác cho rằng: Ban bố cũng cùng đồng là một nghĩa.

Điệu khái ngược lại âm đồ đáo khả tái điệu là buồn thương, xót thương, thương xót, khái là thở dài.

Dược chủy nay viết dược cũng đồng, ngược lại âm dư chước ngược lại âm dưới thị nhi sách Phương Ngôn nói rằng: Viết chữ chủy cũng đồng, gọi là cái chìa khóa, kinh văn viết chữ dược là chẳng phải thể, kinh văn viết chữ kỳ theo Thanh Loại cho rằng: Cùng với chữ si đồng âm dược cùng với âm kỳ hai thể chữ đều chẳng phải, lại viết chữ kỳ cũng chẳng phải.

Cừu-ca ngược lại âm cự ngưu hoặc viết chữ Câu-caly đều là tiếng Phạm chuyển âm sai.

Cúc cung ngược lại âm cư lục cư hùng sách Luận Ngữ nói rằng: Cúc cung là khom lưng xuống, kinh văn viết chữ cung cùng là chẳng phải thể.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 3

Phi đinh ngược lại âm đô đình đinh là cường, Thích Danh nói: Đinh là tráng, nói vậy thể đều mạnh mẽ, vào mùa hạ vạn vật đều đinh thạnh sum suê tươi tốt, kinh văn viết chữ can ngược lại âm đô định là chẳng phải, can là đậu chẳng phải chữ nghĩa đây dùng, âm đậu là âm đậu.

Đơn kiết ngược lại âm kiên ế kiết giống như là cô độc, Tự Lâm nói không có cánh tay phải, gọi kiết là nghĩa như vậy.

Sàm cấu ngược lại âm cổ hầu cấu là hợp cũng là loạn, theo Mao Thi Truyện nói: Sàm là người cực kỳ chấp ngã lại luôn mưu hại lẫn nhau, kinh văn viết chữ hôn cấu cấu là chẳng phải thể.

Siểm quỷ ngược lại âm cư huy gọi là không chân thật, Quảng Nhã cho rằng: Quỷ là theo điều ác cũng gọi là khinh khi dối trá.

Loa lũ ngược lại âm trên lộc hòa âm dưới lặt hầu.---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 4

Bức tắc ngược lại âm phi bức sách Phương Ngôn cho rằng: Bức là đầy đủ, kinh văn viết chữ bức là sai.

Lam lũ văn cổ viết chữ lam cũng viết chữ lam cũng đồng, ngược lại âm lực can gọi là áo hư, áo rách, Phàm người mặc áo hư rách xấu xí để che thân đều gọi là lam lũ, kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ lam chữ lam bộ thảo là sợi chỉ, sợi tơ chẳng phải thể.

Linh sính ngược lại âm lực đinh thất đinh hai âm, linh sính cũng gọi là cô độc, không có nơi nương tựa Tam Thương cho rằng: Lênh đênh.

Đồng khôi ngược lại âm khổ hồi sách Thuyết Văn cho rằng: Nước canh, kinh văn viết chữ khai gian hai chữ tượng hình đều chẳng phải.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 5

Tương hài ngược lại âm hồ giai gọi là hài hòa, gọi là âm thanh điều hòa, sách Thuyết Văn nói nhạc hòa tấu với nhau.

Kim ảnh lại viết chữ ảnh cũng đồng, ngược lại âm ư lãng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ảnh là cái chậu sành, Quách Phác cho rằng: Tức là cái chậu lớn.

Trí đốn văn cổ viết chữ chấp trí hai chữ tượng hình. Nay viết chữ trí cũng đồng, ngược lại âm trắc lợi gọi là bẻ gãy, làm nhục, theo Tả Truyện cho rằng: Trí là vấp té, theo chữ trí giống như là đốn ngã, Quảng Nhã cho rằng: Trí là giẫm đạp lên.

Sướng trương ngược lại âm trắc lưu ngược lại âm dưới tri lương sách Nhĩ Nhã cho rằng: Sướng trương là cuồng vọng, lừa dối, đánh lừa, Quách Phác cho rằng: Không hoặc là kiêu căng, huyễn hoặc, cũng gọi là khinh khi dối trá người. Kinh văn viết chữ sướng là chẳng phải, ngược lại âm lặt lương sướng là điên cuồng, sướng chẳng phải nghĩa đây dùng.

Bồ bặc ngược lại âm bạc hồ, bồ bắc hai âm, Tự Lâm cho rằng: Đi bằng tay gọi là bồ phục là nằm, cũng gọi là vấp té ngã ngửa hết sức lực nên bò lê trên đất.

Tai dịch ngược lại âm dĩ bích con quỉ dịch lệ. Dịch là đi sai khiến nói là có con quỉ đi sai khiến.

Khải môn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Văn cổ viết chữ khải Bì Thương viết chữ khải cũng đồng, ngược lại âm khổ lễ sách Thuyết Văn cho rằng: Khải là khai mở ra, khai sáng.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 6

Kim hưởng Trụ Văn viết hưởng cũng đồng, ngược lại âm hư lượng sách Thượng Thư cho rằng: Trong lòng khắc ghi thọ nhận hưởng phước của trời ban cho, Khổng An Quốc chú giải rằng: Hưởng là thọ nhận, kinh văn viết chữ hưởng là âm hưởng, tiếng vang vọng lại, hưởng chẳng nghĩa đây dùng.

Đảng năng ngược lại âm tha lãng gọi là từ bất định.

Kinh văn viết chữ đảng ngược lại âm đương lãng đảng là nói thẳng, chẳng phải nghĩa đồng dùng.

Anh minh ngược lại âm ô canh sánh Nhĩ Nhã cho rằng: Tiếng líu lo, ríu rít vợ nhau, gọi là hai con chim đang nói chuyện với nhau, lấy ví dụ như bạn bè thân thiết với nhau.

Ngao ngao ngược lại âm ngữ cao sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng đông ồn ào, cũng gọi là tiếng khóc oa oa buồn bã.

Hà khắc ngược lại âm hạ đa sách Thuyết Văn cho rằng: Rất trầm trọng, dữ dội, phiền não, quấy nhiễu, khắc là cấp bách, sách Lễ Ký cho rằng: Hà là sự công phá rất mãnh liệt, dữ dội như con hổ.

Chi khoản hoặc là viết chữ khoản cũng đồng, ngược lại âm khẩu hoản Thiên Thương Hoét cho rằng: Khoản là chân thành, trịnh trọng, sách Thuyết Văn cho rằng: Ý có chỗ muốn, lại chí là thuần khoản là yêu thích.

Lão hạt lại viết chữ hạt cũng đồng, ngược lại âm hồ hạt Tự Thư cho rằng: Một con mắt nhắm lại.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 7

Tuy hóa ngược lại âm tuất tủy sách Thượng Thư cho rằng: Lui binh về năm trăm dặm mà an ủi vỗ về, Khổng An Quốc cho rằng: Vua đó chính sách giáo dục, sách Nhĩ Số cho rằng: Tuy là an ổn.

Á đoàn ngược lại âm trên á da âm dưới hạch da sách

Thuyết Văn cho rằng: Á đoàn là vòng đeo cổ đồ trang sức.

Tọa đầu ngược lại âm tạng quả sách Thuyết Văn cho rằng: Tọa là dừng lại, nghỉ ngơi, kinh văn viết chữ tào ngược lại âm noãn nhân gọi là lắp bít, tòa chẳng phải nghĩa đây dùng, xưa âm ô kiêm đó cũng chẳng phải.

Đảo tái ngược lại âm đô lão sách Thuyết Văn cho rằng: Bảo cho biết việc cầu thỉnh là đảo ngược lại âm dưới tô tái gọi là báo thù.

Thẩn thẩn ngược lại âm thất nhẫn sách Luận Ngữ cho rằng: Phu tử mỉm cười, theo chữ thẩn đó là cười mỉm, kinh văn viết yên xưa âm ô kê chẳng phải.

---------------------------------------

TẠP BẢO TẠNG KINH QUYỂN 8

Tư tuần ngược lại âm tư tôn tra hỏi. Tả Truyện cho rằng: Phỏng vấn nơi việc tốt là tư tư là thân thiết, tuần tư là hỏi thăm đường, cũng gọi là hỏi thăm thân thích bà con, bàn luận.

Giáp phục lại viết chữ giáp cũng đồng, ngược lại âm hư giáp sách Thuyết Văn cho rằng: Âm khưu thiệp gọi là lo sợ, kinh văn viết chữ nhiếp là chẳng phải.

Giáp trụ văn cổ viết trụ cũng đồng, ngược lại âm trừ cứu Quảng Nhã cho đâu mâu, cũng nói đê mâu, tức là mũ đội đánh giặc.

Giới ngôn ngược lại âm hồ giới giới là khát nước tiếng giận dữ, kinh văn (798) viết chữ giai âm giai chẳng phải chữ nghĩa đây dùng.

Thú kỳ lại viết chữ thư cũng đồng, ngược lại âm thiên nhữ Tự Lâm cho rằng: Thú là nhìn trộm, cũng gọi là coi thường, xem thường, Quảng Nhã cho rằng: Thú là xem thấy, dò xét lẫn nhau.

Nhãn miên viết đúng là minh cũng đồng, ngược lại âm mạc điền sách Thuyết Văn cho rằng: Minh là khép mắt, sách Nhã cho rằng: Nhắm mắt lại.

Điệt sư ngược lại âm đồ kiết tên người.

Bỉ tiết ngược lại âm tư liệt bỉ là quê mùa, tiết là khinh thường cũng là ở riêng, chẳng phải ở chỗ đông đảo công hội phục tùng.

Giảo hoạt ngược lại âm cổ bào hồ quát sách Thượng Thư cho rằng: Loại man di xảo trá, Hạ Tiết Mật gọi hoạt là loạn quấy phá, quấy nhiễu, Tự Thư cho rằng: Hoạt là khôn ngoan, lại xấu ác, sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm đứa trẻ nhiều xảo trá hoặc loạn gọi là hoạt.

Sào khoa lại viết chữ khoa quá hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm khổ hòa Quảng Nhã cho rằng: Hang ổ sào huyệt, âm quá ngược lại âm trắc hằng.

Đển ngôn ngược lại âm Đô Lễ gọi là chống cự, gọi lôi kéo chống cự xô đẩy ra ngoài.

Hạch thật lại viết chữ hạch cũng đồng, ngược lại âm hồ cách sách Thuyết Văn cho rằng: Tra khảo sự thật, cũng là thẳm xét tra hạch.

Phan thượng lại viết chữ phan cũng đồng, ngược lại âm phổ ban Quảng Nhã cho rằng: Phan là giúp đỡ nói là đến kịp để nắm kéo lên.

*******

NA TIÊN TỲ KHEO KINH

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng

Nạo lạo ngược lại âm hồ cao ngược lại âm dưới lộ cao theo Thanh Loại cho rằng: Nạo là quấy nhiễu sách Phương Ngôn cho rằng: Lạo là mò lấy, lại chú giải rằng: Gọi là dùng lưỡi câu, câu móc vật, lấy vật lên từ dưới nước.

Hòa đạn ngược lại âm đô lan tên chùa.

Triết mễ ngược lại âm tư lịch Văn thông dụng cho rằng: Vo gạo cho trắng gọi là triết triết cũng là đào thải vứt bỏ Giang Nam nói là triết Trung Quốc gọi là đào Quảng Nhã gọi là thải tức là tẩy rửa, kinh văn viết chữ công tích chữ tích chẳng phải thể.

Lưỡng đôn ngược lại âm chi duẫn sách Thuyết Văn cho rằng: Điển đích để bắn cung, Quảng Nhã cho rằng: Đôn là đích chuẩn xác để bắn trúng đích, những người đợi để bắn, người ta lấy da con gấu, con hổ để làm đồ trang sức chế ra mặt vuông làm đôn điểm đích, kinh văn viết chữ chuẩn lại viết chữ chuẩn cũng đồng, ngược lại âm chi duẫn sách Thuyết Văn cho rằng: Chuẩn là bằng phẳng chữ chuẩn là chẳng phải thể.

Côn hoàng ngược lại âm hồ bổn sách Phương Ngôn cho rằng: Côn là sáng rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Côn hoàng là sáng chói rực rỡ, Thiên Thương Hoét cho rằng: Ánh sáng chói chang, tràn ngập.

Xuy gia hoặc là viết chữ hà cũng đồng, ngược lại âm cổ hà nay gọi là trong nhạc khí dùng lá lau vấn lại mà thổi, bởi vậy mà đặt tên.

Hoạch mạch ngược lại âm hồ quách sách Thuyết Văn cho rằng: Cắt gặt lúa, theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tháng mười thu hoạch lúa đem về nhà, kinh văn viết chữ hoạch là sai.

Dục tích ngược lại âm ty diệc gọi là vấp té ngã nhào.

Liên khiết ngược lại âm hồ kiết Quảng Nhã cho rằng: Khiết là bó buộc lại, Bì Thương cho rằng: Ràng buộc liên hệ với nhau, cũng nói bó buộc vội vàng, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ cận cật ấu hầu như vấn đứa trẻ. Lại cũng viết chữ càng đều là một.

Nhũ đồng ngược lại âm trúc dụng đô đồng hai âm, Văn thông dụng cho rằng: Chất sữa gọi là đồng Giang Nam gọi như vậy.

Thạnh đoan ngược lại âm thị duyên sách Thuyết Văn cho rằng: Chẻ tre ra đan cái sọt tròn để chứa đựng lúa thóc, cái giỏ tre.

Trừ đãi ngược lại âm trực ư âm dưới văn cổ viết chữ trĩ ba chữ tượng hình đều đồng ngược lại âm trừ lý sách Thuyết Văn cho rằng: Đãi là chờ đợi, trừ là dụng cụ chứa cho đầy.

Bác xoa nói đúng là phược sô tức là tên của con sông, trong bốn con sông thuộc sông thứ tư lớn nhất, kinh văn viết bác xoa cứ xoa đều sai, âm cứ ngược lại âm cự lược kinh văn theo nói mà viết dựa vào nói là viết sai.

Khuất nguyên ngược lại âm ai vật sách Thuyết Văn nói: Khuất là không có đuôi, là đuôi ngắn.

Bình chi ngược lại âm bì bính Tự Thư cho rằng: Bình là bàn luận đặt để cho yên, bàn luận phê bình, nghị luận âm đinh ngược lại âm đường đảnh.

Vẫn khẩu ngược lại âm văn phân Văn Tự Điển nói hai bên miệng giáp nhau tức là hôn nhau, chữ viết từ bộ khẩu thanh vật.

-Quyển Trung và quyển hạ không có từ âm nghĩa giải thích.

*******

THÍ DỤ KINH

Thí Dụ Kinh mười Quyển, kinh này là trong Đại Tạng sao chép ra, các bổn kinh đã âm rồi. Lại không âm lại nữa trùng lắp, ước chừng văn khác không thể giải thích.

*******

QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn

Lao kỳ ngược lại âm lõa cao sách Phương Ngôn cho rằng: Lao là giữ lấy Quách Phác cho rằng: Gọi là dùng lưỡi câu, câu vật dưới nước, xưa nay Chánh Tự cũng giải thích đồng nghĩa chữ viết từ bộ thủ thanh lao.

Phao tam ngược lại âm phách bao Bì Thương cho rằng: Phao là đánh, Khảo Thanh cho rằng: Phao là ném. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh phao âm phao đồng với âm trên, kinh văn viết từ bộ lực viết thành chữ phao cũng thông dùng.

-------------------------------------

QUYỂN 2

Minh triết ngược lại âm tri liệt sách Nhĩ Số nói rằng: Triết là trí tuệ. Lại cũng viết chữ triết lại cũng viết chữ triết đều đồng dùng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kiết đến ba bộ kiết đó là chữ cổ.

Giới môn ngược lại âm xích giới sách Khảo Thanh cho rằng: Giới là phẩm nộ, tiếng la hét, Quảng Thương đều viết họa ai nhữu đều đồng dùng kinh văn viết chữ giới duy lữ tĩnh.

Trung si ngược lại âm xĩ nhi sách Khảo Thanh cho rằng: Trong mắt có ghèn, sách Thuyết Văn cho rằng: Trong khóe mắt nước mắt ngưng đọng lại, chữ viết từ bộ mục thanh đa âm tí ngược lại âm tề tế.

Nhất huệ ngược lại âm tùy túy theo Mao Thi Truyện nói: Huệ là bông lúa, Thiên Thương Hoét nói: Chùm bông lúa mạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ hòa thanh huệ.

*******

TẠP THÍ DỤ KINH

Phá vu ngược lại âm vũ câu chữ viết từ bộ mảnh thanh vu kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ vu là chẳng phải.

Trữ mộc ngược lại âm trừ lữ sách Chu Lễ cho rằng:

Trữ là vải gai, vật làm bằng cỏ, tức bao tay, Trịnh Huyền chú giải rằng: Dây gai trắng mà thưa gọi là trữ sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trữ âm trữ đồng với âm trên.

Gián kế ngược lại âm trên điềm giáp Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Theo dõi dòm ngó, hầu hạ. Lại gọi là khoảng giữa, sách Thuyết Văn âm là quân trung chữ viết từ bộ ngôn thanh gián âm gián ngược lại âm diêm tiếp.

Trảo hoắch ngược lại âm ô hoắc theo Thanh Loại nói rằng: Hoắch giống như bắt lấy nay kinh văn viết chữ quặc tục dùng thông dụng.

Thậm canh ngược lại âm trấp nhậm chữ viết từ bộ đấu thanh thậm kinh văn viết từ bộ dậu viết thành chữ thậm là chẳng phải.

Phiên dịch kinh Sa-môn-Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 76

- Âm A-dục Vương Kinh mười quyển-Huệ Lâm.

- A-dục Vương Truyện bảy Quyển.

- A-dục Vương Tức Hoại Mục Nhân Duyên Kinh hai quyển-Huyền Ứng.

- Tứ A-hàm-mộ-sa-giải hai quyển-Huyền Ứng.

- Pháp Cú Kinh hai quyển-Huyền Ứng.

- Pháp Cú Thí Dụ Kinh bốn quyển-Huệ Lâm.

- Phật Thuyết Pháp Cú Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Ca-diếp Kiết Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Tam Huệ Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Tuyển Tập Tam Tạng Cập Tạp Tạng Truyện một quyển-Huệ Lâm.

- A-tỳ-đàm Ngũ Pháp Hành Kinh một Quyển.

- Tiểu Đạo Địa Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Nhất Bá Ngũ Thập Tán Phật Tụng một quyển-Huệ Lâm.

- Kim Cang Đảnh Kinh Phạm Âm Thập Lục Đại Bồtát.

- Nhất Bá Bát Danh Tán một quyển-Không.

- Văn Thù Sư Lợi Phát Nguyện Kinh một Quyển.

- Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh Nguyện Tán Kinh một quyển-Không.

- Lục Bồ-tát Danh một quyển-Không.

- Quán Tự Tại Bồ-tát Phạm Âm Nhất Bá Bát Danh Tán Kinh một quyển-Không.

- Tán Quán Thế Âm Bồ-tát Tụng một Quyển.

- Phạm Âm Ngũ Tán Cập Bát Đại Bồ-tát Tán Kinh một quyển

- Không.

- Vô Minh La Sát Tập Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Bát Thiên Tụng Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán một quyển-Không.

- Phạm Âm Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh Nguyện Tán-Không.

- Phạm Âm Văn Thù Nhất Bá Bát Danh Tán Kinh một quyển-Không.

- Đại-tỳ-lô-giá-na Quán Đảnh Kiết Tường (799) Tán một quyển-Không.

- Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ Kinh một Quyển.

- Mã-minh Bồ-tát Truyện một quyển-Huệ Lâm.

- Long Thọ Bồ-tát Truyện một quyển-Huệ Lâm.

- Đại A-la Hán Sở Thuyết Pháp Trụ Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Phân Biệt Nghiệp Báo Lược một quyển-Huyền Ứng.

- Bà Tẩu Bần Đậu Pháp Sư Truyện một quyển-Huyền Ứng.

- Long Thọ Bồ-tát Thuyết Pháp Yếu Kệ một quyển

- Huyền Ứng.

- Long Thọ Bồ-tát Khuyến Giới Vương Tụng một quyển-Huyền Ứng.

- Tân Đầu Lô-đột-la-xà Thuyết Pháp Kinh một quyển-Huyền Ứng.

- Thỉnh Tân Đầu Lô Pháp một quyển-Huệ Lâm.

- Đề-bà-Bồ-tát Truyện một quyển-Huệ Lâm.

- Ca-đinh-Tỳ-kheo Thuyết Đương Lai Biến Kinh một quyển-Huệ Lâm.

- Thắng Tông Thập Ác Nghĩa Luận một quyển-Huệ Lâm.

- Kim Thất Thập Luận ba quyển-Huệ Lâm.

- Bên phải là ba mươi chín kinh sáu mươi hai quyển đồng âm với quyển này.

A DỤC VƯƠNG KINH

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn

Hoàn xuyến ngược lại âm hoạn quan Trịnh Huyền chú giải Chu Lễ rằng: Hoàn là cái vòng. Lại nữa Trịnh Quyền chú giải rằng: Hoàn là cái vòng tròn, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh hoàn âm hoàn là âm huỳnh kinh văn viết từ bộ kim viết thành chữ hoàn tức là tử mẫu hoàn bổn nghĩa quái lạ.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 2

Nhập-lam-tỳ-ni-lâm ngược lại âm trên Lạp-đam tiếng Phạm, nước Xá vệ, vườn ngự uyển của vua.

Bối tử ngược lại âm bôi muội sách Thuyết Văn nói: Loài thủy tộc dưới biển, chữ tượng hình, xưa đó hàng hóa là bối mà cũng là bảo vật tức là mai con rùa.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 3

Thiên anh ngược lại âm ách hoành Tự Thư cho rằng: Cái bình cổ dài, sách Thuyết Văn viết từ bộ phửu đến bộ huỳnh thanh tĩnh, kinh văn viết chữ anh tục dùng cũng thông dụng.

Tương ban ngược lại âm ban vẫn sách văn cho rằng: Nắm trong tay bột mì khô cùng nhau bôi trét, thoa, chữ viết từ bộ thủ thanh phân kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ ban tên của cây, dùng sai chữ.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 4

Bát-ma-bà-để ngược lại âm để lễ tiếng Phạm.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 5

Sơn áp ngược lại âm ư giáp Cố Dã Vương cho rằng: Áp giống như trên cao giáng xuống đè xuống, Đỗ Dự chú giải Tam Thương truyện rằng: Áp là hao tổn hại, sách Thuyết Văn cho rằng: Hư hoại chữ viết từ bộ thổ thanh yểm âm yểm ngược lại âm giáp kiêm.

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 6

Ban bác ngược lại âm bổ giác sách Hán Thư nói rằng: Trắng đen hòa trộn lại gọi là bác sách Thuyết Văn cho rằng: Không thuần màu sắc, chữ viết từ bộ mã thanh bác kinh văn viết chữ tuấn tên của con thú, chẳng phải nghĩa kinh.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 7

Vô-dụng-tuấn-để ngược lại âm trên chỉ tuấn tiếng Phạm.

Dung tiêu ngược lại âm trên du dung Hán Thư cho rằng: Giống như vàng, kim loại ở trong lò luyện đúc chỗ gọi là làm cho nóng chảy ra, âm nghĩa gọi là lò đúc tiền, sách Thuyết Văn nói: Phương pháp lò đúc kim khí chữ viết từ bộ kim thanh dung.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 8

Sanh-danh-đà-kíp ngược lại âm kiềm kiếp tiếng Phạm.

Nhuế liễu ngược lại âm tiết duế sách Quốc Ngữ nói: Nhuế là con bướm ngài, con ong, con bò cạp, đều có thể hại người, sách Đại Đái Lễ nói rằng: Băm thịt con bồ cạp ngăm làm tương chua chủ tụ tập lại để ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước Tần gọi là nhuế chữ viết từ bộ trùng thanh nhuế âm duế ngược lại âm duyết nhuế âm nhuế đồng với âm trên.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 9

Thân khanh ngược lại âm khách hoành sách Nhĩ Nhã cho rằng:

Khanh là cái hầm rỗng, Quách Phác chú giải rằng: Cái hào, cái ao sâu gọi là khưu hư Thiên Thương Hoét ghi rằng: Cái hang hóc, cái hầm, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ thanh khanh kinh văn viết từ bộ thạch viết thành chữ khanh là chẳng phải.

-------------------------------------

A DỤC VƯƠNG KINH QUYỂN 10

Tảo quát ngược lại âm trên tảo tao ngược lại âm dưới quan bát Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Quát là chà xát, sách Thuyết Văn cho rằng: Mổ xẻ, cạo gọt chữ viết từ bộ đao thanh thiệt.

Loát thân ngược lại âm sở bát sách Nhĩ Nhã cho rằng: Loát là chà sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Cạo chữ viết từ bộ đao đến bộ loát thanh tĩnh âm loát đồng với âm trên.

*******

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 1

Huệ Lâm

Sang trừ lại âm chữ trư sách Khảo Thanh cho rằng: Trừ là tích chứa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chờ đợi cất chứa tàng trữ, Văn Tự Điển nói: Trừ là cất chứa, cất giữ chữ viết từ bộ nhân thanh chữ âm đãi ngược lại âm trực lý.

Xế võng ngược lại âm trên xương nhiệt ngược lại âm dưới vũ phòng Cố Dã Vương cho rằng: Võng đó lưới là la cổ cũng gọi là la võng sách Khảo Thanh cho rằng: Câu thúc sách Thuyết Văn cho rằng: Bao hy chỗ gọi là buộc dây giăng dưới đồng ruộng để bắt cá, chữ viết từ bộ quynh dưới giống như lưới võng âm quynh ngược lại âm minh địch kinh văn viết chữ võng là chữ cổ.

Ải tiểu ngược lại âm ách giới Cố Dã Vương cho rằng: Ải giống như bức bách nhỏ hẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh ích.

----------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 2

Phái thân ngược lại âm bách mại sách Thuyết Văn cho rằng: Nước tự chảy riêng dòng khác, phân rẽ ngã khác, chữ viết từ bộ tráo đến bộ thủy tục viết chữ phái tục dùng thông dụng.

Uyển lạc ngược lại âm trên miển viển theo Mao Thi

Truyện cho rằng: Dáng vẻ đẹp uyển chuyển, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh uyển.

------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 3

Trảo quắc ngược lại âm cư bích.

------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 4

Thủy hộc ngược lại âm hồng cốc sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Tên của loài chim, sách Thuyết Văn nói Chim hồng hộc, loại chim thuộc giống nhạn, sách Khảo Thanh cho rằng: Một khi cất lên bay xa ngàn dặm, chữ viết từ bộ điểu thanh cáo.

Đao sóc ngược lại âm song tróc Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây mâu, Bì Thương cho rằng: Dài một trượng tám, sách Thuyết Văn viết từ bộ mâu thanh tiêu.------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 5

Nghị kỳ ngược lại âm nghi ký Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nghị là cắt xẻo, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Hình phạt xẻo mũi, Thuyết Văn cho rằng đồng nghĩa chữ viết từ bộ đao thanh nghị hoặc là viết từ bộ tỵ viết thành chữ nghị cũng thông dụng, âm nghiệt ngược lại âm ngôn yết.

Kình đăng ngược lại âm cạnh ngưỡng Tự Thư cho rằng: Kình là giơ cao lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh kính.

------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 6

Bất noãn ngược lại âm nô đoản sách Thuyết Văn cho rằng: Ấm áp chữ viết từ bộ hỏa thanh nhuyễn kinh văn viết từ bộ nhật viết thành chữ noãn là chẳng phải.

Lâm lậu ngược lại âm trên lập kim theo Thanh Loại cho rằng: Tiểu tiện nhiều lần, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh lâm kinh văn viết từ bộ thủy viết thành chữ lâm nghĩa là rót nước, chẳng phải nghĩa kinh.

Thư trùng ngược lại âm trên thất dư theo Thanh Loại cho rằng: Thư là con giòi, sách Thuyết Văn cho rằng: Con giòi đục khoét làm mủ trong thịt, trong thịt có vi trùng, chữ viết từ bộ nhục thanh thư kinh văn viết chữ thư nghĩa là bệnh ung thư chẳng phải nghĩa thư trùng.

Bà tảo ngược lại âm trên bạch ma sách Khảo Thanh cho rằng: Ba giống như tảo Cố Dã Vương cho rằng: Lấy tay cào gãi thịt gọi là ba sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh ba hoặc là từ bộ trảo viết thành chữ ba ngược lại âm dưới tảo tạo sách Khảo Thanh cho rằng: Chà xát, sách Thuyết Văn cho rằng: Cạo sạch chữ viết từ bộ thủ thanh tảo âm tảo là âm tảo.

Thanh ứ ngược lại âm ư ngự sách Thuyết Văn cho rằng: Tích tụ máu, chữ viết từ bộ tật thanh ư.

Trích phạt ngược lại âm trúc cách Mao Thi Truyện cho rằng: Trích là quở trách, sách Phương Ngôn cho rằng: Trích là phẫn nộ, giận dữ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trích là khiển trách sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh trích.

------------------------------------

A DỤC VƯƠNG TRUYỆN QUYỂN 7

Dục hạt ngược lại âm hàng các Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hạt là làm cho khô cạn kiết. Quảng Nhã cho rằng: Hạt cũng là hết sạch chữ viết từ bộ thủy thanh cố.

Hiềm tật ngược lại âm trên diệp kiêm sách Khảo Thanh cho rằng: Hiềm là nghi ngờ, trong lòng xấu ác, sách Thuyết Văn cho rằng: Trong lòng không bình yên chữ viết từ bộ nữ thanh kiêm trong truyện viết từ bộ tâm viết thành chữ hiềm cũng thông dụng, ngược lại âm dưới là tật Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hại người hiền gọi là tật sách Khảo Thanh cho rằng: Tật đố tức là ghen tỵ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nữ thanh tật hoặc là viết chữ tật viết thành chữ tật tật là tật bệnh chẳng phải nghĩa kinh.

Nguyện thực ngược lại âm dưng chức sách Xuân Thu cho rằng: Mặt trời có con trùng ăn, Đỗ Dự chú giải rằng: Mặt trăng đi mau, tháng giêng một vòng có một ngày, một năm phàm mười hai tháng, mặt trăng và mặt trời giao hội gặp nhau, có khi gặp nhau mà không có ăn, chỉ là đúng tháng dương, người quân tử cấm kỵ điều này, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng đến bộ thực thực cũng là thanh.

Sĩ thí âm trên là sĩ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Sĩ là chờ đợi. Lại viết chữ sĩ Vệ Hoằng hoặc là viết chữ sĩ chữ viết từ bộ nhân thanh sĩ.

Ngưỡng tai ngược lại âm trên nhược dương sách Thuyết Văn cho rằng: Cúng tế trừ bỏ tai ương, bệnh ung dịch, người xưa gọi là tống khứ ma quỉ gây mầm dịch bệnh, sách Khảo Thanh cho rằng: Cúng tế để trừ tai họa tạ ơn, sách Thuyết Văn (800) viết từ bộ thị thanh nhương.

*******

A DỤC THÁI TỬ PHÁP ÍCH HOẠI MỤC NHÂN DUYÊN KINH

Huyền Ứng soạn.

Tuy hóa ngược lại âm tư duy sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tuy là an ổn sách Thượng Thư cho rằng: Năm trăm dặm, lui binh năm trăm dặm, mai phục an ổn, Khổng An Quốc chú giải rằng: Đó là chính giáo của vua.

Kiêu nhữ ngược lại âm cổ nghiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Chim bất hiếu đến mùa đông, bắt chim kiêu xé ra đầu treo trên cây.

Nạo ngô ngược lại âm nải bòa, nải gião hai âm. Nạo là quấy nhiễu.

Nguyên nguyên nói nguyên nguyên đó là chẳng phải một người dân. Xưa đó gọi dân là thiện, nói người thiện tốt lành là bởi vì thiện là nguyên là mới bắt đầu cho nên nói là lê nguyên.

Xá hựu âm xá là âm xá xá là an trí đặt để, ngược lại âm dưới vu cứu hựu là tha thứ khoang dung, sách Chu Lễ cho rằng: Có ba loại tha thứ: Một là tha thứ người không hiểu biết; hai là tha thứ người có lỗi nhỏ; ba là tha thứ người hay quên.

Điên quệ lại viết chữ điên hai chữ tượng hình cũng đồng ngược lại âm đinh hiền ngược lại âm dưới cư nguyệt điên quệ giống như đốn ngã, vấp té ngã nhào.

Liêu nhân ngược lại âm lực điêu liêu là đánh gõ, liêu cũng là xúc chạm, va chạm cũng gọi là làm trò nô đùa, đùa giỡn.

Âm ách sách Thuyết Văn viết chữ âm ngược lại âm ư cấm gọi là lớn tiếng, âm dưới viết đúng nghi là á ngược lại âm ư cách gọi to, hô to sách Sử Ký nói rằng: Hét to âm á là hét to cho ngàn người nghe phế bỏ, kinh văn viết chữ ách ngược lại âm ư cách ách là ưu phiền, lo buồn, ách là mắc nghẹn hơi đi ngược.

*******

TỨ A HÀM MỘ SA GIẢI

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng soạn

Bà diệp ngược lại âm trường giáp tiếng Phạm nói là An-đà-la-bà-ba đây dịch là y ngũ điều.

Tấu muội ngược lại âm trên thanh cấu chim hạc.

Xác-mạt-đơ ngược lại âm trên sang hạt tiếng Phạm gọi là tận hết sạch.

Ba chiêm ngược lại âm xích chiêm lại cũng âm đô giáp tiếng Phạm nói Hậu-ba-chiên-tức.

----------------------------------------

QUYỂN HẠ

Tát sát ngược lại âm tử hạt sách Chu Thành Nan Tự nói rằng: Tát là kẹp chặt, kẹp vào giữa, âm giáp ngược lại âm điểu hập.

Soái-la ngược lại âm sở khoái tiếng Phạm nói là Abà-soái-la-giá đây dịch là ban ngày sáng suốt, thời gian một ngày.

Đế bạt ngược lại âm tha tế.

*******

PHÁP CÚ KINH

QUYỂN THƯỢNG

Huyền Ứng soạn.

Diên thực ngược lại âm thi diên ngược lại âm dưới là thời lực theo chữ diên là mềm mại, nặn hòa dính với, cũng gọi là khuôn đồ sứ, thực là đất sét, đất dẻo dính gọi là thực.

Thao trượng ngược lại âm thô lao sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là nắm giữ lấy.

Huỳnh thủy ngược lại âm điểu huỳnh gọi là dòng nước nhỏ, cũng là chảy nhẹ, kinh văn viết chữ tĩnh là chẳng phải.

Ông loa ngược lại âm ô công sách Phương Ngôn cho rằng: Con ong nhỏ đó gọi là ong, Quách Phác cho rằng: Con ong nhỏ bé mềm mại, ngược lại âm dưới lực qua gọi là con ốc sên, âm ông ngược lại âm ô tãn.

Khoái đấu Thiên Thương Hoét cho rằng: Đây là chữ khoái ngược lại âm khổ hoại Quảng Nhã cho rằng: Khoái là hiểu rõ, âm liễu là âm liễu.

Xã giám lại viết chữ giám cũng đồng, ngược lại âm cổ sàm Quảng Nhã cho rằng: Giám là chiếu soi, giám cũng gọi là cái gương chỗ gọi là xem xét hình tướng.

Thủy thoan ngược lại âm thổ hoàn nước chảy xiết, sách Thuyết Văn cho rằng: Bãi nước cạn chảy nhanh, bày cát ra gọi là lại lại là bãi nước cạn.

Ngu xuẩn ngược lại âm đinh giáng đông dung hai âm sách Thuyết Văn nói xuẩn cũng là ngu.

Tai tấn ngược lại âm tuy nhuận sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tấn là mau chóng, thời gian vụt qua đi.

Sính tình ngược lại âm sửu tĩnh sách Phương Ngôn cho rằng: Từ giữa đông sơn giang hoài trần sở gọi khoái là sính sách Thuyết Văn nói sính là thông.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Nột nhẫn ngược lại âm nô cốt sách Luận Ngữ nói về lời nói mà mau chóng về việc làm, sách Bao Thị gọi nột là trì độn, trì trệ chậm, đần độn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nột là khó nói, ấp úng dè dặt, âm nhẫn ngược lại âm nhi chấn.

Oán tiêm văn cổ viết chữ tàn cũng đồng, ngược lại âm tử liêm Mao Thi Truyện cho rằng: Tiêm là nói ta là người tốt, theo truyện nói rằng: Tiêm giết sạch dứt tuyệt, diệt hết.

Sàn sàn ngược lại âm sĩ sơn sàn là tiếng nước chảy róc rách.

Hổ thuyền ngược lại âm hồ cổ theo Tả Truyện nói rằng: Hổ là người đi theo xa giá của vua, Đỗ Dự chú giải rằng: Hổ là người cản ngăn ngang ngược.

Mạn tha ngược lại âm ma gián âm dưới hoặc là viết chữ đọa cũng đồng, ngược lại âm tha hòa sách Thuyết Văn cho rằng: Mạn là khinh khi, tha là không tin, sách Sở Từ hoặc là viết chữ tha mạn gọi là không nghi ngờ.

Phi tộc ngược lại âm thanh mộc tộc đó là giống như tụ họp lại, sách Chu Lễ nói rằng: Tộc là họ tộc chỗ hang ổ, nói người Phạm chí chẳng phải đúng vậy.

Môn quặc văn cổ viết chữ hạp cũng đồng, ngược lại âm vu vực sách Nhĩ Nhã cho rằng: Trước ngưỡng cửa gọi là hoặc Quách Phác cho rằng: Tức là cửa hẹp âm trật ngược lại âm thiên kiết.

*******

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn.

Ngõa mai ngược lại âm dưới bối mai sách Khảo Thanh cho rằng:

Dụng cụ, sách Văn Tự Điển nói là cái chén chữ viết từ bộ mộc thanh thủ tục viết chữ bôi kinh văn viết từ bộ phửu viết thành chữ bôi là chẳng phải.

Tiển vạt ngược lại âm trên tiên điển sách Khảo Thanh cho rằng: Để lộ chân ra ngoài, sách Thuyết Văn nói lấy cái chân thân cận với đất, tức là chân đi không mang giày dép chữ viết từ bộ túc thanh tiên ngược lại âm dưới vọng phát sách Thuyết Văn nói: Chân mang vớ, tất chữ viết từ bộ vi thanh vạt hoặc là từ bộ vi thanh vạt hoặc là từ bộ cách viết thành chữ vạt cũng viết chữ mạt.

Như huỳnh tịnh thủy âm huỳnh ngược lại âm huỳnh quýnh sách Khảo Thanh cho rằng: Huỳnh tịnh thủy là dòng nước không chảy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dòng nước chảy yếu từ trên đỉnh, chữ huỳnh viết từ bộ thủy thanh huỳnh kinh văn viết chữ dinh là chẳng phải, ngược lại âm âm dưới tình tính theo Hàn Thi Truyện nói: Tịnh là nước sạch, sách Khảo Thanh cho rằng: Thanh khiết, sách Thuyết Văn cho rằng: Không dơ, chữ viết từ bộ thủy thanh tịnh kinh văn viết chữ tĩnh là cái hầm, chẳng phải nghĩa huỳnh tịnh.

Thao thiết ngược lại âm trên thổ đao ngược lại âm dưới thiên kiết Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tham tài là thao tham ăn là thiết sách Thuyết Văn đều viết từ bộ thực đều thanh thao thiết.

Ông trùng ngược lại âm ốc công sách Phương Ngôn cho rằng: Con ong nhỏ đó gọi là ông Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Con ông nhỏ bé, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh ông.

Nhiệt yết ngược lại âm yển yết Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Trúng nhiệt, Cố Dã Vương cho rằng: Gọi nắng gắt làm tổn thương nóng nhiệt phiền muộn muốn chết, tức là bệnh cảm nắng, chữ viết từ bộ hỏa viết thành chữ yết ngược lại âm hạt hàn cát âm yển ngược lại âm yết kiền.

Hồ hấp trên là chữ hồ kinh văn viết từ bộ vu viết thành chữ vu người viết sai, ngược lại âm dưới hồ cáp sách Thuyết Văn nói: Uống vào, chữ viết từ bộ khảm thanh hiệp kinh văn viết chữ hạp tục dùng thông dụng, âm thổ hợp chẳng phải nghĩa kinh.

Đạm phạ ngược lại âm trên đàm lam Cố Dã Vương cho rằng: An tịnh, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đạm là an, Hứa Thúc Trong chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Đầy đủ, vui vẻ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh đảm dưới là âm phạ ngược lại âm phổ bá Quảng Nhã cho rằng: Phạ là yên tĩnh, sách Khảo Thanh cho rằng: Tâm an tĩnh sách Thuyết Văn cho rằng: Vô vi chữ viết từ bộ tâm thanh bạch kinh văn viết từ bộ thủy viết thành chữ đảm đạm sách viết sai chẳng phải nghĩa kinh. Tê xuyết ngược lại âm duyển liệt, theo Thanh Loại cho rằng: Xuyết là biếu tặng thức ăn, dâng cúng, rót rượu xuống đất tế lễ, sách Khảo Thanh cho rằng: Tế lễ mùa xuân mà rót rượu cúng thần. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thực thanh xuyết hoặc là viết từ bộ dậu viết thành chữ xuyết âm quỹ là âm quỹ âm xuyết đồng với âm trên.

---------------------------------------

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 2

Lịch sát ngược lại âm trên linh đích Thiên Thương Hoét cho rằng: Lịch là bánh xe lăn, nghiền nát, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ bánh xe cán lên đè nén xuống, chữ viết từ bộ xa thanh lạc âm triển ngược lại âm ni triển. Khuy du ngược lại âm trên khuyển quy Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Chỗ thấy đó hẹp cho nên gọi là khuy, tức là xem xét, sách Khảo Thanh cho rằng: Khuy là nhìn trộm, sách Phương Ngôn cho rằng: Khuy là nhìn, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh quy hoặc là viết chữ khuy ngược lại âm dưới du chu sách Khảo Thanh cho rằng: Du cũng là khuy, Văn Tự Tập Lược nói rằng: Nhìn lén, nhìn trộm, chữ viết từ bộ môn thanh du. Lô khục ngược lại âm trên lỗ hồ ngược lại âm dưới phò phúc sách Phương Ngôn cho rằng: Gọi tên chung các loại cải bắp, cải díp, đó là lô nguồn gốc là rau cải tục gọi là la bặc Quách Phác chú giải rằng: Cải bắp mà lại nhỏ như đậu vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Cải yến thanh, tức cải xanh, chữ viết đều từ bộ thảo đều thanh lô phục.

Phụ đà ngược lại âm dưới đà xĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Ngựa lô vác trên lưng vật nặng, sách Vận Lược cho rằng: Lạc đà cũng vác trên lưng vật nặng v.v...

Sở giám ngược lại âm lam hảm Quảng Nhã cho rằng: gương soi, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Gián xem xét, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cũng là răn dạy, ngăn ngừa, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Giám là chỗ xem xét hình tướng, sách Thuyết Văn nói có thể lấy ánh sáng từ nơi mặt trăng dưới nước chữ viết từ bộ kim thanh lam hoặc là viết chữ giám cũng đồng.

Chung chung ngược lại âm chúc dung Bì Thương cho rằng: Chung chung là kinh hoàng lo sợ. Xưa nay chánh tự viết từ bộ tâm thanh công.

Nhương thảo ngược lại âm trên nhược chương Quảng Nhã cho rằng: Thân nhánh lúa gọi là nhương sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hòa thanh nhương kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ nhương tức là cây sen, chẳng phải nghĩa kinh.

Lý tỷ ngược lại âm sở y theo Thanh Loại cho rằng: Vua Vũ mang giày cỏ giày rách, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tỷ chữ lý tóm lược thanh tỷ hoặc là viết từ bộ cánh viết thành chữ tỷ lại viết chữ lạp.

Tịch tiến ngược lại âm dưới tiên tuyến sách Thuyết Văn cho rằng: Cỏ héo chỗ cho con thú ăn, chữ viết từ bộ thảo thanh tiến sách Văn Tự Tập Lược nói rằng: Tiến là cỏ để làm chiếu loại cỏ cô bồ cũng là loại cỏ cho ngựa ăn.

---------------------------------------

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 3

Bạo trướng ngược lại âm trương lượng sách Khảo Thanh cho rằng: Nước dâng lên rất cao, sách Văn Tự Tập Lược nói rằng: Nước sông dâng lên cao chảy xiết Quách Phác chú giải Giang Phú Truyện rằng: Nước dâng cao tràn ngập.

Khảo lược ngược lại âm lương trượng Quách Phác chú giải sách Lễ Ký rằng: Lược là đánh, đấm, nện, Thiên Thương Hoét cho rằng: Lược là đoạt lấy, sách Khảo Thanh cho rằng: Khảo là đánh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh kinh.

Cầu định đây là chữ định kinh văn viết từ bộ kim viết thành chữ định là chẳng phải, trong sách người viết sai, chữ đỉnh là đồ dùng đựng thức ăn như là cái khay, chẳng phải nghĩa kinh.

Điệu quý ngược lại âm trên đồ đái theo Mao Thi Truyện nói rằng: Buồn thương tiếc, lại điệu là động lòng xót thương, Văn Tự Điển nói là điệu là bi ai buồn thương, chữ viết từ bộ tâm thanh trác ngược lại âm dưới là quỹ quý sách Khảo Thanh cho rằng: Tâm kinh động, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh quý.

Khảm kha ngược lại âm trên kham cảm Bì Thương cho rằng: Tiếng xe chạy rầm rầm, sách Khảo Thanh cho rằng: Chiếc xe chạy không có bằng phẳng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xa thanh hàm âm dưới là khả Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khảm khả là xe không gặp may, theo Thanh Loại cho rằng: (801) chiếc xe nhỏ mà trục đã gãy phải sửa chữa lại nên gọi là khả sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếp giáp với cái trụ chữ viết từ bộ xa thanh khả.

Tẫn mai ngược lại âm tân nhẫn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tẫn là bỏ xác chết vô hòm quan tài, Công Dương Truyện cho rằng: Lo việc mai táng, liệm vào quan tài gọi là tẫn âm tẫn là âm tân chữ viết từ bộ ngạc thanh tân kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ tẫn là bỏ đi lôi kéo đuổi đi chẳng phải nghĩa kinh âm ngạc là âm tàn.

---------------------------------------

PHÁP CÚ THÍ DỤ VÔ THƯỜNG PHẨM KINH QUYỂN 4

Giác thí ngược lại âm trên giang nhạc Cố Dã Vương cho rằng: Giác giống như là cạnh tranh thắng bại Cao Dụ chú giải sách Xuân Thu rằng: Giác giống như là thử, dò xét, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đao đến bộ ngư bộ nhục thanh tĩnh kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ giác là chẳng phải.

Chỉ bác ngược lại âm dưới bổ mạt Quảng Nhã cho rằng: Bát là trừ bỏ, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Bỏ đi, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh phát.

Đính đậu ngược lại âm trên đinh định Cố Dã Vương cho rằng: Đinh gọi là đặt để dọn tiệc bày thức ăn trong mâm, sách Khảo Thanh cho rằng: Để thức ăn vào trong bát, ngược lại âm dưới là đậu sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng gọi thức ăn vào trong mâm, chữ viết từ bộ thực kinh văn viết từ bộ đậu viết thành chữ đậu tục dùng cũng thông dụng.

Sắc nhiên ngược lại âm trên sở trắc sách Khảo Thanh cho rằng: Sợ sệt, sợ hãi, kính phục oai vệ, Văn thông dụng cho rằng: Sợ nhỏ gọi là sắc Bì Thương cho rằng: Cũng là sợ, Công Dương Truyện cho rằng: Sắc nhiên là kinh hãi giựt mình, sách Thuyết Văn viết từ bộ khiếm thanh sắc kinh văn viết từ bộ tâm viết thành chữ sắc là sai âm sắc đồng với âm trên.

Duệ thông ngược lại âm dĩ duế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Duệ là thông suốt nơi kỹ thuật Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Duệ là sáng suốt, Quảng Nhã cho rằng: Duệ là trí tuệ, sách Thuyết Văn viết từ bộ duệ đến bộ cốc tóm lược thanh mục kinh văn viết từ bộ thù viết thành chữ duệ là sai, âm duệ ngược lại âm tài an.

Duy trướng ngược lại âm vĩ khuy Quảng Nhã cho rằng: Duy cũng là trướng, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Màn che một bên gọi là duy màn che trên phủ xuống gọi là mạc sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh duy kinh văn viết chữ vĩ là túi thơm chẳng phải nghĩa kinh, ngược lại âm dưới trương lượng sách Thuyết Văn cho rằng: Trướng là bức trướng căng ra có viết chữ, chữ viết từ bộ cân thanh trường.

Nghịch ngạo khiêu chi âm ngạo là âm ao sách Khảo Thanh cho rằng: Phóng đãng, Quảng Nhã cho rằng: Kiêu mạn, khinh khi, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh ao kinh văn viết từ bộ túc viết thành chữ ngạo là chẳng phải, âm khiêu là âm chiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Nhảy lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Vấp té ngã quỵ, chữ viết từ bộ túc thanh khiêu.

Bình sa ngược lại âm trên tinh minh tiếng Phạm tên của vua Tây Vực.

*******

PHẬT THUYẾT PHÁP CÚ KINH

Huệ Lâm soạn.

Dương diệm ngược lại âm dưới diệp tiệm sách Khảo Thanh cho rằng: Khí mạo bốc lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Lửa cháy dữ dội, chữ viết từ bộ hỏa thanh diệm kinh văn viết chữ diêm cũng thông dụng.

Huất nhĩ ngược lại âm trên huân uất Bình Tông chú giải Tây Kinh Phú Truyện rằng: Huất là bổng nhiên sách Thuyết Văn nói: Bổng nhiên thổi lửa nổi lên, chữ viết từ bộ diêm thanh khảm.

Hằng thằng ngược lại âm trên cang hằng Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hằng là bổng nhiên căng dây cung lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Sợi dây lớn chữ viết từ bộ mịch thanh hằng ngược lại âm dưới thực nhưng Quảng Nhã cho rằng: Thằng là sợi dây kéo thẳng ngay, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cây gỗ theo sợi dây thì là thẳng ngay, sách Thuyết Văn cũng gọi là sợi dây lớn chữ viết từ bộ mịch đến bộ dăng thanh tĩnh âm dăng ngược lại âm dực tăng.

Thiện phiêu ngược lại âm tất diêu Chiến Quốc Sách nói rằng: Phiêu là chỗ cắm cờ xí, sách Khảo Thanh cho rằng: Giơ cao lên có viết tấm lệnh bài, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh phiêu âm phiêu đồng với âm trên.

Tức hư ngược lại âm dưới là hứa cư Cố Dã Vương cho rằng: Xuất hơi từ từ gọi là hư Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hư là tiếng thán từ biểu thị ý ngăn cản, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh hư.

Sủy tài ngược lại âm sơ lủy Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là đoán, đo lường, Quảng Nhã cho rằng: Sủy là động ngầm đánh giá, sách Thuyết Văn nói: Đo lường, chữ viết từ bộ thủ thanh đoan âm đoan là âm đoan.

Ry ương ngược lại âm trên ký nghi Văn Tự Điển nói dây cương buộc đầu con ngựa, chữ viết từ bộ võng đến bộ ky ky là dây cương buộc ngựa hoặc là viết từ bộ cách viết thành chữ ky kinh văn viết chữ ký là chữ cổ âm chiêm ngược lại âm châm lập ngược lại âm dưới ương lượng.

*******

CA DIẾP KIẾT KINH

Huệ Lâm soạn.

Khuông ngã ngược lại âm khúc vương sách Khảo Thanh cho rằng: Khuông là bù bổ thêm, giúp đỡ, hỗ trợ, theo kinh văn viết từ bộ trúc viết thành chữ khuông nghĩa cũng đồng.

Huyễn hiệt ngược lại âm huyền quyến Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Huyễn là nhìn, Cố Dã Vương cho rằng: Huyễn là đưa mắt nhìn, ra hiệu bằng mắt khiến cho người ta hiểu mật ý, hoặc là mật ngữ, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Liếc mắt chữ viết từ bộ mục thanh nhuyễn âm huyễn đồng với âm trên.

Đàn chỉ ngược lại âm trên đạt an Tống Trung chú giải kinh Thái Huyền rằng: Đàn chỉ là va chạm đến, xúc chạm, sách Thuyết Văn cho rằng: Đàn là cầm nắm giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh đan.

Giá khởi ngược lại âm trên ngôn kiện Thiên Thương Hoét cho rằng: Giá là nghinh tiếp, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh ngôn âm xước ngược lại âm sửu lược.

*******

TAM HUỆ KINH

Huệ Lâm soạn

Yết điểu ngược lại âm trên kiền nghiệt sách Khảo Thanh cho rằng: Yết là giơ cao lên, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Yết cũng là cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh hạt âm hạt là âm hạt.

Dĩ ảnh ngược lại âm ư lang sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ảnh là cái chậu sành, Quách Phác chú giải rằng: Cái bồn, sách Thuyết Văn viết chữ ảnh ảnh cũng là cái chậu, chữ viết từ bộ ảnh thanh ương âm phửu ngược lại âm âm phù cú âm mảnh ngược lại âm minh bính.

Cầu cái ngược lại âm dưới cai ngãi Thiên Thương Hoét cho rằng: Đi cầu xin thỉnh mời, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cái là người đi xin ăn, chữ viết từ bộ bao thanh vong âm bao là âm tích nhân.

Hiểu thủy lại âm chữ dực chu lại âm diêu tiểu sách Khảo Thanh cho rằng: Cán gàu múc nước, hoặc là viết chữ huyệt chữ hấp kinh văn viết chữ khí là chẳng phải.

*******

TUYỂN TẬP TAM TẠNG KINH CẬP TẠP TẠNG

Huệ Lâm soạn.

Hoàn khí ngược lại âm hoán quan theo Mao Thi Truyện nói rằng: Hoàn là xưa cũ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hoàn toàn, chữ viết từ bộ miên thanh nguyên âm miên là âm miên.

Bi oán ngược lại âm ô quyền Văn Tự Tập Lược nói rằng: Oán than thở buồn hận, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh uyển.

Nạo giảo ngược lại âm trên hảo cao Quảng Nhã cho rằng: Nạo là nhiễu loạn, sách Thuyết Văn nói nạo cũng là giảo là quấy rối nhiễu loạn, chữ viết từ bộ thủ thanh nghiêu cũng viết chữ hao là chẳng phải.

Lô tiển ngược lại âm lỗ đo sách Phương Ngôn lô gọi là nối tiếp theo, tiếp tục, Quách Phác chú giải rằng: Lô là sợi chỉ, sách Thuyết Văn cho rằng: Sợi chỉ gai, chữ viết từ bộ mịch thanh lô âm mịch là âm mịch ngược lại âm dưới là tiên tiến kinh văn viết từ bộ diên viết thành chữ diên âm diên là âm diên chẳng phải ý kinh.

Kinh vỹ ngược lại âm dưới vi quý sách Đại Đái Lễ Đông Tây gọi là vỹ sách Quốc Ngữ nói rằng: Sợi dệt đường kinh tuyến ngang, cũng là đường kinh tuyến giữa trời và đất, sách Thuyết Văn nói sợi tơ ngang kết nối sợi tơ dọc, chữ viết từ bộ mịch thanh vĩ.

A TỲ ĐÀM NGŨ PHÁP HÀNH KINH

-Không có chữ có thể giải thích âm.

*******

TIỂU ĐẠO ĐỊA KINH

Huệ Lâm soạn.

Suyển hy ngược lại âm trên xuyên nhuyễn Quảng Nhã cho rằng: Suyển là chuyển đổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thở hổn hển, chữ viết từ bộ khẩu thanh đoan âm đoan là âm đoan âm dưới là hy Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hy là đau buồn, Thiên Thương Hoét cho rằng: Khóc lớn dư nước mắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khảm thanh hy.

*******

NHẤT BÁCH NGŨ THẬP TÁN PHẬT TỤNG

Huệ Lâm soạn.

Tuẫn mạng ngược lại âm trên tuần tuấn Giả Quỳ chú giải Nghị Phục Điểu Phú Truyện rằng: Người ham danh lợi không kể mạng sống, sách Hán Thư Thần Quỳnh Truyện nói rằng: Lấy thân thử vật mà chét gọi là tuẫn sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngạc thanh tuần âm ngạc là âm cạch.

Lung lệ ngược lại âm dưới linh kế Bì Thương cho rằng: Lẫm lệ kính sợ, Quảng Nhã cho rằng: Lệ là phẫn nộ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ tâm thanh lệ.

Ngưu thương ngược lại âm thư lương Thiên Thương Hoét cho rằng: Hai cây gỗ kẹp lại đầu nhọn nhạy bén, sách Thiên Văn Chí cho rằng: Thương là hai đầu nhạy bén, tức là nay người ta gọi là cây súng, cũng đồng, sách Khảo Thanh cho rằng: Bắn đi cự ly rất xa cũng gọi là chống cự, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh thương cũng viết chữ thương kinh văn viết chữ tương đều là chẳng phải.

*******

KIM CANG ĐẢNH KINH THẬP LỤC ĐẠI BỒ TÁT TÁN

-Chữ tán trong mục có âm giải thích.

*******

VĂN THÙ SƯ LỢI PHÁT NGUYỆN TÁN

-Không có chữ khó có thể giải thích.

*******

PHỔ HIỀN HẠNH NGUYỆN TÁN

Chữ tán trong mục có giải thích.

*******

LỤC BỒ TÁT DANH DƯƠNG TỤNG TRÌ KINH

Không có chữ khó có thể giải thích.

*******

LIÊN HOA BỘ NHẤT BÁCH BÁT DANH TÁN

Chữ tán từ trong có thể giải thích.

*******

TÁN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TỤNG KINH

Huệ Lâm soạn.

Hồng nghê ngược lại âm trên hồ công ngược lại âm dưới nghiên hề, sách Lễ Ký nói rằng: Sách Nguyệt Lịnh nói đến mùa xuân là bắt đầu thấy cầu vồng, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nghê là áng mây có màu sắc như rồng, âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Con gà trống gọi là hồng con gà mái gọi là nghê sách Văn Tự Điển nói rằng: Cầu vồng hình dáng giống như con trùng, chữ viết từ bộ trùng đều là thanh công nghê âm đế là âm đế âm đông là âm đinh khổng.

Hao hống ngược lại âm trên hách giao Bì Thương cho rằng: Hao là tiếng con cọp gầm giận dữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng con hổ rống, chữ viết từ bộ hổ thanh cửu hoặc là viết chữ hao ngược lại âm dưới hồ cẩu theo Thanh Loại cho rằng: Hống là tiếng rống, sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng rống lớn, Văn Tự Điển nói tiếng con cọp gầm rống, tru lên, chữ viết từ bộ khẩu thanh ngưu hoặc là viết từ bộ cú viết thành chữ câu lại viết chữ cú kinh văn viết chữ hao hống tục dùng chẳng phải.

Sài giai ngược lại âm trên sĩ nhai sách Thuyết Văn nói rằng: Sài là răng khểnh cao thấp hoặc đều. Lại gọi là mở miệng ra thấy răng, chữ viết từ bộ xỉ thanh thử ngược lại âm dưới ngạch giai sách Khảo Thanh cho rằng: Con chó cắn lộn lòi răng ra không đồng đều.

Tướng phệ ngược lại âm thời chế sách Chu Dịch cho rằng: Phệ là cắn sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh phệ âm phệ đồng với âm trên.

Tiên thạch ngược lại âm tiên tiên sách Văn Tự Tập Lược nói: Tiên là nước dơ không sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước bùn bắn lên tung tóe, phải phơi cho khô đi, chữ viết từ bộ thủy thanh tiện.

Chiêm lợi ngược lại âm trên tức liêm âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Chiêm cũng là lợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc cái thuổng, cái mai, cái thiêu để đào đất, chữ viết từ bộ kim thanh thiệt âm tháp ngược lại âm sa giáp. Ôn thích ngược lại âm trên là ẩn hồn Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Ôn là nhan sắc hòa hoãn, Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Ôn gọi là nhu hòa, sách Lễ Ký cho rằng: Mùa đông mà ấm áp, mùa hè lại mát sách Khảo Thanh cho rằng: Ấm áp sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh ôn âm ôn đồng với âm trên, kinh văn viết từ bộ hỏa viết thành chữ ôn là có hai âm, chẳng phải nghĩa kinh cho nên không lấy.

*******

NGŨ TÁN BÁT ĐẠI BỒ TÁT TÁN ĐẲNG

-Không có chữ có thể giải thích.

*******

VÔ MINH LA SÁT TẬP

Huệ Lâm soạn

Quật trạch khổ cốt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng:

Đào đất làm nhà, theo Thanh Loại cho rằng: Cái hang của con thỏ trốn, sách Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ huyệt thanh khuất.

Ấm ma ngược lại âm ư cấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức tên của ngũ ấm, chữ viết từ bộ thảo thanh âm chữ âm đúng là từ bộ phụ đến bộ vân nay thanh kinh dùng chữ âm tục dùng thông dụng.

Pháp loa ngược lại âm lô qua thuộc loài hải giới, dụ cho tiếng tốt dẹp nghe rất xa, kinh văn viết chữ ung là chẳng phải.

Phiếm đại ngược lại âm phương phạm tục tự cũng thông dụng, chữ đúng từ bộ phiếm viết thanh chữ phiếm chữ hình thanh.

Pháp phàm âm phàm gọi là thuyền buồm chữ viết từ bộ cân thanh phàm.

Hồi phục ngược lại âm bằng ốc gọi là nước chảy ngược dòng, nước chảy uốn lượn xoáy quanh.

Huyền hiểm ngược lại âm hương yểm chữ viết từ bộ phụ kinh văn viết từ bộ sơn viết thành hiểm là chẳng phải.

Hiển trứ ngược lại âm chữ lô chữ viết từ bộ thảo đến bộ giả kinh văn viết từ bộ dương viết thành chữ trứ là chẳng phải.

Khẫn-na-trùng ngược lại âm kinh dẫn tiếng Phạm dụ đây là loại trùng có ba thời biến sắc, ban đầu màu đất, kế đến màu đỏ, sau cùng màu đen, kinh văn viết chữ trùng là tóm lược.

Khoái lạc ngược lại âm trên khoa quái âm dưới là lạc.

Dược bể ngược lại âm tất mễ cây dùng để khuấy thuốc, chữ viết từ bộ mộc thanh tỳ.

Nhãn mạc âm mạc nhiệt lượng gọi là mạc, cái màng mỏng bén trong chữ viết từ bộ nhục.

The đăng ngược lại âm trên thể hề ngược lại âm dưới đắc hằng hai chữ đều từ bộ mộc.

Tương tùng ngược lại âm tề dụng theo chữ từ bốn bộ nhân đến bộ xước.

Ương-quật-ma-la ngược lại âm quần luật tên người. Trường trảo trên là chữ trường kinh văn viết từ bộ thảo cũng thông dụng âm dưới là trảo trảo là móng tay hoặc là viết từ bộ thủ.

Ảm-mạt-sá ngược lại âm ô cam.

Thi-la-bặc ngược lại âm hồ bắc đã trên ba câu đều là tên của các ngoại đạo.

Năng thích ngược lại âm thi diệt loài côn trùng đi gieo độc hại ngược lại cũng âm ha các.

Thứ thích âm trên là thứ âm dưới là thích âm trên là đúng, âm dưới tục tự cho rằng đúng thể, từ bộ thứ viết thành chữ thứ âm thứ là âm thứ.

Khứu thất ngược lại âm hứa cứu dùng cái mũi chính là để ngửi gọi là khứu.

Chi lược ngược lại âm cường lượng Tự Thư cho rằng: Dụng cụ bắt cầm thú.

Tật đố ngược lại âm đô cố chữ viết từ bộ hộ kinh văn viết chữ đố hoặc là viết chữ cấu đều chẳng phải.

Thân tác ngược lại âm tang lạc.

Duyên tỏa ngược lại âm tang quả chữ viết từ bộ kim thanh tỏa âm tỏa đồng với âm trên, kinh văn viết từ bộ sào viết thành chữ tỏa tục tự dùng cũng thông dụng.

Ác quyến ngược lại âm quyết luyến âm dưới hai chữ đều đồng. Phu lộc âm lộc.

Sở xạ âm thạch.

Trí toàn ngược lại âm tổ loạn dưới hai chữ đều binh thanh.

Dĩ hoặc âm ky sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ dĩ nhưng lại có uốn cong trên không hợp, dưới là chữ hoặc từ bộ tâm.

Triết xá vương ngược lại âm trên chiên nhiệt âm kế là trích da tiếng Phạm dụ đây là vua. Tức là không có động tên gọi khác của ông vua sáng suốt.

Tước-thuyền-na-thành ngược lại âm uy luật âm thiền là âm thiện.

Tuy phủ âm trên là tuy ngược lại âm dưới phu vũ. Tật dịch âm dịch.

Quá bạn ngược lại âm cổ hòa.

Nhương tai ngược lại âm nhi dương ngược lại âm dưới tái lai.

Xí kịch ngược lại âm xương chí ngược lại âm dưới ký nghịch Thiên Thương Hoét cho rằng: Tăng thêm gấp bội, chữ viết từ bộ đao thanh cứ âm cứ ngược lại âm cự ngư.

Lý hạng ngược lại âm ngõa giáng lại cũng viết chữ hạng. Điêu thứu âm điêu âm tựu loài chim ác.

Ế chướng ngược lại âm trên y kế ngược lại âm dưới là chương nhương chữ viết từ bộ phụ kinh văn viết từ bộ ấp viết thành chữ chướng là chẳng phải.

Tử trang ngược lại âm tang táng từ bộ khốc đến bộ vong viết thành chữ tang là chẳng phải.

Sở cầm âm cầm.

Thu tụy ngược lại âm tình túy.

Xác nhiên ngược lại âm khổ giác xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh xác âm xác ngược lại âm khẩu các từ bộ mịch đến bộ truy kinh văn viết từ bộ tái viết thành viết xác là chẳng phải.

Tư sấn ngược lại âm sĩ chấn gọi là truy tầm.

Bảo khải ngược lại âm khổ cái gọi là mũ giáp trụ, mũ sắt đội đi đánh giặc.

Đơn dĩ âm ky sắc mạo âm mạo.

Thi hài âm hài độc lâu ngược lại âm trên độc âm dưới là lâu gọi là xương đầu người.

Huyết tủy ngược lại âm tuy dủy chất mở trong xương tức là tủy, thủ thám ngược lại âm tha hàm chữ viết từ bộ thủ.

Trường đổ ngược lại âm trên là lương ngược lại âm dưới đồ nộ chữ viết đều từ bộ nhục.

Phẫn huyết ngược lại âm trên phân vấn chữ viết từ bộ thái ngược lại âm bạch mạn từ bộ hoa ngược lại âm bổ vu từ bộ cũng âm cũng kinh văn viết từ bộ thổ đến bộ dị là chẳng phải.

Triêm ô ngược lại âm trên là tri liêm ngược lại âm dưới ô cố. Giao lạc âm lạc.

Tránh thực ngược lại âm trách cánh.

Đấu tranh ngược lại âm trên đương cấu kinh văn viết từ bộ môn viết đến bộ đậu viết thành chữ đấu tục tự dùng cũng thông dụng.

Khiên chế ngược lại âm trên khải kiên chữ viết từ bộ đến bộ mịch bộ ngưu kinh văn viết từ bộ khứu đến bộ thủ là chẳng phải ngược lại âm dưới xiển triết chữ viết từ bộ thủ đến bộ chế hoặc là viết chữ chế.

Kim xí âm thí.

Đột sất ngược lại âm trên đô cốt ngược lại âm dưới chân chất. Phảng cao âm trên phang âm dưới là cao.

Cam thị ngược lại âm thời chí gọi là tham muốn, hoặc là viết từ bộ dậu đến bộ thực viết thành chữ thị đều là chữ cổ.

Ngữ quỹ âm ngự.

Đầu tiêm ngược lại âm tiếp diêm.

Cố hệ ngược lại âm hề nghệ sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn một cách giận dữ, cùng với chữ hệ đồng âm.

Huy hoắc ngược lại âm hồ quách.

Tai lệ ngược lại âm trên là tai âm dưới lực kệ gọi là bệnh ác nghiệt.

Tử tể ngược lại âm tùy duệ hoặc là từ bộ cũng đến bộ tễ gọi là chết ngã giữa đường.

Bì khổ âm trên là bì.

Thường huyết âm thường.

Năng giải ngược lại âm cách mãi. Môn lý âm lý.

Phấn kiếm ngược lại âm phương vấn chữ viết từ bộ đại đến bộ duy đến bộ điền chữ chánh thể, chữ dư là chẳng phải.

Kiều khước ngược lại âm kỳ diêu.

Trước vu ngược lại âm trương lược kinh văn viết chữ trước này là chẳng phải.

Giáp trụ âm giáp ngược lại âm dưới là trì hựu chữ viết từ bộ do đến bộ nhục âm nhục ngược lại âm mạc bảo.

Kỳ kích ngược lại âm kinh nghịch nhàn lạc âm lạc.

Thảm tụy ngược lại âm trên sang cảm âm dưới tình tụy. Thấp bì ngược lại âm thi nhập sách Thuyết Văn viết từ bộ nhất đến bộ tư đến bộ thổ là đúng âm, kinh văn viết chữ thắp là chẳng phải.

Mang xà âm mang gọi là con rắn lớn, ngược lại âm dưới là xà. Huỳnh hệ ngược lại âm nhuế dinh âm dưới là kế.

Kỳ yếu ngược lại âm nhất diêu hoặc là viết chữ yếu. Cự nha ngược lại âm cư ngự.

Trang hồng ngược lại âm hồ công nước dâng cao, lụt lũ.

Hô hấp ngược lại âm trên đúng là chữ hồ ngược lại âm dưới hư cấp.

Xuyết hám ngược lại âm xuyên duyết âm dưới là đạm tục tự dùng cũng thông dụng, viết đúng chữ kháp.

Hám giới ngược lại âm nha lam cũng viết chữ hàm ngược lại âm dưới nha giới hoặc là viết chữ giới hét to, la lớn, giận dữ.

Phiêu một ngược lại âm thất diêu.

Mổng hoành ngược lại âm dương vãng ngược lại âm dưới hoạch mảnh.

Khống phục ngược lại âm ô cống ngược lại âm dưới phong mục. Trịch quyến ngược lại âm trì kích ngược lại âm dưới quyết luyến Bạt thiệp ngược lại âm bàn mạt ngược lại âm dưới thực diệp.

Tòng gia ngược lại âm tộc hồng ngược lại âm dưới chu lung kinh văn viết từ bộ thổ tục tự thông dụng.

Sào huyệt ngược lại âm sài giao sách Thuyết Văn viết từ bộ cửu bộ mộc bộ xuyên viết thành chữ sào chữ tượng hình, giống như ổ chim trên cây, kinh văn viết từ bộ quả là chẳng phải.

Hồ lang âm trên là hồ sách Thuyết Văn cho rằng: Yêu thú, hơn nữa là con quỉ, chữ viết từ bộ khuyển đến bộ hồ thanh tĩnh ngược lại âm dưới lang giống như con chó mà rất lanh lợi, cái trán màu trắng, chữ hình thanh.

Sài ly âm trên là sài con thú trên núi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc chó sói, chữ viết từ bộ trĩ thanh tài ngược lại âm dưới là ly sách Thuyết Văn cho rằng: Con thú nằm, giống như con mèo, thuộc loại chồn, chữ viết từ bộ trĩ thanh ly.

Bi hổ âm trên là bi thuộc loại gấu, loại gấu lông màu vàng trắng mà rất to lớn, mạnh mẽ, dũng cảm, có nhiều sức lực, sách Thuyết Văn cho rằng: Giống như con bi thuộc loại gấu người, chữ viết từ bộ hùng đến chữ bãi thanh tĩnh ngược lại âm dưới hồ cổ.

Si kiêu ngược lại âm trên xỉ chi ngược lại âm dưới hiểu diêu loài chim quái lạ.

Đoàn thực ngược lại âm trên là đoàn.

Ung chủng ngược lại âm trên ung cũng ngược lại âm dưới dung dũng.

Phì trướng ngược lại âm trên phò vi âm dưới trương lượng chữ viết đều từ bộ nhục.

Lạt khát ngược lại âm trên La-cát chữ viết từ bộ thúc đến bộ đao sách Khảo Thanh cho rằng: Trái ngược kinh văn viết chữ ngãi là chẳng phải nói lạt khát đó là nói thô xấu.

Thuân bác ngược lại âm thất tuân trên da nổi mụt, ngược lại âm dưới bang giác.

Đỉnh động âm định.

(803) Chế điện ngược lại âm trên xương nhiệt viết đúng là chữ xế.

Hàm thần âm trên là hàm âm dưới thuận luân. Đào ba âm trên là đào.

Trần vụ âm vụ.

Mỗi quynh ngược lại âm khôi nội âm dưới mạc bính chữ viết từ bộ quynh đến bộ nhật đến bộ lục thanh quynh tệ ngược lại âm ty duệ gọi là che đậy.

Tể hoại ngược lại âm tỳ duệ.

Cang cung ngược lại âm trên hạng giang từ chữ giang thanh tĩnh ngược lại âm dưới ông cống từ bộ ngỏa đến bộ ung.

Giáng trướng ngược lại âm trên phó giang ngược lại âm dưới trương lượng.

Thư trùng ngược lại âm trên thất dư kinh văn viết chữ thư là chẳng phải, nghiệp dưới trục dung kinh văn viết chữ trùng là sai.

Bao đột ngược lại âm trên bạch mao ngược lại âm dưới điền liệt. Phong xuất âm trên là phong.

Ngã vi ngược lại âm vinh ngụy.

Đằng dũng âm dũng ngược lại âm đồ năng chữ viết từ bộ chu.

Chân chân ngược lại âm thi nhẫn hoặc là viết chữ thẫn nhẫn gọi là mỉm cười.

Dục phu chữ tượng thanh.

Thính ngã ngược lại âm thể doanh mâu thuẫn ngược lại âm trên mạc hậu âm dưới là thuận chữ từ bộ mộc.

Tháp ba tiêu ngược lại âm đàm lạp âm kế là ba âm dưới tiều tên của cây cỏ.

Hỷ lạc chi lạc ngược lại âm trên ngũ giáo âm dưới là lạc. Dĩ mạng âm ky.

Phủ chước ngược lại âm dương nhược. Truy hà ngược lại âm trực truy.

Ngẫu hóa ngược lại âm ngũ cẩu.

Bỉnh trí âm bính tay cầm nắm bông lúa gọi là bỉnh. Câu nhị ngược lại âm cổ hầu âm dưới là nhị.

Câu khiên ngược lại âm di hiền. Hữu lạc âm lạc.

Bỉ tiện ngược lại âm bi mỹ.

Tẩu đắc ngược lại âm sương tróc.

Yểm túc ngược lại âm y diệm chữ bình thanh.

Dăng đọa ngược lại âm dực tăng ngược lại âm dưới đồ ngọa. Trị nhữ âm trì.

Cấm ngã âm kim.

Khuy tổn ngược lại âm khuất nguy sách Thuyết Văn viết từ bộ vu đến bộ hổ đến bộ duy.

Đoản xúc ngược lại âm thủ dục. Kiêu loạn ngược lại âm nĩ điểu.

Dục đạo khẩu ngược lại âm đường lão sách Vận Thuyên nói rằng: Đạo khẩu là giảng nói pháp.

Kiên ngạnh ngược lại âm ngạch canh hàm thủy âm hàm. Du tăng âm du.

Bẩm lê ngược lại âm lập cẩm.

Hội náo ngược lại âm trên hồi ngoại ngược lại âm dưới nô điểm tục viết chữ náo kinh văn viết náo là không thành chữ.

Nhiễu loạn ngược lại âm nhi chiểu sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ đến bộ ưu âm ưu ngược lại âm nô chữ ưu từ chữ dĩ đến bộ hiệt đến bộ chỉ kinh văn viết từ bộ ưu viết thành chữ nhiễu là sai.

Phong thái âm phong. Kiếm sóc âm sóc.

Đầu uyên ngược lại âm nhuế duyên gọi là sâu xa, giống như dưới nước sâu.

Chích thân ngược lại âm chinh diệc âm trên từ bộ nhục.

Cức thứ ngược lại âm trên cư lực chữ viết từ bộ thứ kinh văn viết chữ lai là chẳng phải, ngược lại âm dưới thử tứ chữ viết từ bộ đao thanh thứ kinh ăn viết từ bộ hiệp là chẳng phải.

Biến duyên ngược lại âm trên tất miên ngược lại âm dưới duyên huyền.

Khẩn thực ngược lại âm khang ngận gọi là cày ruộng, âm dưới thừa lực gọi là trồng trọt.

Khinh táo ngược lại âm tao đáo không an tịnh.

Đam trước ngược lại âm trên đa cam âm dưới trương lược. Chư khiên ngược lại âm khương ngôn.

Toại toàn âm trên là toại dụng cụ lấy lửa thời xưa, ngược lại âm dưới tổ loạn cũng là dụng cụ lấy lửa.

Yến sào âm tên yến tổ chim yến.

Đương hội âm hội lạn Thiên Thương Hoét ghi thấm nước, sông nước chảy xiết.

Phan duyên ngược lại âm phổ ban.

Bính bác âm bác sách Thuyết Văn viết từ bộ cốt đến bộ bác chữ bác từ bộ phủ đến bộ thốn.

Viên hầu âm trên là viên hoặc là viết chữ viên âm dưới là hầu. Thân nặc ngược lại âm ni phiêu thân cũng là nặc là gần gũi.

Thân tỏa ngược lại âm tô quả chữ viết từ bộ ngọc thanh tỏa âm tỏa đồng với âm trên, viết từ chữ sào đó là chẳng phải.

Vãn ư ngược lại âm võng phản.

Phốc hỏa ngược lại âm phổ bốc văn cổ viết chữ văn. Đạo đạo âm trên chữ đạo Khứ Thanh là dẫn dắt, âm dưới là chữ đạo thượng thanh, đạt tới, thông đạt.

Phân thọ ngược lại âm phân vấn. Tội lục âm lục gọi là sát, giết sạch.

Trần ai trên chữ trần từ bộ lộc đến bộ thổ từ bộ ai chữ từ bộ dĩ đến bộ thỉ âm dĩ ngược lại âm dĩ thỉ âm thỉ là âm thỉ nay theo lệ viết tóm lược.

Hủ hoại ngược lại âm phò vũ âm hoại là âm quái. Điệu động ngược lại âm đình diệu.

Nùng huyết âm nùng từ bộ nhục.

Ngõa ảnh ngược lại âm ô lãng cái chậu sành, chữ viết từ bộ ngõa thanh vương hoặc là từ bộ mảnh viết thành chữ ảnh cũng đồng.

Cấu nhị ngược lại âm ni trỉ chữ viết từ bộ nhục thanh nhị. Tê phá ngược lại âm trên tiên hề tê cũng là phá.

Thô sáp ngược lại âm sương lập sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy đến bộ chỉ hai bộ ngược, hai bộ đứng chữ hội ý.

Miêu ly âm trên là mao. Lại cũng âm là miêu cũng thông dụng, hoặc là viết từ bộ trĩ viết thành chữ miêu âm dưới là ly loại thú nằm giống như mèo hoang, mèo rừng. Hề thử âm trên là hề loại chuột có độc, hoặc gọi là cam khẩu thử thử là chữ tượng hình.

Ngột thọ âm ngột.

Bạo xí ngược lại âm trên báo đốt lửa có tiếng nổ.

Xương cuồng âm trên là xương ngược lại âm dưới quỳ vương. Huyên hồ ngược lại âm huy viên.

Cưỡng tiếu ngược lại âm trên cư lượng mượn âm chữ tiếu từ bộ trúc đến bộ khuyển.

Khiêu trịch âm trên là điêu âm dưới hình thạch.

Sất sá âm trên chân chất âm dưới trích giá la hét lớn, giận dữ. Phách bệ âm trên phổ bách ngược lại âm dưới bình duệ.

Hoặc tiêu âm tiếu.

Hiệp oán âm trên diệp ngược lại âm dưới uy viện.

Tuy mi ngược lại âm tuy túy chữ viết từ bộ huyệt đến bộ trụy.

Thao thiết ngược lại âm trên tha đao âm dưới thiên niết Đỗ Dự chú giải rằng: Tham tài gọi là thao tham ăn gọi là thiết hoặc là viết chữ thao thiết.

Trường yết âm yến cái cổ, chữ viết từ bộ nhục kinh văn viết từ bộ khẩu là chẳng phải.

Vưu toại âm trên là vưu ngược lại âm dưới trường loại theo Tả Truyện cho rằng: Bệnh bướu rất nặng, nhỏ đó gọi là vưu lớn gọi là chuế âm chuế ngược lại âm chi nhuế chữ viết từ bộ tật chuyển hình thanh âm tật ngược lại âm nữ ách.

Âm kháo trên là chữ âm sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ đến bộ vân nay gọi là thanh, ngược lại âm dưới khổ cao Thiên Thương Hoét cho rằng: Khào là xương tận cùng của xương sống. Tức xương mông đít, chữ viết từ bộ thi đến bộ cửu.

Lưỡng tất âm tất chữ viết từ bộ nhục thanh tất sách Thuyết Văn viết từ bộ tất từ bộ ấp.

Thô hạt âm hạt.

Chấn tưng ngược lại âm túc dũng chữ viết từ bộ tâm đến bộ thúc.

Loát đều ngược lại âm loan quát chữ viết từ bộ thủ đến bộ loát thanh tĩnh ngược lại âm dưới đình diệu.

Nạo nhiễu âm trên là cảo kinh văn viết chữ hao là chẳng phải, dưới là nhiễu trước đã nói.

Hao hống ngược lại âm hiếu giao trước đã giải thích đầy đủ rồi. Huất nhiên ngược lại âm trên huân luật bổng nhiên.

Đạm dũng ngược lại âm đam cảm chữ dũng từ bộ lực.

Đào thoán ngược lại âm trên đường lao âm dưới sang loạn. Xung ốc ngược lại âm xúc chung.

Phong khóa ngược lại âm khổ hòa chữ viết từ bộ huyệt. Tích lịch ngược lại âm trên sớ lịch âm dưới lịch.

Cơ thể ngược lại âm cư chữ viết từ bộ nhục đến bộ kỹ. Chữ trung ngược lại âm chữ nhữ.

Tần loa ngược lại âm lô hòa tiếng Phạm tên của ngài Ca-diếp tiếng Phạm không xác đáng.

*******

BÁ THIÊN TỤNG ĐẠI TẬP KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT THỈNH VẤN PHÁP THÂN TÁN

Huệ Lâm soạn tập.

Đề hồ ngược lại âm đệ nê âm dưới hộ cô Văn Tự Điển Tập Lược nói: Đề hồ là tinh thuần của Tô Lạc, xưa nay Chánh Tự đều từ bộ dậu đều là thanh thị hồ.

Ba tiêu ngược lại âm trên bá ma ngược lại âm dưới tức diêu Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ba tiêu là tên của loại cỏ thơm, sách Văn Tự chỉ rằng: Mọc ở đất Giao Chỉ, lá giống như cỏ năng, dệt chiếu, đem nấu có thể đánh sợi mềm mại, làm vải thưa, có thể đem ngâm nước dệt mềm mại, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh ba tiêu.

Sân nhuế ngược lại âm dưới là nhất quý sách Thuyết Văn nói: Nhuế là ghét từ bộ tâm thanh khuê.

Thai dựng ngược lại âm trên đại lai ngược lại âm dưới dăng tắng sách Hoài Nam Tử nói rằng: Người đàn bà có mang bốn tháng gọi là thai, Thiên Thương Hoét cho rằng: Còn là thai chưa sanh ra, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Dựng là người đàn bà mang thai, sách Thuyết Văn viết chữ thai từ bộ nhục chữ dựng từ bộ tử.

Như khứu ngược lại âm dưới hưu hựu sách Thuyết Văn nói: Dùng cái mũi chính là để ngửi gọi là khứu từ nộ tỵ thanh khứu.

Cam giá ngược lại âm dưới giá dạ.

Ế minh ngược lại âm trên ế kế sách Vận Lược cho rằng: Bị ngăn che con mắt gọi là ế ngược lại âm dưới mịch bình theo Tả Truyện sách Ích Pháp nói: Linh mà không minh, nghe bên trong mà không thấy gọi là thành bởi minh sách Thuyết Văn nói con mắt nhắm lại, chữ viết đều không từ bộ mục.

*******

PHẠM BỔN PHỔ HIỀN TÁN

Chữ tán từ trong có giải thích âm.

*******

PHẠM ÂM VĂN THÙ TÁN

Chữ tán từ trong có giải thích âm.

*******

KIẾT TƯỜNG TÁN

Chữ tán từ bên trong có giải thích âm.

*******

LONG THỌ BỒ TÁT VI THIỀN ĐÀ CA VƯƠNG THUYẾT PHÁP YẾU KỆ

Huệ Lâm soạn.

Sáp thực âm trên là táp Cố Dã Vương nói rằng: Con chim le le dùng mỏ ăn, gọi là sáp sáp là ăn có tiếng lào sào. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ khẩu thanh sáp hoặc là viết chữ sáp.

Nhật bạo ngược lại âm bổ mạo Cố Dã Vương cho rằng: Bạo là làm cho khô đi, sách Thuyết Văn cho rằng: Phơi khô dưới ánh mặt trời, chữ viết từ bộ nhật đến bộ xuất đến bộ cũng đến bộ mễ kinh văn viết từ bộ hỏa viết thành chữ bạo bạo là âm báo nghĩa là thiêu đốt củi, tre phát ra tiếng nổ, chẳng phải nghĩa kinh.

Tự xế ngược lại âm trên tật dư theo thanh loại cho rằng: Tự là nhai, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ tự.

Tề miết trên là chữ tề các chữ trong sách đều không có chữ này, người dịch kinh tùy ý viết, tương truyền âm trong các chữ ngược lại là chẳng phải, theo đúng hợp là viết chữ lai ngược lại âm trắc giai gọi là nhai răng rụng, Quảng Nhã cho rằng: Lai là cắn, người xưa dịch gọi là lợi răng, gân cốt của răng. Lại có âm tề là tuyệt nhiên không phải, ngược lại âm dưới nghiên kiết văn trước kinh Pháp Hoa âm nghĩa giải thích là cắn nhai, nhai ít là niết nhai ngấu nghiến là lai nơi nghĩa này là đúng, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Niết cũng là phệ tức là cắn nhai, chữ viết từ bộ xỉ thanh niết kinh văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ niết là chẳng phải âm niết ngược lại âm khẩu bát.

Mâu toàn ngay trên mạc hậu sách Thuyết Văn nói: Cây mâu dài một trượng hai tấc gắn ở đầu binh xa, kinh văn viết từ bộ kim viết thành chữ mâu là chữ cổ, âm dưới sang loạn Quảng Nhã cho rằng: Toàn gọi là cây mâu giáo dài, sách Khảo Thanh cho rằng: Cây giáo ngắn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mâu thanh toàn kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ toàn là sai lầm âm diên ngược lại âm thời diên âm tán là âm tán.

*******

KHUYẾN PHÁT CHƯ VƯƠNG YẾU KỆ

Huệ Lâm soạn.

Di mật ngược lại âm dĩ chi sách Phương Ngôn nói rằng: Di gọi là đường, sách Thuyết Văn nói làm từ gạo đem ngâm nảy mầm, đem nấu thành đường, còn gọi là mạch nha, chữ viết từ bộ thực thanh di.

Ngạo mạn ngược lại âm trên ao cáo sách Khảo Thanh cho rằng: Kiêu ngạo, kinh văn viết chữ ngạo là chẳng phải.

Huấn tuần ngược lại âm dưới là tuất tuân Tư Mã Bưu nói rằng: Tuần là đi theo Quảng Nhã cho rằng: Tuần là ngựa hay giỏi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuận theo chữ viết từ bộ mã thanh xuyên.

Bảng sở ngược lại âm trên bạch manh Quảng Nhã cho rằng: Bảng là đánh bằng roi, theo Thanh Loại cho rằng: Hình phạt đánh bằng roi, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh bàng âm si là âm si.

Châm phong ngược lại âm dưới phủ phòng theo Thanh Loại cho rằng: Phong là mũi nhọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Mũi kiếm thẳng nhọn, chữ viết từ bộ kim thanh phong kinh văn viết chữ phong là chữ cổ.

Tự giới ngược lại âm trên tật dư sách Khảo Thanh cho rằng: Là nhai, ngược lại âm dưới là hài giới sách Phương Ngôn nói rằng: Giới là giận dữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghiến răng giận dữ, chữ viết từ bộ xỉ thanh giới kinh văn viết từ bộ trảo viết thành chữ trảo là chẳng phải.

*******

MÃ MINH BỒ TÁT TRUYỆN

Huệ Lâm soạn.

Minh kỳ ngược lại âm trên mịch bình Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Minh nói là tên, sách Lễ Ký cho rằng: Minh nghĩa sách là đẹp, mà không xưng gọi là ác xấu, Cố Dã Vương cho rằng: Minh là khắc chạm trổ vào đá, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh danh.

Quan đạt ngược lại âm loan bản Hứa thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Quan là xâu xuyên suốt qua, thâu nhiếp âm loạn ngược lại âm ô quan.

Trác lạc ngược lại âm lực trác sách Khảo Thanh cho rằng: Lạc nổi cao lên, trác lạc là xuất chúng giỏi tài, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngưu bộ lao thanh tĩnh.

Chúc-u-dạ ngược lại âm trên dung nhục sách Khảo Thanh cho rằng: Chiếu sáng, kinh văn viết chữ chúc lại cũng viết chữ chúc là chẳng phải.

*******

LONG THỌ BỒ TÁT TRUYỆN

Huệ Lâm soạn.

Sính tình ngược lại âm trừu lãnh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngựa chạy nhanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngựa chạy thẳng, chữ viết từ bộ mã thanh sính âm sính ngược lại âm sở đinh.

Truy thù ngược lại âm trên tử sư ngược lại âm dưới thụ chu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tám lạng là một truy Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Mười hai túc mà nặng một phần mười hai phân là một thù sách Thuyết Văn cho rằng: Một truy là sáu thù, thù chia ra bằng phần mười của thứ sáu trọng nặng, truy thù là số nhỏ nhất hai chữ đều từ bộ kim đều thanh truy chu âm truy đồng với âm trên.

Thiền thuế ngược lại âm trên thời diên ngược lại âm dưới là thuế sách Thuyết Văn cho rằng: Thiền là loài rắn lột da chữ viết từ bộ trùng đến thanh thiền thuế.

*******

ĐẠI A LA HÁN NAN ĐỀ MẬT ĐA LA SỞ THUYẾT PHÁP TRỤ KÝ

Huệ Lâm soạn.

Đam-một-la-châu ngược lại âm trên đảm lam tiếng Phạm kinh văn viết từ bộ cụ viết thành chữ đam là sai.

Trụ lại tốt lợi dương cụ châu âm dương ngược lại âm dương tượng tiếng Phạm.

Tốt-đổ-ba ngược lại âm trên tô một tiếng Phạm.

Phụ phụ ngược lại âm trên đô hồ theo Thanh Loại cho rằng: Đống đất nhỏ sách Thuyết Văn cho rằng: Mô đất nhỏ chữ tượng hình, ngược lại âm dưới phò cửu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đường lớn gọi là phụ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Phụ là đất dày, dài sách Thuyết Văn cho rằng: Đường lớn, không có núi đá, chữ tượng hình, kinh văn viết từ bộ thổ viết thành chữ truy phụ tục dùng chữ thông dụng.

Vấn nậu ngược lại âm trên vẫn quân theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cái cuốc trừ cỏ gọi là nậu sách Thuyết Văn cho rằng: Trừ cỏ dơ mọc trong mạ, chữ viết từ bộ lỗi thanh vẫn hoặc là viết chữ vân ngược lại âm dưới nô đậu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nậu là cái cuốc, cuốc đất cày ruộng, sách Thuyết Văn cho rằng: Dụng cụ trừ cỏ chữ viết từ bộ lỗi thanh nhục âm liễu là âm liễu âm hao là âm cao âm lỗi ngược lại âm lô đội.

Nhương ba ngược lại âm phổ ba bông hoa chữ viết từ bộ bạch thanh ba lại cũng viết chữ ba.

PHÂN BIỆT NGHIỆP BÁO LƯỢC TẠP

Huyền Ứng soạn.

Thuyên pháp ngược lại âm thư tuyền thuyên là sửa đổi sách Phương Ngôn cho rằng: Từ miền núi mà đến miền đông gọi sửa đổi lỗi lầm, hối lỗi là thuyên Quảng Nhã cho rằng: Thuyên là thay đổi.

Phạm ngỗ lại viết chữ ngỗ ngộ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm ngũ cố Lại Thanh loại nói rằng: Ngổ nghịch ngang bướng, không nghe theo.

Thư nghị ngược lại âm tử dư loài côn trùng như con dế, con rít con giòi đều là một tên, gọi là thư cự.

Ngu tráng ngược lại âm đô giáng sách Thuyết Văn cho rằng: Ngu si … nóng nảy ngu si.

Lung quý văn cổ viết chữ quý hai chữ tượng hình. Nay viết chữ quý lại viết chữ lê cũng đồng, ngược lại âm ngưu khoái gọi là mưu sinh ra ngớ ngẩn tai không nghe gọi là quý lung là không hiểu biết, cũng gọi là quý tức thất thần.

Cung kính ngược lại âm cư hùng hình phạt dâm kế đó là chết. Nam nữ không lấy nghĩa mà giao cấu với nhau, hình phạt gọi là hình cung gọi là hình phạt cắt bỏ nam căn, người nam cắt bỏ nam căn, người phụ nữ nhốt trong cung tối đóng cửa ở thâm cung, âm dưới ngược lại âm dưới là chân kinh gọi là phạt tội, nói khác là dùng hình pháp, tĩnh vi hành pháp, sách Xuân thu Nguyên Mang Bao nói rằng: Chữ hình từ bộ đao đến bộ tĩnh tĩnh là nơi người ta lấy nước để uống, mọi người đều tranh nhau lấy nước để uống, đến nơi giếng nước, suối chảy thủ con dao cắt bỏ nam căn của người biếng nhác lười mà lại ham muốn dục tình nên sợ sệt, thận trọng cả toàn thân mạng cho nên chữ từ bộ đao đến bộ tĩnh.

Yểm thân ngược lại âm ư kiểm sách Thuyết Văn nói yểm là cửa đóng trong cung chiều tối mà đóng cửa lại, gọi là đóng tinh khí che giấu bên trong, người chủ đóng cửa cho nên gọi là yểm.

*******

BÀ TẨU BÀN ĐẬU TRUYỆN

Huyền Ứng soạn.

Phất bà chữ lại viết chữ phế cũng đồng, ngược lại âm bổ vật dịch là đứa con nương dựa vào, chữ phất là cứu giúp viện trợ.

Tuyển minh ngược lại âm trợ luyến tuyển giống như là thuật

Quảng Nhã cho rằng: Tuyển là định, ngược lại âm dưới là mạc hạ minh là nói cái tên, theo sách Công Ích nói nơi thông thường là chỗ khắc chạm điêu khắc trong đá, kim loại để ghi công đức làm kỷ niệm.

Bì mậu ngược lại âm thất tỳ sách Lễ Ký cho rằng: Lầm lẫn một vật, Trịnh Huyền cho rằng: Bì giống như sai lầm, ngược lại âm dưới phi ấu mậu giống như loạn, mậu là sai lầm, sách Phương Ngôn cho rằng: Mậu là giả dối, sách Thuyết Văn cho rằng: Điên cuồng, người điên nói lời không thật, chữ viết từ bộ ngôn thanh mậu.

Đại lam ngược lại âm lực cam thuộc cái sọt, cái giỏ tre, Tự Lâm cho rằng: Cái sọt tre lớn, lấy nan tre làm cái lồng, sách Toán Văn cho văn cho rằng: Cái sọt lớn đan bằng tre.

Tất kha ngược lại âm bổ miệt Tất-khả-ma-la-a-duệđa đây dịch là chánh cần.

*******

LONG THỌ VI THIỀN ĐÀ CA VƯƠNG THUYẾT PHÁP YẾU KỆ

Huyền Ứng soạn.

Âu-ca lại viết chữ âu hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm ô hầu sách Thuyết Văn cho rằng: Cùng ca hát với nhau gọi là âu Quảng Nhã cho rằng: Âu là ca hát vui vẻ.

Ẩm hàm văn cổ viết chữ hàm cũng đồng, ngược lại âm hồ cam sách Hán Thư, Ứng Thiệu cho rằng: Không say không tỉnh, gọi là hàm lại uống rượu vui vẻ, vui chén gọi là hàm.

Tra xế văn cổ viết chữ tra ngược lại âm trắc da sách Phương Ngôn cho rằng: Tra là giữ lấy, theo Thanh Loại cho rằng: Dùng năm ngón tay bắt lấy hợp lấy.

Di mật lại viết chữ dị dĩ hai chữ tượng hình cũng đồng, ngược lại âm dực chi sách Thuyết Văn nói rằng: Lấy mầm của hạt lúa làm mạch nha, sách Phương Ngôn cho rằng: Di cũng là đường, âm dương ngược lại âm tợ dinh.

Tuần tuần ngược lại âm tợ quân Quảng Nhã cho rằng: Tuần là quấy nhiễu, cũng gọi là ngựa hay, cũng gọi là thuận theo thuần, ngoan, sách Thuyết Văn cho rằng: Gọi là con thú ngoài dã nuôi dưỡng huấn luyện cho được thuần thục gọi là tuần.

Lưu ánh ngược lại âm lực chu sách Thuyết Văn cho rằng: Lưu là sưng lên gọi là sưng kết lại một cục không tiêu tan ra được, đó gọi là lưu, theo Thanh Loại cho rằng: Lưu là bệnh bướu cổ.

LONG THỌ BỒ TÁT KHUYẾN GIỚI VƯƠNG TỤNG

Huệ Lâm soạn.

Táo động ngược lại âm trên tao đáo Cố Dã Vương cho rằng: Táo cũng giống như động Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Táo là khuấy nhiễu Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Không an định, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ túc thanh táo âm táo đồng với âm trên, kinh văn viết từ bộ tâm viết thành chữ tháo âm thảo đó là chẳng phải.

Thảm độc ngược lại âm trắc cẩn sách Khảo Thanh cho rằng: Rất độc hại, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm thiên cảm giải thích nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ tâm thanh thảm kinh văn viết từ bộ ngọc viết thành chữ thảm là chẳng phải.

Hao đệ ngược lại âm trên hao cao sách Khảo Thanh cho rằng: Khóc lớn khóc rống lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Kêu gọi, chữ viết từ bộ hiệu thanh hổ kinh văn từ bộ khẩu viết thành chữ hao là chẳng phải, ngược lại âm dưới đệ nê sách Văn Tự Tập Lược nói rằng: Khóc mà không có nước mắt, sách Thuyết Văn cho rằng: La lớn chữ viết từ bộ khẩu thanh đệ âm đệ đồng với âm trên, trong văn tụng viết từ bộ đế viết thành chữ đề tục dùng cũng thông dụng.

Thãng ôi ngược lại âm trên đảng lãng sách Khảo Thanh cho rằng: Trong than có ngọn lửa nhỏ, than nhỏ nằm trong tro, ngược lại âm dưới đô hồi Quảng Nhã cho rằng: Ôi là ấm áp, sách Thuyết Văn nói lửa trong chậu sành, hai chữ đều từ bộ hỏa đều thanh thảng ôi.

Sàng trách ngược lại âm dưới tranh cách Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trách gọi là cái giường, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trách là giường gỗ ván, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái giường trọ, chữ viết từ bộ trúc thanh trách trong văn tụng từ bộ mộc đến bộ thử viết thành chữ thử là sai lầm. Nếu như dựa theo chữ mà giải thích thì rất là chẳng phải ý kinh cho nên không lấy nghĩa này.

Trác tâm ngược lại âm đinh giác Quảng Nhã cho rằng: Trác là cắn, sách Khảo Thanh cho rằng: Chim mổ ăn, chữ viết từ bộ khẩu thanh trĩ âm thỉ ngược lại âm sửu túc trong Văn Tụng viết từ chữ trác viết thành chữ trác là chẳng phải.

Bá sóc ngược lại âm dưới sơn trác Quảng Nhã cho rằng: Sóc là câu mâu, Bì Thương cho rằng: Cây mâu dài một trượng tám, kinh văn viết chữ là tên của cây.

Tương kháp ngược lại âm khẩu hạp Bì Thương cho rằng: Kháp là móng vuốt, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Móng vuốt, dùng móng tay bấm, ngắt, gảy, cào, chữ viết từ bộ thủ thanh kháp âm kháp ngược lại âm thổ cao.

Trác đảnh ngược lại âm đinh giác trong Văn Tụng viết từ bộ đăng viết thành (805) chữ đặng tục dùng cũng thông dụng.

*******

TÂN ĐẦU LÔ VỊ VƯƠNG THUYẾT PHÁP KINH

Huyền Ứng soạn.

Huỳnh lạc ngược lại âm vi minh huỳnh giống như ánh sáng đèn hoa, đèn lồng, kinh văn viết chữ huỳnh là chẳng phải.

*******

THỈNH TÂN ĐẦU LÔ PHÁP

Huệ Lâm soạn.

Cù lũ ngược lại âm trên cụ ngu ngược lại âm dưới sắc thiên trước đã giải thích rồi đây không giải thích trùng lập, kinh văn viết chữ từ chữ sưu viết thành chữ lũ là chẳng phải.

Giai ủy ngược lại âm trên ủy vi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Không có cỏ nào mà không chết, không có cây nào mà không héo úa, theo truyện nói rằng: Cây cỏ đều có lá chết, Thiên Thương Hoét nói rằng: Bệnh suy nhược, Văn thông dụng cho rằng: Bệnh ốm gầy tiều tụy xấu đi héo úa, theo Thanh Loại cho rằng: Cỏ héo chữ hình thanh âm ứ là âm ư.

Bị tẫn ngược lại âm tân ấn sách Khảo Thanh cho rằng: Tẫn là bỏ chữ viết từ bộ thủ kinh văn viết từ bộ nhân viết thành chữ tẫn là chẳng phải ý kinh.

*******

ĐỀ BÀ BỒ TÁT TRUYỆN

Huệ Lâm soạn.

Thù tạc văn truyện viết chữ thù tạc chẳng phải đúng chữ trên âm thù là âm thù âm tạc là âm tạc Mao Thi Truyện chú giải rằng: Thù là khuyến khích, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Báo thù, theo Văn Tự giải thích rằng: Lấy lời nói mà đối đáp với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Khách chủ rót rượu mời là lễ mà thành, hoặc là viết chữ thù sách Tập Huấn nói rằng: Lấy lời nói mà đáp, Văn Truyện Tự Thư viết chữ thù tạc là dùng sai, chẳng phải. Theo chữ thù tạc đó là Đề-bà Bồ-tát lấy chánh lý thù đối với ngoại đạo. Người xưa có nói rằng: Không đạo thì không biết, không tạc tức là không tán cho nên người dịch kinh có viết chữ thù tạc Văn nói cho rằng: Chữ chẳng phải chánh thể, nay dựa theo xưa nay Địch Văn Triện lấy chữ này chánh thể.

Phủ hung ngược lại âm trên phù vũ Cố Dã Vương cho rằng: Phủ giống như là phủi vỗ, Quảng Nhã cho rằng: Đánh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh phó ngược lại âm dưới vu ung sách Thuyết Văn cho rằng: Hung là ngực, chữ viết từ bộ bao thanh hung hoặc là viết chữ hung.

Khấu địa ngược lại âm khẩu hầu sách Khảo Thanh cho rằng: Đầu sát đất, kinh văn viết chữ khấu là dùng chữ sai.

*******

CA ĐINH THUYẾT ĐƯƠNG LAI BIẾN KINH

Huệ Lâm soạn.

Hề luyến ngược lại âm trên hề khải Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hề là chờ đợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là đợi chờ, chữ viết từ bộ xước thanh hề hoặc là viết chữ hệ.

Để mạo ngược lại âm kỳ lễ Thiên Thương Hoét ghi rằng: Để là khinh khi, mắng nhiếc, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh để kinh văn viết từ bộ cập viết thành chữ cập là chẳng phải.

Bã khiển ngược lại âm trên ba ngã Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bã là chân đi không ngay, sách Khảo Thanh cho rằng: Khiển chân tức là thọt chân, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh bì ngược lại âm dưới yết yển sách Thuyết Văn cho rằng: Què chân, chữ viết từ bộ túc đến bộ hàn viết thành chữ khiển thanh tĩnh kinh văn viết từ bộ mã viết thành chữ khiên là chẳng phải.

*******

THẮNG TÔNG THẬP CÚ NGHĨA LUẬN

Huệ Lâm soạn.

Phiêu xí âm trên phiêu diêu văn trước chú giải kinh cú đã giải thích đầy đủ rồi, ngược lại âm dưới là xương chí Quảng Nhã cho rằng: Xí là cái phan, sách Khảo Thanh cho rằng: Xí là cái phướn có ghi viết chữ dùng vải lụa trắng dài năm thước rộng nửa bức kết nối lại nơi cờ trên, trên là cờ dưới là phan, phướn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân thanh thức âm thức là âm chức.

*******

KIM THẤT THẬP LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Huệ Lâm soạn.

Ngạn sĩ ngược lại âm trì nhĩ sách Khảo Thanh nói rằng: Sĩ là lột bỏ, rơi rụng, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh sĩ âm sĩ là âm kỳ.

--------------------------------------

QUYỂN TRUNG

Đằng nhiễu ngược lại âm trên đặng năng loại cỏ dây leo chằng chịt, chữ viết từ bộ thảo đến bộ thắng.

Da-phù-bì-đà âm phụ ngược lại âm thù chú tiếng Phạm, tên của Luận Sư.

Huân tập ngược lại âm trên vu quân sách Khảo Thanh cho rằng: Gió thổi đến. Lại nữa tập là đi lâu rồi, không phải như vậy sao? Sách Thuyết Văn viết từ bộ triệt đến bộ hắc kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ huân là loại cỏ thơm, cùng với nghĩa kinh khác lạ, âm triệt ngược lại âm sửu liệt.

--------------------------------------

QUYỂN HẠ

Nghị tháp ngược lại âm sơ hạp theo Thanh Loại cho rằng: Khiến cho người ta đâm vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là cắm thẳng vào bên trong, chữ viết từ bộ thủ thanh sáp âm tháp đồng với âm trên.

Tiên thiệt ngược lại âm tiên diệp Cố Dã Vương cho rằng: Thiệt là đếm, sách Chu Dịch cho rằng: Thiệt là dùng tay đếm vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Xem xét duyệt lại, nắm giữ trong tay, chữ viết từ bộ thủ thanh diệp âm diệp là âm điệp.

Như tản ngược lại âm tư lãn Cố Dã Vương cho rằng: Tản tức là cây dù che. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mịch thanh tán âm lãn ngược lại âm lan thả.

Phiên dịch kinh Sa-môn-Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 77

- Âm Thích-ca Phổ mười quyển.

- Thích-ca Lược Phổ một quyển.

- Cựu Mục một quyển.

- Thích-ca Phương Chí hai quyển.

- Thích Thị Hệ Lục một quyển.

- Đại Chu Kinh Mục mười lăm quyển.

Trên là năm tập lục ba mươi mốt quyển đồng âm quyển này.

THÍCH CA PHỔ

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 1

Trừ cung âm trên là trừ phò vua tức nay người ta gọi là thái tử, chỗ ở cũng gọi là xuân cung.

Suyển bác âm trên xuyên nhuyễn Cố Dã Vương cho rằng: So le không đồng đều, sách Thuyết Văn nói: Chống chọi lại với nhau chữ viết từ bộ tịch bộ khoa gọi là chống trái với nhau, ngược lại âm dưới bang mạc Hán Thư cho rằng: Trắng đen lẫn lộn xen tạp với nhau, sách Văn nói: Màu sắc không thuần, chữ viết từ bộ mã thanh bác âm truy ngược lại âm tri kỹ âm khoa là âm khoa Phổ Văn lại viết chữ bác tục dùng cũng thông dụng.

Bác tấn ngược lại âm trên bổ mạc chữ bác từ chữ thập đến bộ bổ đến bộ thốn âm dưới là tín theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tấn là hỏi thăm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh tấn Văn Phổ viết chữ túy là sai, âm tấn đồng với âm trên.

Đoàn thực ngược lại âm trên đoạn loan ban đầu ngồi đất mà ăn chưa có muỗng đũa mà ăn nên dùng tay vắt cơm mà ăn, cho nên gọi là đoàn thực, tức bốc cơm dùng tay vắt cơm ăn chữ viết từ bộ thủ thanh duyên trong văn viết chữ sủy là chẳng phải.

Bạc bĩnh ngược lại âm tinh dĩnh xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bánh nướng, chữ viết từ bộ thực thanh tinh Văn Phổ viết chữ bĩnh tục dùng cũng thông dụng, âm tư là âm từ.

Hình tiếu ngược lại âm lôi diệu theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tiếu là cười chế nhạo khinh nhờn, Cố Dã Vương cho rằng: Là chỗ cười khinh khi keo kiệt bỏn xẻn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cười là vui vẻ, chữ viết từ bộ trúc thanh yêu Văn Phổ viết chữ tiếu tục dùng cũng thông dụng.

Khang quái âm trên đúng là chữ khang chữ viết từ bộ hòa thanh khang chữ khang sách Thuyết Văn viết từ bộ mễ thanh khang ngược lại âm dưới công ngoại Thiên Thương Hoét cho rằng: Quái là vỏ thô bên ngoài, sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh hội.

Ý-ma ngược lại âm trên Y-mỹ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ý là tốt đẹp sách Thuyết Văn cho rằng: Truyền lại sự tốt đẹp lâu dài, chữ viết từ bộ nhất thanh tử Văn Phổ viết chữ ý tục tự dùng cũng thông dụng.

Hiên cao ngược lại âm hiển ngôn ngược lại âm dưới hào lão trong Văn Đế Mịch Phổ nói rằng: Hiên là càng xe lớn, gồm hai bên càng xe, gọi là xe của vua đi, cao là hiếm ít đều từ xưa danh hiệu dùng chỉ cho vua, đế vương, cao sang.

Đại xuân ngược lại âm truất luân xưa nay Chánh Tự cho rằng: Theo sách Trang Tử thì thời thượng cổ có cây đại xuân, tám ngàn năm là một mùa xuân, tám ngàn năm là một mùa thu, cũng gọi là linh xuân, kinh điển giải thích văn này: Cây mọc ở Giang Nam là ba vạn hai ngàn năm là một năm tức là một mùa xuân.

Tẫn nghịch ngược lại âm trên tân nhẫn âm dưới là xích văn trước trong Tạp Sự Luật đã giải thích rồi.

Tẫn truất ngược lại âm xuân luật sách Phạm Ninh Tập chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Truất là thối lui, sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh xuất.

Khuy du ngược lại âm trên khổ qui ngược lại âm dưới canh chu sách Thuyết Văn nói khuy là nhìn trộm, chữ viết từ bộ môn thanh quy sách Khảo Thanh cho rằng: Du cũng là trộm nhìn, chữ viết từ bộ môn thanh du.

Thuấn động ngược lại âm trên thi nhuận sách Thuyết Văn cho rằng: Mở mắt nhắm lại nhiều lần, dao động tức là nháy mắt, chữ viết từ bộ mục đến bộ thuấn sách Thuyết Văn viết đúng chữ thuấn cũng viết chữ thân.

Uyển chuyển ngược lại âm trên ư viễn sách Thuyết Văn cho rằng: Nằm uyển chuyển, chữ viết từ bộ tịch gọi là nằm có những khớp xương co duỗi cho nên chữ viết từ bộ tiết văn phổ viết chữ uyển là than thở oán trách, chữ uyển là chẳng phải, âm tiết là âm tiết.

Nhị xá ngược lại âm trên ni lợi âm dưới trạch da âm trạch ngược lại âm như ách.

Bác thọ quốc ngược lại âm trên bổ mạt tên nước.

Thô quảng ngược lại âm quắc mảnh sách Khảo Thanh cho rằng: Con chó hung hãn ngang ngược không thể tới gần được, Văn Phổ viết từ bộ mạch viết thành chữ quảng là lúa mì thô cứng, chẳng phải nghĩa chữ hung quảng.

Hội náo ngược lại âm trên hoài ngoại Thiên Thương Hoét cho rằng: Hội là loạn, hôn mê, mơ hồ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh quý cũng là âm hồi ngoại âm dưới viết đúng là chữ náo ngược lại âm kiêu giáo đã giải thích rồi, Văn Phổ viết chữ náo tục tự dùng cũng thông dụng.

Phỉ thúy ngược lại âm trên phi vị ngược lại âm dưới thất túy Tự Thống cho rằng: Loại chim sẻ lông xanh xuất phát từ trong rừng Uất Lâm, sách Di Vật Chí nói rằng: Chim phỉ thúy làm tổ trên cây cao, ngã xuống đất bảy tám lần, người Di-hồ mới gom vụn vặt chôn dưới bảy tám thước đợi chim con nở mới thành chim phỉ thúy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chim phỉ lông màu đỏ, hai chữ đều bộ vũ đều thanh phi tốt.

Phù ê ngược lại âm trên bổ vô theo Mao Thi Truyện nói rằng: Phù là loài thủy điểu, Cố Dã Vương cho rằng: Tức là loài chim le le, sách Thuyết Văn cho rằng: Chim thư phù ê, tức là loài chim hải âu sống từng bầy, từng bầy chữ viết từ bộ điểu đến bộ phù phù cũng là thanh, ngược lại âm dưới ích hề theo Mao Thi Truyện chú thích: Ê cũng thuộc loại chim le le, sách Thuyết Văn chú giải: Viết từ bộ điểu thanh y âm phù là âm thù âm ê ngược lại âm ô kế.

Mao liệp âm trên là mao Quảng Nhã cho rằng: Mao là người tuấn tú xuất sắc vượt trội, sách Thuyết Văn cho rằng: Mao là tóc dài, chữ viết từ bộ tiêu thanh mao ngược lại âm dưới liêm triếp Đỗ Dự chú giải Tả truyện rằng: Liệp là râu Cố Dã Vương cho rằng: Liệp đó là bờm ngựa trên đảnh có lông dài, sách Thuyết Văn chú giải: Râu tóc, chữ viết từ bộ tiêu thanh liệp âm tiêu ngược lại âm tất diêu âm liệp đồng với âm trên, văn cổ viết chữ liệp là chẳng phải.

Hư hân ngược lại âm trên hứa ư Cố Dã Vương cho rằng: Hư là xuất hơi ra, gọi là sụt sùi, nghẹn ngào, ngược lại âm dưới hư ân Quảng Nhã cho rằng: Hân là vui mừng, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ khảm đều thanh hư cân.

Khướt thuyên âm trên đúng là chữ khướt từ bộ nhục đến bộ cốc đến bộ tiết ngược lại âm dưới là duyên nhuyễn sách Thuyết Văn cho rằng: Thuyên là bắp chân, chữ viết từ bộ nhục thanh đoan âm đoan (806) là âm đoan.

Nhãn tiệp ngược lại âm tiêm diệp sách Thuyết Văn cho rằng: Lông mi mí mắt, chữ viết từ bộ mục thanh tiệp Văn Phổ viết chữ tiếp hoặc là viết chữ hiệp tục tự dùng đều thông dụng, âm tiệp là âm tiệp sách Thuyết Văn viết chữ hiệp.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 2

Hoán trạc ngược lại âm trên hằng oán Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Trạc là tẩy rửa tơ cho trắng. Lại cũng gọi là tẩy rửa bỏ đi cái cũ, cấu dơ gọi là hoán xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh oán cũng viết chữ hoán Văn Phổ viết chữ hoán tục tự dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới đồng giác Mao Thi Truyện cho rằng: Trạc cũng là tẩy rửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩy rửa, chữ viết từ bộ thủy thanh diệu.

Điệt đại ngược lại âm trên là điền kiết Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Điệt là đổi thay, sách Phương Ngôn cho rằng: Điệt cũng là thay thế cũng là, sách Thuyết Văn cho rằng: Lại cũng gọi là điệt chữ viết từ bộ xước thanh thất âm trật ngược lại âm tha kế.

Úy ảnh âm trên là ủy Quảng Nhã cho rằng: Úy là ngăn che, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh úy.

Sàng tháp ngược lại âm trên trạng trang chữ chánh thể, ngược lại âm dưới tham lạp Thích Danh cho rằng: Cái giường hẹp mà dài đó gọi là tháp xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tháp là cái giường bằng phẳng, chữ viết từ bộ mộc thanh tháp âm tháp đồng với âm trên.

Thiêu tượng ngược lại âm trên thiếu liễu theo Thanh Loại cho rằng: Thiêu bới móc ra, nhặt ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh khiêu âm quyết ngược lại âm uyên duyệt.

Hân hách ngược lại âm trên hỷ cân sách Thuyết Văn cho rằng: Hân là tảng sáng, rạng sáng, mặt trời vừa mới mọc, chữ viết từ bộ nhật thanh cân.

Hôn sính ngược lại âm thất tinh Cố Dã Vương cho rằng: Sính là hỏi vợ, cưới vợ và làm lễ hiền đạt, nộp lễ vật làm sính lễ, gọi là sính sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh sính âm sính ngược lại âm thất đinh.

Tằng huyễn ngược lại âm huyền quyến sách Thuyết Văn cho rằng: Huyễn là con mắt dao động, chữ viết từ bộ mục thanh huyễn âm huyễn đồng với âm trên.

Trư trĩ ngược lại âm trên chữ trư gọi là đánh bạc, vui chơi trò đánh bạc.

Thủ nại ngược lại âm nan đát Tự Lâm cho rằng: Nại là đè xuống dìm xuống, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nắn, nặn tượng, nắm cầm vo tròn, chữ viết từ bộ thủ thanh nại âm niết ngược lại âm niên kiết.

Phanh cung ngược lại âm trên phổ canh sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh giương dây cung bắn, cũng gọi là đàn, đánh đàn, chữ viết từ bộ thủ thanh phanh hoặc là viết chữ phanh.

Tiên ưu ngược lại âm trên tiết yên Văn Phổ viết chữ tiên tục tự dùng cũng thông dụng.

Ủy hoàng âm trên là ủy Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ủy là bệnh, Thiên Thương Hoét cho rằng: Bệnh không thể đi được, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh tê liệt, chữ viết từ bộ tật thanh ủy.

Thân thích ngược lại âm thanh diệc Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thích là gần gũi, Cố Dã Vương cho rằng: Gần gũi cho nên gọi là thân sách Thuyết Văn viết từ bộ tuất đến bộ thúc Văn Phổ viết chữ thích là chẳng phải, văn dưới là thảm cảm chữ cũng đồng.

Tần xúc ngược lại âm trên tất tân ngược lại âm dưới tửu dục Cố Dã Vương cho rằng: Tần xúc là lo buồn không vui, sách Thuyết Văn nói lội qua nước, chữ viết từ bộ tần thanh ty Văn Phổ viết chữ tần là cười chế nhạo tục dùng cũng thông dụng.

Lưu diên ngược lại âm dưới tiện diên sách Khảo Thanh cho rằng: Nước dãi trong miệng, chữ viết từ bộ khiếm đến bộ thủy cũng viết chữ diên hoặc là viết chữ bão Văn Phổ viết chữ diên tục tự dùng cũng thông dụng. Tâm phế ngược lại âm phù phế Bạch Hổ Thông cho rằng: Phế cũng nói phí trong phủ tạng thuộc kim màu trắng. Tự Thư cho rằng: Nói tạng hỏa nay thuộc tạng kim, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh phế âm phế là âm bối.

Tỳ thận ngược lại âm trên tỳ di Bạch Hổ Thông cho rằng: Tỳ là nói biện luận chỗ gọi là tích chứa, dịch là bẩm khí, tinh của thổ, màu sắc vàng, sách Thuyết Văn nói thuộc tạng thổ, chữ viết từ bộ nhục thanh ty ngược lại âm dưới thần nhẫn Bạch Hổ Thông cho rằng: Thận là nói tân Quảng Nhã cho rằng: Chất cứng tinh của thủy thuộc hắc âm ngẩu cho nên sách Thuyết Văn nói: Tạng thủy chữ viết từ bộ nhục thanh kiên âm kiên là âm kiên.

Phún minh ngược lại âm trên phổ muộn sách Thuyết Văn cho rằng: La hét lại cũng gọi là hắc hơi, chữ viết từ bộ khẩu thanh phún âm sá ngược lại âm đô giá.

Tao động ngược lại âm trên tảo di Cố Dã Vương nói rằng: Tao động là nhốn nháo, động loạn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Quấy nhiễu chữ viết từ bộ mã đến thanh tao.

Mậu dịch ngược lại âm trên man hậu Cố Dã Vương cho rằng: Mậu giống như trao đổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Trao đổi, hàng hóa chữ viết từ bộ bối thanh uyển âm uyển là âm uyển.

Hư hy ngược lại âm trên hy cư Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hư là tiếng than thở, âm bị là âm bại Cố Dã Vương cho rằng: Xuất hơi ra gọi là hà hơi, kinh văn gọi là từ biểu thị, ngăn cản, ngược lại âm dưới hứa ký nói hy là tiếng than đau khổ đau buồn mà không khóc gọi là hy sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ khẩu đều thanh hư hy.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 3

Ngật nhiên âm trên ngân ngật sách Khảo Thanh cho rằng: Dáng người lực lưỡng mà lại ngu si, không hiểu trước sau, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh khất âm chất ngược lại âm chân lật Văn Phổ viết chữ ngật là sai.

Đạo kính ngược lại âm kinh định sách Khảo Thanh cho rằng: Đi bộ bên đường cao dốc, Cố Dã Vương cho rằng: Con đường nhỏ, không có quanh co mà là đại lộ lớn, khúc khủy ngoằn ngoèo mà đi, cũng gọi là đường kính nhỏ hẹp, Quảng Nhã cho rằng: Đường xuyên rẽ ngã khác, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh kinh âm kinh cũng là âm kinh.

Uyển chuyển ngược lại âm trên miễn viển trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi Văn Phổ viết chữ uyển là chẳng phải nghĩa chữ uyển chuyển.

Bi tê ngược lại âm tiên hề sách Phương Ngôn cho rằng: Tê là mắc nghẹn, Quách Phác chú giải rằng: Đau cổ họng Thiên Thương Hoét ghi giọng khàm khàn, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn viết thành chữ tê gọi là tiếng đau khổ, chữ viết từ bộ ngôn thanh tê.

Khuyến tương ngược lại âm tương lượng sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tần Tấn, khuyến khích với nhau gọi là tương xưa nát Chánh Tự cho rằng: Khích lệ cố gắng lên, chữ viết từ bộ cũng đến thanh tương âm cũng ngược lại âm cung lũng.

Ngung ngung ngược lại âm ngu cung sách Hoài Nam Tử nói rằng: Quần sanh đều hướng ứng hòa theo đức lớn của thánh nhân, sách Thuyết Văn cho rằng: Chúng đông cùng hòa theo âm thanh trên, chữ viết từ bộ khẩu thanh ngung.

Quyến tác ngược lại âm trên quyên luyến Thiên Thương Hoét cho rằng: Quyến là lưới giăng, Quảng Nhã cho rằng: Giăng lưới bên đường, theo Thanh Loại cho rằng: Dùng dây buộc chặt giữ lấy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ võng thanh viên âm lưu ngược lại âm xương dùng âm phù ngược lại âm phò lưu Văn Phổ viết chữ quyến là chẳng phải.

Huynh minh ngược lại âm trên ách kinh ngược lại âm dưới mạch canh sách Khảo Thanh cho rằng: Huynh minh là dáng người của Hạ Lý phu nhân xinh đẹp. Minh cũng là dáng người nhỏ nhắn, sách Thuyết Văn cho rằng:

Huynh là tâm nhỏ hẹp, chữ viết từ bộ nữ thanh huỳnh thanh tĩnh minh từ bộ nữ thanh minh.

Ban mục ngược lại âm trên phan man Tự Thư cho rằng: Ban là con mắt xinh đẹp, Mao Thi Truyện cho rằng: Con mắt tròng đen, trắng rõ ràng. Xưa nay Chánh tự viết từ bộ mục thanh phân Văn Phổ viết chữ hề âm hề ngược lại âm hứa ất chẳng phải nghĩa kinh.

Dũng sanh ngược lại âm trên dư dũng sách Thuyết Văn cho rằng: Dũng là loài côn trùng con nằm trong kén, chữ viết từ bộ trùng thanh dũng âm dũng đồng với âm trên.

Tích lịch ngược lại âm trên cung mịch ngược lại âm dưới linh đích sách Sử Ký cho rằng: Tích lịch đó là khí dương động phát ra tiếng nổ gọi là sấm sét, sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ đều thanh tích lịch Văn Phổ viết chữ tích lịch tục tự đều dùng thông dụng.

Vãn cung âm trên là vãn sách Khảo Thanh cho rằng: Giương dây cung kéo dây cung. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh vãn viết đúng là chữ vãn Văn Phổ viết chữ vãn là sai.

Kỳ thốc ngược lại âm tông lộc Quảng Nhã cho rằng: Thốc là đầu mũi tên nhọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Mũi tên cắm thẳng vào, chữ viết từ bộ kim thanh tộc.

Lão mẫu ngược lại âm trên mẫu hậu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Người đàn bà năm mươi tuổi mà không con xuất đi ra mà lại không lấy chồng, mà có thể làm thầy dạy đạo cho người đó cũng gọi là sư nữ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nữ thanh mẫu.

Hổ tự ngược lại âm tư tử kinh Sơn Hải nói rằng: Tự là con thú nằm trong ao hồ, hình trạng nó giống như con trâu, màu xanh đen, Quách Phác cho rằng: Chí có một cái sừng, màu sắc xanh, nặng cả ngàn cân, sách Thuyết Văn nói: Chữ tượng hình, Văn Phổ viết chữ tự tục tự dùng cũng thông.

Hống hách ngược lại âm trên hồ khẩu Giả Quỳ chú giải: Hống là kêu gọi, theo Thanh Loại cho rằng: Tiếng rống. Xưa nay Chánh Tự viết từ bôn ngưu thanh khẩu cũng viết chữ câu hoặc là viết chữ câu Văn Phổ viết chữ hống tục tự dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới hách á Trịnh tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Dùng cái miệng chẳng phải người để dọa nạt gọi là hách Bì Thương cho rằng: Hống hách là giận dữ dọa nạt, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khẩu thanh hách.

Điềm đạm ngược lại âm trên diệp hiềm sách Phương Ngôn cho rằng: Điềm tĩnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm đến bộ điềm thanh tĩnh ngược lại âm dưới đàm cảm cũng là âm đàm sách Thuyết Văn nói đạm là an, chữ viết từ bộ tâm thanh đảm.

Hao hồ ngược lại âm trên hồ giao sách Thuyết Văn nói rằng: Con heo giựt mình kinh sợ tiếng kêu khàn khàn, chữ viết từ bộ khẩu thanh hiếu cũng viết chữ hao ngược lại âm dưới hổ cô.

Ức hài ngược lại âm cải ai sách Khảo Thanh cho rằng: Hài là to lớn, danh số, chữ viết từ bộ nữ thanh hài.

Thời nhương ngược lại âm hoại dương sách Khảo Thanh cho rằng: Được chống cự, đẩy ra ngoài, ngăn cản trừ bỏ, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Đẩy ra, chữ viết từ bộ thủ thanh nhương.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 4

Kỳ hành âm trên là kỳ sách Khảo Thanh âm kỳ xưa nay Chánh Tự cho rằng: Loài côn trùng bò đi, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh kỳ.

Tài nghiệt ngược lại âm ngạn hạt Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cây sau khi đốn ngã rồi mà lại sinh mầm gọi là nghiệt, Quách Phác chú giải sách Nhĩ rằng: Nghiệt là cây chặt còn dư lại nên mọc mầm, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh nghiệt cũng viết chữ nghiệt Văn Phổ viết chữ nghiệt là chẳng phải.

Sản chính ngược lại âm trên sơ tàn Quảng Nhã cho rằng: Đất nhổ sạch cỏ gọi là sản sách Thuyết Văn cho rằng: Sản là cái xẻng. Lại cũng gọi là san bằng, chữ viết từ bộ kim thanh sản Văn Phổ viết chữ sảm là sai, âm diệp là âm tập âm tiêm ngược lại âm tiếp diêm ngược lại âm dưới chinh diệc.

Tiều thán ngược lại âm tĩnh tiêu Quảng Nhã cho rằng: Tiều là than đen, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ gọi là thiêu đốt, từ bộ hỏa thanh tiêu hoặc là viết chữ tiều âm tiêu ngược lại âm tài giáp.

Át-na-sơn ngược lại âm an hạt tên của nước Tây Vực.

Chiêm chúc ngược lại âm chi dục sách Vận Lược cho rằng: Chúc là nhìn chăm chú, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhìn rất chăm chú, nhiều con mắt nhìn chăm vào, chữ viết từ bộ mục thanh chúc âm chúc đồng với âm trên.

Hữu hiệt ngược lại âm hà yết sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến đông Triệu Ngụy gọi là trí tuệ là hiệt Quách Phác chú giải rằng: Gọi là tuệ là hiểu rõ thông suốt. Cố Dã Vương cho rằng: Gian xảo lanh lợi, sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh kiết.

Quán thấu ngược lại âm trên quan yểm ngược lại âm dưới sưu hựu sách Thuyết Văn cho rằng: Quán là rửa tay, chữ viết từ bộ cửu bộ thủy đến bộ mảnh Văn Phổ viết chữ quán là chẳng phải âm cửu là âm cúc âm mảnh ngược lại âm minh bính âm oản ngược lại âm ô quản.

Bảo tỷ ngược lại âm kình kích Cố Dã Vương nói rằng: Khổng Tòng Tử nhìn thấy vua mang giày cỏ mà đi trên thảm cỏ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tỷ là giày dép cỏ chữ viết từ bộ lý tóm lược thanh chi âm kiêu ngược lại âm cư lược Văn Phổ viết chữ lý truyện viết sai.----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 5

Quán trách ngược lại âm trên cổ hoan Bạch Hổ Thông nói rằng: Quan đó là cuộn lại, chỗ gọi là quấn cuộn giữ búi tóc, Quảng Nhã nói có mười tám loại mũ chỗ gọi là không có truy tìm theo đuổi theo nghiệp văn chương bổ ủy, mà làm chăn nuôi vật thì cái mũ kéo vãn ra, thông cả ngày du ngoạn phương xa, Tấn Hiền Cao đội mũ vuông vùng núi, Huệ Căn đội mũ hoa, cũng lại cởi bỏ đi, lại lột bỏ da chim trĩ mà miễm làm đội mũ, đều là loại mũ, sách Thuyết Văn nói: Cái mũ là cuộn lại gọi là cuộn tóc lại, Tóm lại gọi cuộn buộc búi tóc trên đầu chữ viết từ bộ mịch đến bộ nguyên đến bộ thốn quan có pháp độ cho nên chữ viết từ bộ thốn ngược lại âm dưới trạch cách Quảng Nhã cho rằng: Trách là khăn bao tóc, sách Phương Ngôn nói che búi tóc lại gọi là trách hoặc gọi là còn chừa dư lại để lộ ra ngoài, hoặc là khi cúng tế hoặc là cắt bỏ đi, đó là người ty tiện, khi làm công việc lao nhọc phải bỏ mũ xuống đó gọi là phục dịch, có loại khăn màu xanh, khăn màu đỏ, khi làm việc sang, hèn phân biệt đều phải tuân theo, Quan văn đó khăn buộc tóc dài tới tai,, quan vỏ đó khăn ngắn trên tai đều xưng gọi là mũ quán, sách Thuyết Văn nói trách là khăn bao tóc bên trong có khăm vuông gọi là trách chữ viết từ bộ cân thanh trách âm quan ngược lại âm vu âm vãn là âm vấn âm trĩ ngược lại âm trách giới âm hoảng là âm miễn âm quyển ngược lại âm quyết nguyên âm truy ngược lại âm khưu viên âm cân là âm hân âm thanh ngược lại âm thất dược âm trách là âm trách âm kế là âm kế âm mịch là âm mịch Văn Phổ viết trong từ bộ trúc viết thành chữ trách là chẳng phải.

Chuyển toại ngược lại âm tùy túy âm nghĩa trong quyển thứ ba đã giải thích đầy đủ rồi, Văn Phổ viết chữ toại tục tự lưu hành lâu rồi vậy.

Vương giá ngược lại âm ngôn kiện Thiên Thương Hoét cho rằng: Giá là nghinh đón, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh ngôn.

Câu tích âm trên cự ngu âm dưới tinh diệc Cố Dã Vương cho rằng: Tích là cái chân bị nghiêng teo khô lại không thể đi được. Xưa nay Chánh Tự viết (807) từ bộ túc thanh tích cũng viết chữ tích này nhưng chẳng phải.

Hạc trì âm trên hà các đã giải thích đầy đủ trong quyển thứ mười hai âm nghĩa.

Quyên phi âm trên nhất duyên âm dưới phỉ vi trong quyển Hoằng Minh Tập đã giải thích rồi.

Uyển diên âm trên miễn nguyên âm dưới là diên.

Tràng mao âm trên độc giang âm dưới là mao Cố Dã Vương cho rằng: Phàm gọi là mao đó đều là cờ có cắm lông của ly ngưu, trâu đuôi dài, cắm thẳng vào cờ xí lông trâu đuôi dài trên trâu hoặc trên gối trâu đều có lông dài, cắt cái lông đó lấy dùng để cắm vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phương đến bộ mao mao cũng là thanh, Văn Phổ viết từ bộ cân viết thành chữ mao là chẳng phải.

Kha kỳ âm trên ác hà Ngũ Hành Truyện nói rằng: Theo mùa tức là có khẩu kha sách Thuyết Văn nói bệnh gầy ốm, chữ viết từ bộ tật thanh khả theo Thanh Loại viết chữ kha Văn Phổ viết chữ là chẳng phải là sai.

Trân kỳ âm trên thất lân sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh chân Văn Phổ viết chữ điển là chẳng phải âm dưới kỹ nghi sách Thuyết Văn cho rằng: Kỳ là khác lạ, chữ viết từ bộ đại đến bộ khả Văn Phổ viết chữ kỳ là tên ngọc, nghĩa cũng tương cận.

Phả ngộ âm trên phổ khả Tự Thư giải thích: Phả là không thể được.

Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khẩu đến bộ phương là âm phương.

Liêu chúc âm trên liễu điêu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Liêu là bạn cùng làm quan với nhau, theo Tả Truyện cho rằng: Đồng làm quan gọi là liêu lại cũng gọi là đại phu, ấp sĩ, ấp sĩ ãng, ãng thần lệ. Lệ thần đều là quan liêu, Cố Dã Vương nói trong quyển thứ chín, nói về nhân phẩm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh liêu cũng viết chữ liêu Văn Phổ viết chữ liêu là sai âm dưới thù dục.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 6

Giả dung âm trên giá dã Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Giả đó màu đỏ đậm, nhân màu đỏ tím, sách Thuyết Văn viết từ bộ xích đến bộ giả thanh giả.

Thanh ái ngược lại âm ô tái Cố Dã Vương nói: Ái là ôn hòa ấm áp. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhật thanh ái Văn Phổ viết từ chữ tạc ái đó là sai.

Đanh thước ngược lại âm thương nhược theo Mao Thi

Truyện nói rằng: Thước là tốt đẹp, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng:

Sáng sủa, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh lạc. Cốc trịnh âm trên hồng ốc địa danh của Tây Vực. Cư để âm đinh lễ tên của vị Tỳ-kheo ni ở Tây Vực. Ẩn ế âm y kế tên Tỳ-kheo ở Tây Vực.

Tự hoại âm tài dữ Mao Thi Truyện nói rằng: Tự gọi là cản trở hư hoại, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh thư Văn Phổ viết từ bộ phá đến nhân viết thành chữ trở chẳng phải âm nghĩa này, âm là trang lữ khách lạ ý văn âm dưới hồ quái.

Hiệp-tu-na âm lực kế tên Tỳ-kheo ni ở Tây Vực.

Luân lịch âm dưới lực đích Thiên Thương Hoét ghi: Lịch là xe lăn bánh, sách Thuyết Văn nói: Chỗ chiếc xe cán lên, chữ viết từ bộ xa thanh lạc âm triển ngược lại âm nữ triển.

Thao tháp âm trên đồ hao âm dưới đàm lạp lại cũng viết chữ tháp Văn Phổ viết chữ tháp là chẳng phải là sai.

Lai chấn ngược lại âm thất lân.

Kỳ đạo âm trên cư y Mao Thi Truyện nói: Kỳ là cầu, mong cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thi thanh cân Văn Phổ viết chữ kỳ nghĩa cũng đồng.

Nợ quyền âm trên nô đổ âm dưới là quyền Văn Phổ viết từ chữ quyển tục dùng chữ cũng thông dụng.

Cẩu niết ngược lại âm nghiên kiết.

Diên thóa âm trên nghĩa diên viết đúng chữ diên âm dưới thổ ngọa.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 7

Yểu yểu ngược lại âm yểu hiểu sách Thuyết Văn nói: Yểu là sâu xa, chữ viết từ bộ huyệt thanh ấu lại cũng viết chữ yểu.

Đạo khuê ngược lại âm huệ khuê Văn thông dụng nói: Tần Hiếu Công lấy hai trăm bốn mươi bước chân làm một mẫu, năm mươi mẫu làm một khuê Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khuê giống như là khu sách Thuyết Văn cũng cho rằng đồng nghĩa trên, chữ viết từ bộ điền thanh khuê.

Đê đường âm trên đệ hề Vi Thiệu chú giải rằng: Đê là bờ đất rộng, ngăn phòng, sách Thuyết Văn nói cũng là bờ đê ngăn phòng nước tràn, chữ viết từ bộ phụ thanh thị âm dưới là đãng lãng xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bãi cát dài người ta gọi là đê làm đường chữ viết từ bộ phụ thanh đường lại cũng viết chữ đường.

Cực ư âm trên cạnh lực Trịnh Huyền chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cực là nóng nảy, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ nhân đến bộ khẩu lại cũng viết bộ nhị nhị là thiên địa, nói là con người sanh trong trời đất, có miệng để hỏi, có tay để cầm nắm, rất cần thiết tối ưu, chữ hội ý, lại cũng âm là khí nay không lấy nghĩa này. Đạo đố ngược lại âm đô cố Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đố là con mọt nó ăn vật dụng của người có loại màu trắng, đen, sách Thuyết Văn nói:

Con sâu đục trong gỗ, chữ viết từ bộ côn thanh đố Văn Phổ viết chữ đố là sai.

Thiết sa ngược lại âm sang khả.

Phẩu hệ ngược lại âm trên phổ khẩu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phẩu giống như là phá ra, Thiên Thương Hoét ghi chẻ ra, sách Thuyết Văn nói: Phanh ra, phá ra, mở ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu Văn Phổ viết chữ phẩu là chẳng phải, ngược lại âm là giảng tóm lược giảng trong phẩu kích nghĩa cũng đồng, đây đã giải thích rồi, đây không giải thích trùng lắp nữa. Sử thủy âm trên sư lợi Thiên Thương Hoét ghi: Sử là con ngựa chạy rất nhanh, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh sử.

Huyễn mạo âm trên huyền quyến Thiên Thương Hoét ghi rằng: Huyễn là nhìn không thấy rõ, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Huyễn hoặc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh huyền.

Buộn giả âm trên bồn muộn Cổ Tự giải thích: Trong chậu có đất bùn dơ.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 8

Sắc nhiên âm trên sở lực Bì Thương nói rằng: Sợ hãi. Công Dương Truyện nói sắc nhiên là kinh hãi, sách Thuyết Văn nói ý là đau buồn, chữ viết từ bộ khiếm thanh sắc.

Cầu giác ngược lại âm giang nhạc Quảng Nhã cho rằng: Giác là dụng cụ để gạt cho bằng cái đấu và hộc khi đong lường, lại cũng có giảng nghĩa quyết đo lường hơn thua, sách Thuyết Văn nói: Thanh gạt cho bằng, chữ viết từ bộ đấu thanh giảng hoặc là viết chữ giác.

Phách liệt âm trên phanh mạch trong Văn Phổ lại viết chữ tích là chẳng phải, ngược lại âm phanh mạch trong Văn Phổ lại viết chữ tích là chẳng phải, ngược lại âm bình mịch chẳng phải nghĩa này.

Phẩu địa âm trên bổ hậu sách Khảo Thanh cho rằng: Phẩu là dùng tay nắm kéo ra, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh phẩu nay tục âm là hồ là bao gồm. Văn Phổ viết chữ bao là chẳng phải.

-Long tàn âm trên lực cung Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Long là bệnh nhọt độc, Thiên Thương Hoét cho rằng: Bệnh lâu ngày, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh đã giảm, chữ viết từ bộ tật thanh long tục tự dùng cũng thông dụng.

Khôi phụ ngược lại âm trên đô hồi gọi là đống đất nhỏ, Văn Phổ viết chữ đồi tục tự dùng thông, âm phụ là âm phụ.

Phảng phất âm trên phương võng âm dưới phương muội, phương vật hai âm, sách Hán Thư nói phưởng phất là tương tợ, mơ hồ giống mà không giống, theo Thanh Loại cho rằng: Thấy mà không rõ thật. Xưa nay Chánh Tự đều từ bộ tiêu đều thanh phương phất sách Thuyết Văn viết chữ phảng phất là chữ cổ nay không dùng.

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 9

Mong mong ngược lại âm mộc bồng theo Mao Thi Truyện nói: Mong đó trong mắt có màng che con ngươi nên không thấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Thấy không rõ chữ viết từ bộ mục thanh mong Văn Phổ viết từ bộ mục viết thành chữ mong đó là sách viết sai.

Hao đào âm trên hao lao âm dưới đạo lao Văn Phổ viết chữ hao đào tục tự dùng thông dụng.

Mâu sóc ngược lại âm song tróc.

Châm phong âm trên chấp lâm âm dưới phu dung. Kiết khương âm trên khinh kiết âm dưới khướt hướng. Phúc sái âm trên phong mục âm dưới là sửu giới.

Tập tập ngược lại âm tầm lập kiểm lại các chữ trong sách đều không có chữ này, tập tập đó là tục ngữ nói sai.

Gọi là bệnh phong ngoài da nói là bệnh tự nhiên mà có.

Uyết ế âm trên uyển nguyệt sách Tập Huấn nói: Uyết là hơi đi ngược, tức là nôn ọe, sách Thuyết Văn nói: Hơi đi ngược trở ra, chữ viết từ bộ khẩu thanh tuế âm dưới yên kiết sách Khảo Thanh cho rằng: Ế là mắc nghẹn ở cổ không thông được, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Lo buồn không thể nghỉ ngơi, sách Thuyết Văn nói ăn cơm mắc nghẹn. Chữ viết từ bộ khẩu thanh ế.

Truân quệ âm dưới quyển nguyệt tiếng Phạm.

Thuế hóa ngược lại âm du nhuế Quảng Nhã nói: Con ve lột xác, sách Thuyết Văn nói: Con ve lột da ngoài, chữ viết từ bộ trùng thanh thuế.

Phật thư ngược lại âm tử thư sách Thuyết Văn nói: Thư là râu trên miệng, chữ viết từ bộ tu thanh thử nay Văn Phổ viết từ bộ lạc đến bộ mao là chẳng phải, vốn tục từ viết từ bộ tư đến bộ mao viết thành chữ tư người viết sách không hiểu, lại sửa đổi từ bộ lạc là sai, trong lại càng sai chẳng phải trong truyện Thích-ca Phổ từ bộ tiêu viết thành chữ tư cũng là tục dùng thông dụng

----------------------------------

THÍCH CA PHỔ QUYỂN 10

Thô sáp âm trên sang ô âm dưới sương lập chữ chánh thể.

Khảng khái âm trên khang lãng âm dưới khẩu ái sách Thuyết Văn nói: Người tráng sĩ bắt đắc chí, chí không toại nguyện, nên than thở, hai chữ đều từ bộ tâm đều thanh khang khái sách Thuyết Văn viết đúng là chữ khảng.

Chu hàng ngược lại âm hạc cang nghĩa đã giải thích rồi trong Cao Tăng Truyện, nay Văn Phổ viết chữ hàng là chẳng phải.

Khái quán âm trên phàm lợi Cố Dã Vương nói: Khái cũng giống như quán quán cũng là ốc tức là rót nước tưới ruộng tươi mát. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thủy đều thanh ký quan âm quan ngược lại âm hồ quan.

Giam chi ngược lại âm trên giáp hàm sách Thuyết Văn nói: Giam là buộc kín lại, buộc kín cái rương. Lại viết chữ từ bộ mịch thanh hàm. Sự tiết ngược lại âm tiên liệt Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tiết là phát ra, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh thế hoặc là viết chữ tiết đều tục từ dùng thông dụng.

Dĩ lạp ngược lại âm lam ám Bì Thương cho rằng: Lạp là sáp mật, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trùng thanh lạp Văn Phổ viết từ bộ nhục viết thành chữ dịch là chẳng phải.

Bài kháng ngược lại âm trên bại mai Quảng Nhã cho rằng: Bài là xô đẩy ra, âm thôi ngược lại âm tha lôi Cố Dã Vương nói: Bài là lôi kéo, sách Thuyết Văn nói gạt đẩy ra, chữ viết từ bộ thủ thanh phi âm dưới khang lãng sách Vận Thuyên cho rằng: Dùng tay mà chống cự Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đánh trả lại, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Lôi kéo cứu vớt giải thích chữ cổ gọi là căng ra, Quảng Nhã cho rằng: Dùng sức mạnh che trùm lên, phủ lên, sách Phương Ngôn nói treo lên, sách Chu Dịch nói: Biết tiến tới mà không biết thối lui, sách Thuyết Văn nói: Chống cự chữ viết từ bộ thủ thanh khang trong Văn Phổ từ bộ đảng viết thành chữ đảng (808) là chẳng phải, âm tề ngược lại âm tinh hề.

Chi giáo ngược lại âm ngôn kiến đã giải thích quyển trước rồi. Câu-siển-di âm giữa chiêm nhiễm tiếng Phạm, tên của nước.

*******

THÍCH CA THỊ LƯỢC PHỔ

Thích-ca phổ ngược lại âm bộ mẫu Thích Danh cho rằng: Phổ là ban bố khắp, Quảng Nhã cho rằng: Phổ là công văn truyền đi. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Phổ là ban bố khắp nơi, đều nghe thấy biết việc, chữ viết từ bộ ngôn thanh phổ.

Phồn nhục âm trên là phiền sách Khảo Thanh nói phồn là đông nhiều, âm dưới nhu chúc sách Thuyết Văn cho rằng: Nhục là rườm ra, nẩy sinh ra nhiều, màu sắc sặc sỡ, chữ viết từ bộ mịch thanh nhục.

Đoạn ngao ngược lại âm ãng cao Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngao là con rùa lớn, trong Liệt Tiên Truyện nói: Trên lưng con rùa có vác cái linh lớn đến núi Bồng Lai mà làm trò vui, trong biển Thượng Hải, sách Thuyết Văn viết từ bộ mảnh thanh ngao.

Phân nhu ngược lại âm nữ cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu là lộn xộn lung tung, hoặc là viết chữ nhẫn gọi mất trật tự, bộ mịch viết thành chữ là sách viết sai chẳng phải.

Giác định âm trên là giác Quảng Nhã nói rằng: Giá là so sánh rõ ràng, sách Khảo Thanh nói: Giác là đánh giá ưu kém, nói chung đại khái, sách Thượng Thư Đại Truyện nói rằng: Giác là so sánh cái chí hơn kém, thấy được việc tốt xấu, so tài đọ sức, hoặc là viết chữ giác tức là cạnh tranh, thử tài, hoặc là viết chữ hào viết thành chữ giác, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xa thanh giao.

Đĩnh quang âm trên đình ninh danh hiệu Phật Quang.

Chiêu chước âm trên là chiếu âm dưới dương nhược Quảng Nhã cho rằng: Chiêu chước là sáng chói, sách Thuyết Văn đều từ bộ hỏa đều thanh chiêu chước.

Nhân cấu âm trên là nhân Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nhân giống như là thân gần gũi, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bên nhà trai gọi là nhân Bạch Hổ Thông cho rằng: Bên nhà gái, bên nhà trai mà thành thông gia với nhau gọi là nhân âm dưới câu hầu Mao Thi Truyện cho rằng: Cấu là dày, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Kết hôn, trọng hôn gọi là cấu, sách Thuyết Văn cũng đồng, nghĩa đều từ bộ nữ đều thanh nhân cấu.

Ky bạng âm trên cư nghi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ky là loại châu ngọc, Tự Thư cho rằng: Hạt châu nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hạt châu không tròn, chữ viết từ bộ ngọc thanh ky ngược lại âm dưới bàng giảng văn trước trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương đã giải thích đầy đủ rồi.

Hệ đích âm trên hề kế sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hệ là nối tiếp theo, ở đời vốn có vua nối tiếp theo gọi con cháu kế tục, tiếp theo sự nghiệp, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Ràng buộc, chữ viết từ bộ hệ thanh hệ Trụ Văn viết từ bộ trảo viết thành chữ hệ ngược lại âm dưới là đinh lịch Tự Thư cho rằng: Đích là con trưởng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đích là vợ chánh, chữ viết từ bộ nữ thanh đích.

Hoàn vũ âm trên là hoàn ngược lại âm dưới vu cũ Trụ Văn viết từ vũ nay đúng là viết chữ vũ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trong một nước thì bốn bên biên thùy là vũ, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vũ là to lớn, Doãn Văn Tử nói rằng: Bốn phương trên dưới gọi là vũ sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh vu.

Uyên vi ngược lại âm trên quyết huyền theo Mao Thi Truyện nói rằng: Uyên là sâu thẳm, âm dưới đúng là chữ vi nay từ bộ xước viết thành chữ vi ngược lại âm vĩ phi Quảng Nhã cho rằng: Vi là bé nhỏ, sách Thuyết Văn nói: Vi diệu, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Vi là thiếu ít ỏi, nói rằng: Chu Công tuy là lấy mẫu đất ít ỏi, đánh giá gọi là giống như chưa có hết, kỳ thật, sâu xa, vi diệu, nay Văn Phổ viết thán ao thù là mất đi nghĩa lý, nên không lấy nghĩa này.

Liễm hiểm ngược lại âm trên lực chiêm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Con chó có cái mỏ dài gọi là liễm sách Thuyết Văn cho rằng: Con chó đen mà mở vàng cũng gọi là chó mực, ngược lại âm dưới thú liễm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Miền bắc địch hoặc gọi là hiểm duẫn bộ tộc ở phương bắc Trung Quốc, Trịnh Huyền chú giải rằng: Tức là nay gọi nước Hung Nô, xưa nay Chánh Tự đều cho rằng: Hai chữ đều từ bộ khuyển đều thanh liểm nghiêm.

Sử trụ âm trụ sách Chu Nghi nói tên của Quan

Vương Sử. Lúc ban đầu biến đổi, văn cổ trong Đại Triện nói về vị quan này.

Chiêu tích ngược lại âm chi liệt theo Mao Thi Truyện nói: Tích là sáng tỏ, rõ ràng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh tích.

Chấn hải ngược lại âm hài mại.

Lan thuẫn âm trên là lan âm dưới là thuận.

Yêu dã âm trên ư kiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Người đàn bà khéo léo làm tư thái ủy mị ẻo lả, ngược lại âm dưới dư khảo sách Chu Dịch nói: Dạy bảo chải chuốt chơi gái điếm, sách Thuyết Văn viết từ bộ băng thanh di âm băng là âm băng.

Giải trí ngược lại âm tri lợi Cố Dã Vương nói Trí giống như bị đốn ngã vấp té, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chất.

Hoán chi ngược lại âm hoàn oán Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hoán là tẩy rửa, Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Bỏ đi cũ dơ bẩn cấu uế gọi là hoán sách Thuyết Văn cho rằng: Giặt áo dơ, chữ viết từ bộ thủy thanh cán cũng viết chữ hoán Văn Phổ viết chữ hoán tục tự dùng thông dụng.

Bính sa âm trên tịnh minh tên của vị vua ở Tây Vực, Văn Phổ viết chữ bình là sai.

Tao nhiễu âm trên tang lao Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tao gọi là dao động. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh tảo Văn Phổ viết chữ tảo là cào gãy, sờ mó, nghĩa khác lạ, ngược lại âm dưới nhi chiểu chữ chánh thể.

Tẩn liễm âm trên tân tẩn âm dưới liêm điêm Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Thu gom mà theo bỏ vào quan tài gọi là tẫn sách Thuyết Văn nói: Bỏ người chết vào trong quan tài rồi dời chuyển đi chôn cất, có người khách đưa tiển quan tài đi đến nơi mai táng chôn cất, chữ viết từ bộ ngạc tân cũng là thanh, Văn Phổ viết chữ tẫn là sai.

Đe dương âm trên để lê con dê đực thiến, Văn Phổ viết chữ đê là tục tự dùng thông dụng.

Hạ nhiếp ngược lại âm nữ thiệp. Trừng giới ngược lại âm trên trực lăng.

Mô ảnh âm trên mộ hồ Bì Thương cho rằng: Mộ là lấy như giống nhau, tức là bắt chước, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy theo khuôn phép, chữ viết từ bộ thủ thanh mạc.

Vị ái ngược lại âm ai cải đó giải thích rồi Văn Phổ trước trong quyển thứ sáu.

Tuần hành âm trên là tuần Quảng Nhã cho rằng: Tuần là đi theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Tuần là đi chữ viết từ bộ xước thanh thuẫn. Sa sao ngược lại âm xương nhiễu tục tự dùng cũng thông dụng, viết đúng là chữ sao từ bộ dậu.

Cát lũy ngược lại âm luật khối Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lũy là loại dây leo thực vật quấn quít chằng chịt, sách Tự Điển nói: Loại cỏ cũng gọi là dây cát thân dây leo, chữ viết từ bộ thảo thanh lỗi âm lỗi là âm lôi.

*******

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ

QUYỂN THƯỢNG

Du sâm ngược lại âm sĩ lâm Tự Thư cho rằng: Viên ngọc đẹp quý báu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh thâm.

Phụng chí ngược lại âm chi nhị xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chí là lễ vật ra mắt, chữ viết từ bộ bối thanh chấp.

Điên mậu ngược lại âm mạc hậu theo Thanh Loại nói rằng: Mậu là dài rộng, sách Thuyết Văn giải thích: Dài phía nam bắc gọi là mậu, chữ viết từ bộ y thanh mâu.

Lâm thao ngược lại âm thảo lao tên đất Lũng quận Hữu, gần sông Thao.

Không đồng âm trên là không âm dưới là đồng tên của ngọn núi.

Nhật đê ngược lại âm đinh hề loại đá đen, có thể làm nguyên liệu để nhuộm lụa tơ vải, sách Hán Thư nói: Có tên người là Kim Nhật Thiền.

Tương vấn âm trên tưởng dương đã giải thích rồi âm nghĩa trong quyển thứ mười tám.

Du hiên âm trên là do âm dưới là hiết ngôn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Du là xe nhẹ xưa đó là dùng cho người lấy tin, hoặc là sứ thần chỗ gọi là chở, sách Phương Ngôn Tựa nói rằng: Du hiên là xe dùng cho sứ thần đi, chỗ gọi là tuần du của vạn quốc Thái Lãm, nói khác đi là Lý Chu Tần vì sự nghiệp của nhà Tần mà đi sứ thám thính các nước khác, tức là như nay người ta gọi là lấy tin tức, người sứ đi lấy tin tức.

Ký trinh quán âm trên là kỳ nghĩa Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cao là đến, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh tự nay phân nhiều cũng từ bộ thả viết thành chữ âm phái là âm ngâm từ ba bộ nhân.

Huân duẫn âm trên là huấn vân âm dưới là duẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Tên gọi khác của bộ tộc Hung Nô. Đời Đường gọi là huân cách đời Chu gọi là liễm duẫn đời Hán gọi là hung nô nay gọi là đột quyết đều là bộ tộc phía bắc địch.

Tây khi ngược lại âm khởi nghi Cố Dã Vương cho rằng: Khi là nghiêng lệch, không có thẳng, cũng viết chữ nguy sách Thuyết Văn viết từ bộ chi thanh kỳ.

Vu uế âm trên là vô âm dưới là vu vế Cố Dã Vương cho rằng: Uế gọi là không sạch sẽ, xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thảo đều thanh vô tuế.

Ô-sát-quốc ngược lại âm sư giới. Thiện thiện quốc âm trên là thiện.

Đôn hoàng âm trên đồ côn Hán Thư nói rằng: Đôn hoàng là tên của quận hậu Vũ đế nguyên niên phân đặt để bái sái tuyền, Đỗ Lâm cho rằng: Xưa là Hồ Châu nay gọi là Sa Châu vậy.

Thổ-cốc-hổn âm giữa là dục tên của Phiên Bộ Lạc.

Đại đồi ngược lại âm đô hồi đã giải thích rồi Văn Phổ trước trong quyển thứ tám viết đúng là chữ đồi Văn Chí viết chữ đồi cũng là thông dụng.

Hạp trữ âm trên là giáp ngược lại âm dưới trừ lự theo Phương Chữ Bổn Nghĩa Hiệp chữ đó là cởi mở ra rỗng không, giống như sơn phết vào vải bố thưa mà làm vật dụng.

Như vị âm vị sách Thuyết Văn nói con nhím lông nó giống như lông con heo mà nhỏ mịn hơn, chữ viết từ bộ trùng thanh vị.

Cù-lăng-già-sơn âm trên cụ vu âm kế là lặc đăng.

Biển hổ âm trên biến miến âm dưới thể hổ Văn Chí viết từ bộ xước viết thành chữ biến mạc là sai viết đúng từ bộ phương âm là âm phương.

Bạch ế ngược lại âm ích hề sách Văn Tự Tập Lược nói: Núi Báu Đen, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh y Văn Chí viết chữ ế cũng thông dụng.

Mong kiện quốc âm trên mạc băng.

Miêu-ma-hê-la-sơn âm trên miêu âm hê ngược lại âm hê dị.

Lung lệ âm trên lộc dung âm dưới lực kế gọi là ngang bướng can cường.

Tượng huỳnh ngược lại âm vinh minh cũng viết chữ dinh. Phú bàn âm trên phu mục âm dưới bàn mạt.

Hốt bẩm quốc âm giữa lâm cấm. (809) Nhược linh âm linh.

Sấn xỉ âm trên sơ cân gọi là hủy bỏ cái răng, tức là thay răng sữa.

Vi khả ngược lại âm vu đản.

Ớt-đản âm trên Ôn-cốt âm dưới Đan-lạt tiếng Phạm. Thừa hằng ngược lại âm cang hằng sách Thuyết Văn cho rằng:

Hằng là sợi dây lớn, chữ viết từ bộ mịch thanh hằng.

Tiêu dực ngược lại âm dăng trúc cây cột trụ buộc trâu bò. Bà-la-tân-la-đại-lĩnh ngược lại âm tiên hề.

Tự hổ âm trên từ tự sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh thực. Bán-nợ-sa-quốc âm Nở-sa ngược lại âm sang hà.

Trách-ca âm trên trúc ách.

Tục ánh ngược lại âm anh dĩnh sách Thuyết Văn nói: Cổ nổi bướu, chữ viết từ bộ tật thanh anh.

Thư chung ngược lại âm thuộc lung sách Nhĩ Nhã giải thích Chân sưng lên gọi là chung sách Thuyết Văn viết chữ chung gọi là cẳng chân chứa hơi sưng lên, chữ viết từ bộ tật thanh chung Văn Chí viết từ bộ uông viết thành chữ chung là Trụ Văn viết âm uông là âm uông.

Tốt-lộc-cận-na ngược lại âm trên Tô-một.

Chân-hê-xế-đản-la-quốc âm trên Ô-lạc âm kế hinh kê âm xế ngược lại âm xương chế âm đản là âm đan quỳ.

Bình khải ngược lại âm khai cải Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khải là chỗ cao ráo khô, sách Thuyết Văn nói: Chỗ cao ráo thoáng mát, chữ viết từ bộ thổ thanh khải.

Bi-sách-ca-quốc âm trên là Ty-di âm kế Sanh-hạch tiếng Phạm. Ương-lũ-lộc âm giữa kỳ cũ.

Giác xứ âm trên giang phửu cũng viết chữ giác Văn Chí viết chữ thùng là chẳng phải, nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi, trong văn trước quyển thứ tám Thích-ca Phổ, chữ xứ là đúng.

Tiêu phát âm trên sở giao Bì Thương giải thích: Tiêu là tóc rủ xuống, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tiêu thanh tiêu.

Dĩ hốt âm hốt.

Lật-chiêm-bà-tử âm chiêm ngược lại âm tha khiếp tiếng Phạm.

Tứ hạ ngược lại âm sa trá Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hạ nay người ta gọi là cửa vào nhà nhỏ hơn xây quanh nhà lớn, hình giống cái chái một bên rộng mà lại thấp, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nghiểm thanh hạ. A-kỳ-ba-diệc ngược lại âm Ni-lễ tiếng Phạm.

Sái hỏa ngược lại âm trên sa nhã âm nghĩa Hán Thư giải thích: Sái là rải phân tán ra, sách Thuyết Văn giải thích: Rảy nước, vẫy nước chữ viết từ bộ thủy thanh cái Phương Chí viết chữ sái ngược lại âm tây lễ là chẳng phải, âm tấn là âm tín.

Khôi tẩn ngược lại âm từ tấn viết đúng là chữ tẩn.

Giá phủ âm trên là giá âm dưới là phụ.

-----------------------------------

QUYỂN HẠ

Ngoa dã ngược lại âm trên ngô qua theo Mao Thi Truyện giải thích: Ngoa là giả dối, dối trá, sách Thuyết Văn giải thích: Dối trá, chữ viết từ bộ ngôn thanh vi Phương Chí viết chữ ngoa tục tự cũng viết chữ ngoa.

Na-già-át-lạt-na âm át ngược lại âm Ô-hạt âm lạt ngược lại âm nhàn cát tiếng Phạm.

Chí điểu âm trên chi lợi Quảng Nhã nói: Chí là nói chấp tức là nắm giữ, gọi là nắm giữ các loài chim phải phục tùng, dũng mãnh, bén nhạy, sách Thuyết Văn nói: Loài chim đánh giết gọi chung những giống chim hung dữ, mạnh mẽ, chữ viết từ bộ điểu thanh chấp.

Sanh pháo ngược lại âm bổ mạo đã giải thích đầy đủ rồi trong kinh Tối Thắng Vương có nói.

Sái y ngược lại âm trên sở tai sách Phương Ngôn nói: Sái là làm cho khô ráo, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh sái.

Cam thanh ngược lại âm cam hám sách Thuyết Văn nói: Màu trắng xanh đậm pha màu đỏ, chữ viết từ bộ mịch thanh cam.

Tiêu tuyệt ngược lại âm trên thư tiều Hứa Thúc Trọng giải thích: Tiêu là gò đất lớn, sách Thuyết Văn nói: Gò cao, chữ viết từ bộ phụ thanh tiêu.

Bàn thạch ngược lại âm trên phán ban Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Bàn là núi đá vững an, Cố Dã Vương nói: Bàn giống như căn cứ vào, theo Thanh Loại cho rằng: Đá lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh ban.

Tát-chu âm trên ngạn hạt cũng viết từ chữ đan.

Kết-lật-đà-la-cự-sá-sơn ngược lại âm trên kỳ nhất âm dưới Trích-da tiếng Phạm, Đường Huyền Trang gọi là núi Thứu Phong.

Lang trĩ âm trĩ.

Nhục tích ngược lại âm tinh tức sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tích là chỉ sự nghiệp công lao, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trách.

Y-lan-nã ngược lại âm Nạch-da tiếng Phạm.

Quân-trĩ-ca âm trên quân vẫn âm giữa trì nhị tiếng Phạm.

Man lào âm trên mạc ban Quảng Nhã giải thích: Man là khinh thường, sách Thuyết Văn giải thích: Người man man chủng loại rắn, chữ viết từ bộ trùng thanh loan âm dưới là lão Tự Thư cho rằng: Tường Khả có bộ tộc Lào Di, là tên gọi khác của con vật, gọi là Lào Di tức loại thú ưa thích ham muốn không biết đủ. Làm con người ưa thích ăn uống quá độ tâm sát hại, lặn trong nước tìm bắt cá rùa rồi dựng đứng chôn trong quan tài không nằm, dối trá sai lầm, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh liêu âm luyến ngược lại âm lực khuyên.

Yết-lang-già-quốc ngược lại âm lực trừng.

Sơ liêu ngược lại âm lực điêu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Liêu là cái trống nhỏ, sách Thuyết Văn nói: Xuyên qua trống rỗng, chữ viết từ bộ huyệt thanh liêu.

Dịch lỗ âm trên tinh dịch sách Nhĩ Nhã cho rằng: Dịch là khổ Quách Phác chú giải rằng: Gọi là đất mặn khổ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh dịch Phương Chí vốn viết chữ dịch là sai, ngược lại âm dưới hư cô Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lỗ là khô cằn, cứng, đất cằn cổi, sách Thuyết Văn nói: Phương tây gọi là đất mặn, chữ viết từ bộ lỗ tóm lược, hình nhân là ruộng muối, phương đông gọi là trách phương tây gọi là lỗ.

Da-tử ngược lại âm trên dã sa tên cây. Lăng-ca-sơn âm trên là lặt hằng.

Hoăng xưởng âm trên là hoành Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hoằng là to lớn, sách Thuyết Văn giải thích: Nhà cao rộng sâu có âm vang, chữ viết từ bộ miên thanh hoằng âm dưới xương lượng Thiên Thương Hoét cho rằng: Xưởng là nổi bật cao lên, sách Thuyết Văn giải thích: Đất bằng bình trị cao lên, có thể đứng trông ra xa, chữ viết từ bộ phộc thanh thượng. Phả tri âm trị.

Phất lẫm quốc ngược lại âm lâm cấm. Xa-trà-quốc âm trên là phạm.

Bao-hy ngược lại âm dưới hỷ nghi xưa hiệu là Tam Hoàng.

Cảo nhai ngược lại âm trên công lão âm dưới là giai nghĩa đã giải thích rồi trong Cao Tăng Truyện, Phương Chí viết chữ vệ là chẳng phải.

Độc vũ âm trên là độc. Hóa lộ âm lộ.

Phiếm trương ngược lại âm trượng lượng Chí Bổn viết trương là chẳng phải.

Hoa lưu ngược lại âm trên hộ ma âm dưới lực do. Thái tể phi ngược lại âm phi mỹ.

Cứ nhiên ngược lại âm cự ngự Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cứ là lo sợ, sách Thuyết Văn cho rằng: Khốn khổ, túng quẩn, chữ viết từ bộ xước thanh cứ sách Phương Chí viết từ bộ tâm viết thành chữ cứ tục tự dùng thông dụng.

Quyên kỳ dục âm trên quyết huyền ngược lại âm dưới thời chí. Khám trạch ngược lại âm trên kham lam trong sách nói thời Tam Quốc có Khám Trạch làm quan nước Ngô.

Hổ độc khẩu âm trên hồ cổ kinh Sơn Hải nói rằng: Đến núi Dương Hư du ngoạn xem nước chảy, lấy đăng bắt cá, Quách Phác chú giải rằng: Vua Thương hiệt đến sông Hổ mà con rùa linh thiêng vác quyển sách đến xuất hiện, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hổ âm dưới đông lộc.

Hy khôi âm trên sĩ tri âm dưới khổ hồi tên họ của người.

Bức nhiên ngược lại âm phi bức Bì Thương cho rằng: Bức là đạp lên giẫm đạp trên đất có tiếng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh bức âm bức đồng với âm trên.

Khuy nhiên âm trên khuy quỷ sách Khảo Thanh cho rằng: Núi trơ trọc (810) sừng sửng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ sơn thanh quy.

Cao khôi ngược lại âm khổ hồi tên họ người.

Ôn lương âm trên là ôn ngược lại âm dưới là lương Mạnh khang giải thích: Giống như xe có áo bao trùm có cửa sổ, đóng lại thì ấm áp, mở ra thì mát mẻ, Như Thuần giải thích hình như xe rộng lớn có màn che, từ đời nhà Hán cho tới nay, tuy là chỉ dùng chuyên chở, sách Thuyết Văn nói: Xe có thể nằm được, chữ viết từ bộ xa thanh ôn lương.

Châu hành ngược lại âm hạnh canh sách Đại Đái Lễ nói: Ngọc bội đeo trên, có hai loại ngọc: Viên ngọc đeo trên gọi là hành đeo dưới gọi là hoàng sách Thuyết Văn nói: Hành là ngọc bội đeo trên chỗ gọi là tiết hành ngăn cản sự đi lại, chữ viết từ bộ ngọc thanh hành.

Duy sở ngược lại âm sơ sở Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Người nước Sở gọi là đá kê chân cột, gọi là sở. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Mây trên núi che phủ hơi khói bốc lên làm trơn cột trụ đá, chữ viết từ bộ thạch thanh sở âm tích là âm tích.

Tự ưng ngược lại âm trên từ tự Tự Thư cho rằng: Theo người xin ăn, sách Thuyết Văn viết từ chữ tự từ bộ nhân thanh thực Phương Chí viết bá tự tục tự dùng cũng thông dụng.

- Thích-ca Phổ Cập Lược Phổ Phương Chí Đẳng Y Nhập Tạng Mục Hợp Hữu Chư Kinh Yếu Tập hai mươi quyển không âm.

- Kinh Luật Di Tướng năm mươi quyển đã âm rồi từ có âm nghĩa hai quyển.

- Nam Tề Kinh Mục Đẳng hai mươi hai quyển không âm.

- Tùy Trào Kinh Mục hai mươi quyển không âm.

- Tính ra sáu mươi hai quyển không có âm, là vì tạng kinh sao chép và kinh cổ. Trong mục đã sớm giải thích trùng lắp rồi nên phế bỏ không lưu hành, nay đều không có âm, chuyển tiếp đó là tất phải vượt qua, bỏ qua nhập vào tạng mục có thứ lớp. Lấy âm nghĩa sau này, đồng với quyển đó là đầy đủ mà thành một trăm quyển.

*******

THÍCH MÔN HỆ LỤC

Tẫn phạt âm trên tân tuấn Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Tẫn là vứt bỏ, sách Sử Ký nói: Cùng nhau lôi kéo xô đẩy ra ngoài là vậy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh tân ngược lại âm dưới phiền phát sách Thuyết Văn giải thích: Phạt tội nhỏ đó là chưa dùng đến dao, chỗ gọi là răn đe, cầm dao đe dọa mắng nhiếc, nên gọi là phạt, chữ viết từ bộ đao đến bộ lị âm lỵ là âm lợi chữ hội ý.

Bao đức âm trên bảo mao Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bao giống như tiến vào, Cố Dã Vương nói bao là đưa lên khen ngợi tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bảo âm bảo là âm bảo.

Vũ hoàn âm trên ngu cú Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vũ là chỗ gởi nhờ, ngược lại âm dưới hoạn quan Văn Tự Điển nói: Trong biên giới của nước đất nghìn dặm bốn phía quanh kinh thành, chữ viết từ bộ miên thanh hoàn.

Tứ mã âm trên là tứ.

Khâm vinh ngược lại âm trên hạp lam.

Dực hóa ngược lại âm trên dư lực Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dực là thêm vào, sách Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ vũ thanh lập.

Tướng tuần ngược lại âm tuất tuân theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tuần là hỏi thăm, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hỏi thăm bà con thân thích. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Mưu tính việc, chữ viết từ bộ ngôn thanh tuần.

Khể đai ngụy ngược lại âm trên kế hề Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khể là tra cứu, Quảng Nhã cho rằng: Gạn hỏi, sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa đến bộ cửu thanh chỉ âm hòa ngược lại âm công mê ngược lại âm dưới ngụy vị.

Kỳ di ngược lại âm dĩ chi sách Khuê Lễ nói: Trăm năm gọi là kỳ dị, Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Di là nuôi dưỡng, sách Thuyết Văn viết từ bộ di tượng hình đến bộ hiệt viết thành chữ di chữ của Triện Văn viết, Trụ Văn viết chữ di.

Khác cận âm trên khang dịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khác là cung kính, sách Thuyết Văn nói viết đúng là chữ khác nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ tâm thanh khách.

Tăng lược âm lược tên của vị tăng. Tích dĩ âm trên tịch dạ âm dưới là dĩ.

Kham nan ngược lại âm trên khâm lam âm dưới nải thả.

Phiêu xí âm trên tất diêu ghi chép viết chữ phiêu là sai, âm dưới là chí.

Tháo cầu âm trên tao đáo.

Bá thực âm trên ba hạ âm dưới thời lực.

Trách bất khả kiến âm trên sĩ cách Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Trách đó là chỗ xưng gọi rất sâu xa thâm u, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ di thanh trách.

Ngự chi ngược lại âm trên ngư cứ cũng viết chữ ngự. Dĩ vị ngược lại âm vi quý Quảng Nhã cho rằng: Vị là xếp cùng loại lại với nhau tại một nơi, lấy cùng loại với nhau lôi kéo ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ đế bộ vị thanh tĩnh âm đế ngược lại âm đề kế.

Sạn-đề ngược lại âm trên xác hiện tiếng Phạm.

Khải phong ngược lại âm trên khai cải Quảng Nhã nói: Khải giống như là to lớn, sách Nhĩ Nhã nói: Gió hướng nam thổi đến gọi là khải là gió lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kỹ thanh khải.

Minh khiển ngược lại âm trên mịch bình Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Minh là tối tăm, sách Thuyết Văn nói: U minh mờ mịt, chữ viết từ bộ nhật đến bộ lục nhật là ngày đếm tới ngày mười ngày mười sáu là trăng bắt đầu khuyết nên tối dần, đến bộ mịch thanh nịch âm mịch đồng với âm trên, ngược lại âm dưới khiên chiến, Quảng Nhã cho rằng: Khiển trách, Thiên Thương Hoét ghi rằng: La mắng, sách Phương Ngôn cho rằng: Giận dữ sách Thuyết Văn nói trách vấn, hỏi vặn, tra gạn, chữ viết từ bộ ngôn thanh khiển âm trách ngược lại âm trắc cách.

Thuần nùng ngược lại âm trên thuận luân ngược lại âm dưới ni long, Quảng Nhã giải thích: Thuần hậu, chân chất, Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Nùng là rượu có chất ngọt béo, rượu ngon, sách Thuyết Văn nói: Thuần nùng là rượu không có pha. đậm đặc nồng, rượu nồng đậm, hai chữ đều từ bộ dậu đều là thanh thuần nùng âm thuần đồng với âm trên, trong Hệ Lục viết chữ thuần đều thông dụng.

Tao phách âm trên tảo lao âm dưới bàng mạc Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tao là cặn bã rượu, rượu đã lọc còn lại những hạt nhỏ, sách Thuyết Văn giải nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ mễ thanh táo Trụ Văn viết tao xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ phách viết từ bộ mễ thanh bạch âm lộc là âm lộc.

Truyền nghị ngược lại âm nghi ký tên họ người. Tế thảm ngược lại âm tập dâm tên người. Giam chi ngược lại âm giảm hàm.

Duệ triệu ngược lại âm trên súng Quảng Nhã cho rằng: Duệ là trí, sách Thuyết Văn giải: Trí sáng suốt, hiểu biết sâu xa rõ ràng, chữ viết từ bộ tàn bộ mục đến bộ cốc viết tóm lược âm tàn là âm tàn xưa nay Chánh Tự viết chữ duệ Trụ Văn viết chữ duệ âm dưới là triêu.

Sàn nhiên âm trên tàn yên Hán Thư âm nghĩa giải thích: Sàn là không đều nhau, Vi Thiệu giải thích: Nhân từ, thận trọng, sách Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ sàn trong bộ thi dưới gọi là thanh sàn âm sàn là âm tiển.

Huất bất âm trên huân uất Tát Tông chú giải Tây Kinh Phú Truyện rằng: Huất là bổng nhiên, sách Thuyết Văn viết từ bộ khảm thanh đạm.

Vị mẫn ngược lại âm trên mật nhẫn sách Tiển Nhã cho rằng: Mẫn là hết, mất, diệt, theo Mao Thi Truyện nói rằng: Diệt tiêu diệt, xưa nay Chánh Tự giải thích đồng nghĩa, chữ viết từ bộ thủy thanh mẫn.

Quýnh triệt âm trên quynh quýnh Thiên Thương Hoét ghi: Quýnh là sáng tỏ, Quảng Nhã cho rằng: Sáng chói, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh quynh.

Chất cốc âm trên chân viết âm dưới công ốc. Toán mậu âm trên tổ noãn cũng viết chữ tán. Trí khải ngược lại âm nghi kỹ tên của vị tăng sĩ.

Nghiệp hạ ngược lại âm trên nghiêm khiếp sách Hán Thư nói: Ở quận Ngụy có huyện Nghiệp, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ áp thanh nghiệp.

*******

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn.

San định ngược lại âm khác an Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: San là trừ bỏ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tước lột bỏ, Quảng Nhã giải thích: Định tức là sửa chửa lại xác định lại.

Quảng tế ngược lại âm giả kế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tế là lội qua sông. Đỗ Dự chú Tả Truyện rằng: Có ít, tạo lợi ích, Giả Quỳ chú giải sách Quảng Nhã rằng: Công việc hoàn thành, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh tề.

Thanh đàm ngược lại âm đảm nam theo Mao Thi Truyện nói: Đàm là lâu dài. Lại gọi là thật dài thật lớn, sách Thuyết Văn giải thích: Mùi vị lâu dài, chữ viết từ bộ đàm đến bộ hàm tóm lược viết chữ đàm Đại Triện viết chữ từ bộ á viết thành chữ đàm là viết tóm lược, nay tục dùng chữ này dưới từ bộ lý là sai, âm hống là âm hống từ bộ viết đến bộ phi là âm phi tức là chữ bình.

Nải hạ ngược lại âm trên nô cải văn cổ viết chữ nải theo Thanh Loại nói: Nải là đến, sách Thuyết Văn viết từ bộ nải thanh tây nay tục dùng từ bộ xước là sai.

Phí trưởng phòng ngược lại âm trên là phì vị tên họ người. Nhiếp đạo chân ngược lại âm trên ni triếp tên họ người.

Huyễn-sư A-di-trâu ngược lại âm Trang-cưu tiếng

Phạm. Ma-mi-la-đàn ngược lại âm đan khu tiếng Phạm.

Nghiệp đô ngược lại âm trên nghiêm kiếp sách Thuyết Văn nói: Quận, huyện của nước Ngụy, chữ viết từ bộ ấp thanh nghiệp.

Ma-ha-giá-hạt toàn kinh ngược lại âm tùy duyên tiếng Phạm cũng là tiếng thổ ngữ nước hồ không cầu chữ nghĩa.

---------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 2

Đâu-sa-kinh âm trên đồ hầu tiếng Phạm. Đạo lung âm cung tên của vị tăng.

Toát tả âm trên tổ loát sách Lễ Ký Khổng tử nói rằng: Nay phàm là nắm một nắm đất trong tay gọi là nhiều, sách Thuyết Văn nói: Toát là ba ngón (811) tay chụm lại, chữ viết từ bộ thủ thanh tối nghĩa trong mục lục nói toát là cơ yếu, trọng yếu, giống tóm yếu vậy.

Chi phái ngược lại âm phách mãi sách Thuyết Văn giải thích nước tự phân rẽ dòng khác, chữ viết từ bộ thủy đến bộ phản đến bộ vĩnh chữ tượng hình, chữ thổ là chữ phộc sách Thuyết Văn nói từ bộ bán đến bộ trúc đến bộ hựu là chữ đúng.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 3

Sủy nghĩa âm trên sơ ủy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sủy là đoán chiều cao sủy, Quách Phác chú giải rằng: Sủy là ngầm đánh giá suy đoán mà thành, sách Thuyết Văn nói: Đo lường, chữ viết từ bộ thủ thanh đoan.

Thù giao âm trên thọ lưu âm dưới giao hao Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thù là đối đầu, sách Nhĩ Nhã nói rằng: Thù là đơn độc, Lưu Hướng Biết Lục ghi rằng: Thù là kết giao, trong kinh gọi là giao kết khảo sát, phong tục thông dụng gọi là hai người giao đối với nhau gọi là thù giao sách Tập Huấn nói: Hai người vốn đối sách mưu tính giao ước gọi là thù, sách Thuyết Văn nói thù là dò xét, tình ý với nhau, chữ viết từ bộ ngôn thanh thù kinh văn viết từ bộ châu đến bộ ngôn viết thành chữ thù là chẳng phải âm thù đồng với âm trên.

Ngụ mị âm trên ngô cố sách Thuyết Văn nói: Mị là ngủ tỉnh rồi mà có nói gọi ngụ ngược lại âm dưới là di dị sách Thuyết Văn nói: Nằm ngủ hai chữ đều từ bộ miên đều thanh ngô vị.

Ngạn tông âm trên ngôn kiến âm dưới đồ tông đều tên của vị tăng.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 4

A-xà-thế âm thế tiếng Phạm.

Phổ Đầu âm phổ tên của vị Bồ-tát, cũng là tên kinh.----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 5

Siểm tử kinh âm trên chiêm nhiễm lại cũng là âm diểm.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 6

Chích chi âm trên dương diệc sách Phương Ngôn nói: Chích là nhặt lấy, Trần Thanh Từ gọi nhặt lấy là chích sách Thuyết Văn nói: Chích là thâu thập, thu nhặt, chữ viết từ bộ thủ thanh thứ hoặc là từ bộ thạch viết thành chữ giá giải thích dùng cũng đồng.

-Quyển thứ bảy. Không có chữ có thể âm.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 8

Dũng từ Phạm Chí ngược lại âm dung dũng văn cổ viết chữ dũng tên của ngoại đạo.

Mộc thương thứ khước ngược lại âm thất dương sách Tập Huấn nói rằng: Thương là loại binh khí như cây gậy, loại binh trượng hai đầu bén nhọn dài một trượng tám, trên đầu gắn mũi kiếm nhọn gọi là cây súng, Quảng Nhã cho rằng: Phóng đi đâm thẳng vào, ngược lại âm dưới thanh diệc Cố Dã Vương nói rằng: Đầu bén ngọn cắm thẳng vào người trong gọi là thứ Quảng Nhã cho rằng: Thứ là mũi tên, sách Thuyết Văn nói cắm thẳng vào người cho thương tật, chữ viết từ bộ đao thanh thứ âm thứ là âm thứ kinh văn viết chữ hiệp tục dùng cũng thông dụng.

Chế cẩu ngược lại âm trên chương nghệ sách Thuyết Văn nói: con chó điên, chữ viết từ bộ khuyển thanh chế hoặc là viết chữ tích nghĩa cũng đồng, âm dưới là cẩu kinh văn viết chữ cú là chẳng phải.

Ma-ni âm trên là ma tiếng Phạm.

Ưng diêu âm trên ức căng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ưng loài chim mảnh cầm hung dữ mạnh mẽ, sách Tập Huấn giải thích Có thể chế phục bầy chim này, sách Ngự Lãm nói: Giống chim mạnh mẽ bén nhạy lanh lợi đó gọi là chí âm dưới là diệu Cố Dã Vương nói rằng: Diêu giống như chim ưng mà nhỏ hơn, sách Thuyết Văn nói thuộc giống chim hung hãn, chữ hình thanh.

Si điểu ngược lại âm trên xỉ chi sách Trang Tử nói rằng: Si là giống chim ưa ăn loài rắn, sách Thuyết Văn nói: Thuộc giống diều hâu, hoặc là từ bộ duy viết thành chữ si chữ tượng hình.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 9

Nhị kiều sĩ ngược lại âm cự yêu sách Vận Thuyên giải thích: Kiều là người sống nhờ làng khác, sách Khảo Thanh cho rằng: Là người khách, Quảng Nhã cho rằng: Người có tài sách Thuyết Văn nói: Người cao thượng, chữ viết từ bộ nhân thanh kiêu âm kiêu đồng với âm trên.

Hoan hỷ âm trên hoán quan Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hoan là vui vẻ, sách Thuyết Văn nói hỷ cũng là hoan chữ viết từ bộ tâm thanh quan trong mục lục viết từ bộ mã viết thành chữ hoan là chẳng phải, âm hoan cũng đồng, ngược lại âm hồ quan.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 10

Đàm-di-bệ ngược lại âm Bế-mê tiếng Phạm tên của vị tăng. Tăng-sáp-đa ngược lại âm sư tập tiếng Phạm, chữ sáp sách Thuyết Văn viết từ bốn bộ chỉ hai bộ ngược, hai bộ thẳng tức là chữ sáp từ bộ thủy cũng vậy, trong mục lục và trong các kinh phần nhiều viết từ ba bộ chỉ viết thành chữ sáp là chẳng phải chữ hội ý.

---------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 11

Đệ cánh ngược lại âm đề lễ Trịnh Huyền chú giải Nhĩ Nhã rằng: Đệ là thay đổi, sách Trang Tử nói rằng: Đệ là nằm xuống rồi ngồi dậy, sách Thuyết Văn nói: Thay phiên nhau, chữ viết từ bộ xước thanh sĩ âm sĩ là âm tư hoặc là viết chữ đệ từ bộ xước là chẳng phải, cũng viết chữ đệ dùng giải thích cũng đồng, ngược lại âm dưới cách hành Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Canh giống như thay thế, sách Thuyết Văn nói: Sửa đổi, chữ viết từ bộ phộc thanh bính nay viết chữ cánh tục tự dùng thông dụng.

Biên chi ngược lại âm tất miên Lưu Triệu chú giải công Dương Truyện rằng: Biên là so sánh sắp xếp liên tục thứ tự, Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Biên giống như xếp hàng, theo Thanh Loại giải thích: Lấy sợi dây đan bện có thứ tự, sách Thuyết Văn giải thích: Sắp xếp có thứ tự chữ viết từ bộ mịch thanh biên.

Bạt-đà ngược lại âm bàn mạt.

----------------------------------------

ĐẠI CHÂU SAN ĐỊNH CHÚNG KINH MỤC LỤC TỰA QUYỂN 12

Thuyên mạc ngược lại âm thùy duyên Mao Thi Truyện giải thích rằng: Thuyên là mau chóng, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Rất mau, sách Thuyết Văn giải thích: Qua lại nhiều lần, chữ viết từ bộ xước thanh đoan giải thích khác gọi là việc đã qua, ngược lại âm dưới mang bác Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mạc là xa xôi, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Mạc là tiếng rống nghe rất xa, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh mạc.

Phiêu linh ngược lại âm trên thất diêu theo Mao Thi Truyện nói rằng: Phiêu giống như là thổi gió thổi, Mao Thi Truyện nói cái nia sảy gạo trước gió, theo truyện nói rằng: Gió thổi làm cho khô ráo, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phong thanh phiêu ngược lại âm dưới lịch đinh Mao Thi Truyện giải thích: Linh là lưu lạc, Quảng Nhã cho rằng: Rơi xuống, sách Thuyết Văn nói giọt mưa còn đọng lại rơi xuống, chữ viết từ bộ vũ thanh linh.

Âu hòa ngược lại âm A-câu âm dưới là hòa xưa dịch tiếng Phạm gọi là chất phác, không trau chuốt, Đường Huyền Trang dịch là phương tiện.

Quyển 13, 14, 15. Bên phải trên là ba quyển đều không có chữ có thể giải thích âm.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 78

-Âm Kinh Luật dị Tướng năm mươi quyển. (Từ quyển thứ nhất đến quyển thứ hai mươi hai.)

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 1

Chích thái ngược lại âm trên chinh diệc lượm nhặt, thâu gom, trong kinh viết chữ anh là chẳng phải.

Đoàn thực ngược lại âm đoạn loan dùng tay vắt cơm mà ăn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ kinh văn viết từ bộ đoan viết thành chữ sủy là chẳng phải.

Lan thuẫn ngược lại âm dưới phủ chuẩn sách Âm Nghĩa Hán Thư giải thích thuẫn cũng là lan, sách Thuyết Văn nói: Lan là hàng rào, chữ viết từ bộ mộc đến bộ thuẫn âm thuẫn đồng với âm trên, âm lam ngược lại âm hàm ảm.

Thô sáp ngược lại âm dưới sâm tập sách Thuyết Văn giải thích: Sáp là không trơn, chữ viết từ bốn bộ chỉ hai bộ xuôi, hai bộ ngược, tục sách viết chữ sáp là chẳng phải.

Xa cốc ngược lại âm công ốc sách Thuyết Văn giải thích: Chỉ các đầu tăm xe tụ tập vào bầu trục bánh xe chữ hình thanh.

Giảm trực ngược lại âm lam trảm ăn bớt lại, ít hao tổn, trừ tiêu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hàm. Bất huyễn ngược lại âm huyền quyên Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Huyễn là nhìn, đưa mắt nhìn, Cố Dã Vương cho rằng: Nay người ta gọi là liếc mắt ra dấu hiệu ngầm mật ngữ với nhau, sách Thuyết Văn viết liếc mắt chữ viết từ bộ mục thanh huyễn âm huyễn đồng với âm trên.

Ưu-hấp-lam âm hấp ngược lại âm Đàm-nột tiếng Phạm tên ngoại đạo hoặc gọi là Uất-đầu-lam.

Nghiên tiếu ngược lại âm trên hiển thiên Thiên Thương Hoét ghi rằng: Nghiên là trách mắng, Quảng Nhã nói rằng: Giận dữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tranh cãi, gây gỗ, chữ viết từ bộ ngôn thanh nghiên âm nghiên là âm khiên kinh văn viết chữ hình là chẳng phải, Tự Thư không có chữ này.

Đề bại âm trên đệ nên Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Đề giống như là bại gọi là đất thưa cỏ mọc um tùm chằng chịt dơ xấu, hoặc là viết chữ đề sách Thuyết Văn viết chữ đệ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh đề âm dưới, ngược lại âm bài mại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bại là giống như lúa, mà chẳng phải thuộc cỏ, loại lúa ma, hoặc là viết chữ bại xưa nay Chánh Tự cho rằng: Giống lúa khác, chữ viết từ bộ hòa thanh ty.

Lẫm lẫm ngược lại âm trên lâm tẫm Bì Thương cho rằng: Lẫm là lo sợ đau buồn, than thở, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lo sợ nguy hiểm, sách Phương Ngôn cũng cho rằng: Kính sợ, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ tâm thanh lẫm âm lẫm đồng với âm trên, kinh văn viết chữ lẫm là sai.

Mễ cốc ngược lại âm dưới công cốc Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Có chín loại cốc, gọi là loại lúa, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cốc là lộc, sách Thuyết Văn nói: Tiếp tục gọi chung có một trăm loại cốc, chữ viết từ bộ hòa thanh xác âm xác ngược lại âm không giác.

Tỷ khoang ngược lại âm trên tất nhĩ Cố Dã Vương nói: Tỷ là lúa thóc nhưng không thành, gọi là lúa lép, hoặc là viết chữ tỷ xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mễ thanh tỷ ngược lại âm dưới khác cang theo Thanh Loại nói rằng: Khang là vỏ lúa, tức là cám gạo, hoặc là viết chữ khang, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mễ thanh khang.

Khô thích âm trên là khô sách Phương Ngôn cho rằng: Khô tức là dùng dao xỉa cạy ra. Theo Thanh Loại cho rằng: Cắt ra, mổ ra moi lấy vật trong ra, sách Thuyết Văn nói: Phanh ra (812) chữ viết từ bộ đao Thanh Khoa ngược lại âm dưới thính diệc sách Vận Anh nói: Lột bỏ xương ra, sách Khảo Thanh nói: Tước lột ra, sách Thượng Thư viết chữ phân chữ cổ hai chữ đều từ bộ đao chữ hình thanh.

Xâm nhiễu ngược lại âm trên tập nhâm sách Thuyết Văn giải thích: Tiến vào từ từ, chữ viết từ bộ nhân bộ thủ gọi là tay người cầm giữ bộ trữu giống như cây chổi, người cầm cây chổi từ từ tiến vào, ngược lại âm dưới ninh điểu sách Bát Nhã nói: Nhiễu là cùng nhau làm trò đùa cợt, quấy phá vui chơi, đùa bỡn. Xưa nay Chánh Tự viết chữ niểu sách Thuyết Văn giải thích: Niểu là chọc ghẹo đùa cợt, chữ viết từ bộ nữa thanh kiêu.

Quá đã ngược lại âm trên trác qua sách Thuyết Văn cho rằng: Roi quất ngựa, Văn Tự Điển nói: Quá là đánh bằng roi, đã viết từ bộ thủ.

Sử hà ngược lại âm sư sự sách Vân Anh giải thích: Sử là ngựa chạy rất mau, cấp tốc, chữ viết từ bộ sử.

Bộc liệt âm trên bao mạo Văn Tự Tập Lược giải thích bộc là đốt lửa củi tre bùng ra tiếng nổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hun đốt.

Lị di hoặc là viết chữ lị di đồng âm trên lí âm dưới là dỉ sách Khảo Thanh cho rằng: Đường đê, bờ cát, nhỏ hẹp mà dài, quanh co vòng vèo nối tiếp nhau. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Những sườn núi liên tiếp nối nhau, hai chữ đều từ bộ sơn chữ hình thanh.

Toái đạp ngược lại âm dưới khâm hạp sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng đá va chạm với nhau, hai chữ đều từ chữ chánh thể, đều từ bộ thạch chữ chuyển chú, sách Thuyết Văn giải thích tiếng đập với nhau vang ra tiếng lớn, chữ viết từ bộ thạch thanh hạp âm hạp ngược lại âm hàm lạp.

Chuyển táo ngược lại âm dưới tao tháo Cố Dã Vương cho rằng: Táo là động, Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Táo là không an định, sách Thuyết Văn hoặc là viết chữ táo từ bộ túc thanh táo âm táo ngược lại âm tao đáo.

Khang quáng ngược lại âm dưới hồ mảnh Tự Thư cho rằng: Quáng là lúa đại mạch hoặc là lúa quáng cốc tức là loại lúa thân cây rất yếu mềm, vỏ nhiều, tức là lúa lép, nhiều mà gạo lại ít, cũng gọi là quáng mạch cũng nói là cám nhiều mà ít gạo.

Tàm quý ngược lại âm trên tạp cam sách Thượng Thư cho rằng: Chỉ có người biết xấu hổ mới là đức tánh tốt, sách Thuyết Văn cho rằng: Tàm cũng là quý tức là hổ thẹn, chữ viết từ bộ tâm thanh trảm kinh văn viết chữ tàm cũng đồng.

Tích lịch ngược lại âm trên thiên mịch ngược lại âm dưới linh đích Ngọc Thiên giải thích: Tiếng sấm sét, nổ chấn động lớn, hai chữ đều từ bộ vũ.

Lãm lược ngược lại âm trên lam cảm âm dưới là lược gọi là thâu tóm lấy giữ, hoặc là viết chữ lược lại cũng có viết chữ cảnh âm ảnh nghĩa là đanh, e rằng chẳng phải chữ nghĩa này.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 2

Thiết tha âm dưới là thương hà sách Nhĩ Nhã cho rằng: Công nhân làm nghề mài ngọc, đá, theo chữ thiết tha nghĩa là nắm giữ lấy lý luận bàn bạc hết tận cùng của lý.

Sấm ký ngược lại âm sở cấm sách Hà Lạc Xuất Thụy nói: Đoán điềm tốt lành, lời dự đoán, kinh nghiệm.

Tá binh âm trên tinh diệc Thiên Thương Hoét ghi: Tá là giả mượn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lấy mượn chân giả, chữ viết từ bộ nhân thanh tích kinh văn viết chữ trách nghĩa là phụ trách chẳng phải chữ giả mượn, truyện viết sai.

Si ngai ngược lại âm dưới nhai giai chữ tượng thanh, đứa trẻ ngu độn, không có trí tuệ, hoặc hiểu biết chi cả.

Bôi khí ngược lại âm phối mỗi đồ sành sứ chưa nung gọi là phôi dụng cụ làm bằng đất.

Bể lê ngược lại âm trên bể mễ tiếng Phạm, tên của quốc vương.

Bố cự âm cự bố là lo sợ, Tự Thư cho rằng: Trong sách đều không có chữ này.

Bôn tẩu âm bôn.

Giới long âm trên là giới tức là bệnh ghẻ lở, ngược lại âm dưới lực sung da bị phong nhăn nhíu lại, khởi lên bệnh, Ngọc Thiên cho rằng: Bệnh mỏi mệt già yếu bệnh lâu ngày khó chữa, sách Thuyết Văn: Mệt mỏi chữ hình thanh.

Phách bể âm trên phổ bách sách Khảo Thanh cho rằng: Phách là phủi, vỗ vỗ, đánh nhẹ gõ gõ, chữ viết từ bộ thủ thanh bạch ngược lại âm dưới tỳ mễ sách Khảo Thanh cho rằng: Xương đùi ngoài, kinh văn viết chữ bể tục tự dùng cũng thông dụng.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 3

Huyết lưu văn cổ viết chữ lưu.

Cự tiểu văn cổ viết chữ đoản nay viết chữ đoản.

Tha tiết âm trên là tha ngược lại âm dưới diên kiết lại cũng là âm dĩ thế tha là lôi kéo, hai chữ đều từ bộ thủ chữ hình thanh.

Giác thuật ngược lại âm trên giang nhạc cũng viết chữ giác văn cổ viết chữ giác đều thông dụng.

Phách liệt âm trên ban mạch sách Khảo Thanh cho rằng: Dùng tay phanh xé ra, sách Thuyết Văn viết chữ tích ngược lại âm dưới liên triết.

Bao địa ngược lại âm tự mao hoặc là viết chữ bao hai chữ đều đồng dùng tay bế ẩm, chỉ kinh văn viết từ bộ túc viết thành chữ bao là chẳng phải âm bao.

Bôn đột ngược lại âm bổn môn sách Khảo Thanh cho rằng: Bôn là chạy trốn, hoặc là viết chữ bôn văn cổ viết chữ bôn lại cũng viết chữ bôn sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển đến bộ phẫn thanh tĩnh ngược lại âm dưới độn nột bổng nhiên con cho xuất hiện, hoặc là viết chữ đột gọi là đường đột bổng nhiên xông vào, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển đến bộ huyệt gọi là con chó trong hang chạy ra.

Thảm nhiên ngược lại âm trên sang cảm gọi là lo buồn sầu thảm.

Lũ thân ngược lại âm trên lực chủ theo Tả Truyện cho rằng: Người bị gù lưng Quảng Nhã cho rằng: Cái lưng cong lại chữ viết từ bộ nhân đến bộ lũ thanh tĩnh âm dưới là thân sách Chu Dịch giải thích: Khom xuống vì cầu duỗi thẳng ra, chữ viết từ bộ nhân thanh thân.

Thuần an ngược lại âm trên thùy luân sách Hoài Nam Tử nói rằng: con tôm muốn làm chim bồ câu, chữ viết từ bộ điểu đến bộ thuần thanh thuần âm dưới là án sách Quốc Ngữ chú giải rằng: Án là loài chim nhạn, đến mùa xuân thì hót, đến mùa thu thì bay đi, chữ hình thanh. Sở ngai ngược lại âm dưới ngã cái hoặc là viết chữ ngại gọi là ngăn cản trở ngại, sách Thuyết Văn viết từ chữ khái.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 4

Chuyên trường ngược lại âm duyên nhuyễn sách Khảo Thanh cho rằng: Bắp chân, hoặc là viết chữ thuyên duyên âm dưới là trường sách Khảo Thanh cho rằng: Thỏa thích vui vẻ, thông suốt trôi chảy, thông hỏi.

Bạc sát âm trên lung mạc gọi là đánh ném xuống đất, ngược lại âm dưới sơn lễ gọi là đâm, chém, đoạn mạng. Lũ bộ ngược lại âm lực chủ gọi là cong lại khom lưng mà đi.

Để Bồ-tát túc ngược lại âm trên thời nhĩ Ngọc Thiên cho rằng: Dùng lưỡi liếm thức ăn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thiết thanh thị văn cổ viết chữ dịch.

Hư hy âm trên là hư âm dưới là hy Cố Dã Vương cho rằng: Trong miệng hà hơi, than thở buồn rầu, tiếng khóc, hơi nghẹn, Thiên Thương Hoét giải: Khóc rống lên, hoặc là viết từ bộ khẩu viết thành chữ hư hy. Bính trước ngược lại âm trên binh mảnh Quảng Nhã cho rằng: Bính là sáng suốt, rực rỡ, hoặc là viết từ bộ hảo viết thành chữ bính kinh văn viết chữ bính cũng đồng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhật thanh bính âm mảnh ngược lại âm minh bính âm bính đồng với âm trên.

Ngung truất ngược lại âm ngu cung theo Mao Thi Truyện nói rằng: Ngung ngung là dáng cung kính, sách Thuyết Văn nói: Cái đầu to lớn, đồ sộ chữ viết từ bộ hiệt thanh ngung âm ngung đồng với âm trên.

Cấu thiên ngược lại âm trên câu hầu sách Khảo Thanh cho rằng: dùng tay vắt sữa dê, bò, hoặc là viết từ bộ dương viết thành chữ cấu văn cổ viết từ bộ thủ thanh cấu.

Yểm tệ âm trên là yểm ngược lại âm dưới ty duệ gọi là ngăn che, che dấu, thâu gom cất giữ, hoặc là viết chữ yểm gọi là che mà còn có dư bên ngoài, chữ chuyển chú. Huynh minh ngược lại âm trên ách kinh ngược lại âm dưới mạch bàn sách Khảo Thanh cho rằng: Bên trong, dưới của người phụ nữ, người phụ nữ mới về nhà chồng, mạnh mẽ, hai chữ đều từ bộ nữ đến bộ huynh thanh tĩnh chữ minh kinh văn viết chữ tân sao chép viết sai.

Hao đào ngược lại âm trên hao cao ngược lại âm dưới đường lao Ngọc Thiên cho rằng: Hao đào là khóc rống, sách Chu Dịch nói rằng: Trước khóc sau cười, sách Tập Huấn cho rằng: Tiếng khóc đau khổ, sách Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ hổ thanh hao.

Số nhuận ngược lại âm trên lôi tróc âm dưới nhuận luân không cố nhìn, con mắt nháy nhiều lần.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 5

Thiết dực ngược lại âm trên dăng tức sách Khảo Thanh cho rằng: Cây cột buộc trâu, bà, hoặc là viết chữ dực.

Khôn đầu âm trên là ngột sách Thuyết Văn nói: Cạo râu tóc chữ viết từ bộ tiêu thanh ngột âm tiêu ngược lại âm tất diêu lại cũng âm sam thích âm thích ngược lại âm thích diệc.

Dự ương ngược lại âm trên dựng tức sách Khảo Thanh nói rằng: Dực là cây cột trụ, cây cọc, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim viết thành chữ dực gọi là đĩnh có quai hai bên chẳng phải nghĩa đây dùng.

Vương huất nhất nhật phát ư thiện tâm ngược lại âm huân vật huất là bổng nhiên thốt nhiên nổi lên, chữ viết từ bộ diễm đến bộ khảm chữ hội ý.

Nhất toát ngược lại âm sang quát Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Toát là gom tụ lại, nếu viết chữ dư âm chẳng phải ý kinh, sách Tập Huấn giải thích: Hai tay bưng vật. Hoặc là lấy đồ đựng vật mà bưng hoặc là viết từ bộ thủ thanh tối.

Khất cái ngược lại âm cai ngải Thiên Thương Hoét ghi rằng: Người hành khất, cầu xin, sách Thuyết Văn viết từ bộ võng đến bộ nhân, giống như người tiêu mất hết tài vật tức là phải đi xin ăn, âm cai ngược lại âm cải hài âm ngãi ngược lại âm ngã cái.

Điềm đạm ngược lại âm diệp khiêm sách Thượng Thư cho rằng: Điềm là an, sách Phương Ngôn cho rằng: Tĩnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm đến bộ điền thanh tĩnh, ngược lại âm dưới đàm lam Cố Dã Vương cho rằng: Tâm ý an tĩnh điềm nhiên nhàn tịnh.

Phả đắc ngược lại âm bã khả không thể lường được. Thể quý ngược lại âm quý ủy sách Thuyết Văn giải thích: Tâm động sợ hãi, chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Thỉ nhĩ ngược lại âm thời nhĩ sách Thuyết Văn giải thích dùng lưỡi để liếm thức ăn, kinh văn viết chữ thị là chẳng phải.

Trâm mộc ngược lại âm trên sĩ tràn Quảng Nhã cho rằng: Cây cối mọc chằng chịt, rậm rạp um tùm, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh trân.

Tượng tháp ngược lại âm đàm hạp chân giẫm đạp lên.

Thực ế ngược lại âm yết kiết sách Thuyết Văn giải thích: Ăn cơm mắc nghẹn, ăn còn ở trong ngực không xuống được âm thất ngược lại âm trân lật.

Xa lịch ngược lại âm linh đích sách Khảo Thanh cho rằng: Chiếc xe lăn bánh nghiền nát.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 6

Phật tư ngược lại âm tử tư sách Vận Anh cho rằng: Tư là râu mép, hoặc là viết chữ tư sách Thuyết Văn viết chữ tư là lông mặt, gọi là râu bên miệng của Đức Như Lai, kinh văn viết chữ tư là không thành chữ.

Tịnh xưng ngược lại âm xích lăng sách Vận Anh cho rằng: Lượng đánh giá mức độ, sách Khảo Thanh cho rằng: Định mức độ nặng nhẹ, sách Thuyết Văn cho rằng: Định giá kỷ càng, chữ viết từ bộ hào thanh xưng âm xưng đồng với âm trên, kinh văn viết chữ xưng là chẳng phải.

Huyễn nhiên sách Lễ Ký giải thích: Đức Khổng Tử tự nhiên nước mắt rơi lã chã, sách Vân Thuyên cho rằng: Huyễn là lộ ra ánh sáng, vua Vô ưu nước mắt rơi lã chã. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh huyễn.

Bác miểu ngược lại âm diệu phiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Ngọn lúa tủa ra, dùng đầu gậy trúc thẳng treo phan, phướn, chữ viết từ bộ hòa thanh thiếu.

Bài thảng ngược lại âm trên bại mai âm dưới là đãng con cháu của vua vô ưu muốn hủy bỏ tháp, phá hoại chùa, lúc đó các chư thiện thần là hộ pháp là bài thảng ở trong biển lớn, trên núi xô đẩy đè vua và dùng tử binh đồng một lúc đều chết hết (813) vì vậy mà không còn, khỏi phải phá hoại chùa và tháp.

Thôi trách ngược lại âm thổ hồi âm dưới tranh cách tức là văn trên hai chữ bài thảng văn này thôi bài là núi lớn đến đè ép bốn binh của vua.

Ma-thẫn-đà ngược lại âm thi nhẫn tiếng Phạm tên của vị A-la-hán.

Khuyết-bồn-cốt ngược lại âm trên âm kế là bổ môn trên thân của Đức Như Lai, bên phải phía sau cổ, xương ngang trên ngực là xá lợi.

Cạnh thứ ngược lại âm trên cạnh lực âm dưới là thứ chữ chánh thể, kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ cước thứ là chẳng phải.

A-thố-la ngược lại âm nô hầu tiếng Phạm, tên của phu nhân Sư Tử quốc vương.

Trừu xoa ngược lại âm trên sửu lưu ngược lại âm dưới xa giai nhánh cây Bồ-đề mọc rễ.

A-phiêu-xoa ngược lại âm tất diêu tiếng Phạm, tên của người. Cơ giai âm giai kinh văn viết chữ dạ là sách viết sai.

Dĩ hạch ngược lại âm hạnh cách hột cây Bồ-đề nứt mầm.

Bát chu ngược lại âm trụ trù có nhiều gốc cây, chữ viết từ bộ mộc thanh chu.

Loan cộng âm trên lỗ hoàn ngược lại âm dưới cung lung sách Khảo Thanh nói rằng: Cành cây cong, gốc cây cong cành nghiêng một bên.

Tệ phiên âm trên tỳ duệ theo Tả Truyện cho rằng: Tệ là hư xấu mục rửa, âm dưới là phiên chữ viết từ bộ càn chữ tệ sách Thuyết Văn viết từ bộ tệ đến bộ bát đến bộ cân giống như là cái y bị phá rách, hư mục.

Trước ngạn ngược lại âm trên là trường lược ngược lại âm dưới ngã cán.

Phiếm dương ngược lại âm phương phạm tục tự viết chữ chánh thể là phiếm gọi là nổi trên mặt nước, không chỉ định, sách Thuyết Văn cho rằng: Phiếm là nước tràn, dâng lên, chữ viết từ bộ thủy đến bộ thanh dĩ ngược lại âm dưới dương tương gọi là chiếc thuyền cởi lên sóng nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh dương âm dương đồng với âm trên.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 7

Khuy chu ngược lại âm trên khuyển quy ngược lại âm dưới canh chu sách Khảo Thanh cho rằng: Nhìn trộm âm hưu ngược lại âm thanh dự du cũng là nhìn trộm, sách Tập Huấn giải thích: Ngó trộm, trộm nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ môn chữ hình thanh.

Tự phốc ngược lại âm bàng mạc gọi là đánh tát, giơ cao lên ném xuống đất, chữ viết từ bộ thủ thanh bộc.

Thiêm quan ngược lại âm trên đáp nam gọi là chân đèn, cũng có nghĩa là vác trên vai, nhấc cao lên, ngược lại âm dưới quan tức là cái quách, áo quan.

Bộ nhủ ngược lại âm trên bổ mộ ăn ngậm trong miệng, cũng như đứa trẻ bú sữa.

Hoắc nhiên âm trên hoang quách bổng nhiên ngộ ra, hiểu ra. Thô quảng ngược lại âm hổ mảnh gọi là hung hãn tánh ác.

Nhuyễn thúy ngược lại âm trên nhi nhuyến ngược lại âm dưới là huyên tuế.

Cảm kích ngược lại âm kinh diệc gọi là nước chảy xiết lên tung tóe.

Hạt-di-hầu ngược lại âm trên hao bát sách Khảo Thanh cho rằng:

Con mắt không thấy vật, chữ viết từ mục thanh hại.

Mậu nhất đẩu mễ ngược lại âm trên mâu hầu sách Tập Huấn cho rằng: Lấy vật đổi vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Trao đổi hàng hóa tài vật, chữ viết từ bộ uyển đến bộ bối cảnh hình thanh.

Tiên thích âm dưới thanh diệc sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng gieo độc hại.

Cây-tỏa âm trên là câu ngược lại âm dưới tang quả tiếng Phạm.

Tích tuyệt ngược lại âm trên là tỳ diệc tích là nhảy vọt lên, thân rơi vào đá vở vụn, chữ viết từ bộ túc thanh tích chữ chuyển chú.

Tu-mạc tiếng Phạm tên của Khãn-na-la Thiên Thần, người dịch kinh viết tùy ý, viết rất không xác đáng, còn nghi ngờ là tu mạc âm trên là tu âm dưới là mạc hồ.

Nhuyễn động âm trên nhuận duẫn loài côn trùng bò lúc nhúc.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 8

Bất thụ ngược lại âm dưới là thọ sách Vận Anh nói rằng: Vật được bán đi, thụ là bán chạy, nhanh, sách Vận Thuyên cho rằng: Vật bán được nhiều, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ chuy thanh khẩu cũng là chữ hội ý.

Sạn-đề ngược lại âm trên xác giản ngược lại âm dưới đề hề tiếng Phạm.

Đồng trân ngược lại âm tiết tiễn sách Thuyết Văn cho rằng: Đến kịp để tụ hội, văn cổ viết từ hai bộ chí viết thành chữ chân sách Thuyết Văn viết từ bộ chí đến bộ trân âm tiết ngược lại âm trang sắc âm tiên ngược lại âm sắc trân.

Tằng huyễn ngược lại âm huyền quyến sách Khảo Thanh cho rằng: con mắt động, cũng viết chữ huyễn đều từ bộ mục kinh văn phần nhiều viết từ bộ huyễn đến bộ mục viết thành chữ thuấn âm là thuấn gọi là không biết nguồn gốc chữ này, chẳng phải nghĩa kinh, người viết sách đều phỏng đại viết thành chữ.

Tập chi ngược lại âm tiềm sáp theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tụ tập Trịnh Tiển chú giải rằng: Thâu gom lại, sách Thuyết Văn giải thích: Cất chứa binh khí, chữ viết từ bộ qua thanh tập âm tập ngược lại âm sâm tập âm tiềm ngược lại âm trang âm.

Hội hội âm hội sách Khảo Thanh cho rằng: Vỡ đê nước tràn ra chữ viết từ bộ thủy thanh hội.

Phưởng phất ngược lại âm trên phương võng ngược lại âm dưới phi vị sách Khảo Thanh cho rằng: Thấy không rõ ràng, sách Vận Anh cho rằng: Loạn, sách Vận Thuyên cho rằng: Từ lúc muốn đến.

Ứ nê ngược lại âm trên ư cứ sách Khảo Thanh cho rằng: Ao nước dơ không chảy, trong ao có mùi bùn, bùn chứa lâu ngày gọi là ứ nê.

Nhân tế ngược lại âm trang giới gọi là bệnh nặng.

Chỉ trảo ngược lại âm trang giảo tượng hình là móng tay cào cấu, kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ trảo tục tự dùng thông dụng.

Tự quặc ngược lại âm câu quắc lấy tự móng tay vồ chụp lấy thân cào cấu, phá rách da thịt chảy máu ra, sách Thuyết Văn giải thích: Dùng tay đè xuống, ấn xuống, chữ viết từ bộ thủ thanh quặc âm quặc đồng với âm trên, âm khước ngược lại âm vương chước.

Quyện khuất ngược lại âm trên quỳ viên không thư thả, từ từ uống cong lại.

Diệm quang ngược lại âm trên diêm tiệm diểm là ánh sáng rực rỡ, kinh văn viết từ bộ kiểm viết thành chữ liểm là chẳng phải.

Gian y ngược lại âm giản hiệt Ngọc Thiện giải thích: Loại cỏ thơm, sách Thuyết Văn cho rằng: Xuất ra từ trong rừng nước Ngô, trên núi, cỏ rất mềm, kết cỏ làm y, cũng gọi là lượng y.

Hân dịch ngược lại âm diệc duyệt.

Ky dịch âm trên ký nghi gọi là dây cương buộc ngựa. Thiêu kỳ ngược lại âm thể khiêu gọi là chọn lựa, lấy mũi dao nhọn v.v... khều móc ra, chữ viết từ bộ thủ thanh triệu âm quyết ngược lại âm uy duyệt.

Tự đảm ngược lại âm đa cam đảm là gánh vác.

Lão mao âm dưới mao báo gọi là người già hôn loạn thường hay quên, tục tự thường hay dùng.

Bôn nhi ngược lại âm trên bổn môn sách Khảo Thanh cho rằng: Bôn tẩu, chạy trốn, nay viết chữ bôn sách Thuyết Văn nói: Một bầy trâu chạy, chữ viết từ bộ ngưu chữ hội ý.

Diêu đổ ngược lại âm đô cổ gọi là nhìn thấy.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 9

Y giới ngược lại âm dưới căn khắc sách Khảo Thanh cho rằng: Vạt áo trước, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh giới.

Thống dương âm dưới là dương dưỡng bệnh ngoài da phong ngứa, chữ viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm ni ách.

Bào khởi ngược lại âm phách mao sách Văn Tự Điển nói: Bọt nước nổi trên mặt nước, chữ viết từ bộ thủy thanh bao.

Âu-ha-sa ngược lại âm trên A-hầu tiếng Phạm, tên của cõi Bất Thiết Chư Phật Quốc Độ.

Tư hủy âm trên tư thử gọi là dùng lời ác mắng nhiếc hủy nhục.

Buộn điện ngược lại âm bồn muộn sách Thuyết Văn nói rằng: Bụi trần, đất dơ bám vào, hoặc là viết chữ buộn chữ viết từ bộ thổ thanh phần.

Nhất đích ngược lại âm định lịch sách Thuyết Văn cho rằng: Giọt nước chữ viết từ bộ thủy thanh đích âm đích đồng với âm trên, kinh văn viết chữ đế là chẳng phải.

Chỉ trạc ngược lại âm tràn trác sách Khảo Thanh cho rằng: Lựa chọn, tuyển chọn đề bạt lên, đưa lên chữ viết từ bộ thủ thanh trạc âm trạc đồng với âm trạch từ bộ vũ. Phiếu cấu ngược lại âm tất diêu sách Khảo Thanh cho rằng: Cất nhắc lên, giơ cao lên.

Luyến thủy âm trên quyết nguyện Quảng Nhã cho rằng: Luyến là cái gạt, thanh gạt, sách Thuyết Văn nói: Đong lường, chữ viết từ bộ đấu thanh luyến âm luyến ngược lại âm lực duyên kinh văn viết chữ quyển là chẳng phải.

Phiêu chu ngược lại âm trên thất diêu Ngọc Thiên cho rằng: Phiêu là lưu, trôi nổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Nổi trên mặt nước, chữ viết từ bộ thủy thanh phiêu kinh văn viết từ bộ thốn là chẳng phải.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 10

Bá đều ngược lại âm dưới đạo báng Trịnh Huyền chú giải đồng với sách Lễ Ký rằng: Đều là cái trống nhỏ có hai cáng người ta cầm nắm để lắc, một bên rủ xuống tai, da trống tự đánh mà nghe tiếng, chữ hình thanh.

Tự điểu thú âm trên tự dữ loài chim thú nó ăn thịt, sách Thuyết Văn nói: Mổ lương thực mà ăn, chữ viết từ bộ thực đến bộ nhân chữ hội ý, kinh văn viết chữ di là chẳng phải.

Quặc diện ngược lại âm cuồng khước âm khước, ngược lại âm ngọc ước sách Khảo Thanh cho rằng: Đánh tác, vặn ngược lại, dùng tay chộp lấy bẻ quặc mặt người ra phía sau, chữ hình thanh.

Phản mãi ngược lại âm phản vạn gọi là mua rẻ bán đắc, giá mắc, ngược lại âm dưới mai bại chữ chánh thể từ bộ xuất đến bộ mại nay tục dùng từ bộ thổ lầm sai vậy.

Quả lõa âm trên là quả tục tự dùng ngược lại âm dưới là lô quả trái trên cây gọi là quả trái dây leo bò dưới đất gọi là lõa chữ viết từ thảo đến bộ qua chữ hình thanh.

(814) Mậu ưng ngược lại âm trên mâu hầu tục gọi là trao đổi hàng hóa, chữ viết từ bộ noãn viết thành chữ mậu gọi là lấy vật đổi vật. Ngược lại âm dưới ức căng giống chim hung hãn, có thể bắt cả thỏ rừng, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh ứng.

Bàng bái ngược lại âm trên phổ man ngược lại âm dưới phi đại nước chảy nhiều xối xả, ào ạt, chữ hình thanh.

Cơ nhục âm trên là cơ ngược lại âm dưới là nhung lục chữ chánh thể, tục cùng với chữ lục là chẳng phải.

Sang di ngược lại âm trên sáng sương thịt bị thương tật, ngược lại âm dưới là di tên khác của cái sẹo.

Mi lộc ngược lại mỹ bi loại nai hươu.

Hùng bi âm trên là hùng ngược lại âm dưới bi loại gấu lớn.

Điêu thứu âm trên điêu loại chim to lớn có thể ăn cả hươu, nai, chồn, chó và thỏ, ngược lại âm dưới tựu.

Thông ổi ngược lại âm trên tông đồng Quảng Nhã cho rằng: Tóm buộc kết lại cái đông nhiều, sách Thuyết Văn cho rằng: Tụ buộc kết chặt lại, chữ viết từ bộ thủ thanh thông kinh văn viết chữ thông tục tự dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới ô hối không đúng, lạm dụng, tạp loạn, chữ viết từ bộ khuyển thanh ôi.

Sưu ngược lại âm trên tốc thu tục tự viết chữ chánh thể là chữ sưu lâu rồi không dùng âm này, ngược lại âm dưới là tư gọi là vết tật nhỏ, trong thịt có mọc sợi lông đen gọi là tỳ.

Thương địa ngược lại âm trên thương lượng lại là bình thanh, gọi là đầu chí đất.

Nục nhiên ngược lại âm trên nữ lục sách Phương Ngôn cho rằng: Nục là xấu hổ, hổ thẹn đỏ mặt, trong lòng xấu hổ, chữ viết từ bộ tâm thanh nhi.

Đột dúng ngược lại âm trên đồn nột đột nhiên chống cự. Quắc xưa âm là quỉ bích,

Trách trước ngược lại âm trên trương cách chuẩn với ý kinh, tức là hợp là cảnh trách phạt, hình phạt, dời đến ngã tư đường, khiến cho mọi người đều chỉ vào mà lăng nhục, xưa gọi là phạt tội nhẹ, trách mắng.

Khai quắc ngược lại âm hoang quách sách Thuyết Văn giải thích: Mây bay lã chã, tan biến trong mây, chữ chánh thể từ bộ vũ đến bộ duy viết thành chữ hoắc sách Thuyết Văn giải thích: Chim bay trong mây, mưa bay nhanh chóng, thanh hoắc kinh văn viết từ bộ hỏa viết thành chữ hoắc là chẳng phải, sách viết sai.

Cấu hạng ngược lại âm trên cẩu sĩ gọi là cống rảnh nước chảy thông ra, ngược lại âm dưới giang hang cũng là tên gọi khác của cống, rảnh nước chảy, đều từ bộ thủy chữ hình thanh.

Chương tử âm trên là chương âm dưới là tư tử tên của cây to lớn ở phương nam.

Chiên kế âm trên dương nhiên ngược lại âm dưới kinh lệ kinh văn viết chữ chiên là chẳng phải, sách Tập Huấn cho rằng: Thảm lông, âm dưới hoặc là viết chữ kế gọi là dệt lông làm chiếu.

Bĩ hổn ngược lại âm hồn khổn chữ thượng thanh, hổn là chỗ nước dục dơ, hoặc sạch.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 11

Chi kịch ngược lại âm cư nghịch tức là nay có loại guốc xương, giày cỏ, Tự Thư cho rằng: Thuộc guốc gỗ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chân mang guốc cây, chữ viết từ bộ lý tóm thanh chi kinh văn viết chữ lý tục tự dùng thông dụng.

Xi tiếu ngược lại âm trên xỉ chi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Xi đó là trò cười, theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Ý chí hòa vui vẻ, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ khẩu thanh xi âm xi đồng với âm trên.

Quật khẫn ngược lại âm quần huất sách Ngọc Thiên cho rằng: Quật gọi là lấy cái mai, cái xẻng mà đào đất, Quảng Nhã cho rằng: Đào xuyên qua, Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh khuất ngược lại âm dưới khang ngận sách Khảo Thanh cho rằng: Khẩn là cày ruộng, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Cày ruộng khai khẩn đất dùng sức lực mà đoạn đất mảnh vụn ra, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh khẩn.

Tương sách ngược lại âm sài trách sách Khảo Thanh cho rằng: Sách là cắn, sách Thuyết Văn viết chữ trách ngược lại âm tranh trách.

Phả đắc ngược lại âm trên bã ma văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích đầy đủ rồi.

Mậu hầu tử ngược lại âm trên mao hầu văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

U lược ngược lại âm dưới là cường lượng sách Văn Tự Tập Lược nói rằng: Lược đó là bủa lưới bên đường, sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy cung lưới bao trùm bắt chim thú, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cung thanh kinh. Mã não ngược lại âm trên ma ba ngược lại âm dưới na lão sách Khảo Thanh cho rằng: Mã não giống như ngọc mà có vân đen, cũng gọi là ban ngọc, Tự Thư cho rằng: Mã não là thứ ngọc đá xấu kém, sách Văn Tự Điển nói hai chữ đều từ bộ thạch đều là thanh mã não âm đồng với âm trên, hoặc là viết từ bộ ngọc viết thành chữ mã não.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 12

Vũ tề ngược lại âm dưới tề tế Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Mưa tạnh gọi là tề sách Khảo Thanh cho rằng: Bầu trời trong sáng, sách Thuyết Văn cũng giải thích: Mưa vừa tạnh chữ viết từ bộ vũ thanh tề.

Gian uế ngược lại âm trên giãn nhan ngược lại âm dưới là vu phế Tự Thư cho rằng: Không sạch sẽ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Uế là xấu ác, dơ uế, chữ viết từ bộ hòa thanh tuế hoặc là viết chữ uế cũng thông dụng.

Vu hoành ngược lại âm trên là vô Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vu là khinh khi, sách Khảo Thanh cho rằng: Nói thêm vào chê bai, vu oan chuyện không mà nói có, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Vu giống như là lừa dối, sách Thuyết Văn giải thích: Nói thêm vào, chuyện không mà nói có, chữ viết từ bộ ngôn thanh vu âm vu đồng với âm trên, ngược lại âm dưới hoàng mạnh sách Vận Lược cho rằng: Hoành chẳng phải lý mà đến, sách Sử Ký cho rằng: Tung hoành, ngang dọc, sách Khảo Thanh cho rằng: Không thuận theo lý lẽ, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh hoàng kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ hoành cũng thông dụng cả hai.

Mật đoàn ngược lại âm dưới đoạn loan Quảng Nhã cho rằng: Đoàn là dùng tay đào xới, nắm vắt cho dính lại với nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh duyên.

Phu thủ âm trên phổ tên của Bồ-tát chữ viết từ bộ phu.

Nguy thúy ngược lại âm dưới thuyên nhuế Quảng Nhã nói rằng: Thúy là mềm, sách Thuyết Văn cho rằng: Thúy là thịt nhuyễn dễ cắt, chữ viết từ bộ nhục đến bộ tuyệt thanh tĩnh âm nhuyễn ngược lại âm nhị nhuyến.

Cân bì âm trên là càn sách Chu Lễ cho rằng: Người xuyết sư nuôi dưỡng gân, sách Thuyết Văn nói gân là sức mạnh của cơ bắp, chữ viết từ bộ trúc trúc đó là loại thực vật có nhiều gân rễ đến bộ lực giống như nhiều gân cốt là nhiều sức mạnh, kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ cân là chẳng phải.

Hà mô âm trên là da ngược lại âm dưới mã ba Thiên Thương Hoét ghi rằng: Hà nô là con tôm sống dưới nước, lại cũng gọi là con ễnh ương, sách Thuyết Văn viết chữ hà nô hai chữ đều từ bộ trùng.

Anh lạc ngược lại âm trên ích danh âm dưới lang các sách Khảo Thanh cho rằng: Cổ đeo đồ trang sức, chữ viết từ bộ ngọc chữ hình thanh.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 13

Uất-bể ngược lại âm dưới là Bệ-mễ tiếng Phạm.

Sầu hội ngược lại âm dưới là cổ đối sách Khảo Thanh cho rằng: Hội là buồn rầu, lo nghĩ, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tâm loạn chữ viết từ bộ tâm thanh hội.

Kinh giác ngược lại âm dưới giao hiệu lại cũng như chữ giác sách Khảo Thanh cho rằng: Giác là ngủ mà biết, Cố Dã Vương cho rằng: Ngủ mà nói trong mê, sách Thuyết Văn cho rằng: Tỉnh dậy chữ viết từ bộ kiến đến bộ học thanh tĩnh chữ mượn âm.

Dục niết ngược lại âm dưới nghiên kiết sách Thuyết Văn nói: Niết là cắn, chữ viết từ bộ xỉ thanh kiết âm kiết ngược lại âm khang bát kinh văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ niết tục tự dùng chẳng phải đúng.

Mậu trí ngược lại âm trên mâu hậu sách Thuyết Văn cho rằng: Mậu là trao đổi hàng hóa, mua bán, chữ viết từ bộ bối thanh á văn cổ viết từ bộ uyển ngược lại âm dưới trì lợi Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trí là dày đặc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trí chữ hình thanh.

Nham quật ngược lại âm dưới khôn cốt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đào đất làm nhà, theo Thanh Loại cho rằng: Con thỏ làm hang chỗ nằm ẩn náu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ huyết thanh khuất hoặc là viết chữ quật.

Đãng bát ngược lại âm trên đường đãng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đãng là đu đưa, lại cũng gọi là khuấy động, rung động, sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩy rửa làm sạch dụng cụ, chữ viết từ bộ mảnh thanh đãng.

Truất nghịch ngược lại âm xuân luật sách Phạm Ninh Tập giải rằng: Truất là thối lui, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phạm lỗi, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tổn giảm, buông thả ra, sách Thuyết Văn nói biếm chức, cách chức, chữ viết từ bộ hắc thanh xuất ngược lại âm dưới xương chích Cốc Lương Truyện nói rằng: Nghịch là chỉ, sách Bát Nhã cho rằng: Đẩy ra, sách Khảo Thanh cho rằng: Theo đuổi, sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiễm thanh nghịch âm nghịch là âm nghịch kinh văn viết chữ can tục tự dùng chẳng phải.

Kiền-chùy ngược lại âm trên kiện yên ngược lại âm dưới là trường truy tiếng Phạm, kinh văn viết chữ truy tục tự dùng cũng thông dụng.

Bị tẫn ngược lại âm tất nhẫn gọi là đuổi ra ngoài chúng vĩnh viễn bỏ đi.

Điệu đầu ngược lại âm trên điều điếu sách Khảo Thanh cho rằng:

Điệu là quấy động, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Điệu là lắc lư, đu đưa, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ đến thanh trác.

Nhân quyến ngược lại âm dưới là quý luyến sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Lấy sợi dây quấn buộc chặt lại gọi là quyên hoặc là viết chữ quyến xưa nay Chánh Tự viết từ bộ võng thanh quyên.

Khất cái ngược lại âm dưới cát ngãi văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích rồi.

Tự vẫn ngược lại âm dưới văn phân sách Khảo Thanh cho rằng:

Vẫn là đoạn lìa, Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Cắt ra, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh vật.

Sang lẫm ngược lại âm lực cẩm sách Khảo Thanh cho rằng: Lẫm cũng là sang tức là kho chứa đầy lúa mạch, chữ sang văn cổ viết chữ sang chữ tượng hình, nay bộ hóa viết thành chữ lẫm khi dùng chữ viết đan nghi ngờ rất sai lầm, không có nghĩa lý nên không lấy dùng.

Bào tế ngược lại âm dưới tế tề Trịnh Tiển chú giải sách Chu Lễ rằng: Tế là dùng tiển đưa người đi, Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tế là chuẩn bị đầy đủ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ di vật, chữ viết từ bộ bối thanh tế kinh văn viết chữ lai tục dùng cũng thông dụng.

Loa kế ngược lại âm trên khỏa qua ngược lại âm dưới kê nghệ sách Khảo Thanh nói rằng: Quấn tóc bới lên làm búi tóc, tức là Như Lai tóc xoắn về phía bên phải như khu ốc sên vấn thành búi tóc, kinh văn viết từ bộ trùng viết thành chữ loa tục tự dùng cũng thông dụng.

Ương-già ngược lại âm trên quyết hương tiếng Phạm, tên của nước Tây Vực.

Sắc nhiên ngược lại âm trên sở trắc Bì Thương cho rằng: Sắc là lo sợ, sách Thuyết Văn cho rằng: Ý đau khổ, bị thương, chữ viết từ bộ khiếm thanh sắc âm sắc đồng với âm trên, kinh văn viết chữ sắc là chẳng phải.

Phi-lật tiếng Phạm, ở Tây Vực tên Sá Phật. Bạt-đề âm trên là bàn cát cũng là tiếng Phạm.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 14

Câu-hy-la ngược lại âm trên cự ngung âm dưới xỉ chỉ tiếng Phạm, tên của cậu ngài Xá Lợi Phất.

Suyễn suyễn ngược lại âm xuyên nhuyễn Quảng Nhã cho rằng: Suyễn là chuyển xoay, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Hơi thở của người gọi là suyễn sách Thuyết Văn nói là thở nhanh, chữ viết từ bộ khẩu thanh xuyên âm xuyên là âm suyễn.

Khái quán ngược lại âm trên cơ vị Cố Dã Vương cho rằng: Khái cũng gọi là quán gọi rót rượu, sách Trang Tử nói rằng: Lấy nước tưới lên cánh đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Khái cũng là quán chữ viết từ bộ thủy thanh khái ngược lại âm dưới quan hoán Cố Dã Vương cho rằng: Quán giống như là tưới nước mưa thuận mùa, sách Khảo Thanh cho rằng: Quán là ngâm vào nước, rót, tưới nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh quán âm quán đồng với âm trên.

Nhân man ngược lại âm dưới mang bàng.

Không anh ngược lại âm ách canh sách Khảo Thanh cho rằng: Cái bình cổ dài, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái bình cổ dài, chữ viết từ bộ phửu đến bộ huỳnh thanh tĩnh kinh văn viết anh tục dùng cũng thông dụng.

Nhiếp phục ngược lại âm trên chiêm thiệp Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nhiếp cũng là phục, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhiếp giống như mê hoặc, sách Thuyết (815) Văn cho rằng: Thất thanh, khiếp sợ, chữ viết từ bộ tâm thanh nhiếp âm nhiếp ngược lại âm niêm triếp.

Tức mộ ngược lại âm dưới mạc bố Thiên Thương Hoét ghi: Mộ là hỏi thăm cầu tìm, sách Thuyết Văn cho rằng: Tìm kiếm khắp nơi rộng cầu, chữ viết từ bộ lực thanh mạc.

Ác thiết ngược lại âm dưới thiên diệt sách Phương Ngôn cho rằng: Thiết là buồn bực trong lòng, Quách Phác chú giải rằng: Thiết là tính nóng nảy bồn chồn, bực dọc, khó chịu, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh tệ âm tệ, ngược lại âm tất duệ.

Sở thích ngược lại âm dưới thanh chích văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Xuy kích ngược lại âm dưới kinh diệc Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Nước chảy xiết gọi là kích Vương Dật chú giải sách Sở từ rằng: Cảm kích. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nước chảy ngăn lại nên bắn lên tung tóe, có những lượng sóng dập lên, chữ viết từ bộ thủy thanh kích âm kích đồng với âm trên.

Đại tích ngược lại âm dưới tư dịch Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Chứa nhiều gọi là tích sách Khảo Thanh cho rằng: Tích tụ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hào thanh trách kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ tích cũng thông dụng.

Bằng hộ ngược lại âm dưới hồ cổ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hộ là chỗ nương dựa vào, theo Tả Truyện cho rằng: Dựa vào tài năng của chính mình, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh cổ.

La tỳ ngược lại âm dưới là bể di tên của vua Tây Quốc, kinh văn tự giải thích rằng: Gọi là vua Nguyệt Quang.

Hoài hiệp ngược lại âm dưới hiềm giáp Trịnh Huyền chú giải sách nghi lễ rằng: Phương cách nắm giữ cây cung, mũi tên gọi là hiệp Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hiệp là ôm giữ cái ý, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiệp là che giấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ gia tăng cố giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh giáp âm giáp là âm giáp.

Phúc phách ngược lại âm dưới phổ bách Quảng Nhã cho rằng: Phách là đánh gõ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng:

Phủi, vỗ nhẹ, chữ viết từ bộ thủ thanh bạch.

Xúc di sơn ngược lại âm trên thu dục Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Dùng chân đá ngược lại phía sau gọi là xúc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Xúc cũng là nhiếp tức là đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Đạp lên, chữ viết từ bộ túc thanh tựu.

Bệ bát ngược lại âm trên bại hài ngược lại âm dưới phiền miệt sách Khảo Thanh cho rằng: Bể cũng là bát, theo chữ bể bát đó là bện tre trúc, gỗ làm bè nổi trên mặt nước. Lại cũng gọi là bè lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ chữ bể từ bộ thủy thanh bể âm bể ngược lại âm tất nhĩ bát là chiếc thuyền lớn trong biển, chữ viết từ bộ mộc thanh phát kinh văn viết chữ bẽ phạt tục tự dùng cũng thông dụng.

Nhi tôn ngược lại âm dưới là tồn sách Khảo Thanh cho rằng: Ngồi duỗi chân thẳng ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngồi xổm, chữ viết từ bộ túc thanh tôn.

Nhu thắp ngược lại âm trên nhũ chu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Nhu ngâm trong nước, lại gọi là thấm ướt trơn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh nhu âm nhu là âm tu âm dưới là thâm nhập Cố Dã Vương cho rằng: Thấp giống như thấm nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm thấp, u ám, chữ viết từ bộ thủy đến bộ nhất nhất là che đậy, đất mà có nước cho nên gọi là ẩm thấp, chữ viết từ bộ hiển đó tục tự dùng chẳng phải.

Quán bồn ngược lại âm dưới thể bôn văn trước trong quyển thứ sáu đã giải thích rồi.

Đĩnh chúc ngược lại âm dưới đình đĩnh chữ thượng thanh, sách Phương Ngôn cho rằng: Đĩnh là ban tặng, Tự Thư cho rằng: Tiến vào, theo chữ đĩnh chúc đó là thuộc đèn nến, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh đĩnh.

Chữ nhẫn ngược lại âm dưới nhân chấn bao gồm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Bảy thước gọi là một nhẫn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đo lường độ sâu gọi là nhẫn sách Thuyết Văn cho rằng: Một cánh tay dài bằng tầm, chữ viết từ bộ nhân thanh nhẫn.

Thiên khái ngược lại âm dưới cải hài gọi là danh pháp số, mười trăm ngàn vạn ức triệu kinh tỹ hài lại cũng nói là thiên hài, đó là số quá rộng quá nhiều.

Phân để ngược lại âm dưới tể nê tiếng Phạm, ở Tây Vực gọi là độ dài lâu.

Phao trịch ngược lại âm trên phách mao sách Khảo Thanh cho rằng: Phao là ném, Bì Thương cho rằng: Phao cũng là trịch, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Phao là đánh, chữ viết từ bộ thủ thanh phao âm phao ngược lại âm bổ giao ngược lại âm dưới là trình diệc Quảng Nhã cho rằng: Trịch là chấn xuống, Cố Dã Vương cho rằng: Đâm vào, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ném, chữ viết từ bộ thủ thanh trịch Tự Thư viết chữ trích nay kinh văn viết chữ trịch và chữ phao đều là chữ dùng thông dụng.

Toát ma ngược lại âm trên toán quát lại cũng âm là thoán quát hai chữ âm giải thích dùng đều đồng, sách Khảo Thanh cho rằng: Toát là nắm lôi kéo, Tự Lâm cho rằng: Tay gom lại nắm giữ lấy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ đến bộ tối cũng là thanh.

Khiêm khác ngược lại âm trên liêm các Khổng An Quốc chú giải sách Thiên Thương Hoét rằng: Khác là cung kính. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh khách theo Tự Thư viết đúng là chữ khác kinh văn viết chữ khác tục tự cùng cùng thông dụng.

Bảo khả ngược lại âm dưới khả hà Quảng Nhã cho rằng: Khả là viên ngọc đẹp, Bì Thương cho rằng: Loại mã não, Cố Dã Vương cho rằng: Xuất ra từ trong biển lớn, trắng sạch như tuyết, chỗ gọi là anh mã ưng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngọc thanh khả âm ưng ngược lại âm ức căng.

Bất trú ngược lại âm dưới chu lũ Thiên Thương Hoét cho rằng: Trú là dừng lại. Sách Thuyết Văn nói: Con ngựa đứng lại, chữ viết từ bộ mã thanh chủ.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 15

Đam-lam ngược lại âm trên đáp hàm âm dưới lạp đam tiếng Phạm, âm lạp là âm lạp.

Y khỏa ngược lại âm dưới qua hỏa gọi là bao gói lại. Cao dực ngược lại âm dưới dăng tức Quách Phác chú giải sách.

Nhĩ Nhã rằng: Dực là cây cọc cột trâu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh dực.

Dung xuy ngược lại âm trên thúc dung sách Chu Lễ giải thích: Dung là đập giã, Thế Bổn giải thích: Ung phụ làm cối có chày để giã, sách Thuyết Văn cho rằng: Giã thóc, giã gạo, chữ viết từ bộ cũng tức là tay nắm giữ lấy chày, đến bên cái cối, ngược lại âm dưới xuất thùy sách

Trang Tử nói rằng: Có nhiều gạo mà phải thổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thổi nấu chín, chữ viết từ bộ hỏa thanh khiếm âm thoán ngược lại âm thô loạn.

Phần đồi ngược lại âm trên phân vấn ngược lại âm cho rằng: Phần là trừ bụi bặm, sách Thuyết Văn cho rằng: Quét trừ bỏ bụi đất dơ, chữ viết từ bộ thổ thanh biện âm biện là âm biện ngược lại âm dưới đối hồi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đồi cao, đồi đất cao, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh duy kinh văn viết chữ đồi tục tự dùng cũng thông dụng.

Hệ khước duệ ngược lại âm dưới di tế lại âm diên kiết Cố Dã Vương cho rằng: Duệ là giống như dẫn dắt, Quảng Nhã cho rằng: Dẫn dắt, sách Thuyết Văn giải thích là kéo thẳng ra, chữ viết từ bộ thân thanh quý âm quý ngược lại âm dư quý kinh văn viết chữ duệ tục tự dùng thông dụng.

Tất-lăng-già-bà-tha ngược lại âm dưới Thố-hà tiếng Phạm, tên của vị A-la-hán.

Tập hý ngược lại âm dưới hy nghị văn trước đã giải thích nhiều lần rồi, cho nên không lại giải thích nữa.

Nghị thát ngược lại âm trên đát đát sách Lễ Ký nói rằng: Thát là loài cá để cúng tế, sách Thuyết Văn nói Loại cá giống như con chó nhỏ vào trong nước mò bắt cá ăn, tức là con rái cá, chữ viết từ bộ khuyển thanh lãn. Khẩn thổ ngược lại âm trên khôn ngận văn trước trong quyển thứ mười một đã giải thích rồi.

Cư ty âm dưới là tư Quảng Nhã nói rằng: Ty là người để sai khiến Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Là người cắt cỏ ngăn phòng làm đê gọi ty Cố Dã Vương cho rằng: Là người hèn hạ làm nô dịch, như chẻ củi, cắt cỏ cho ngựa ăn, nuôi ngựa, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nghiểm thanh ty âm nghiểm ngược lại âm ngư liểm.

Bất thiển ngược lại âm dưới thiên điển Khổng An Quốc chú giải sách Thiên Thương Hoét rằng: Điển là dày, Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Là tốt lành, sách Phương Ngôn cho rằng: Có con sâu đục khoét làm quên, Quảng Nhã cho rằng: Đến kịp, sách Khảo Thanh cho rằng: Tốt đẹp, hay, sách Thuyết Văn cho rằng: Đầy đủ, giỏi hay, khéo léo, chữ viết từ bộ nhục thanh điển.

Vãng triệt ngược lại âm dưới là sĩ liệt theo Mao Thi Truyện nói: Triệt là lột ra, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tước lột bỏ đi, Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Trừ bỏ, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hư hoại, Quảng Nhã cho rằng: Giảm lấy bớt ra. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh tán.

Nhân nhục ngược lại âm trên nhất dần Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhân cũng là nhục ngược lại âm dưới như chúc Cố Dã Vương cho rằng: Lấy da con hổ hoặc là làm gấm thêu, làm mền, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiều lớp chiếu, chữ viết từ bộ thảo thanh nhân âm dưới là nhục.

Hổn trung ngược lại âm trên hồn ổn chữ thượng thanh. Văn trước trong quyển thứ mười đã giải thích đầy đủ rồi.

Hôi xúc ngược lại âm trên hối ổi nói cùng với âm khôi cũng đồng, Bì Thương cho rằng: Con heo nó đào đất, Tự Thư cho rằng: Con heo ủi đất, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trùng thanh trĩ kinh văn viết từ bộ tỵ viết thành chữ hôi chưa rõ chữ này.

Ngân niết ngược lại âm trên là khôn ẩn sách Khảo Thanh cho rằng: Ngân là cắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngân cũng là viết, chữ viết từ bộ xỉ thanh cấn kinh văn viết chữ chẫn là chẳng phải, ngược lại âm dưới nghiên kiết văn trước đã giải thích nhiều lần rồi.

Xí-tát ngược lại âm trên là khí dĩ tiếng Phạm, tên của Sư Tử Vương ở Tây Vực, kinh văn viết chữ xí là sai.

Lạc dịch ngược lại âm trên lãng các Trịnh Huyền chú giải kinh Sơn Hải rằng: Lạc là quấn quanh, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Buộc, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cũng là buộc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch là âm mịch kinh văn viết từ bộ ngọc viết thành chữ lạc là dùng sai chữ, ngược lại âm dưới là chinh diệc Bì Thương cho rằng: Dịch là dưới nách, ở phía sau khuỷu tay, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ nhục thanh dạ âm lạc ngược lại âm cang ngạc lại cũng là âm cách.

Tiễn kiết ngược lại âm trên tiên tiển Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tiển sợi chỉ, tục viết chữ diên chữ viết đúng là từ bộ mịch thanh tàn âm tàn ngược lại âm tại an xưa viết chữ tuyến lại viết chữ diên.

Niết chất ngược lại âm trên niệm Quảng Nhã cho rằng: Niết là lắp bít lại, Cố Dã Vương cho rằng: Niết là đào giếng, sách Âm Nghĩa Hán Thư cho rằng: Dùng tay bày ra cho bằng, Hán Vương dùng tay khỏa cho bằng, hoặc là viết chữ nhiếp theo Thanh Loại viết chữ niết xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh niệm, ngược lại âm dưới trân lật Hứa thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Chất là đánh tát dùng tay đánh, Quảng Nhã cho rằng: Đâm vào, sách Khảo Thanh viết chữ chất xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh chí.

Bình ông ngược lại âm trên tinh minh Tự Thư cho rằng: Cái bình chứa nước. Lại gọi là cái bình nhỏ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngõa thanh tinh ngược lại âm dưới ông cống xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cái bình miệng nhỏ bụng to, chữ viết từ bộ ngõa thanh cộng kinh văn viết chữ bình ung tục dùng cũng thông dụng.

Thiết bán ngược lại âm dưới ban mạn sách Khảo Thanh cho rằng: Dây cương buộc ngựa, buộc hai chân ngựa. Hán Thư cho rằng: Thông suốt nghĩa ky bán sách Thuyết Văn cho rằng: Trói buộc chân ngựa, chữ viết từ bộ mịch thánh bán kinh văn viết từ bộ cách viết thành chữ bán là sai, âm triếp ngược lại âm tri cập.

Môn mạc ngược lại âm trên một bôn ngược lại âm dưới môn bát theo Mao Thi Truyện giải thích môn là nắm giữ, theo Thanh Loại cho rằng: Môn cũng là mạc, sách Phương Ngôn cho rằng: Mạc là phủi, vỗ phủi bụi, sách Văn Tự Điển nói: Hai chữ đều từ bộ thủ đều thanh môn mạc.

Hòa kiệt ngược lại âm trên hộ qua tiếng Phạm, kinh văn viết chữ hòa theo Tự Thư cho rằng: Đều không có chữ hòa này.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 16

Tương trách ngược lại âm dưới là trương cách văn trước trong quyển thứ mười đã giải thích rồi.

Trù trí ngược lại âm trên trữu lưu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi lễ rằng: Trù là tính toán, vạch kế hoạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng thẻ tre giống như mũi tên đếm, chữ viết từ bộ trúc thanh trù.

Lịch thạch ngược lại âm trên linh đích sách Sở Từ nói rằng: Lịch là bình để đá quý vào, loại ngọc xấu kém, sách Thuyết Văn cho rằng: Đá nhỏ, chữ viết từ bộ thạch thanh lạc.

Cổ phản ngược lại âm trên cổ hộ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Vật mà thừa ông gọi là thường cư tức là ngồi một chỗ mà bán, bán ra gọi là cổ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cổ là mua, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mua bán ngoài chợ, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh á âm cổ là âm cổ ngược lại âm dưới phát vạn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sớm mua, chiều bán, sách Thuyết Văn cho rằng: Mua rẻ bán mắc, chữ viết từ bộ bối thanh phản.

Bất tư ngược lại âm tử tư Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tư là tài sản, Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là tài sản riêng trong nhà, Quảng Nhã cho rằng: Tư là hàng hóa vải vóc, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh thử.

Tháo thấu ngược lại âm trên tao lão Cố Dã Vương giải thích: Tháo cũng là tẩy rửa cho sạch sẽ, Quảng Nhã cho rằng: Hòa hợp, sách Thuyết Văn cho rằng: Rửa tay, chữ viết từ bộ thủy thanh táo ngược lại âm dưới sưu cứu Quảng Nhã cho rằng: Thấu là sái tẩy rửa, sách Thuyết Văn nói tẩy rửa (816) xong rồi, chữ viết từ bộ thủy thanh thấu.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phỉ Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Vĩ vĩ giống như vi diệu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vĩ vĩ là gắng sức, sách Khảo Thanh cho rằng: Tốt đẹp, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tiến lên, gắng lên, chữ viết từ bộ thả đến bộ hoán thanh tĩnh âm hoán, ngược lại âm thất loạn.

Dĩ điệp ngược lại âm dưới điềm hiệp Bì Thương cho rằng: Điệp là thảm cỏ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mao thanh điệp âm điệp đồng với âm trên.

Thư trùng ngược lại âm trên thất dư sách Khảo Thanh cho rằng: Trong thịt đã mục rửa, và trong nước tương có con giòi, viết đúng là chữ thư xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh thư.

Trảo quắc ngược lại âm trên trảo sao ngược lại âm dưới khoáng hoạch Bì Thương giải thích: Đánh tát vào má, Cố Dã Vương cho rằng: Nay cũng nói vào tai vậy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phộc thanh các kinh văn viết chữ quắc tục tự dùng cũng thông dụng, âm quảng ngược lại âm hồ mảnh.

Bi đầu ngược lại âm trên bỉ bì Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Bi giống như con gấu, mà đầu dài, chân cao, có nhiều năng lực sức mạnh, có thể nhổ gốc cây cột trụ cổng, cửa tây, gọi là gấu khỉ, sách Thuyết Văn nói: Như con gấu mà lông màu trắng vàng lẫn lộn, chữ viết từ bộ bi đến bộ bãi thanh tĩnh âm hà là âm da.

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 17

Tây mạo âm dưới mao báo Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mạo là người già hay hôn loạn, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Mê muội hay quên, sách Thuyết Văn viết chữ mạo từ bộ lão đến bộ cao tóm lược kinh văn viết từ bộ lão thanh mao văn cổ viết chữ mạo nay thời không dùng.

Bất tư âm dưới tử từ sách Phương Ngôn nói rằng: Giữa đông sở phàm là năng chứa nhiều sữa thường sinh đôi đó gọi là tư tư đó sách Thuyết Văn giải thích siêng năng, không biết mệt, miệt mài chăm chỉ, chữ viết từ bộ tử thanh tư âm nghiệt ngược lại âm ngôn liệt.

Tĩnh mạc ngược lại âm trên tình tĩnh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tĩnh là định nghĩ một việc mưu tính, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tĩnh là an, Mao Thi Truyện lại nói rằng: Tĩnh là sửa trị, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lập thanh thanh âm dưới mang bác Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Mạc chính xác, xác thật, lại cũng gọi là thanh tịnh mà cũng là chí kính, lại cũng gọi là sửa chữa, Cố Dã Vương nói rằng: An tịnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh mạc.

Dâm dật âm trên là dâm ngược lại âm dưới dẫn nhất Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Dật cũng là dâm sách Khảo Thanh giải thích: Ý vui vẻ hoan lạc thỏa thê, buông thả, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh thất kinh văn viết từ bộ nữ viết thành chữ dật tục tự dùng cũng thông dụng.

Thiệt thỉ âm dưới thực nhị văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích đầy đủ rồi.

Thảm thích âm trên thiên cảm thảm là lo buồn,

Quảng Nhã cho rằng: tham, xưa nay Chánh Tự cho rằng:

Độc hại chữ viết từ bộ tâm thanh sâm âm dưới đinh đích, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: thích là lo sợ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tật bịnh, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Kinh sợ, chữ viết bộ tâm thanh dị.

Tiển kỳ âm trên tiết tiền sách Khảo Thanh giải thích: Thẻ tre nhỏ, sách Thuyết Văn giải rằng: Biểu thức, ghi chú thích, chữ viết từ bộ trúc thanh tàn âm tàn ngược lại âm tại an.

Bột cuồng âm trên bồn một Cố Dã Vương cho rằng:

Bột là bùng lên, dạt dào, tràn trề, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bổng nhiên bừng lên, sách Phương Ngôn cho rằng: Từ từ phát ra, sách Thuyết Văn nói:

Xô ra, đẩy ra, chữ viết từ bộ lực thanh bột âm bột đồng với âm trên, kinh văn viết từ bộ tâm viết thành chữ bột cũng thông dụng.

Thư trí ngược lại âm trên từ dữ theo Mao Thi Truyện nói rằng: Thư là hư hoại, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Sai trái, lầm lỗi, chữ viết từ bộ thủy thanh thư. Lý tỷ âm dưới sư tử sách Khảo Thanh cho rằng: Lý là không giẫm đạp lên gót chân, theo Thanh Loại cho rằng: Viết chữ tỷ lý là giày dép da, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lý tóm lược thanh tỷ hoặc là viết chữ tỷ âm đê ngược lại âm đinh hề.

Đốt đốt ngược lại âm đôn ôn Tự Thư giải thích: Đốt đốt là la hét, mắng mỏ, giận dữ, sách Khảo Thanh cho rằng: Mắng nhiếc, sách Thuyết Văn cho rằng: Cùng nhau lời qua tiếng lại, chữ viết từ bộ khẩu thanh xuất.

Khốc liệt ngược lại âm trên không cốc sách Phương Ngôn giải thích rằng: Khốc là rượu nồng, nóng nhiệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Rượu đậm đặc mùi vị nồng, lại cũng gọi là bạo ngược, Tàn Hại gọi khốc chữ viết từ bộ dậu thanh khốc âm khốc ngược lại âm cốc.

Tuấn tắc âm trên là trắc.

Hoán nhiễm ngược lại âm trên là hoàn uyển Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hoán là tẩy rửa, Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hoán là tẩy đi cái cũ, dơ bẩn, cũng gọi là trạc cũng viết chữ hoán sách Thuyết Văn viết chữ hoán từ bộ thủy thanh hoàn âm hoàn là âm hoàn.

Mãn bách ngược lại âm bành mạch sách Khảo Thanh cho rằng: Bách là thuyền lớn ở đảo Côn Lôn, Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Bách là thuyền lớn, Bì Thương, Thiên Thương Hoét đều giải thích: Chiếc thuyền đi trong biển lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ chu thanh bạch lại cũng viết chữ bách.

Tảo tuệ ngược lại âm dưới tùy nhuế sách Khảo Thanh cho rằng: Tuệ là cây chổi, sách Thuyết Văn viết chữ tuệ là cây chổi cán tre, chữ viết từ bộ thảo thanh tuệ âm tuệ đồng với âm trên.

Hoắc nhiên âm trên hoang khuếch văn trước trong quyển thứ mười đã giải thích rồi, kinh văn viết từ bộ hỏa viết thành chữ hoắc là chẳng phải.

Ngoan độn ngược lại âm trên ngũ quan âm dưới đồn đốn độn là thánh ngưng trệ chậm lụt, Như Thuần chú giải sách Sử Ký rằng: Ngoan độn giống như là không biết xấu hổ, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Độn cũng là ngoan theo Thanh Loại cho rằng: Không lanh lợi, hoặc là viết chữ đốn sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh độn âm độn là âm con.

Cụ nhiễu ngược lại âm dưới ni điểu văn trước tròn quyển thứ nhất đã giải thích đầy đủ rồi.

Già-cù ngược lại âm dưới Cụ-câu tiếng Phạm. Bàtha âm dưới thổ hà tiếng Phạm.

Sư-tử-tung ngược lại âm dưới chúc dụng Quách Phác chú giải rằng: Trung là sửa, nay Giang Nam người ta cũng gọi sửa là trung sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh trung.

Long tàn âm trên lục trung Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Long là bệnh dịch, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bệnh tật lâu ngày, xưa nay Chánh Tự giải thích: Bệnh mỏi mệt, chữ viết từ bộ tật thanh long âm long đồng với âm trên.

Tiển tháp âm trên tiền diễn Mao Thi Truyện giải thích: Tiển là dáng mạo đi, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiển là đè xuống, Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Mang giày dép giẫm đạp lên, âm dưới là đàm lạp Cố Dã Vương cho rằng: Tháp cũng là xúc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Gót chân sau đá lên, Quảng Nhã cho rằng: Mang giày giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Đạp lên, tiển cũng là tháp hai chữ đều từ bộ túc đều thanh tiển tháp âm tháp đồng với âm trên, âm đế là âm đề kinh văn viết chữ tháp là chẳng phải.

Lược trung âm trên cường khoái văn trước trong quyển thứ mười một đã giải thích rồi.

Dĩ phủ âm dưới phu vũ Cố Dã Vương cho rằng: Phủ giống như là phủi bụi, vỗ vỗ đập đập. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh phó.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 18

Phẩu phúc âm trên phổ khẩu theo Tả Truyện nói rằng: Phẩu là phân ra, Thiên Thương Hoét cho rằng: Chẻ ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thâu hậu.

Mặc nhiên âm trên mộng bắc âm mộng ngược lại âm mặc băng Tự Thư giải thích tĩnh mặc, yên lặng không nói, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Con chó không sủa, tạm thời đuổi theo người, chữ viết từ bộ khuyển thanh hắc kinh văn viết chữ mặc tục tự dùng thông dụng.

Bì quyện âm trên bị bi Quảng Nhã giải thích bì là bệnh, Cố Dã Vương cho rằng: Mệt mỏi, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lao nhọc, chữ viết từ bộ tật thanh bì âm dưới là quyền viện chữ thượng thanh, kinh văn viết từ bộ tâm viết thành chữ quyện cũng thông dụng.

Điệu quý âm trên điều điếu sách Khảo Thanh cho rằng: Điệu là quấy động, Quảng Nhã cho rằng: Tin chấn động, sách Thuyết Văn giải: Đu đưa, chữ viết từ bộ thủ thanh trác âm dưới là quy quý sách Khảo Thanh cho rằng: Quý là tâm kinh sợ, giận dữ, sách Thuyết Văn cũng giải thích: Tâm động, chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Ông trùng âm trên ốc hồng sách Phương Ngôn nói: Con ong nhỏ đó gọi là ông, Quách Phác chú giải rằng: Con ong eo lưng bé nhỏ, sách Thuyết Văn giải thích ông là con ruồi to lớn chui rúc trong da con trâu, ngựa, chữ viết từ bộ trùng thanh ông âm nhu ngược lại âm yến kế. Đố trùng âm trên đô cố sách Chu Lễ người học trò dùng kéo cắt trừ bỏ đi vật bị con mọt đục khoét, sách Thuyết Văn nói: Là con mọt đục trong gỗ, chữ viết từ bộ côn đến bộ đố thanh tĩnh âm côn ngược lại âm cổ hồn.

Cam giá âm dưới giá dạ sách Khảo Thanh cho rằng: Giá là tên của loại cỏ, nay gọi là cam giá, sách Sở Từ cũng nói: Tên loại cỏ, loại cỏ này có nước ngọt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cam giá tức là mía, cây lau ngọt chữ viết từ bộ thảo thanh giá âm chư là âm chư.

Nhất hộc âm dưới hồng hộc sách Nghi Lễ nói rằng: Mười đấu là một hộc sách Thuyết Văn cho rằng: Dụng cụ đong lường, chữ viết từ bộ đấu thanh giác kinh văn viết chữ hộc tục tự dùng cũng thông dụng.

Si minh ngược lại âm trên sĩ tri văn trước trong quyển thứ hai đã giải thích rồi, âm dưới mịch bình sách Khảo Thanh cho rằng: Minh là tối tăm, u ám, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tối mịt mù, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Không thể thấy rõ, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm u, chữ viết từ bộ nhật đến bộ lục tức là đêm tối ngày mười

-mười sáu (10-16) là mặt trăng bắt đầu khuyết cho nên tối âm u, bộ mịch là che, âm mịch là âm mịch kinh văn viết chữ nghi là chẳng phải.

Mạc nhiên âm trên mang bác Mao Thi Truyện nói rằng: Mạc là dáng to lớn đồ sộ, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mạc là xa tít, Quách Phác chú giải rằng: Rộng lớn, lại gọi là mạc mạc rất xa xăm, Quảng Nhã cho rằng: Nhiều, tràn đầy, dạt dào. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh mạo âm mạo là âm mạo kinh văn viết chữ mạo là sai.

Nhục tiếu âm dưới tiểu tiều gọi là bệnh gầy ốm, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tiếu là trừ bỏ bệnh đau đầu, Bì Thương cho rằng: Tiếu bệnh khát nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếu là bệnh đau đầu, nhức đầu, chữ viết từ bộ tật thanh tiếu âm tiếu là âm tiếu.

Chi khải âm dưới khai cải Quảng Nhã cho rằng: Áo giáp, sách Thuyết Văn giải thích: Cũng là áo giáp, chữ viết từ bộ kim thanh khải.

Tiển thanh âm trên tiên tuyến sách Khảo Thanh cho rằng: Tiển là nước không sạch, sách Sử Ký nói rằng:

Nhìn kỹ mà xem nước máu huyết hôi tanh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh tiện hoặc là viết chữ tiên âm dưới là tĩnh tinh Tự Thư cho rằng: Thanh là chuồng heo, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhà xí, nhà vệ sinh, hoặc là viết chữ thanh xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vi thanh thanh âm vi là âm vi.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 19

Tỷ-để âm trên là tỷ ngược lại âm dưới Đê-lễ tiếng Phạm tên là Tam-muội.

Tử hủy âm trên tư thử văn trước trong quyển thứ chín đã giải thích đầy đủ rồi.

Buộn diện âm trên bồn muộn văn trước trong quyển thứ chín đã giải thích đầy đủ rồi.

Luyến thủy âm trên quyết nguyện văn trước trong quyển thứ chín đã giải thích đầy đủ rồi.

Chu cùng âm trên kỳ chu văn trước trong quyển thứ chín đã giải thích đầy đủ rồi.

Khiển tụy âm trên khiên kiến Quảng cho rằng: Khiển trách, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Quát mắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Tra hỏi, chữ viết từ bộ ngôn thanh khiển âm dưới tuy túy trong Quy Tạng giải thích rằng: Tụy là trong tư mạng, sách Thuyết Văn nói tụy là thần gây họa, chữ viết từ bộ thị thanh xuất kinh văn viết chữ tông viết thành chữ tụy là sai chẳng phải.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 20

Đàm ấm âm trên hám cam âm dưới âm cấm sách Khảo Thanh cho rằng: Đàm là bệnh hen suyển, trong phổi có đàm, Văn Tự Tập Lược nói rằng: Bệnh trong ngực, theo chữ đàm âm đó bệnh trong ngực phổi có nghẹt đàm, hai chữ đều từ bộ tật đều thanh đàm âm âm cách là âm cách.

Huyễn hoặc âm trên huyền quyến Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Huyễn cũng là hoặc, gọi là mạo điên cuồng, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Nhìn thấy không rõ ràng, sách Thuyết Văn giải rằng: Con mắt không thường làm chủ, chữ viết từ bộ mục thanh huyền kinh văn viết chữ huyễn là sai chẳng phải.

Bàn ngọa ngược lại âm trên bán quan Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bàn là con rắn to lớn nằm khoanh cái bụng lại, Cố Dã Vương cho rằng: Bàn xoay chuyển uốn khúc lượn quanh, Quảng Nhã cho rằng: Cuốn cong lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh phiên.

(817) Đương kiêu âm dưới hiểu nghiêu văn trước trong quyển thứ tám đã giải thích đầy đủ rồi.

Sáp thấu âm trên bị đáp Bì Thương cho rằng: Sáp là cắn môi, sách Khảo Thanh cho rằng: Sáp là đớp mồi, Vận Lược cho rằng: Sáp là đưa vào miệng, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngậm trong miệng, chữ viết từ bộ khẩu thanh táp hoặc là viết chữ tiềm âm dưới song tróc sách Khảo Thanh cho rằng: Sắc là bú, múc, sách Vận Lược cho rằng: Ngậm trong miệng, theo chữ đó là con muỗi, loài côn trùng, cắn chính nhiều người còn ngậm máu trong bụng, chữ viết từ bộ khiếm thanh sắc kinh văn viết chữ thấu tục tự dùng thông dụng.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 21

Âm trên đãng lãng sách Phương Ngôn cho rằng: Tắc trách qua loa, căng thẳng, trương lên chống mưa gió, Quảng Nhã cho rằng: Cũng là đột xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh đường âm dưới độn cốt Tự Thư cho rằng: Đột là lau chùi, sách Văn Tự Điển nói: Bổng nhiên xông vào, chữ viết từ bộ thủ thanh đột.

Cự hư âm trên cự ngữ âm dưới hứa cư sách Khảo Thanh cho rằng: Cự hư giống như con lừa mà nhỏ hơn, cái mặt ngắn hơn gay cúp lại, tục gọi là con ngưu lừa, con lừa cái, con lừa sanh sản ra lừa con cũng gọi là thác bạch hai chữ đều từ bộ mã đều thanh cự hư âm loa ngược lại âm lực qua.

Trường tiển âm dưới tiên tiển văn trước trong quyển thứ mười lăm đã giải thích đều rồi, kinh văn viết chữ diên tục tự dùng cũng thông dụng.

Dã hồ âm trên da thả kinh văn viết từ bộ trùng viết thành chữ cổ nghĩa là yêu cổ và chữ cổ đạo cũng là thông với loài yêu thú.

Thô quáng âm dưới hồ mảnh Tự Thư cho rằng: Quáng người to lớn lực lưỡng, hung ác đồng như con chó hung hãn không thể tới gần, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển đến bộ khoáng thanh tĩnh.

Tả khóa ngược lại âm khoa quả chữ thượng thanh tục tự dùng thông dụng, Bì Thương giải thích Khoa là xương hông, xưa nay Chánh Tự viết chữ hà lại viết chữ khả lại cũng viết chữ khỏa lại cũng viết chữ khỏa kinh văn viết từ chữ khách viết thành chữ khá tóm lại không định thể, các nhà nho tùy ý viết âm cũng không phải là một, cũng đều gọi là xương hông, sách pho cho rằng: Không đồng, chưa biết giữ lấy dùng, nay đều tùy theo sách viết mà dùng chữ vậy.

Dư hoàn âm trên dữ ủ chữ hình thanh hai chữ khiêng vật cồng kềnh.

Trảo hoạch ngược lại âm hoằng hoạch gọi là dùng tay bắt lấy, kinh văn lại viết từ bộ quốc viết thành chữ quắc là sai chẳng phải.

Phác phá âm trên là bàng bác Thiên Thương Hoét ghi rằng: Dùng tay đánh ném xuống đất, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh bộc.

Trà ca la âm trên trà kinh Văn Tự giải thích chẻ vật cứng.

Hải thích âm trên hài ngai âm dưới thể diệc hải thích đó là lo buồn kinh sợ.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 22

Toa thảo âm trên tỏa hòa Thiên Thương Hoét ghi rằng: Toa là tên của loại cỏ, Văn Tự Điển nói: Loại cỏ kết làm áo che mưa, lại cũng kết làm tấm bạc che trùm xe, chữ viết từ bộ thảo thanh suy âm liệu là âm lão.

Luyến tích âm trên luyến viên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Luyến là bệnh, Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là bệnh thân thể quắp lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh luyến âm luyến đồng với âm trên, hoặc là viết chữ luyến ngược lại âm dưới tinh tích, Cố Dã Vương cho rằng: Tích gọi là bệnh chân nghiêng một bên, teo rút không thể đi được, sách Thuyết Văn cho rằng: Chân què không thể đi được, chữ viết từ bộ chỉ thanh tích cũng từ bộ túc viết thành chữ tích tục tự dùng cũng thông dụng. Kình quyền ngược lại âm dưới quyển viên Hà Hưu chú giải Công Vương Truyện rằng: Quyền là cái nắm tay, quả đấm, sách Khảo Thanh cho rằng: Bàn tay nắm lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ đến bộ quyển thanh tĩnh Tự Thư viết đúng là chữ quyền kinh văn viết chữ quyền cũng đồng.

Quan chiêm ngược lại âm dưới điềm chiêm Bì

Thương nói rằng: Chiêm là thanh gỗ cài cửa, sách Khảo Thanh cho rằng: Nay người ta gọi là then cửa. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hộ thanh chiêm âm di là ấm di âm cập là âm cập.

Khánh thấu âm trên khinh đĩnh Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khánh là tiếng, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng ho, chữ viết từ bộ ngôn thanh khánh âm khánh đồng với âm trên, ngược lại âm dưới sưu thấu Bì Thương nói rằng: Thấu là bệnh hàn nhiệt, sách Khảo Thanh giải thích: Hơi xông lên cổ họng, tức là ho, cũng viết chữ thấu tục viết chữ thấu xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tật thanh thấu âm thấu là âm tốc.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 79

-Âm Kinh Luật Dị Tướng

(Từ quyển hai mươi ba đến hết quyển thứ năm mươi.)

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 23

Khôi vỹ âm trên cổ hồi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Khôi là loại đá đẹp, so với ngọc lại kém hơn, Bì Thương cho rằng: Khôi vỹ là quý lạ, quý hiếm, sách Thuyết Văn nói rằng: Ngọc màu hồng, chữ viết từ bộ ngọc chữ hình thanh, hoặc là cũng viết từ chữ hoài kinh văn viết chữ hội là dùng sai chữ, sách Khảo Thanh cho rằng: Khôi vỹ đó là thân thể đẹp kỳ lạ cao to lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngọc.

Đàn-nhị-ky âm giữa ni trí âm dưới ký nghi tiếng Phạm, ở Tây Vực tên của phụ nữ, hoặc là viết chữ ky cũng thông dụng.

Phục hội ngược lại âm dưới hồi đối sách Khảo Thanh cho rằng: Hội là vở đê, tan vở, Thiên Thương Hoét cho rằng: Vở đê nước tràn vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước rĩ xuống dột, chữ viết từ bộ thủy thanh hội.

Phôi dụ âm trên phối mai sách Khảo Thanh cho rằng: Phôi là đồ sành sứ, đồ gốm chưa nung, đó gọi là phôi sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ chữ hình thanh.

Tràng chung ngược lại âm trên trạc giang Cố Dã Vương cho rằng: Tràng giống như là đánh gõ, Văn Tự Điển nói: Dùng cán chày đập giã bên sọt vào đâm vào, chữ viết từ bộ thủ thanh đồng.

Vĩ diệp âm trên vi quỷ theo Mao Thi Truyện nói rằng: Vĩ là màu sắc đỏ rực, sách Khảo Thanh cho rằng: Vĩ diệp là màu sắc rực rỡ sáng chói, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh vĩ âm dưới đạm triếp Mao Thi Truyện nói vĩ diệp là tiếng nổ sấm sét, sách Sở Từ nói rằng: Lửa đỏ rực, sách Thuyết Văn nói, ánh sáng rực rỡ, chữ viết từ bộ nhật thanh diệp.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 24

Tiêm dung âm trên tương diệm âm dưới lung long theo Mao Thi Truyện cho rằng: Dung là quân đều ngưng lại, hoặc là từ bộ nhục viết thành chữ dung xưa nay Chánh Tự cho rằng: Quân đều, thẳng thắn, chữ viết từ bộ nhân thanh dung âm dung là âm dung.

Gian điền âm dưới điền tiền sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy trân bảo mà lắp vào nhà, làm đồ trang sức, kinh văn viết từ bộ ngọc viết thành chữ điền là sai, chẳng phải chữ.

Như cấu âm dưới câu hầu sách Khảo Thanh cho rằng: Cấu gọi là lấy sữa dê, sữa bò, chữ viết từ bộ thủ đến bộ cấu thanh tĩnh.

Ngưu trung ngược lại âm gia dụng âm ngô gọi sửa là trung nay Giang Nam thấy dùng âm này, chữ viết từ bộ thủy thanh trung.

Ninh nhược âm trên mịch canh âm ngô sách Văn Tự Tập Lược nói: Bệnh ác tính, sách Khảo Thanh cho rằng: Ốm gầy, chữ viết từ bộ nhân thanh ninh.

Bố súc âm dưới là sở lục theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Súc thâu gom lại, co lại, thối lui, chữ hình thanh.

Tương bính âm dưới binh mảnh trong quyển thứ tư trước đã giải thích rồi.

Đăng chú âm trên là đăng Văn Tự Điển nói rằng: Đăng là đèn sáng, chữ viết từ bộ hỏa âm dưới chu thụ sách Tập Huấn viết chữ chủ chủ đó là tim đèn.

Áo ế âm trên ưu lục Bì Thương cho rằng: Áo đau buồn bên trong, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Áo, tiếng than thở đau khổ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khẩu thanh áo âm dưới yên kiết theo Mao Thi Truyện nói rằng: Ế là lo buồn không thể thở được, sách Khảo Thanh cho rằng: Nghẹt thở trong ngực, trong cổ họng, hoặc là viết chữ tế sách Thuyết Văn cho rằng: Ăn cơm mắc nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế.

Huyễn âm trên huyền quyến văn trước trong quyển thứ tám đã giải thích rồi.

Hề kích ngược lại âm trên hồ kê Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hề là đường nhỏ trong hang, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đường dẫn cầm thú đi, xưa nay Chánh Tự giải thích: con đường nhỏ trong hang núi, chữ viết từ bộ túc thanh hề.

Trì trất âm dưới trân sắc sách Khảo Thanh cho rằng: Trất là cây lược sách Thuyết Văn cho rằng: Tên gọi chung cây lược chải tóc, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết âm sơ là âm sớ.

Danh nam âm dưới di hàm tiếng Phạm tên của vua ở Tây Vực, Đúng hợp từ bộ ngôn viết thành chữ nam từ bộ khẩu thanh nam tục tự dùng thông dụng.

Nhục pháo âm dưới pháo mao sách Khảo Thanh cho rằng: Trên mặt nổi mụt mụn nhỏ, sách Thuyết Văn nói pháo nhục là trong nóng nhiệt, chữ hình thanh.

Hỏa tĩnh âm dưới là tịnh hoặc là viết chữ tĩnh Quảng Nhã cho rằng: Tĩnh là cái hầm, sách Khảo Thanh nói rằng: Đào xuyên qua đất làm cái hầm bẩy thú, sách Thuyết Văn nói con thú chạy qua rơi xuống hầm, chữ viết từ bộ phụ thanh tĩnh hoặc là viết từ bộ huyệt.

Mộ đắc âm trên là mộ.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 25

Tước dĩ âm trên tương dược Quảng Nhã nói rằng: Tước là cho ăn, cũng gọi là nhai, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhai, chữ hình thanh.

Khước đăng âm trên chữ chánh thể, chữ khước sách Thuyết Văn viết từ bộ cước âm cước ngược lại âm cường ngược chữ tượng hình.

Giải yểm âm trên là giới Quảng Nhã cho rằng: Giải là lười biếng, sách Thuyết Văn nói: Giải đãi chữ viết từ bộ tâm thanh giải hoặc là viết chữ giải.

Hy hý âm trên hỹ nghi sách Khảo Thanh cho rằng: Hy là đẹp vui vẻ, hài hòa, dạo chơi, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh hỹ ngược lại âm dưới hy nghị theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hý là bày trò vui vẻ phóng dật, buông thả, sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh hư âm hy ngược lại âm hân y kinh văn viết từ chữ lui viết thành chữ hy là sai chẳng phải, gọi là không thành chữ.

Vãn thân âm trên là vãn sách Khảo Thanh cho rằng: Vãn sinh sản, sách Thuyết Văn giải thích: Khi sinh đứa con phải kéo thân ra, chữ viết từ bộ tử thanh.

Khỏa quật âm trên khổ hòa sách Khảo Thanh cho rằng: Cái hang chim ở gọi là khỏa, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tổ chim chữ viết từ bộ huyệt thanh quả âm dưới khổ cốt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quật là đào đất làm nhà, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ huyệt thanh khuất.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 26

Ngã khỏa ngược lại âm dưới lô quả gọi là cởi y ra để lộ thân thể, văn trước đã giải thích rồi.

Nhuyễn động âm trên nhuận chuẩn sách Khảo Thanh cho rằng: Loài côn trùng bò lúc nhúc, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh nhuyễn.

Kịch tang âm trên kình nghịch sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm là bệnh ít giảm mà lại gia tăng thêm gọi là kịch Cố Dã Vương cho rằng: Kịch là rất nặng, Thiên Thương Hoét ghi bệnh trầm trọng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh kịch.

Sách sát âm trên sai trách văn trước trong kinh quyển thứ mười một đã giải thích đầy đủ rồi, chữ viết từ bộ khẩu viết thành chữ trách là sai, ngược lại âm dưới sơn trác.

Hoài bạn âm dưới là bàn tên của người.

Sang vưu âm trên sáng trang (818) ngược lại âm dưới hữu cầu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Vưu là bệnh sưng, thủng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm nữ ách thanh vưu hoặc là viết chữ vưu đều thông dụng.

Âu-hòa âm trên Âu-hầu tiếng Phạm, Đường Huyền Trang dịch là Ba-la-mật.

Kiểu nhiễu âm trên là hiểu theo Thanh Loại cho rằng: Buộc quanh, vấn quanh, níu chân, kìm giữ, ngược lại âm dưới nhi chiểu hai chữ đều giãi như nhau, nghĩa là ràng buộc.

Bệ-lệ âm trên Bại-bế âm dưới Lê-đế tiếng Phạm, chuyển đọc sai, đúng gọi là Tất-lệ-đa Đường Huyền Trang dịch tên của loài ngã quỷ, âm bệ ngược lại âm Bệmể.

Trụ địa ngược lại âm chu lũ văn cổ viết, nay gọi là một điểm là vậy.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 27

Tương hiệu âm dưới hào giáo Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hiệu là dạy, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ phộc thanh học âm phộc ngược lại âm phổ bốc.

Sắc tắc âm trên sơ sắc xưa nay Chánh Tự cho rằng: Sắc thửa ruộng vuông tề chỉnh. Chữ viết từ bộ điền đến bộ nhân bộ duy âm dưới tăng tắc gọi theo chỗ đất bít lấp. Hoảng dực âm trên hoàng quảng Quảng Nhã cho rằng: Ánh sáng quang huy rực rỡ, Văn Tự Điển nói: Ánh sáng mặt trời chiếu soi, chữ viết từ bộ nhật thanh quang âm dưới dung lục sách Khảo Thanh cho rằng: Dực cũng là ánh sáng rõ ràng, chữ viết từ bộ nhật thanh lập.

Nhục luyến âm dưới loan quyển sách Thuyết Văn nói: Xắt thịt mỏng gọi là nhục loan.

Liễu liễu âm trên liêu điểu âm dưới điêu liễu sách Phương Ngôn giải thích: Treo ngược, đảo ngược, sách viết chữ liễu gọi là dùng sợi dây treo ngược con chim. Người ta thường nói con chim ác, tức là chim bất hiếu ăn thịt mẹ.

Hoang hoang âm trên là hoang gọi là con mắt không thấy rõ, chữ viết từ bộ mục thanh hoang âm hoang đồng với âm trên.

Toan đông âm trên tô quan sách Khảo Thanh cho rằng: Bệnh đau nhức, sách Khảo Thanh cho rằng: Bệnh nhức đầu, chữ viết từ bộ tật chữ hình thanh âm tật là âm nạch.

Hạm xa âm trên hàm ảm sách Khảo Thanh cho rằng: Hạm là hàng rào, là cái chuồng nuôi thú vật, cái củi lớn, tủ lớn, nhà lao, vườn có tường bao quanh nhốt tội nhân, tội rất nặng, người bỏ tội nhân vào trong cái tủ lớn, chỉ ló cái đầu ra gọi là hạm rồi dùng xe chở đem đi.

Xá lô âm trên là lô sách Thuyết Văn nói: Lô là đòn kê nằm trên cột trụ, theo kiến trúc nhà cổ, chữ viết từ bộ mộc thanh lô.

Giai thụ trên là chữ giai từ bộ nhật ngược lại âm dưới thù hựu Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Bán vật, hòa hợp, bán đắc, bán chạy gọi là thụ.

Phong xú âm trên phốc bang Bì Thương cho rằng: Phong gọi là bắp chân, phần dưới gối, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh phong.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 28

Để đột âm trên đinh lễ sách Sử Ký nói rằng: Để là va chạm xúc chạm với nhau, kinh văn viết chữ để cũng thông dụng, nhưng chẳng phải bổn chữ.

Tốc chỉ âm trên song tróc gọi là ngậm trong miệng, bú sữa, văn trước trong quyển thứ hai mươi đã giải thích.

Diêu gia âm trên lỗ tiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Lò đúc đồ gốm, sách Thuyết Văn cho rằng: Lò nung đồ sứ, chữ viết từ bộ huyệt đến bộ diêu diêu cũng là thanh.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 29

Nhũ bộ âm dưới bổ mộ văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích đầy đủ rồi.

Siểm siểm ngược lại âm khổ nhiễm sách Khảo Thanh cho rằng: Mắt không định, sách Thuyết Văn nói mắt nhìn tạm thời, gọi là chớp mắt nhiều lần, chữ viết từ bộ mục thanh đạm.

Trứu lưu âm trên trâu sưu sách Khảo Thanh cho rằng: Da tụ lại Văn Tự Điển nói rằng: Da rộng ra tụ lại tức là da nhăn nheo, âm dưới lưu trụ sách Khảo Thanh cho rằng: Lưu đó là bệnh có khối u nổi lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh sưng nhỏ, chữ viết từ bộ tật.

Kiết quyết âm trên kiết ngược lại âm dưới là quyết Quảng Nhã cho rằng: Bại, quỵ xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Té ngã ngửa, hai chữ đều từ bộ túc chữ hình thanh.

Thực khào ngược lại âm khảo cao Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khào là xương mông đít, chỗ tận cùng của xương sống, sách Nghi Lễ nói: Xương hai bên hông cơ thể, thuộc xương sườn, sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ thi thanh cửu.

Phân-để âm trên bút vấn âm dưới đinh hề tiếng Phạm.

Bồ bặc âm trên bộ mô âm dưới bằng bắc sách Thuyết Văn nói: Bồ bặc đó là hai tay, hai chân bò lê dưới đất, hai chữ đều từ bộ bao.

Điên quyết âm trên điển niên âm dưới là quyết gọi là điềm rồ lồng lộn, văn trước đã giải thích rồi.

Cường phụ âm trên cương ngưỡng Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Phụ đó lấy dụng cụ gọi là bọc lại, sách Tập Huấn giải thích: Lấy cái mền bao bọc gói đứa trẻ lại bồng ẵm đó gọi là cường phụ.

Hao hống âm trên hiếu giao âm dưới hồ cấu Bì Thương giải thích: La hét lớn tiếng giận dữ, gầm thét rống lên giống như, bò rống, hổ gầm, tiếng thét giận dữ gọi là hao hống chữ hình thanh.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 30

Cẩn diệp âm trên cân ẩn sách Khảo Thanh nói rằng: Cẩn là tên của cây, sách Nhĩ Nhã nói rằng: Cây cẫn diệp lá màu hồng tím, sớm tươi tốt mà chiều thì héo úa, lá của cây này có thể ăn được lại rất ngon, chữ viết từ bộ mộc thanh cẫn.

Môn khổn ngược lại âm khôn ổn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khổn là cửa hẹp, Văn Tự Điển nói thuộc khu vực nhỏ hẹp, chữ viết từ bộ môn thanh khổn cũng gọi là khu vực.

Kiêu ngạo âm dưới ngã cáo Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ngạo mạn khinh thường không thân thiện với bạn bè, theo Tả Truyện cho rằng: Không kính, Tự Thư cho rằng: Khinh mạn, chữ viết từ bộ nhân đến bộ ngạo chữ đúng thể là chữ ngạo.

Huyễn dung âm trên quyết nhuyễn ở Tây Vực tên người.

Lung lệ âm trên lộc chung âm dưới lê đế Tự Thư cho rằng: Trước không có hai chữ này, là người dịch kinh nhân nói sách khác, lung lệ đó là can cường khó khuất phục, hai chữ đều từ bộ tâm chữ hình thanh.

Liệt thủ âm trên liên tiết sách Khảo Thanh cho rằng:

Liệt là dùng tay vặn bẻ, ném, bẻ gãy, âm ao ngược lại âm á giao gọi là dùng sức vặn bẻ, đè giữ lấy.

Thuần vị âm trên thuận luân sách Chu Dịch nói rằng: Tinh duyên thuần túy, Quảng Nhã cho rằng: Dày, chữ viết đúng thể thuần nay tục viết chữ thuần cùng là một nghĩa.

Phi kỹ âm trên phi vi Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Hai chức của các bà vợ vua ngày xưa, tiếng gọi khả ái đối với người phụ nữ, người phụ nữ ở trong cung cấm, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh dĩ Thiên Thương Hoét ghi rằng: Kỹ là người phụ nữ đẹp, là người ca hát.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 31

Triết thích âm trên triển liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Triết là côn trùng đi gieo độc hại, Quảng Nhã cho rằng: Triết là côn trùng cắn chích rất đau, âm dưới thanh chích nghĩa này cũng đồng âm trên.

Thân ngâm âm trên là thân âm dưới là ngập kim sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng than thở đau khổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Thân cũng là ngâm đều từ bộ khẩu chữ hình thanh.

Tự hổ âm trên từ tự sách Khảo Thanh cho rằng: Cùng nuôi cung cấp cho súc vật ăn, cho ngựa ăn.

Mân manh âm trên văn ngô lại cũng âm mật bân sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng biết bay cắn người, lúc chiều tối là bay ra, ngược lại âm dưới mạch bành, sách Thuyết Văn giải thích: Loài côn trùng lớn biết bay ra cắn người, như con ruồi, tục viết chữ manh nghĩa giải thích cũng đồng âm trên, chữ văn manh hai chữ đều tục tự dùng thông dụng.

Nhai sài âm trên là nhai âm dưới là tử theo nghĩa kinh nhai sài đó là há miệng lộ răng ra trợn mắt, gọi là nhe răng trợn mắt giận dữ, người nhe răng ra tỏ ra có thế lực. Trong kinh từ bộ trảo đến bộ quắc viết thanh chữ quắc từ bộ mục đến bộ thử viết thành chữ tư đều là truyện viết sai, rất là không có nghĩa lý gì hết, nay cho nên sửa đổi lại là bộ mục chữ hình thanh.

Trảo địa âm trên là bao bao tục tự dùng thông dụng, hoặc là viết chữ phù gọi là dùng chân trước mà cào đất, như con bò, hổ, mèo, chó, lúc giận dữ dùng chân trước cào đất, hoặc là viết chữ bao sách Vận Anh cho rằng: Dẫn dắt lấy ra không có định thể.

Bác niết âm trên là bác sách Khảo Thanh cho rằng: Bác là đánh, tóm lấy, níu giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ đến bộ đoàn thanh đoàn âm đoàn là âm đoàn đó là chẳng phải.

Hoa chước trên là chữ hoa kinh văn viết chữ hoa này là chẳng phải, âm dưới xương nhược theo Mao Thi Truyện nói rằng: Chước chước là rộng rãi, nhàn nhã, theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Mềm mại, sách Khảo Thanh cho rằng: Chước là ràng buộc với người đàn bà mềm yếu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh trác hoặc là viết chữ xước hoặc là viết chữ chước. Tích lịch âm trên thất diệc âm dưới linh đích văn trước trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi, kinh văn viết chữ tích lịch là chữ cổ.

Phi chích ngược lại âm chinh diệc sách Sở Từ nói rằng: Đạp giẫm lên Quảng Nhã cho rằng: Mang giày dép giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Là đi, chữ viết từ bộ túc thanh thứ hoặc là viết chữ chích.

Thần xỉ ngược lại âm đa na rũ xuống, cúi xuống.

Biển đệ âm trên tất miến âm dưới thể kê sách Khảo Thanh cho rằng: Biển đệ là mỏng dẹp, kinh văn viết chữ biển đê hoặc là viết từ bộ điểu viết thành chữ biển đê hoặc là viết chữ hy đều sai chẳng phải.

Quật trừ khảm ngược lại âm hàm giám hoặc là viết chữ hãm, Quảng Nhã cho rằng: Khảm là cái hầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái giếng nhỏ, chữ viết từ bộ nhân ở trong bộ cửu chữ tượng hình.

Chung chung ngược lại âm âm chúc dung tục tự cho rằng chữ đóng thể từ bộ dương đến bộ tâm viết thành chữ dung sách Khảo Thanh cho rằng: Động tâm, tim đập kinh sợ không an, sách Thuyết Văn cho rằng: Ý không định, chữ viết từ bộ tâm thanh dung.

Bôn tẩu âm trên bổn môn cùng với chữ bôn cũng đồng, dưới chữ chánh thể là tẩu.

Mục nhuận ngược lại âm nhuận luân mi mắt nháy nhiều lần mắt chuyển động.

Quỹ mị ngược lại âm mi bí hoặc là viết chữ mị kinh văn viết chữ mị là chẳng phải.

Hư hy âm trên hư âm dưới là hy sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng bi thương đau khổ.

Miễu sanh ngược lại âm trên diệu phiêu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Miểu là phần cuối của cây tức ngọn cây nhỏ, lại gọi ngọn cành cây, Quách Phác cho rằng: Đầu nhọn của cành cây, chữ viết từ bộ mộc thanh thiếu âm sao là âm số giao cũng là chỗ tận cùng ngọn của cây.

Nghê tư âm trên nghê kế âm tề chuẩn nghĩa kinh nghê tư đó là con mắt nhìn người giận dữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Gọi là liếc nhìn trợn mắt nhìn.

Tha sái âm trên là xà chữ chánh thể là xà âm dưới sửu giới theo Mao Thi Truyện cho rằng: Sái là con bồ cạp cắn chích người, hoặc là viết chữ sái sách Văn Tự Điển nói: con ong, bồ cạp, đều có nọc độc, chữ viết từ bộ trùng đến bộ miêu là chẳng phải âm miêu là bởi vì văn cổ chữ tượng hình.

Thường trách ngược lại âm dưới tranh cách sách Sử Ký cho rằng: Trách là đè ép chật hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Gác trọ nhà nhỏ chật hẹp, khoang thuyền chật hẹp, chữ viết từ bộ trúc đến bộ sa thanh tĩnh trong kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ hạng là chẳng phải đúng nghi từ bộ trúc.

Bạo phá ngược lại âm trên bao mạo sách Khảo Thanh cho rằng: Thiêu đốt củi tre phát ra tiếng nổ, lửa cháy dữ dội, Văn Tự Tập Lược giải thích: Thiêu đốt lửa cháy bừng lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh bạo.

Cảnh như âm trên canh hạnh Quảng Nhã nói rằng: Cảnh cảnh là không an, phập phồng lo sợ, chữ viết từ bộ nhĩ thanh hỏa cũng là thanh tĩnh.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 32

Thiết đố âm trên phiến miệt sách Phương Ngôn cho rằng: Thiết là buồn bực tánh ác, Quách Phác chú giải rằng: Thiết là tính nóng nảy, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh tệ âm tệ là âm tế.

Trác thực âm trên đinh giác sách Khảo Thanh cho rằng: Mỏ chim cắn cũng gọi là chim đang mổ vật, thức ăn, chữ viết từ bộ khẩu đến trĩ âm trĩ ngược lại âm sửu duyên.

Mong manh âm trên là mong theo Mao Thi Truyện cho rằng: Mong đó con mắt có con ngươi mà không thấy (819) gọi là mong, có giống như mỏ màng không rõ, chữ viết từ bộ mục thanh mong.

Bàn kiết âm trên là bàn Quảng Nhã cho rằng: Bàn là uốn cong lại giống như rồng uốn lượn, nằm khoanh dưới chưa có lên trời.

Đề lệ âm dưới lê đế sách Vận Lược giải thích: Tiếng hạt kêu, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng kêu, chữ viết từ bộ khẩu thanh lệ.

Hiểu nhiên âm trên nhiễu liễu Mao Thi Truyện giải thích: Hiểu là mặt trời sáng, Quảng Nhã cho rằng: Ánh sáng mặt trời chói chang, chữ viết từ bộ mục thanh kích. Phiêu tật âm trên bổ diêu Quảng Nhã cho rằng: Phiêu là bệnh ung thư, sách Tập Huấn giải thích cũng là bệnh ung thư lở loét, vết thương tồi tệ.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 33

Quyết đinh ngược lại âm trên quyền nguyệt Quảng Nhã cho rằng: Quyết là cây cọc buộc trâu bò, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh quyết.

Trách phạt âm trên trương cách theo Mao Thi Truyện nói rằng: Quở trách, trách cũng là phạt.

Thiết cứ âm trên thiên kiết chữ thiết chánh thể, ngược lại âm dưới cư ngự sách Quốc Ngữ giải thích: Pháp luật hình phạt ngày xưa là đao như lưỡi cưa mà chém chặt, sách Thuyết Văn giải thích: Cướp đoạt, tước lấy, chữ viết từ bộ kim thanh cư.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 34

Lộc trung âm trên là lộc sách Khảo Thanh cho rằng: Loại rương tủ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái rương, chữ viết từ bộ trú thanh lộc.

Si hưu âm trên là xỉ thi sách Trang Tử cho rằng: Loại ưa thích ăn chim chuột, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điểu thanh thị hoặc là viết chữ chí âm dưới là hủ vưu sách Văn Tự Điển nói: Chim hưu lưu là chim quái điểu, chữ viết từ bộ điểu thanh hưu có tên gọi khác nữa là huấn hồ, tức là loại chồn cáo.

Giao tinh âm trên là giao âm dưới là tinh kinh Sơn Hải nói rằng: Ở núi Mạn Liên có loại chim gia tinh bay nối đuôi nhau từng bầy, kêu giống như gà mái, cho rằng: Gọi như phong trị thực chữ hình thanh.

Sắc nhiên âm trên là sắc văn trước trong quyển thứ mười ba đã giải thích rồi.

Tha xế âm trên là tha sách Khảo Thanh cho rằng: Tha là lôi kéo, dẫn dắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh tha âm tha đồng với âm trên, âm dưới là mạo triết sách Khảo Thanh cho rằng: Xế là nắm cổ kéo ra, Cố Dã Vương cho rằng: Xế là dẫn dắt lôi kéo, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh chế hoặc là ma chí.

Si tráng âm trên sĩ tri âm, dưới trác giáng sách Khảo Thanh cho rằng: Tráng là đứa trẻ ngu ngơ, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tráng là khi sinh ra đã ngu ngơ, đần độn, chữ viết từ bộ tâm thanh xuẫn.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 35

Đà-tắc-ky âm dưới ký nghi tiếng Phạm, đây dịch không đúng. Hồi phục ngược lại âm dưới bằng phúc sách Vận Lược cho rằng: Nước chảy xoáy vòng tròn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy xiết mà xoáy quanh vòng tròn, gọi là phục chữ viết từ bộ thủy thanh phục.

Kiếm sóc ngược lại âm dưới sương tróc Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây mâu, Văn Tự Điển nói nay người ta gọi cây kích là cây mâu, chữ viết từ bộ mâu thanh tiêu kinh văn viết chữ sóc tục tự thường hay dùng.

Thâu bạt âm trên thủ do sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thâu là gom tụ lại, sách Khảo Thanh cho rằng: Thâu là góp nhặt, nắm bắt, Văn Tự Điển nói: Thâu gom chữ viết từ bộ phộc thanh cũ âm cũ là âm cũ do ngược lại âm dưới biện bát chữ viết từ bộ hữu thanh thủ.

Mâu sóc ngược lại âm trên mạc hậu.

Tảo dưỡng ngược lại âm trên tảo tao Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tảo dùng tay gãi cào chỗ ngứa, nắm lại, chữ viết từ bộ thủ thanh tảo âm tảo là âm tảo âm dưới là dưỡng.

Bàng dương âm trên là bàng âm dưới là dương sách Bát Nhã cho rằng: Bàng dương là đi vòng quanh, loanh quanh, không có tiến tới, Cố Dã Vương giải thích: Là đi đi lại lại đi quanh quẫn, sách Văn Tự Điển nói: Hai chữ đều từ bộ xích đều thanh phương dương âm xích ngược lại âm sửu xích.

Hấp thuyền âm trên hấp cấp theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hấp giống như là hít hơi thở vào, chữ viết từ bộ khẩu thanh cập kinh văn viết chữ hấp cũng thông dụng.

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 36

-Khứu tích ngược lại âm trên hưu hựu sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng cái mũi chính là để ngửi gọi là khứu kinh văn viết chữ khứu tục tự dùng sai, ngoài văn ra đây là chuẩn.

1- Ô dục ngược lại âm trên ô hồ ngược lại âm dưới dung túc Bì Thương cho rằng: Ô dục là cây búa nhỏ, Văn Ngọc Thiên gọi là dùng hình phạt chém ngang lưng, hai chữ đều từ bộ kim đều thanh ô dục kinh văn viết chữ ư là chẳng phải. Âm tỏa ngược lại âm tài qua âm tiêu ngược lại âm lực qua vận hành chỗ dùng, đây đều là sách Phương Ngôn giải thích đều có sai biệt, người nước thục gọi tỏa ngược lại âm thương ngọa.

2- Bất trí ngược lại âm dưới là thí chí sách Khảo Thanh cho rằng: Thí giống như quá mức, sách Thượng Thư cho rằng: Như phút chốc tạm thời rồi qua đi, sách Thuyết Văn nói: Đang lúc nói, chữ viết từ bộ đế đến bộ khẩu, hoặc là viết chữ đích cũng là một, cách khác cũng giải thích như vậy.

3- Khí cụ ngược lại âm dưới cù cú kinh văn viết chữ cự âm cự chẳng phải nghĩa đây dùng.

4- Mạn-từ ngược lại âm trên mãn quan tiếng Phạm tên nước ở Tây Vực.

5- Ngốc kiêu âm trên ngốc âm dưới nhiêu văn trước trong quyển thứ tám đã giải thích rồi.

6- Xứ hổn ngược lại âm dưới hồn khốn.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 37

Cổ dương ngược lại âm trên cô hộ cổ là con dê đực lông đen.

Tắng tiền âm trên tắc đăng theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Tắng là ghét, sách Phương Ngôn cho rằng: Tật tật đố ghen ghét, Giữa nước Tề và Lỗ ganh ghét với nhau gọi là tắng, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm.

Chùy phách âm trên truy truy âm dưới pha bách sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy cái dùi đánh gõ vào vật, chữ viết từ bộ mộc thanh chuy sách Thuyết Văn cho rằng: Phách là đẩy ra, cũng gọi là phủi, vỗ vỗ, từ bộ thủ thanh bạch kinh văn viết từ bộ mộc là sai.

Cù du âm trên cụ câu âm dưới số câu sách Khảo Thanh cho rằng: Cù du là dệt lông làm thảm, có màu sắc rực rỡ gọi là thảm lông, xuất ra từ nước Kế Tân, thảm lông.

Sao sao ngược lại âm trên sao giao Cố Dã Vương cho rằng: Là từ từ xâm nhập vào.

Trách ý ngược lại âm trên tài lạc nay ý kinh lấy âm này mà không lấy âm trách Thiên Thương Hoét ghi rằng: Trách là nổi lên nói là ý bổng nhiên khởi lên, sách Thuyết Văn giải thích ý cũng đồng.

Quyên phi âm trên là duyên. Loài côn trùng có thể bay, ngược lại âm huyết duyên cũng thông dụng, loài côn trùng nhỏ biết bay, sách Phương Ngôn cho rằng: Âm sai.

Suyễn động ngược lại âm trên nhuận chuẩn suyễn là loài côn trùng bò lúc nhúc.

Hoắc nhiên ngược lại âm trên hoang quách hoặc là viết chữ hoắc sách Thuyết Văn cho rằng: Hai con chim bay trong mưa, hoắc hoắc cũng là tiếng kêu, chữ hội ý.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 38

Tất-chủy ngược lại âm dưới là túy tùy sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh thứ âm thứ là âm thứ không phải chữ thứ chữ tượng hình, Tất-chủy đây là tiếng Phạm, tên của người phụ nữ ở Tây Vực.

Thu hội ngược lại âm dưới cổ đối sách Khảo Thanh cho rằng: Trong lòng buồn rầu, phiền muộn, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tâm phiền loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ hình thanh.

Cô chung âm dưới là chung sách Khảo Thanh cho rằng: Cô dâu mới gọi chị chồng là chung cậu cô cha mẹ của chồng là cửu cô.

Tũng bát ngược lại âm trên lật dũng, Quách Phác chú giải Nhĩ Nhã rằng: Tũng là kinh sợ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ban đầu nói sanh ra mà đã điếc, không nghe được gọi là tũng sách Thuyết Văn viết từ nhĩ thanh tùng âm dưới là bác sách Khảo Thanh cho rằng: Bác là tát, đánh, tóm lấy, theo Thanh Loại cho rằng: Vồ chụp lấy, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh chuyên âm chuyên là âm bổ.

Vưu kịch âm dưới kình nghịch Văn Ngọc Thiện cho rằng: Kịch là rất quá lắm, gọi là bệnh trầm trọng, bệnh nặng, văn trước đã giải thích rồi, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh cự âm cự ngược lại âm âm cự ngư.

Tùy lam âm dưới là lam xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lam là gió núi, chữ này bởi vì bắc địch thổ ngữ gọi là gió mạnh dữ dội gọi là lam theo sách viết ra chữ lam này là bởi vì ở thị trấn Lam Châu thường có gió lớn, gió xoáy vậy.

Hồng quang âm trên là hồng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hồng là nước dâng cao, gọi là đại thủy, tức lũ lụt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh cộng từ bộ khẩu viết thành chữ hồng là sai.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 39

Diệp diệp âm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Thiết đồng mỏng dẹp còn nguyên chất chưa nấy ra là dụng cụ, người nước Tề gọi tập là diệp âm tập là âm tập tức là diệp.

Sàn đề ngược lại âm xương thiện ngược lại âm sa giãn là hai âm đồng với âm trên là sai, âm dưới là xác đáng, Đường Huyền Trang cho rằng: Nhẫn nhục đây là câu tiếng Phạm, gọi là Đệ-tam-ba-la-mật. Đây là nhẫn nhẫn có năm như trong kinh Nhân Vương có nói, hoặc là có ba loại nhẫn nhục.

Bát-kiếp âm trên là bát cũng là câu tiếng Phạm, ở Tây Vực tên của vị tiên nhân.

Táo tật ngược lại âm trên tảo tao Tự Thư cho rằng: Mùi thịt cá tanh hôi, dơ uế, ngửi dưới nách, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục âm táo âm táo ngược lại âm tang tháo.

Tính tháo ngược lại âm dưới tao tháo sách Khảo Thanh cho rằng: Tính nóng nảy, sách Ích Pháp cho rằng: Tính hay biến động gọi là táo kinh văn viết chữ tháo là chẳng phải, sách Thuyết Văn viết từ bộ táo.

Thủ kình ngược lại âm dưới phổ kinh Quảng Nhã cho rằng: Kình là tay giơ cao lên. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh kính kinh văn viết chữ kình là chẳng phải.

Phách thương âm trên là bách Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Phách là phá cho nứt nẻ ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh tích kinh văn viết từ bộ đao viết thành chữ phách là chẳng phải, ngược lại âm thất diệc là chẳng phải nghĩa kinh.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 40

Quan thảo ngược lại âm trên giãn nhan sách Vận Anh cho rằng: Bông cỏ lau trắng, sách Vận Thuyên cho rằng: Thuộc cỏ lau sậy, cỏ này rất cứng, làm dây hoặc làm chiếu, hoặc là viết chữ giàn từ bộ thảo thanh quan.

Túc quyết âm quyết ngược lại âm quyển nguyệt Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Là chạy, Ngọc Thiên cho rằng: Kinh hãi, ý gấp vội, vấp té ngã quỵ, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Viết từ bộ túc thanh quyết chữ hình thanh.

Hoảng hốt ngược lại âm trên quắc quảng Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hoảng hốt là suy nghĩ nhớ nghĩ sâu xa có lợi ích, Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Loạn tâm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh hoan âm hoang là âm hoang.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 41

Đàn-nhị-ky âm ky tiếng Phạm tên người cũng gọi là Đàn-ni-ca.

Duệ vãn ngược lại âm trên di tế hoặc là viết chữ duệ gọi là lấy sức mà lôi kéo, chữ viết từ bộ thủ thanh thế.

Chỉ lập ngược lại âm trì dĩ sách Vận Anh cho rằng: Chỉ là dừng lại không tiến lên phía trước, chữ viết từ bộ chỉ.

Phốc Phật ngược lại âm phổ bốc sách Vận Anh cho rằng: Phốc là đánh gõ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh phốc âm phốc là âm bốc.

Quá đã ngược lại âm xuyết qua sách Vận Anh cho rằng: Quá là đánh bằng roi, chữ viết từ bộ thủ thanh quá âm xuyết ngược lại âm quá quát từ bộ xuyết.

Cam điện ngược lại âm điền luyện sách Vận Anh cho rằng: Cặn bã dơ bẩn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh điện hoặc là viết chữ triển.

Khôn cầu sa môn ngược lại âm trên khổn côn theo Thanh Loại cho rằng: Cạo bỏ đi mái tóc, Văn Tự Điển nói rằng: Cắt tóc xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ tiêu thanh kỹ âm thích ngược lại âm thích diệc.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 42

Mân-trà ngược lại âm trên Mật-bân tiếng Phạm, tên người hoặc gọi là Văn-trà, tên của giàu có đại phú.

Thực tứ bộ âm trên tợ sách Vận Anh cho rằng: Thực là ăn, kinh văn viết từ bộ đài viết thành chữ di hổ tương với nhau cũng thông dụng.

Nhất quả âm quả hoặc là khứ thanh cũng thông dụng.

Trữ tận ngược lại âm trừ dữ sách Vận Anh cho rằng: Trừ bỏ rót nơi kia vào nơi này. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh dư.

Cưỡng phụ ngược lại âm trên dưỡng ngưỡng gọi là cái chăn và cái đãy bọc trẻ con, sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy lụa trắng bọc đứa trẻ nhỏ mà cõng trên lưng gọi là cưỡng.

Ký hành ngược lại âm cật dĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Nhón chân lên mà đi. Hoặc là viết chữ kỳ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chân đi vùn vụt như bay giống như loài thủy điểu đi dưới nước, gọi là kỳ hành chữ viết từ bộ túc thanh kỳ.

Toan-đà-lợi ngược lại âm trên toán đoan tiếng Phạm, tên của vị đại thần ở Tây Vực, cũng gọi là Tôn-đà-lợi.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 43

Tũng nhiên ngược lại âm trên lật dũng tũng là rụt rè sợ sệt dáng vẻ cung kính, hoặc là viết từ bộ tâm viết thành chữ tũng là sợ sệt chữ viết từ bộ lập.

Bẩm tư ngược lại âm trên bi phâm sách Vận Anh cho rằng: Ban tặng lúa thóc, con dư lại trong kho lẫm, nạp vào trong kho, thọ nhận. Chữ viết từ bộ thị thanh bẫm.

Cao thê ngược lại âm thể hề Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thê thềm bậc thang, sách Thuyết Văn cho rằng: Thang gỗ, chữ viết từ bộ mộc thanh đệ.

Tháp tường ngược lại âm trên đàm hạp kinh văn viết chữ tháp là chẳng phải, ngược lại âm dưới tương dương kinh văn viết từ bộ thổ viết thành chữ tường là sai.

Kiểu thân ngược lại âm nhiêu liễu sách Khảo Thanh cho rằng: Dùng dây bó buộc, hoặc là viết từ bộ câm viết thành chữ kiểu.

Cổ tai ngược lại âm tắc lai sách Vận Anh cho rằng:

Mang con cá cổ tai đó là bên mang con cá căng ra, gọi là phùng mang, chữ viết từ bộ ngư thanh tư.

Quyện xoa âm trên quỳ viên sách Khảo Thanh cho rằng: Cuộn tay. Gọi là khoanh tay, ngược lại âm dưới sửu giai gọi là dùng roi đánh người lăn tròn đánh, chữ hình thanh.

Bị ky ngược lại âm ký nghi sách Khảo Thanh cho rằng: Đánh dây lớn để buộc, làm sợi dây lớn buộc vào con ngựa, cũng gọi là dây cương, chữ viết từ bộ võng.

Lực lữ âm lữ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Lữ là xương sống. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh lữ.

Tinh táo âm trên là tinh ngược lại âm dưới tảng đao sách Vận Thuyên cho rằng: Ngửi mùi dơ uế hôi tanh.

Câu-xi-quốc ngược lại âm Đa-khả tiếng Phạm, tên của nước ở Tây Vực.

Mậu chi ngược lại âm mạc hầu gọi là mua bán trao đổi tài vật, chữ viết từ bộ uyển đến bộ bới viết đúng là chữ mậu.

Mâu toàn ngược lại âm trên mưu hầu ngược lại âm dưới thương loạn sách Khảo Thanh cho rằng: Ném cây mâu, Quảng Nhã cho rằng: Cây mâu dài điểu thuộc cây thương, cây giáo, loại binh khí thời xưa, cây qua, cây kích, chữ hình thanh.

Đạt-đâu ngược lại âm Đẩu-hầu tiếng Phạm chuyển đọc sai, tức là Đề-bà-đạt-đa.

Vô nhương ngược lại âm dưới ngương lương Quảng Nhã cho rằng: Nhương là ném vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Làm rượu, ủ rượu, cất rượu gọi là nhương, chữ viết từ bộ dậu thanh nhương.

Phụ liên ngược lại âm dưới liên triển sách Khảo Thanh cho rằng: Liên là vận chuyển. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Gánh trên vai, sách Thuyết Văn cho rằng: Thể chữ đúng từ bộ thủ thanh liên nay kinh văn viết từ bộ xa viết thành chữ liển tức là kiệu, chữ dùng cũng thông dụng.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 44

Sa thượng ngược lại âm sài hà chiếc bè lớn nổi lên trên mặt nước gọi là phù sa xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh sa âm sa là âm xoa.

Dung họa ngược lại âm trên dũng tùng sách Khảo Thanh cho rằng: Cố sức thọ nhận tài vật từ công sức khéo léo, tức là người làm công bằng sức lao động, thọ nhận tiền ban thưởng, ngược lại âm dưới hoa quái họa tức là vẽ.

Thưởng lai âm trên thương hoài ngược lại âm dưới lại đại sách Tập Huấn cho rằng: Thưởng ban tặng, lại là an ủi công lao nhọc, cũng gọi là tặng, chữ viết từ bộ lai thanh bối sách Vận Lược viết chữ lai cũng đồng.

Lô tư âm trên là lô âm dưới là từ sách Vận Anh cho rằng: Loài thủy điểu màu sắc như con quạ, lặn vào nước mò bắt cá mà ăn.

Khiếp lộc ngược lại âm trên khiêm diệp âm dưới là lộc tủ đựng quần áo, sách viết chữ khiếp giống như cái rương mà lại sâu hơn, lại giống như cái hộp dán kín, cái tráp đựng thư từ, là sai, gọi là cái rương nhỏ là khiếp lớn gọi lộc.

Bật thuấn ngược lại âm thủy nhuận sách Thuyết Văn cho rằng: Thuấn là mở mắt ra nhắm lại nhiều lần, hoặc là viết chữ thuấn cũng thông dụng.

Giá nhập ngược lại âm ngôn giá Thiên Thương Hoét cho rằng: Giá là nghinh tiếp, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ xước thanh ngôn.

Chu ngột âm trên là chu âm dưới là ngột gọi là chặt giết cây còn dư lại rễ gốc gọi là chu ngột, đều là chữ hình thanh.

Ngoan ngai ngược lại âm dưới nhai giãi sách Tập Huấn cho rằng: Ngu si không có chỗ để biết, ngu độn.

Thông triết âm trên sang công Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thông minh sáng suốt, ngược lại âm dưới nhàn trác văn cổ viết chữ hiệt gọi là trí tuệ.

Cơ nhục âm trên là cơ chữ viết từ bộ nhục thanh cơ kinh văn viết từ bộ nguyệt là chẳng phải.

Tam bính ngược lại âm tất dĩnh chữ viết từ bộ thực thanh tinh kinh văn viết từ bộ mạch viết thành chữ bính là chẳng phải.

Nhất giam âm hàm gọi là cái rương gỗ, tủ gỗ, kinh văn viết chữ hàm là chẳng phải.

Suy thoán âm trên là suy khứ thanh cũng thông dụng, âm dưới song loạn chữ hội ý.

Câu tôn âm tồn sách Thuyết Văn cho rằng: Tôn là ngồi xổm, chữ hình thanh.

Hận hận ngược lại âm lực trượng, trong lòng có lo buồn phiền muộn không thoải mái, hoặc là ương ương bực bội khó chịu không vui.

Tỵ lạo chi âm dưới lão đao sách Phương Ngôn cho rằng: Lạo mò lấy vật.

Tại sào ngược lại âm sài hào gọi là tổ chim, chữ tượng hình từ bộ mộc viết thành chữ sáo là chẳng phải.

Lý thủy hoa ngược lại âm hứa hòa Quảng Nhã cho rằng: Gọi là hiệp sa cũng gọi là phong ba vốn nước Hồ gọi là guốc gỗ, người tù nước Triệu Vũ Linh Vương hay dùng trang phục nước Hồ, tương truyền rằng: Thường hay mang dùng, nay gọi là công phục không vướng vào tám cửa công môn, chẳng phải lẽ, chỉ là đôi ủng da, dài cao cổ.

Nhất ba ngược lại âm phổ mạ gọi là tấm ra lớn trải che giường, che yên ngựa, màn che.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 45

Hào soạn âm trên hiệu giao tục tự dùng thông dụng, đúng viết đơn là chữ hào Cố Dã Vương cho rằng: Con vật hy sinh là lấy thịt, nằm như quả dưa, theo Mao Thi Truyện nói rằng: Đậu thật, sách Khảo Thanh cho rằng: Thịt chín phơi khô sách Lễ Ký nói rằng: Bên trái bằm thịt, bên phải xắt thịt, thái mỏng, chữ hình thanh âm dưới sàn luyến Mã Dung chú giải sách Luận Ngữ rằng: Soạn là bày ra hình thức ăn uống, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bày tiệc, Quảng Nhã cho rằng: Cung tiến, sách Thuyết Văn cho rằng: Thức ăn đầy đủ, chữ hình thanh, âm truy ngược lại âm truy sự âm sàn ngược lại âm sài nhàn âm luyến ngược lại âm lực quyển âm bổ là âm bộ a là thịt phơi khô.

Tranh linh ngược lại âm trên trạch hành tục tự dùng thông dụng, viết đúng là hàng tranh sách Khảo Thanh cho rằng: Tranh là va chạm vào nhau, sách Vận Thuyên cho rằng: Xúc chạm chữ viết từ bộ thù đến bộ thương thanh tĩnh.

Hoài mộc hũ ngược lại âm vũ câu sách Khảo Thanh cho rằng: Cái chậu nhỏ bằng gỗ, cái bát lớn không có chân gọi là hũ chữ viết từ bộ mộc thanh vu viết thành chữ vu là sai chẳng phải.

Lộc thỉ ngược lại âm thời nhĩ văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích rồi.

Vĩ hoảng ngược lại âm trên vi quỹ văn trước trong quyển thứ hai mươi ba đã giải thích rồi, kinh văn viết từ bộ quang viết thành chữ là chẳng phải.

Khiển tụy ngược lại âm trên khiêm kiến sách Khảo Thanh cho rằng: Khiển trách, tra hỏi, văn hỏi chuyển đổi, ngược lại âm dưới tuy tụy loài quỷ thần làm hại gây họa, chữ viết từ bộ xuất đến bộ thị chữ hội ý.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 46

Ứ lam ngược lại âm trên ư cứ ngược lại âm dưới lạc cam đây cũng là tiếng Phạm là vua A-tu-la, chỗ ăn thưởng thức mùi vị, hoặc là Tô-đà-thiên-cam-lộ, hình trạng khó gọi tên.

Hám hỹ kiến thành âm trên hàm cam tay dao động khiến cho chấn động, kinh sợ giựt mình.

Điểu sào ngược lại âm sài giao kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ sào là chẳng phải.

Ai uyển ngược lại âm dưới ư viên Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Uyển là uyển chuyển, mềm mỏng, sách Khảo Thanh cho rằng: Mềm diệu, hòa thuận, dáng vẻ đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh uyển âm uyển đồng với âm trên.

Xí hổn ngược lại âm hồn muộn hổn cũng là xí tức là dơ bẩn. Trân lâm ngược lại âm trên sĩ trân sách Khảo Thanh cho rằng:

Cây cỏ mọc dày đặc, um tùm, sum suê, chữ viết từ bộ mộc thanh trân.

Phụ chi ngược lại âm phò vụ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Phụ giống như bám dính, sách Thuyết Văn cho rằng: An ổn, chữ viết từ bộ phụ thanh phó kinh văn viết từ bộ thủ viết thành chữ phủ là chẳng phải.

Minh hận âm minh tên của loài quỷ.

Ảm-hắc ngược lại âm điểu cảm tiếng Phạm, tên của loài ma quỷ.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh cảnh văn trước trong quyển thứ hai mươi hai đã giải thích đầy đủ rồi.

Ế-bất-đắc-nạp ngược lại âm trên yên kiết theo Mao Thi Truyện cho rằng: Lo buồn uất ức. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ăn cơm mắc nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 47

Khảm khướt âm dưới là khứ sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Dẫn hơi mà căng miệng ra gọi là khiếm khướt xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khiếm thanh khứ kinh văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ khứ là chẳng phải.

Xuyết điểu ngược lại âm trên quá quát Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Xuyết điểu là chim lớn như chim nhạn, giống như con gà trống, gà mái, chân chuột, không có ngón sau đuôi vểnh lên, tính hay ngây ngô bay từng đàn, xuất ra từ phương bắc sa mạc cũng là chữ hình thanh.

Buộn trịch ngược lại âm bồn muồn gọi là bụi trần, dơ bẩn.

Khướt tháp ngược lại âm đàm hạp kinh văn viết từ bộ hấp viết thành chữ tháp là sai chẳng phải.

Sái loát ngược lại âm tây lễ hoặc là viết chữ tẩy cũng thông dụng, sách Vận Anh cho rằng: Tắm gội, ngược lại âm dưới thuyên quát sách Khảo Thanh cho rằng: Dơ bẩn, Quách Phác cho rằng: Quét dọn chà rửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Lau chùi, chữ viết từ bộ trựu tức là tay cầm nắm đến bộ cân trong bộ thi âm dưới chữ hội ý hoặc là từ bộ đao viết thành chữ loát.

Lư hiệu ngược lại âm dưới hào giáo văn trước trong quyển thứ hai mươi bảy đã giải thích rồi, từ bộ giao viết thành chữ hiệu cũng thông dụng.

Phao địa ngược lại âm trên bao mau văn trước trong quyển thứ hai mươi bảy đã giải thích rồi, nay kinh văn viết chữ phẩu là chẳng phải.

Môn quắc ngược lại âm dưới tự quán Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Quắc là cửa hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Cửa nhẫn lo lắng, chữ viết từ bộ môn thanh hoặc.

Lạc lượt ngược lại âm dưới cường lượng văn trước trong quyển thứ mười một đã giải thích rồi, kinh văn viết từ bộ mộc viết thành chữ cưỡng tục tự dùng chẳng phải. Huỳnh quý ngược lại âm trên quý dinh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Huỳnh là cô đơn, lẽ loi, cô độc một mình, chữ viết từ bộ nhân đến bộ dinh thanh tĩnh ngược lại âm dưới quý quý.

U u âm u theo Mao Thi Truyện nói rằng: Con hươu được cỏ kêu u u gọi bạn cùng ăn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tiếng nai kêu, chữ viết từ bộ khẩu thanh ấu.

Tam thủy thát ngược lại âm nan đát con rái cá trong nước bắt cá, lấy đem cúng tế Thiên Nguyệt, nay ngày Mạng Xuân cúng tế cá tức đây là do nơi con thú này.---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 48

Già-miễn ngược lại âm Na-đâu tiếng Phạm, tên của Long Vương.

Ngu ngai ngược lại âm nhai hải gọi là ngu si, không có chỗ để biết, chữ thượng thanh.

Hoàng thủy ngược lại âm hoạch quang gọi là ao nước dơ, chỗ nước không chảy, âm hoạch ngược lại âm điểu quách âm hải ngược lại âm hạnh ngai.

Nghị nhữ ngược lại âm nghi ký Quách Phác chú giải sách Chu Lễ rằng: Nghị là hình phạt xẻo mũi, sách Thuyết Văn cho rằng: Cắt bỏ cái mũi, ngược lại âm ngữ liệt.

Kỳ sắc âm trên là dĩ âm dưới là sắc loài côn trùng trong áo cắn người, giống như chấy, rận.

Thổ tảo âm tảo.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 49

Khái kha ngược lại âm trên khảm hạp ngược lại âm dưới thố là tiếng Phạm, tên chủ địa ngục, kinh văn có viết từ bộ sơn viết thành chữ khái cũng đồng âm đây.

Thiết sách âm dưới là sách cũng là tên của ngục tốt, tức người canh ngục, hoặc là đơn viết chữ sách.

Huyền hống âm trên là huyên âm dưới ha cẩu tên địa ngục, tiếng kêu thống khổ.

Liên thạch âm liên cũng là tên chủ cõi ngục tốt, tức là tiếng Phạm.

Mâu kích âm trên mạc hậu ngược lại âm dưới kinh nghịch đều loại cây thương kích, giáo dài, binh trượng.

Tranh tội nhân âm trên quá canh lấy cây đinh đóng cọc bốn góc kéo vãn ra khiến cho lần lần căn ra, chữ hình thanh.

Thằng phanh âm trên là thặng âm dưới bách manh Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Như người thợ mộc chấm mực sợi dây, gọi là phanh sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh là khảy đàn, chữ viết từ bộ thủ thanh tinh.

Đoạn đoan ngược lại âm đoàn loạn đúng thể là chữ đoạn sách Thuyết Văn cho rằng: Bẻ vật ra, Thống Tự cho rằng: Đập đánh vào vật chữ viết từ bộ thù đến bộ đoan thanh tĩnh.

Hấp yên ngược lại âm huất cấp gọi là uống hơi vào sách Thuyết Văn cho rằng: Co mũi lại hít hơi vào, chữ viết từ bộ khảm thanh hấp âm hấp đồng với âm trên.

Ai hoán ngược lại âm trên hách giới tiếng hò hét nổi lên, tiếng giận dữ mà kêu, kinh văn viết từ bộ khẩu đến bộ giới viết thành chữ giới tục tự hoặc là viết từ bộ vạn viết thành chữ sái âm cảm ngược lại âm hách lam âm kiếu ngược lại âm kiết yếu âm sái ngược lại âm lặc giới. Thiết giam ngược lại âm dưới hàm ảm chữ thượng thanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Là tử sắt lớn xiềng xích tội nhân, bỏ vào trong tủ mà nhốt trị tội, kinh văn viết từ bộ kim viết thành chữ giám là chẳng phải.

Thiết sản ngược lại âm trên xác sản tức là cái vá gạt ngang vật cho bằng, Quảng Nhã cho rằng: Thanh tre gạt ngang cái hộc, cũng gọi là dụng cụ bằng gỗ, sách Bát Nhã cho rằng: Cây tăm nhọn gim vào miếng thịt nướng trên lửa, trong kinh cũng có viết chữ xuyến tục tự cho rằng: Cũng là chữ hình thanh.

Ỷ chích ngược lại âm trên y ỷ là giống như dựa vào chỗ đứng một bên gọi là ỷ.

Tương quắc ngược lại âm khương bích gọi là dùng tay cài bới moi trong ổ ra đoạt lấy, âm sào ngược lại âm trải giao âm hoạch ngược lại âm hoằng hoạch âm khương ngược lại âm cương.

Luyến hạt ngược lại âm luyến chuyển sách Khảo Thanh cho rằng: Thái thịt mỏng, Cố Dã Vương cho rằng: Xắt thịt thành miếng nhỏ gọi là luyến sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục thanh luyến âm luyến ngược lại âm lực duyên.

Trùng sáp ngược lại âm trục dung sách Khảo Thanh cho rằng: Con cá đớp mồi nơi nước cạn vào miệng, có mùi vị ngon, sách Thuyết Văn cho rằng: Sáp là ngậm trong miệng, chữ viết từ bộ khẩu thanh sáp cũng viết chữ sáp.

Đồng phủ ngược lại âm phò vũ gọi là nồi đồng lớn thổi cơm, kinh văn viết từ bộ phục viết thành chữ phục tục tự dùng cũng thông, chẳng phải chữ chánh thể.

Phùng bột ngược lại âm trên bổ mông ngược lại âm dưới bồn một Quảng Nhã cho rằng: Bột bột là hương thơm theo hơi khói bay nghe ngào ngạt, chữ chuyển chú, cũng là hội ý.

Lai niết ngược lại âm trích giai chữ chánh thể, Quảng Nhã cho rằng: Cắn miếng lớn, chó cắn mà đánh kéo nó ra gọi là lai kinh văn viết từ bộ tề viết thành chữ tề là chẳng phải, ngược lại âm dưới nghiên kiết.

Đồi yểm ngược lại âm trên đô hồi sách Khảo Thanh cho rằng: Đồi rơi xuống, ném xuống đất, kinh văn viết chữ truy là sai, ngược lại âm dưới ảm hạp hoặc là viết từ bộ thổ hoặc là từ bộ mộc hoặc là từ bộ thạch viết thành chữ điền yểm chữ viết từ bộ thổ.

Hữu đan ngược lại âm dưới đán nan Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Dụng cụ làm bằng tre, Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Cái hộp làm bằng tre, cuộn lại tròn giống như cái hộp, cái sọt tre, chữ viết từ bộ trúc thanh đan.

---------------------------------------

KINH LUẬT DỊ TƯỚNG QUYỂN 50

Thiết mang ngược lại âm dưới mạc bàng Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Mang đó là con rắn rất lớn gọi là mang con rắn có thể muốt cả con voi, tính ra nó dài hơn trăm trước, rắn thiết mang này tùy theo chỗ địa ngục trong tâm con người nhận biết mà hóa hiện như rắn mãng xà, kỳ thật tất là rỗng không, người thọ tội tự thấy ngoài người đó ra là không thấy.

Thiết chủy ngược lại âm tùy túy gọi là mỏ dài, loài côn trùng này mỏ nhọn như kim, như cái dùi, dùi xuyên xương người tội mà ăn tủy, hút chất tủy trong xương thọ nhận rất là thống khổ nơi nghiệp. Đây là nghiệp tự nhiên khiến cho phải tự nhận lấy, kinh văn viết chữ chủy là chẳng phải.

Hồ giao âm trên hồ âm dưới là giao theo chữ hồ giao đó nấu da vỏ cây mà làm keo, làm hồ, giống như lấy bột mì nấu làm hồ dùng, tức là giống như là giao tức keo, cũng gọi là ly giao theo truyện cho rằng: Dùng vỏ cây làm keo dán dính, có thể bắt chim thú, âm ly ngược lại âm sĩ tri, chữ viết từ bộ thử thanh ly.

Khiển khất ngược lại âm trên tiệp yển ngược lại âm dưới cân ngật nói ra không trơn, không suông, không lanh lợi, bị bệnh phong.

Loát thân ngược lại âm loan quát sách Vận Thuyên cho rằng: Dùng tay gở lấy vật, chữ viết từ bộ thủ thanh loát âm loát đồng với âm trên.

Sào tội ngược lại âm trên tranh giao Thiên Thương Hoét ghi rằng: Lấy ngón tay mà cào gãi, vì ác nghiệp cho nên mười móng tay bén như dao, theo chỗ mà cào, rất bén, cắt ra, cắt thịt ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh sào sào tức là chỗ ngứa.

Thiết trân ngược lại âm chấp lâm sách Khảo Thanh cho rằng: Trâm là thuộc về cái thớt, Thiên Thương Hoét cho rằng: Cái thớt bằng sắt, Văn Tự Điển nói chặt đốn cây, chữ viết từ bộ mộc thanh thậm hoặc là viết chữ trâm tục dùng cũng thông dụng.

Hối trùng âm trên là hồi sách Khảo Thanh cho rằng: Trong bụng của người có loại trùng sâu đục, hoặc là viết chữ vưu tức là bệnh bướu, nói trong bụng hóa sanh ra loài trùng dài năm sáu tấc.

Thư trùng ngược lại âm thanh dư sách Thuyết Văn cho rằng: Con ruồi nó làm mũ trong thịt, tức là cái trứng của con ruồi.

Khưu xúc ngược lại âm dưới tinh dục Quảng Nhã cho rằng: Gấp vội, thúc bách, cận kề một bên, nên vấp té, sách Nghi Lễ cho rằng: Bức xúc, chữ viết từ bộ túc thanh thích.

Phiêu thư âm trên thất diêu âm dưới thất dư bệnh ung thư sưng thủng, loại ngắn từng lóng xương.

Kỵ môn phần cuối của kinh tự âm là ky tất cả các chữ trong sách đều không có chữ này, bởi vậy người dịch kinh viết sai nhầm.

Tháp đăng âm trên là tháp âm dưới là đăng Tây Vực dệt trong lông làm thảm có màu sắc sặc sỡ, cũng gọi là chiếu thảm lông.

Nghiệt ngữ ngược lại âm nghê kế Quảng Nhã cho rằng: Nghiệt là trong lúc ngủ mà nói mê, theo Thanh Loại cho rằng: Không tĩnh biết cuồng nói vọng nói, sách Thuyết Văn cho rằng: Theo mắt nhắm mà nói, chữ viết từ bộ nghiệt đến bộ mị thanh tĩnh âm nghiệt ngược lại âm nghiêng kiết.

Thiết dực âm dưới là dực sách Nhĩ Nhã giải thích Dực là cây cọc trụ để buộc trâu bò, văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích đầy đủ rồi.

Mông lọng âm trên là mong tên dụng cụ dưới địa ngục khổ, không thể dùng chữ mà giải thích được, đã mất rồi vậy.

Như trách ngược lại âm tranh thảo gọi là đè ép chật hẹp, văn trước đã giải thích rồi.

Diệm chữ ngược lại âm trên tường diêm sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy nước tưới lên chỗ nóng nhiệt khiến cho lông thoát khỏi rơi rụng, kinh văn viết từ bộ hỏa đến bộ tầm viết thành chữ diêm tục tự dùng chẳng phải.

Như trách ngược lại âm trương cách trước đã giải thích rồi.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 80

- Âm Đại Đường Nội Điển Lục mười quyển.

- Độc Nội Điển Lục một quyển.

- Khai Nguyên Thích Giáo Lục hai mươi quyển.

(822) Bên phải là ba tập lục ba mươi mốt quyển đồng âm với quyển này.

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 1

Huệ Lâm âm.

Nan tư ngược lại âm tư tỷ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tư là đoán lượng, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Suy nghĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Suy nghĩ không xứng ý, chữ viết từ bộ ngôn thanh tư.

Xa tiệm ngược lại âm tiềm diêm chữ thượng thanh, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tiệm là lần lần nhập nào, sách Khảo Thanh cho rằng: Ngâm vào nước chịu nhận, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Từ từ ẩm ướt, Cố Dã Vương cho rằng: Sửa trị hoặc là viết chữ tiêm.

Thiên mậu ngược lại âm dưới mạc hậu theo Mao Thi Truyện nói rằng: Mậu giống như là bán, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trao đổi rộng rãi, sách Thuyết Văn cho rằng: Trao đổi tài vật, chữ viết từ bộ bối thanh mậu âm dậu là âm dậu Văn Lục viết chữ mậu tục tự dùng chẳng phải.

Di huấn ngược lại âm trên dĩ chi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vị là thường Chu Lễ giải thích sách Thuyết Văn rằng: Dụng cụ giống như hình cùng với chữ tước cũng đồng, chữ viết từ bộ hệ đến bộ cũng tức là hai tay nắm giữ đồ vật thật, tức là gạo, chữ viết từ bộ kệ kệ cũng là thanh, âm hệ ngược lại âm hề kế âm cũng là âm cũng âm kệ ngược lại âm cư lê.

Y thiện âm thiện tức là tạo ra khéo léo, sách Thuyết Văn cho rằng: Bổ thêm vào.

Phiền nã ngược lại âm minh da Tự Thư cho rằng: Nã là lôi kéo dẫn dắt, chạy loạn, dẫn ram, kéo lôi ra, chữ viết từ bộ nô.

Phân bì ngược lại âm phi bỉ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bì giống như là hủy hoại, sách Ngu Thư cho rằng: Mũi tên vừa mới hủy hoại cái mạng, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh dĩ.

Bất lân ngược lại âm lật chấn cũng là chữ hình thanh, Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Lân là chất mỏng bạt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch đến bộ lân thanh tĩnh.

Tế âm trên là chữ tế sách Thuyết Văn cho rằng: Loại cỏ có thể ăn được, chữ viết từ bộ thảo thanh tế ngược lại âm dưới tập dâm người Trào Hán gọi là xuất ra ở tầng trời thứ năm ban đầu cầu pháp.

Bị sưu âm trên chữ chánh thể là chữ bị văn cổ đơn viết là chữ bị sách Vân Anh cho rằng: Bị là chuẩn bị đầy đủ, ngăn phòng cẩn thận. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh bị ngược lại âm dưới là sưu sầu Văn Tự Điển nói: Sưu là mong cầu được bình thành tựu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh sưu sưu chữ chính thể là sưu.

Tập nhi biện chi ngược lại âm trên xâm nhập Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tập giống như nối tiếp, nối theo, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Theo ánh sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đánh sợi, xe sợi, chữ viết từ bộ mịch thanh tập âm tập đồng với âm trên, ngược lại âm dưới tất miên Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Biện Tức là so sánh, liên kết lại với nhau, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Dệt, sách Thuyết Văn nói: Sắp xếp có thứ tự gọn gàng, chữ viết từ bộ mịch thanh biên âm biên ngược lại âm biên miến.

Bột bổn kinh ngược lại âm trên bồn một chữ bột chánh thể.

Tích cẩu ngược lại âm trên kinh lệ tên của kinh, tức con chó điên Văn Lục viết lịch cẩu hoặc là viết chế cẩu đều là một nghĩa.

Chú khủ ngược lại âm khu tự có cái răng bị sâu ăn.

Vu uế âm trên là vô âm dưới là uy vệ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Vu uế đó là cỏ mọc hoang phế, Ngọc Thiên Tự viết từ bộ thảo viết thành chữ uế Thiên Thương Hoét cho rằng: Không sạch, Văn Lục viết từ bộ hòa viết thành chữ uế nghĩa cũng đồng.

Huỳnh trừng ngược lại âm trên quỳnh quýnh Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Huỳnh là lóng trong suốt không chảy, sách Khảo Thanh cho rằng: Nước không chảy, sách Thuyết Văn cho rằng: Dòng nước nhỏ, hoặc là đôn, viết chữ huỳnh huỳnh là ánh sáng, bộ ngọc ở trong, tức là viên ngọc sáng óng ánh.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 2

Phân tiêu ngược lại âm dưới biểu miêu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Chiếc xe nhẹ nhỏ dành cho vua đi, nay gọi là xe ngựa, chữ viết từ bộ kim thanh tiêu âm tiêu ngược lại âm bạc giao hoặc là từ bộ giác viết thành chữ tiêu cũng viết chữ tiêu nghĩa đều đồng.

Các khái ngược lại âm dưới khoa mạ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khóa giống như vượt qua, cởi lên lưng ngựa, Cố Dã Vương cho rằng: Khóa gọi là nhấc chân cao lên, sách Thuyết Văn nói: Khóa là vượt qua chữ viết từ bộ túc thanh khoa âm khoa là âm khoa Văn Lục viết chữ khoa là sai chẳng phải.

Cương trường ngược lại âm trên cư lương Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cương là biên giới Cốc Lương Truyện cho rằng: Cương giống như chỗ biên giới ngăn cấm, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vùng biên giới giáp với nước khác, Quách Phác chú giải rằng: Cương là khoảng đất trống ở ngoài biên thùy, sách Thuyết Văn cho rằng: Biên giới, chữ viết từ hai bộ điền đến bộ tam tức vòng giáp cảnh giới nơi biên ải, chữ tượng hình cũng là chữ hội ý, ngược lại âm dưới trừ lương sách Chu Lễ cho rằng: Trường là người nắm trong tay một nước, vườn hoa trồng các loại, Mao Thi Truyện cho rằng: Xuân hạ là phố tức là vườn thu đông là trường tức khoảng đất trống, Trịnh Tiển chú giải rằng: Trường phố đều đồng là đất các thứ thực vật mọc lên, trồng rau, hoa sen, khi hết mùa là bãi đất trống, sách Quốc Ngữ cho rằng: Đều là trồng cây cổ thụ, chỗ ngôi vị thứ tự tập vợt, Giả Quỳ chú giải rằng: Ở trong, Quách Phác cho rằng: Hài cao ở ngoài hoang dã gọi là trường sách Thuyết Văn nói: Thửa ruộng được sửa sang, trồng lương thực, ngũ cốc, chữ viết từ bộ thổ thanh trường.

Tháo chi ngược lại âm thương táo tên người. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh táo trong Văn Lục viết từ bộ sâm viết thành từ tháo là sai chẳng phải, âm táo ngược lại âm tảng đáo.

Đạo diên ngược lại âm sĩ liên tên của vị tăng.

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 3

Đệ miến âm trên là đệ âm dưới là miến Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đệ giống như cố liếc nhìn, sách Khảo Thanh cho rằng: Đệ cũng là hé mắt nhìn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mục thanh đệ sách Phương Ngôn cho rằng: Miến cũng là đệ sách Thuyết Văn cho rằng: Mắt nhìn nghiêng he hé ra, chữ viết từ bộ mục thanh miến.

Vĩ như ngược lại âm trên vi quỹ Mao Thi Truyện cho rằng: Vĩ là màu sắc cháy đỏ rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Sáng rực rỡ, chữ viết từ bộ hỏa thanh vĩ.

Tạm kim lăng ngược lại âm trên tạc hàm Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tạm là cái đục, sách Khảo Thanh cho rằng: Khắc chạm, chạm trổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây đục nhỏ, chữ viết từ bộ kim thanh trảm.

Mạt lăng ngược lại âm trên ma cát tức là đất Dương Châu, cũng gọi là Kim Lăng.

Tạc chi ngược lại âm trên uế lạc Quảng Nhã cho rằng: Tạc là đục xuyên qua, sách Thuyết Văn cho rằng: Đục xuyên qua cây, chữ viết từ bộ kim thanh tạc âm tạc đồng với âm trên, từ bộ cửu đến bộ thù thanh nghiệp chữ hộ ý, âm nghiệp ngược lại âm hạc học âm cửu là âm cựu âm thù là âm thù.

Tiêm nhi ngược lại âm tiếp diêm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tiêm là giết sạch.

Cổ hồ âm trên là dã chữ cổ hồ đó là tên ngụy kinh.

Xích chủy ngược lại âm dưới trúy tủy sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ chánh thể từ bộ thử viết thành chữ chủy trong Văn Lục viết chữ chủy là chẳng phải, cũng là tên nguy kinh.

Miết di hầu ngược lại âm trên tất diệt trong Văn Lục viết từ bộ ngư viết thành chữ miệt tục tự dùng cũng thông dụng, âm kế là di âm dưới là hầu cũng là tên kinh.

Kế-tân ngược lại âm trên kinh lệ tiếng Phạm, xưa dịch sai lược không đúng, đúng phạm âm là Yết-thấpnhĩ-la bắc Thiên Trúc.

Khang hỷ âm trên là khang theo Thanh Loại cho rằng: Chữ viết từ bộ hòa viết thành chữ khang tức là vô hạt thóc, cám, ngược lại âm dưới ty nhị Cố Dã Vương cho rằng: Chữ tỷ cũng là từ bộ tỷ đến bộ hòa viết thành chữ tỷ không thành hạt thóc, tức lúa lép, sách Thuyết

Văn cho rằng: Khang tỷ hai chữ đều từ bộ hòa nay tục dùng viết từ bộ mể là sai vậy.

Cổ trâm ngược lại âm dưới tập kim sách Nghi Lễ nói rằng: Lấy cây trâm cài lên xiêm áo phân rõ chức tước, Trịnh Huyền chú giải rằng: Trâm là nối liên kết với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây trâm cài lên trên đầu, xưa viết từ bộ vưu đến bộ nhân chữ tượng hình, nay Văn Lục viết từ bộ trúc viết thành chữ trâm chữ thời nay thường dùng là cùng với bộ vưu chữ tương đối là lung tung, chỗ dùng là chữ trâm này.

Chủ vĩ âm trên là chủ âm dưới là chữ vĩ chánh thể, kinh Sơn Hải nói rằng: Núi Kinh Sơn phần nhiều có loại hưu này, Quách Phác chú giải rằng: Giống như con nai mà lớn hơn, cái đuôi của nó lớn như cây chổi, xưa các người ẩn sĩ cầm cây phất trần, cho rằng phủi bụi giống như loại quạt lông chim điểu.

Diểm đông âm trên là diểm lại âm thường diêm sách Khảo Thanh cho rằng: Diểm là vót nhọn, gọi là tên giữ đất Ngô Việt, chữ viết từ bộ đao thanh diểm.

Đống cán ngược lại âm trên hông cống ngược lại âm dưới vong ngạn như trong nhà mà có cây đòn dông, có vách tường có rui, mè.

Bồ kiện sách An Tiến nói rằng: Bồ kiện đó là họ của người, ngược lại âm đô hề họ bồ đó là trước là tiên tổ của Tần Phù Kiên vốn họ bồ, sau đó lại sửa đổi lại họ Phù xét thấy các vị tiền bối viết thành bộ thảo kế đến bộ phó sửa đổi lại là phủ thị.

Phò liễu ngược lại âm lưu thủ theo sách Quận Quốc Chí thì thường là tên địa danh.

Trác tạc âm trên là trác Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác giống như là tước lột, sách Thuyết Văn cho rằng: Chặt đốn, chữ viết từ bộ cân đến bộ đấu âm đấu là âm đậu Văn Lục viết chữ lưu là chẳng phải, ngược lại âm dưới tạc.

Đế cấu âm trên là đề Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đế giống như là kết buộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Kết buộc không mở, chữ viết từ bộ mịch thanh đế ngược lại âm dưới câu hầu.

Vân bôn ngược lại âm dưới bổn môn sách Khảo Thanh cho rằng: Bôn là bầy trâu chạy, cùng với chữ bôn cùng đồng một nghĩa, chữ viết từ ba bộ ngưu viết thành chữ bôn chữ hội ý.

Diêu hoằng ngược lại âm hoạch hoằng sách Thuyết Văn cho rằng: Hoằng là cái ao sâu rộng lớn. Đời hậu Tần tên của Lý Chủ, âm hoạch ngược lại âm bạng hoạch.

Tăng duệ ngược lại âm duy tuế.

Khế ư ngược lại âm hương lệ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Khế là nghỉ ngơi, chữ hội ý, hoặc là từ bộ hộ viết thành chữ khế.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh dĩnh ngược lại âm dưới là khai ái tên kinh Văn Lục viết chữ khế khái là chẳng phải.

Tăng ngược lại âm dưới lương ước sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khế là sắc bén, sách Khảo Thanh cho rằng: Đá mài dao, thời Diêu Tần tên của vị cao tăng, dùng cùng với chữ lược cũng đồng.

Tháo bút ngược lại âm trên thảo đao sách Thuyết

Văn cho rằng: Tháo là cầm nắm giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh táo âm táo ngược lại âm tao đáo Văn Lục viết từ bộ sâm viết thành chữ tháo là chẳng phải, âm sâm ngược lại âm sam giảm.

Cần cù ngược lại âm cụ câu chữ viết từ bộ lực.

Sấn thí ngược lại âm trên sơ cân sấn giống như là thân cận gần nắm giữ tài vật thí cho gọi là sấn thí, chữ viết từ bộ nhân thanh thân vốn không có chữ này, người kinh tùy ý viết, hoặc là từ bộ khẩu Văn Lục viết từ bộ bối chưa biết rõ chữ này, nay lại theo chữ viết từ bộ nhân.

Siểm tử ngược lại âm khổ nhiễm.

Bạt đà ngược lại âm trên bàn mạt tên kinh.

Thư cự ngược lại âm trên tinh dư phía bắc nước Địch có Tả Đại Thư Cự làm quan là thị bắc lương mong Tôn Tổ.

Thắng man ngược lại âm trên thức chứng ngược lại âm dưới mạn ban tên kinh, cũng là tên người.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 4

(823) Hữu đáng ngược lại âm đang lãng sách Khảo Thanh cho rằng: Đáng là thích đáng, trong lời nói lý lẽ thích đáng, hoặc là từ bộ đảng viết thành chữ đáng Cố Dã Vương cho rằng: Đáng là nói thẳng, lý đương nhiên là như vậy, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh đang.

Chu khải ngược lại âm nghi kỹ tên người. Vương mong ngược lại âm mạt đông tên người.

Vương tất ngược lại âm dân tất sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tất là yên tĩnh, tên người.

Sài hổ âm trên là sài âm dưới là hô cổ theo Mao Thi Truyện nói rằng: Ném bỏ đồ ty tiện sài hổ, sách Nguyệt Lịnh nói rằng: Đến mùa thu là loài thú cúng tế cho chó sói, sách Thuyết Văn cho rằng: Sài là thuộc chó sói, chữ viết từ bộ thái viết thành chữ sài thanh sài Văn Lục viết từ bộ phó viết thành chữ phụ là chẳng phải.

Chỉ viển ngược lại âm chi lý tên chùa.

Bệ-ma-tú ngược lại âm trên bệ mễ tiếng Phạm. Athấu-đạt ngược lại âm tô mục.

Đôn hoàng ngược lại âm trên tuần hồn ngược lại âm dưới hồ quang tên của quận tức là quận Sa Châu.

Phân-hòa âm dưới là hòa tiếng Phạm.

Ma-di ngược lại âm trên mạc hà Văn Lục viết từ bộ nữ viết thành chữ ma là chẳng phải, tiếng Phạm, không cầu chữ nghĩa.

Thê-nô ngược lại âm dưới là nô sách Khảo Thanh cho rằng: Nô vật xưng của vợ con, văn cổ viết từ bộ nhân viết thành chữ nô xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ tử thanh nô Văn Lục viết từ bộ cân viết thành chữ nô là chẳng phải.

Uyển mật ngược lại âm trên miễn viễn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Uyển là đẹp, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Uyển chuyển, mềm mỏng, sách Thuyết Văn cho rằng: Hòa thuận chữ viết từ bộ nữ thanh uyển ngược lại âm dưới là mân bút.

Lâm nghi ngược lại âm ngư ky theo chữ lâm nghi tức là biển Đông Hải Nghi Châu, quận Lâm Nghi, Văn Lục giải thích rằng: Nước Tề cua Cao Đế Túc hướng về bá tánh thành đạo, chỗ xuất ra địa danh, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghi là tên sông, nước chảy ra từ phía đông núi Thái Sơn, nhập vào phía nam biển lớn, chữ viết từ bộ thủy thanh cân.

Quảng sưu mao ngạn ngược lại âm trên sắc trâu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sưu là thâu gom, theo Thanh Loại cho rằng: Sưu là giữ lấy, sách Khảo Thanh cho rằng: Nắm giữ sợi dây lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh sưu âm sưu ngược lại âm tô cẩu văn dưới cho rằng: Sưu là thu thập, chọn lấy v.v... đều đồng, Văn Lục viết chữ sưu tục dùng thông dụng, âm kế là mao theo Mao Thi Truyện cho rằng: Mao giống như tuấn tú xinh đẹp, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Kẻ sĩ tuấn tú, trong Mao Thi Truyện nói: Hào mao, trong có sợi lông nhỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tiêu thanh mao âm tuấn là âm tuấn âm tiêu là âm phiêu.

Du hiệt ngược lại âm hiền kiết đều là chỗ dựa vào trong tên họ.

Lưu cầu trên là chữ lưu sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ uyển đến bộ lưu ngược lại âm dưới kỳ do nước Tề ở Hình Châu, tên người ẩn sĩ.

Chi lân ngược lại âm dưới lật chấn tên là Lương Thái Thường Hiệu Chi Lân.

Tổ nể ngược lại âm trên thô cổ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tổ đó người đầu tiên sáng lập ra, Cố Dã Vương cho rằng: Người cha đầu tiên làm tổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tổ ban đầu của Tông Miếu, chữ viết từ bộ thị thanh thư ngược lại âm dưới nê lễ tục tự dùng thông dụng, viết đúng là từ bộ nhĩ viết thành chữ nể Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Nể cũng là tổ phụ của Tông Miếu, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thị thanh nhĩ.

Loa lũ ngược lại âm trên lỗ qua sách Thuyết Văn cho rằng: Loa là nhìn một cách thứ tự tốt đẹp. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ bối thanh loạn âm loạn là âm loạn, văn cổ viết chữ loạn từ bộ hưu, Lý Tư viết từ bộ thốn viết thành chữ loạn đều đồng, ngược lại âm dưới luân chủ.

Phụ đồng ngược lại âm dục tung.

Thiết lậu ngược lại âm trên thiên kiết Tự Thư cho rằng: Đúng là chữ thiết sách Thuyết Văn cho rằng: Loại đồng đen chữ viết từ bộ kim thanh thiết âm thiết ngược lại âm điền kiết ngược lại âm dưới lâu hậu sách Thuyết Văn cho rằng: Lâu là loại thiết cứng có thể khắc chạm trổ, chữ viết từ bộ kim thanh lũ.

Sửu chỉ ngược lại âm chi nhĩ Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chữ viết từ bộ thạch viết thành chữ thỉ gọi là đá mài dao, Văn Lục có viết chữ để cũng đồng.

Đế tụ ngược lại âm đinh lịch.

Mặc thù ngược lại âm trên hổ bắc Văn Lục có viết từ bộ ngôn là chẳng phải ngược lại âm dưới thọ châu Văn Lục có viết chữ thù là chẳng phải.

Đề khế ngược lại âm dưới khiên kiết Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Khế giống như kéo nâng lên cao, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm kéo treo lên cao, chữ viết từ bộ thủ thanh khế âm khế ngược lại âm khang bát.

Nghiêng hạch ngược lại âm trên nghê liên ngược lại âm dưới hoành cách sách Thuyết Văn cho rằng: Hạch giống như khảo xét, tra xét sự thật, Hán thư cho rằng: Xem xét thẩm xét sự thật, sự vụ đúng chuẩn, xưa gọi là pháp luật, sách Thanh Loại cho rằng: Che giấu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ á thanh kích âm á ngược lại âm nha giả âm kích ngược lại âm kinh lịch.

Đinh chánh ngược lại âm trên thích kính sách Thuyết Văn cho rằng: Đính là bình luận, khảo xét, chữ viết từ bộ ngôn thanh đinh.

Bính nhiên ngược lại âm binh mảnh Quảng Nhã cho rằng: Bính là sáng rực rỡ, sách Chu dịch cho rằng: Văn chương của đại nhân biến thành rực rỡ như ngọn lửa sáng sủa, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh bính hoặc là viết chữ bính.

Tùy bách ngược lại âm bành mạch.

Đảng địch ngược lại âm trên đường đảng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đảng là nói nước đột nhiên có, địch là tẩy trừ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đảng giống như loài diêu động, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh đảng âm đảng ngược lại âm tha lãng.

Thế tứ ngược lại âm trên thiên lễ ngược lại âm dưới tư tứ theo Mao Thi Truyện cho rằng: Từ nơi con mắt chảy ra gọi là thế tức là nước mắt, nước dãi trong miệng chảy ra gọi là tứ Cố Dã Vương cho rằng: Tứ tức là nước mũi, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ thế tư đều từ bộ thủy đều cùng thanh đệ tứ.

Bàng đà ngược lại âm trên phổ man ngược lại âm dưới đường hà Quảng Nhã cho rằng: Bàng là nước chảy xối xả, sách Thuyết Văn cho rằng: Bàng đà hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh bàng đà.

Hoàng tịch ngược lại âm trên hoãn quan Cố Dã Vương cho rằng: Hoàng là giống như cây bồ mà tròn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hoàn là loại cỏ cói, có thể dùng làm chiếu, chữ viết từ bộ thảo thanh hoàn âm thảo là âm thảo.

Vu nhược ngược lại âm trên vu cú xưa nay Chánh Tự cho rằng: Vu là loại rau lá lớn, thật có rễ bò chằng chịt, người ta cho rằng: Vu tức là khoai môn, chữ viết từ bộ thảo thanh vu ngược lại âm dưới là nhương chước cũng loại rau có rễ bò nhiều tức là dây khoai.

Dực kiện ngược lại âm dưới yết ngôn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Kiện là chỗ cất giấu cung tên, tức là bao đựng cung tên đeo trên ngựa, chữ viết từ bộ cánh thanh kiên.

Tiết phê ngược lại âm trên trắc sắc ngược lại âm dưới tần mật gọi là tiếp cận tương liên, liên quan với nhau.

Yểm vân ngược lại âm yểm liểm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Yểm gọi là mây che bóng râm, Quảng Nhã cho rằng: Bóng mát râm che trùm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh hấp Quảng Thương cho rằng: Bộ vũ viết thành chữ yểm Ngọc Thiên viết từ bộ cũng viết thành chữ hấp nghĩa đều đồng, Văn Lục viết từ bộ thủy viết thành chữ yểm tục dùng cũng đồng.

Phái nhập ngược lại âm trên tỵ mãi Quảng Nhã cho rằng: Nước xuất ra chảy rẽ ngã khác gọi là phái sách Thuyết Văn cho rằng: Phái là nước chảy rẽ ngã khác, chữ viết từ bộ thủy đến bộ phái âm phái từ bộ phản đến bộ vĩnh âm phái nghĩa cũng đồng.

Nhu kim ngược lại âm trên như châu Bì Thương cho rằng: Nhu là mềm mại thấm ướt, chữ viết từ bộ kim thanh nhu Văn Lục viết từ bộ mễ viết thành chữ nhu tức là còn lộn xộn, chẳng phải bổn nghĩa đây dùng.

Tháo liễu chi ngược lại âm trên thảo đao theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tháo giống như nắm giữ lấy quyền nắm quyền, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tháo nắm giữ lấy, Quảng Nhã cho rằng: Cầm giữ trong tay, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh táo âm kế lưu dậu Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ liễu tên dòng sông, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh á Văn Lục viết chữ liễu tục tự dùng thông dụng.

Bát oản ngược lại âm trên bán mạt Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ bát Phục Kiền Thông Tục Văn cho rằng: Bát là ứng khí của tăng sĩ, Văn Lục viết chữ bát tục tự dùng cũng thông dụng. Ngược lại âm dưới oản khoản sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tống Sở gọi là kết hợp lại làm cái bát nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mảnh thanh oản âm uyển là âm uyển.

Hưu tồ ngược lại âm tồ thô sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tồ là chết, qua đời, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạt thanh thư âm ngạc là âm căng.

Trác quỹ ngược lại âm quy ủy sách Hoài Nam Tử nói rằng: Tô Tần lấy một trăm mưu kế, để tạo thành niềm tin, Quảng Nhã cho rằng: Quỹ là tùy theo cái xấu ác, sách Thuyết Văn cho rằng: Dối trá quở trách, chữ viết từ bộ ngôn thanh nguy.

Đô nghiệp ngược lại âm nghiêm kiếp sách Hán Thư cho rằng: Nước Ngụy có quận là huyện Nghiệp, sách Sử Ký cho rằng: Tây Môn Báo là nghiệp lịnh. Theo chữ nghiệp đô đó tức là Ngụy Vũ Đế, chỗ đóng đô, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh nghiệp.

Vạn-sĩ-thị âm vạn là âm mặc âm dưới là sĩ là âm kỳ theo sách Chu Thư cho rằng: Là họ tiên kỳ, vạn sĩ là thiên tráng thiện, tiếng Phạm do người dịch kinh viết.-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 5

Cánh bá ngược lại âm trên cách hành Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cánh giống như thay thế, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trao đổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Sửa đổi, lại gọi thanh dưới ba mạ sách Văn Tự Điển nói rằng: Bá giống như nắm giữ, theo Tả Truyện nói rằng: Người lập ra công ban đầu là bá gọi là bức hiếp chư hầu, nắm giữ chính sự, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nguyệt thanh bá âm bá, ngược lại âm bồ mạc âm hiếp ngược lại âm mai kiếp.

Ngụy dục ngược lại âm dưới dung túc Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ dục viết thành chữ dục giống như là bán, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ chúc thanh dục âm chúc là âm lịch, âm dục là âm dục.

Quý bân ngược lại âm dưới bút mân tên người.

Tăng mạnh âm mảnh tên của vị cao tăng, chữ viết từ bộ lực đến thanh mạnh.

Trí thiên ngược lại âm tát tiên Quảng Nhã cho rằng:

Thiên là biến hóa, Thích Danh cho rằng: Già mà không chết gọi là thiên sách Thuyết Văn cho rằng: Người trường sanh, sống lâu, chữ viết từ bộ nhân thanh thiên âm thiên là âm thiên viết đúng tiện tiên.

Tư triệt ngược lại âm dưới triền liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là dấu vết của bánh xe lăn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xa đến bộ triệt thanh tĩnh Văn Lục viết từ bộ túc viết thành chữ triệt là chẳng phải.

Thiết chiêm bạt ngược lại âm trên thiên niết kinh Sơn Hải nói rằng: Núi Khôi Sơn phần nhiều có loại thiết này, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng đen chữ viết từ bộ kim thanh thiết âm thiết ngược lại âm điền kiết âm kế liểm nghiêm Thiên Thương Hoét ghi: Chiêm tức là cây kẹp giữ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây nhiếp xe bằng sắt, chữ viết từ bộ kim thanh chiêm Văn Lục viết từ bộ cam viết thành chữ kiềm tức là gông cùm xiềng xích chẳng phải bổn nghĩa kinh, âm nhiếp ngược lại âm niêm triếp âm kiềm ngược lại âm cự nghiêm ngược lại âm dưới bạch bát sách Thuyết Văn cho rằng: Bạt giống như là nắm kéo lên, chữ viết từ bộ thủ thanh bạt âm bạt ngược lại âm bồ mạt.

Pháp cù ngược lại âm dưới cu cú tên của vị tăng, Tự Thư Khảo Thanh đều viết chữ cù theo Thanh Loại cho rằng: Chiếu thảm lông.

Lung văn ngược lại âm trên lộc đông theo Tả Truyện cho rằng:

Tai không nghe được năm âm thanh hòa nhau gọi là lung Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lung là câm không nói được, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Lung là không nghe được, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ thanh long.

Cổ thị ngược lại âm trên cô ngỗ Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Con mắt không thể phân biệt được tốt xấu là cổ Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Cổ tức là mù, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh cổ.

Tích hành ngược lại âm tinh dịch sách Lễ Ký cho rằng: Câm, điếc, què chân, Cố Dã Vương cho rằng: Tích gọi là chân nghiêng một bên khô teo lại không thể đi được. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh tích âm bã ngược lại âm ba ma.

Phỉ cục ngược lại âm dưới cù lục theo Mao Thi Truyện nói rằng: Cục giống như cong lại, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Cục gọi là bộ phận, phân chia ra bộ phận, chữ khứ thanh, sách (824) Đại Đái Lễ nói rằng: Chư hầu lấy cái bộ phận phân chia ra thành bộ cục nói chính là chia ngôi vị, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Phân cục, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu trong bộ xích dưới lại là chữ cú lại truyện giải thích là con cờ, đi nước cờ, chữ tượng hình âm cú ngược lại âm cổ hầu.

Uất trĩ âm trên ôn huất Trịnh Tiển chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Uất là không thư thả thoải mái, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Uất là hơi xuất ra, sách Thuyết Văn giải thích: Uất là cây trong rừng mọc sầm uất, um tùm, chữ viết từ bộ cửu bộ mịch bộ phửu tóm lược, chữ uất nói nghĩa rộng là trăm cây cỏ, bao mọc um tùm từ phương xa. Uất uất là buồn rầu ủ ê, ngược lại âm dưới trì nhĩ Cố Dã Vương cho rằng: Trì giống như do dự không muốn tiến đến phía trước, sách Thuyết Văn cho rằng: Trù trừ, dùng dằng, chữ viết từ bộ chỉ thanh tự âm trừ ngược lại âm trữ chư.

Trí huyễn ngược lại âm huyền quyến tên của vị tăng.

Khế chương tân ngược lại âm trên khước lệ theo Mao Thi Truyện nói rằng: Khế giống như là nghỉ ngơi, âm kế là chước dương sách Hán Thư giải thích: Chương là tên của sông ở Trung Quốc, xuất phát từ quận Bình Hòa tỉnh Phúc Kiến, ngược lại âm dưới tất dân Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Tân là bến nước.

Kiền dược ngược lại âm trên kiền yển sách Chu Lễ nói rằng: Quan giữ cửa đã khóa chốt cài then, Trịnh Huyền chú giải rằng: Kiện giống như sức mạnh, sách Phương Ngôn nói rằng: Từ cửa ải mà đến cửa đông gọi then chốt là kiện từ cửa ải mà đến cửa tây gọi then chốt khóa là dược sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh kiện ngược lại âm dưới là dương chước Ngọc Thiên cho rằng: Chữ viết từ bộ kim viết thành chữ dược dược tức là kiện Tự Thư cho rằng: Lại cũng từ bộ môn viết thành chữ dược cũng giống như then chốt, sách Thuyết Văn nói: Cắm vào cánh dưới có sức mạnh giữ cửa, chữ viết từ bộ môn thanh dược cùng với chữ dược nghĩa cũng đồng, Văn Lục viết chữ dược là chẳng phải, âm trang là âm mẫu âm dược là đồng với âm trên.

Nhân sơn ngược lại âm ế trần sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nhân giống như rơi xuống chìm đắm, sạc Khảo Thanh cho rằng: Chìm cũng là tên của một ngôi chùa, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh nhân âm nhân là âm nhân.

Giang dự ngược lại âm trên giác cang sách Thuyết

Văn cho rằng: Đỗ hoành khuông nâng cửa lên, sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng là nâng lên, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh công ngược lại âm dưới dư lự sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng viết chữ dữ dữ cũng là chiếc xe, chữ viết từ bộ xa thanh dữ Văn Lục viết chữ dự tục tự dùng cũng thông dụng, âm dữ là âm dự.

Hoằng bác ngược lại âm trên ô hoằng Quảng Nhã cho rằng: Hoằng là sâu, sách Thuyết Văn cho rằng: Hoằng là nước sâu dưới đáy rộng lớn, chữ viết từ bộ thủy thanh hoằng âm dưới bổ mạc Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Bác giống như là rộng, sách Khảo Thanh cho rằng: Là dày, sách Thuyết Văn cho rằng: Rộng lớn thông suốt, chữ viết từ bộ thập thanh phu là âm bổ.

Văn sủy ngược lại âm dưới sơ ủy Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Sủy là đoán, sách Thuyết Văn cho rằng: Đo lường, chữ viết từ bộ thủ thanh đoan chữ hội ý.

Thải chích ngược lại âm dưới chinh đích sách Phương Ngôn cho rằng: Chích giống như giữ lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhặt, hái, chữ viết từ bộ thủ thanh thứ sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng từ bộ thạch viết thành chữ chích nghĩa đều đồng.

Ky mị ngược lại âm trên kỹ nghi Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ky là dây vàm buộc vào mõm ngựa, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Sợi dây da buộc đầu con ngựa gọi là ky sách Thuyết Văn viết từ bộ cách đến bộ mạ tóm lược bộ mạ từ bộ võng cũng có viết từ bộ tù là chẳng phải ngược lại âm dưới mị bi Quảng Nhã cho rằng: Mị giống như buộc lại, sách Sử Ký nói rằng: Ky mị là khiến cho bện đan xen vào nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh ma.

Bân kỳ ngược lại âm trên bút mân Trịnh Huyền chú giải Thi Phổ Truyện rằng: Bân là tên nước thời cổ đại như nước Nhung Địch ngày xưa, nay là địa danh, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bân là thuộc công lưu chỗ được phong cho đất ấp, chữ viết từ bộ sơn thanh bân âm bân đồng với âm trên, Tự Thư cho rằng: Bân từ hai bộ thỉ tức là hai con lợn cùng sống chung với nhau.

Binh tiến ngược lại âm tiền tiển Tả Truyện cho rằng: Tiến là chỗ nước Nhung Địch ở, Đỗ Dự chú giải rằng: Tiến giống như vừa mới, lại cũng gọi là rậm rạp, um tùm, chữ viết từ bộ thảo thanh tồn.

Hiểm duẫn ngược lại âm trên khâm nghiễm ngược lại âm dưới là duật duẫn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hiển duẫn là bộ tộc ở phương bắc Địch của Trung Quốc, Trịnh Tiển chú giải rằng: Nay gọi là Hung Nô, Hán Thư cho rằng: Thuộc vùng ven của nước Đương Ngô, đã có một đảng dục bộ tộc Hiểm Duẫn ở vùng biên giới, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hiểm duẫn hai chữ đều từ bộ khuyển thanh nghiêm duẫn Tự Thư, Khảo Thanh hoặc là viết chữ hiểm ngược lại âm liêm chiêm chẳng phải bổn chữ nên không dùng.

Minh đằng ngược lại âm trên theo Mao Thi Truyện cho rằng: Loài châu chấu hay ăn nhụy bông lúa gọi là minh sách Thuyết Văn cho rằng: Lại gọi là loài sâu ăn lá ngũ cốc, chữ viết từ bộ trùng thanh minh ngược lại âm dưới đằng lặc sách Nhĩ Nhã cho rằng: Loài sâu nhỏ ăn lá gọi là đằng Mao Thi Truyện giải thích: Minh đằng tức là loài sâu có nhả tơ ra bọc lấy lá, những lá còn non, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh đặc âm đặt ngược lại âm tha lặc Văn Lục viết chữ đằng cùng với sách Nguyệt Lịnh cũng đồng, theo Tự Thư cho rằng: Âm đằng là âm đằng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đằng tức con rắn, thuộc loại rồng chẳng phải nghĩa chữ minh đằng.

Nhật cán ngược lại âm dưới can ngạn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cán giống như ngày đã muộn rồi cũng gọi là chiều tối, sách Thuyết Văn giải thích cũng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ nhật thanh cán sách Khảo Thanh cho rằng: Từ chữ cán viết thành chữ cán âm cùng đồng với âm trên.

Huyền oản ngược lại âm miển viển tên của vị tăng.

Huyền vẫn ngược lại âm vu phân tên của vị Sa-môn, sách Thuyết Văn cho rằng: Vẫn là mưu tính, Quách Phác chú giải rằng: Mưu tính, bàn luận, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh quân.

Tế phạm diệp ngược lại âm trên tế hề Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tế là đem tặng tài vật của cải nơi đạo, cũng có chỗ gọi là cống hiến, Quảng Nhã cho rằng: Biếu tặng, sách Thuyết Văn cho rằng:

Giữ lấy di vật chữ viết từ bộ bối thanh tề Văn Lục viết chữ tề tục tự dùng cũng thông dụng.

Túc cảnh ngược lại âm dưới quỹ vĩnh.

Huệ trách ngược lại âm dưới tranh trách tên của vị Sa-môn.

Bì vấn ngược lại âm trên thí di Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bì giống như nhầm lẫn, sai lầm, gọi là tấm lụa trắng mỏng thưa, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh bì ngược lại âm dưới văn phấn Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Vấn giống như là rối loạn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh văn.

San hủy ngược lại âm sở gian Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: San là hủy báng chê bai, ngược lại âm dưới huy quỹ viết đúng thể là chữ hủy.

Tông hạt ngược lại âm dưới nhàn kiết Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ khiên tức là mấu chốt đầu trục xe, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ suyễn hai bên tương đối, đến bộ oa tóm lược, Cố Dã Vương cho rằng: Khiên tức là lôi kéo trục xe, cũng từ bộ kim viết thành chữ hạt cũng thông dụng.

Lăng lịch ngược lại âm dưới linh đích Thiên Thương Hoét ghi rằng: Lịch đó là bánh xe lần lần lăn qua, sách Lã Thị Xuân Thu cho rằng: Lịch đó là đè nén áp bức các chư hầu, sách Thuyết Văn cho rằng: Lịch gọi là chỗ chiếc xe cán qua lăn qua, xe nghiền, chữ viết từ bộ xa thanh lạc.

Khinh võng ngược lại âm vũ ngạo.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 6

Thuyên đệ ngược lại âm trên thất huyên sách Chu Dịch Hệ Từ Trang Tử đều nói rằng: Thuyên đó là chỗ gọi là được cá quên nôm, Cố Dã Vương cho rằng:

Thuyên tức là cái lờ bắt cá, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh thuyên âm cẩu là âm cẩu âm dưới đệ hệ sách Trang Tử Chu Dịch đều nói rằng: Đề là chỗ nói được thỏ quên móng chân, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc thanh sĩ âm sĩ là âm trĩ Văn Lục viết từ bộ đế viết thành chữ đề tục dùng cũng thông dụng.

Cảnh khái ngược lại âm trên canh hạnh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cảnh giống như là thẳng thắn, Quảng Nhã cho rằng: Cảnh là sơ lược, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh cánh ngược lại âm dưới hài ái sách Ban Cố Đông Đô Phú giải thích rằng: Thô sơ, mới mẻ nói cảnh khái, tức là sơ lược, đại khái, Tát Tông chú giải rằng: Không kín đáo, khít khao, chữ viết từ bộ mộc thanh khái.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 7

Biển ải ngược lại âm trên tiên ô Quảng Nhã cho rằng: Biên giống như chật hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh biên âm biên là âm biến ngược lại âm dưới ất giới theo Mao Thi Truyện cho rằng: Vùng biên ải đấy Ngụy chật hẹp, người dân nước này hay dời đến nơi chỗ thuận lợi, Quách Phác chú giải sách Lễ Ký rằng: Vùng biên ải thô lậu, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh ải dưới từ bộ hạng đến bộ cấu âm hạng là âm hạng âm cấu là âm cổ chữ ải là chữ cổ.

Khanh nhiên ngược lại âm khách canh.

Buộn thân ngược lại âm bồn muộn sách Giai Uyển Chu Tòng, Tự Lâm Tự Thống đều cho rằng: Buộn là bụi trần, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ thanh phân.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 8

Phục trục ngược lại âm trên trần túc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Phục giống như ràng buộc, bó quấn quanh lại, sách Khảo Thanh cho rằng: Gói lại Văn Tự Điển cái khăn gói sách, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh thất ngược lại âm dưới sung lục sách Phương Ngôn cho rằng: Trục giống như con thoi, cái trục để quay, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa đến bộ trụ thanh tĩnh.

Thiêm bàng ngược lại âm trên tiếp diêm sách Thuyết

Văn cho rằng: Thiêm là người có kinh nghiệm, sách Khảo Thanh cho rằng: Thiêm thẻ tre nhỏ để ghi chú, xưa đó đề ghi chép thẻ tre lấy từ việc gọi là xin xăm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh tiêm âm tiêm là tiến ngược lại âm dưới bác man theo chữ thiêm bàng đó là ghi các đề kinh sách, đề mục phân biệt, điêu suốt thông, nêu lên ghi chép, nghĩa của bộ sách kinh.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 9

Xã bát ngược lại âm phiền vạt.

Đào dụ ngược lại âm trên đồ lao ngược lại âm dưới do thủ Hà Hán chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dụ giống như dẫn dắt để tiến tới, Phu Tử nói khéo leo tuần tự dẫn dắt người ta một cách khéo léo, lấy điều thiện mà dạy bảo khuyên người đi vào con đường chánh, Tự Lâm cho rằng: Dụ giống như khen ngợi tốt đẹp, cũng gọi là dụ, sách Thuyết Văn cho rằng: Dẫn dắt, chỉ đường, chữ viết từ bộ ngôn thanh dụ hoặc là từ bộ thuần viết thành chữ thuẫn cũng viết chữ khâm âm nghĩa đều đồng, cũng viết chữ sưu ngược lại âm tiên cửu.

-------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC QUYỂN 10

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phỉ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Vĩ vĩ là gắng sức, Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Nhỏ bé, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thư đến bộ văn mà viết thành chữ vĩ chữ hội ý, âm dăng là âm mẫn.

Dục manh ngược lại âm trên dung chúc Ngọc Thiên viết chữ dục Quách Phác chú giải sách Nhĩ Số rằng: Dục giống như nuôi dưỡng, theo Mao Thi Truyện nói rằng: Đứa trẻ còn non nớt, sách Thuyết Văn cho rằng: Dục là nuôi dưỡng khiến cho từ từ theo điều tốt lành, chữ viết từ bộ dục thanh mỗi âm dục ngược lại âm đà hốt ngược lại âm dưới mạch bành.

Pháp tế ngược lại âm tiết tế chữ tế cổ, Văn Lục viết chữ tế tương truyền là sai.

Lưu cầu trên là chữ lưu âm dưới kỳ u tiếng binh khí va chạm, binh bộ khua, gọi là lưu cầu.

Tăng côn ngược lại âm dưới cốt hồn tên của vị tăng,

Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Côn là viên ngọc đẹp.

Sa nhu ngược lại âm dưới ngưng chu sách Khảo Thanh cho rằng: Nhu tức là xoa dịu, an ủi, theo Văn Lục cho rằng: Xoa vuốt ve vàng ngọc, tức là nắm vuốt, âm noa ngược lại âm nội hồi âm can ngược lại âm can hãn. Quái ngộ ngược lại âm trên oa họa Hán Thư cho rằng: Xá thư có chỗ sai lầm đều phải xả bỏ, trừ bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh quái âm dưới là ngộ.

Hổ tôn âm tồn sách Thuyết Văn cho rằng: Tôn tức là ngồi xổm, chữ viết từ bộ túc thanh tôn.

Đạo cảnh ngược lại âm dưới quỹ vĩnh tên người, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Cảnh là lửa cháy sáng rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Mở cửa sổ ánh sáng tràn vào, chữ tượng hình.

Thuyên chi ngược lại âm tử duyên sách Phương Ngôn cho rằng: Thuyên giống như chạm khác, mài ngọc, Quảng Nhã cho rằng: Thuyên cũng là đục đẽo chạm, sách Thuyết Văn cho rằng: Phá cây, bào cây, chữ viết từ bộ kim thanh thuyên âm thuyên ngược lại toàn nhuyễn. Nải âu ngược lại âm dưới âu khẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Âu dùng chày đánh, chữ viết từ bộ chi (825) thanh khu âm khu là âm khưu.

*******

TỤC ĐẠI ĐƯỜNG NỘI ĐIỂN LỤC

Huệ Lâm soạn.

Bộ phục ngược lại âm dưới trần túc văn trước Nội Điển Lục trong quyển thứ tám đã giải thích rồi.

Thuyên đề ngược lại âm trên thư duyên ngược lại âm dưới đê hề sách Chu Dịch cho rằng: Thuyên là cái nơm bắt lấy cá, đệ là cái bẩy bắt được thỏ, văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Viện ký ngược lại âm dưới kỳ ý sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ký là đến kịp, Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Cùng một lúc, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đến sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thư thanh ký Văn Lục viết chữ kỵ là sai chẳng phải.

Kiêu thuần ngược lại âm trên hiểu nhiên ngược lại âm dưới thùy luân.

Phiền nã ngược lại âm dưới nữ trư sách Hoài Nam Tử cho rằng: Quyết tâm nắm giữ sửa trị phiền não, Hứa Thúc Trọng giải thích rằng: Nã là loạn, sách Sở Từ cho rằng: Cành lá phiền não nhiễu loạn ngang dọc, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh như.

Uẩn kỳ ngược lại âm trên uân vẫn Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Uẩn là chứa nhóm, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tụ lại rong rêu, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tích tụ nhiều thứ lộn xộn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo đến thanh uẩn âm uẩn đồng với âm trên, âm tịch ngược lại âm tình dạ.

Vấn sức ngược lại âm trên văn phân Quảng Nhã cho rằng: Văn giống như lau chùi, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh văn Văn Lục viết chữ nhuận là sai.

Bột bổn ngược lại âm trên bồn một tên kinh, văn cổ viết chữ bột. Đâu-sa ngược lại âm đấu hầu tên kinh tiếng Phạm.

*******

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn.

Biện chuế ngược lại âm trên biện miên Quảng Nhã cho rằng: Biện giống như tràn đầy, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh biện Văn Lục viết từ bộ mã viết thành chữ biện tức là hai con ngựa sánh đôi để đóng vào xe, nghĩa quái lạ không lấy, ngược lại âm dưới duyết bối sách Hoài Nam tử cho rằng: chuế là đó là bán con cho người để làm nô tỳ, Cố Dã Vương cho rằng: Cầm cố làm vợ, làm rễ ở nhà người gọi là chuế sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bối đến bộ ao chữ hội ý.

Tinh cai âm trên đúng là chữ tinh ngược lại âm dưới cải hài Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cai là bao gồm chuẩn bị đầy đủ, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Đều phải nên như vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Ước hẹn, phóng chừng đại khái, chữ viết từ bộ ngôn thanh khái.

Biên tải ngược lại âm trên tất miên Cố Dã Vương cho rằng: Biên giống như xếp hàng, sách Trang Tử cho rằng: Biển là so sánh liên tục nối kết, sách Thuyết Văn cho rằng: Sắp xếp theo thứ tự, chữ viết từ bộ mịch thanh biên âm biên là âm thiên.

Lũ-ca-sấm ngược lại âm dưới sở cấm tiếng Phạm, tên của vị Sa-môn.

Sử siêm ngược lại âm dưới siểm kiểm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siêm giống như là dòm ngó, hầu hạ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhìn trộm trong khe cửa, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhìn xem dò xét hầu hạ, chăm sóc, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kiến thanh chiêm âm kiểm ngược lại âm liêm liểm.

Tiếp chủng ngược lại âm dưới chung lũng sách Lễ Ký cho rằng: Gót chân nhón lên cao kéo tới phía trước mà đi, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chủng là giống như nhón chân mà đi, theo Thanh Loại cho rằng: Gót chân, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc thanh chung âm cân là âm căn âm chỉ là âm chỉ.

Tượng dịch ngược lại âm dưới doanh chích tên kinh. Để khương ngược lại âm trên để nể Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Để là tên nước Di Địch, sách Thuyết Văn viết từ bộ thị cũng là một vùng đất nơi xa xôi, hoặc là viết chữ để Văn Lục viết chữ hổ ngược lại âm dưới khước hương Quảng Nhã cho rằng: Khương là sức mạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Khương là người ở bộ tộc Tây Nhung, chữ viết từ bộ dương thanh nhân Văn Lục viết chữ khương tục tự dùng cũng thông dụng. Khảo mô ngược lại âm trên khách hải Quảng Nhã cho rằng: Khải là pháp tắc sách Thuyết Văn cho rằng: Khải tức là mô chữ viết từ bộ mộc thanh giai Văn Lục viết từ bộ thủ là sai, ngược lại âm dưới lục bổ Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Mô cũng là pháp tắc mô phạm. Quảng Nhã cho rằng: Hình luật, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc đến thanh mạc Văn Lục viết từ bộ thủ là sai.

Âm mạch ngược lại âm trên chấp nhân sách Thuyết Văn cho rằng: Trâm là kim nhọn đâm thẳng vào, chữ viết từ bộ kim thanh hàm Tự Thư cho rằng: Cũng là trâm gọi là cây kim may áo, lại cũng viết chữ châm đều thông dụng, ngược lại âm dưới manh bách Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Mạch lý, sách Thuyết Văn cho rằng: Mạch máu, gọi là đường kinh mạch phân rẽ trong cơ thể chảy đi các tỉnh mạch, chữ viết từ bộ phái thanh huyết âm phái ngược lại âm phách mại Văn Lục viết từ bộ trĩ viết thành chữ mạch là sai, tục viết chữ mạch thông dụng.

Trụy hận ngược lại âm trên truy toại theo Mao Thi Truyện cho rằng: Dùng sức mạnh chống cự ngăn phòng nhiều kể oán hận, Thống Tự cho rằng: Trụy giống như là oán giận, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Oán hận, chữ viết từ bộ tâm thanh đối âm ngự là âm ngữ.

Thuyên cải âm trên là thuyên Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Thuyên cũng là cải cái tâm sửa đổi, sách Phương Ngôn cho rằng: Từ Quan Đông gọi hối cải chừa lỗi là thuyên sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh toan âm toan ngược lại âm thất tuần.

Cung đình hồ miếu Văn Lục viết từ bộ ấp viết thành chữ cung Tự Thư cho rằng: Đều không có chữ này, viết sai, theo sách Quận Quốc Chí Dự Dương Quận Ký ghi rằng: Có Cung Đình Hồ Hồ Bắc, có miếu thần Địch Lữ Kỳ có thể tùy ý phân ra gió trên dưới, trong miếu thần có cái hồ cùng với lộ sơn, tuy ở xa nhưng cũng tương liên với nhau, theo Văn Lục giải thích trải qua rất xa cũng có hồ này.

Kinh ngạc ngược lại âm dưới ngang các Tự Thư viết chữ ngạc giống như là kinh nghĩa của chữ ngạc sách Thuyết Văn cho rằng: Lời nói ngay thẳng, kiện tụng, ồn ào huyên náo, chữ viết từ bộ huyên thanh nghịch âm huyên là âm huyên âm nghịch là âm nghịch âm hoa là âm hoa.

Trường đoản ngược lại âm dưới đoan toán Quảng Nhã cho rằng: Đoản là thúc bách kề cận, sách Khảo Thanh cho rằng: Đoản là có chỗ dài ngắn, lấy từ mũi tên là chính cho nên chữ viết từ bộ thỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Đoản là ngắn không dài, chữ viết từ bộ thỉ đến bộ đậu Văn Lục viết từ bộ mộc viết thành chữ đậu âm đậu Trụ Văn viết chữ đậu chẳng phải nghĩa.

Dương phàm ngược lại âm dược thường sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Dương là giơ cao hiển bày ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Dương chỗ gọi là bay theo gió, chữ viết từ bộ phong thanh dương âm dương là âm dương.

Thúc hốt ngược lại âm trên thăng lục sách Sở Từ nói rằng: Qua lại vội vàng, vụt đến, vụt đi, sách Khảo Thanh cho rằng: Thúc giống như là anh quang động, sách Thuyết Văn giải: Thúc là con chó chạy, chữ viết từ bộ khuyển đến bộ thúc âm do chữ hội ý, Văn Lục viết từ bộ hắc viết thành chữ thúc sách Thuyết Văn giải thích chữ thúc là màu xanh đen, vải lụa màu xanh đen, chẳng phải nghĩa đây dùng.

Mang đầu ngược lại âm trên mang bàng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mang là vua rắn, Quách Phác chú giải rằng: Mang là con rắn rất lớn đó cho nên gọi là vua rắn, chữ viết từ bộ trùng thanh mang mang tức là con rắn thần ở Cung Đình Hồ, âm mang đồng với âm trên.

Thương đối âm trên là thường Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nói không thể báo đáp trả lại, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Đền bù đương nhiên phải như vậy, Quảng Nhã cho rằng: Phục hồi, hoàn lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Đạt đến vừa lòng toại ý, chữ viết từ bộ nhân thanh thường.

Minh tích ngược lại âm dưới tinh Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Tích giống như phân ra, theo Thanh Loại cho rằng: Phanh ra mổ xẻ ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Phá cây chẻ cây ra, chữ viết từ bộ mộc đến bộ cân chữ hội ý, Văn Lục viết từ bộ can viết thành chữ tích là sai chẳng phải.

Vĩ nhiên ngược lại âm vi phĩ vĩ vĩ giống như gắng sức, văn trước trong Nội Điển quyển thứ mười đã giải thích đầy đủ rồi.

Bất quyện ngược lại âm dưới quyền quyển theo Thanh Loại cho rằng: Quyện giống như mỏi mệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Lao nhọc làm việc quá sức nên mỏi mệt, chữ viết từ bộ nhân thanh quyển Văn Lục viết từ chữ quyện là sai.

Phệ-cẩu-niết ngược lại âm trên chi thứ ngược lại âm dưới nghiên kiết tên đề mục kinh Văn Lục viết chữ phệ là chẳng phải.

Đát-hào-ni ngược lại âm trên Đan-át âm hòa là âm hòa tên kinh. Khủ xỉ ngược lại âm trên khu vũ tên bài chú.

Hữu hoa kiệt chữ hoa chưa rõ nghĩa, Tự Thư cho rằng: Đều không có chữ này.

Hạt toàn ngược lại âm trên hàn cát âm dưới tùy duyên tên kinh. Tăng khải ngược lại âm dưới khai ái tên của vị Sa-môn.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 2

Huất nhiên ngược lại âm trên huân vật Tát Tông chú giải Tây Kinh Phú Truyện rằng: Huất là bỗng nhiên, sách Thuyết Văn cho rằng: Bổng nhiên có thổi lửa nổi lên, chữ viết từ bộ khiếm thanh đạm.

A-bạt ngược lại âm bàn mạt tên kinh.

Đồng thí dụ ngược lại âm trên đồ hồng tên kinh.

Cung ải ngược lại âm trên cúc cung theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cung giống như là cùng nghèo cùng, rỗng không, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh cung ngược lại âm dưới ách giới Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ải là vùng đất hiểm trở, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nguy hiểm nghiêng vóc, Cố Dã Vương cho rằng: Bức bách chật hẹp trắc trở, sách Thuyết Văn cho rằng: Bị lấp kín, tắt nghẽn, chữ viết từ bộ phụ đến thanh ải đúng là chữ ải.

Hạt niết ngược lại âm trên hứa kiết ngược lại âm dưới tiên diệt tên kinh Văn Lục viết chữ miết tục dùng cũng thông dụng.

Trâm truy ngược lại âm trên chấp kim Thiên Thương Hoét ghi trâm gọi là cái thớt bằng sắt, theo Khảo Thanh cho rằng: Thuộc cái ghế, Tự Thư cũng từ bộ phộc viết thành chữ trâm cũng là chất sắt thép, ngược lại âm dưới xung truy sách Khảo Thanh cho rằng: Quả chùy, thường có hình trụ dùng sắt hoặc là gỗ, hoặc là đá chế ra dùng để nện đạp, Tự Thư viết từ bộ mộc viết thành chữ chùy cùng với chữ truy nghĩa cũng đồng, theo sách Thái Công Lục Thao cho rằng: Đầu quả trùy vuông, nặng tám cân, cán dài năm thước, Cố Dã Vương cho rằng: Quả trùy đó là dùng để đập lên vật, Văn Lục viết khô trùy tục tự dùng cũng thông dụng.

Ngạo miệt ngược lại âm trên ao cật Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ngạo mạng không cung kính, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngạo mạng không cung kinh, Quảng Nhã cho rằng: khinh mạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Kiêu căng, chữ viết từ bộ nhân thanh ao ngược lại âm dưới miên bế âm bế ngược lại âm biên miệt theo Mao Thi Truyện cho rằng: Miệt giống như là khinh, Giả Quỳ chú giải rằng: Miệt là chưa hiểu, sách Thuyết Văn cho rằng: Khinh thường, chữ viết từ bộ tâm thanh miệt.

Đôn hoàng ngược lại âm trên đồ hồn âm dưới là hoàng chữ Đôn Hoàng xưa tên của quận, Hán thư cho rằng: Vua Vũ Đế nguyên niên phân tiểu tuyền đặt để là quận Đôn Hoàng, nay Sa Châu vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Đôn Hoàng hai chữ đều từ bộ hỏa cũng đều thanh đôn hoàng.

Vu điền âm dưới là điện vu điền tức là ở Tây Vực, tên của thành, Văn Lục viết từ bộ kim viết thành chữ vu điền là chẳng phải chữ.

Hồ-la ngược lại âm hồ cố tên kinh.--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 3

Xích chủy ngược lại âm dưới tinh tủy tên kinh, Văn Lục viết chữ chủy là chẳng phải.

Báng độc ngược lại âm trên bác hoảng Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Báng tức là chê bai, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nói xấu sau lưng sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh bàng ngược lại âm dưới đồng lộc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Độc là chê bai, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Vu khống oán hận, đau khổ, Quảng Nhã cho rằng: Xấu ác, sách Thuyết Văn viết từ bộ bích đến bộ độc âm hích là âm hích

Tăng lược ngược lại âm dưới lương chước cùng với chữ lược cũng đồng, tên của vị tăng.

Lụy đát ngược lại âm dưới đát hằng chữ bình thanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Đát là sợi dây lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh đát cũng viết chữ đát âm đán nghĩa cũng đồng.

Cực kính ngược lại âm trên cạnh ức hoặc là viết chữ cực theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Cực giống như là gấp, cực gấp, vội vàng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cực là tự thúc bách, gấp vội, chữ viết từ bộ vu tóm lược đến bộ đao bộ khẩu giống như là nói cẩn thận, Văn Lục viết chữ cực tục tự dùng chẳng phải ngược lại âm dưới kinh định gọi là con đường lộ, Văn Lục viết chữ kinh là sai.

Uyển khái ngược lại âm trên khang hoán sách Văn

Tự Tập Lược nói rằng: Uyển là kinh dị, than thở oán hận, ngược lại âm dưới khai ái Cố Dã Vương cho rằng: Khảng khái là chí không toại nguyện, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm đến bộ khái thanh tĩnh.

Tâm diên ngược lại âm dưới di yên tên kinh.

(826) Đại bách âm bạch trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Ôi tẩn ngược lại âm trên ôi hồi Quảng Nhã cho rằng: Ôi là ấm áp, ngược lại âm dưới từ tấn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lửa trong bồn chậu, chữ tẫn viết đúng là gọi là thiêu đốt lửa cháy không hết củi, chữ viết từ bộ hỏa đến bộ tận thanh tĩnh đều là thiêu đốt con dư lại tro tàn.

Thê đăng ngược lại âm trên thể để ngược lại âm dưới đăng đặng tên kinh, Văn Lục viết từ bộ mộc viết thành chữ đăng là chẳng phải.

Đàm-ma-bệ ngược lại âm dưới tỳ mễ tiếng Phạm tên của vị tăng.

Tăng-già-bạt-đăng âm bạt ngược lại âm bàn mạt âm đăng là âm đăng cũng là danh tăng.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 4

Nga tích ngược lại âm tinh diệc Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thịt phơi khô, sách Thuyết Văn viết từ bộ trở đến bộ tàn bộ nhục Mục Hy Chi viết từ bộ mục Trụ Văn viết chữ nhữu cùng với, nay viết chữ tích cũng đồng, cũng là nghĩa thịt phơi khô.

Cúc danh ngược lại âm trên cung dục tên của vị A-la-hán.

Du thạch ngược lại âm trên tú lâu Bì Thương cho rằng: Du thạch giống như kim loại mà chẳng phải kim loại, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim đến bộ thâu thanh tĩnh.

Kình địch ngược lại âm trên thư hình Quảng Nhã cho rằng: Kình là dùng võ lực, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng sức mạnh, chữ viết từ bộ lực thanh kinh Bì Thương cho rằng: Sức lực mạnh mẽ, ngược lại âm dưới đình lịch Đỗ Dự chú giải Tả truyện rằng: Địch giống như đối đầu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tiếp cận sát với nhau, Tự Thư viết đúng là chữ địch theo Văn Lục viết từ bộ khiếm viết thành chữ thích tục tự dùng thông dụng, âm đích là âm đích.

Diêu trưởng tốt âm trên trường âm dưới tôn duật tên của vua Tần.

Tợ tước ngược lại âm tường dược Tự Thư cho rằng: Tước giống như là nhai, Quảng Nhã cho rằng: Cho ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhai chữ viết từ bộ khẩu thanh tước âm tiều là âm tiếu âm tự là âm từ lữ.

Ẩu táp ngược lại âm trên âu khẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Ẩu tức là ói ra, nôn ra, chữ viết từ bộ khiếm đến bộ âu thanh tĩnh, ngược lại âm dưới miễn liệt Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Táp là tiếng than, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiểu ra, chữ viết từ bộ khẩu thanh tuế âm ý ngược lại ách giới.

Trào chi ngược lại âm trách giao Văn Thương Hoét ghi rằng: Trào giống như cười chế nhạo, Cố Dã Vương cho rằng: Trào là cười cợt làm trò đùa, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu đến bộ chu viết thành chữ điều sách Khảo Thanh cho rằng: Nói cười chế nhạo, Văn Lục viết từ bộ khẩu viết thành chữ trào chữ cũng đồng.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh đĩnh âm dưới khai ái văn trước Nội Điển Lục trong quyển thứ ba đã giải thích đầy đủ rồi, Văn Lục viết từ bộ khẩu viết thành chữ niết khái là chẳng phải.

Di hầu âm trên là chữ di Văn Lục viết từ bộ khuyển viết thành chữ di tục tự dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới hầu câu sách Sở Từ giải thích rằng: Di hầu là loài gấu bi, sách Thuyết Văn cho rằng: Di hầu là loài vượn, khỉ truyền cành, chữ hầu từ bộ khuyển thanh hầu âm hùng là âm hùng âm bi là âm bi âm lõi là âm nô đao. Khương lương ngược lại âm trên khướt lương âm dưới là lương sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khương lương là con bọ hung, con bọ hung thích ve tròn phân, nên gọi con bọ chở phân, Quách Phác chú giải rằng: Loài côn trùng trong đàm, phân dơ bẩn, xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng: Loài côn trùng trong đờm phân, chữ viết từ bộ trùng đều là thanh khương lương âm kiết ngược lại âm khí kiết.

Âu chi ngược lại âm trên âu khẩu sách Sử Ký cho rằng: Ngạc nhiên muốn nôn ọe ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Nôn ra, dùng chày gõ gõ, đập đập, chữ viết từ bộ phộc thanh khu âm khu là âm âu sách Khảo Thanh cũng viết từ bộ phộc viết thành chữ âu.

Luyến tích ngược lại âm trên luyến truyện Cố Dã

Vương cho rằng: Luyến gọi là thân thể co quắp lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh tay chân co quắp lại, chữ viết từ bộ tật thanh luyến ngược lại âm dưới tinh diệc xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh tích hoặc là viết từ bộ chỉ viết thành chữ tích.

Triệu túc ngược lại âm trên tung dục túc là lo sợ kính sợ, tên người.

Lục lực ngược lại âm trên long dục Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lục lực là bày ra sức mạnh, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Góp sức, chữ viết từ bộ lực thanh lục âm lục ngược lại âm ấu lực Văn Lục viết chữ lục tục tự dùng thông dụng.

Đạo diên ngược lại âm sĩ liên danh tăng.

Lạc đà ngược lại âm trên thang lạc ngược lại âm dưới đạc hà sách Khảo Thanh cho rằng: Lạc đà gọi tên là hồ súc sách Chu Thư Vương Hội nói: Đúng là ở miền bắc dùng lạc đà làm chuyên chở vận chuyển đồ vật, Cố Dã Vương cho rằng: Có thể vác nặng giỏi đi xa, xưa nay Chánh Tự viết chữ lạc đà đều từ bộ mã đều thanh lạc đà âm lạc là âm thác âm đà là âm đà.

Thiện thiện ngược lại âm thiền triển tên của nước Tây Vực.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 5

Tăng cự ngược lại âm cự ngư danh tăng.

Thúc dịch âm tên tiều âm dưới là diệc trên của Cung Tống Miếu. Mâu huyện ngược lại âm trên mâu hầu Hán

Thư cho rằng: Quận Hội Khê tên huyện Mâu, sách Khảo Thanh viết đúng chữ mâu Văn Lục viết chữ mâu tục tự dùng cũng thông dụng.

Y hy ngược lại âm dưới hỹ ky Quảng Nhã cho rằng: Hy giống như là nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn ra xa trông mong, chữ viết từ bộ mục thanh hy theo chữ y hy đó gọi phưởng phất, tức là lờ mờ không rõ ràng, Văn Lục viết chữ y hy là chẳng phải.

Phong giam ngược lại âm dưới giảm hàm Quảng Nhã cho rằng: Giam giống như sợi dây lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Buộc kín cái rương lại, chữ viết từ bộ mịch thanh hàm.

Thành tích ngược lại âm dưới tư tử sách Chu Lễ nói rằng: Ủy thác cho người nắm giữ di vật gọi là tích dựa vào thí cho trí tuệ, Trịnh Huyền chú giải rằng: Trong kho lẫm, người ta tính đủ chín thứ lương thực, số ít gọi là ủy số nhiều gọi là tích sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh trách Tự Thư cho rằng: Chữ giả tá Văn Lục viết chữ tích là sai.

Tùy bách ngược lại âm dưới thủ bạch văn trước Nội Điển Lục đã giải thích rồi.

Hỏa hạm ngược lại âm dưới hàm lam Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Hạm giống như hàng rào, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh lam.

Sạn lộ ngược lại âm trên tra nhãn Quảng Nhã cho rằng: Sạn giống như là cái gác, sách Hán Thư cho rằng: Con Đường đi xuyên núi phải gác cây làm đường để bắt ngang hai sườn núi, sách Thuyết Văn cho rằng: Sạn cũng là hàng rào, chữ viết từ bộ mộc thanh tàn âm tàn là âm tàn.

Lưu sử ngược lại âm dưới sư duẫn Thiên Thương Hoét ghi rằng: Sử giống như chạy nhanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Con ngựa chạy chanh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh sử.

A-thấu ngược lại âm dưới là tốc tên kinh.

Nại uyển ngược lại âm oán viễn địa danh, cũng là tên kinh. Văn Lục viết chữ thiền hoặc là viết chữ phụ đều chẳng phải.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 6

Vương giản ngược lại âm dưới gian nhãn tên của Lương Dự Chương Vương, Tự Thư cho rằng: Giản là tên, sách Thuyết Văn cho rằng: Để phân biệt chữ giản chữ viết từ bộ thúc là bát phân, Văn Lục viết chữ giản là chẳng phải.

Phúng tập ngược lại âm trên phong phụng Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thuộc lòng văn gọi là phúng Quảng Nhã cho rằng: Phúng giống như giảng dạy, Cố Dã Vương cho rằng: Phúng gọi là dùng âm giọng theo tình huống phát ra lấy động là tịnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Tụng đọc lời văn chữ viết từ bộ ngôn thanh phong.

Ngự vũ ngược lại âm dưới vu chủ Mao Thi Truyện cho rằng: Vũ là nơi ở, nhà ở, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nhà lớn, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Vùng biên giới, chữ viết từ bộ miên thanh vũ cũng viết chữ vũ nghĩa cũng đồng.

Thố hoài ngược lại âm thô cố Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thố giống như là đốn ngã, vất bỏ, lại chú giải sách Lễ Ký rằng: Sắp đặt, thi hành, sách Thuyết Văn cho rằng: Đặt để chữ viết từ bộ thủ thanh tích Văn Lục viết từ bộ hán viết thành tích Cố Dã Vương cho rằng: Tích là đá mài dao, chẳng phải đây dùng.

Kiên trước ngược lại âm trên kiến diên Quảng Nhã cho rằng: Kiên là nặn đúc, là đúc đồ gốm, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Kiên là soi xét rõ ràng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Kiên là nặn đúc đồ gốm, chữ viết từ bộ ngõa thanh chân âm chân là âm nhân.

Đồi yên ngược lại âm trên sung lôi Thiên Thương Hoét ghi rằng: Đồi giống như đọa lạc, theo Mao Thi Truyện giải thích rằng: Là bệnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồi là dáng điệu trọc, hói đầu không có tóc, chữ viết từ bộ ngốc thanh hội Văn Lục viết chữ đồi tục dùng thông dụng.

Thuyên chi ngược lại âm trên tuyệt duyên sách Phương Ngôn cho rằng: Thuyên giống như mài ngọc Quảng Nhã cho rằng: Thuyên tức là đục đẽo, chạm khắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Là đá mài ngọc chạm khắc, mạ vàng, chữ viết từ bộ kim thanh thuyên âm trác là âm trác âm thuyên ngược lại âm từ duyên.

Khám biệt ngược lại âm trên kham Quảng Nhã cho rằng: Khám tức là nhiều tràn đầy, Văn Tự Điển nói rằng: Chỗ thờ Phật, chữ viết từ bộ kim đến bộ long chữ hội ý, Văn Lục viết từ bộ hợp viết thành chữ khám tục tự dùng thông dụng.

Trất tỷ ngược lại âm trên trân sắc âm dưới tần tất theo chữ trất tỷ đó là giống như cây lược chải tóc có răng sát, khít với nhau, văn trước Nội Điển Lục đã giải thích đầy đủ rồi.

Yểm vân ngược lại âm trên yểm nghiểm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Mây che bóng râm mát, sách Thuyết Văn cho rằng: Mây mưa, chữ viết từ bộ thủy đến bộ hấp Quảng Nhã viết chữ yểm Văn Lục viết chữ yểm là sai, văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Cảo bổn ngược lại âm trên cao lão sách Sử Ký cho rằng: Cảo là bản sách viết thảo, bản thảo, soạn thảo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo viết thành chữ cảo nghĩa cũng đồng.

Quán tẩy ngược lại âm trên quan uyển Cố Dã Vương cho rằng: Phàm là tẩy rửa vật đều gọi là quán sách Thuyết Văn cho rằng: Quán là rửa tay, chữ viết từ bộ cửu đến bộ thủy đến bộ mảnh.

Tăng phảng ngược lại âm dưới phương võng danh tăng. Tù quốc ngược lại âm tụ do Tây Vực tên của nước. Triền náo ngược lại âm trên triệt liên Quách Phác chú giải sách Chu Lễ rằng: Triền là chỗ cư trú của thành ấp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiểm bộ lý đến bộ bát bộ thổ âm nghiểm là âm nghiểm ngược lại âm dưới nô giáo Tự Thư cho rằng: Chỗ khiến cho nhiều người khuấy nhiễu, sách Khảo Thanh cho rằng: Chỗ nhiều người ồn ào, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Không yên tĩnh, chữ viết từ bộ nhân đến bộ náo chữ hội ý, Văn Lục viết chữ náo tục dùng chẳng phải.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 7

Trùng hạch ngược lại âm trên trọng long ngược lại âm dưới hành cách Hán Thư cho rằng: Tra xét, thẩm xét sự việc, tìm ra sự thật cho đúng chuẩn, xưa gọi luật pháp, sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật gọi là kiểm tra từ cho chính sát, cũng giống khảo nghiệm, chữ viết từ bộ á đến bộ kích thanh tĩnh âm á ngược lại âm hách á từ bộ á tục tự dùng thông dụng.

Dung dã âm trên là dung Hán Thư cho rằng: Là đúc kim loại chỗ đập nện, âm nghĩa Hán Thư cho rằng: Dã chỗ gọi là đúc tiền, mô phỏng bắc chước, ngược lại âm dưới da giả sách Khảo Công Ký giải thích rằng: Chỗ người thợ luyện kim, sách Thuyết Văn cho rằng: Lò đúc làm cho kim loại tiêu chảy ra, chữ viết từ bộ băng đến bộ đài thanh đài âm băng là âm băng âm đài là âm canh.

Tháp thủy ngược lại âm trên tham hạp theo Thanh Loại cho rằng: Tháp là bay không cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ viết âm viết là âm quyên.

Thử tỏa ngược lại âm trên thê lễ Mao Thi Truyện cho rằng: Thử là viên ngọc tươi sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Màu sắc mới đẹp, chữ viết từ bộ ngọc thanh thử ngược lại âm dưới tô quả theo Mao Thi Truyện nói rằng: Tỏa là vụn vặt nhỏ bé, Quảng Nhã cho rằng: Tỏa là liên kết móc xích với nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh tỏa âm tỏa là âm tỏa cũng đồng nghĩa âm trên.

Nhẫn cấm ngược lại âm trên sắc ẩm sách Tự Thống, Khảo Thanh đều giải thích rằng: Cấm là giá lạnh, Văn Tự Điển nói: Cấm là lạnh run, chữ viết từ bộ băng thanh cấm âm băng ngược lại âm bút bằng Văn Lục viết chữ cấm là chẳng phải.

Như ế ngược lại âm dưới yên kiết sách Phương Ngôn cho rằng: Ế là nghẹn hơi thở, sách Thuyết Văn nói: Ăn cơm mắc nghẹn (827) cổ họng, không xuống, lại gọi là ăn cơm mắc nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế.

Hoàng pháp cù ngược lại âm dưới cụ câu tên người. Kiền trùy âm trên là càng ngược lại âm dưới trụy truy theo chữ kiền trùy đó là đặt để bảng mộc gỗ đánh lên nhóm chúng trai đường ăn cơm.

Ni tư ngược lại âm trên minh kiết tên nước Tây Vực. Tri huyền ngược lại âm dưới huyền huyễn danh tăng. Ngạn tông ngược lại âm dưới thư tông danh tăng.

Điêu quẫn ngược lại âm dưới quân vẫn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Quẫn giống như khốn cùng, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Quẫn là bức bách, sách Thuyết Văn cho rằng: Quẫn cấp bách quá mức, chữ viết từ bộ huyệt thanh quân.

Khôi kỳ ngược lại âm trên hội hồi Mao Thi Truyện cho rằng: Viên ngọc bích loại đá xấu, Đỗ dự chú giải Tả

Truyện rằng: Hạt trai, ngọc trai, Bì Thương cho rằng:

Viên ngọc đẹp lớn kỳ lạ, trân quý tốt đẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng lấy viên ngọc trân quý to lớn quý này là cũng ở trong người, nay viết từ bộ ngọc thanh quỹ Văn Lục viết từ bộ y viết thành chữ khôi đó là văn chữ cổ, Tự Thư lại viết chữ khôi ngược lại âm dưới cự cơ viết đúng là từ bộ đại viết thành chữ kỳ Văn Lục viết chữ kỳ tục tự dùng thông dụng.

Tăng côn ngược lại âm dưới cốt hồn.

Ky mị ngược lại âm trên kỹ nghi ngược lại âm dưới mỹ bi theo chữ ky mị đó là sợi dây buộc hàm con ngựa, mị là bện sợi dây liên tiếp với nhau.

Âu mân ngược lại âm trên âu hầu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Đông Âu ở bên kia bờ biển, lại chú giải kinh Sơn Hải rằng: Mân việt tức nay là Tâu Âu, nay là Kiện An, sách Thuyết Văn cho rằng: Âu mân là đông Nam Việt, chữ viết từ bộ ngõa thanh khu âm dưới là vũ cân.

Kiện-nã ngược lại âm trên kiện ngôn ngược lại âm dưới Nạch-da tiếng Phạm, tên của Tây Vực thành, đã giải thích đầy đủ ở trước rồi.

Tri trù âm trên là trì ngược lại âm dưới trụ du theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Tri trù tức là trù trừ dùng dằng, Quảng Nhã cho rằng: Giống như là đi quanh quẫn, đi đi, lại lại, âm trịch là âm trịch âm xúc ngược lại âm trù lục.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 8

Huyền trang ngược lại âm dưới tạng lang danh tăng, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Trang là ngựa hay, ngựa tốt, âm tảng ngược lại âm tác lãng Quách Phác chú giải rằng: Trang là to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đại thanh trang.

Huyền nghi ngược lại âm dưới nghi cước danh tăng.

Tích thâm ngược lại âm trên tinh tích theo Thanh

Loại cho rằng: Tích giống như có công lao, sách Khảo Thanh cho rằng: Công hiệu, xưa nay Chánh Tự viết chữ bộ lực thanh trách.

Huệ trách ngược lại âm dưới tranh trách danh tăng, Văn Lục viết từ bộ phụ viết thành chữ trách tục tự dùng cũng thông dụng, Vương Bậc chú giải sách Chu dịch rằng: Trách là thâm sâu.

Trác lạc ngược lại âm dưới lực giác Ban Cố Tây Đô Phú Truyện giải thích rằng: Trác lạc là chỉ những người siêu tuyệt nổi bật xuất chúng, sách Khảo Thanh cho rằng: Trác lạc là nổi bật cao hơn người, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ ngưu đến bộ lao thanh tĩnh.

Xuyết chẩn ngược lại âm trên chuyển liệt Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Xuyết giống như thôi nghĩ, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thôi, âm dĩ là âm dĩ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tiếng xe nhỏ kém dần, chữ viết từ bộ xa thanh xuyết âm xuyết đồng âm trên, ngược lại âm dưới chân nhẫn Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Chẩn giống như đòn nặng, Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Chẩn đó là cái đòn ngang ở sau xe, kinh Thái Huyền nói rằng: Chẩn là chiếc xe chuyển bánh lăn trên đường, Tống Trung giải thích rằng: Giống như lần lần chuyển bánh, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh chẩn âm khẩn đồng với âm trên, Văn Lục viết chữ chẩn tục dùng thông dụng.

Thao đức ngược lại âm thảo lao Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thao giống như cất giấu, Quảng Nhã cho rằng: Rộng, sách Thuyết Văn cho rằng: Bao đựng kiếm, chữ viết từ bộ vi đến bộ thao thanh thao âm thao là âm mục.

Cảnh khái ngược lại âm trên canh hạnh Quảng Nhã cho rằng: Cảnh giống như thẳng thắn, Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Cảnh là người tráng sĩ thẳng thắn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh cánh ngược lại âm dưới hài đại Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khái là gạc cho bằng, sách Ban Cố Đông Đô Phú nói rằng: Thô sơ, mời tân khách, nói cảnh khái, sách Tác Tông gọi là sơ lược không tiêm mật, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh khái.

Châm quy ngược lại âm trên chấp thâm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Châm giống như phép tắc, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Châm là răn dạy, Đỗ Dự chú giải Tả truyện rằng: Ngăn ngừa, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh hàm chữ hội ý.

Xuẩn xuẩn ngược lại âm xuân duẫn sách Thượng

Thư Đại Truyện nói rằng: Xuẩn tức là xuất ra, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Xuẩn là ngọ nguậy nhúc nhích, tức là sâu bọ, sách Thuyết Văn cho rằng: Con sâu nhúc nhích, chữ viết từ bộ côn thanh xuân âm côn là âm côn.

Tiêu kịch chữ trên Tự Thư viết đúng từ bộ ngôn viết thành chữ tiêu cùng với chữ tiều đồng âm, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tiếu giống như trách khéo, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Trách mắng, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh tiêu ngược lại âm dưới kình nghịch Cố Dã Vương cho rằng: Kịch giống như là rất, quá lắm, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bệnh nặng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh kịch.

Huân du ngược lại âm trên huấn vân cỏ thơm, ngược lại âm dưới dậu châu gọi là cỏ hội, xem trước đã giải thích rồi.

Cảo nhai ngược lại âm trên cao lão Cố Dã Vương cho rằng: Cảo giống như là cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ hào thanh cao ngược lại âm dưới giai hài sách Thượng Thư cho rằng: Cảo nhai gọi là bộ tộc chỗ ở của Man Di, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhai gọi là thông bốn ngã đường, tức là ngã tư, chữ viết từ bộ hành thanh khuê.

Ách uyển ngược lại âm trên anh cách Quảng Nhã cho rằng: Ách là nắm giữ, Trịnh Huyền chú giải Thuyên Phục Truyện rằng: Nắm trong tay tràn đầy gọi là ách sách Thuyết Văn cho rằng: Ách giống như cầm tay, chữ viết từ bộ thủ thanh ách âm ách là âm ách viết đúng là chữ ách cũng viết chữ cách âm nghĩa đều đồng, Văn Lục viết chữ ách tục tự dùng thông dụng. Ngược lại âm dưới uyển hoán Dương Hùng giải thích rằng: Uyển là nắm lấy cổ tay, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh uyển.

Nải chấp ngược lại âm dưới châm lập Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chấp giống như cầm nắm, Phạm Ninh chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Chấp là sợi dây cương, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chấp là sợi dây, chỉ kỹ cương phép tắc, giống như dây cương buộc ngựa, chữ viết từ bộ mịch đến bộ chấp đúng là chữ chấp hoặc là viết chữ chập âm đều đồng.

Tổ nể ngược lại âm dưới nê lễ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nể tổ phụ của miếu, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thị thanh nhĩ đã giải thích rồi.

Chất cốc ngược lại âm trên chân viết ngược lại âm dưới công ốc Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Gông cùm trong tay gọi chất gông cùm ở chân gọi là cốc đó là dụng cụ hình phạt người, Trịnh Chúng lại cho rằng: Chất cốc đó là gông cùm trói buộc câu thúc tội nhân lại cùng một gốc cây, sách Thuyết Văn nói: Hai chữ đều từ bộ mộc cũng là thanh chí khốc.

Tông hạt ngược lại âm dưới nhàn kiết sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng từ bộ thủ hai bên đều tương đồng, đến bộ cao tóm lược âm xuyên ngược lại âm xuyên nhuyễn nay thông dụng viết chữ hạt cũng từ bộ kim viết thành chữ hạt Cố Dã Vương cho rằng: Thanh sắt thẳng trục xe, văn trước Nội Điển Lục trong quyển thứ năm đã giải thích rồi.

Điều hý ngược lại âm trên triệu tiếu Quảng Nhã cho rằng: Điều giống như cười chế nhạo. Lại cũng giải thích rằng khinh khi, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh điều Văn Lục viết từ bộ thủ viết thành chữ điệu là sai, ngược lại âm dưới hy ý theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hý giống như là buông thả, phóng dật, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hý là làm trò cười cợt vui đùa, Quảng Nhã cho rằng: Làm điều tà vạy, sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh hý âm hý là âm hy.

Giải sấm âm trên là giới ngược lại âm dưới sáp giám sách Khảo Thanh cho rằng: Sấm là từ tự bày ra lỗi ra ở nơi Đức Phật, tục viết chữ sấm Văn Lục viết chữ sám là chẳng phải.

Nặc-tư-quốc ngược lại âm trên Nãn-kiết tiếng Phạm.

Vu thuẫn ngược lại âm dưới đồn tôn cũng là tên nước.

Điền ế ngược lại âm trên tuần kiên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Điền là chứa đầy nhiều, Quách Phác chú giải rằng: Tiếng của đám người đi, Thiên Thương Hoét viết chữ điền giống như tắt nghẽn, nghĩa cùng với chữ điền cũng đồng, sách Tây Đô Phú giải thích rằng: Điền là thành quách nước tràn ra, sách Thuyết Văn cũng giải thích Tắt nghẽn, chữ viết từ bộ huyệt đến thanh chân âm chân ngược lại âm chi nhân ngược lại âm dưới yên kiết Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Ế giống như tắt nghẽn cổ họng, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Ế là không thở được, sách Thuyết Văn cho rằng: Ế giống như ăn cơm mắc nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế Văn Lục viết chữ điền là chẳng phải, âm trất ngược lại âm chân lật.

Huyên hoa ngược lại âm trên huyên viên theo Thanh Loại cho rằng: Huyên tức là hoa Tiên Khanh Sắc Phú Truyện nói rằng: Không ồn ào mà nước chảy đầy tràn, sách Thuyết Văn viết đúng là chữ quyền viết thành chữ hoan cùng với chữ huyên nghĩa cũng đồng, sách Hán Thư cho rằng: Chưa đến nổi ầm ỷ vậy, Văn Lục viết chữ huyên cũng đồng, Thư Truyện chỗ dùng cũng đồng, ngược lại âm dưới hóa qua Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hoa tức là thanh hoan sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh hoa.

Đĩnh uynh ngược lại âm trên đô đĩnh ngược lại âm dưới huỳnh định sách Khảo Thanh cho rằng: Đĩnh uynh là dòng nước nhỏ, theo Cam Tuyền Phú Truyện giải rằng: Dòng nước tốt giống như chảy yếu, trong suốt đó gọi là đính uynh xưa nay Chánh Tự viết chữ dinh nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ thủy thanh huỳnh Văn Lục viết chữ đính uynh âm đính là âm thính Vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đính là nước sâu mặt hồ bằng phẳng, phẳng lặng trong suốt cùng với bổn nghĩa, không đồng, cho nên không dùng âm uynh ngược lại âm nhân quýnh. Minh bột ngược lại âm trên mịch bình âm dưới bồn một theo sách Trang Tử nói rằng: Ở biển Bắc Minh có con cá gọi là côn âm côn ngược lại âm cổ hồn từ biển đem tới chính là biển Nam Kinh, biển Minh Bột cũng đều gọi là biển, chữ viết từ bộ thủy thanh bột.

Phan xuyên ngược lại âm phò Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phan xuyên tên gọi kinh Triệu Hương, lại cũng gọi là thành Dương Phan, lại cũng gọi là đỗ lăng hương, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh phan.

Cự trừ âm trên là cự âm dưới là trừ Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Cự trừ là chiếu cỏ, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Cũng gọi là chiếu tre, âm bộ ngược lại âm bồ phệ sách Thuyết Văn cho rằng: Cự trừ hai chữ đều từ bộ trúc đều thanh cự trừ.

Dực nhật ngược lại âm trên dăng chức Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dực là sáng rực, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cũng sáng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vũ thanh lập

Bất đế ngược lại âm ngã đệ sách Khảo Thanh cho rằng: Hơi chạy lên tới mũi Thiên Thương Hoét cho rằng: Đế tức là tiếng hắt hơi, sách Thuyết Văn cho rằng: Đế gọi là hiểu giải hơi ra, chữ viết từ bộ khẩu thanh đế âm đế là âm đế.

Phát liểm ngược lại âm dưới liêm kiểm Thống Tự cho rằng: Liểm giống như thâu gom lại, Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Cất giấu, sách Thuyết Văn viết từ bộ kiểm thanh phộc âm phộc ngược lại âm phổ mộc Văn Lục viết chữ hiểm tục tự dùng thông dụng.

Trường ỷ ngược lại âm dưới ý nghi theo Mao Thi Truyện giải thích rằng: Y là gợn sóng trên mặt nước, tiếng vỗ rì rào, cũng gọi là gợn sóng lăn tăng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy đến thanh y.

Quân thập ngược lại âm trên quân vận Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Quân thập đó là gặt hái cắt lúa đem về nhà, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữ lấy, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh quân Văn Lục viết từ bộ quân viết thành chữ quân tục tự dùng thông dụng.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 9

Khi khu ngược lại âm trên lửa ky âm dưới là khưu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khi khu là nghiêng lệnh, gập ghềnh, không bằng phẳng, Bì Thương cho rằng: Khi khu là không an ổn, sách Khảo Thanh cho rằng: Núi hiểm trở, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ khi khu đều từ bộ sơn đều thanh kỳ khu.

Thị dục ngược lại âm trên thời chí Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thị là tham, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thị là không nhàm chán, sách Thuyết Văn cho rằng: Thị dục là ưa thích, say mê, không nhàm chán, chữ viết từ bộ khẩu thanh kỳ từ bộ mục đó là sai chẳng phải.

Bân châu ngược lại âm trên bút mân Tự Thư cũng viết từ bộ ấp viết thành chữ phân tức là đất ấp của Công Lưu, cùng với chữ bân cũng đồng, theo Mao Thi Truyện có trang sách viết chữ bân, tức là tên nước thời cổ đại, nay là huyên bân thuộc tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ sơn đến bộ bân âm bân là âm bân hai bộ thỉ cũng gọi là hai con lợn đi song song với nhau.

Ngạn tông ngược lại âm trên ngôn biến sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kẻ sĩ tài giỏi gọi là ngạn ngược lại âm dưới tộc tông sách Thuyết Văn cho rằng: Tông giống như là vui vẻ, chữ viết từ bộ tâm thanh tông tên của vị Sa-môn, văn trước có viết từ bộ ngọc viết thành chữ tông chưa rõ đồng hay là khác nghĩa.

Hiếp lũy ngược lại âm trên khâm kiếp Tả Truyện giải thích: Nghe tiếng gió ngựa chạy mau, thúc bên hông con ngựa tiến tới, sách Khảo Thanh cho rằng: Hiếp tức là xương sườn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiếp gọi là hai bên xương sườn, chữ viết từ bộ nhục đến bộ hiếp âm hiếp ngược lại âm hồ hiệp thanh hiếp Văn Lục viết từ ba bộ lực viết thành chữ hiếp tục tự dùng cũng thông dụng. Thiều sấn ngược lại âm trên là chiêu âm dưới sơ cẩn chữ thiều theo Thiên Thương Hoét ghi rằng: Thiều là trẻ con để tóc trái đào hai bên rủ xuống, Bì Thương cho rằng: Thiều là mái tóc chấm lông mày, sách Khảo Thanh cho rằng: Thiều là trẻ nhỏ cắt tóc còn chừa lại hai bên vá, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tiêu đến thanh chiểu âm tiêu là âm phiêu ngược lại âm dưới sơ cẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sấn gọi là hủy bỏ cái răng, con trai đến tám tuổi, con gái đến bảy tuổi, thay răng sữa đều gọi là sấn sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh sất.

Giáng chỉ ngược lại âm dưới hy lý theo Mao Thi Truyện cho rằng: Chỉ giống như là giáng phúc, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chỉ cũng như là lộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng đồng nghĩa chữ viết từ bộ thị thanh chỉ Văn Lục viết chữ chỉ tục tự dùng thông dụng.

Lự lộc ngược lại âm trên lư chữ sách Vận Thuyên cho rằng: Lự giống như tẩy rửa, theo chữ lự đó là che trên một lớp cát khi lọc nước khi có vi trùng còn sống tức là hộ sanh vậy, lấy miếng vải làm lưới thưa để lọc nước trong nước có trùng dơ uế, rồi lấy nước sạch tinh khiết mà dùng, các chữ trong sách không giải nghĩa chữ lự, ngược lại âm dưới lung cốc sách Khảo Công Ký cho rằng: Lộc tức là lọc nước lấy nước sạch, mà lọc Cố Dã Vương cho rằng: Giống như là nhỏ từ giọt xuống vậy, Tự Lâm cho rằng: Nước rơi xuống nhỏ giọt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh lộc.

Địch uế ngược lại âm trên đình lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Địch giống như tẩy trừ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Quấy động, lắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Phun rượu tẩy trần, chữ viết từ bộ thủy thanh địch.

Ngụy dĩ ngược lại âm cung ngụy Quảng Nhã cho rằng: Vĩ giống như là chơi cờ bạc, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bọn cờ bạc cũng tiêu phí, hoang phí, Ngọc Thiên cho rằng: Hoặc là viết chữ ngụy nghĩa đều đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bối đến thanh vi lại âm hội ngõa hai âm.

Quyên trích ngược lại âm trên quyết duyên sách Thuyết Uyển giải thích rằng: Quyên là dòng nước chảy ra sông lớn, dòng nước trong sạch, Cố Dã Vương cho rằng: Dòng nước nhỏ chảy yếu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh quyên âm quyên ngược lại âm mi huyền Văn Lục viết chữ quên tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới đinh lịch Tự Thư cho rằng: Viết đúng là từ bộ thí viết thành chữ thí lại viết chữ trích Cố Dã Vương cho rằng: Thí gọi nhỏ giọt, từng giọt nhỏ xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Rót rượu chữ viết từ bộ thủy thanh đích âm thí cũng đồng, Văn Lục viết chữ đề truyện viết sai, bỏ sót chữ khẩu vậy.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 10

Khiên khỏa ngược lại âm trên truy diên Cố Dã Vương cho rằng: Khiên giống như dẫn dắt, xem trước đã giải thích rồi, Văn Lục viết chữ khiên tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới lõa quả sách Thuyết Văn cho rằng: Khỏa tức là tổ, chữ viết từ bộ y thanh quả xem trước đã giải thích rồi.

Duyên ba ngược lại âm trên duyệt quyên Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Duyên nước chảy thuận dòng từ trên mà xuống gọi là duyên sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh âm duyên ngược lại âm duyên tuyển Văn Lục viết từ bộ công viết thành chữ duyên là chẳng phải.

Lởi đồng ngược lại âm trên lô đồi sách Khúc Lễ nói rằng: Người gõ trong tuồng hát, đồng âm là tượng gỗ không có tiếng âm thanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Lởi đồng với vô phân biệt, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân đến bộ lởi âm lởi là âm lôi thanh lôi.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 11

Nhu đầu ngược lại âm trên như chữ Đề Mục kinh. A-xúc ngược lại âm dưới trâu túc tên kinh.

Thọ huyễn ngược lại âm dưới hoạt quán sách Thuyết Văn bộ đảo đến bộ dư kinh văn viết chữ huyễn tục tự dùng thông dụng, tên kinh.

Bất huyễn ngược lại âm dưới huyết quyến Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Huyễn là đưa mắt nhìn, Cố Dã Vương cho rằng: Huyễn là khiến cho người ta chuyển động con mắt ra dấu hiệu, sách Thuyết Văn cho rằng: Đưa mắt ra dấu hiệu, chữ viết từ bộ mục đến bộ huyễn âm huyễn đồng với âm trên.

Lăng-già ngược lại âm trên lặc đăng âm dưới là da tiếng Phạm.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 12

Tượng dịch ngược lại âm dưới dương ích tên kinh.

Siểm-tử ngược lại âm trên thất nhiễm tiếng Phạm, tên kinh.

Quyến tác ngược lại âm trên quyên nhuyễn ngược lại âm dưới tăng lạc tên kinh.

Câu tri ngược lại âm dưới trí hy tên kinh, văn kinh viết chữ tri tục tự dùng thông dụng.

La chiên ngược lại âm dưới triển liên tên kinh. Am đề ngược lại âm trên ảm hàm tên kinh.

Chích chi ngược lại âm trên chinh thạch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Góp nhặt lấy những lời nói lập thành văn cú để truyền dạy, sách Phương Ngôn cho rằng: Thâu thập góp nhặt, dùng tay nhặt lấy vật, sách Khảo Thanh cho rằng: Chích cũng là thập Tự Thư Giai Uyển Chu Tòng cũng viết từ bộ thạch viết thành chữ chích âm nghĩa đều đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh thứ chữ hộ ý.

Vô nhu ngược lại âm dưới nhu dậu sách Chu Dịch giải: Nhu là cây làm chỗ chống đổ, sách Khảo Thanh cho rằng: Cây gỗ cong đem đốt vào lửa uốn cho thẳng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh nhu hoặc là viết từ bộ hỏa viết thành chữ nhu cũng thông dụng văn dưới cũng đồng.

Nghiệp thành ngược lại âm trên nghiễm kiếp sách Ngụy Thư cho rằng: Nghiệp thành là kinh đô của nước Ngụy, Hán Thư cũng viết nghiệp huyền.

Giải quyện ngược lại âm dưới quyển viên tên kinh, xem trước đã giải thích rồi.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 13

Thoát sĩ ngược lại âm sư tử sách Mạnh Tử nói rằng:

Nhìn xem thiên hạ cởi bỏ giày dép, theo nghĩa chữ khí cùng với thoát sĩ cũng đồng, sách Khảo Thanh cho rằng: Sĩ thuộc giày dép, sách Thuyết Văn viết từ bộ cách viết thành chữ sĩ theo Thanh Loại cho rằng: Cũng đồng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lý tóm lược Văn Lục viết chữ tỷ cũng thông dụng.

Át-la-diên ngược lại âm trên an khát tiếng Phạm, danh tăng. Đạt-đa ngược lại âm dưới Đa-đà tên kinh.

Ương quật âm trên là ương ngược lại âm dưới quần luật tên kinh.

Vu điền âm dưới là điện tên nước Tây Vực, Văn Lục viết chữ vu điền là chẳng phải, xem trước đã giải thích rồi.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 14

A-xà-thế ngược lại âm dưới thiết chế chữ viết đúng hợp là thế Văn Lục viết chữ thế là sai.

Đôn hoàng ngược lại âm trên đô hồn âm dưới là hoàng danh hiệu Bồ-tát Văn Lục viết chữ đôn là sai.

Mục khư ngược lại âm dưới khương ca tên kinh. Âu hòa âm trên âu hầu âm dưới là hòa tên kinh. Du-già âm trên là Du-tu tên luận.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 15

Tế túc ngược lại âm trên tất duệ tên kinh. Hô-la ngược lại âm trên hồ cố tên kinh.

Bát khư âm viết đúng chữ bát Văn Lục viết từ bộ bổn đó là sai, ngược lại âm dưới khư ngự tên kinh.

Cấm tỳ ngược lại âm cửu chú hoặc là viết chữ phụ Văn Lục viết từ bộ nữ viết thành chữ vận trong sách không có chữ này.

Yết vương ngược lại âm trên hiên yết tên kinh, Văn Lục viết từ bộ hạt viết thành chữ hạt âm hạt cùng với nghĩa kinh quái lạ, nên không lấy dùng.

Kiêu hãnh ngược lại âm trên hiểu nhiêu âm dưới hành cảnh tên kinh.

Tăng-sáp-đa-luật âm kế sâm tập tiếng Phạm, tên kinh, Văn Lục viết từ bộ hỏa viết thành chữ sáp là chẳng phải.

Thiện tả ngược lại âm trên thiền chiến Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thiện là tu bổ sửa chửa, sách Khảo Thanh cho rằng: Cải tạo cái mới, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Tu bổ thêm vào, chữ viết từ bộ mịch thanh thiện ngược lại âm dưới tích dã Quảng Nhã cho rằng: Tả là mức độ ghi chép, sách Khảo Thanh giải thích: Tả giống như viết sách Văn Lục viết từ bộ đao viết thành chữ tả tục tự dùng thông dụng, âm mịch là âm mịch.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 16

Hãn cứu âm trên viết đúng chữ hãn theo Thuyết Văn viết từ bộ võng viết. Thành chữ hãn ngược lại âm ha thãn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hãn giống như là ít có hiếm thấy lạ, Cố Dã Vương giải thích: Hiếm có bó buộc, Văn Lục viết chữ hãn là sai, ngược lại âm dưới cưu Hưu theo Mao Thi Truyện nói rằng: Cừu tức là cùng xét cho tận cùng, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hạch xét cho cùng tận, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh cửu.

Lảm phái ngược lại âm dưới phách mại sách Thuyết Văn cho rằng: Phái là nước chảy rẽ sang ngã khác, chữ viết từ bộ phản đến bộ vĩnh Văn Lục viết chữ phái, tục tự dùng thông dụng.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh ban ngược lại âm dưới khai ái tên kinh, văn trước đã giải thích rồi, Văn Lục viết từ bộ khẩu viết thành chữ khánh tục tự dùng thông dụng.

Phu thủ ngược lại âm trên phổ bổ âm dưới đúng là chữ thủ tên kinh.

Sạn đề ngược lại âm sạn khoan âm dưới đế tên kinh. Nhiễu loạn ngược lại âm trên niên điểu tên kinh.

Trùng-hồ-ô âm trên là dã theo Tự Thư viết từ bộ viết thành chữ cổ nay Văn Lục viết từ ba bộ trùng là sai chữ ô hoặc là viết chữ điểu.

Dũng từ Phạm chí ngược lại âm trên dung tũng Tự Thư viết chữ dũng tức là dũng cảm mạnh mẽ, sức mạnh chắc chắn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ dũng viết thành chữ dũng tức là dũng cảm, Văn Lục viết chữ dũng tục dùng cũng thông dụng, tên kinh.

Duệ chủng ngược lại âm trên diên tế ngược lại âm dưới chung lung tên kinh.

La-hộ ngược lại âm dưới hồ cổ tên kinh.

Tất trâu ngược lại âm trên tần mật ngược lại âm dưới sở thâu tên kinh, Văn Lục viết chữ trâu tục tự dùng thông dụng.

Ế-la ngược lại âm Ế-kê tên kinh, Văn Lục viết từ bộ khẩu viết thành chữ ế là sai.

Sưu cù ngược lại âm trên sưu trâu ngược lại âm dưới cụ câu tên kinh Văn Lục viết chữ sưu tục tự dùng thông dụng.

Nhị kiều ngược lại âm dưới kiêu yểu tên kinh. Thiện bại ngược lại âm dưới bạch mại tên kinh.

Khương lương ngược lại âm trên kiếp hương (829) ngược lại âm dưới lực trương tên kinh.

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 17

Phồn nghĩ ngược lại âm trên phạt viên ngược lại âm dưới thằng nghi Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ chu viết thành chữ nghi sách Thuyết Văn cho rằng: Nghĩ là đem vật tặng cho nhau, Quảng Nhã cho rằng: Nghi thức sách Khảo Thanh cho rằng: Có dư thừa, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ bối đến bộ thắng tóm lược Văn Lục viết từ bộ nguyệt viết thành chữ nghi tục tự dùng thông dụng.

Ô-đà ngược lại âm trên ô cổ tiếng Phạm, tên kinh.

San tước ngược lại âm trên san gian theo Thanh Loại cho rằng: San giống như thẩm định, cắt bỏ bớt, sách Gia Ngữ cho rằng: Phu tử sửa đổi cắt bỏ bớt thi sách viết, sách Thuyết Văn cho rằng: San là cắt lấy, âm xuyết ngược lại âm trúc liệt xuyết là gọt vỏ cắt gọt, chữ viết từ bộ đao đến bộ sách cân sách là âm sách sách tức là giãn lược, chữ hội ý, ngược lại âm dưới xương Quảng Nhã cho rằng: Tước là giảm bớt, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao đến bộ thanh tiếu.

Vô điếm ngược lại âm dưới đinh yểm theo Mao Thi Truyện nói rằng: Điếm tức là viên ngọc tì vết, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngọc thanh chiêm.

Liệu trĩ ngược lại âm trên ly chiếu ngược lại âm dưới trì lý tên kinh.

Tì trợ ngược lại âm trên tất di Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Tì là nói có lợi ích tăng thêm, sách Thuyết Văn cho rằng: Có bổ ích chữ viết từ bộ y thanh tỳ.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 18

Đông xiển ngược lại âm xi thiện Thiên Thương Hoét ghi rằng: Xiển giống như khai mở, Hàn Khang Bách chú giải sách Chu Lễ rằng: Rõ ràng, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh đan.

Tầm duyệt ngược lại âm trên tập diêu Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tầm giống như là dụng, sách Phương Ngôn cho rằng: Lâu đài, Quách Phác chú giải rằng: Tầm gọi là pháp độ rộng dài lâu: Sách Thuyết Văn cho rằng: Tầm là lựa chọn gạn lọc lý lẽ, chữ viết từ bộ công bổ khẩu công khẩu là loạn lại bộ thốn tức phân tích lý lẽ. Chữ hội ý, ngược lại âm dưới duyên tuyết Trịnh

Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Duyệt giống như giản lược, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Xét duyệt nhiều lần, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ môn thanh duyệt.

Phỏng tập ngược lại âm trên phương võng Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Phỏng giống như so sánh bắt chước, Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dựa vào, Quảng Nhã cho rằng: Phỏng là bắt chước theo, sách Thuyết Văn viết từ bộ phộc thanh phương Văn Lục viết từ bộ nhân viết thành chữ phỏng là chẳng phải, âm dưới đúng là chữ tập.

Ngoa suyễn ngược lại âm trên ngọa qua Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ngoa là hóa, sách Khảo Thanh cho rằng: Sai lầm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn đến bộ hóa chữ hội ý, Tự Thư cho rằng: Viết từ bộ ngôn đến bộ vi viết thành chữ ngoa âm nghĩa đều đồng, ngược lại âm dưới là suyễn ngược lại âm dưới xuyên nhuyễn Cố Dã Vương cho rằng: Suyễn là so le không đồng đều, sách Thuyết Văn cho rằng: Suyễn là nằm trở ngược, trái ngược, chữ viết từ bộ truy bộ khoa gọi là trái ngược âm truy là âm truy âm khoa ngược lại âm khoa hóa.

Thanh oa ngược lại âm dưới ất trảo theo chữ thanh oa tục gọi là con ễnh ương, con ếch dưới đáy giếng, Tự Thư cho rằng: Không có chữ này, tên kinh.

Vu quáng âm trên là chữ vô Thống Tự cho rằng: vu là cỏ mọc hoang dại, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cũng gọi cỏ mọc um tùm hoang dại, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh vô ngược lại âm dưới hồ mảnh Thiên Thương Hoét ghi rằng: Quáng tức lúa mạch, âm hồ ngược lại âm quan mạch Tự Lâm cho rằng: Lúa mà có mọc xen lộn cỏ hoang, sách Thuyết Văn cho rằng: Lúa lép, chữ viết từ bộ hòa thanh quảng.

Kinh biệt ngược lại âm dưới bì liệt theo chữ biệt gọi là phân biệt Bì Thương cho rằng: Biệt là loại cỏ, phân ra khoảnh khắc, phút chốc vụt đi, Tự Thư cho rằng: Không có chữ này, sách Khảo Thanh cho rằng: Hoặc là từ bộ trúc Quảng Thiết Vận viết từ bộ thảo đến bộ biệt âm khái là âm khái âm thời là âm thị.

Tẫn trị ngược lại âm trên tất nhẫn Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Tẫn giống như là bỏ đi, vất bỏ, sách Sử Ký cho rằng: Cùng nhau lôi kéo đuổi ra, bỏ ra ngoài, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh tân âm dưới là trì.

Thủ lược ngược lại âm lương chước sách Nguyệt Linh giải thích: Phất qua lướt qua, lược là cướp đoạt lấy, tức là sơ lược, sao chép, cũng đồng, theo Tự Thư cho rằng: Đều là chữ lược Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lược giống như đoạt lấy, sách Phương Ngôn cho rằng: Vĩnh viễn lâu dài, theo Thanh Loại cho rằng: Liếc nhìn xem qua gọi là lược sách Thuyết Văn cho rằng: Kinh Lược gọi là địa, đất, chữ viết từ bộ điền đến bộ lược thanh các âm lược là âm lượng nghĩa riêng quái lạ không lấy dùng.

San định ngược lại âm trên khác an Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: San giống như sửa chữa cắt bỏ bớt, Quảng Nhã cho rằng: San là thẩm định sửa chữa, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh can.

Kiêu phù ngược lại âm hiểu nhiêu Hứa Thúc Trọng chú giải sánh Hoài Nam Tử rằng: Kiêu là bạc bẽo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh nhiêu.

Mạn diên ngược lại âm trên miệt bản theo Mao Thi Truyện cho rằng: Mạn cũng là diên Quảng Nhã cho rằng: Dài lâu, sách Thuyết Văn cho rằng: Man là thuộc dây leo, chữ viết từ bộ thảo thanh man âm nam là âm vạn âm diên ngược lại âm qua tiên Chánh Tự.

Du hiệt ngược lại âm trên du chủ ngược lại âm dưới hiền kiết Văn Lục viết chữ du là sai, tên người.

Tạp nhu ngược lại âm nữ cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu giống như tạp lộn xộn, sách Thuyết Văn, Tự Thư cũng viết chữ thô âm cũng đồng.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 19

Mụ-đà-ni ngược lại âm trên Mạc-bù tên kinh. Mụckhư ngược lại âm dưới khương ca tên kinh. Bạt-đà ngược lại âm trên bàn mạt tên kinh.

Mạn-thù âm trên là vạn tên của Bồ-tát.

--------------------------------------

KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC QUYỂN 20

Buộn thân ngược lại âm trên bồn muôn tên kinh, Văn Lục viết chữ chí tục tự dùng thông dụng.

Ha điêu ngược lại âm trên hạc ca ngược lại âm dưới điểu liêu tên kinh, Văn Lục hoặc là viết chữ hà điêu chưa rõ nghĩa chính.

Mộc hoạn ngược lại âm dưới hoàn quán tên kinh.

Úc-ca ngược lại âm trên uân cúc Mao Thi Truyện viết chữ hoắc hoặc là viết mậu thạnh nghĩa đầy đủ sum suê tốt, sách Thuyết Văn viết chữ úc Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Úc là văn chương bóng bẩy, ngào ngạt, cũng gọi là lâu dài, Văn Lục viết chữ úc thời dùng thông dụng.

Phiên dịch Sa-môn Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 81

- Âm Tập Thần Châu Tam Bảo Cảm Thông Truyện ba quyển.

- Mục Xưa Ba Quyển, nay phân làm bốn quyển.

- Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện bốn quyển.

- Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện hai quyển. Bên phải ba tập truyện cộng mười quyển đồng âm quyển này.

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN THƯỢNG

Huệ Lâm soạn

Hất hưởng ngược lại âm trên hân ất tục tự dùng thông dụng viết đúng là chữ hất sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục gọi là huyết mạch ở trong thịt gọi là hất hất cũng là vang động cho nên chữ viết từ bộ nhục đến bộ bát bát đó là phân biệt đến bộ thập đó là âm hưởng biến khắp mười phương, người đời sau, dời đổi đến tám nơi, mười cõi, âm trên viết chữ hất là biến khắp, vang vọng. Lại viết chữ hất hưởng, ngược lại âm dưới hương lượng chữ ứng thanh cũng là chữ hội ý.

Mậu tháp ngược lại âm mạc hậu hội khể địa danh, huyện Mậu có tháp A-dục-vương, sách Thuyết Văn viết mậu từ bộ ấp thanh mậu.

Diểm mộc ngược lại âm hấp nhiễm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Diểm là bén nhọn, Bì Thương cho rằng: Vót nhọn, gọi cách khác là vót gọt cây gỗ cho nhọn làm mũi tên, sách Thuyết Văn cho rằng: Rất bén nhọn khiến cho cắm thẳng vào chữ hình thanh.

Quảng mâu ngược lại âm dưới mưu hầu sách Vận Thuyên giải thích: Mâu là kéo dài ra, theo Thanh Loại cho rằng: Mâu là dài, sách Thuyết Văn giải thích từ đông sang tây gọi là quảng tức là rộng, từ nam tới bắc gọi là mâu chữ viết từ bộ y thanh mâu.

Mạn ngư ngược lại âm mãn bàn sách Thuyết Văn cho rằng: Mạn ngư là tên của loại cá, chữ viết từ bộ ngư thanh âm man là âm vạn.

Vu tử ngược lại âm trên vũ phu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vu là giống như khinh khi, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Vu là nói dối, sách Thuyết Văn cho rằng: Vu là nói thêm vào không mà nói có, chữ viết từ bộ ngôn thanh vu ngược lại âm dưới tư thử Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tử là dùng lời nói hủy nhục người, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh thử.

Hoan thảm ngược lại âm trên hoát quan sách Thuyết Văn cho rằng: Hoan hỷ vui mừng, hoặc là viết chữ hoan ngược lại âm dưới tham cảm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thảm là lo buồn, Quách Phác cho rằng: Dáng điệu người hiền lo buồn sầu thảm, sách Thuyết Văn cho rằng: Thảm độc, cũng viết tiền thống khổ chữ hình thanh.

Bá thượng ngược lại âm trên ba mạ tên sông ở nước

Tần, phía đông ở thành Trường An, sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ đến bộ cách đến bộ nguyệt chữ chuyển chú. Nhạc trạc ngược lại âm trên ngũ giác ngược lại âm dưới sĩ giác sách Quốc Ngữ giải thích rằng: Nhạc trạc là loài chim, đem lại điều tốt lành, thường ở núi cao hiểm trở, Giả Quỳ chú giải rằng: Là thần điểu, chim thần, tên gọi khác của chim phụng.

Thô quáng ngược lại âm trên thương thô chữ viết đúng thể từ ba bộ lộc viết thành chữ thô ngược lại âm dưới hô mảnh văn trước nôi Điển Lục đã giải thích rồi.

Trương dịch ngược lại âm dưới là diệc tên của quận.

Đại đồi tháp âm kế đối hồi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đồi đất cao to lớn. Văn Tự Điển nói rằng: Đồi đống đất nhỏ, chữ viết từ bộ thổ thanh chuy Văn Lục chữ viết đồi tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới tham đáp sách Văn Tự Điển nói tháp miếu.

Sảng khải ngược lại âm trên sương lượng ngược lại âm dưới khai cải sách Thuyết Văn cho rằng: Sảng là trong sáng, Khải là cao ráo khô, sảng khải đó là nói thềm bậc đã cao mà còn rộng lớn, lại ở trên trạm gác cao, nhìn ra xa hiển bày rõ ràng, gọi là sảng khải.

Hiểm duẫn ngược lại âm trên khâm kiểm hoặc là viết chữ hiểm âm dưới là duẫn Mao Thi Truyện giải thích rằng: Hiểm duẫn là tên gọi khác của bộ tộc ở phương bắc Trung Quốc thời nhà Chu tức là Hung Nô Bắc Địch.

Ế ngọc ngược lại âm trên ế hề Văn Tự Tập Lược cho rằng: Ế là loại ngọc có màu sắc đen, Văn Lục viết từ bộ ngọc viết thành chữ ế cũng thông dụng.

Lô đấu âm trên là lô ngược lại âm dưới đương cẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Lô là cây đòn kê nằm trên cây cột, đấu là đầu cột trên vuông giống như cái đấu vậy, âm nghiên ngược lại âm xí kiến đều là chữ hình thanh.

Phiếu lược ngược lại âm trên thất diệu sách Thuyết Văn giải thích Phiếu là cướp đoạt tài vật của người khác, Văn Lục viết từ bộ sam viết thành chữ phiếu là chẳng phải, ngược lại âm dưới lực chước Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lược gọi là tước đoạt cướp lấy, Tự Thư cho rằng: Âm lượng nghĩa quái lạ nên nay không lấy.

Náo nê ngược lại âm trên minh hiếu Quảng Nhã rằng: Náo giống như bùn lầy, Trịnh Chúng chú giải sách Nghi Lễ rằng: Hòa trong bùn lầy phổ khắp, sách Hoài Nam Tử nói rằng: Nước (830) bùn biến khắp trơn trợt, chìm trong bùn lầy, theo Thanh Loại cho rằng: Náo giống như chìm trong bùn lầy, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh trác.

Quán khái ngược lại âm trên quan hoán ngược lại âm dưới ky vị sách Thuyết Văn cho rằng: Khái quán đó là nay người ta trồng trọt lấy nước tưới cho thấm ướt, cây gốc rễ vậy.

Oa quốc ngược lại âm ô hòa trong biển Đông Hải có đảo quốc nhỏ gần lân cận với nước Tân La, Văn Lục viết từ bộ phụ viết thành chữ oa là sai.

Đảo sài cốc âm trên là đáo âm dưới là sài.

Cát lũy ngược lại âm dưới luân ủy Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lũy là loại dây leo chằng chịt, sách Văn Tự Điển nói rằng: Cát là loại dây bò dưới đất, Văn Lục viết chữ lũy là sai chẳng phải.

Úy quýnh ngược lại âm trên vân vật ngược lại âm dưới huỳnh dinh.

Tự ải ngược lại âm dưới y kế theo Tả Truyện cho rằng: Mạc Ngao thắt cổ nơi hang núi vắng vẻ, sách Khảo Thanh cho rằng: Ải giống như tự mình phạt mình cho đến chết, Công Dương Truyện cho rằng: Linh Vương tự thắt cổ mà chết, Hà Hưu chú giải rằng: Gọi là tự thắt cổ mà chết.

Kỳ tốc ngược lại âm trên chi nhật sách Khảo Thanh cho rằng: Kỳ giống như thích hợp cũng là an ổn.

Thiết trâm ngược lại âm dưới chấp kim cũng viết chữ châm trong Văn Lục viết từ bộ mộc viết thành chữ hàng là chẳng phải, cũng viết chữ trâm.

Tinh ao ngược lại âm dưới oa khoa ao giống như chỗ trũng lõm dưới âm oa ngược lại âm ách qua âm khoa ngược lại âm khoa hóa âm ao ngược lại âm ách giao.

Hoảng dục ngược lại âm trên hoàng Quảng sách Thuyết Văn cho rằng: Hoảng là ánh sáng rực rỡ, ngược lại âm dưới dữ lục sách Thuyết Văn cho rằng: Dục là ánh sáng chiếu diệu cũng gọi là rực rỡ, chữ viết từ bộ hỏa thanh dục văn lục viết chữ dục nghĩa khác lạ.

Nha liểm ngược lại âm liệp chiêm sách Khảo Thanh cho rằng: Chữ viết từ bộ phương viết thành chữ liểm chữ chánh thể, giống như hộp mà có góc, ngăn, chỗ gọi là chứa đồ vật, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Chữ viết từ bộ trúc viết thành chữ liểm tức cái hộp đựng đồ trang sức, vật dụng của con gái, theo chữ liểm đó là loại son phấn, hương thơm, cái hộp có gương soi mặt khi cần dùng, nay gọi là nha liểm đó là giống như cái hộp bằng sừng.

Bạch điệp ngược lại âm dưới điềm hiếp.

Phẩu kích ngược lại âm trên phổ cấu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phẩu giống như phá ra, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Phân trong ra là mổ xẻ ra, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chẻ ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu.

Từ xuân ngược lại âm dưới lặc luân tên người Tống Cư.

Linh phúc ngược lại âm phùng hộc nay gọi Quảng Lăng, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Phúc gọi là hương thơm ngào ngạt, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hương thanh phúc.

Chấp đĩnh âm trên đúng là chữ chấp ngược lại âm dưới đinh tĩnh Trịnh Chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Đĩnh cũng là cái hớt, nói đĩnh là tự nhiên không có chỗ khuất phục, sách Thuyết Văn cho rằng: Đĩnh là ngọc khuê lớn dài ba thước, xưa dùng tám tấc, thước tức là nay dùng hai thước bốn tấc, chữ viết từ bộ ngọc thanh đĩnh.

Thắng nhất nhân ngược lại âm thừa chứng Tự Thư cho rằng: Thắng là có dư thừa, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối đến bộ thắng Văn Lục viết chữ nghi tục tự dùng thông dụng.

Quyên thủy ngược lại âm vu quần sách Thuyết Văn cho rằng: Quyên là dòng nước chảy ra quận Nam Dương, đoán chắc là Hưng Dương. Phụ Đông vào Hạ khẩu, chữ viết từ bộ thủy thanh viên âm viên là âm vân.------------------------------------

QUYỂN TRUNG

Thuyên thứ ngược lại âm thất huyền Quảng Nhã cho rằng: Thuyên giống như dụng cụ, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thuyên là luật cân nhắc, Quách Phác chú giải rằng: Gọi là pháp luật, chỗ gọi là dùng thuyên để đánh giá tội nặng nhẹ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chọn lựa theo thứ tự, sách Thuyết Văn cho rằng: Cân nhắc, lượng xem nặng nhẹ, chữ viết từ bộ kim thanh toàn.

Thái âm ngược lại âm dưới tập tâm tên người.

Hộ độc ngược lại âm trên hồ cổ sách Hà Bỉ giải thích rằng: Khi vua đến sông Huyền Hộ, rùa linh thiêng cõng quyển sách đến dâng vua, tức nay là tên của dòng sông, trước đã giải thích rồi.

Tân lý ngược lại âm sở trân theo Mao Thi Truyện nói rằng: Có nước tên gọi là Tân Tân quốc cũng gọi là lý.

Cao khôi ngược lại âm khổ hồi tên người.

Hư hy ngược lại âm trên hứa ngư âm dưới hứa y Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hư hy giống như tiếng khóc đau thương, Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Thống khổ, bi thương, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tiếng khóc lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hư hy là xuất hơi ra, hai chữ đều từ bộ khiếm đều thanh hư hy.

Mô tả ngược lại âm trên mạc hồ Quảng Nhã cho rằng: Mô giống như tả hình, theo Thanh Loại cho rằng: Phỏng theo sách Thuyết Văn cho rằng: Bắt chước theo quy cách, chữ viết từ bộ thủ thanh mạc hoặc là viết chữ mô.

Mân việt ngược lại âm mẫn bân âm dưới viện nguyệt Quách Phác chú giải Kinh Sơn Hải rằng: Mân việt đó tức là tây âu, nay thuộc quận Kiến An, sách Thuyết Văn cho rằng: Đất Đông Nam Việt cũng là loại rắn, chữ viết từ bộ trùng đến bộ môn thanh tĩnh.

Khiên vãn ngược lại âm trên cật diên Quảng Nhã cho rằng: Khiên giống như là vãn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Con trâu chở lôi kéo chiếc xe ra phía trước, gọi là khiên sách Thuyết Văn cho rằng: Khiên là dẫn dắt ra phía trước, chữ viết từ bộ quynh quynh tức là dẫn dắt con trâu, quynh giống như là sợi dây buộc con trâu dẫn dắt, thanh huyền ngược lại âm dưới võng phản hoặc là viết từ bộ xa viết thành chữ vãn Văn Lục viết chữ vãn là sai.

Bức nhiên ngược lại âm trên phi bức sách Khảo Thanh cho rằng: Gạch chưa nung, Quảng Nhã cho rằng: Đánh gõ có tiếng kêu lớn, Văn Lục viết từ bộ thổ chữ thành chữ bức bức giống như đống đất chữ phải bổn nghĩa này dùng nên không lấy.

Đậu-lô-bào âm kế đúng là chữ lơ ngược lại âm dưới bảo mao tên người, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bao là đưa vào, cũng gọi khen ngợi, tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bảo.

Thắng tuấn ngược lại âm trên đặt năng Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ thủy đến bộ thắng thanh tĩnh ngược lại âm dưới tôn tuấn Quan Thái Thú ở Tấn Giang Lăng trông coi ruộng, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Chữ tuấn quan trông coi trước dạy người dân làm ruộng đắp bờ đê, sách Thuyết Văn viết từ bộ điền thanh tuấn.

Đế cấu ngược lại âm trên đệ hề sách Thuyết Văn cho rằng: Đế là kết buộc lại không có mổ ra được, lại cũng gọi là chắc chắn, chữ viết từ bộ mịch thanh đế ngược lại âm dưới cổ hầu theo Ngọc Thiên viết đúng là chữ cấu cũng với chữ cấu cũng đồng, cấu là hợp thành, sách Thuyết Văn cho rằng: Tích chứa tài vật, chữ viết từ bộ mộc thanh cấu.

Sa thải âm dưới là thái Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thải tức là gợn sóng, Quảng Nhã cho rằng: Tẩy rửa, sách Khảo Thanh cho rằng: Thải là thấm ướt, sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩy rửa chọn lựa ra, chữ viết từ bộ thủy thanh thái âm giản là âm gián.

Đồng nhiên ngược lại âm trên động đông theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Đồng là sông Vẫn Long, Bì Thương cho rằng: Đồng là lửa cháy đỏ rực, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh đồng.

Suy hành ngược lại âm trên suất truy Quách Phác chú giải Nhĩ Nhã rằng: Suy giống như rui nhà, ngược lại âm dưới hạnh canh sách Khảo Thanh cho rằng: Cái gầm nhà.

Vũ hoạch ngược lại âm dưới là ương khước Miếu Húy của Tắc Thiên Hậu, sách Khảo Thanh cho rằng:

Hoạch đoán, đo lường quy độ cao.

Chu dĩ ngược lại âm khi kỹ.

Lão-mụ-tế âm kế mô bổ Giang Biểu Truyện giải thích rằng: Mụ là xưng gọi người đàn bà già, Tự Thư cho rằng: Cũng từ bộ mã viết thành chữ ma tức là mẹ âm cũng đồng, ngược lại âm dưới tế hề sách Thuyết Văn cho rằng: Tế là cứu giúp, nắm giữ lấy vật cho người bên đường, chữ viết từ bộ bối thanh tề.

Tiều quốc ngược lại âm tế tiều Hán Thư cho rằng: Ở Bái quận tức là xưa nước Tiều.

Chích chi ngược lại âm dương diệc sách Thuyết Văn cho rằng: Chích là bàn chân, chữ viết từ bộ túc thanh thứ.

Tam tất ngược lại âm dân tất.

Dịch môn ngược lại âm trên dinh ích Ứng thiệu chú giải Hán Thư rằng: Dịch là ở trong cung cửa nhỏ bên cửa chánh, sách tất cả viết từ bộ thủ thanh dạ.

Kiến dữ ngược lại âm dưới dữ chư loại cờ có cắm lông chim, làm biểu tượng, trong thành Sử Châu có loại cờ gọi là kiến dữ, Trịnh Huyền chú giải rằng: Biểu tượng cho sức mạnh, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Dữ lột da con chim cắm lông vào đầu cây gậy ngọn cờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ phương thanh dữ.

Xác bấc di ngược lại âm trên khang giác âm khang ngược lại âm khổ giang sách Chu Dịch cho rằng: Theo văn nói xác là cứng chắc không thể nhổ ra được, lại sách Hệ Từ giải thích rằng: Phàm khô xác cứng chắc người ta không thể dời đổi, âm dịch ngược lại âm di chí Hàn Khang Bá chú giải rằng: Xác là cứng chắc, bền chặt, sách Khảo Thanh cho rằng: Xác là kiên cố.

Thuyên xa âm trên là thuyên đọc cùng với âm thuyền cũng đồng, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thuyên là chiếc xe không có căm xe, nan hoa gọi là thuyên bánh xe không có nan là thuyên, gọi là xe di chuyển gần bùn lầy, Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Thuyên giống như là chuyển, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuyên là ván che chắn trên xe, dưới thấp là bánh xe, viết đúng là chữ thuyên âm nghĩa cũng đồng.

Cận đắc ngược lại âm cần hấn Quảng Nhã cho rằng: Cận giống như qua loa, ít ỏi, cũng là tạm thời có thể. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh cần âm cần là âm cẩn.

Ôi tẫn ngược lại âm trên ô hồi Quảng Nhã cho rằng: Ôi ấm áp, sách Thuyết Văn cho rằng: Ôi là lửa than trong chậu, chữ viết từ bộ hỏa đến bộ ôi thanh tĩnh ngược lại âm dưới là tịch tấn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tẫn là lửa cháy còn dư lại củi, Ngọc Thiện viết đúng là tẫn âm giải thích cũng đồng với âm trên.

Miên hằng ngược lại âm trên miến thiên Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Miên là ràng buộc, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Miên là dài lâu không dứt tuyệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh miên ngược lại âm dưới cổ đặng theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hằng giống như biến khắp, sách Phương Ngôn cho rằng: Càng thêm lâu dài, theo Thanh Loại viết từ bộ mộc viết thành chữ bách gọi là quá xa vời.

Kinh nhuyễn ngược lại âm dưới huyền luyện Thiên Thương Hoét ghi rằng: Huyễn là nhìn không thấy rõ, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Huyễn hoặc che lờ mờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh huyền.

Cận chúc ngược lại âm dưới chung nhục sách Vận Lược cho rằng: Chúc là nhìn chăm chú, có rất nhiều con mắt nhìn về một chỗ, Ngọc Thiên cho rằng: Chữ viết từ bộ thi chữ thành chúc chúc giống như liên hệ, Hán Thư cho rằng: Cận gần, Tự Thư cho rằng: Chữ chúc đều không có bộ mục.

Chiến quý ngược lại âm quý quý Mao Thi Truyện cho rằng: Quý là lo sợ, tim đập mạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Quý là lo sợ tim đập mạnh, chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Chủng trữ ngược lại âm dưới trữ lữ sách Chu Lễ Điển Tỉ rằng: Trữ là cây thực vật là cây đay, cây gai, Trịnh Huyền chú giải rằng: Trữ là sợi dây dài năm mươi suyễn kéo dài ra loại vải bố thưa, nhuyễn mà trắng, gọi là trữ sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc dây đay nhỏ, chữ viết từ bộ mịch thanh trữ âm trữ đồng với âm trên.

Điền thứ ngược lại âm dưới là chi thạch sách Khảo Thanh cho rằng: Thạch tức là nền móng.

Sĩ thoát ngược lại âm trên trì nhĩ Thiên Thương Hoét ghi rằng: Sĩ là đoạt lột áo, âm triết ngược lại âm sắc liệt sách Thuyết Văn cho rằng: Cởi áo chữ viết từ bộ y đến bộ sĩ thanh sĩ âm sĩ là âm trĩ Văn Lục viết từ bộ thổ viết thành chữ sĩ là chẳng phải.

Lưu vẫn âm trên đúng là chữ lưu ngược lại âm dưới vu phân tên người.

Lưu thuyên ngược lại âm thử duyên tên người.

Dung trác ngược lại âm trên dũng dung sách Hán Thư cho rằng: Dung là lò đúc kim loại, chỗ gọi là làm cho (831) chảy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Loại đồng sắt vụn để vào lò đúc làm dụng cụ pháp khí, chữ viết từ bộ kim thanh dung ngược lại âm dưới là trác Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác là vót đẽo, gọt cho bén nhọn, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Người thợ mộc cầm nắm cây búa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chặt, đốn, chữ viết từ bộ cân đến bộ đẩu âm đẩu là âm đậu hoặc là viết từ bộ kích viết thành chữ trác âm kích là âm kích Văn Lục viết chữ trác truyện viết sai.

Dụng thư ngược lại âm thứ chữ theo Tả Truyện cho rằng: Khó có thể giảm bớt mối lo của nước Sở, Đỗ Dự chú giải rằng: Thư giống như là chậm rãi, thong thả, sách Phương Ngôn cho rằng: Cởi bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh dư Văn Lục viết từ bộ táp viết thành chữ táp là sai.

Quải thị ngược lại âm trên hồ quái Vương Dật chú giải sách Sở từ rằng: Quải là treo lên, sách Phương Ngôn cho rằng: Nắm giữ lấy, theo Tả Truyện cho rằng: Xe vướng vào cây mà ngừng lại. Cố Dã Vương giải thích: Gặp trở ngại, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh khuê.

Sóc đẳng ngược lại âm song giác Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây giáo dài, Bì Thương cho rằng: Sóc là cây mâu, lại gọi là cây giáo dài tám trượng, chữ viết từ bộ mâu thanh tiếu.

Sạn tạm ngược lại âm trên sơ sản sách Bát Nhã cho rằng: Sạn giống như là trừ bỏ, theo thanh Loại cho rằng: Thành xong, san bằng, diệt sạch, lại viết chữ sản âm nghĩa đều đồng, ngược lại âm dưới tàm đàm Quảng Nhã cho rằng: Khắc chạm gọi là tạm sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ tạm từ bộ kim thanh trảm âm thuyên ngược lại âm tử toàn.

Tử thiến lập ngược lại âm thiên kiến tên người.

Ôn lược ngược lại âm trên ô côn ngược lại âm dưới lược thường sách Sử Ký cho rằng: Ôn lược là chiếc xe người ta có thể nằm được, bởi vì Tần Thủy Hoàng chết không phát tang, theo cho rằng xe chở linh cửu, trong đó là người nằm. Mạnh Khang chú giải rằng: Ôn lược là xưa chiếc xe có áo trùm lên có cửa sổ đóng lại thì ấm, mở ra thì mát, theo Khảo Thanh cho rằng: Chiếc xe nhẹ, sách Thuyết Văn cho rằng: Ôn lược hai chữ đều từ bộ xa đều thanh ôn kinh âm ôn đồng với âm trên.

Đổ khám ngược lại âm dưới khâm hàm viết đúng là chữ khám tên họ người, Văn Lục viết từ bộ hợp viết thành chữ khám tục tự thường dùng.

Thân ngâm ngược lại âm trên thi chân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thân cũng là ngâm Thiên Thương Hoét ghi rằng: Thân ngâm là tiếng than thở, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ khẩu.

Nùng huyết ngược lại âm trên nô đông Tự Thư cho rằng: Chữ viết từ bộ huyết viết thành chữ nùng sách Thuyết Văn cho rằng: Nùng ứ huyết sưng lên, chữ viết từ bộ huyết bộ nùng thanh tĩnh sách Khảo Thanh cho rằng: Nùng huyết là mạch máu nhỏ, lại cũng viết chữ nùng cũng viết chữ nùng đều thông dụng, Văn Lục viết chữ nùng tục tự dùng thông dụng.

Yên trướng ngược lại âm dưới trương dạng sách Khảo Thanh cho rằng: Trương giống như tràn đầy, cũng dùng chữ trương là khứ thanh, nghĩa cũng đồng.

Trĩ nhiên ngược lại âm trên trì lý sách Khảo Thanh cho rằng: Trĩ là đứng cao sừng sửng, sách Thuyết Văn viết từ bộ chỉ thanh tự hoặc là viết từ bộ túc viết thành chữ trĩ Văn Lục viết từ bộ sơn viết thành chữ trĩ là núi đứng cao sừng sửng.

Thiết khoáng ngược lại âm trên thiên kiết đúng là chữ thiết ngược lại âm dưới cổ mảnh Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khoáng đó là loại kim, ngọc đồng, thiết còn nguyên chất, chưa chế biến, hoặc là viết từ bộ quan viết thành chữ khoáng lại cũng viết chữ khoáng âm nghĩa đều đồng.

Sai kỵ ngược lại âm thái tai Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Giống như là còn nghi ngờ, sách Phương Ngôn cho rằng: Hiềm nghi, hận, sách Thuyết Văn cho rằng: Sai gọi là ghét hận kẻ trộm, chữ viết từ bộ khuyển thanh thanh.

Lục tộc ngược lại âm trên lung cốc ngược lại âm dưới hốt lộc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Lục là trở ngại, gọi là cát đá thô trắng, sách Khảo Thanh cho rằng: Đất có đá không bằng phẳng, Văn Lục viết chữ lộc tốc là sai.

Ảo cử ngược lại âm trên ô giao Văn Tự Tập Lược cho rằng: Ảo là dùng tay bẻ gãy, âm dưới đúng là chữ cử sách Khảo Thanh cho rằng: Cử giống như là tiến cử, sách Thuyết Văn cho rằng: Đối cử tức là đưa lên cao, chữ viết từ bộ thủ thanh dữ.

Song linh ngược lại âm trên trâu song sách Thuyết Văn cho rằng: Trên vách tường gọi là dũ ở cửa gọi là song tức là cửa sổ, cũng viết chữ lỗ đều chữ tượng hình, Văn Lục viết chữ song tục tự dùng thông dụng, âm trâu ngược lại âm trắc câu ngược lại âm dưới lịch đinh sách Thuyết Văn cho rằng: Linh Ô vuông của cửa sổ hoặc là viết chữ linh Văn Lục viết chữ linh là chẳng phải.

Bát lăng ngược lại âm lặc đăng sách Thuyết Văn cho rằng: Lăng nơi xó góc đúng là viết chữ lăng âm hồ là âm cô.

Huỳnh trung ngược lại âm huỳnh định Lữ Diên Tề chú giải Cam Tuyền Phú Truyện rằng: Đĩnh huỳnh là dòng nước nhỏ, nghĩa cùng với chữ lương cũng văn trước đã giải thích rồi, Văn Lục viết từ chữ dinh viết thành chữ huỳnh là sai.

Môn há ngược lại âm dưới hồ giá sách Khảo Thanh cho rằng: Vết nứt, vết rạn trên sành sứ, sách Thuyết Văn cho rằng: Há là vết nứt chữ viết từ bộ phửu thanh hồ cũng từ bộ phụ viết thành chữ há lại cũng viết chữ há văn lục viết chữ há là sai.

Khái viết ngược lại âm cai đại Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khái giống như là thanh gạt ngang cái đấu khi đong lường, Hán Thư cho rằng: So sánh có thứ tự, cũng gọi là đánh giá độ lượng có thể cân bằng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh khái.

Khanh nhiên ngược lại âm trên khách canh sách Lễ Ký cho rằng: Tử hạ khua chuông, trống tiếng lung leng, sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng đá, kim loại khua, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh khanh.

Phong thủy ngược lại âm phụng phong Hán Thư cho rằng: Phong thủy là tên sông xuất phát từ Lạc Nam Sơn ở phía đông huyện Ngạc. Lại cũng từ phía bắc chảy vào sông Vị. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh phong âm phong đồng với âm trên, Văn Lục viết từ bộ ấp viết thành chữ phong địa danh.

Quá thủy ngược lại âm ô hòa Lý thiện chú giải sách Giang Phú Truyện rằng: Quá thủy là nước chảy xoáy vòng, chảy xiết.

Thắm châu ngược lại âm thất sâm tên sông thuộc tỉnh Sơn Tây.

Vi nam ngược lại âm dưới ngũ hạt sách Khảo Thanh viết đúng là chữ bổng tức là cây mới bắt đầu mọc mầm, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nam gọi là cây trồng mọc dư ra cành viết chữ nam cũng đồng. Hận hận ngược lại âm cấn dạng Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hận là ý không được toại nguyện, Quảng Nhã cho rằng: Hận là buồn rầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh lương.

-----------------------------------

QUYỂN HẠ

Thuyên nhi ngược lại âm thất huyên sách Hoài Nam Tử nói rằng: Thuyên là nói kỹ càng, chỗ gọi là vạch bày ra lý lẽ, sửa trị loạn gọi là thuyên sách Thuyết Văn cho rằng: Thuyên là nói đầy đủ chữ viết từ bộ ngôn thanh toàn Văn Lục Tựa viết từ bộ trúc viết thành chữ thuyên nghĩa là cái đăng bắt cá, chẳng phải nghĩa của thuyên lượng xét cho nên không lấy.

Toát lược ngược lại âm trên toán quát Quảng Nhã cho rằng: Toát là nắm giữ lấy, cũng gọi là tay nắm lấy vật gom nắm trong tay, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh tối.

Yết tích âm trên là kiệt sách Thuyết Văn cho rằng: Gánh vác gọi là yết giống như là đưa cao lên, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh hạt.

Chu khám ngược lại âm dưới kham cam Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khám giống như cúi xuống nhìn, cầu xin chữ viết từ bộ môn viết thành chữ khám khám trông ra xa, theo chữ chu khám đó là nghĩa liếc nhìn xung quanh bốn phía.

Nhai khiêm ngược lại âm trên ngũ giai ngũ Thiên Thương Hoét cho rằng: Nhai gọi là vách núi cao, ngược lại âm dưới nghiêm liểm đọc cùng với chữ nhiễm đồng âm Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Vách núi cao chỗ hiểm yếu có những dây leo chằng chịt, Quảng Nhã cho rằng: Khiêm tức là khuyết, chỗ khuyết của vách núi, sách Thuyết Văn viết hiểm tức là vách núi, chữ viết từ bộ phụ thanh kiêm.

Khánh thinh ngược lại âm khinh kính Tự Thư cho rằng: Viết đúng là từ bộ thạch viết thành chữ khánh Cố Dã Vương cho rằng: Lấy đá làm nhạc khí ngày xưa, sách Tự Thư cho rằng: Vũ Tân Phù làm ra nhạc khí này, Thế Bổn cho rằng: Mẫu cá là ra nhạc khí, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhạc khí làm bằng đá, giống như hình treo ngược lên đánh gõ vào vang ra tiếng nhạc chữ, viết từ bộ thạch thanh khánh văn cổ viết chữ khánh âm cũng đồng âm trên.

Bại xướng ngược lại âm trên bài bái sách Khảo Thanh cho rằng: Bại là tiếng ca ngợi tán thán bằng âm phạm.

Uyển hân ngược lại âm trên ô hoán sách Văn Tự Tập Lược cho rằng: Uyển là kinh sợ, than trách hận, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh uyển.

Phàm đà chữ phàm lấy chữ phạm bình thanh, Thích Danh cho rằng: Phàm gọi là chiếc thuyền buồm, phàm là buồm cũng viết chữ phàm hoặc là viết chữ phàm Văn Lục viết chữ phàm tục tự thường dùng, ngược lại âm dưới đà hạ Tự Thư viết đúng từ bộ đà sách Khảo Thanh cho rằng: Là bánh lái ở sau đuôi thuyền, dụng cụ để chuyển hướng chiếc thuyền, Văn Lục viết từ bộ đà viết thành chữ đà tục tự dùng thông dụng.

Sưu sưu ngược lại âm sưu lưu Quảng Nhã cho rằng: Sưu sưu là tiếng gió vi vu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phong thanh sưu âm sưu văn cổ viết chữ sưu Văn Lục viết từ bộ phong viết thành chữ sưu là chẳng phải.

Tào lịch ngược lại âm trên tạo cao ngược lại âm dưới linh đích sách Khảo Thanh cho rằng: Tào là móng ngựa, trong chuồng ngựa, nay Chánh Tự cho rằng: Cái máng đựng thức ăn cho gia súc, âm thực là âm tự tào lịch hai chữ đều từ bộ mộc đều thanh tào lịch.

Sàng tháp ngược lại âm trên trạng trang theo Mao Thi Truyện cho rằng: Sàng là chỗ thân nằm ngủ an tịnh, chữ viết từ bộ mộc thanh tường ngược lại âm dưới tham lạp Quảng Nhã cho rằng: Tháp nơi bằng phẳng, Thích

Danh cho rằng: Cái giường hẹp mà dài đó gọi tháp xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh tháp.

Bạch lạc đà ngược lại âm trên lang các ngược lại âm dưới đồ đa Văn Lục viết chữ thác đà tục tự dùng thông dụng.

Sàm nham ngược lại âm trên tra nham âm dưới nha hàm sách Sở Từ giải thích rằng: Hốc núi có khe nước tăng lên mấy lượn sóng, Vương Dật chú giải rằng: Sàm nham là núi đá trơn không có cây cỏ, rất hiểm trở, Quảng Nhã cho rằng: Sàm nham là dáng núi cao, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ sơn đều thanh sàm nham âm khi là âm khi âm khu là âm khưu âm sàm ngược lại âm thổ hàm.

Tông lư ngược lại âm trên tổ hồng ngược lại âm dưới là lư Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Tông lữ là loại cây cao hai trượng, cho nhánh rũ xuống, lá dẹp lớn mà tròn, có tia nhọn, da cây thật có thể làm dây và áo mưa, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mộc đều thanh tông lữ âm tông là âm tông sách Thuyết Văn lại cho rằng: Tên riêng của cây cọ, Văn Lục chữ viết tông lữ là truyện viết sai, âm tông là âm tông âm tinh là âm tinh.

Trí đốn ngược lại âm trên tri lợi, Cố Dã Vương cho rằng: Trí giống như đốn ngã, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chất cũng viết chữ trí âm nghĩa đều đồng.

Đạo cảnh ngược lại âm dưới quỹ vĩnh danh tăng, Văn Lục viết chữ cảnh tục tự thường hay dùng.

Ngụy yểm quan âm trên yểm diểm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Yểm quan đó là vị quan trong cung, người trông coi đóng cửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ môn thanh yểm âm hôn là âm hôn. Thị thọ ngược lại âm sĩ xích quả của cây, tức trái hồng.

Quyền liểm ngược lại âm dưới liêm nghiệm sách Lễ Ký cho rằng: Co rút nhỏ lại trong cửa, ngoài thềm cửa lớn làm cản trở, Trịnh Huyền chú giải rằng: Khâm liệm vào quan tài cũng gọi là liểm sách Thuyết Văn cho rằng: Liểm là thâu tóm lại, chữ viết từ bộ phộc thanh liểm Văn Lục viết từ bộ ngạc viết thành chữ liểm tục tự cũng thông dụng.

Bảo quỳnh ngược lại âm quý dinh tên của ngọc quý. Bất hủ ngược lại âm hưu cửu sách Khảo Thanh cho rằng: Thịt không thối rửa hư hoại, chữ viết từ bộ ngạt thanh hủ.

Kháng thiền sư ngược lại âm khang lãng tên người. Hoàng sắc ngược lại âm hoàng cương nhuộm thành màu vàng.

Phò cửu ngược lại âm cầu Hưu còn nằm trên giường gọi là tử thi xác chết ở trong quan tài gọi là tử thi, xác chết chữ viết từ bộ một thanh cửu âm cửu đồng với âm trên.

Nải ủy ngược lại âm dưới ủy vi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cây cỏ có lá héo vàng rụng gọi là ủy Trịnh Tiển giải thích giống như lá khô.

Thuyên chí ngược lại âm tuyệt duyên sách Vận Anh cho rằng: Thuyên là chạm khắc, mài ngọc, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh thuyên từ bộ chuy đến bộ ao Văn Lục viết từ bộ nải là chẳng phải.

Kinh giam ngược lại âm dưới hạp giam.

Thải vật ngược lại âm thang lặc Tự Thư cho rằng: Mượn vật để dùng rồi sau đó hoàn lại.

Thất ám ngược lại âm ấp kim sách Khảo Thanh cho rằng: Không thể (832) nói được tức là câm chữ viết từ bộ tật.

Mân pháp sư ngược lại âm mật bần tên người. Vĩ tông ngược lại âm tộc tông tên người.

Âu chi ngược lại âm trên a câu sách Thuyết Văn cho rằng: Đánh gõ.

Lan thuẫn âm trên là lan ngược lại âm dưới thần duẫn sách Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Thuẫn giống như lan, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuẫn là hàng rào, chữ viết từ bộ mộc thanh thuẫn âm thuẫn đồng với âm trên. Thố ngôn ngược lại âm thô cố sách Vận Thuyên giải thích rằng: Đặt để.

Pháo xích ngược lại âm trên bao mạo sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ bao nghĩa là trên mặt nổi những mụt nhỏ, cũng viết chữ bao sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Pháo là người trên mặt nóng nhiệt nổi mụn chỗ sanh ra vết sẹo nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bì thanh bao.

Kinh nhạ ngược lại âm nha giả.

San báng âm trên là sơn ngược lại âm dưới bổ lãng Khổng An Quốc chú giải sách Quốc Ngữ rằng: San báng là chê bai hủy nhục, xem trước Văn Lục đã giải thích rồi. Sở cửu âm trên là sở ngược lại âm dưới là cựu chữ tượng hình, văn trước đã giải thích rồi.

Cấu khích âm trên là cấu Tự Thư cho rằng: Cũng viết chữ cấu Cố Dã Vương cho rằng: Cấu thành tạo nên xây dựng, ngược lại âm âm dưới hương nghịch Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Khích giống như cái bình bị nứt, Cố Dã Vương cho rằng: Khích là có khe hở ở giữa, chỗ gọi là có oán hận hiềm khích với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ thanh tĩnh âm khích đồng với âm trên, Văn Lục viết từ bộ sào viết thành chữ khích là sai.

Nhất đâu ngược lại âm dưới đấu hầu chữ viết từ chữ đâu đến chữ mạo tóm lược giống như hình đầu người, âm chú thời cổ đại theo Lâm Bá Thắng cho rằng: Nhất đâu đó là cái túi vải chứa một hộc.

Trậm chi ngược lại âm trên là chẩm kinh Sơn Hải nói rằng: Mấy người đàn bà ở Sơn Đông giống như chim trậm vậy. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lông chim trậm có độc, lấy ngâm vào rượu uống là chết liền, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điểu đến bộ thanh trậm Văn Lục viết chữ đam là sai chẳng phải.

Tiên hành ngược lại âm trên tiên điển sách Thượng Thư cho rằng: Nếu như đi chân không là không nhìn đất thì sẽ vấp té dùng chân bị thương, sách Thuyết Văn cho tiên là lấy chân mà nhìn đất tức đi chân trần, chữ viết từ bộ túc thanh tiên.

Chùy cứ ngược lại âm trên là chuy theo Tả Truyện cho rằng: Chùy là ý nói cái lợi quá nhỏ, lợi nhỏ nhoi, cho nên sách Sử Ký nói rằng: Chùy là không có chỗ, cái túi không có đáy, xem chưa có chỗ đứng vững, sách Thuyết

Văn cho rằng: Vật bén nhọn, chữ viết từ bộ kim thanh chuy ngược lại âm dưới cư ngụ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cứ là lưỡi cưa đoạn ra gọi là đại tích cung hình, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tức là cắt bỏ vật, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh cứ.

Sa lịch ngược lại âm linh đích sách Sở Từ cho rằng: Loại gạch ngói mà đem làm ngọc báu sẽ tổn hại bỏ đi, vất bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Lịch là đá vụn, chữ viết từ bộ thạch thanh lịch Văn Lục viết chữ lịch là chẳng phải.

*******

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 1

Khuých tịch ngược lại âm trên khoảnh dịch Bì Thương cho rằng: Khuých là lặng lẽ, yên tĩnh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ môn thanh khứu âm khứu ngược lại âm cổ khuých từ bộ mục đến bộ khuyển ngược lại âm dưới trình diệc chữ chánh thể là chữ tịch.

Thảm thư ngược lại âm trên là thương cảm ngược lại âm dưới là chữ dư nói thảm thư đó tức là nói âm dương. Dương mà phát sinh ra đó thì thân duỗi thẳng ra vui vẻ thỏa thích, âm mà bế tắc đóng thì sẽ có hôn muội ánh sáng chiều buồn, mới sanh nóng, lạnh, thế giới trống rỗng, ẩm ướt lúc chưa có mặt trời, mặt trăng, bầu trời trong sạch chưa giáng xuống sương mù, thân không tỏa ra ánh sáng, chỗ gọi là tịch nhiên, lộn xộn tạp loạn, đồng như vậy, cho nên thảm thư là không định được.

Diên thực ngược lại âm trên thất diên ngược lại âm dưới thừa lực Tống Trung giải thích: Diên là hòa trộn lại, thực là đất sét, người thợ gốm. Hòa trộn đất sét để làm đồ sành sứ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh trực.

Nhạc trĩ ngược lại âm dưới là trì lý đã giải thích Cao Tăng Truyện trong quyển thứ mười một.

Trùy kế ngược lại âm trên là trực truy ngược lại âm dưới kê nghệ Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Kế là kết tóc lại thành búi tóc, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tiêu thanh kiết âm tiêu ngược lại âm tất diêu trùy từ bộ mộc.

Khỏa loa âm trên qua hỏa ngược lại âm dưới lô quả theo Mao Thi Truyện cho rằng: Khỏa loa là con tò vò, còn gọi là con bồ lô, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tức là con ong nhỏ làm tổ bằng đất gọi là con ong tò vò, sách Thuyết Văn viết đúng là bức gọi là ong đất, gọi là tính trong trời đất nhỏ bé như ổ ong đất trong rỗng không, không có con, chữ viết từ bộ trùng thanh oa từ bộ trùng thanh loa âm ông là âm ông cống.

Minh linh ngược lại âm mịch kinh ngược lại âm dưới là lịch đinh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Minh linh đó là con sâu ăn lá dâu, Quách Phác chú giải rằng: Minh linh tức là ấu trùng của con bướm tức là minh linh nga, là giống sâu hại lúa, con tò vò thường bắt hại sâu này bỏ vào trong tổ để nuôi con, trước kia người ta chẳng biết cứ ngỡ rằng giống tò vò nuôi loại sâu này, nên minh linh có nghĩa là con nuôi, tức là dưỡng nữ minh linh, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ trùng đều thanh minh linh truyện viết minh tinh chữ linh là chẳng phải.

Hổn độn ngược lại âm trên hồn ổn ngược lại âm dưới độn ổn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hổn độn là loại không thông, Vương Bậc giải thích: Không có chỗ phân biệt, không thể gọi tên, sách Trang Tử nói rằng: Vua ở chính giữa gọi là tứ võng, cũng gọi là vô tri, theo chữ thanh trọc đó là chưa phân rõ, xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thủy đều thanh quân độn cũng từ bộ nhân viết thành chữ hổn độn hoặc là viết chữ côn.

Hài anh ngược lại âm trên hợi ai Cố Dã Vương cho rằng: Hài là đứa trẻ còn thơ ấu, ngược lại âm dưới là anh danh Thích Danh cho rằng: Người mới ban đầu sinh ra gọi là anh là đứa trẻ bồng trước ngực gọi là anh nói anh là còn bồng bế trên tay phía trước ngực nuôi bằng sữa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh anh âm anh đồng với âm trên, truyện viết chữ anh là sai chẳng phải.

Giới trục ngược lại âm chung lục sách Hán thư âm nghĩa cho rằng: Trục là đấu tích, Tam Thương cho rằng: Dấu vết là trục xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh thục.

Cục đề ngược lại âm trên ngang lục Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Cục là bộ phân ra, Quảng Nhã cho rằng: Cục là đến gần sát một góc thành, sanh ra thâu nhiếp lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Bối rối, lúng túng, chữ viết từ bộ khẩu trong bộ xích dưới.

Chi nữu ngược lại âm ni cữu sách Thuyết Văn cho rằng: Nữu là sợi dây. Lại cũng gọi là kết buộc mà có thể mở ra được, chữ viết từ bộ mịch thanh sửu.

Thương bách âm trên đúng là chữ thương âm dưới là bạch sách Khảo Thanh cho rằng: Chiếc thuyền lớn đi ra đảo Côn Lôn, Văn Tự Điển nói rằng: Thuyền đi trong biển lớn, chữ viết từ bộ chu thanh bạch cũng viết chữ miên.

Khuất luận ngược lại âm trên quần tước tức là đảo Côn Lôn, chuyển sai.

Đầu quyền ngược lại âm dưới quần viên sách Khảo Thanh cho rằng: Tóc uốn cong lại óng mượt, sách Thuyết Văn viết từ bộ tiêu thanh quyển theo truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ quyển.

Cảm-mạn tiếng Phạm gọi là che hình xấu xí dưới thường mặc cái xiêm giống như phương này vận cái quần, váy gọi là bức màn che vật, cũng không cắt may, chỉ vấn ngang nơi eo lưng dưới gọi là hợp mạn.

Hoan châu ngược lại âm trên hoán quan quản nội An Nam. Chủy cảnh ngược lại âm trên ty nhị tên gọi nước Nam di.

Bạt nam quốc ngược lại âm trên bàn mạt nay nâng lên gọi tên khác của nước Nam.

Khỏa hình ngược lại âm trên hoa ngõa gọi là không mặc y phục. Nhất quỹ ngược lại âm song vị luống đất.

Hạch kỳ ngược lại âm trên hành cách đã giải thích đầy đủ rồi, Cao Tăng Truyện trong quyển thứ năm.

Giải trào ngược lại âm trên giai mại ngược lại âm dưới trắc giao sách Bát Nhã cho rằng: Cười chế nhạo, hài hước làm trò đùa, Thiên Thương Hoét cho rằng: Giễu cợt, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ điều từ bộ khẩu thanh chu bổn truyện viết chữ trào tục tự dùng thông dụng, Hán Dương Hùng viết chữ giải trào.

Khuyển mẫu ngược lại âm quyết huyễn sách Khảo Công Ký rằng: Quy định là rộng năm tấc hai, tỉ tức là lưỡi cày là một cặp, cái bè rộng mà sâu, thước tấc là khuyển Quảng Nhã cho rằng: Cái hầm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điền thanh khuyển.

Đốn tảng ngược lại âm trên đô khôn ngược lại âm dưới tang lãng cái trán chấm đất, sát đất.

Đan trì ngược lại âm trĩ cơ Hán Thư cho rằng: Kẻ sĩ bước lên thềm bực bên phải được sơn phết màu đỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Sơn đất đỏ, thân thể của vua sơn màu đất đỏ, chữ viết từ bộ thổ thanh trì xích tức là màu son đỏ.

Ngoa mậu ngược lại âm trên ngũ qua ngược lại âm dưới mi ấu Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Ngoa là lừa dối, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Mậu là sai lầm. Lưu Hy giải thích rằng: Sai lầm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh hóa lại cũng viết chữ ngoa sách Thuyết Văn cho rằng: Mậu là cuồng dối nói kiến giải sai lầm, nói láo, nói bậy. Chữ viết từ bộ ngôn thanh mậu.

Định liểm ngược lại âm liêm chiêm sách Khảo Thanh cho rằng: Liểm là bãi nước cạn nổi cát lên, xưa nay Chánh Tự viết chữ liểm gọi là nước sạch, chữ viết từ bộ thủy thanh liểm.

Cân bà âm trên là cân ngược lại âm dưới phách bá hoặc là viết chữ bà âm cũng đồng trên.

Ban chi ngược lại âm trên ban phi vốn mượn âm dùng chữ.

Tiểu trâm ngược lại âm chấp lân viết đúng là chữ trâm kinh văn viết từ bộ thủ viết chữ thành trâm là sai.

Trường xác ngược lại âm trên trực lượng sách Văn Tự Điển nói rằng: Trường là lâu dài phúc lộc lâu dài, chữ viết từ bộ đáo đến bộ vong đến bộ ngột đến chủy đây là mượn âm chữ trường để dùng, ngược lại âm dưới ha các sách Khảo Thanh cho rằng: Xác giống như canh mà đậm đặc, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh xác.

Nhất khái ngược lại âm cai đại.

Tranh xúc ngược lại âm trên chữ canh Thống Tự giải thích: Nguồn gốc giống như chữ tranh sách Khảo Thanh viết chữ tranh gọi là va chạm, chữ viết từ bộ thủ đến bộ trường Văn Truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ tranh tên người, ngược lại âm dưới xung dục cũng gọi xúc chạm va vào nhau.

Thủy nhiên ngược lại âm niên điển sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiên giống như cầm nắm. Lại cũng gọi là nóng nảy, chữ viết từ bộ thủ thanh nhiên.

Diên thóa ngược lại âm trên tiện diên sách Thuyết Văn cho rằng: Diên là nước dãi trong miệng, chữ viết từ bộ thủy thanh khiếm Văn Truyện viết chữ diên tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới thổ ngọa.

Tống đông ngược lại âm chúng long người chết.

Thô như ngược lại âm trên thố hồ chữ chánh thể, nay phần nhiều không dùng, tục dùng thông viết chữ thô.

Sáp khẩu ngược lại âm trên sám hạp sách Thuyết Văn cho rằng: Đưa thẳng vào miệng nuốt vào trong, chữ viết từ bộ thủ thanh sáp Văn Truyện viết chữ sáp tục tự dùng thông dụng.

Giác nhiếp ngược lại âm chiêm thiệp Thiên Thương Hoét cho rằng: Cuộn lại, Quảng Nhã buộc chặt lại, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Viết từ bộ y thanh nhiếp.

Nhất phan ngược lại âm phan mạn xưa nay Chánh Tự giải thích rằng: Khoác áo lên vai gọi là phan, chữ viết từ bộ thủ đến bộ pham phan cũng là thanh.

Quải bát ngược lại âm trên qua hoa ngược lại âm dưới bàng mạc Đỗ Dự chú giải sách Chu Lễ rằng: Bát là cái vai, chữ viết từ bộ cốt thanh bát.

Trí câu ngược lại âm khẩu hầu xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân thanh cú cũng viết từ chữ khu âm cũng đồng.

Quán thấu ngược lại âm trên quan hoãn ngược lại âm dưới sưu Hưu.

Thiền-đa-gia-sắc-sá ngược lại âm dưới Xích-giá tiếng Phạm, Đường Huyền Trang dịch là xỉ mộc.

Phách phá ngược lại âm trên bá. Quát thiệt ngược lại âm quan hoạt.

Thích ngận ngược lại âm trên đinh lịch đã giải thích rồi, Cao Tăng Truyện trong quyển thứ hai mươi bảy, ngược lại âm dưới ngột cân Thiên Thương Hoét ghi rằng (833) ngận là lợi răng, chân răng, chữ viết từ bộ xỉ thanh cân.

Tạc điều ngược lại âm trên tạc Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Trừ bỏ cây gọi là tạc cũng là tên cây bạch lạc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh sạ.

Lạt tân ngược lại âm lan đát xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lạt là cay, chữ viết từ bộ tán thanh thúc.

Xỉ bị ngược lại âm bài bái Quảng Thương cho rằng: Bị là tật bệnh, sách Thuyết Văn viết từ chữ bị Văn Truyện viết chữ bị cũng thông dụng.

Châu a ngược lại âm khả hà gọi là bệnh.

Yết tại ngược lại âm trên yểm diệp sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy ngón tay đè xuống, chữ viết từ bộ thủ thanh yểm.

Yếu thao ngược lại âm thảo đao sách Văn Tự Điển nói rằng: Vải đánh bằng tơ, dây tơ màu làm dây thắt lưng, chữ viết từ bộ mịch thanh du.

Phổ phúc ngược lại âm phong mục chữ đúng thể, theo Hàn Thi Truyện nói rằng: Phúc là hương thơm ngào ngạt, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hương thanh phúc âm phúc đồng với âm trên.

Cảnh khái ngược lại âm trên canh hạnh ngược lại âm dưới cai ngãi đã giải thích đầy đủ rồi, Nội Điển Lục trong quyển thứ sáu.

Nhất phạn ngược lại âm phan vãn sách Thuyết Văn hoặc là viết chữ phạn gọi là ăn cơm, chữ viết từ bộ thực thanh phản.

Càng sao ngược lại âm trên ca an ngược lại âm dưới xương nhiễu Quảng Nhã cho rằng: Sao là lúa mạch làm nấu rang để ăn, Bì Thương cho rằng: Lúa mạch làm cho khô làm bột mì, Văn Tự Điển nói: Rang cho khô, xay nhuyễn, chữ viết từ bộ mạch thanh tù âm trâu ngược lại âm sao trảo.

Chiên tinh ngược lại âm trên thiết diên Đỗ Tử Xuân chú giải sách Chu Lễ rằng: Chiên là mở của con dê, sách Thuyết Văn viết chữ sạn gọi là mùi trên thân của con dê, con cừu, chữ viết từ ba bộ dương nay viết chữ chiên cũng thông dụng, Văn Truyện viết từ bộ nhục viết thành chữ chiên cũng thông dụng, ngược lại âm dưới giai đinh sách Tiểu Số nói rằng: Tinh là mùi tanh của thịt sống, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục đến bộ tinh tinh cũng là thanh.

Kiên ngạnh ngược lại âm ngạch cánh sách Tiểu Số viết chữ ngạnh cùng với truyện vốn cũng đồng, thời nay có dùng từ bộ thạch viết thành chữ ngạnh tục tự dùng thông dụng.

Chữ tê ngược lại âm tế đề Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tê là thuộc gia vị, như gừng, hành, nước tương, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hẹ đến bộ tề thanh tĩnh chữ cổ viết chữ tê.

Bằng xa ngược lại âm trên bạch manh sách Khảo Thanh cho rằng: Bằng xa là chiếc xe có ngăn gác lầu, thời nay phần nhiều thường dùng ca-bin trên xe dùng năm thứ chỉ màu quấn chặt buộc lại làm tầng gác, khi vận chuyển người ta kéo trên đường cảm thấy vui, ở phía trước, chữ viết đúng từ bộ xa viết thành chữ bằng.

Cảnh liểm ngược lại âm lực chiêm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phương thanh liểm Văn Truyện viết chữ khu tục tự dùng thông dụng, âm phương là âm phương. Bần lũ ngược lại âm cù vũ sách Khảo Thanh cho rằng: Người ở chỗ mà không có tài sản dự bị làm lễ, sách Thuyết Văn viết từ bộ miên thanh lũ Văn Truyện viết từ bộ huyệt viết thành chữ lũ là chẳng phải.

Đậu khấu âm trên là đậu âm dưới ha cấu sách Nam Phương Di Vật Chí nói rằng: Loại đậu khấu hương vị cay có thể ăn được, xuất phát từ đất Giao Chỉ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo thanh đậu khấu.

Tự tước ngược lại âm trên tài dữ ngược lại âm dưới tường dược.

------------------------------------

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 2

Ngưỡng hy ngược lại âm hý ý Quảng Nhã cho rằng: Hy là nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Trông ra xa, chữ viết từ mục thanh hy.

Nghi pháp chu ngược lại âm trên nghi ỷ sách Văn Tự Tập Lược cho rằng: Nghi là chiếc thuyền tề chỉnh hướng thẳng vào bến, Ứng Thiệu giải thích Tề chỉnh, đúng đắn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh nghi Văn Truyện viết chữ nghi tục tự thường hay dùng.

Thương xác ngược lại âm giang nhạc sách Khảo Thanh cho rằng: Xác là lược, sách Thuyết Văn cho rằng: Đánh, gõ, đục, khoét, chữ viết từ bộ thủ thanh xác cũng viết từ bộ xa viết thành chữ bác cũng viết chữ giác.

Tăng-già-tri âm giữa là già âm dưới là tri tiếng Phạm, Đường Huyền Trang dịch là đại y.

Ngũ quần âm quần Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Quần là tiếp y dưới, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái xiêm dưới tức cái quần, chữ viết từ bộ cân thanh quân Văn Truyện viết chữ quần tục tự dùng cũng thông.

Tăng-khước ngược lại âm ỷ nghi tiếng Phạm, áo che dưới nách. Thảm tịch ngược lại âm trên tham lãm sách Khảo Thanh cho rằng:

Thảm là dệt lông làm thảm trải đất, xuất phát từ trong nước Thổ Phiên, Tự Thư cho rằng: Cũng từ bộ miên viết thành chữ thảm hoặc là từ bộ mịch viết thành chữ thảm âm nghĩa cũng đồng.

Ngoại nục ngược lại âm nữu lục sách Phương Ngôn cho rằng: Nục là xấu hổ, giữa núi đông phía tây xấu hổ, hổ thẹn gọi là nục Quách Phác chú giải rằng: Trong lòng hổ thẹn, chữ viết từ bộ tâm thanh nhi.

Lâu dẫn ngược lại âm trên lậu hầu sách Phương Ngôn cho rằng: Nam Sở hoặc gọi là Lâu Cô sách Thuyết Văn cũng gọi là Lâu Cô, lại gọi là Cốc Thiên Lâu tức là loài côn trùng như dế mèn hại lúa, chữ viết từ bộ trùng thanh lâu ngược lại âm dưới dần nhẫn sách Nguyệt Lịnh cho rằng: Đến mùa xuân là con giun đất, con trèn bò trên đất, Cố Dã Vương cho rằng: Tức con bọ ngựa, con giun, Tự Thư viết chữ dẫn sách Thuyết Văn viết chữ cận dẫn tức là loài côn trùng nhỏ nhít, chữ viết từ bộ trùng thanh dần âm cẩn ngược lại âm khâu nhẫn.

Dũng tàm ngược lại âm trên dung chủng sách Thuyết Văn cho rằng: Con tằm còn nằm trong kén, chữ viết từ bộ trùng thanh dũng ngược lại âm dưới tạp nam sách Thuyết Văn cho rằng: Con tằm có chửa, bụng chứa tơ, chữ viết từ bộ côn thanh tán âm tán ngược lại âm sang cảm.

Sanh kiển ngược lại âm kiên hiển sách Thuyết Văn cho rằng: Là con tằm còn nằm trong kén, chữ viết từ bộ mịch đến bộ trùng đến bộ thảo thanh tĩnh xưa nay Chánh Tự viết chữ kiển.

Dụng khư ngược lại âm khứ ngư.

Cù du ngược lại âm trên cụ câu ngược lại âm dưới số trâu Bì Thương cho rằng: Tức là tháp đăng theo Thanh Loại cho rằng: Chiếu lông tức là thảm trải đất, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mao đều thanh cù du.

Tham lam ngược lại âm lạp nam sách Phương Ngôn cho rằng: Lam là tàn, sách Thuyết Văn cho rằng: Bắc Hà gọi tham là lam chữ viết từ bộ tâm thanh lâm Văn Truyện viết chữ lam âm đồng, nghĩa khác nay không dùng.

Sự phồn ngược lại âm âm phạn viên theo Mao Thi Truyện cho rằng: Nhiều nẩy sinh ra đông nhiều.

Huề bình ngược lại âm trên huệ khuê Cố Dã Vương cho rằng: Huề là nắm giữ lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Đề cao chữ viết từ bộ thủ thanh huề âm huề đồng với âm trên, theo truyện viết chữ huề tục tự dùng thông dụng.

Trường vụ ngược lại âm trên văn lương ngược lại âm dưới vô ngộ Quách Phác chú giải Mục Thiên Tử Truyện rằng: Vụ là đánh ngựa cho chạy nhanh, Cố Dã Vương cho rằng: Ngựa chạy rất nhanh, Quảng Nhã cho rằng: Ngựa chạy loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mã thanh vụ âm vụ là âm vũ.

Hoan huyên ngược lại âm trên huyên viên Văn Truyện viết chữ huyên nghĩa cũng đồng, Quảng Nhã cho rằng: Hoan là nói rì rầm, tiếng hót, Cố Dã Vương cho rằng: Kêu gọi lại gọi là hoan huyên giống như là ồn ào, sách Thuyết Văn cho rằng: Ồn ào, chữ viết từ bộ ngôn thanh quyền ngược lại âm dưới hương yêu sách Thuyết Văn cho rằng: Trên đầu xuất hơi ra, chữ viết từ bộ huyên đến bộ hiệt hiệt là đầu âm huyên ngược lại âm trắc lập.

Khẩn thổ ngược lại âm trên khẳng ngận gọi là cày ruộng.

Viễn phục ngược lại âm trên vi ủy sách Khảo Thanh cho rằng: Lời trách mắng.

La lự ngược lại âm lự dự theo chữ la lự đó e rằng trong nước có vi trùng nhỏ vật rêu cỏ dơ bẩn v.v... cho nên phải lấy vải lưới làm đồ để lược, nước sạch rồi đậy lại, cũng phải hộ sanh mà đem thả vào giếng nước khác khiến cho mạng sống của các trùng kia được sinh tồn, thời nay tục thông dụng chữ này.

Đảng trừ ngược lại âm đường đảng.

Phú bát ngược lại âm trên phù vụ âm dưới là bác cũng viết chữ bác tục tự dùng thông dụng.

Trữ trục ngược lại âm trên trừ lữ ngược lại âm dưới trung lục nghĩa đã giải thích rồi trong quyển Tây Vực Ký Tựa.

Hạ mạt ngược lại âm mang bát.

Ba-lạt-tư âm giữa Lan-đát tiếng Phạm.

Phách liệt ngược lại âm trên sính mịch ngược lại âm dưới liên triết.

Hoán phục ngược lại âm trên nô đoản sách Nhĩ Nhã cho rằng:

Hoán là ấm áp, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Ấm áp, chữ viết từ bộ hỏa thanh nhuyễn Văn Truyện viết chữ nhu là sai.

Trất tỹ ngược lại âm trên tần sắc ngược lại âm dưới tần mật nói trất tỷ đó là như cây lược răng thưa tương thứ tự thẳng hàng với nhau, cũng viết chữ tỷ Văn Truyện viết chữ phi cũng thông dụng.

Đáp kiên ngược lại âm trên đam hạp âm dưới là kiên. Đài sử ngược lại âm âm đãi lai.

Quá tể ngược lại âm tế hề sách Thuyết Văn cho rằng: Tế là trợ giúp, chữ viết từ bộ bối thanh tế.

Súc trực ngược lại âm trên xung lục theo Thống Tự cho rằng: Súc gọi là đứng thẳng lâu dài, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dáng đứng thẳng, sừng sửng, chữ viết từ hai bộ trực.

Nhung thải ngược lại âm trên nhục dung sách Khảo Thanh cho rằng: Dùng tơ lụa, chỉ màu, Tự Thư cho rằng: Lông mịn làm đồ trang sức, chữ hoặc là viết từ bộ nhĩ viết thành chữ nhung âm dưới sang tể.

Bán thuyên ngược lại âm thuyên nhuyễn sách Thuyết Văn giải thích: Thuyên cơ bắp thịt bắp chân, chữ viết từ bộ nhục thanh đoan.

Thuyên y ngược lại âm thù duyên Bì Thương cho rằng: Thuyên là sọt chứa gạo thóc, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vi thanh đoan Văn Truyện viết chữ thuyên là chẳng phải, âm độn ngược lại âm đồ khốn tức là đàn bà chỗ mặc quần dưới.

Mong vũ ngược lại âm trên là mong theo Mao Thi Truyện cho rằng: Là mưa mù mịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Mong là mưa phùn, mưa khói mịt mù, chữ viết từ bộ thủy thanh mong.

Tứ bạo ngược lại âm bao báo sống chết sông lớn.

Thảm bố ngược lại âm trên sang cảm Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là đem vật không màu sắc gọi là thảm thảm là u ám tối tăm, sách Thuyết Văn cho rằng: Màu xanh đen nhạc, chữ viết từ bộ hắc thanh lam.

Chiêm lư ngược lại âm trên thức liêm ngược lại âm dưới lữ chư. Hao đào ngược lại âm cáo cao ngược lại âm dưới đạo đao.

Bàng điếm ngược lại âm điềm niệm.

Nhai tí ngược lại âm trên nhai giải ngược lại âm dưới tề giới sách Khảo Thanh cho rằng: Trợn mắt giận dữ, mở ra nhắm lại phẫn nộ gọi là nhai tí Văn Truyện viết chữ sài là sai.

------------------------------------

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 3

Huệ nghiển ngược lại âm ngôn kiển theo Mao Thi Truyện cho rằng: Nghiển là ngọn núi nhỏ nằm riêng biệt trên ngọn núi lớn, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Ngọn núi này hình như là mưa kéo dài triền miên, Thích Danh cho rằng: Núi cô độc riêng lẻ, tuyệt không có chỗ người ở, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nghĩa cùng trên cũng đồng, chữ viết từ bộ sơn thanh hiếm.

Hội cang ngược lại âm trên duẫn lôi Quảng Nhã cho rằng: Hội là hư hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Rơi rớt xuống bùn, chữ viết từ bộ phụ thanh hội ngược lại âm dưới các lang sách Thuyết Văn cho rằng: Cương là nắm giữ giềng mối sợi dây to nơi lưới, chữ viết từ bộ mịch thanh cương Văn Truyện chữ viết cương tục tự dùng thông dụng.

Thuân liệt ngược lại âm trên thát tuần Bì Thương cho rằng: Thuân là da (834) nứt nẻ phòng nổi lên, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bì thanh thuân âm thuân đồng với âm trên.

Đẩu tẩu âm trên là đấu ngược lại âm dưới tô hậu. Thiên tiểu ngược lại âm biên miến.

Phòng trách ngược lại âm tranh ách Bì Thương cho rằng: Trách là chật hẹp, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bức bách chật hẹp, chữ viết từ bộ huyệt thanh sa cũng viết từ bộ nghiễm viết thành chữ trách Văn Truyện viết chữ trách là sai, dùng sai chữ, nay không dùng âm khiếp là âm hạp.

A-lộ-kỳ ngược lại âm trên A-khả âm kế là lỗ âm dưới truyện tự âm gọi là sát cận kề, tiếng Phạm trong truyện tự giải thích.

Song tất ngược lại âm tân dật Cố Dã Vương cho rằng: Tất là đầu gối, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng là chữ tất đầu gối cẳng chân, chữ viết từ bộ tiết thanh tất là âm tiết.

Cứ địa ngược lại âm cư ngự.

Tích tập ngược lại âm trên tất diệc Quảng Nhã cho rằng: Tích là gấp lại, cong lại, sách Thuyết Văn cho rằng:

Gấp xếp áo, chữ viết từ bộ y thanh tích ngược lại âm dưới điềm hiệp sách Thuyết Văn cho rằng: Bộ quần áo nhiều lớp, chữ viết từ bộ y thanh tập Văn Truyện viết chữ điệp là chẳng phải, âm quyển là âm quyển.

Túc cân âm cân.

Song thụ ngược lại âm chu nhủ tục tự viết đúng thể là chữ thụ. Hung cách âm trên là hung ngược lại âm dưới canh hạch.

Biển tích ngược lại âm trên biên biện tên họ người Văn Truyện viết từ bộ điểu viết thành chữ biển là sai.

Cương phó âm trên là cương ngược lại âm dưới là bằng bắc.

Đạm tấm ngược lại âm trên là đạm tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới tảng lảm. Tiện sưu ngược lại âm lặc lưu.

Hồ tuy ngược lại âm dưới là tuy tên một loại rau có mùi thơm, cũng viết chữ lăng Văn Truyện viết chữ truy sách viết sai.

Chẩn mạch ngược lại âm trên chân nhẫn.

------------------------------------

NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN QUYỂN 4

Khuyến tưởng ngược lại âm tướng tưởng Trịnh Huyền chú giải sách Phương Ngôn rằng: Giữa Tần Tấn gọi khuyến khích là tương Quảng Nhã cho rằng: Khen ngợi, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thành xong.

Dương ba ngược lại âm phạ ba sách Thuyết Văn cho rằng: Là hoa của cây cỏ, chữ viết từ bộ thảo thanh ba âm đồng với âm trên.

Trì khứu âm hưu Hưu sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng mũi chính là để ngửi, chữ viết từ bộ tỵ thanh xú.

Trục tĩnh ngược lại âm sanh hạnh Quảng Nhã cho rằng: Tĩnh là ít, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giảm bớt, thu nhỏ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh tĩnh Văn Truyện viết chữ tĩnh thời dùng tóm lược.

Quách mạnh ngược lại âm trên hồ mảnh lúa mạch có nhiều hạt lép, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hòa thanh quảng.

Thiên vĩ ngược lại âm vi uy sách Bát Nhã cho rằng: Vĩ là của cây cỏ, Vận Thuyên, Tự Lâm đều cho rằng: Hoa, xưa nay Chánh Tự nụ hoa, chữ viết từ bộ thảo đến bộ bạch thanh vi.

Nhu tạp ngược lại âm trên nữu lưu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu cũng là tạp xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mễ thanh nhu Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ sửu viết thành chữ nhẫn cũng viết chữ nhận.

Chữ đảo ngược lại âm đao lảo An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hải đảo eo biển bên sườn núi, người ta có thể ở gọi là đảo, sách Thượng Thư cho rằng: Bộ tộc Man Di ở trên đảo này, Thích Danh cho rằng: Đảo là đến gọi là chỗ ở người chạy trốn đến ở, sách Thuyết Văn cho rằng: Trong biển thường thường có núi có thể dựa vào đó để dừng nghỉ gọi là đảo chữ viết từ bộ sơn thanh điểu.

Trần buộn ngược lại âm bồn muộn Dương Tử giải thích rằng: Trần giống như là đến, sách Thuyết Văn cho rằng: cũng gọi là bụi trần, chữ viết từ bộ thổ thanh phân. Xưng tuấn ngược lại âm tôn tuấn Bạch Hổ Thông cho rằng: Vượt hơn trăm người gọi là tuấn hơn ngàn người gọi là anh Bội Anh giải thích rằng: Người hiền, theo Tả Truyện cho rằng: Tuấn là tuyệt di khác thường, sách Thuyết Văn viết chữ tuấn đó là người vượt hơn ngàn người gọi là tuấn chữ viết từ bộ nhân thanh thanh tuấn nghĩa cùng với chữ tuấn cũng đồng, âm tuấn ngược lại âm thất tuần.

Phong ngạc ngược lại âm trên phù bồng ngược lại âm dưới ngang các sách Thuyết Văn cho rằng: Phong là loại binh đao dạng thẳng, chữ viết từ bộ kim thanh phong xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ngạc cũng là đao kiếm, chữ viết từ bộ kim thanh ngạc âm ngạc đồng với âm trên.

Phẩu tích ngược lại âm trên phổ khẩu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phẩu là phanh trong ra, tách ra, phân ra, Cố Dã Vương cho rằng: Chẻ phá ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chẻ phá ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm phổ khẩu ngược lại âm dưới tinh diệc theo Thanh Loại cho rằng: Tích cũng là phanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Tích là chẻ cây ra, chữ viết từ bộ mộc thanh cân cũng gọi là lột cây ra.

Xác tiểu ngược lại âm trên khang giác theo Hàn Khang Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Xác là vỏ cứng, chắc, kiên cố, sách Văn Tự Điển nói: Cứng chắc, chữ viết từ bộ thạch đến thanh xác.

Tỏa ngoại đạo ngược lại âm trên tờ ngọa Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tỏa là chém chặt ngang lưng, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bẻ gãy ngọn kiếm gọi là tỏa sách Thuyết Văn cho rằng: Bẻ gãy, chữ viết từ bộ thủ thanh tọa.

Thanh biện ngược lại âm biệt miển sách Khảo Thanh cho rằng: Trí tuệ sáng suốt, phân biệt rõ ràng, chữ viết từ bộ ngôn thanh biện Văn Truyện viết chữ biện tục tự kiểm lại các chữ trong sách đều không có chữ này.

Kình hải ngược lại âm trên tinh ngưỡng Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Kình là loại cá vua, cá voi, theo Thống Tự viết từ bộ cương viết thành chữ cương tức con cá lớn trong biển, con cá này dài hơn ngàn dặm, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngư thanh cương nay từ bộ kinh viết thành chữ kình chữ dùng cũng thông dụng.

Khất cái ngược lại âm cai ngãi sách Thuyết Văn cho rằng: Khất cái là nói người tiêu hết tài sản thì phải đi xin ăn, cầu cạnh nơi người khác, chữ hội ý.

Hộ dược ngược lại âm dương chước Tự Thư viết từ bộ môn viết thành chữ dược âm nghĩa đều đồng.

Sàng tháp ngược lại âm trên trạng trang ngược lại âm dưới tham lạp Thích Danh cho rằng: Tháp tức là giường hẹp mà dài gọi là tháp xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh tháp âm tháp đồng với âm trên.

Tư tư ngược lại âm tử tư sách Thuyết Văn cho rằng: Tư tư là siêng năng không biết mỏi mệt, sách Chu Thư cho rằng: Tư tư là không có biếng nhác, chữ viết từ bộ chuy thanh tử.

Nhiên kỹ ngược lại âm kỹ nghi sách Thuyết Văn cho rằng: Kỹ bắp thịt, chữ viết từ bộ nhục thanh kỹ.

Tương chủng ngược lại âm chung dũng theo Thanh Loại cho rằng: Chủng là gót chân, Cố Dã Vương cho rằng: Chủng là đuổi theo, giẫm đạp lên gót chân kẻ khác, lại cho rằng: Đuổi theo, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nối tiếp theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là đuổi theo, chữ viết từ bộ túc thanh chung.

Triện trụ ngược lại âm trên trù luyến sách Chu Nghi Vương Thái Sử, Sử Trụ trước Đại Triện mười lăm Thiên Thừa Tướng Lý Tư viết Thiên Thương Hoét trong phủ xa lịnh, Triệu Cao viết viện lịch thiên, Thái Sử Hồ Mẫu Kính viết Bác Học Thiên đều rút trong Sử Trụ Đại Triện, hoặc là tóm tắt, sửa đổi, chỗ gọi là Tiểu Triện, Thuyết Văn dẫn lời trong sách, chữ viết từ bộ trúc thanh duyên âm duyên ngược lại âm thuyên loạn ngược lại âm dưới trù lưu sách Sử Ký nói rằng: Trụ đó là thời nhà Chu làm quan sử dạy các hoàng tử con vua học cùng sách Khổng Thị Bích Trung, trong văn cổ thể có khác, nhưng đều là văn cổ, Thuyết Văn đọc sách, chữ viết từ bộ trúc thanh trụ.

Hầu vẫn âm trên là hầu ngược lại âm dưới văn phân hai bên góc miệng.

Hội lan ngược lại âm trên hồi nội chữ chánh thể, ngược lại âm dưới lan đàn.

Quán thể ngược lại âm trên quan hoạn sách Khảo Thanh cho rằng: Xuyên qua áo, Văn Truyện viết chữ hoàn âm hoạn là sai.

Trậm độc ngược lại âm trên trầm cấm ngược lại âm dưới đồng lộc.

Thảo lệ ngược lại âm lễ kế Văn Tự Điển nói: Tần Trình ở trong tù xa xôi nơi Vân Dương, lúc ở trong ngục có sửa đổi chữ cổ thư, thể thư là phác lệ, sách Thuyết Văn viết từ bộ đãi thanh nại Văn Truyện viết thảo lệ, lệ đó thời nay là thảo thư, Lệ thư.

Bảo giam ngược lại âm hạp giam Thiên Thương Hoét ghi rằng: Giam là cái hộp làm bằng gỗ chứa đựng văn thư, Quảng Nhã cho rằng: Giam gọi là cái rương, sách Thuyết Văn cũng gọi là cái rương, chữ viết từ bộ mộc thành hàm Văn Truyện viết chữ hàm tục tự dùng thông dụng.

Thiều quan ngược lại âm trên đình điêu Bì Thương cho rằng: Thiều là mái tóc, sách Khảo Thanh cho rằng: Đứa trẻ nhỏ cắt tóc còn chừa lại hai bên vá, chỉ đứa trẻ tóc còn để chỏm, xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng: Cạo tóc còn chừa lại hai bên chỏm, chữ viết từ bộ tiêu thanh chiêu âm mao là âm mao âm tiêu ngược lại âm tất diêu Văn Truyện viết từ bộ xỉ viết thành chữ thiều tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới quan hoạn Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Đứa đồng tử có buộc tóc thắc tóc lại, còn để tóc tự nhiên, sách Tự Cảnh, Vận Thuyên đều cho rằng: Quan là đứa đồng tử tóc bên trái đào, chữ tượng hình âm thông là âm thông.

Lệ luật ngược lại âm trên lực chế danh tăng.

Trách ải ngược lại âm trên tranh ách đã giải thích trong quyển thứ ba rồi, ngược lại âm dưới là ách giới Cố Dã Vương cho rằng: Ải là chật bức bách chật hẹp, Quảng Nhã cho rằng: Cấp bách, nhỏ hẹp, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nơi chật hẹp, thấp hèn, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh ải.

Phụ bách âm bạch Quảng Nhã cho rằng: Bách là thuyền nhỏ trong biển, Bì Thương cho rằng: Thuyền lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ chu thanh bạch.

Thiều sấn âm trên là điều ngược lại âm dưới sơ cẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sấn là hủy bỏ cái răng, sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh sất.

Nhật cán ngược lại âm càn đán Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cán là bầu trời trong, sách Thuyết Văn cho rằng: Buổi tối, chữ viết từ bộ nhật thanh cán Văn Truyện viết từ bộ nguyệt viết thành chữ cán là sai.

Sĩ tích ngược lại âm trên là trì lý Thiên Thương Hoét ghi rằng: Sĩ là lột áo ra, xưa nay Chánh tự viết từ bộ y thanh sĩ Văn Truyện viết chữ sĩ tục tự dùng thông dụng, âm sĩ ngược lại âm thiên y.

Huyền ỷ ngược lại âm ý ly theo Mao Thi Truyện cho rằng: Ỷ là nhiều lớp sóng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh ỷ âm ỷ đồng với âm trên.

Mô mẫu ngược lại âm trên mộ hồ xưa tên của người đàn bà xấu xí.

*******

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC CẦU PHÁP CAO TĂNG TRUYỆN

QUYỂN THƯỢNG

Nghĩa Tịnh Tam Tạng soạn. Sa-môn Huệ Lâm âm.

Tuẫn pháp ngược lại âm tuần tuấn Giả Huyên Phục Điểu Phú Truyện giải thích rằng: Người liệt sĩ thanh danh không kể mạng sống, sách Tập Huấn chú giải rằng: Quên mình theo vật chết gọi là tuẫn Văn Tự Điển nói: Người không kể mạng sống, chữ viết từ bộ ngạt thanh tuần.

Kình ba ngược lại âm cự nghinh Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Kình là con cá lớn nhất trong biển, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Đồng nghĩa hoặc là viết chữ cương.

Tấn thân âm trên là tấn sách Thuyết Văn cho rằng: Tắm vải lụa nhuộm làm màu đỏ trắng gọi là tấn theo Tả Truyện cho rằng: Có thắt lưng màu đỏ, sách Vân Thị Trang Tử nói rằng: Có ông Tấn Thân tức là chỉ hạng quan lại, tấn là giắt, ý nói giắt hết vào đai, ngược lại âm dưới là thân Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Thân là dây đai lớn cột thắt lưng rủ xuống, sách trước có ghi giải thích đầy đủ các việc.

Hâm ngâm ngược lại âm trên khấp kim ngược lại âm dưới sĩ tiềm Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hâm ngâm là cao ngất nguy hiểm, thế núi cao, sách Phương Ngôn cho rằng: Ngâm là cao, to lớn, Quách Phác chú giải rằng: Ngâm hâm núi cao đều là chữ hình thanh, âm ngâm là âm ngâm.

Hạp nhiên ngược lại âm kham đáp sách Sở Từ cho rằng: Chết an ổn dưới dòng nước chảy, Vương Dật chú giải rằng: Hạp bổng nhiên mà chìm xuống chết, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh hạp âm hạp là âm hợp từ bộ thảo đến bộ đại đến bộ huyết.

Quảng hiếp ngược lại âm hiểm nghiệp theo Truyện tự giải rằng: Thành Vương Xá tên của ngọn núi, chữ viết từ ba bộ lực đến bộ nhục.

Cự-cự-sá âm kê.

(835) Ế-thuyết-la Đường Huyền Trang nói quý tức là nước Cao Nghiêm, cộng sự là thần kê, vì đầu con kê (gà) có bộ lông đẹp cho nên gọi là quý kê.

Bất lân ngược lại âm lật chẩn chẩn Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Lân là chất phốt pho mỏng, trong bổn thảo vân mẫu gọi là thạch lân, nói loại đá này mỏng mà sáng óng ánh.

Huệ nghiễn ngược lại âm ngôn kiển sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiến là núi cao cũng là ngọn núi nhỏ nằm hai bên ngọn núi lớn, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Núi nhỏ riêng biệt bên ngọn núi lớn, Huệ Nghiễn là tên vị tăng, danh tăng.

Ninh âm ngược lại âm ấn lân Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ân là lắp bít, chữ viết từ bộ thổ.

Tích linh ngược lại âm trên tinh diệc âm dưới là linh theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tích linh là trong vùng thảo nguyên. Loại chim chìa vôi, cũng có nghĩa trong anh em tính nóng nảy khó hòa hợp, Trịnh Huyền chú giải rằng: Loài hòa thuận hay ở ngòi rảnh vừa bay vừa kêu lại lắc lư, đôi cánh, trong truyện viết từ bộ tích viết thành chữ tích tục dùng chẳng phải chữ đúng thể.

Tán nhiên ngược lại âm sở gian Mao Thi Truyện cho rằng: Tán nhiên là khóc rơi lệ.

Lũ-nã-triết-lý-đa ngược lại âm trên ngu củ ngược lại âm dưới nổ da tiếng Phạm tên chùa, trong truyện tự giải thích Đường Huyền Trang cho rằng: Chùa Đức Hạnh gần chùa Đại Giác không xa.

Tang ca ngược lại âm trên tá lang âm dưới là ca theo chữ tang ca đó là giống như loại người tây Nam Di của Nam Sở cũng là địa danh tức là năm phủ quan trong số châu, đều là vậy, trong Nam Ích Thục, nay bởi vì trong truyện nói, xưa kia có hơn hai mươi người đến Thục Xuyên xuất ra từ Tang Ca đến Thiên Trúc mà đạt được thông suốt, có nhân duyên như vậy, đây mới nói theo kiếm tìm khảo xác địa chí và các địa lý, sách Nam Phương ghi các việc nói đây là đến năm ngày mới con đường vào đến đất Thục Xuyên, xuất ra từ phía nam, trong kinh nói có người họ Diêu, Việt Tuấn, Bất Hỹ, Vĩnh Xương v.v... ở ấp này, xưa hiệu là Ai Lao, Triều Ngọc Hán, ban đầu mến mộ yêu chuộng, về sau sửa đổi lại là nói thân có độc xưng Quốc Đọa Vương nước này tiên tổ vốn chủng loại nhà rồng, truyền nối, kế thừa cho nhau. Nay đều thuộc Nam Man phương bắc tiếp đón hổ tương mà sống trà trộn với nhau với phương tây, qua đến đây là Man giới, ranh giới của Nam Man, tức là vào nước Thổ Phiên, ranh giới phía nam, tức là Tây Việt, có nhiều núi cao hùng vĩ trải khe hang núi, phàm trong nói có nhiều, có hơn ba ngàn dặm, quan đến ranh giới Thổ Phiên lại phải trải qua núi tuyết, dưới chân núi phía nam, tức là người Đông Thiên Trúc, ranh giới Đông Nam là nước Ca-ma-lâu-ba, kế đến gần nước Nam-tam-ma-đátsá, nước Kha-lợi-kê-la và nước Đam-ma-lập-để v.v... đây là con đường núi cùng đến Thiên Trúc gần như nguy hiểm khó đi, Đại Đường cùng với Ngũ Thiên đến kịp đi đường bộ nhưng khi đến mùa hạ nóng nực loài sâu trùng độc là không thể đi mang giày dép mà gặp nó là khó mà toàn sanh mạng, mùa thu phần nhiều có mưa gió, nước nổi lại không thể đi lại, mùa đông tuy không có nhiều trùng độc nhưng lại có nhiều tuyết, lạnh giá khó mà bước chân lên nổi, nhưng cũng có đúng là hai, ba tháng mới qua mùa này, lại dịch giải nhiều chủng loại Man Di nói bao quát mùa cạn đường bằng hàng hóa vải vóc, các nhà thương buôn trải qua, thổ dân dẫn đường, lần lần hỏi thăm bờ bến tức là được đạt tới nơi, núi hiểm trở không có đường đi khó mà biết chỗ thông bít, bởi vì nhân người đến cầu pháp lạc, tuần lễ cho nên nói đây để hiểu chưa nghe.

Tuấn tiếu ngược lại âm trên tuần tuấn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tuấn giống như là cao, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ viết thành chữ tuấn ngược lại âm dưới thu tiếu sách Vận Anh cho rằng: Tiếu cũng là tuấn, hoặc là viết chữ tiếu tức là núi cao mà dốc, đều là chữ hình thanh, hai thể đều thông dụng.

Niên nê ngược lại âm trên ni liên sách Tập Huấn cho rằng: Niêm là lật qua khiến cho dính vào nhau, Tự Thư cho rằng: Cam thổ tức là niêm thổ, chữ hội ý.

Bì trách ngược lại âm trên bì mỹ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bì là hủy hoại, sách Thuyết Văn cho rằng giải thích cũng đồng, chữ viết từ bộ thổ thanh dĩ ngược lại âm dưới sĩ cách sách Bát Nhã cho rằng: Trách là phân ra, sách Khảo Thanh cho rằng:

Trách là đất nứt ra, trong truyện viết chữ trách là sai chẳng phải.

Câu-la-bát-để âm la là âm la hạ trong truyện tự giải thích gọi là chủ nhà.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Viện truy âm trên là viện sách Khảo Thanh cho rằng: Viện nắm giữ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Dẫn dắt, hoặc là viết chữ viện sách Vận Anh cho rằng: Viện là cứu giúp, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh viện sách Thuyết Văn cho rằng: Viện từ bộ thọ âm phi điểu đến bộ thiên ngược lại âm dưới tể sư sách Thuyết Văn cho rằng: Vải lụa màu đen gọi truy chữ viết từ bộ mịch thanh truy.

Thấu ngọc tuyền ngược lại âm sưu trâu lại cũng là âm sửu hầu hai âm đều thông dụng, sách Vận Anh cho rằng: Thấu là súc miệng Tự Thư viết từ bộ thủy thanh thấu.

Giới-lang-ca âm trên là giới Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Giới là đến, Lang-ca là tiếng Phạm, tên đảo trong biển.

Toát tập ngược lại âm trên toán loát sách Vận Thuyên cho rằng: Yếu lược, âm toán ngược lại âm tổ noản âm noản ngược lại âm lỗ quát.

Minh bột âm trên là minh âm dưới là bột gọi là loài cá rồng trong biển khởi lên mây mưa chấn động sấm sét phẫn nộ giận dữ nước nổi lên khó mà tìm thấy đất bằng, khó mà tìm thấy địa chí.

Tẫn lạc ngược lại âm trên tân nhẫn Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Tẫn là vất bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Giải thích cũng đồng, chữ hình thanh.

Trịch xúc ngược lại âm trên trình thạch ngược lại âm dưới trùng lục Cố Dã Vương cho rằng: Nhấc chân cao lên mà không muốn bước tới, hoặc là viết chữ trịch xúc cũng thông dụng, theo chữ trịch xúc giống như tình ý bồi hồi mà tiến tới, thối lui tức là đi đi lại lại.

Cũng châu âm trên là cung.

Cung ngạnh ngược lại âm cổ hạnh sách Tập Huấn cho rằng: Ăn xương cá đâm mắc trong cổ họng gọi là ngạnh theo ý nghĩa của Tả Truyện là trong lòng này tình có đi có ở lại tiến thối, cho nên gọi là cũng ngạnh ngạnh là mắc nghẹn.

Da tử ngược lại âm dã sa chữ chỉ rằng: Da tử là tên của trái cây ở phương nam, xuất ra từ đất Giao Chỉ tên cây này gọi là da cây cao mười trượng, lá trong thân ngọn cây, trái thật giống như trái bầu lớn trị, được đói dùng được khát, theo Thanh Loại cũng cho rằng: Tên của quả tức trái dừa, loại trái này vỏ rất cứng, có thể làm dụng cụ, vỏ cây có thể làm dây cứng chắc bền, chữ viết từ bộ mộc chữ hình thanh.

Tân lang âm trên là tân âm dưới là lang Bì Thương cho rằng: Tên của quả. Quả này giống như ổ tò vò nhỏ, có thể ăn sống có thể xuất hơi, xuất từ giao quảng, tên của quả này gọi là tân lang, tức là cây cau, quả cau, giống như cây quế mùi rất thơm, khi trổ bông dài như bông lúa mạch đều là chữ hình thanh.

Chư căn ngược lại âm trữ như sách Thuyết Văn cho rằng: Chư tức cây mía, nay lại chẳng phải vật này, giá tức là cam giá người ta có thể ăn cả mộng và rễ, không thể cắn nổi theo truyện cho rằng: Chư là rễ cây rõ ràng chẳng phải cam giá, theo bản thảo tự trữ gọi là thổ chư cũng gọi là tên khác của núi Vu tức là Vu Sơn, gọi khác nữa là táng dự trữ là người thôn dã gọi là thổ chư Ngọc Thiên cũng cho rằng: Nói không có nghi ngờ gì.

Sự nhẫn ngược lại âm truy sự sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy mũi kiếm mà đâm vào người, sách Sử Ký cho rằng: Không dám lấy mũi kiếm mà đâm vào trong bụng, hoặc là viết chữ sự tức là mũi dao chữ hình thanh.

Tảng tử ngược lại âm trên tác lang tên của cây. Tức là cây dâu tằm ăn, sách Anh Hoa Tập giải thích: Việc sinh sống của con người chỉ làm ruộng, nuôi tằm, vua ra lệnh phải cày ruộng trồng lúa, rồi sau đó cũng phải thân cận gần gũi với việc trồng dâu nuôi tằm cho bá tánh vạn dân, văn cổ viết từ ba bộ triệt viết thành chữ tang dưới là bộ mộc sách Tiểu Triện biến ra bộ triệt là chữ tảng âm tảng là âm nhược nay lệ sách tục dùng từ bộ hủy viết thành chữ tảng từ sai, ngược lại âm dưới tư tử sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tử là ghế dựa, Quách Phác chú giải rằng: Tức là cây thu, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cây tần lật làm ghế dựa, cây đồng tử gỗ là cây đàn, nói đây là làm đàn sáu dây, đều có thể làm cây đàn, Văn Tự Điển nói tử tức là tử thu, chữ viết từ bộ mộc đến bộ tân thanh tĩnh hoặc là viết chữ này cũng thông dụng.

Tế dĩ ngược lại âm tế tề Quảng Nhã cho rằng: Tế là tặng cho, Cố Dã Vương nắm giữ, sách Hoài Nam Tử giải thích: Chăm sóc, lấy tài năng dẫn dắt cứu tế, cứu giúp, một bổn khác Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Dự bị đầy đủ, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Dùng tài năng khéo dẫn dắt đi trên đường, hoặc âm là tư sách Lễ Ký cho rằng: Giải thích dùng cũng đồng, gọi là xem sính lễ tới hỏi thưa những việc cần dụng cứu giúp, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ di vật chữ viết từ bộ bối thanh tề nay tục dùng viết chữ tế.

Khống thông ngược lại âm trên không cống ngược lại âm dưới tông lộng theo chữ khống thông giống như ngựa chạy mau.

Thiền khuê ngược lại âm huệ khuê Tần Hiếu Công lấy hai trăm bốn mươi (240) bước làm một mẫu, năm mươi mẫu làm một khuê, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khuê giống như là khu sách Thuyết Văn cho rằng: Năm mươi mẫu, chữ viết từ bộ điền thanh khuê.

Khu quan ngược lại âm trên xướng du sách Khảo Thanh cho rằng: Chỗ cánh cửa xoay chuyển, Quảng Nhã cho rằng: Khu là then cài cửa, gọi khác là chỗ chủ động mở đóng, chốt cửa, tục gọi là khuỷu cửa, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh khu Văn Truyện viết từ bộ thủ là chẳng phải ngược lại âm khẩu câu.

Hoan hoa âm trên là huyên văn cổ viết hoan âm dưới là hoa trong âm nghĩa quyển trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Tha thiền sư ngược lại âm sang hà sắc ngọc đẹp trong bóng tươi tốt, tên của Lương Triều Cao Tăng.

Định liễm ngược lại âm liêm nhiễm sách Khảo Thanh cho rằng: Bãi nước cạn mà lại trong sạch gọi là liễm nói rằng cái tâm luôn luôn nhận biết, thận trọng giống như nước có chút gợn sóng gọi là định liễm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh liễm.

Tiển uyển ngược lại âm tiết diên Thích Danh giải thích: Già mà không chết gọi là thiên Quảng Nhã giải thích: Hóa ra lông vũ gọi là tiên sách Thuyết Văn cho rằng: Mạnh sống lâu dài mạng trường, hoặc là viết chữ tiên.

Mỗi xuyết ngược lại âm chuyển liệt sách Bát Nhã giải thích rằng: Xuyết là cắt bỏ, nói là trừ bỏ giảm bớt y bát dư, chuyển thí cho người nghèo và tu công đức, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh xuyết âm xuyết đồng với âm trên. Trong truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ xuyết là chẳng phải nghi nên sửa chữa lại.

Yên hà ngược lại âm y hiền sách Khảo Thanh cho rằng: Khói lửa bốc hơi lên, theo chữ yên này là che, chẳng là phải khói lửa, gọi là trông ra núi xa và bầu trời sắc xanh ngưng đọng lại giống như khói, ngược lại âm dưới hạ da sách Tập Huấn giải thích là Hà rán trời mây màu đỏ, theo mặt trời mới vừa mọc, ánh sáng chiếu, bên phải, bên trái mây màu đỏ bên mặt trời, hoặc là màu vàng, hoặc màu đỏ gọi là chiêu hà, Tăng Truyện gọi là lớp lớp mây khói, Dật Chí gọi là rừng mây đưa tâm theo vui chơi với ngoại cảnh, cảnh vật hữu tình.

Lưu đệ âm đệ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhìn trong khoảnh khắc, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Trần Sở và Nam Sở gọi liếc nhìn là đệ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mục thanh đệ.

Bài tuấn ngược lại âm trên bại mai Quảng Nhã cho rằng: Bài là đẩy ra xô đẩy ra, ngược lại cũng âm tha lôi chữ viết từ bộ thủ thanh chuy Văn Truyện viết từ bộ nhân viết thành chữ bài là chẳng phải, là bài ưu tức là làm trò vui, chẳng phải đây dùng, ngược lại âm dưới tôn tấn sách Vận Anh cho rằng: Tài năng vượt hơn ngàn người gọi là tuân sách Tập Huấn giải thích rằng: Bậc hiền nhân vượt hơn trăm người gọi là tuấn sách Thuyết Văn cho rằng: Giải thích cùng với trên cũng đồng, chữ viết từ bộ nhân thanh tuấn âm tuấn ngược lại âm thất tuần trong truyện viết từ bộ nhân viết thành chữ tuấn cũng thông dụng giải thích cũng đồng trên chữ viết từ bộ nhân đến bộ chuy.

Nghi nghi ngược lại âm ngưng cước sách Tập Huấn giải thích rằng: Nghi là ngọn núi cao chót vót, chữ viết từ bộ sơn thanh nghi âm trực ngược lại âm sừ lực.

Giác thụ sơ lục ngược lại âm lăng chúc bắt đầu mùa xuân cảnh sắc hoa cỏ màu xanh mướt rất dễ thương, thích thú, Văn Truyện viết chữ lục là chẳng phải, nhìn xem lá xanh của cây bồ đề.

Phong sử ngược lại âm sư sử Thiên Thương Hoét ghi rằng: Con ngựa chạy mau, mau như gió ngựa lướt qua, đây sách Tập Huấn giải thích: Sử là chữ chỉ nghĩa như nước chảy cuồn cuộn, chữ hình thanh.

Côn lôn ngữ âm trên là côn âm dưới là luân khi quen dùng là ngữ tiện dùng cũng gọi là cốt luận cho rằng: Trong đảo Nam Hải Châu có bộ tộc cởi trần thân thể rất đen, có thể thuần phục mảnh thú, giống như con tê giác v.v... chủng loại này tức là trong luật Tăng kỳ nói: Đột di cốt, đường hợp miệt v.v... đều là giống người hạ tiện, trong quốc độ vô lễ nghĩa, cướp đoạt làm nghề sinh sống, thích ăn thịt người ác như quỷ La-sát, nói ngôn ngữ kỳ lạ nơi các thổ phồn, giỏi, hay vào trong mà lại không chết.

Tấn lịch ngược lại âm trên lực chấn ngược lại âm dưới linh đích sách Thượng Lâm Phú cho rằng: Là chỗ bánh xe lăn, tiếng xe kêu xình xịch, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chỗ chiếc xe lăn bánh, xe nghiền cán nát, sách Thuyết Văn cho rằng: Chiếc cán lên đều là chữ hình thanh.

Hàm trượng âm trên là hàm hàm là dung chứa, gọi là lời tự xưng trong thư, hỏi thăm của học sinh đối với thầy, bao gồm văn đầy đủ ý nghĩa chỉ thư từ, hoặc là viết chữ vị trượng.

Kế chủng ngược lại âm chung dũng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chủng là gót chân, hoặc là viết từ bộ chỉ viết thành chữ chủng cũng được.

Thê đăng ngược lại âm trên lễ hề ngược lại âm dưới đăng đặng sách Vận Anh cho rằng: Có thể bước lên, tức là cây thang, thềm bực.

Chu lô âm lô sách Hán Thư cho rằng: Trước đầu mũi thuyền, chỗ cắm mái chèo, sách Khảo Thanh âm lữ trừ gọi là đuôi thuyền, sách Thuyết Văn cho rằng: đầu thuyền, chữ hình thanh.

Ly-chi-mao-vỹ ngược lại âm noản bao ở bộ tộc Tây Nam Di có loại bò có lông đuôi rất dài, hoặc là viết từ bộ mao viết thành chữ ly cũng thông dụng, trong Văn Truyện viết chữ miêu là sai.

Tù thiền ngược lại âm trên tựu do kinh Sơn Hải nói rằng: Tù là loại cá giống như cá tràu đô, loại cá thân dài hai thước mà có tới sáu cái đầu, hoặc là từ bộ sản viết thành chữ tù âm dưới là thiện Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Thiền là loại có giống như con rắn, thân hình nó (836) trơn giống như con giun đất, tức là con lươn, lịch, gọi thiền cá lươn.

Ngược phế ngược lại âm thất mỵ sách Tập Huấn giải thích: Phế là phối hợp sách Vận Thuyên cho rằng: Sánh đôi ngang nhau, đẹp ngang nhau, chữ viết từ bộ nữ thanh tỳ âm tỳ là âm tỳ.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn

QUYỂN 82

- Bên phải nhất ký mười hai quyển đồng với âm quyển này.

- Bí Thư Trước Tát Lang Kính Duyệt Tựa.

- Tây Vực Ký Tựa.

Bất ký ngược lại âm kỳ ký Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ký là đến, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thả thanh ký cũng viết chữ tuyền.

Thái âm ngược lại âm tập tâm tên họ người.

Yểm thụ ngược lại âm trên yểm diểm ngược lại âm dưới thù chủ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Yểm là tạng chứa tinh khí đã bị bế tắc, nay gọi là quan nhân, sách Thuyết Văn cho rằng: Thụ là người trong cung chiều tối đóng cửa, tức là quan thái giám, chữ viết từ bộ môn thanh yểm chữ thụ từ bộ kiên thanh đậu Văn Tựa viết chữ thụ tục tự dùng thông dụng.

Thành hấn ngược lại âm tượng cận Giả Quỳ chú giải rằng: Hấn là điềm nói báo trước sẽ có tai họa, Đỗ Dự chú giải viên ngọc có chỗ khuyết, khe hở, bẩn nhớp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hấn đến bộ dậu chỗ gọi là lấy máu của con vật dùng để tế tranh chấp, hiềm khích, đến thanh phân Văn Tựa viết chữ hấn tục tự dùng thông dụng.

Khôi cương ngược lại âm khổ hồi Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khôi là to lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh khôi Văn Tựa viết chữ khôi là không thành chữ, ngược lại âm dưới cư lương theo Mao Thi Truyện giải thích: Cương là biên giới, Cốc Lương Cảnh và sách Tiểu Nhã cho rằng: Vùng biên giới chật hẹp, Quách Phác chú giải rằng: Là chủ chiến trường ngoài biên thùy, sách Thuyết Văn viết từ bộ lỗi bộ tam gọi là biên giới, hoặc là từ bộ thổ viết thành chữ cương.

Quyến tây hải ngược lại âm trên quyết Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quyến là nhìn, Thi Truyện cho rằng: Cố nhìn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh quyến hoặc là viết chữ quyến Văn Tựa viết chữ quyến tục tự thường hay dùng.

Trữ trục ngược lại âm trên trừ lữ ngược lại âm dưới trùng lục Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Không có hàng hóa khác chỉ tơ lụa dây gai, nay gọi là khung dệt, trục xe không làm chuyển động, sách Phương Ngôn cho rằng: Trữ trục là làm máy dệt, Đông Tề thổ dân gọi là thoi dệt bằng gỗ là trục sách Thuyết Văn cho rằng: Máy dệt, chữ viết từ bộ mộc thanh dư.

Trường vụ ngược lại âm vô phó Quách Phác chú giải rằng: Vụ là đánh ngựa cho nhanh, Cố Dã Vương cho rằng: Ngựa chạy nhanh. Sách Sở Từ cho rằng: Bổng nhiên con ngựa vùng lên chạy đuổi theo, Quảng Nhã cho rằng: Chạy sách Thuyết Văn cho rằng: Chạy loạn chữ viết từ bộ mã thanh vụ.

Sàm sang ngược lại âm trên xoa hàm ngược lại âm dưới sách canh tên của yêu tinh.

Sài lang ngược lại âm trên sĩ giai âm dưới lang.

Quỉ vực ngược lại âm vu bức Mao Thi Truyện ghi: Là quỉ là vực tức tâm địa độc ác, theo truyện ghi: Loài chồn cáo đuôi ngắn, Lưu Triệu cho rằng: Hình trạng nó giống như con rùa lưng có mu, đầu có sừng, cánh bay được, mắt không có nhưng tai rất rõ, trong miệng có vật hình như nõ, nghe tiếng người dùng khí làm tên bắn cát vào người, người bị bắn trúng bị thương, bắn trúng vào bóng người cũng bị bệnh, làm hại người, sách Thuyết Văn ghi có ba chân lấy hơi mà bắn ra hại người, chữ viết từ bộ trùng thanh hoặc.

Chi khư ngược lại âm khứ dư theo Thanh Loại cho rằng: Chỗ ở chắc chắn Giả Quỳ chú giải rằng: Hư giống như lái hầm, xưa nay Chánh Tự giải thích: Đất đã hủy diệt không có ngõ sau, bãi tha ma, chữ viết từ bộ thổ thanh hư.

Cảo nhai ngược lại âm cao lão âm dưới giai trong quyển Trung Nghĩa đã giải thích trước rồi.

Để thù tục ngược lại âm trên đinh lễ sách Khảo Thanh cho rằng: Để là quay về, chống đỡ, tóm lược là đến, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng sức mà ép, chèn ép, chữ viết từ bộ thủ thanh để âm tế ngược lại âm tử hề.

Sậu tỷ ngược lại âm sầu cứu Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Sậu là nhiều, Giả Quỳ giải thích rằng: Chạy nhanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mã thanh tụ ngược lại âm dưới tư tử Cố Dã Vương cho rằng: Tỉ là dời, di chuyển, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ tỷ gọi là dời đổi, chữ viết từ bộ xước thanh chỉ văn cổ viết chữ tỷ.

Khải diệu giác ngược lại âm trên khê lễ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khải là mở cửa, Trịnh Huyền chú giải rằng: Chỗ phát ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ hộ viết thành chữ khải.

Bất khuy ngược lại âm khuê quy Văn Ký lại viết chữ khuy tức là trộm nhìn tục tự thường hay dùng.

Giới vu ngược lại âm giai giới Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Giới là đến, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Giới là nhà phòng nhà, sách Thuyết Văn viết từ bộ thi thanh do.

Đốn tảng ngược lại âm trên đôn khổn ngược lại âm dưới tang lãng sách Phương Ngôn ghi: Tảng là cái trán, theo chữ đốn tảng đó cúi đầu sát đất, Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Như nay người ta gọi là khấu đầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh tảng.

Thê sơn ngược lại âm trên thể hề.

Phụng tẫn ngược lại âm tần nhẫn Thiên Thương Hoét ghi: Tài vật vải vóc, sách Thuyết Văn cho rằng: Lễ hội chữ viết từ bộ bối thanh tẫn âm tẫn ngược lại âm từ dẫn.

Ốc tiệm ngược lại âm trên ách học sách Tập Huấn ghi: Ốc là nắm giữ, ngược lại âm dưới tàm cảm Thích Danh cho rằng: Thẻ tre dùng để viết chữ, bản gỗ dùng để khắc chữ in, dài ba thước, sách Thuyết Văn ghi bản khắc chữ để in, chữ viết từ bộ mộc thanh trặm.

Nhất trật ngược lại âm trần lật cũng viết chữ trật hoặc là viết chữ trật.

Tỏa từ ngược lại âm trên tư quả Mao Thi Truyện cho rằng: Tỏa là vụn vặt, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tỏa là dụng cụ chứa vật vụn vặt, cư kỹ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngọc thanh tỏa âm tỏa đồng với âm trên.

Thích thính ngược lại âm trên đinh lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thích là xa xôi, sách Thuyết Văn ghi: Nghĩa cũng đồng, thích thích là nghe xa, chữ viết từ bộ xước thanh địch văn cổ viết từ bộ dịch viết thành chữ thích ngược lại âm đinh tính.

Khải trạch ngược lại âm trên khai cải Quảng Nhã cho rằng: Là to lớn.

Miến duy ngược lại âm trên miên diễn Giả Quỳ cho rằng: Miến là tưởng nhớ, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh diện.

Thanh linh ngược lại âm lịch đinh Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thanh linh là dịu mát, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh linh.

Tài hối ngược lại âm khôi ổi sách Khảo Thanh cho rằng: Vải vóc tơ lụa gọi là hối hoặc là viết chữ hối đã giải thích đầy đủ rồi, văn trước trong quyển Trung Âm Nghĩa.

Quảng cao âm trên cổ mảnh sách Thuyết Văn cho rằng: Quảng là luy hãn dữ tợn, con chó hung dữ không thể đến gần, chữ viết từ bộ khuyển thanh quảng ngược lại âm dưới bao báo viết đúng từ bộ xuất viết thành chữ cao sách Khảo Thanh giải thích: Cao xâm phạm vào, mau chóng, nay trong văn ký viết từ bộ mễ viết thành chữ cao tức là phơi thóc gạo cho khô chẳng phải nghĩa đây dùng.

Xế trướng ngược lại âm trên xỉ nhuế Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Xế là mềm lông mịn, Trịnh Chúng chú giải rằng: Xế là áo vải nhung Quách Phác chú giải rằng: Xế là vật để che, sách Thuyết Văn cho rằng: Xế là lông thú mịn, chữ viết từ bộ mao ngược lại âm dưới trương lượng.

Cùng lô ngược lại âm trên khưu cung Quách Phác chú giải rằng: Bầu trời hình bầu khum, hang hốc bởi vậy gọi là tên, ngược lại âm dưới lữ cư Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lô là nhà, Mao Thi Truyện cho rằng: Lô là trọ, sách Hà Đồ nói rằng: Hoàng đế làm nhà này để tránh nóng và lạnh, theo chữ cùng lô đó là người Phiên Nhung lấy vải thưa làm lều che trên đỉnh cao hình tròn như bầu trời cao mà to lớn, cho nên hiệu là cùng lô. Dành cho vua và thủ lãnh ở, có thể chứa hơn trăm người, thứ phẩm, tức thường dân cả nhà cùng ở một chỗ gọi là lô hành, tức là lạc đà mang vác, lều vải để che vậy.

---------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ

Tam Tạng Sa-môn Huyền Trang Phụng Sở soạn dịch.

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 1 BA MƯƠI BỐN NƯỚC

A-kỳ-ni-quốc ngược lại âm kiết y tiếng nói nước Hồ, hoặc xuất ra từ yên kỳ âm kiết ngược lại âm cự ất.

Khuất chi quốc âm trên là quân vật tức là nước Tây Quy tư. Bạt-lộc-ca-quốc ngược lại âm bàn mạt.

Nô-xích-kiến-quốc âm nổ.

Giả thời quốc ngược lại âm chi dạ tức là nước Đại Thực.

Phiên hản quốc ngược lại âm phiên phát âm dưới là hạn cũng tên

Bạt-hạ-la-quốc.

Tốt-đỗ-lợi-sắc-na-quốc ngược lại âm trên tôn nột âm kế là đổ. Táp-mạt-kiến-quốc ngược lại âm tảng táp âm kế là mạt là âm mạt.

Nhĩ-mạt-hạ-quốc.

Kiếp-bố-đát-na-quốc âm đát ngược lại âm đan hạt. Sương-nhĩ-già-quốc sương là lấy thanh khứ, hoặc thượng thanh, âm nhĩ ngược lại âm ninh đĩnh âm già hoặc là viết chữ ca cũng là thông dụng.

Khát quốc bổ khát quốc.

Đại địa quốc Hóa-lợi-tập-di-già-quốc. Yết-sươngna-quốc.

Tự mật quốc.

Xích-ngạc-diễn-na-quốc ngược lại âm ngũ các. Hốtlộ-na-quốc.

Du mạn quốc mượn âm, chữ ghi trong tự âm. Cúchòa-diễn-na-quốc.

Hộ sa quốc ngược lại âm hoàng quách. Kha-đốt-laquốc ngược lại âm khả hà.

Câu-mê-đà-quốc âm câu là âm câu ngược lại âm dưới mê bế. Phược-già-lãng-quốc ngược lại âm lập cẩm.

Phược khác quốc. Nhuế-mạt-đà-quốc.

(837) Hồ thực kiến quốc âm thực ngược lại âm thừa lực. Tự lạt kiện quốc ngược lại âm lặt hạt.

Yết chức quốc âm yết là âm yết.

Phạm điển na quốc, Ca tất thí quốc trên đây là hai nước là Bà-la-môn ba mươi bốn nước này là Tạm Tạng đã trải qua con đường, kế đó tất là gọi nước Hồ Hiệu cũng là Hồ Ngữ, không phải tiếng Phạm, nay chỗ gọi là âm chữ nhưng lại lấy thanh này, lấy âm lưỡng hồ ngữ, không cầu chữ nghĩa nước này nhân đụn cát nổi lên ở quận Đông Châu, không nói đó là Đường Quốc, trong nước mỗi mỗi tự riêng biệt, có nước này ghi những đụn cát lớn tự nổi lên phía tây đó là nói nước này phồn di, khu đất này người ta lấy phong vật làm sự sinh sản cùng với đây không đồng, cho nên sách không ghi chép.

A-kỳ-ni-quốc nước thứ nhất hai đụn cát nổi lên phía tây, âm kỳ là âm kỳ xưa gọi là anh di hoặc gọi là ô di hoặc gọi là ô kỳ tức là trong thị trấn An Tây, trong nước này, một trấn Tây mà đi đến An Tây bảy trăm dặm, thời nhà Hán lầu các nguy nga lộng lẩy có những thành như Lâu Lũy Thiện, Thiện Nguy Ban, Ô Lê v.v... đều trong vùng đất này, hoặc là dời chuyển đô thành sửa lại ấp. Hoặc là ở trong thành này, hoặc là trụ thành kia, hoặc là cùng nhau thôn tính xâm chiếm tiêu diệt lẫn nhau, cho nên có nhiều tên gọi đều là tương lân cận gần gũi với nhau, nay hoặc gọi là vùng đất khưu lô.

Mi thử ngược lại âm trên mị bì sách Khảo Thanh cho rằng: Mi là loại lúa ít dẻo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thử đến bộ mi thanh tĩnh nay tục dùng hoặc là viết từ bộ hòa đến bộ ma đều là chẳng phải, Tự Thư cho rằng: Loại lúa thử giống như lúa thử mà không dẻo, hoặc là tế hạt trắng, vàng đỏ, đen khác nhau đều có thể nấu cơm ăn được.

Khuất chi quốc ngược lại âm trên quần vật xưa gọi là nguyệt chi hoặc gọi là nguyệt thị hoặc gọi là khuất thứ hoặc gọi là ô tôn hoặc gọi là ô lũy theo Phiên quốc thì rất nhiều bởi vì khi mà đặt tên, hoặc là theo vùng đất, theo thành mà đặt xưng tên, nay thuộc vùng đất của nước Quy Tư, nước An Tây, như trên có nhiều tên gọi nhưng không lìa trong nội cảnh giới của nước An Tây.

Biển đệ ngược lại âm trên biên biện ngược lại âm dưới thể hề Thống Tự cho rằng: Biển đệ là mỏng dẹp lại rộng hai chữ đều từ bộ phương âm phương là âm phương cũng có viết từ bộ hán viết thành chữ biển đệ hoặc là từ bộ xước viết thành chữ bức đệ đều chẳng phải, từ bộ phương mà viết mới là đúng.

Lung lệ ngược lại âm trên là lung chung âm dưới là lệ theo nghĩa kinh thì lung lệ là cứng cởi can cường khó mà điều phục gọi là lung lệ, chữ lệ từ bộ khuyển bởi vậy khi mà có người dịch kinh ra văn ngữ là lấy ý để viết, lúc lấy dùng phải hợp thời, Tự Thư cho rằng: Trước không có chữ này.

Tiều loại ngược lại âm trên là tật diệu sách Vận Thuyên cho rằng: Tiều là nhai, cắn răng trên, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khẩu thanh tiều.

Hiển xưởng ngược lại âm xương chưởng sách Vận Thuyên cho rằng: Xưởng là rộng lớn Thiên Thương Hoét cho rằng: Cao hiển, sách Thuyết Văn cho rằng: Nằm trên đồi đất cao bằng phẳng có thể trông ra xa, chữ viết từ bộ phộc âm phộc ngược lại âm phổ bốc thanh thượng.

Kỳ ngãi ngược lại âm trên kiết y theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Kỳ là to lớn, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kỳ là lâu dài, sách Lễ Ký giải rằng: Sáu mươi tuổi gọi là kỳ sách Thuyết Văn ghi: Người già chữ viết từ bộ lão thanh chỉ ngược lại âm dưới ngũ cái sách Lễ Ký nói: Năm mươi tuổi gọi là ngãi sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ngãi là nuôi dưỡng, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa nước Tề Lỗ Phàm Tôn Lão người già là ngãi sách Thuyết Văn cho rằng: Đóng thành băng tuyết, chữ viết từ bộ thảo thanh Hưu âm kiết ngược lại âm cự ất.

Bạt lộc ca quốc ngược lại âm trên bàn mạt nước này xuất ra thảm nhung trắng mịn đẹp, thảm nhung trên làm thảm trải đất, ở gần với Trung Hoa. Trong thời đó người ta lấy hiệu là Mạt Lộc Điệp nhưng kỳ thất là vải bố thưa, xem xét kỹ nói là địa chí bao gồm địa danh địa chí. Thảm liệt ngược lại âm trên thố cảm sách Phương Ngôn cho rằng: Thảm là nhận biết cảm thấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Thảm độc, chữ viết từ bộ tâm thanh thảm ngược lại âm dưới liên triết cũng viết chữ liệt.

Giả y ngược lại âm trên giá dã Quách Phác chú giải rằng: Giả đó là màu đất đỏ, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Nam Sở và Đông Hải hoặc gọi màu đỏ là giả nói cái áo màu đỏ như đất đỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ xích thanh giả.

Cốt hốt ngược lại âm trên cổ bút Hán Thư âm nghĩa giải thích rằng: Cốt là nước chảy cuồn cuộn, sách Phương Ngôn cho rằng: Nước chảy mau, xưa nay Chánh tự viết từ bộ thủy thanh viết ngược lại âm dưới ôn cốt sách Khảo Thanh cho rằng: Hốt là vở đê nước chảy tràn ngập.

Thô hữu ngược lại âm trên tồ cố.

Khuông khiếp ngược lại âm trên khưu vương Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khuông là sợ sệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Khiếp sợ, chữ viết từ bộ tâm thanh khuôn âm khuôn đồng với âm trên, ngược lại âm dưới khương nghiệp.

Nguyên thấp ngược lại âm tầm lập Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thấp là bên ao nước ẩm ướt, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đất phía dưới ẩm ướt gọi là thấp Quảng Nhã cho rằng: Thấp là đất vách tường ẩm ướt.

Cao du âm trên là cao âm dưới là du.

Táp-mạt-kiến-quốc âm trên tam hợp âm dưới là mạt. Nhị-mạt-giá ngược lại âm mật tỳ.

Khát hãn quốc ngược lại âm trên ha át ngược lại âm dưới hạn. Khi khu ngược lại âm trên ỷ nghi ngược lại âm dưới khúc ngung. Tiêu tuấn ngược lại âm trên sang tiều sách Thuyết Văn cho rằng:

Viết chữ tiếu gọi là núi cao, mà dốc, chữ viết từ bộ phụ thanh tiếu trong văn ký viết chữ tiếu tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới cẩu tuấn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tuấn là to lớn, sừng sửng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cao mà dốc chữ viết từ bộ sơn thanh tuấn chữ viết đúng thể.

Mô dạng ngược lại âm trên mạc bổ ngược lại âm dưới dương thượng.

Tiên thiếu ngược lại âm trên tiên tiện viết đúng là chữ tiên cũng viết chữ tiên.

Kha-đốt-la ngược lại âm trên khả hà âm giữa đôn cốt. Mông kiện quốc ngược lại âm mạc băng thổ ngữ nước Hồ. Hột lộ âm trên là chữ hận nhập thanh tức là vậy.

Hốt bẩm ngược lại âm lập cẩm hồ ngữ, không cầu chữ nghĩa.

Huyền diệu ngược lại âm huyền luyện ngược lại âm dưới diêu yếu huyền diệu đó là ánh sáng chiếu rực rỡ muôn màu, muôn sắc không định được, chữ diệu từ bộ quang đến bộ hỏa viết thành chữ diệu là chẳng phải.

Tảo trửu ngược lại âm chu dậu sách Thuyết Văn viết chữ trửu từ bộ hựu tức tay cầm nắm đện cân tức là cái khăn, tức là lau quét trong ngoài sạch sẽ, âm mịch ngược lại âm quý ninh xưa đó Thiếu Khang ban đầu viết chữ cơ trửu lại viết chữ thuật tửu Thiếu Khang tức là Đỗ Khang chữ trửu tức là nay viết chữ tảo trửu hoặc là từ bộ trúc viết thành chữ trửu tục tự dùng cũng thông dụng.

Tốt-đổ-ba tiếng Phạm, ngược lại âm trên tôn cốt âm kế là đổ tức là tháp thờ Xá Lợi, cũng gọi là Bát-phù-đồ.

Thời chúc hoặc là viết chữ chúc là chiếu sáng.

Phúc thấu âm trên là phúc ngược lại âm dưới sang hầu sách Vận Anh ghi: Phúc thấu là chụm lại, châu đầu lại, chỉ các đầu tăm xe tụ tập lại vào bầu chứa trục xe cũng ý chỉ người đông đúc, cũng có viết từ bộ thủy viết thành chữ thấu đó là sai.

Phỉ giải âm giới nhược âm giá giả cũng chẳng phải chỗ này, sách Thuyết Văn nêu lên gọi là ba lợi, nhị Tưởng giả cúng hiến, ngũ cốc khô đường mật cho Đức

Phật thọ dụng, cùng với tóc, móng tay khiến tháp nổi mà cúng dường, bởi vậy mới thưa hỏi như thế nào mà Đức Như Lai làm may ba y, làm che kín gót chân, che cái bình bát nơi y trên, Là thân tháp đứng thẳng cây tích trượng dựng một bên là tướng Luân của nhị Trưởng giả, đem tóc và móng trở về bổn thành, các tháp nổi lên, nay giống như đã thấy là tháp Phật, ban đầu khiến cho tạo tháp ở vùng đất này, tức nơi biên giới phược khác quốc.

Hồ thực kiên ngược lại âm thừa lực hồ ngữ.

Khao giác ngược lại âm trên xảo giao ngược lại âm dưới khổ giác Cố Dã Vương cho rằng: Khao là cứng, đất cứng cằn cổi, bạc mỏng không thích nghi gieo ngũ cốc, sách Thuyết Văn cho rằng: Khao giác là viên đá lớn, sách Khảo Thanh cho rằng: Đất cằn cỏi bạt mỏng ruộng cằn cổi, đều là chữ hình thanh.

Yêu tụy ngược lại âm tuất tụy quy tạng giải thích: Tụy là trong tư mạng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thần gây họa, chữ viết từ bộ thị đến bộ xuất chữ hội ý.

Bỉ tiết ngược lại âm trên bi mỹ Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Bỉ là đất hẻo lánh ở vùng biên giới, vùng biên giới hoang vu, không thể phát triển đó gọi là bỉ sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh bỉ ngược lại âm dưới điềm hiệp trong sách Tây Vực ghi rằng: Chữ tiết này từ bộ chấp dưới từ bộ y viết thành chữ tiết nói bỉ tiết là không phân rõ ràng cùng lân cận phương bắc, các bộ tộc Hồ vùng biên giới hẻo lánh còn bỉ lậu, quê dốt chất phác, xấu tệ, trong núi Tuyết Sơn cũng thấy thuộc nước tương cận nước Đỗ Hóa La, biên giới bắc Thiên Trúc.

Uy nhiếp ngược lại âm dưới chiêm diệp nhiếp là sợ sệt.

Bần lũ ngược lại âm càu vũ Mao Thi Truyện cho rằng: Suốt ngày cực khổ lam lũ mà lại nghèo khổ, theo truyện cho rằng: Chỗ ở không có lễ nghĩa, nghèo không có tài vật làm lễ gọi là lũ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Gọi thô lậu bại hoại.

Quan quả ngược lại âm trên cổ ban sách Lễ Ký ghi: Già mà không có vợ gọi là quan sách Quốc Ngữ nói: Lấy vợ không đúng thời gọi là quan, Thích Danh cho rằng: Buồn bã không thể ngủ được, mắt mở như con cá mở mắt, cho nên chữ quan viết từ bộ ngư mắt của con cá thường là không có nhắm, đến bộ quan âm quan ngược lại âm đàm hợp sách Thuyết Văn ghi: Mục tương phản cũng là nghĩa cô đơn, đơn độc một mình, chữ hội ý, ngược lại âm dưới cổ ngõa Mao Thi Truyện cho rằng: Biến thiên gọi là quả sách Lễ Ký ghi: Già mà không lấy chồng gọi là quả Quảng Nhã cho rằng: Quả là cô độc, yếu mềm, sách Thuyết Văn cho rằng: Ít ỏi, thiếu vắng, chữ viết từ bộ miên dưới từ bộ ban ban là phân chia tài sản cho nên nói là ít ỏi.

Hoằng xưởng ngược lại âm xương dưỡng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Cao thoáng mát hiển lộ lên, sách Thuyết Văn ghi: Đồi đất cao bằng phẳng, có thể nhìn ra xa, chữ viết từ bộ phộc thanh thượng sách Vận Thuyên cho rằng: Rộng lớn.

Tham lam ngược lại âm lãm đam sách Khảo Thanh cho rằng: Tham tàn, không thận trọng thanh khiết, âm dưới nhân trá gọi là dối trá, gạt người, nói kinh nghiệm nhỏ bé, hoặc là từ bộ tâm viết thành chữ lam lại cũng viết chữ lam âm cũng đồng, giải thích cũng đồng một nghĩa.

Trâu-la-na-tứ-sơn ngược lại âm trên sĩ vu ngược lại âm dưới linh dị tiếng Phạm, có bổn văn viết Thô-la-naải ngược lại âm y kế tiếng Phạm chuyển đọc sai.

Phú đào ngược lại âm đào đáo theo Tả Truyện cho rằng: Giống như bầu trời không có nào là không che phủ Đỗ, Dự chú giải rằng: Đào là che đậy, sách Phương Ngôn cho rằng: Đào là che chở bao trùm, Quách Phác chú giải rằng: Che chở hai nghĩa đều thông dụng, sách Thuyết Văn cho rằng: Che trùm bao phủ, chiếu khắp.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 2 TAM QUỐC

Tả lỗ ngược lại âm trên tinh diệc hoặc là viết từ bộ thủy viết thành chữ tả sách Khảo Thanh cho rằng: Đất mặn, sách Vận Thuyên cho rằng: Ruộng muối, hoặc là viết chữ trách trách lựa chọn, bởi vậy người ta nói vất bỏ cho xa, quăng ném cho xa gọi là trách lở âm dưới là lở nghĩa giải thích cũng đồng như trên.

Trù lung ngược lại âm trên trường lưu sách Thuyết Văn cho rằng: Cày ruộng sửa đất, giống như cày ruộng có những đường rãnh cong queo chữ hình thanh ngược lại âm dưới là lung dũng.

Cao du âm trên là cao ngược lại âm dưới dực chu.

Nguyệt khuy ngược lại âm khuất vi sách Thuyết Văn cho rằng: Hao tổn, chữ viết từ bộ hổ âm hổ là âm hồ đến bộ ô hoặc là từ bộ hề.

Hoàn hội ngược lại âm trên là hoàn Quảng Nhã cho rằng: Hoàn là ngoài đường, ngược lại âm dưới là hội xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hội là ngoài cổng chợ chỗ chợ búa, đều là chữ hình thanh.

Chuyên kích âm trên là chuyên âm dưới là kinh diệc chữ hình thanh.

Suy lữ ngược lại âm trên suất truy Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Suy là rui nhà, sách Thuyết Văn cho rằng: Đời Tần gọi là rui nhà, đời Chu người ta gọi rui nhà là suy Tề Lỗ gọi là giác nay người nước Sở cũng gọi là giác âm dưới là lữ Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Lữ là mái hiên nhà, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây sà ngang gác trên cửa, cũng gọi là dính liền với nhau, nối tiếp nhau. Nay trong nước Tần gọi ngoài chái, mái hiên che bao quanh nhà lớn, gọi là lữ (838) đó là tiếng nói của nước Sở cũng thông dụng, gọi là truyện lữ là mái chái, mái hiên.

Áo thất âm trên là áo sách Nhĩ Nhã cho rằng: Trong nhà góc phía tây nam.

Chiêm y ngược lại âm xương chiêm sách Vận Thuyên cho rằng: Chiêm là vạt áo che phủ đầu gối, ở phía trước rủ xuống, thẳng xuống một bức, cũng gọi là che phía trước.

Thủ-ma ngược lại âm trên châu số tiếng Phạm, lấy dây gai mà làm đó tuy là thô cứng nhưng lại chắc chắn. Khâm-bát-la-y âm trên là khâm tiếng Phạm, gọi là cái tốt dùng lông dê mịn dệt làm y.

Biên y ngược lại âm tất miến sách Nhĩ Nhã cho rằng: Biển y là nóng nảy hấp tấp, sách Thuyết Văn cho rằng:

Chật hẹp, nhỏ bé, chữ viết từ bộ y thanh biển.

Truy kế ngược lại âm trên là trực truy hình giống như dùi sắt.

Tăng-khước-khi chữ khước viết đúng là chữ khước từ bộ tiết âm tiết là âm tiết âm các ngược lại âm cường đệ âm khi ngược lại âm khương nghi, Tăng-khước-khi là tiếng Phạm, Đường Huyền Trang dịch là áo che dưới nách.

Nê-phược-ta-na âm phược ngược lại âm vô hạt ngược lại âm dưới tảng hà tiếng Phạm, gọi Tăngphương-quần xưa dịch là Niết-bàn-tăng.

Đới phan ngược lại âm phổ mạn.

Vi nhiếp ngược lại âm chiêm nhiếp áo lót nhỏ, cũng gọi là quần quấn ngang eo lưng.

Đại cổ âm cổ tục tự thường dùng ngồi một chỗ mà mua bán vật, ngược lại cũng âm da nhã âm giả là chẳng phải, chữ viết từ bộ bối trên đến bộ duệ âm cổ văn cổ viết chữ cổ.

Quán tẩy ngược lại âm trên quan đoản sách Thuyết Văn cho rằng: Rửa tay, chữ viết từ bộ cửu ngược lại âm cung lục đến bộ thủy đến bộ mảnh chữ hội ý, cũng là tượng hình, âm mảnh ngược lại âm minh bỉnh.

Vũ vật âm ngộ sách Vận Thuyên cho rằng: Vũ là nhà trọ.

Chi phái ngược lại âm phách mại gọi là nước tự phân rẽ ra chảy ngã khác, chữ viết từ bộ phái giống như thủy xem sách Thuyết Văn giải trước.

Nghiên hạch ngược lại âm kinh cách sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật, chữ viết từ bộ á âm á là âm giả.

Đề tư ngược lại âm tư hề theo chữ đề tư đó là mỗi mỗi, phân tích khéo léo, nói ra rõ ràng, chữ viết từ bộ thủ.

Bô dật ngược lại âm bổ hồ Quảng Nhã cho rằng: Bô là trốn tránh, Thiên Thương Hoét ghi: Trốn biệt không trở lại, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bô là trốn mất luôn.

Câu chấp ngược lại âm tri lập Mao Thi Truyện cho rằng: Chấp là dây cương chữ viết từ bộ mịch thanh chấp theo chữ chấp cũng là ràng buộc.

Ky lữ ngược lại âm ký nghi Quảng Nhã cho rằng: Ky là nhà trọ, chữ viết từ bộ võng thanh ky âm ky đồng với âm trên, trong văn ký ghi từ bộ mã là chẳng phải đây dùng, ngược lại âm dưới lực cử Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ky lữ là chỗ khách nghỉ nhờ, ở trọ, sách Thuyết Văn viết từ bộ phương đến bộ tùng tùng tức là theo xưa chữ cổ, đều từ hai bộ nhân hai người cùng ở với nhau, nghĩa cùng trên cũng đồng.

Tuần cái âm cái chữ viết từ bộ nhân người tiêu mất hết tài sản là phải đi xin ăn.

Thâu thực âm trên là thâu sách Vận Thuyên cho rằng: Cẩu thả. Thuần ly ngược lại âm trên thuận luân Quảng Nhã cho rằng:

Thuần là rượu nồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Rượu không có pha, trong Văn Ký viết chữ thuần thời dùng tục tự cũng thông dụng, viết đúng từ chữ thuần âm dưới là ly sách Thuyết Văn cho rằng: Rượu nhạt, đều là chữ hình thanh.

Quải thị âm trên là quải sách Vận Thuyên cho rằng: Sợi tơ rối rấm rút mắc.

Thương giác ngược lại âm trên thường dương Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Thương lượng, sách Ích Pháp cho rằng: Vì thương người nhìn trong ngoài gọi là thương sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy bên ngoài mà biết bên trong, chữ viết từ bộ cảnh âm cảnh ngược lại âm nữ cốt đến bộ chương thanh tĩnh âm dưới là giác Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam tử rằng: thương lượng bàn bạc sơ lược, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh xác âm xác đồng với âm trên, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ bộ truy đến bộ mịch âm mịch ngược lại âm quý dinh trên là bộ mịch cũng có viết từ bộ miên đó là chẳng phải.

Giả ác âm trên là giả sách Khảo Thanh cho rằng: Màu đỏ, hổ thẹn, vì hổ thẹn nên đỏ mặt, âm dưới là ác ngược lại âm hà các Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Ác giống như đất sét, đất thó màu trắng, sách Khảo Thanh cho rằng: Đất bùn, chữ viết từ bộ á đến bộ thổ.

Thục thắc ngược lại âm trên là thị lục Mao Thi Truyện cho rằng:

Thục là hiền dịu, tốt lành, sách Thuyết Văn cho rằng: Trong trẻo sáng suốt, chữ viết từ bộ thủy thanh thúc có khi dùng cũng viết chữ thục là chẳng phải, ngược lại âm dưới là tha lặt Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thắc là tà ác, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tà ác sâu dày, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Xấu ác dơ uế, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thắc là hổ thẹn, chữ viết từ bộ tâm thanh nặc.

Ly cửu ngược lại âm trên lý tri sách Nhĩ Nhã cho rằng: Li là độc hại, sách Khảo Thanh cho rằng: Li là gặp phải bị, Tự Thư cho rằng: Nổi lo lắng trong lòng, chữ viết từ bộ võng thanh duy theo sách viết là chữ tội cũng thông dụng, ngược lại âm dưới là cầu hữu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cửu là tội ác, sách Vận Thuyên cho rằng: Cửu là có lỗi, sách Thuyết Văn cho rằng: Tai họa, chữ viết từ bộ nhân đến bộ các là mỗi người ai nấy đều có mắc lỗi, phạm lỗi, chống trái, chữ hội ý, hoặc lại từ bộ nhân viết thành chữ cửu sách Thuyết Văn cho rằng: Hủy nhục cũng thông dụng.

Kỳ thao ngược lại âm thảo đáo sách Vận Thuyên cho rằng: Thao là giữ vững lập trường ý chí không thay đổi, Cố Dã Vương cho rằng: Nắm vững ý chí chắc chắn, nói người quân tử lúc gặp tai nạn ác hại không mất ý chí, hoặc là viết chữ thao xem văn bộ trước.

Tái tiếu ngược lại âm tiều tiếu sách Vận Thuyên cho rằng: Đi tập đàn để cúng tế cầu đảo mà lại uống rượu riêng lẻ không thù tạc lễ, sách Lễ Ký cho rằng: Con rót rượu mời cha để cầu chúc thọ mạng, khi đi lấy vợ cũng gọi tái tiếu, chữ hình thanh.

Soán thí ngược lại âm trâu hoạn sách Thuyết Văn cho rằng: Soán nghịch đoạt lấy gọi là soán, chữ viết từ bộ tư thanh toán ngược lại âm dưới thi chí Bạch Hổ Thông cho rằng: Thí giống như là sát nói là thần tử giết vua cha cướp ngôi báu gọi là thí sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Bầy tôi giết vua, chữ viết từ bộ sát tĩnh lược thanh thích.

Giá ngự ngược lại âm ngư cứ.

Hiệp cốc ngược lại âm hiềm hiệp Mao Thi Truyện cho rằng: Ta giương cây cung ra ta kẹp mũi tên lại Công Dương Truyện cho rằng: Hiệp là cây cung mà kẹp mũi tên bắn đi, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệp là nắm giữ. Đại lỗ âm lỗ sách Khảo Thanh cho rằng: Cái thuẫn lớn hoặc là viết chữ lỗ cứ đều dùng cũng thông dụng.

Mâu thuẫn ngược lại âm trên là mạc hậu ngược lại âm dưới thuật duẫn thuẫn là thành lan can thanh gác dọc, xem Tự Thư giải thích.

Quyên cấp âm trên là quyến sách Khảo Thanh cho rằng: Chật hẹp gấp bội vội nóng nảy mà nắm giữ phần, hoặc là viết chữ hoàn xưa nay Chánh Tự viết chữ gọi là thủ tiết không làm.

Nghị tỹ ngược lại âm nghi khí Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cắt xẻo bỏ cái mũi của người tội nhân, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cắt bỏ, hoặc là viết từ chữ nghiệt viết thành chữ nghị.

Hoang duệ ngược lại âm di chế Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Duệ là xa, sách Phương Ngôn cho rằng: Tên gọi chung của bốn bên nước Di Địch vùng biên giới các bộ tộc Trung Quốc, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y đến bộ cảnh âm cảnh ngược lại âm nữ hoạt.

Nhuyễn nhược ngược lại âm trên nô loạn.

Ma dũng ngược lại âm dung dũng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Chủng là gót chân hoặc là viết từ bộ túc viết thành chữ chung cũng thông dụng.

Kế-la-quả âm trên là kế.

Bát-hạch-sa-quả ngược lại âm Na-khả tiếng Phạm, tên của quả, không cầu chữ nghĩa.

Ty thị âm trên là ty âm dưới là sự. Khẩn điền ngược lại âm khổ ngận.

Quân đà thái tức là người ta hơi quân đạt thái.

Đàm lao ngược lại âm lão đao Chiến Quốc Sách cho rằng: Mấy nàng con gái ở bộ tộc Bắc Di Địch theo nghi hiến dâng rượu cho vua, vua Vũ nếm thử, gọi là đời sau lấy rượu mà quên đi thiên hạ, ương ngạnh chống trái lại, cũng gọi là rượu nồng nhiệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Cặn rượu chữ hình thanh.

Phủ hoạch ngược lại âm hồ quách Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nồi sắt lớn nấu thịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chạm khắc, âm thuyên ngược lại âm hồ khuê cũng thuộc nồi đồng.

Khi tiếu ngược lại âm tề diệu sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếu là giúp đỡ, cũng gọi là cười chế giễu.

Bì hoại ngược lại âm bì bỉ sách Khảo Thanh cho rằng: Hủy hoại bẻ gãy, sách Vận Thuyên cho rằng: Hủy hoại bên sườn núi.

Bộc bố ngược lại âm bồng mộc sách Vận Thuyên cho rằng: Nước từ trên vách núi đổ xuống, thác nước đổ xuống, sách Khảo Thanh cho rằng: Thác nước đổ gọi là bộc bố.

Phưởng phất ngược lại âm trên phương võng ngược lại âm dưới là phẫn vật ngược lại cũng là âm phương vị

Hán thư cho rằng: Phưởng phất giống như nghe thấy tương tợ không chắc thật, Tự Thư cho rằng: Thấy không chính xác rõ ràng, chữ Phưởng hoặc là viết từ bộ nhân viết thành chữ Phưởng âm dùng cũng đồng, chữ phất hoặc là cũng từ bộ nhân viết thành chữ phất hoặc là từ bộ tâm viết thành chữ phất nghĩa cũng đồng.

Khiển trách ngược lại âm khinh chiến Quảng Nhã cho rằng: Khiển cũng là trách, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Trách mắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Quở trách, chữ viết từ bộ ngôn thanh khiển.

Trạc hoán âm trên là trọc theo Mao Thi Truyện nói rằng: Trạc là tẩy rửa, Mao Thi lại giải thích: Giặt giũ y phục, Quảng Nhã cho rằng: Trạc là tẩy rửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Trạc là giặt giũ chữ viết từ bộ thủy thanh trạc âm trạc là âm trạch ngược lại âm dưới là hoàn quản theo Mao Thi Truyện cho rằng: Giặt cái y bạt mỏng của ta, Trịnh Tiển gọi hoán Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Giặt giũ mồ hôi dơ, âm tảng ngược lại âm tảng hầu xưa đó dơ bẩn cấu uế gọi là hoán sách Thuyết Văn cho rằng: Giặt giũ y dơ chữ viết từ bộ thủy thanh cán kinh văn viết từ chữ hoán tục tự dùng cũng thông dụng, âm địch ngược lại âm đình lịch.

Vi khả ngược lại âm vu hạn sách Thượng Thư Đại Truyện cho rằng: Cầm nắm mũi tên để bắn, Trịnh Huyền cho rằng: Mũi tên bằng tre, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ trúc thanh khả,

Hiệp thần ngược lại âm tử diệp Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ: Hiệp đó là từ ngày giáp đến ngày quý gọi là hiệp hiệp là đạt tới.

Khuôn khiếp âm trên là khuôn ngược lại âm dưới khiếp nghiệp sách Khảo Thanh cho rằng: Lo sợ, khiếp sợ lo âu.

Hội bi ngược lại âm trên đồi lỗi sách Khảo Thanh cho rằng: Hủy hoại, Quảng Nhã cho rằng: Hoại, sách Lễ Ký cho rằng: Ngọn núi Thái Sơn sụp đổ hủy hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Rơi xuống, Tự Thư cho rằng: Đã nghiêng, chữ viết từ bộ phụ thanh hội trong Văn Tự Ký viết chữ đồi là chẳng phải.

Niết kỳ ngược lại âm trên nghiên kiết gọi là cắn, âm dưới tượng hình, âm trên tượng thanh.

My thố ngược lại âm sang tố Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thố là đặt để cho an, sách Phương Ngôn cho rằng: Che giấu.

Sách ngân ngược lại âm sài trách sách Lễ Ký cho rằng: Ngụy Kỳ Tất hổ thẹn trong lòng đóng cửa cắn lưỡi tự tử, sách Thuyết Văn cho rằng: Sách là cắn, hoặc là viết chữ sách bên trái là hình, bên phải là thanh.

Túc hám ngược lại âm hàm ám không hài lòng giận. Dục mại ngược lại âm trên dung túc tục tự thường dùng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ chánh thể là chữ mại là ngâm ôm trong lòng, chữ viết từ bộ bối thanh lục âm lục văn cổ viết chữ lục tức là chữ thục từ bộ mãi đó tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới mai giải từ bộ xuất đến (839) mãi từ bộ thổ đó tục tự thường hay dùng, tức là đem tiền để chuộc mạng.

Đàm tư ngược lại âm đạm nam theo Mao Thi Truyện cho rằng: Đàm là dài rộng, lại gọi là kéo dài ra, sách Khảo Thanh cho rằng: Thật dài, thật lớn kéo dài đến vùng Tây Nguyên, sách Thuyết Văn cho rằng: Mùi thơm kéo dài, chữ viết từ bộ đàm đến bộ hàm tóm lược, Ngọc Thiên cho rằng: Viết từ bộ á âm dưới không theo từ chữ ty đến bộ đàm âm hầu tên là bộ.

Quấn chích ngược lại âm trên quân vận xưa nay Chánh Tự giải thích: Quấn là nhặt lấy hoặc là từ bộ lộc đến bộ mộc viết thành chữ mi ngược lại âm dưới chỉ diệc xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chích cũng là thập tức nhặt lấy gom lại, hoặc là từ bộ thạch viết thành chữ giá.

Thẩn tiểu ngược lại âm thân nhẫn tục dùng văn chữ cổ viết chữ thẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Cười mà không phá nhan sắc gọi là thẫn ý cùng với chữ thẫn cũng đồng, gọi mỉm cười, trong Văn Ký viết chữ thẫn chưa rõ âm giải thích.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 3 TÁM NƯỚC

Ông uất ngược lại ung khổng Tư Mã Tương Như giải thích: Ông uất là cây cỏ mọc um tùm, sum suê, chữ viết từ bộ thanh ông ngược lại âm dưới vẫn vật sách Thuyết Văn cho rằng: Cây cỏ mọc rậm rạp, chữ viết từ bộ lâm văn cổ viết từ bộ cửu đến bộ phửu đến bộ quynh đến bộ sướng âm sướng ngược lại âm sắc lượng đến bộ sạm nay khi dùng phần nhiều từ bộ cấn đến bộ thốn chẳng phải.

Khiếp hoán ngược lại âm trên khương nghiệp ngược lại âm dưới nô loạn đều xem trước đã giải thích đầy đủ. Quyệt quỷ ngược lại âm trên huyền huyệt âm quyết ngược lại âm dưới quy ủy đều xem trước Quảng Văn giải thích.

Mông-yết-ly ngược lại âm trên mạc băng âm kế kiến mi âm dưới lực tri tiếng Phạm, tên thành, không cầu chữ nghĩa.

A-ba-la-la âm la ngược lại âm lặc hạ tiếng Phạm, tên của Long Vương.

Dĩ súc ngược lại âm sửu lục Ngọc Thiên cho rằng: Súc là chứa, tích tụ, chứa nhóm, hoặc là viết từ bộ thảo viết thành chữ súc chữ hình thanh.

Quỷ di ngược lại âm đạo vị sách Nghi Lễ giải thích rằng: Thức ăn chín dâng lên khi cúng tế, sách Thuyết Văn ghi: Biếu tặng, chữ hình thanh, ngược lại âm dưới duy nhuế Quảng Nhã cho rằng: Di là để lại giữ lại, Cố Dã Vương cho rằng: Ban tặng, chữ giả tá.

Trạc y ngược lại âm tràng trác sách Khảo Thanh cho rằng: Trạc là tẩy rửa, chữ giả tá, gọi là giặt giũ y phục.

Như tháp ngược lại âm tham đáp Quảng Nhã cho rằng: Tháp là bằng phẳng, Thích Danh cho rằng: Giường đất hẹp mà dài gọi là tháp, chữ viết từ bộ mộc thanh tháp âm tháp đồng với âm trên.

Tân nhị âm ni lợi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nhị là béo mở trơn, sách Thuyết Văn ghi chất mở, chữ viết từ bộ nhục thanh nhị.

Tát-bao-sát-địa âm bảo mao tiếng Phạm.

Chủy trác ngược lại âm trên túy tủy mỏ chim, âm dưới là trác chim thánh Khổng Tước Vương dùng mỏ mổ vào vách núi, nước suối chảy, xem trong là ao thiên trì.

Điên phó ngược lại âm đinh kiên ngược lại âm dưới bồ bắc đều xem trước đã giải thích đầy đủ.

Tự tễ ngược lại âm tỳ duệ sách Khảo Thanh cho rằng: Đốn ngã ngửa chết giữa đường, tục tự viết đúng là chữ tể.

Dĩ tự chữ từ Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là cung cấp thức ăn bày ra cho người ăn, nuôi dưỡng, cho ăn, sách Thuyết Văn giải thích: Lương thực, chữ hội ý hoặc là viết chữ tự tục tự dùng thông dụng.

Chỉ-để ngược lại âm trên kinh lễ tiếng Phạm, tên của Bồ-tát Quán Tự Tại.

Hằng tát ngược lại âm cổ hằng: Thiên Thương Hoét cho rằng: Hằng là sợi dây lớn, sách Vận Thuyên cho rằng: Tính nóng nảy, chữ hình thanh.

Sạn đạo ngược lại âm sài hạn sách Khảo Thanh cho rằng: So cây làm gác bên đường chỗ nguy hiểm, chữ viết từ bộ mộc thanh tàn tục tự giải cầu bắt ngang làm gác bên đường.

Truyền dực ngược lại âm trên trường luyến sách Vận Thuyên cho rằng: Chỗ gọi là rui nhà, từ bộ mộc thanh duyên âm dưới là dực sách Nhĩ Nhã cho rằng: Dực là lưu lại, buộc lại, Quách Phác chú giải rằng:

Cây cột buộc trâu bò, chữ viết từ bộ mộc thanh dực. Hoảng dục ngược lại âm dưới dung lục Quảng Nhã cho rằng: Dục là sáng rực, Thiên Thương Hoét cho rằng: Lửa sáng rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Dục là chiếu sáng, chữ viết từ bộ hỏa thanh dục âm dục là đồng với âm trên.

Huề dẫn ngược lại âm huệ khuê sách Vận thuyên cho rằng: Nâng đỡ, đề cao, nắm tay dẫn dắt, chữ viết từ bộ thủ thanh huề âm đồng với âm trên.

Quyết mục ngược lại âm uyên duyệt Văn thông dụng cho rằng: Quyết là khiêu bới móc, âm khiêu ngược lại âm thiên diêu âm uyên ngược lại âm nhuế duyên.

Khất thải ngược lại âm tha lặc người mua thiếu, mua nợ, theo chữ thải cũng là vay mượn.

Bi cảnh ngược lại âm canh hạnh sách Văn Tự Tập Lược cho rằng: Cảnh là lo buồn, chí không an, chữ viết từ bộ nhĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Ánh sáng chói lọi, sáng tỏ rõ, chữ viết từ bộ nhĩ viết chữ cảnh lửa cháy bập bùng, thanh tĩnh.

Bì mâu ngược lại âm trên tý tỳ ngược lại âm dưới mi ấu sách Lễ Ký cho rằng: Như vật lầm lẫn thì người dân chẳng được có khi phải chết, Trịnh Huyền cho rằng: Bí giống như sai lầm, chữ viết từ bên trái là linh, phải là thanh.

Tiềm vĩnh ngược lại âm trên tiệm diêm âm dưới là vĩnh Ngọc Thiên cho rằng: Tiềm là chìm dưới nước, vĩnh là nổi lên mắt nước.

Kháp chi ngược lại âm đàm lam sách Thuyết Văn cho rằng: Kháp là ăn hoặc là viết chữ đàm.

Thạch khám ngược lại âm khâm hàm Quảng Nhã cho rằng: Khám là nhiều, theo chữ thạch khám đó là hang đá nhỏ trong núi, sách Thuyết Văn cho rằng: Hang của rồng ở, chữ viết từ bộ lông đến bộ hàm thanh tĩnh.

Vinh vực âm trên là dinh âm dưới là vi bức Quảng

Nhã giải thích: Bãi tha ma, sách Thuyết Văn cho rằng:

Đất chôn người, phần mộ gọi là vực chữ viết đều từ bộ thổ đến bộ chinh thanh tĩnh.

Đảng viện ngược lại âm viên quyến theo chữ viện đó đó là bạn đảng với nhau hỗ trợ, thay phiên nhau mưu tính việc cứu viện, theo Tả Truyện cho rằng: Không có cứu giúp lớn thì phải thắc chặt hơn mối quan hệ, chữ bên trái là hình, bên phải là thanh.

Xác bất tùng mạng ngược lại âm trên khổ giác nói khác đi hệ từ xác tức là cứng, Bì Thương cho rằng: Từ bộ thổ viết thành chữ cách Văn Tự Điển nói: Từ bộ thạch đến bộ xác thanh tĩnh âm xác là âm giác.

Du mạc âm trên du chu Quảng Nhã cho rằng: Du là xa Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Du là vượt qua, sách Thuyết Văn giải thích: Vượt qua tiến tới phía trước, chữ viết từ bộ xước thanh du ngược lại âm dưới mang bác Vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mạc là xa, sách Phương Ngôn nói: Từ từ xa, rộng lớn, Quách Phác chú giải rằng: Dáng vẻ xa mà rộng lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh mạo âm mang ngược lại âm mẫu ban âm mạo là âm mạo.

Vi diệp ngược lại âm hấp tiếp Quảng Nhã cho rằng: Là cây đinh, Tự Thư cho rằng: Đinh dẹp, đinh thiết, Bì Thương cho rằng: Đinh mỏng mềm gọi là diệp, chữ bên tả là hình, bên phải là thanh.

Trách trục âm trên xỉ diệc Cố Dã Vương cho rằng: Trách là thúc dục đi xa, Hán thư âm nghĩa giải thích rằng: Trách là không dùng, Quảng Nhã cho rằng: Trách là xô đẩy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ chối trong nhà, chữ viết từ bộ nghiểm thanh nghịch tục dùng bộ hán đến bộ can là chẳng phải, âm nghịch là âm nghịch.

Các tụ lợi đao ngược lại âm tù hựu tục tự cho rằng: Chữ chánh thể, văn cổ viết từ bộ y đến bộ thái viết thành chữ bào kinh bộ, Phương Ngôn viết từ chữ nhu là áo có cổ, tức là tay áo, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tụ là tay áo, khứ là tay áo, nay nói tụ đao đó là cây kiếm đột nhiên nằm trong tay áo, buộc trong bao kiếm nơi cánh tay bí mật tút mà đâm vào cho nên gọi là tụ đao âm trừu là âm sửu lưu.

Khứ kỳ mạo ngược lại âm mao báo sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh mạo.

Kinh khiếp ngược lại âm chiêm diệp sách Thuyết Văn cho rằng: Lo sợ kinh hãi, chữ viết từ bộ tâm thanh nhiếp hoặc là viết nghiệp.

Trung soạn âm soạn Tư Mã Tương Như chú giải sách Luận Ngữ rằng: Soạn là ăn uống no say, giống như thí cho vị tăng ăn.

Sử hà ngược lại âm sư xí nước chảy xiết.

Vĩ đại ngược lại âm vi quỹ vĩ cũng là đại to lớn vĩ đại.

Nội ký ngược lại âm cưu hữu giống như ngựa trong chuồng. Bán-nô-tha âm nổ tiếng Phạm, tên nước.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 4 MƯỜI LĂM NƯỚC

Trạch ca âm trương cách tên nước.

Bĩ tiết ngược lại âm trên bo mỹ ngược lại âm dưới điềm diệp xem trước đã giải thích rồi, ngôn ngữ trùng lấp, tiết là không phân minh hoặc là âm tiết sách Khảo Thanh cho rằng: Tiết là khinh khi, thân cận với người nữ, nên coi thường, âm độc tức là âm lượng.

Kiết di âm trên là kiết sách tập Huấn giải thích: Kiết là cô đơn, sách Vận Anh cho rằng: Không còn sót lại, ngắn ngủi, sách Thuyết Văn cho rằng: Không có cánh tay phải, chữ tượng hình.

Thô thoan âm trên tây, âm sang loạn.

Ách hiểm ngược lại âm ách giới sách Vận Anh cho rằng: Đất hiểm trở ngăn trở, hoặc là viết chữ ải âm là nghĩa chật hẹp, ngược lại âm dưới hương kiểm hiểm trở. Kiến cầm ngược lại âm cự ngâm nắm bắt. Phù tù âm trên là phù âm dưới tợ do.

Huy phế ngược lại âm trên hình quy sách Vận Anh cho rằng: Hủy hoại, chữ viết từ bộ tiểu đến bộ tùy thanh tĩnh.

Lụy ngược lại âm lực truy âm dưới tiết Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Chỗ gọi là câu thúc bó buộc người tội nhân, tiết là sợi dây lớn, sợi dây cương.

Anh chủng ngược lại âm trên anh trình ngược lại âm dưới thời tụ Văn Tự Tập Lược cho rằng: Anh là cổ sưng lên, phong thủy hơi kết lại làm bịnh, chủng cũng là cái đầu sưng lên, hoặc là viết chữ dũng từ bộ cửu thanh chung âm tụ ngược lại âm nhục chủng.

Mạt-thố-la ngược lại âm trên ma bát ngược lại âm dưới thổ cố. Biền la ngược lại âm trên tiện miên.

Nhân diệt ngược lại âm trên nhất dần sách Khảo Thanh cho rằng: Nhân là chìm đắm, vùi lấp, sách Giai Uyển Chu Tòng nói rằng: Rơi xuống Văn Tự Tập Lược cho rằng: Vùi lắp trong đất, âm dưới hoặc là viết ân trong Văn Ký viết từ bộ thổ viết thành chữ ân tục tự giải thích cũng là vùi lấp.

Liên manh ngược lại âm dưới mạch canh sách Khảo

Thanh cho rằng: Cái mèn đóng trên rui nhà để móc ngói.

Gian trĩ ngược lại âm trì lý hoặc là viết chữ trĩ.

Quái ngộ ngược lại âm trên quả họa Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Là người bị vạ lây, bị liên lụy gọi là quái ngộ, chữ viết từ bộ ngôn đến bộ quái thanh tĩnh.

Kích lưu âm trên là kích lại âm là củ sách Giai Uyển Chu Tòng cho rằng: Nước chảy xiết bắn lên lượn sóng tung tóe.

Lão ngược lại âm tốc hậu tục tự dùng thông dụng, sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng xưng gọi người già, xưa nay phần nhiều có khác thể, đồng âm, hoặc là viết chữ sưu xưa viết chữ sưu sưu đều là chữ cổ, nay tục dùng thông dụng viết chữ sưu.

Ổi thừa ngược lại âm trên ô hối gọi là bỉ ổi hèn hạ, ngu độn, ngược lại âm dưới thị lăng sách Khảo Thanh cho rằng: Thừa là tiếp nhận, Mao Thi Truyện cho rằng: Thừa kế, thứ tự, sách Thuyết Văn viết chữ thừa là một thể, sách Thuyết Văn cho rằng: Thọ nhận viết chữ từ bộ thủ bộ tiết bộ cũng.

Phủ nhi ngược lại âm phu vũ sách tập Huấn giải thích: Dùng tay vỗ vỗ an ủi, chữ viết từ bộ thủ thanh vô sách Thuyết Văn viết từ bộ phó viết thành (840) chữ phủ cũng thông dụng chẳng phải bổn chữ.

Ma-dụ-la ngược lại âm du chú tiếng Phạm, Đường Huyền Trang giải thích Chim khổng tước.

Ác-đê-xế-đát-la âm hê ngược lại âm hinh kê âm xế ngược lại âm xương nhiệt.

Khoách bì ngược lại âm trên khuyết dinh ngược lại âm dưới bì mỹ quyển này ban đầu đã giải thích đầy đủ rồi.

Ky quyết âm trên là kỳ âm dưới là quyết quyển này ban đầu cũng đã giải thích đầy đủ rồi.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 5 SÁU NƯỚC

Uy nhiếp ngược lại âm chiêm diệp nhiếp lo sợ, sợ hãi.

Hoằng nghị ngược lại âm nghi khí sách Vận Anh giải thích rằng: Quả quyết cương nghị, sách Khảo Thanh cho rằng: Uy nghiêm, không thể phạm vào, hoặc là viết từ bộ nhẫn đến bộ thù thành nghị âm nghị đồng với âm trên. Ứng sính trên là chữ ứng khứ thanh ngược lại âm với thất tinh sách Khảo Thanh cho rằng: Hỏi lấy tài vật làm sính lễ cưới vợ, từ bộ nữ thanh sính âm sính ngược lại âm thất đinh trong Văn Ký viết chữ sính tục tự dùng chẳng phải.

Bối ẩu ngược lại âm ương vũ sách Vận Thuyên cho rằng: Ẩu lũ, eo lưng cong lại, chữ viết từ bộ nhân thanh khu âm khu ngược lại âm khương vu lại cũng gọi là xương sống cong lại, tức là người gù lưng.

Cần khẩn ngược lại âm khang ngận sách Vận Anh cho rằng: Khẩn là chí thành, sách Khảo Thanh cho rằng: Tin, niềm tin.

Lục lực ngược lại âm long trúc sách Vận Anh giải rằng: Gom sức lực. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Viết từ bộ lực đến bộ lục thanh tĩnh.

Huề thủ ngược lại âm huệ khuê sách Thuyết Văn giải thích Huề là đưa lên đề cao, dẫn dắt, chữ viết từ bộ thủ thanh huề âm huề đồng với âm trên, Văn Ký viết từ bộ nải viết thành chữ huề tục tự dùng cũng thông dụng, cũng có viết chữ huề.

Tịnh mật âm mật ngược lại dân tấc sách Khảo Thanh cho rằng: Không có tiếng động, sách Vận Thuyên cho rằng: Yên tĩnh, sách Vận Anh giải thích cẩn thận, thận trọng, chữ viết từ bộ ngôn thanh mật âm mật đồng với âm trên.

Mạo tuấn âm trên là mao sách Tập Huấn cho rằng: Mạo là chọn lựa tuyển chọn.

Huân mộ âm trên huấn vân sách Vận Anh cho rằng: Huân là ánh nắng mặt trời chiều, gọi là hoàng hôn.

Phốc diệc ngược lại âm trên phổ bốc sách Thuyết Văn nói: Phốc là đánh tát, chữ hình thanh.

Phần tẫn ngược lại âm tường tận gọi là thiêu đốt củi cháy còn dư lại, Văn Ký viết tẫn tục tự dùng cũng thông dụng.

Quẫn bách ngược lại âm quần vẫn quẫn là cấp bách khẩn thiết. Dung chú âm trên là dung âm dưới là chú.

Thuyên lậu ngược lại âm trên túy duyên sách Khảo Thanh cho rằng: Khắc chạm, sách Tập Huấn cho rằng: Mài đá ngọc trau chuốt mài ngọc, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh thuyên âm thuyên ngược lại âm tồ nhuyễn.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 6 BỐN NƯỚC

Khuy nhiên ngược lại âm khưu quỹ sách Vận Anh cho rằng: Cao sừng sửng một mình, ý nói cá nhân có học nghiệp vượt trội, chữ viết từ bộ sơn thanh quy.

Niết ngận ngược lại âm trên nghiên kiết Quảng Nhã cho rằng: Niết là cắn chữ viết từ bộ xỉ đến bộ niết thanh tĩnh.

Khanh tĩnh âm dưới tịnh kháp cái hầm để bẩy thú.

Diệu phát ngược lại âm trên bổ diêu sách Khảo Thanh cho rằng: Gió cuốn mau, từ dưới mà cuốn xoáy lên gọi là diêu hoặc là viết từ ba bộ khuyển viết thành chữ diêu âm cũng đồng, cũng có viết từ ba bộ khuyển viết thành chữ diêu.

Đồi bì ngược lại âm trên cổn hồi gọi là rơi xuống, ngược lại âm dưới bì mỹ văn trước đã giải thích rồi.

Phê kỳ tảng ngược lại âm trên thất bề Tự Thư cho rằng: Phê giống như lấy tay mà đánh, âm quắc là âm chúc ngược lại âm dưới tảng lang sách Vận Anh cho rằng: Tảng là cái trán, chữ hình thanh.

Xúc kỳ ức âm trên thu dục sách Tập Huấn giải thích lấy chấn đá, ngược lại âm phía sau gọi là xúc âm dưới ứng lực sách Khảo Thanh cho rằng: Ức là ngự văn cổ viết chữ ức.

Thâu hài trên là chữ thâu chữ viết từ bộ phộc đến phộc đến bộ củ củ cũng là thanh, âm cư ngược lại âm cư do ngược lại âm dưới giải giai sách Vận Anh cho rằng: Tên gọi chung tổng quát bộ phận thân thể là hài.

Ế táng âm trên anh kế sách Khảo Thanh cho rằng: Ế là chôn giấu, sách Vận Anh cho rằng: Cất giấu chỗ thâm u, văn cổ viết chữ ế hoặc là viết chữ ế sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ nghiểm văn cổ viết chữ lục thanh tĩnh Văn Ký viết chữ lục thanh tĩnh Văn Ký viết chữ ế cũng thông dụng.

Khế giá ngược lại âm khiển kế sách Khảo Thanh cho rằng: Khế là nghỉ ngơi, ngừng nghỉ, văn cổ viết chữ khế tức là nghỉ ngơi, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm viết chữ yết yết cũng là hiết từ bộ tâm đến bộ kệ thanh tĩnh.

Sam thảo ngược lại âm trên sương hàm Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Dụng cụ cắt cỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái liềm cắt cỏ chữ viết từ bộ thảo đến bộ thù chữ hội ý.

Cực yểm ngược lại âm căn ức tục tự dùng thông dụng, chữ chánh thể viết chữ cẩu cẩu là cực hoặc là viết từ bộ cách viết thành chữ bị chữ chuyển chú.

Đại xỉ âm xỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Tiêu xài hoang phí, chữ viết từ bộ nhân đến bộ xỉ thanh tĩnh

Thiêm đao ngược lại âm dưới tức liêm sách Vận

Thuyên cho rằng: Thiêm là bén nhọn, chữ viết từ bộ kim.

Loại hộc ngược lại âm hồng mộc tên cây trên núi, giống như cây thanh võng mà lá lớn da sần sùi màu đen mọc cạn trên núi.

Hư y âm trên hư âm dưới là hy sách Tập Huấn cho rằng: Hư hy là xuất cái hơi ra, thở dài áo não bi ai khóc, than thở, đau buồn lo sợ.

Sấn thân ngược lại âm trên sơ cận thân rất gần với thảm nhung, tức thân mặc áo bông nhung.

Sậu yểm ngược lại âm sầu cứu sách Khảo Thanh cho rằng: Sậu là ngựa chạy phóng nhanh, chữ viết từ bộ mã đến bộ tụ thanh tĩnh.

Mang mi ngược lại âm mạc bang lông mi dài mà lại dày nhiều. Tề xỉ ngược lại âm tề tế sách Khảo Thanh cho rằng: Cắn rất chặt.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 7 BA NƯỚC

Chuy mi âm trên là tủy sách Vận Anh giải thích: Chuy mi là cỏ mềm yếu theo gió mà ngã nghiêng ngã ngửa.

Chuy kế ngược lại âm trên là trường truy âm dưới là kế. Du thạch âm trên là du kim loại thứ xấu, loại bạch kim. Lẫm lẫm ngược lại âm lực cẩm lo sợ nguy hiểm.

Hướng phát ngược lại âm sở giao Bì Thương cho rằng: Viết chữ kế gọi là mái tóc rũ xuống vai có mùi thơm.

Toại liệt ngược lại âm liên niết gọi là bẻ gãy, vặn xoay chuyển. Tung liệu ngược lại âm lực điêu Hán thư cho rằng: Liệu là giữ lấy, săn bắt, cướp lấy, chữ viết từ bộ thủ.

Xương quyết âm trên là xương tức là lồng lộn điên cuồng.

Kiết lư ngược lại âm lữ trừ trong quyển tựa trước đã giải thích đầy đủ rồi, lự tức là màn che.

Tiên lý âm trên là tiên âm dưới là lý.

Tiều tô ngược lại âm tình diêu tiều tức là củi.

Nghi nhiên ngược lại âm ngưng cước sách Vận Anh cho rằng: Ngọn núi cao sừng sửng.

Khô cảo ngược lại âm dưới là khảo.

Hoán kỳ ngược lại âm hoan quán sách Vận Anh cho rằng: Hoán là văn chương sáng sủa trau chuốt.

Yêu tụy ngược lại âm trên yêu kiều theo Tả Truyện cho rằng: Vật khác là mà lại hại người, ngược lại âm dưới tuy tùy sách Thuyết Văn cho rằng: Thần gây họa, chữ viết từ bộ xuất đến bộ thị sách Thuyết Văn viết từ bộ tông viết thành chữ tụy là sai.

Thác cảnh ngược lại âm trên đảng lạc sách Khảo Thanh cho rằng: Giá là mở ra, to lớn, kha khá mở mang rộng lớn, chữ chuyển chú.

Huy phi ngược lại âm trên húy vĩ sách Vận Anh cho rằng: Con chim trĩ lông đủ năm màu sắc, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Ngũ sắc đều chuẩn bị thành chương gọi là huy.

Hủy độc ngược lại âm đồng ốc gọi là chê bai hủy nhục.

Mao ngưu ngược lại âm uyển bao ở nước Tây Nam Di có loại trâu lông đuôi dài, trước đã giải thích rồi.

Hiểm bị ngược lại âm bỉ ký Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bì là nịnh hót gièm pha Quảng Nhã cho rằng: Bỉ là trí tuệ, sách Thuyết Văn cho rằng: Biện luận thông thái, hiểu rõ chữ viết từ bộ ngôn thanh bì.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 8 MA-YẾT-GIÀ QUỐC

Điếm thấp ngược lại âm điểm niệm sách Khảo Thanh cho rằng: Chìm đắm, ẩn tàng, sách Vận Anh cho rằng: Kê lót chèn ở dưới, ngược lại âm dưới thi nhập sách Thuyết Văn nói âm u ẩm thấp, ướt.

Ky du ngược lại âm trên ky nghi ky là dây cương buộc ngựa.

Huyễn phục ngược lại âm huyền quyến sách Khảo Thanh cho rằng: Y phục đẹp, âm dưới là phục chữ chánh thể, từ bộ chu thang phục âm phục đồng với âm trên.

Khả bạo ngược lại âm trên hà âm dưới bao mạo.

Lan hạm ngược lại âm trên lang đan ngược lại âm dưới hàm ảm gọi là nam can trên điện, trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Liên ỷ âm trên là liên âm dưới là y sách Khảo Thanh cho rằng: Liên là gợn sóng nhỏ, ý đó là gợn lăn tăn sóng, đều tên gọi khác của sóng nước.

Ký du ngược lại âm trên kỹ khí sách Vận Anh cho rằng: Ký du là lòng mong mỏi, trông mong, vọng tưởng, âm dưới là du chu sách Khảo Thanh cho rằng: Mong ngóng, muốn được, âm ký là âm ký lại cũng âm khí ngật hai âm.

Nhẫn cấu ngược lại âm khống cấu sách Vận anh cho rằng: Cấu là mắng nhiếc, lại cũng là âm hống la hét, chữ viết từ bộ ngôn thanh cấu.

Tập vu ngược lại âm sâm nhập sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy tranh lợp nhà, che nhà bằng cỏ mây.

Hấp nhiên ngược lại âm huất ấp (841) Tự Thư cho rằng: Hấp là hợp, sách Khảo Thanh cho rằng: Vật nướng trên lửa hơi khói bốc lên.

Gia luận ngược lại âm trên là giác sách Khảo Thanh cho rằng: Đo lường, đại khái, sách Vận Anh cho rằng: rõ ràng, phân biệt rõ ràng, sách Vận Thuyên cho rằng: Cạnh tranh hơn thua, so tài, lại cũng viết chữ xuyết giải thích nghĩa chỗ dùng cũng đồng nhau.

Hải viết ngược lại âm trên hài giai chữ thượng thanh, Quảng Nhã cho rằng: Kinh hãi.

Mạo ngạn âm trên là mao theo Mao Thi Truyện cho rằng: Mạo là tuấn tú là đẹp, vượt trội, xuất sắc hơn người, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trong kẻ sĩ là người tuấn tú vượt trội, như trong sợi lông là sợi lông đẹp dài hơn, Quảng Nhã cho rằng: Tuyển chọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Mái tóc chấm vai, chữ viết từ bộ tiêu thanh mao ngược lại âm dưới ngôn phiến sách Khảo Thanh cho rằng: Kẻ sĩ tuấn tú đẹp, sĩ tức là có tài văn chương xuất chúng, lưu lại đời sau, cho nên chữ ngạn từ bộ sam tức là lông tóc.

Nhiên viên ngược lại âm trên nô quá lại cũng âm nhi duyên Phục Kiền giải thích rằng: Vách tường thấp ngoài cung, âm dưới là viên theo Mao Thi Truyện cho rằng: Viên là vách tường, lại cũng gọi là vách tường nhỏ phía ngoài, thành quách.

Chí điểu âm trên là chí Văn thông dụng cho rằng: Chí là thuộc giống chim diều hâu, chim thứu, cũng thuộc loại chim ưng gọi chung các giống chim hung dữ mạnh mẽ.

Ma-đạp-ba hoặc gọi là Ma-một-ba đây gọi là nho đồng còn nhỏ mà thông minh, tuấn tú vượt trội hơn người, hiểu biết biện bác sắc bén, vững chải.

Tỏa nhuế ngược lại âm trên tổ quá sách Vận Anh cho rằng: Tỏa là bẻ gãy tra hỏi, buộc tội, triết phục, ngược lại âm dưới duyệt huệ nhuế là sắc bén.

Âu huyết ngược lại âm âu khẩu sách Vận Anh cho rằng: Âu là ói ra, nôn ra, tục viết từ bộ khẩu viết thành chữ ẩu âm âu ngược lại âm a hầu.

Bảo đức ngược lại âm bảo mao Tán Thán ca ngợi mỹ đức, chữ viết từ bộ y thanh bảo bảo tức là chữ bảo văn cổ.

Luân tư âm trên là luân sách Vận Thuyên cho rằng: Luân là chìm đắm, ngược lại âm dưới tức lữ Quảng Nhã cho rằng: Chìm mau xuống nước.

Quặc liệt ngược lại âm trên câu hoạch cùng với chữ quặc đồng âm, âm quặc ngược lại âm vương ước.

Dã dung âm trên là dã.

Tu liệp ngược lại âm trên tương du âm dưới là liệp.

Bàng hoàng âm trên là bàng âm dưới là hoàng.

Di phạm âm trên là di âm dưới là phạm.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 9 MA-YẾT-HÀ QUỐC HẠ

Khuất-khất-sá-sơn ngược lại âm quần luật tiếng Phạm, Đường Huyền Trang gọi là Kê tức là núi Kê.

Tiếu tuyệt ngược lại âm thiêu diệu tiếu là cao sừng sững, nguy hiểm.

Thích khấu phẩu âm trên là tích âm kế là khẩu ngược lại âm dưới là phổ khẩu.

Nghiển ngạc ngược lại âm trên ngôn kiển ngược lại âm dưới là ngũ các nghiển ngạc là vách núi cheo leo nguy hiểm cản trở.

Ẩn lân ngược lại âm lân chấn ẩm lân đó là sườn núi liên tiếp từ từ xa nối với nhau từ từ xa.

Xa-nan âm trên là sài ngược lại âm dưới mượn âm.

Ngột chu ngược lại âm trên ngũ cát ngược lại âm dưới là trắc thù sách Khảo Thanh cho rằng: Giết cây chặt đốn cây còn dư lại cành, sách Thuyết Văn viết chữ nghiệt tức là cây đã đoạn đầu trên lại mọc rễ dưới, chẳng phải nghĩa đây dùng, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngột là chặt cây còn dư lại cành ngọn, chữ viết chánh thể là nghiệt từ bộ mộc đến bộ hiến văn không cổ viết sách Thượng Thư cho rằng: Nếu cây đã ngã rồi cũng có mọc mầm sanh cành lá.

Sơn lộc âm lộc dưới chân núi, tên khu rừng gọi là Lâm Lộc.

Sái-ca-sa ngược lại âm sa mại sách Vận Anh cho rằng: Gọi là phơi khô dưới ánh mặt trời.

Kinh hãi ngược lại âm hài ngai sách Vận Thuyên cho rằng: Hãi là con ngựa kinh hãi giựt mình, chữ hình thanh. Ương ương ngược lại âm ương hướng tâm tình không thoải mái, bực bội khó chịu, không vui.

Tuấn trĩ âm dưới là trĩ.

Thuần túy ngược lại âm trên thời luân tục tự thường hay dùng, âm dưới tủy túy.

Tự ế ngược lại âm ế kế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ế là chết mất, giết chết, Đỗ Dự chú giải sách Thượng Thư rằng: Ế là giết sạch, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chết sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngạc thanh ế âm ngạt là âm tàn.

Thê tử âm nô sách Khảo Thanh cho rằng: Thê tử là tên gọi chung là vợ con, sách Vận Anh cho rằng: Tử là con, văn cổ viết chữ nữ giải thích nghĩa cũng đồng với âm trên.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 10 MƯỜI BẢY NƯỚC

Kế chủng ngược lại âm chúc dũng.

Trường hoằng ngược lại âm cổ hằng sợi dây lớn.

Tiềm hâm ngược lại âm trên tử tâm âm dưới là ngâm tiềm hâm là núi cao ngất.

Quân-trĩ-ca tiếng Phạm tức là chỗ tăng thọ dụng, quân là nắm giữ đồng bình, bình bằng đồng vậy.

Cô tự ngược lại âm từ dữ chữ thượng thanh, sách Vận Anh giải thích đảo nhỏ trong biển, sách Khảo Thanh cho rằng: Đảo núi nhỏ trong biển.

Bát hạch sa quả ngược lại âm trên bán âm kế na khã tên của quả ở Tây Vực, quả này lớn như trái đông qua, tức là dưa hấu, chín thì vàng, đỏ, mùi vị của quả rất ngon ngọt, chữ hạch từ bộ mộc đến bộ y đến bộ đa chữ hình thanh.

Man liệu ngược lại âm mã ban âm dưới lão cũng là âm trào lão chữ chánh Thể từ bộ trĩ viết thành chữ liệu hoặc là từ bộ sào viết thành chữ liệu ở phương nam đất Hải Ngu thuộc bộ tộc Man Di, dọc theo hết phía nam là Mân Việt, vốn là chủng loại rắn cho nên chữ viết từ bộ trĩ mà viết thành chữ này, loại người này không có nhân nghĩa tốt, hành âm thâm độc, cường mạn khinh khi cùng kẻ mạnh hiếp yếu, ăn thịt nhau giết hại nhau rất tàn bạo. Lê thậm âm trên là lê âm xoa là âm ly tục tự dùng thông dụng. Cũng viết chữ ly ngược lại âm dưới tham cảm lê thậm là màu sắc không có sáng, màu đen, như màu là dâu đậm.

Cái khả ngược lại âm vu hạn tức là mũi tên làm bằng tre, chữ khả văn trước trong quyển thứ hai đã giải thích đều rồi.

Từ thạch âm từ tên đá mài.

Quyến quảng âm trên là quyến sách Khảo Thanh cho rằng: Tính nóng nảy, thử phận, sách Luận Ngữ cho rằng: Lồng lộn điên cuồng, Bao Hàm chú giải rằng: Cuồng loạn chồm lên giữ lấy, cũng là khéo giăng lưới bên đường giữ bắt lấy, con thú chỗ gọi là hạ tiện, văn trước trong quyển thứ hai đã giải thích rồi, ngược lại âm dưới hồ mảnh tính ác độc ác như con chó.

Manh tục âm trên là manh bá tánh trăm họ.

Thảng tàng âm trên tha lãng gọi là kho chứa của cải, vàng bạc vải lụa.

Phẩu quyết âm trên kỳ âm dưới là quyết văn trước đã giải thích đầy đủ rồi, cực xảo rất khéo léo.

Viên dứu âm trên là viên ngược lại âm dưới do cứu loài khỉ vượn.

Gian quỹ âm trên là giàn âm dưới là quỹ sách Vận Anh cho rằng: Giặc cướp từ bên trong gọi là gian từ bên ngoài gọi là quỹ chữ viết từ bộ miên âm miêm là âm miên đến bộ cửu.

Tả lỗ âm trên là tích tả lỗ là đất mặn, mà lại phía dưới ẩm ướt, sách Thuyết Văn cho rằng: Đơn viết chữ tả ý nghĩa cũng như trên, chữ tả lại chẳng phải chữ đây dùng, âm dưới là lỗ sách Khảo Thanh cho rằng: Đất mặn, phương tây gọi mặn là lỗ chữ tượng hình.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 11 HAI MƯƠI BA NƯỚC

Sự đao ngược lại âm truy sự sách Vận Anh cho rằng: Sự là căm vào, đâm thẳng vào.

Phương di đại tảng âm trên là di âm dưới tảng lảng. Ư mao liệp ngược lại âm liêm triếp lông đẹp, râu mép, râu ở cổ. Đống nổi ngược lại âm nở lỗi đói lạnh.

Da tử ngược lại âm dạ giá tên của quả trái núi tức trái dừa. Thác đà âm trên là thác tức là nuôi lạc đà.

A-văn-trà ngược lại âm phiền vãn tiếng Phạm, không cầu chữ nghĩa.

-----------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ QUYỂN 12 HAI MƯƠI HAI NƯỚC

A-lô-nhu ngược lại âm nô đao tiếng Phạm.

Nguy đăng khi khoảnh ngược lại âm đăng hằng âm dưới khởi nghi sách Khảo Thanh cho rằng: Không thẳng, hoặc là viết khi tục viết chữ khi cũng thông dụng, sách Văn cho rằng: Từ bộ nguy thanh phộc.

Bồi lâu ngược lại âm bổ hầu ngược lại âm dưới lũ hậu Văn thông dụng cho rằng: Đất khải phong, núi đất rất nhỏ.

Lị di âm trên là lý âm dưới là dĩ gọi là núi quanh co, vòng vèo liên tiếp nhau.

Giảo ly ngược lại âm trên là giao âm dưới sĩ tri đều là chủng loại cá rồng.

Túc bảo âm trên là túc tức là loài chim diều hâu, chim ưng, Mã Dung cho rằng: Chim túc lại giống như chim nhạn lông có màu xanh lục. Đầu cao, cổ dài giống như ngựa, cho nên Tả Truyện gọi là đời Đường Thành Công có hai con chim túc giáp mã, sách Thuyết Văn cho rằng: Túc giáp phương tây gọi là chim thần, âm dưới là bảo theo Mao Thi Truyện cho rằng: Túc bảo loại chim dã nhạn lông vũ tập trung cuộn vào nhau, âm vũ là âm vu vũ sách Thuyết Văn cho rằng: Chuyển viết trong từ bộ tấn viết thành chữ bảo cũng thông chữ chánh thể từ bộ bảo âm bảo là âm bảo hoặc là viết chữ cù cũng đồng. Càn tích âm tích thịt phơi khô. Ô-sát-quốc hồ ngữ.

Lung tung âm trên lung âm dưới tổng lung tung là núi cao cheo leo mà lại nguy hiểm.

Nhai hiềm tránh vinh âm hiềm ngược lại âm khiếp diểm eo vách núi cong vòng vèo, núi cao chót vót âm tranh ngược lại âm tra hành âm vinh là âm hoành.

Quyết mục ngược lại âm uyên duyệt gọi là khều móc mắt ra. Ẩm duẫn ngược lại âm tuyền nhuyễn uống bú sữa.

Thất-tuấn-già-sơn ngược lại âm lực dứng chứng hồ ngữ tiếng người nước Hồ, lại cũng âm lực dưng.

Giáp liên âm liên liên giáp là sợi dây. Ẩm tiện âm tiện.

Bề-ma ngược lại âm thất mê Hồ ngữ. Hồ khẩu âm hồ.

Quy nhiên ngược lại âm khưu quỹ núi cao mà lại đứng riêng lẻ một mình, văn trước trong quyển thứ sáu đã giải thích rồi.

Ly ngọc hào ngược lại âm sửu di sách Vận Anh cho rằng: Ly là thoải mái, thư thả, Văn Ký viết chữ cầm viết thành chữ cầm cũng thông dụng.

Vi lự ngược lại âm chư dư sách Vận Anh cho rằng: Lự là thư thả thong thả.

Bí ư ngược lại âm bỉ ư Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bí là thận trọng, sách Vận Anh cho rằng: Đóng cửa, chữ viết từ bộ môn đến bộ tất thanh tĩnh.

Vi xuyên ngược lại âm quỹ vi tên của dòng sông cũng gọi là địa danh.

Tập hành ngược lại âm tẩm nhập che lợp sửa chữa nhà. Ngô hội ngược lại âm cổ ngoại hội là tra cứu, xem xét. Sậu di ngược lại âm sậu cứu ngựa chạy mau.

Thần trung âm trung Văn Ký viết không thành chữ. Kinh tứ ngược lại âm tư tự thuộc là cái rương, hòm làm bằng tre. Thiếu-ca-duy ngược lại âm trên là thiêu chước gọi là nhìn ra xa. Vô vô âm vô sách Khảo Thanh cho rằng: Dáng đẹp, lại chữ hình thanh, từ bộ mục sách Vận Anh cho rằng: Hé mắt nhìn.

Tấn thân âm trên là tấn âm dưới là thân.

Đảng luân ngược lại âm thang lãng lại âm đương lãng.

Nguyên phương ngược lại âm ngũ quan gọi là lừa dối.

Trác điêu âm trên là trác âm dưới đinh yêu gọi là đốn chặt, khắc chạm điêu khắc.

Biển năng ngược lại âm trên biên miến nhỏ hẹp. Cảnh khái ngược lại âm trên cảnh hạnh.

Hoàng cực nhị thập niên tức là Trinh Quán năm thứ hai mươi, chỗ nói là hoàng cực đó tiếc là hoàng đế ngự cực đến năm hai mươi.

Khoa phụ ngược lại âm chiêm hoa sách Khảo Thanh cho rằng: Xa xỉ phung phí, đại ngu, tục tự giải thích đuổi theo mặt trời chạy theo khát nước mà chết giữa đồng hoang.

Ngoại Hựu ngược lại âm vưu cứu vườn cấm nuôi hươu nai gọi là hưu vườn nuôi thú, thiên tử tức là vua, vườn rộng trăm dặm, chư hầu ba mươi dặm vườn để đi săn.

Quỳnh cổ ngược lại âm hỏa sính quỳnh là xa xôi.

Đào phú ngược lại âm trên đào đáo chữ khứ thanh, chữ viết từ bộ đảo đến bộ hỏa đều điểm che dấu, ngược lại âm dưới phu cứu.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn.

Âm Đại Đường Từ Ân Tự

Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Truyện Tựa.

QUYỂN 83

Ký phu ngược lại âm trên kỳ khí sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ký là cùng với, đến, sách Thuyết Văn viết từ bộ đán thanh ký.

Đậu ky ngược lại âm trên đầu hầu Tự Thư cho rằng: Đậu là lưu giữ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Đậu là ngừng lại, dừng lại, đình lại, chữ viết từ bộ xước thanh đậu ngược lại âm dưới là ký hy sách Khảo Thanh cho rằng: Ky là sáng suốt rõ ràng, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Chỗ nhỏ bé, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ phát ra cơ động đầu máy, chữ viết từ bộ mộc thanh ky theo truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ ky là sai.

Phẩu tích ngược lại âm phổ khẩu Cố Dã Vương cho rằng: Phẩu giống như phá ra Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phân trong ra là phẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đao đến bộ phẩu ngược lại âm dưới tiên lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phân tích, sách Thuyết Văn cho rằng: Phá ra chẻ cây ra chữ viết từ bộ mộc thanh cân trong truyện viết từ bộ phiến viết thành chữ tích tục tự dùng cũng thông dụng.

Dịch túy ngược lại âm dinh ích sách Thuyết Văn cho rằng: Dịch là nói tứ di, chữ viết từ bộ ngôn thanh dịch âm dịch đồng với âm trên, ngược lại âm dưới là tuy túy Vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tinh túy, sách Thuyết Văn cho rằng: Túy là không tạp, chữ viết từ bộ mễ thanh tốt.

Chí trách ngược lại âm dưới sĩ trách sách Chu Dịch cho rằng: Trách là chỗ xưng gọi rất thâm u, xưa nay Chánh tự viết từ bộ di thanh trách âm di là âm di.

Cánh chấn ngược lại âm dưới chi nhẫn Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Chẩn là đòn ngang phía sau xe, kinh Thái Huyền cho rằng: Chẩn là chiếc xe di chuyển trên dường sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ xa âm chân đồng với âm trên.

Dương tiêu ngược lại âm bĩ miêu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trục ngang xe nhỏ, Văn Tự Tập Lược cho rằng: Cũng gọi là hàm thiết ngựa, sách Thuyết Văn cho rằng: Đặt giữa miệng ngựa, chữ viết từ bộ kim thanh tiêu âm du là âm do âm tiêu ngược lại âm bạc giao.

Huyền nhĩ ngược lại âm dưới di bì sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nhị cây cung mà không có dây gọi là nhị sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cung thanh nhị.

Bội huề ngược lại âm trên bổ muội Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: vật mang trong mình để phục sức gọi là bội sách Thuyết Văn cho rằng: Đeo ngọc bội lớn, chữ viết từ bộ nhân thanh bội tất cũng có viết từ bộ cân cân gọi là trang sức, ngược lại âm dưới hứa quy theo Mao Thi Truyện cho rằng: Chỗ gọi là mở cái gút ra gọi là thành người lớn, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hình như cây kim nhọn làm bằng sừng dùng để tháo gút thắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ giác thanh huề theo truyện viết chữ huề tục tự dùng chẳng phải âm huề ngược lại âm huệ khuê.

Mỗi khái ngược lại âm khai ái sách Khảo Thanh cho rằng: Khái là tiếng than thở, buồn phiền, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh khái.

Đố giản ngược lại âm đô cố sách Mục Thiên Tử Truyện cho rằng: Đố là con sâu mọt ăn sách, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là con sâu mọt ăn bên trong cây gỗ, chữ viết từ bộ côn đến bộ thác thanh tĩnh âm côn là âm côn âm thác là âm thác.

Cao bôn ngược lại âm phò vân Hán Thư âm nghĩa giải thích: Bôn là binh xa của bọn Hung Nô, theo Thanh Loại cho rằng: Cũng là chiến xa công phá thành, xe đánh giặc, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh bôn âm bôn là âm bôn.

Cự xí ngược lại âm trên cự cử theo Khảo Thanh cho rằng: Cự là to lớn, theo Văn Truyện viết chữ thần là chẳng phải, ngược lại âm dưới là binh chí sách Khảo Thanh cho rằng: Xí là cái phướn nêu cao lên có viết chữ, lấy vải lụa trắng dài năm thước rộng nữa bức có viền mép treo lên như cờ trên, xưa nay Chánh tự cho rằng: Chữ viết từ bộ cân thanh thức truyện viết từ bộ tâm viết thành chữ thức là sai, âm thức là âm thức.

Bưu tuấn ngược lại âm trên hữu cầu Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Bưu là chuyển văn thư bằng đường bộ, Trịnh Chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Bưu là tem thư, sách Thuyết Văn cho rằng:

Bưu cũng còn gọi là gian nhà dựng ở cánh đồng, quan lại có liên quan chuyển thư từ, chữ viết từ bộ ấp thanh đóa Văn Truyện viết từ bộ phửu viết thành chữ tá ngược lại âm tinh dạ tức là dây cương buộc ngựa, chữ cùng với bổn nghĩa quái lạ, ngược lại âm dưới là tôn tuấn Quách Phác chú giải sách Tiểu Nhã rằng: Tên gọi con ngựa hay, con ngựa đẹp là tuấn, cũng gọi là con ngưa chạy mau, sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa tài giỏi chữ viết từ bộ mã thanh tuấn.

Nha chi ngược lại âm trên là ngũ giá sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nha là nghinh tiếp, đón tiếp, xưa nay Chánh tự viết từ bộ xước thanh nha.

Điền thành ngược lại âm điện niên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Điền là chứa đầy lấp kín chỗ trống, Quách Phác chú giải rằng: Tiếng đông người đi, tiếng đám người ồn ào, chữ viết từ bộ môn thanh chân.

Tướng tướng ngược lại âm thất tướng Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tướng tướng là sĩ đại phu tướng uy nghi, theo truyện giải thích: Tướng tướng cũng là tụ tập, sách Thuyết Văn cho rằng: Tương tương là nhiều, chữ viết từ bộ túc thanh tướng theo truyện viết từ bộ kim viết thành chữ tương tương là tiếng của nhạc khí.

Bân quốc ngược lại âm bút mân Trịnh Huyền chú giải Thi Phổ Truyện rằng: Bân là địa danh biên giới của nước Nhung Địch, Công Lưu giải thích: Chỗ gọi là phong ấp nơi vùng xa xôi hẻo lánh, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ sơn thanh bân âm bân là âm bân.

Chúc chi ngược lại âm chung nhục sách Khảo Thanh cho rằng: Nhìn, nhiều con mắt chú tâm nhìn về một chỗ, chữ viết từ bộ mục thanh chúc Văn Truyện viết chữ chúc tục tự dùng thông dụng.

Toàn chi ngược lại âm toán quan Cố Dã Vương giải thích: Toàn là cái dùi khoan đục, sách Thuyết Văn ghi: Chỗ gọi là đục xuyên qua, chữ viết từ bộ kim thanh tán. Tước cảo ngược lại âm trên tương lược Quảng Nhã giải thích tước là tiêu diệt, từ bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh tiếu ngược lại âm dưới cao lão sách Sử Ký ghi: Khuất Nguyên soạn ra hiến pháp, nay thuộc pháp lệnh, mà bản thảo chưa định, Cố Dã Vương cho rằng: Cảo giống như là cỏ khô rơm rạ chữ viết từ bộ hòa thanh cao Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ cảo tục tự dùng thông dụng.

Sưu cấu ngược lại âm trên sở chu Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Sưu là xem duyệt, tượng hình cho rằng: Tìm Cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh sưu văn Truyện Viết chữ sưu viết thành chữ sưu tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới cấu lậu sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy tài sản có mua sắm gọi là cấu âm cấu đồng với âm trên.

Tháo hàn ngược lại âm thảo lao sách Thuyết Văn cho rằng: Thảo là ôm ấp giữ lấy chữ viết từ bộ thủ thanh tháo ngược lại âm dưới hàn cán sách Khảo Thanh cho rằng: Lông chim, sách Thuyết Văn cũng bay cao đến trời, chữ viết từ bộ vũ thanh cán Văn Truyện viết từ bộ hấp viết thành chữ hàn tục tự dùng thông dụng, âm táo ngược lại âm tang đáo âm cán ngược lại âm vu ngạn.

Hoàn lan ngược lại âm trên hồ quan Văn Truyện giải thích Khác hoàn là phiếm tức là trôi nổi trên mặt nước, cũng viết từ chữ hoàn sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh hoàn ngược lại âm dưới lạc can (843) sách Nhĩ Nhã cho rằng: Sóng lớn gọi là lan sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh lan.

Bức ức ngược lại âm trên phi bức ngược lại âm dưới ưng cực Cố Dã Vương cho rằng: Bức ức giống như đầy tràn, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Bức ức cũng là đầy hơi, Ngọc Thiên cho rằng: Hoặc là viết từ bộ viết thành chữ bức sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ ức văn cổ viết từ bộ ất viết thành chữ ức Văn Truyện viết từ bộ nhục viết thành chữ ức tục tự dùng thông dụng.

Nhu ngõa thạch ngược lại âm trên nữ hựu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu là lộn xộn Tự Thư cho rằng: Cũng viết chữ nhu âm cũng đồng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mễ thanh nhu.

Lâm cầu ngược lại âm trên lập kim Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lâm là tên loại ngọc, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh lâm âm dưới là cầu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cầu cũng là tên ngọc, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh mâu.

Thác tông ngược lại âm trên thương các Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thác là lộn xộn tạp loạn sai lầm, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh tích ngược lại âm dưới là tông tống sách Thuyết Văn cho rằng: Tông là giềng mối đầu mối chỉ giữ lấy tất cả đầu mối chỉ giao nhau, chữ viết từ bộ mịch thanh tông.--------------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 1

Hầu thị ngược lại âm trên cẩu hầu Hán Thư cho rằng: Ở Hà Nam có treo hầu thị trên cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh hầu.

Giới ư ngược lại âm trên giai giới Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Giới là đến, sách Thuyết Văn viết từ bộ thị thanh do.

Huyền Trang ngược lại âm dưới tạng lang sách Phương Ngôn giải thích rằng: Trang là to lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ đại thanh trang.

Tư lệ âm lệ Xuân Thu Truyện giải thích rằng: Tư lệ là nắm giữ lấy năm điều pháp lệ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lệ là quan chức thấp, xưa nay Chánh tự viết từ bộ mễ đến bộ nhập thanh lệ.

Khuê chương ngược lại âm trên quỹ huề Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cầm nắm viên ngọc khuê cũng là dụng cụ đo chiều dài, có hai tấc, Bạch Hổ Thông giải thích: Nói là ngọc trong sạch thanh khiết, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh khuê âm dưới chước dương Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Một nữa viên ngọc khuê gọi là chương Bạch Hổ thông cho rằng: Chương gọi là ngọc sáng, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh chương.

Hoàn hội ngược lại âm trên hoạt quan Quảng Nhã cho rằng: Hoàn là cổng ngoài đường, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh hoàn ngược lại âm dưới là hồ đối sách Thuyết Văn giải thích: Hội là cổng ngoài chợ, hoàn hội là chỗ chợ búa, chữ viết từ bộ môn thanh hội.

Tào tán ngược lại âm trên dủy lao ngược lại âm dưới là tài hạt Quảng Nhã cho rằng: Tào mị là tiếng dê kêu, xưa nay Chánh tự cho rằng: Tiếng trống, chữ viết sắc-từ bộ khẩu đều thanh tào tận Văn Truyện viết từ bộ tán viết thanh chữ tán tục tự dùng thông dụng.

Tường chứ ngược lại âm trên tượng lương ngược lại âm dưới chữ lự sách Phương Ngôn cho rằng: Chứ là cất cánh bay, sách Sở Từ cho rằng: Bay lượn, bay liệng, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Cất cánh bay lượn, chữ viết từ bộ vũ thanh giả.

Phục ứng ngược lại âm dưới ức lăng sách Thuyết Văn ghi rằng: Ứng là trước ngực chữ viết từ bộ nhục thanh ưng.

Kiệt chích ngược lại âm trên là kiền ngược lại âm dưới là chinh diệc.

Khô trước ngược lại âm khổ cô Thiên Thương Hoét ghi: Khô là người đồ tể giết mổ, phanh ra, sách Phương Ngôn giải: Róc xương lấy thịt, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh khoa ngược lại âm dưới trắc lược Quảng Nhã giải thích: Trước là chém, chặt, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác là chém, sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh tích.

Sam di ngược lại âm trên Sở Hàm Mao Thi Truyện giải: Sam là dụng cụ trừ cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh thù ngược lại âm dưới dĩ chi sách Nhĩ Nhã cho rằng: Di là bằng phẳng, san bằng, lại cũng gọi là diệt sạch, sách Chu Lễ giải thích: Lấy nước tưới lên cỏ, nhổ sạch tận gốc, dứt hết không còn gốc cỏ, sam di đó, Văn Tự Điển nói: Người Di Địch bộ tộc giỏi làm cung lớn, cho nên chữ viết từ bộ đại đến bộ cung.

Dương đế ngược lại âm trên dương lượng hiệu là trụy đế ích, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh dương âm dương là âm dương.

Tán công ngược lại âm trên tạc hà nước Hán Bái nay thuộc huyện Bái Túc Hà chỗ phong đất ấp. Nay thuộc quận Tiều, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh tán.

Bát hoành âm hoành sách Hoài Nam Tử giải thích: Biết Tám đường chỉ ngang chín đường chỉ dọc, tức là tung hoành tám phương chín hướng, Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Hoành là sợi dây kỹ cương phép tắc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh hoằng âm hoằng đồng với âm trên, Văn Truyện viết từ bộ miên viết thành chữ hằng nghĩa là to lớn.

Hội cang ngược lại âm trên đội lôi Quảng Nhã cho rằng: Hội là hư hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Rơi xuống, rớt xuống bùn, chữ viết từ bộ phụ thanh hội Văn Truyện viết chữ đồi tục tự dùng thông dụng, hoặc là viết chữ đồi.

Bao tỏa ngược lại âm bổ mao sách Thuyết Văn ghi: Bao là gói lại có chỗ bao bọc lại bên trong, Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ bao cũng thông dụng, ngược lại âm dưới thô ngọa sách Thuyết Văn ghi: Tỏa là bẻ gãy, chữ viết từ bộ thủ thanh tọa.

Tuần vấn ngược lại âm tuất tuân.

Duyên giang ngược lại âm trên duyệt quyến Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Men theo nước chảy mà xuống gọi là duyên sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh duyên.

Thân thí ẩm tên sơ cân Văn Tự Tập Lược cho rằng: Đem của cải thí cho, Văn Truyện viết từ bộ bối viết thành chữ thân cũng thông dụng.

Vô cảnh ngược lại âm canh cánh bệnh cuồng, cương trực, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cảnh giống như là hại, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh cảnh.

Hồng đào ngược lại âm trên hộc công Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hồng là to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước dâng cao, chữ viết từ bộ thủy thanh cộng ngược lại âm dưới đường hào Thiên Thương Hoét ghi rằng: Đào là sóng lớn, sách Thuyết Văn ghi rằng: Đào là thủy triều dâng cao, nổi sóng lớn, chữ viết từ bộ thủy thanh đào.

Hung dũng ngược lại âm trên hung cộng sách Thuyết Văn giải thích: Hung tức là dũng gọi là sóng nước bắn vọt lên cao đùng đùng, ầm ầm, ào ạt, chữ viết từ bộ thủy thanh hung ngược lại âm dưới dung chủng sách Thuyết Văn cho rằng: Dũng cũng là đằng nước bắn vọt lên, chữ viết từ bộ thủy thanh dũng cũng viết chữ dũng.

Thuyền bát ngược lại âm dưới phan miệt Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bát là gần, sách Thuyết Văn ghi thuyền trong biển lớn, chữ viết từ bộ mộc thanh bát Văn Truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ phạt tức là cái bè tục dùng chẳng phải.

Tuấn tiếu ngược lại âm trên tuần tuấn ngược lại âm dưới thất diệu Thanh Loại giải thích: Tiếu cũng là núi cao chót vót, sách Thuyết Văn hoặc là viết từ bộ phụ viết thành chữ tiếu.

Đoàn phiêu ngược lại âm trên hà loan theo Thanh Loại cho rằng: Đoàn là nắm bắt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh duyên ngược lại âm dưới thất diêu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nâng lên đong đưa gọi là diêu, Quách Phác chú giải rằng: Gió mạnh xoáy từ trên xuống, chữ viết từ bộ phong thanh diêu.

Táp chí ngược lại âm tam hạp Cố Dã Vương giải thích: Táp gọi là gió thổi cây lá rơi rụng tiếng kêu xào xạc, sách Thuyết Văn cho rằng: Gió xoáy quanh, chữ viết từ bộ phong thanh lập.

Khể tảng ngược lại âm dưới tang lãng.

Mạc-hạ-diên-tích ngược lại âm thanh lịch ở trong cô tàng phía tây một ngàn dặm, cảnh giới con người sống tuyệt không có nước, cây cỏ, chỉ có đá sỏi gọi là thích chữ viết từ bộ thạch thanh trách.

Sầu hội ngược lại âm công đối sách Thuyết Văn cho rằng: Hội là loạn, trong lòng nổi loạn, chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Ưu võng Âm võng Trịnh tiển chú giải sách Lễ Ký rằng: Võng giống như là vô tri, ý thức không biết gì cả, sách Thuyết Văn cho rằng: Tượng hình trơ như tượng đá, buồn chán, buồn bã bâng khuâng, Văn Truyện viết từ bộ tâm viết thành chữ võng tục tự dùng cũng thông dụng.

Đôn hoàng ngược lại âm đôn đôn âm dưới hoàng lung tên gọi của quận Hữu Đạo, nay là Sa Châu.

Tể bính quả ngược lại âm trên tế tề sách Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ tể Văn Truyện viết chữ tể tục tự dùng thông dụng, chữ viết từ bộ bối thanh tề.

Mậu y tư ngược lại âm mâu hầu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mua bán, cũng là chợ búa, mua bán, sách Thuyết Văn cho rằng: trao đổi tài vật chữ viết từ bộ bối thanh mậu.

Bất dịch ngược lại âm dinh ích sách Thuyết Văn giải thích: Dịch là vui vẻ hài hòa, chữ viết từ bộ tâm thanh dịch.

Quỹ mị ngược lại âm dưới mi bí.

Quán thấu ngược lại âm trên quan đoản Cố Dã Vương cho rằng: Phàm tẩy rửa vật gọi là quán sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cửu bộ thủy đến bộ mảnh ngược lại âm dưới sổ cứu sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ thấu là quán chữ thấu Văn Truyện viết từ bộ khẩu chữ thành chữ thấu là ho.

Xác nhiên ngược lại âm khổ giác Hàn Khang Bá giải thích: Xác là cứng chắc, sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh xác.

Quyết nhiên ngược lại âm trên ngôn kiết sách Phương Ngôn giải thích: Quyết là đơn độc, Quảng Nhã cho rằng: Quyết là ngắn ngủi, sách Thuyết Văn ghi không có cánh tay trái tức là vợ con, chữ tượng hình.

Cầu hạt âm trên cầu ngược lại âm dưới hàn hạt. Đàmã ngược lại âm đồ hà con lạc đà.

Sóc độc ngược lại âm sương tróc sách Khảo Thanh viết chữ sóc là mâm lớn, theo truyện viết chữ từ bộ mộc viết thành chữ sóc là tên của dòng sông, ngược lại âm dưới đồng lục Trịnh Hoàn chú giải sách Chu Lễ rằng:

Cờ dùng làm nghi vệ, đời Hán xe vua lấy lụa vàng làm trần, lông vũ làm cờ nghi vệ, phong hầu tế áp có loại cờ riêng biệt lấy đuôi trâu lông dài làm cờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyền thanh độc.

Nhiệt hỏa ngược lại âm nhu duyệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nhiệt là thiêu đốt, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Nhiệt là thắp sáng, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh nhiệt.

Tảng tử âm dưới là tử tên cây.

Tiển tẩu ngược lại âm trên tiên điển sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy chân không có mang giày dép mà giẫm đạp lên đất, chữ viết từ bộ túc thanh tiên.

Kha hãn âm hàn chữ giả tá hiệu của vua Bắc Địch.

Bì duệ ngược lại âm di chế theo Mao Thi Truyện cho rằng: Duệ là khó nhọc, Quảng Nhã cho rằng: Cực khổ, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Lao nhọc, chữ viết từ bộ lực thanh duệ hoặc là viết từ bộ đãi viết thành chữ duệ Văn Truyện viết từ bộ duệ viết thành chữ duệ là chẳng phải.

Yển nhân ngược lại âm yểm diêm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Là người tạng tinh khí đã đóng lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Yểm là người cứng cỏi ở trong cung, chiều tối đóng cửa chữ viết từ bộ môn thanh yểm.

Phần tấn ngược lại âm trên Phật văn kinh Sơn Hải giải thích: Phần là tên sông ở Sơn Tây Trung Quốc chảy vào Hoàng Hà, xuất phát từ Dũ từ bắc vào nam chảy vào Hoàng Hà, ngược lại âm dưới tân tẫn.

Nhượng duệ ngược lại âm ngược dương Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ngượng là cướp đoạt Cố Dã Vương cho rằng: Là cắt bỏ tay áo ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh nhương.

Tiệm xuyết ngược lại âm trắc liệt theo Thanh Loại cho rằng: Xuyết là hơi ngắn, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Xuyết là lo buồn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh xuyết.

Vi đăng ngược lại âm đăng đặng Quảng Nhã giải thích: Đăng là mang giày dép giẫm đạp lên, sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ đăng cũng là lý là dựa giẫm, ỷ lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh đăng Văn Truyện viết từ bộ túc viết thành chữ thặng đăng tức là long đong, lận đận, giẫm đạp, chẳng phải nghĩa đây dùng.

Chu tập ngược lại âm tiêm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Loại mái chèo dụng cụ chèo thuyền, chữ viết từ bộ mộc thanh tập Văn Truyện viết từ bộ chu viết thành chữ tập tục tự dùng thông dụng.

Sấm thập ngược lại âm trên sở ấm sách Thuyết Văn giải thích: Sấm là có kinh nghiệm trải qua lời tiên đoán trước, chữ viết từ bộ ngôn thanh tiêm.

Trù trừ ngược lại âm trên trụ lưu ngược lại âm dưới trữ lự.

Sá tế ngược lại âm trên trách da ngược lại âm dưới lặc lệ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Sá sế là dáng thất chí, xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng: Thất chí buồn rầu thểu não đứng không vững gọi là sá chữ viết đều từ bộ nhân đều thanh sá tế.

Tiểu loa ngược lại âm lư qua sách Khảo Thanh cho rằng: Loa tức là ốc sên, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh loa cũng có viết chữ loa tục viết chữ loa Văn Truyện viết chữ loa là sai.

Nhẫn nhiễm âm trên là nhậm cẩm ngược lại âm dưới nhi diểm. Huỳnh độc âm trên quý dinh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Huỳnh là đơn độc một mình, sách Thuyết Văn viết từ bộ tấn đến bộ dinh thanh tĩnh âm tấn là âm tín.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 2

Chuyên thạch âm trên là chuyên Bì Thương cho rằng: Gạch ngói chưa nung, sách (844) Thuyết Văn viết từ bộ ngõa thanh duyên âm lộc là âm lộc.

Ngân khoáng ngược lại âm dưới hồ mảnh sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng, thiết, kim loại v.v... còn nguyên chất, hoặc là viết khoáng chữ viết từ bộ thạch thanh quảng.

Xuyên nhai ngược lại âm ngạch giai sách Khảo Thanh cho rằng: Bên khe vách núi nguy hiểm, sách Thuyết Văn cho rằng: Vách núi cao dốc chữ viết từ bộ sơn thanh nhai âm nhai đồng với âm trên.

Ngưng hộ ngược lại âm dưới hồ cố Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hộ là đóng băng, Vương Dật chú giải Tả Truyện rằng, hộ giống như đông lạnh, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hổ.

Ngai nhiên ngược lại âm ngãi ai sách Thuyết Văn giải thích: Ngai là trắng như tuyết, chữ viết từ bộ bạch thanh khải.

Hề kính ngược lại âm trên hệ kê Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hề kính là con đường nhỏ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hề cũng là kính sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh hề.

Khi khu ngược lại âm trên khi ky ngược lại âm dưới là khu sách Khảo Thanh cho rằng: Khi khu là núi gập ghềnh, nghiêng lệch không bằng phẳng, chữ viết đều từ bộ sơn đều thanh kỳ khu Văn Truyện viết từ bộ khưu viết thành chữ khu tục tự dùng thông dụng.

Phục lý ngược lại âm phù phục sách Thuyết Văn cho rằng: Phục là áo lót, chữ viết từ bộ y thanh phục.

Nhi xuy ngược lại âm dưới xỉ vi sách Thuyết Văn cho rằng: Thổi lửa là bếp, chữ viết từ bộ hỏa thanh khiếm.

Ủy đóng ngược lại âm ủy vi sách Thuyết Văn giải thích: Ủy là bệnh chữ viết từ bộ ngạt thanh ủy ngược lại âm dưới đông lộng sách Thuyết Văn cho rằng: Đống tức là băng chữ viết từ bộ băng âm băng là âm băng thanh đông.

Diền du ngược lại âm trên điện lân sách Thuyết Văn giải thích: Điền là ruộng bằng phẳng, chữ viết từ bộ điền thanh phộc.

Lý ngạch ngược lại âm nhũ cách sách Thuyết Văn ghi: Ngạch là cái trán, chữ viết từ bộ hiệt thanh các Văn Truyện viết từ bộ khách viết thành chữ ngạch cũng thông dụng.

Xế mao ngược lại âm trên xu nhuế Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Xế là dệt lông mịn, Trịnh Chúng chú giải rằng: Xế là thảm nhung, áo nhung lông thú mịn, sách Thuyết Văn cho rằng: Lông thú nhuyễn, chữ viết từ ba bộ mao.

Trọng nhân ngược lại âm nhất lân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhân là đệm, thảm nệm, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh nhân.

Phu nhục ngược lại âm dưới nhung chúc sách Khảo Thanh cho rằng: Chiếu cỏ đệm cỏ dày, lụa còn ước, chữ viết từ bộ thảo thanh nhục Văn Truyện viết từ bộ mịch viết thành chữ nhục tục tự dùng chẳng phải.

Tốt hồn ngược lại âm trên tô một ngược lại âm dưới hồ côn theo bổn truyện nghĩa là người bộ tộc Di Địch là dụng cụ.

Cấm mạt âm trên là cấm ngược lại âm dưới mạt sách Vận Thuyên cho rằng: Cấm là đầu ngước lên, sách Khảo Thanh cho rằng: Tên nhạc khí của bộ tộc bắc Di Địch.

Khan tương ngược lại âm trên khách hài ngược lại âm dưới tích lương sách Ngọc Thiên cho rằng: Khanh tướng đều tiếng kim loại khua leng keng, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ kim.

Hanh tiên ngược lại âm phách manh sách Văn Tự Tập Lược cho rằng: Hấp chưng thức ăn nước, hơi nước bốc lên âm dưới tiên diên sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng từ ba bộ ngư Văn Truyện viết chữ tiên tục tự dùng thông dụng.

Cao độc âm trên cao âm dưới là độc.

Nhất tập ngược lại âm tầm lập Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tập giống như nhiều lớp sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y đến bộ tập thanh tĩnh âm tập là âm đại táp.

Giả thời quốc ngược lại âm trên giá dạ tên nước. Đường Huyền Trang nói thạch quốc.

Táp-mạt-kiền-quốc ngược lại âm trên tam hạp âm kế văn phát tên nước, Đường Huyền Trang khang quốc.

Khác hãn quốc ngược lại âm trên hồ cát âm giữ là hạn Đường Huyền Trang nói Đông An Quốc.

Môn phi ngược lại âm phỉ vi.

Diệp thiết ngược lại âm trên dư hiệp sách Thuyết Văn ghi: Nước Tề gọi là tập tức là cứng rắn, chắc chắn, ngược lại âm tài nhập chữ viết từ bộ kim thanh diệp.

Vi linh ngược lại âm lịch đinh.

Soán lập ngược lại âm sơ gián sách Khảo Thanh cho rằng: Giết mà cướp đoạt ngôi vị cũng gọi là giữ lấy, trên từ bộ trúc.

Hiển xưởng ngược lại âm dưới xương nhương Thiên Thương Hoét cho rằng: Cao ráo thoáng mát hiển lộ to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Sửa chữa đồi đất cao có thể đứng nhìn trông ra xa, chữ viết từ bộ phộc thanh thượng.

Du nhuận âm trên là du Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Du là bụng xệ, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh du ngược lại âm dưới nhuận vận.

Táo quán âm trên là tảo ngược lại âm dưới quan loạn sách Khảo Thanh cho rằng: Đồ sành sứ, hoặc là viết chữ quán.

Quan thụy ngược lại âm dưới thùy ngụy Thiên Thương Hoét cho rằng: Thụy là điều ứng tốt lành, hiện tượng ứng với điềm may, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thụy cũng là tin điềm lành, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh đoan âm đoan là âm đoan.

Trữu bính ngược lại âm trên chu dậu Cố Dã Vương cho rằng: Trữu chỗ gọi là lấy cây chổi quét dọn trừ sạch phân dơ bẩn, sách Thuyết Văn viết từ bộ hựu tức nay giữ cái khăn cầm cây chổi quét ngoài cửa, ngược lại âm dưới binh mạng Tự Thư cho rằng: Bính là cầm nắm cán, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh bính.

Cơ chỉ ngược lại âm chi thỉ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dấu chân Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: cũng là dấu chân, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chỉ.

Sao mật ngược lại âm xưởng chiểu sách Khảo Thanh cho rằng: Sao rang sấy gạo lúa mì bột mì cho khô, Văn Truyện viết từ bộ thiếu viết thành chữ sao tục tự dùng thông dụng ngược lại âm dưới dân tất.

Trách ca quốc ngược lại âm trên trắc cách tên nước. Du vịnh ngược lại âm trên dậu chu ngược lại âm dưới dinh bính sách Nhĩ Nhã cho rằng: Du vịnh là bơi lội chữ viết từ bộ thủy thanh vĩnh.

Tạm tề ngược lại âm dưới tử kế sách Thuyết Văn ghi mưa mới tạnh, chữ viết từ bộ vũ thanh tề.

Du thạch ngược lại âm tú lâu sách Khảo Thanh cho rằng: Du thạch giống như là kim loại chữ viết từ bộ kim đến thanh du.

Giáng sắc ngược lại âm trên giang hạng sách Khảo Thanh cho rằng: Giáng là sợi tơ màu đỏ. Sách Thuyết Văn giải thích: Giáng cũng là màu đỏ.

Trấn vũ ngược lại âm chân lận Văn Truyện viết từ bộ triển viết thành chữ triển là chẳng phải.

Thiếu tập ngược lại âm tiềm sáp sách Khảo Thanh cho rằng: Tập là thâu gom, cất giữ, sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh tập.

Khiếp phục ngược lại âm liêm hiếp Quảng Nhã cho rằng: Khiếp là có thể thỏa lòng vừa ý, lại thuận phục là khiếp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh khiếp âm khiếp đồng với âm trên, hoặc là viết chữ khiếp.

Miệt-lệ-xa ngược lại âm trên miên miết âm dưới là kế Đường Huyền Trang nói là Biên địa.

Khôi tẩn ngược lại âm dưới từ tấn Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Lửa cháy còn dư lại tro tàn gọi là tẩn, sách Thuyết Văn viết chữ tẫn từ bộ hỏa thanh duật.

Thúc nhi ngược lại âm thâu lục Quảng Nhã cho rằng: Thúc là lửa cháy sáng, sách sở từ cho rằng: Chợt bổng nhiên rất nhanh, sách Thuyết Văn giải thích: Con chó chạy, chữ viết từ bộ khuyển thanh du Văn Truyện viết từ bộ hỏa viết thành chữ thúc là sai.

Hy dung ngược lại âm kỹ nghi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hy là sáng chói, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh hy âm hy là âm di.

Mộng-yết-ly-thành ngược lại âm trên mặt bằng ngược lại âm dưới lý tri tiếng Phạm, tên thành ở Tây Vực.

Phi phi ngược lại âm phân vi Mao Thi Truyện cho rằng: Phi phi là mưa tuyết trắng xóa, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vũ thanh phi.

Thân tự ngược lại âm từ tự theo Thanh Loại cho rằng: Tự là cho ăn, sách Lễ Ký Khổng Tử nói rằng: Thí ít cho dân đen gọi là thực ta lấy lễ mà đối đãi đó vậy, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh nhân.

Hằng tỏa ngược lại âm trên đản hằng sách Thuyết Văn cho rằng: Hằng là sợi dây lớn, chữ viết từ bộ mịch thanh hằng Văn Truyện viết từ bộ hoàn viết thành chữ hoàn ngược lại âm hồ quan chẳng phải nghĩa văn truyện, ngược lại âm dưới tô quả Tự Thư cho rằng: Tỏa là móc xích liên kết với nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh tỏa Văn Truyện viết từ bộ tỏa viết thành chữ tỏa tục tự dùng thông dụng.

Tiển nhiếp ngược lại âm trên tiền diễn ngược lại âm dưới niêm triếp Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiển là mang giày dép giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiếp cũng là giẫm đạp đều từ bộ túc đều thanh tàn nhiếp.

Khắc mộc ngược lại âm trên khẳng lặc sách Thuyết Văn cho rằng: Khắc chạm, chữ viết từ bộ đao thanh hội.

Bát-lạt-bà âm giữa lan đát tiếng Phạm, Đường Huyền Trang nói: Nguyệt Quang.

Yên hoa ngược lại âm trên yến hiền Văn Truyện viết chữ yên âm nhân yên là nghĩa ấm áp, cũng chẳng phải, yên là khói, sương móc mù mịt.

Vu hành âm trên là vu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Căng mắt mà nhìn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh vu.

Ô-ba-đệ-thước-luận ngược lại âm trên thương chước, xưa gọi là Ưu-ba-đề-sá cũng sai.

La-mạn âm trên là la âm dưới là vạn.

Thấu xuất ngược lại âm trên thâu lậu xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thấu suốt xuyên qua, kinh sợ, chữ viết từ bộ xước thanh tú.

Cẩn nhi ngược lại âm cận sầu cận là qua loa ít, chẳng qua, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh cận âm cận là âm cẩn.

Hà tân âm tân.

Yết-nhược-cúc-là-quốc âm giữ là cúc tiếng Phạm.

Quần liệu ngược lại âm dưới liễu diêu Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Bạn làm quan với nhau gọi liêu sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh liêu.

Tú kiệt âm kiệt theo Mao Thi Truyện cho rằng: Kiệt là đứng riêng biệt, sách Hoài Nam tử cho rằng: Trí tuệ vượt hơn ngàn người gọi là kiệt, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh kiệt.

Lao lung ngược lại âm trên lão đao Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Lao là nhàn rỗi, sách Thuyết Văn cho rằng: Con bò, con ngựa được nuôi trong chuồng nhàn nhã, theo đông tĩnh là lấy bốn bên rào quanh làm chợ là đem ra bán ngoài chợ, ngược lại âm dưới lục đông sách Trang Tử nói rằng: Con chim ở trong lồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh long.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 3

Đại hải ngược lại âm dưới hai ngai Thiên Thương Hoét ghi Kinh hãi sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh khái.

Thiện chu ngược lại âm trên thời xiển theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Thiện là đất bằng phẳng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thiện là đất ngoài đồng hoang dã, chữ viết từ bộ thổ thanh đơn theo bổn truyện gọi là quét đất bằng phẳng.

Chuyên khám ngược lại âm kham hàm Quảng Nhã cho rằng: Khám là chứa nhiều, sách Thuyết Văn cho rằng: Hang rồng ở, chữ viết từ bộ long đến bộ hàm thanh tĩnh Văn Truyện từ (845) bộ hợp là chẳng phải.

Tầng cấp ngược lại âm trên tặng tằng ngược lại âm dưới kim lập.

Đôi điệp âm trên đô hồi Vương dật chú giải sách Sở từ rằng: Đôi là đóng đất cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh chuy ngược lại âm dưới đãi hiệp Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Điệp là bức tường thấp bên thành, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh diệp.

Viên lũy ngược lại âm trên vũ huyên Mao Thi Truyện cho rằng: Viên là bức tường, ngược lại âm dưới luy quỹ Quảng Nhã cho rằng: Lũy là xây nhiều lớp tường.

Khoảnh khắc ngược lại âm trang lực sách Thuyết Văn ghi: Trắc là mặt trời đã ngã về phương tây, tức là xế chiều quá ngọ, chữ viết từ bộ nhật thanh trắc hoặc là viết chữ trắc đều đồng nghĩa.

Miến duy ngược lại âm miên biển Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Miến tưởng nhớ, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh diện hoặc là viết chữ miến.

Ô ế ngược lại âm ô hồ âm dưới yên kiết. Tân lang âm trên là tân âm dưới là lang. Đậu khấu ngược lại âm hồ cấu.

Cầu đống ngược lại âm trên kỳ do ngược lại âm dưới đông lộng lại viết chữ cầu Quảng Nhã cho rằng: Đống là đòn dông, đòn tay chính giữa nhà chỉ những người giữ chức vụ quan trọng, chữ viết từ bộ mộc thanh đông.

Túc lô ngược lại âm lỗ đô lô là cây đòn kê trên cột, cây gỗ vuông, chữ viết từ bộ mộc thanh lô.

Văn tỳ ngược lại âm tỵ ty Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tỳ là mái hiên nhà, theo Thanh Loại cho rằng: Nhà liên tiếp nối nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chái nhà, chữ viết từ bộ mộc thanh tỳ Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ tỳ là chẳng phải.

Manh tiếp ngược lại âm trên là manh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Manh là cái mè đóng trên rui nhà để móc ngói, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là đòn dông nhà, chữ viết từ bộ ngõa đến bộ manh thanh tĩnh.

Suy liên ngược lại âm thế trụy sách Nhĩ Nhã cho rằng: Góc nhà gọi là suy Quách Phác chú giải rằng: Tức là rui nhà, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh suy.

Canh mễ ngược lại âm cách hành sách Thuyết Văn giải thích: Thuộc lúa chín muộn, ít dẻo, chữ viết từ bộ hòa thanh khang.

Kiết-lật-đà-la-củ-sá ngược lại âm kỳ kiết tiếng Phạm.

Hộ khích ngược lại âm hướng kích Cố Dã Vương cho rằng: Khích giống như khe hở xuyên qua cái hang, sách Thuyết Văn cho rằng: Khích là vách tường bị nứt có khe hở, chữ viết từ bộ phụ thanh khích âm khích đồng với âm trên.

Lũ-ha-sơn ngược lại âm cụ cũ tên núi ở Tây Vực.

Sát hạch ngược lại âm sơn bát sách Hoài Nam Tử cho rằng: Chim vỗ cánh bay cao bỏ lại lông chim, con thú chạy bỏ lại dấu chân, sách Khảo Thanh cho rằng: Sát là lông chim bệnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kim thanh sát Văn Truyện viết từ bộ xuyết viết thành chữ xuyết là sai.

Nham nghiển ngược lại âm dưới ngôn kiển Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nghiển là núi nhỏ mà cao mây mưa bao phủ, sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh nghiên.

Câu lan ngược lại âm trên cẩu hầu Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Câu là móc mà kéo lôi ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Móc câu cong lại, chữ viết từ bộ kim thanh câu ngược lại âm dưới lãn đan sách Khảo Thanh cho rằng: Lan là lấy cây che trước cửa, Văn Truyện viết từ bộ viết thành chữ lan là tên của cây, chẳng phải bổn nghĩa.

Quần-trĩ-ca ngược lại âm trên quân vẫn ngược lại âm dưới trì kỹ tiếng Phạm, trong truyện tự giải thích.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 4

Thâm khoát ngược lại âm khoang hoạt theo sách Khảo Thanh cho rằng: Khoát là cửa rộng rãi, chữ viết từ bộ môn thanh hoạt Văn Truyện viết từ bộ thiệt viết thành chữ khoát là chẳng phải.

Sài tự ngược lại âm trên là sài sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc loại chó sói chữ viết từ bộ trĩ thanh tài âm dưới là tự kinh Sơn Hải ghi rằng: Vào thời vua Thuấn mạng sống đông sương có loại thú hình trạng giống như con trâu lông màu xanh đen, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Có một sừng màu xanh, nặng ngàn cân, sách Thuyết Văn nói giống như trâu hoang mà lông xanh, tượng hình cùng với đầu trâu nuôi, thú nuôi giống nhau.

Hắc báo ngược lại âm bao mạo sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của loài thú con báo, beo, chữ viết từ bộ trĩ đến bộ chước Văn Truyện viết từ bộ khuyển viết thành chữ báo tục tự cho rằng: Chẳng phải, âm trĩ là âm trĩ.

Khuất vãn ngược lại âm trên quần uất ngược lại âm dưới là vãn. Truy toàn ngược lại âm trên trị truy sách Khảo Thanh cho rằng: Thiết chùy Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ kim thanh truy ngược lại âm dưới tử loạn.

Trác thủ ngược lại âm trên trúc giác Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác là tước lột, sách Thuyết Văn cho rằng: Trác cũng là chém chặt, chữ viết từ bộ cân thanh đậu.

Thuyên tạt ngược lại âm trên tử toàn sách Khảo Thanh cho rằng: Thuyên là khắc chạm, mài ngọc, ngược lại âm dưới tạng các Văn Truyện viết chữ thuyên tạc tục tự cho rằng: Sách viết sai.

Yết-chu-ôn-kỳ-ha-quốc âm giữa Ôn-cốt tiếng Phạm. Phân hinh ngược lại âm hích kinh sách Thượng Thư cho rằng: Hương thơm Minh Đức được duy trì mãi mãi, sách Thuyết Văn ghi rằng: Hương thơm bay xa, nghe xa, chữ viết từ bộ hương thanh khanh âm khanh là âm khanh.

Đam-ma-lật-để-quốc âm trên đáp hàm âm giữa lân chất ngược lại âm dưới yên lễ tiếng Phạm.

A-phệ-da-đặng-sắc-triết-la ngược lại âm trên phò phế âm giữa trân chất âm dưới chiên liệt đều là tiếng Phạm.

Lịch-la-củ-sá-quốc ngược lại âm trên linh đích âm giữa câu vu âm dưới sửu ca đều là tiếng Phạm.

Phương trập ngược lại âm trầm lập Cố Dã Vương giải thích Trập là loài côn trùng mùa đông ẩn mình bất động, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh chấp.

Ẩu thân ngược lại âm vu vũ Quảng Nhã cho rằng:

Ẩu là cong lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh khu.

Điểu huệ ngược lại âm huy uế Mao Thi Truyện cho rằng: Huệ là mỏ chim, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh thỉ.

Cảnh khái ngược lại âm trên canh lãnh chữ viết từ bộ mộc Văn Truyện viết từ bộ mễ viết thành chữ cảnh cảnh là một giống nếp cùng bổn nghĩa quái lạ.

Bạt-lộc-yết-chiêm-bàn-quốc âm trên bàn mạt âm giữa tha khiếp đều là tiếng phạm.

Lộc thủy ngược lại âm lung cốc sách Thuyết Văn cho rằng: Lọc nước nạo vét, khơi sâu dòng nước, chữ viết từ bộ thủy thanh lộc.

Thác đà ngược lại âm thang lạc ngược lại âm dưới đồ hà sách Chu Thư giải thích: Vương hội phương bắc hiến con thác đà, Cố Dã Vương giải thích: Trên lưng có nổi lên cục thịt, con thú này có thể vác nặng giỏi đi xa, phương bắc có rất nhiều lạc đà, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ mã đều thanh thác tha.

Phất lẫm quốc âm giữa cẩm chữ giả tá.

A-lộ-trà-quốc âm giữa phiên vạn tiếng Phạm, tên bảy nước. Trước cực phược âm giữa cư lực ngược lại âm sư lý.

Tàm nãn ngược lại âm dưới nạch giãn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Xấu hổ đỏ mặt gọi là nãn sách Thuyết Văn cũng giải thích: Xấu hổ, hổ thẹn đỏ mặt chữ viết từ bộ xích thanh nãn Văn Truyện viết từ bộ bì viết thành chữ nãn tục dùng cũng thông dụng.

Hề thử ngược lại âm hệ kê sách Thuyết Văn cho rằng: Con chuột nhỏ, chữ viết từ bộ thử thanh hề.

Tha nhiếp ngược lại âm thố hà chân vấp té ngã, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh sa ngược lại âm dưới niêm triếp trước đã giải thích rồi.

Như-bộ-đa-ngoại-đạo ngược lại âm trên phổ cố tiếng Phạm, tên ngoại đạo.

Miêu ly ngược lại âm trên uyển bao ngược lại âm dưới ly tri.

Túc thuân ngược lại âm thất tuần Bì Thương cho rằng: Thuân là da nứt nẻ, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ bì thanh tuấn âm tích là âm tích âm tuân là âm tuân.

Lâu man ngược lại âm lậu đâu ngược lại âm dưới mạch ban theo Văn Truyện là lấy xương cốt làm đồ trang sức đeo trên đầu, mang trên cổ.

Khối lỗi âm trên là khối âm dưới là lôi ổi sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiều đá chồng chất lên, chữ viết từ bộ ba thạch.

Tinh táo ngược lại âm trên là tinh âm dưới canh tao. Hổn trung ngược lại âm hồn độn sách Thuyết Văn cho rằng: Hổn cũng là nhà xí, nhà vệ sinh, chữ viết từ bộ thủy thanh hổn âm hổn đồng với âm trên.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 5

Vạn tao ngược lại âm sưu lao Văn Tự Tập Lược giải thích: Tao là từ số đếm tàu thuyền, sách Thuyết Văn cho rằng: Tên gọi chung về tàu thuyền, chữ viết từ bộ mộc thanh sưu Văn Truyện viết từ bộ chu viết thành chữ tao tục tự dùng cũng thông dụng.

Lạt cảnh âm cảnh.

Bản đang ngược lại âm trên ban giãn ngược lại âm dưới đường lãng sách Khảo Thanh cho rằng: Bản là nơi hẻo lánh, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đảng là bập bềnh đu đưa, lại gọi là dao động, sách Thuyết Văn cho rằng: Bản là khắc in, chữ viết từ bộ phiến thanh phản hoặc là viết từ bộ phụ viết thành chữ bản sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ đảng từ bộ mảnh thanh đảng.

Phốc tiển ngược lại âm phổ lộc Quảng Nhã cho rằng: Phốc là đánh tát, Thiên Thương Hoét giải thích Phốc là nắm đầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh phốc ngược lại âm dưới tiên tiển Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiển là hết sạch, lại gọi là tiêu diệt, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiển giống như giết hại, sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ thanh tiền hoặc là viết từ chữ tấn Văn Truyện viết từ bộ đao viết thành chữ tiển là sai. Kình nghê ngược lại âm kinh ngưỡng ngược lại âm dưới nghệ kê Tả Truyện giải thích: Giăng lưới bắt kình, Đỗ Dự chú giải rằng: Cá lớn, Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Kình đó loài cá vua, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ ngư đều thanh kinh nghê.

Trượng việt âm việt Tư Mã Vương Pháp Chu giải rằng: Bên trái cầm cây gậy vàng, bên phải cầm cây búa vàng, cờ trắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Việt là cây búa lớn, viết đúng chữ việt Văn Truyện viết từ bộ kim viết thành chữ việt cũng thông dụng.

Nga nga ngược lại âm ngã hà Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nga nga là cao lớn, hùng tráng, sách Thuyết Văn ghi chữ viết từ bộ sơn thanh ngã.

Ngập ngập ngược lại âm ngâm lập Vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngập cũng là cao, hiểm nguy, sách Thuyết Văn viết từ bộ thanh cập.

Anh bội ngược lại âm trên ích hình, âm dưới bội muội. Ngư lệ âm ly.

Khứ mạo ngược lại âm mao báo Tự Thư cho rằng: Mạo cũng là quan tức là nón mũ, sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh mạo.

Hấp thủy ngược lại âm trên huất cấp theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hấp giống như dẫn vào, Quảng Nhã cho rằng: Hấp là uống vào, sách Thuyết Văn (846) cũng cho rằng: Hít hơi thở vào, chữ viết từ bộ thảo khẩu thanh cập.

Thiện thượng âm trên là thiện trước đã giải thích rồi. Tý xuyến ngược lại âm xuyên luyến.

Cảnh khái ngược lại âm canh lảnh ngược lại âm dưới khái ngãi Phổ Tông giải thích: Lau chùi cho sạch là khái sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh khái.

Cù-sư-la-trưởng-giả ngược lại âm trên cụ ngung.

Tào củ sá quốc âm trên là tảo.

Manh kiền quốc ngược lại âm trên mặc băng tên của nước Tây Vực.

Hinh-ma-đát-la-quốc âm trên là hinh dị tên nước.

Mang mang ngược lại âm mang bàng sách Sở Từ giải thích rằng: Mang mang là cây cỏ, Vương Dật chú giải rằng: Mang mang là cỏ mọc rậm rạp, Quảng Nhã cho rằng: Mang mang là cỏ mọc tươi tốt, sách Thuyết Văn cho rằng: Ở Nam Xương gọi là con thỏ khéo đuổi theo đám cỏ tốt rậm rạp um tùm, giống như cỏ mãng, chữ viết từ bộ đại đến bộ thảo cũng là thanh, Văn Truyện viết từ bộ thủy viết thành chữ mãng tức suối nước xa, chẳng phải nghĩa đây dùng.

Giao quát ngược lại âm quan hoạt sách Thuyết Văn cho rằng: Nói chuyện ồn ào, chữ viết từ bộ nhĩ thanh thiệt Văn Truyện viết chữ quát cũng thông dụng.

Cự xác ngược lại âm khanh nhạc Cố Dã Vương cho rằng: Phàm vật gì vỏ bọc trứng bên ngoài, hoặc là viết chữ xác sách Thuyết Văn viết chữ từ bộ noản thanh xác. Yết-bàn-đà-quốc ngược lại âm trên khưu liệt tên của nước. Ô-xuyết-quốc ngược lại âm xuyên liệt tiếng Phạm.

Phong ngạc ngược lại âm ngang các sách Khảo Thanh cho rằng: Ngạc là vách núi, Tả Thư Ngụy Đô Phú Truyện cho rằng: Chót núi, đĩnh núi rất cao, âm kham ngược lại âm ngũ cảm.

Tham tham ngược lại âm táp cam sách Khảo Thanh cho rằng: Tóc dài rũ xuống, theo truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ tham tục tự dùng chẳng phải, hoặc là viết chữ tham.

Thành trách ngược lại âm trắc cách theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trách là chứa, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trách gọi là cái giường, sách Thuyết Văn viết chữ trách Văn Truyện viết từ bộ trúc viết thành chữ tích là sai, hoặc là viết chữ trách.

Đoạn thực ngược lại âm đoàn loạn theo sách Khảo Thanh giải thích: Viết đúng là chữ đoạn tức là đoạn tuyệt, Văn Truyện viết chữ đoạn là họ của người bổn nghĩa khác lạ.

Thấu lý âm trên là thấu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Thấu là khoảng lớp da bên trong và cơ bắp, xưa nay Chánh Tự giải nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ nhục thanh thấu.

Kích kiền trùy ngược lại âm kinh lịch sách Khảo Thanh cho rằng: Thiệt vận âm đúng là viết chữ kích kích tức là đánh, Văn Truyện viết từ bộ mịch viết thành chữ hệ là ràng buộc bổn nghĩa khác lạ.

Thiểu nhiên ngược lại âm thất tiểu sách Văn Tự Điển nói: Xìu mặt không vui, chữ viết từ bộ tâm thanh thu.

Tổng chiên ngược lại âm chiến diên Văn Truyện viết chữ chiên này tục tự thường hay dùng.

Y vương ngược lại âm ư kê sách Khảo Thanh cho rằng: Âm vận thiết là hắc ngọc viết đúng là chữ y Văn Truyện viết từ bộ ngọc viết thành chữ y tục tự dùng chẳng phải.

Bột-già-di-thành ngược lại âm trên bồn một. Kiêu hùng ngược lại âm trên là kiêu.

Sàm hiểm ngược lại âm là sàm Quảng Nhã cho rằng:

Sàm là cao vút, sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh sàm.

Thiện-ư-thư-mạt âm trên là thiện âm giữa là thất lự âm dưới man bát tiếng Phạm.

Xí giác ngược lại âm dưới khẩu giác theo Thanh Loại cho rằng:

Đất cằn cổi không mầu mở, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thạch thanh giác.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 6

Thúc thận âm thận.

Trướng dư ngược lại âm dữ chư Tô Lâm cho rằng: Dư giống như là xe chuyên chở, sách Thuyết Văn cho rằng: Xe nhỏ, chữ viết từ bộ xa thanh cửu.

Dực nhật ngược lại âm trên dăng chức cũng từ bộ vũ viết thành chữ dực nghĩa đều đồng.

Ba-la-mặc-tư-quốc âm giữa ninh kiết tên của nước Tây Vực tiếng Phạm.

Liệt đạo ngược lại âm liệt trệ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Liệt là che trùm, sách Khảo Thanh cho rằng: Xe vua ngự giá phía trước phải làm sạch con đường, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là che, chữ viết từ bộ xước thanh liệt.

Khuể bộ ngược lại âm khuy thận sách Phương Ngôn cho rằng: Nữa bước là khuể nữa bước không rời, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh khuê.

Hoàn hội âm trên là hoàn âm dưới là hội.

Thê đăng ngược lại âm đăng đặng theo chữ thế đăng đúng là từ bộ phụ viết thành chữ đăng nay truyện viết từ bộ túc viết thành chữ đang tục tự dùng thông dụng.

Ký hồ ngược lại âm kình ký trên đã giải thích rồi.

Thiện tả âm trên là thiện Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thiện là tu bổ sửa chữa, sách Thuyết Văn cho rằng: Thiện là tu bổ, chữ viết từ bộ mịch thanh thiện.

Loan dữ ngược lại âm noản đoan sách Chu Lễ Lộ Nghi giải thích rằng: Lấy kim loại mà làm cái linh nhỏ, Trịnh Huyền chú giải rằng: Cũng là lấy kim loại làm cái linh nhỏ, thường đeo ở cổ ngựa (như lục lạc) sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh loan.

Bàn mộc ngược lại âm bàn đông bàn là phi long thọ trong biển. Khổ thỉ ngược lại âm trên hồ cổ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khổ là loại cây làm mũi tên, mũi tên cắm vào cây, sách Thuyết Văn viết từ bộ khổ thanh mộc.

Khô chu ngược lại âm khẩu sách Chu Thư ghi rằng: Khô là chẻ cây đóng thuyền, sách Thuyết Văn ghi rằng: Khô là chẻ ra phanh ra, chữ viết từ bộ đao thanh khoa.

Chân phương dư ngược lại âm trên nhất chân Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Chân là lắp bít lại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cũng là đất núi, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh chân hoặc là viết chữ chân này âm đồng với âm trên.

Lạc Hưu âm hữu.

Mong tị âm trên là mong âm dưới là tợ.

Ủy tẩn ngược lại âm tần nhẫn Thiên Thương Hoét ghi: Tài vật vải vóc gọi là tẩn sách Thuyết Văn cho rằng: Lễ hội, lễ vật tiển người lên đường, chữ viết từ bộ bối âm tẩn đồng với âm trên.

Tịnh vật ngược lại âm dưới dân tất sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mật là yên tịnh, không có tiếng người, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh mật âm mật đồng với âm trên. Thu trung ngược lại âm chú nhung sách Khảo Thanh cho rằng: Trung là châu chấu, loài côn trùng sinh sản ra rất nhiều, lại viết chữ trung sách Thuyết Văn giải thích cũng là loại châu chấu, chữ viết từ bộ côn âm côn là âm côn thanh đông.

Nãng thật ngược lại âm nang đảng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nãng là lâu xưa, sách Khảo Thanh cho rằng: Xưa trước kia, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh nang.

Tuyết tu âm tụ.

Pha đà ngược lại âm trên phá ba sách Khảo Thanh cho rằng: Đất dốc, dốc núi, lại cũng viết chữ pha gọi là dốc núi nghiêng xuống, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cũng là dốc nghiêng, sách Thuyết Văn cảnh từ bộ thổ thanh bì ngược lại âm dưới đà hà.

Quảng mậu ngược lại âm mạc hậu sách Sử Ký ghi rằng: Mậu là rộng sáu dặm, sách Thuyết Văn giải thích: Dài phía nam bắc gọi là mậu, dài phía đông tây gọi là quảng chữ viết từ bộ y thanh mâu.

Khoa phụ ngược lại âm quải hoa sách Liệt Tử nói rằng: Khoa phụ là chạy giỏi có thể cũng gọi là tranh tài với ngựa chạy nhanh, chỗ gọi là đất chết hóa làm bãi tha ma đặng lâm.

Ổi thùy ngược lại âm trên ổi hồi Thiên Thương Hoét ghi rằng: Đốn ngã, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh ổi.

Thần quyến ngược lại âm trên thị nhân Văn tự Điển nói: Thần là đến với nhà lớn, thiên tử có điện lớn màu tím đều là chỗ vua ở, nhà của vua ngự, chữ viết từ bộ miên âm miên là âm thanh thần ngược lại âm dưới câu cố sách Thượng Thư cho rằng: Quyến là chỗ nhìn ngó chăm sóc thân mạng hoàng đế, Khổng An Quốc chú giải rằng: Nhìn xem xét, quan tâm, sách Thuyết Văn giải thích: Quan tâm chiếu cố, chữ viết từ bộ mục thanh quyến âm quyến truyện viết chữ quyến là sai.

Thăng huyễn ngược lại âm hồ khuyển sách Chu Lễ giải thích: Huyễn gọi là cái đỉnh có quai, sách Thuyết Văn cho rằng: Đĩnh có quai gọi là huyền chữ viết từ bộ kim thanh huyền.

Quỳ đình ngược lại âm trên hoại quái tên cây.

Ung hy ngược lại âm trên ung cung Văn Truyện viết từ bộ khẩu viết thành chữ ung hy là sai, viết đúng là từ bộ nghiễm viết thành chữ ung hoặc là viết thành chữ ung.

Kiêu phong ngược lại âm trên hiểu diêu Văn Tự Điển nói: Kiêu là rót nước tưới, chữ viết từ bộ thủy thanh kiêu.

Hủy phục ngược lại âm trên huy quý Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hủy phục là cỏ phục, sách Thuyết Văn giải thích tên gọi chung các loại cỏ, chữ viết từ ba bộ triệt.

Khể tảng ngược lại âm tang lãng sách Phương Ngôn giải thích: Tảng là cái trán, sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh tảng.

Di để ngược lại âm hộ lễ Thiên Thương Hoét cho rằng: Để là nhà của triều đình, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Thuộc nhà của tụ hợp của các chư hầu, chữ viết từ bộ ấp thanh để.

Hiểm duẫn âm trên là hiểm âm dưới là duẫn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Bộ tộc phương Bắc Địch, Khảo Thanh Thiết Vận cho rằng: Viết đúng từ bộ nghiêm viết thành chữ hiểm duẫn Văn Truyện viết từ bộ khuyển viết thành chữ hiểm tục dùng cũng thông dụng. Phong cao âm trên là phong ngược lại âm dưới là hạo. Minh đích ngược lại âm đinh lịch.

Cao lệ âm lê.

Bán điệp âm diệp.

Lang bái âm trên lang đang ngược lại âm dưới bôi cái.

Trụ tất ngược lại âm tâm mật Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tất gọi là dừng bước ngăn cấm đường, ngày xưa khi vua xuất hành ngăn cấm đường không cho đi lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh tất.

Khải toàn ngược lại âm trên khai cải Tự Thư giải thích rằng: Đi dạo quanh, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Khải là rộng lớn, chữ viết từ bộ kỹ thanh khải hoặc là viết chữ khải này.

Phù quắc ngược lại âm trên phủ vô Đỗ Dự chú giải

Tả Truyện rằng: Phù chỗ gọi là bắt được tù binh, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh phù âm dưới quang hoạch Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quắc gọi là xẻo tai, Văn Tự Điển nói: Quắc viết đúng từ bộ nhĩ (847) viết thành chữ quắc Văn Truyện viết từ bộ tù viết thành chữ quắc tục tự dùng thông dụng.

Huỳnh tước Lã Bấc Vi giải thích: Vị tướng giỏi đời vua Thành Thang được phong tước.

Chi dịch âm diệc.

Đại hạ âm hạ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hạ là nhà lớn mà không có cửa, giống như là cửa rộng ở một bên là lại thấp sách Văn Tự Điển chữ viết từ bộ nghiểm thanh hạ.

Đinh huỳnh âm thính bình thanh âm dưới dinh quýnh sách Khảo Thanh cho rằng: Dòng nước nhỏ trong suốt, Dương Tử Vân Cam Nghiệt Phú Truyện viết chữ huỳnh Văn Truyện viết đinh huỳnh hai chữ đều sai.

Luyến tướng hình dương ngược lại âm trên duyên mạo theo chữ luyến châu không từ bộ thủy nay truyện viết từ bộ thủy là chẳng phải.

Tái chế ngược lại âm trên tàng lạc Văn Truyện viết từ bộ nhật viết thành chữ tạc là âm tạc Văn Truyện viết sai.

Ngõa lịch ngược lại âm linh đích.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 7

Quỹ xúc ngược lại âm trên cư vĩ ngược lại âm dưới chung lục theo Khảo Thanh Thiết Vận viết đúng là chữ xúc Văn Truyện viết chữ xúc tục tự dùng thông dụng.

Liểm nhậm âm nhẫm Văn Tự Điển nói: Cầm vạt áo trước khom lưng làm lễ, Hà Hương viết từ bộ y thanh nhậm.

Kim quỹ ngược lại âm cầu quỹ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Quỹ là cái tráp, cái tủ, sách Thuyết Văn viết từ bộ phương âm phương là âm phương thanh quý. Điện chi âm trên là điện theo Mao Thi Truyện cho rằng: Điện là sửa chữa, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nói điện tức là đồng ruộng, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điện là bỏ đi vương thành cách năm trăm dặm, tức là vùng ngoại thành cách cung điện nhà vua năm trăm dặm, sách Thuyết Văn viết từ bộ điền thanh bao âm bao ngược lại âm bào mao thanh mao.

Thiều sấn âm trên là điều sách Khảo Thanh cho rằng: Trẻ con cắt tóc còn chừa hai bên trái đào, Văn Tự Điển nói: Thiều là đứa trẻ tóc để chởm, chữ viết từ bộ tiêu thanh chiêu ngược lại âm dưới sơ cận Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đứa bé trai tám tuổi, đứa bé gái bảy tuổi, tức là hủy bỏ cái răng sữa, sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh sất.

Ly quang ngược lại âm lặc tri sách Khảo Thanh giải thích: Bày biện công bố ra, Tống Trung chú giải kinh Thái Huyền rằng: Ly là căng ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh ly.

Hiệp thần ngược lại âm tiêm diệp Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Từ ngày giáp đến ngày quý gọi là hiệp Hàn Thi Truyện cho rằng: Hiệp là thông suốt, sách Thuyết Văn viết bộ thủy thanh hiệp.

Bi thạch âm bi Thích Danh cho rằng: Người có công nên vua theo thuật lập bia đá để tưởng nhớ, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ thạch thanh bi.

Cửu khiển âm trên là cựu ngược lại âm dưới khiếm chiến Quảng Nhã cho rằng: Khiển trách, sách Thuyết Văn cho rằng: Quở trách, chữ viết từ bộ ngôn thanh khiển.

Trắc khỉ âm khởi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trắc là phân kia và đây, theo truyện cho rằng: Núi có cây cỏ gọi là khỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Không có cây cỏ gọi là khỉ trắc khỉ là trèo lên núi trọc mà nhớ mong mẹ, chữ viết từ bộ sơn thanh dĩ.

Ích cửu ngược lại âm dưới quân cựu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tật bệnh lâu ngày, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh cửu.

Đao lợi âm trên là đao.

Ban thùy ngược lại âm trên bát man theo Xuân Thu Truyện cho rằng: Ban Công đi chu du khắp trong và ngoài, khéo léo sắp xếp đúng thời, ngược lại âm dưới thùy quy Trịnh Huyền chú giải kinh Sơn Hải rằng: Thùy tức là Nghiêu Khảo Công, tức là vua Đường Nghiêu, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh thùy.

Tử khuê ngược lại âm trên tư lý âm dưới khuê nhuế đều là tên cây.

Dự chương ngược lại âm trên dư cứ ngược lại âm dưới chước lương theo chữ dự chương đó là tên của quận, nay truyện đều viết từ bộ mộc viết thành chữ dự chương.

Tinh lự ngược lại âm trên là tĩnh âm dưới lư đều là tên của cây.

Chí trách ngược lại âm sai trách Lưu Hoàn giải thích rằng: Trách đó là gọi rất thâm u, sách Thuyết Văn viết từ bộ di thanh trách âm di là âm di.

Tinh túy ngược lại âm tuy loại sách Thuyết Văn cho rằng: Túy là không tạp, chữ viết từ bộ mễ thanh tốt.

Điểu triện ngược lại âm truyện luyến sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ triện chu vương huyên thái tử, sử trụ trước tác đại triện năm mươi thiên, chữ viết từ bộ trúc đến bộ triện.

Bát diên ngược lại âm dĩ chiên sách Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Bát diên là vùng đất xa xôi, nơi hoang vắng, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh diên.

Ngưng lưu ngược lại âm lữ chu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cờ tua rủ xuống, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Loại cờ có tua rủ xuống, chữ viết từ bộ phương thanh lưu âm lưu ngược lại âm tha cốt.

Đàm minh ngược lại âm trên đàm nam Mao Thi

Truyện cho rằng: Đàm là kéo dài, lại gọi là lâu dài, sách Thuyết Văn viết chữ đàm chữ cổ viết chữ đàm ngược lại âm dưới mịch bình.

Lễ chước ngược lại âm trên lỗ qua văn trên đã giải thích rồi.

Ký hồ ngược lại âm kỳ ký Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ký là đến, sách Nhĩ Nhã cho rằng: cũng là đến kịp. Văn Truyện viết từ bộ thủy viết thành chữ kỵ Từ Quảng cho rằng: Nước thịt cùng với bổn nghĩa khác lạ.

Mạo khổng ngược lại âm trên nghệ kê Bì Thương cho rằng: Mạo là hình tướng bề ngoài, Cố Dã Vương Vận Thuyên tức là sư tử, xưa nay Chánh tự viết từ bộ trĩ thanh nhi hoặc là từ bộ khuyển viết thành chữ mạo.

Huyên tẩu ngược lại âm huyết duyên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Huyên là bay là đà, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Bay thấp, chữ viết từ bộ vũ thanh hoàn.

Quan kiện ngược lại âm dưới kỳ kiển sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến Đông Trần Sở gọi là then chốt cửa la kiện sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh kiếm.

Thê hàng ngược lại âm thích để ngược lại âm dưới hạt cang sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến đông gọi ghe thuyền là hàng sách Thuyết Văn giải thích: Chữ viết từ bộ chu thanh hàng.

Khoa huyền độ ngược lại âm khoa hóa Cố Dã Vương cho rằng: Gọi nhấc chân lên cao, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khoa gọi là vượt qua tiến đến phía trước, sách Thuyết Văn giải thích: Khoa là vượt qua sông, chữ viết từ bộ túc thanh khoa âm khoa ngược lại âm khổ qua.

Thâu sâm ngược lại âm sĩ lâm Tự Thư giải thích: Sâm là đồ quý báu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ngọc báu gọi là sâm hoặc là viết chữ sâm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngọc đến bộ thâm thanh tĩnh.

Châm tiển ngược lại âm trên chấp lâm ngược lại âm dưới tiên luyện sách Khảo Thanh Thiết Vận viết đúng là chữ tiển Văn Truyện viết từ bộ mịch viết thành chữ tuyến tục tự dùng cũng thông dụng.

Đạo khuê ngược lại âm dưới huệ khuê Vương dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khuê giống như là khu sách Thuyết Văn giải thích: Ruộng năm mươi mẫu là một khuê, chữ viết từ bộ điền thanh khuê.

Tiến trân ngược lại âm tiền luyện sách Văn Tự Điển nói rằng: Lặp lai nhiều lần, chữ viết từ bộ thảo thanh tồn ngược lại âm dưới trắc cân.

Đao cứ ngược lại âm cự ngư Thiên Thương Hoét ghi rằng: Cắt vật gọi là cứ sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh cư.

Tàm mục ngược lại âm nữ lục sách Phương Ngôn cho rằng: Mục là hổ thẹn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh nhi.

Phủ lũ âm trên là phủ Cố Dã Vương cho rằng: Phủ gọi là cúi đầu xưa nay Chánh Tự giải thích: Phủ là khom xuống, chữ viết từ bộ nhân thanh phủ ngược lại âm dưới lực cử Quảng Nhã cho rằng: Khom xuống tức cong lưng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh lũ.

Cục tích ngược lại âm cự ngọc Cố Dã Vương cho rằng: Cục là không thể duỗi thẳng ra được, cũng là cong lại. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh cục ngược lại âm dưới tư diệc sách Thuyết Văn giải thích: Bước từng bước ngắn, chữ viết từ bộ túc thanh tích âm tích là âm tích.

Trần độc ngược lại âm dưới đồng lộc Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bụi đất dơ bẩn gọi là độc sách Thuyết Văn giải thích: Độc là nắm giữ lấy nhơ bẩn, chữ viết từ bộ hắc thanh độc.

Toản lịch ngược lại âm toàn noản Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Toản là biên soạn, biên tập ghi chép, sách Khảo Thanh cho rằng: cũng là biên soạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh soán ngược lại âm tức quản cũng là thanh, hoặc là viết từ bộ thảo.

Trất mộc ngược lại âm trên trở sắc sách Lễ Ký giải thích: Sáng sớm dùng lược chải tóc, cây lược có răng lược san sát khít khít như răng lược, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết.

Kham loạn ngược lại âm khâm hàm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kham cũng là thắng, theo Đại Truyện giải thích: Kham đó là nhanh chóng dẹp yên, sách Thuyết Văn giải thích cũng là thắng dẹp yên bình định, chữ viết từ bộ qua thanh kim theo truyện viết từ bộ thậm viết thành chữ kham ngược lại âm trúc thậm cùng với bổn nghĩa lạ.

Luân hoán ngược lại âm dưới hoan quán sách Khảo Thanh cho rằng: Hoán là màu sắc sáng sủa, Thiên Thương Hoét cũng cho rằng: Văn chương sáng sủa trau chuốt, sách Thuyết Văn giải thích cũng đồng một nghĩa, chữ viết từ bộ song âm song ngược lại âm cũng quỳnh thanh tĩnh.

Quỳnh cổ ngược lại âm trên quý dinh ngược lại âm dưới sơ lữ sách Chủ Nô Sở Từ giải thích: Đá kê chân cột là sở xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh sổ.

Đồng hạp ngược lại âm dưới đàm hạp Văn Truyện viết từ chữ tra là chẳng phải.

Hiên ham ngược lại âm dưới hàm giảm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hạm là lan can, hàng rào, chuồng nuôi thú, sách Thuyết Văn giải thích: Hạm cũng là cái lồng, chữ viết từ bộ mộc thanh lam Văn Truyện viết từ bộ xa viết thành chữ giam giam cũng là xe nhốt tù nhân cùng với bổn nghĩa khác lạ.

Hoanh khái ngược lại âm trên hồ hoằng theo Thanh Loại giải thích: To lớn ầm ầm, tiếng nước ào ào, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn đến bộ chước thanh tĩnh ngược lại âm dưới khan hạt sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng đá va chạm, chữ chỉ rằng: Tiếng to lớn ầm ầm, sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh hạp Văn Truyện viết bộ thạch viết thành chữ khái là chẳng phải.

Giáp trữ ngược lại âm dưới là trừ lữ sách Chu Lễ cho rằng: Trữ là vải gai, bao gai, cây cỏ gai, Trịnh Huyền chú giải rằng: Vải gai trắng mà thưa gọi là trữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây gai thuộc vải lụa thưa thô, chữ viết từ bộ mịch thanh trữ.

Dật vũ ngược lại âm vô bổ Thích Danh cho rằng: Nhà lớn gọi là vũ sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiểm âm nghiểm là âm nghiểm thanh vô.

Bất hiểu ngược lại âm nhiêu hạnh Bì Thương cho rằng: Hiểu là sáng suốt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhật thanh hiểu ngược lại thanh hiểu nhiêu.

Bột giải ngược lại âm trên hồ một ngược lại âm dưới hài mại sách Văn Tự Điển nói rằng: Bột giải là tên biển, đều từ bộ thủy thanh bột giải.

Khanh hoành ngược lại âm dưới hoa hoằng sách Khảo Thanh cho rằng: Khanh hoành là tiếng chuông, viết đúng là chữ hoành Văn Truyện viết từ bộ hoằng viết thành chữ hoành kiểm các chữ trong sách không có chữ này.

Để ha ngược lại âm để lễ ngược lại âm dưới hứa đa sách Thuyết Văn cho rằng: Để là mắng nhiếc, sách Phương Ngôn giải thích: Mắng nhiếc, phẫn nộ chữ viết đều từ bộ ngôn đều thanh để khả.

Đỉnh trung hào ngược lại âm đình đỉnh sách Khảo Thanh cho rằng: Đỉnh là vượt lên, xông lên, nổi bật, viết đúng là chữ đỉnh này, Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ đỉnh là chẳng phải.

Cú cú âm cẩu.

Gia du âm trên là gia âm dưới là do Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Du là mưu tính kế hoạch hay, mưu giỏi, sách Thuyết Văn hoặc là viết chữ dao.

Hoét hàng ngược lại âm trên hiền kiết ngược lại âm dưới hàng lãng theo Mao Thi Truyện cho rằng: Bay cao lên gọi là hiệt bay hạ thấp gọi là hàng sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt đều thanh kiết hàng.

-----------------------------------

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 8

Chú giải ngược lại âm chu du Quảng Nhã cho rằng: Chú thích hiểu rõ, Bì Thương cho rằng: Chú giải, giải thích ra, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh chủ cũng với chữ chú cũng đồng.

Điện diệu ngược lại âm trên điền kiến Cốc Lương Truyện giải thích rằng: Điện là tiếng sét nổ, sấm sét, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm dương chạm nhau bắn lửa sáng lòa, chữ viết từ bộ vũ thanh thân ngược lại âm dưới chiêu tiếu viết đúng là từ bộ hỏa viết thành chữ đầy diệu Đại Truyện viết từ bộ túc viết thành chữ dược âm dược bổn nghĩa khác lạ.

Ban ư ngược lại âm trên bát man sách Khảo Thanh cho rằng: Ban bố, trải khắp ra, cho khắp, sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh phân.

Cảo nhai ngược lại âm trên cao lão theo Ngọc Thiên viết đúng là chữ cảo không từ bộ thảo Văn Truyện viết từ bộ thảo (848) viết thành chữ cảo nay không dùng chữ này.

Củ tương ngược lại âm câu vũ Hán Thư cho rằng: Ở Việt Nam thường ăn loại cá trầu này, Đường Huyền Trang giải thích rằng: Củ trương giống như là. Âm nghĩa giải thích cây giống như loại ngũ cốc, lá sát thân cây, giống như lá dâu, có thể làm dấm tương rất ngon, người nước Thục gọi là vị yểu, hoặc viết từ bộ mộc viết thành chữ củ Văn Truyện viết từ bộ dậu viết thành chữ củ là chẳng phải.

Chiêu tích ngược lại âm dưới là triết liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Tích sáng rõ ràng, sách Thuyết Văn giải thích: Chiêu tích cũng là sáng, chữ viết từ bộ nhật thanh tích.

Hàm trượng ngược lại âm trên hàm cam, Trịnh tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hàm là dung chứa, sách Lễ Ký cho rằng: Lời tự xưng trong thư của học trò đối với thầy, sách Thuyết Văn giải thích: Chữ tượng hình, thể văn cổ viết chữ hàm từ bộ cung âm cung ngược lại âm hàm diệc.

Phi duyệt âm duyệt.

Tự hối ngược lại âm quang hội Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phía đông bắc trong nước hội có vinh huyện, mật huyện.

Bì vấn ngược lại âm trên thất nhĩ Trịnh Huyền chú sách Lễ Ký rằng: Bì giống như sai lầm, Văn Tự Điển nói: Bì cũng là sai lầm, chữ viết từ bộ mịch thanh bì ngược lại âm dưới vấn vẫn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vấn là rối loạn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh vấn Văn Truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ cấm là chẳng phải bổn nghĩa.

Viên cùng ngược lại âm khưu cung sách Tiểu Nhã cho rằng: Cùng là bầu trời xanh thẳm, lại rộng lớn bao la, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh cung.

Hạo hạn ngược lại âm trên hào cáo ngược lại âm dưới hàn cán Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hạo là nhiều tràn đầy, rộng lớn, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ thủy đều là thanh cáo can.

Huynh triền ngược lại âm trên nhuế dinh ngược lại âm dưới trực liên.

Hề thử ngược lại âm hệ kê văn đã giải thích đầy đủ rồi.

Côn lãng ngược lại âm dưới tức đảng Quảng Nhã cho rằng: Đảo Côn Lôn có ba ngọn núi tên Lãng Phong huyện Phản Bồ, sách Thuyết Văn giải thích: Cổng cao rộng lớn, chữ viết từ bộ môn thanh lương.

Thù mâu ngược lại âm trên chữ câu ngược lại âm dưới mạc hậu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tri thù tức là con thù mâu, là con nhện, sách Phương Ngôn giải thích: Giữa Tần Tấn gọi con nhện là tri thù hoặc gọi là sắc cùng với chữ mâu cũng đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng.

Hoàng hoàng ngược lại âm ô hoàng.

Mô giai ngược lại âm trên mạc bồ ngược lại âm dưới khẩu ngai. Tấn thân ngược lại âm trên tân tẫn sách Lễ Ký giải thích rằng:

Tấn thân là cái hớt cắm vào, Trịnh Huyền chú giải rằng: Tấn là cắm vào, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tấn ngược lại âm dưới thất chân Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Thân là dây đai lớn, Quảng Nhã cho rằng: Thân là bó buộc vào, tấn thân là chỉ người làm quan ngày xưa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh thân.

Dĩ kích ngược lại âm hề đích Thích Danh cho rằng: Kích đó là đồ cản nước bắn lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh khiếu âm khiếu ngược lại âm hiểu nhiêu.

Ngạc ngạc ngược lại âm ngang các Cố Dã Vương cho rằng: Ngạc ngạc là nói thẳng, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cũng là lời cảnh cáo, hoặc là viết chữ ngạc chữ viết từ bộ ngôn thanh ngạc.

Khổn khổn ngược lại âm khôn luyến Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khổn khổn là chí thuần nhất, Quảng Nhã cho rằng: Khổn cũng là đến, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh khổn.

Phỉ phỉ ngược lại âm phù phi sách Văn Tự Điển nói: Phỉ phỉ là qua lại chữ viết từ bộ nữ thanh phi.

Liên tiêu ngược lại âm dưới biểu miêu sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ tiêu Văn Truyện viết từ bộ mã viết thành chữ tiêu tục tự cho rằng chẳng phải. Thuyên đệ ngược lại âm thất duyên Cố Dã Vương cho rằng: Cái lờ bắt cá, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh toàn Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ thuyên tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm đệ lê Cố Dã Vương giải thích: Chỗ gọi là lấy dụng cụ bắt thỏ, sách Thuyết Văn giải thích: Chữ viết từ bộ túc âm đệ thanh đề Văn Truyện viết chữ đế tục tự dùng thông dụng. Khổn áo ngược lại âm khôn cổn sách Tiểu Nhã giải thích: Đường nhỏ trong cung gọi là khổn Trịnh Huyền chú giải rằng: Đường hẻm nhỏ trong nhà, sách Thuyết Văn cho rằng: Đường nhỏ trong cung, khổn là vị quan trông coi bức tường có con đường nhỏ trong cung, ngược lại âm dưới áo cáo Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Áo là chỗ ở ẩn trong nhà kín, sách Thuyết Văn viết từ bộ quynh âm tấc ngược lại âm cư lục âm hạng là âm hạng.

Phỉ phỉ ngược lại âm phi vĩ Tự Thư giải thích: Phỉ phỉ là trong lòng muốn nói, nhưng không nói ra được, ấp úng lúng túng, sách Luận Ngữ giải thích: Trong lòng phẫn giận dữ, miệng ấp úng không nói nên lời, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh phi.

Ế hội ngược lại âm trên ế kế Mao Thi Truyện giải thích rằng: Cây cỏ tự che gọi là ế sách Thuyết Văn giải thích: Che đậy, chữ viết từ bộ y thanh vũ từ bộ thảo tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới ô hội sách Thuyết Văn giải thích: Hội là cỏ mọc nhiều, chữ viết từ bộ thảo thanh hội.

Điển bỉ âm trên là điện Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điển là dứt tuyệt, sách Quảng Số cho rằng: Điển là tận hết sạch, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạc thanh thiết.

Nữu giả ngược lại âm nữ cửu Quảng Nhã cho rằng: Nữu dái áo, cúc áo buộc lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Nữu là sợi dây buộc. Lại cũng gọi là thắt nút không thể mở ra được, chữ viết từ bộ mịch thanh sửu.

Liên hoa ngược lại âm trên liệt kiền. Cầu đố ngược lại âm đô hộ.

Loa lũ ngược lại âm trên lý qua Tả Tư Ngô Đô Phú Truyện giải thích rằng: Khó mà được, tuy cũng muốn cầm bút tường thuật trước sau, nhưng thân trí hoang mang, quên trước sót sau, cuối cùng chẳng thành bài, giống như quanh co, vòng vèo, sách Thuyết Văn cho rằng: Có thứ tự trước sau tốt đẹp, chữ viết từ bộ kiến âm loạn thanh loạn Văn Truyện viết từ bộ nhĩ viết thành chữ loa là chẳng phải.

Súc nghi ngược lại âm trên là trừu lục Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Súc là chứa, Cố Dã Vương cho rằng: Súc là gom tụ lại, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh súc.

Linh âm ngược lại âm lịch đinh Thiên Thương Hoét cho rằng: Linh là nghe theo lời chỉ dạy, kinh Thái Huyền cho rằng: Linh là lấy trúc làm ống sáo, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghe theo, chữ viết từ bộ nhĩ thanh linh.

Phong diêu ngược lại âm tất diêu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nâng lên diêu động, đong đưa, gọi là diêu, Quách Phác chú giải rằng: Cuồng phong nổi lên, xoáy từ trên xoáy xuống, sách Thuyết Văn viết từ bộ phong thanh diêu âm diêu đồng với âm trên.

Ngương thủ ngược lại âm tước dương sách Hán Thư cho rằng: Thần mã phóng nhanh, vọt lên cao. Tương cũng là chạy nhanh, Tán Văn Để Ảng viết từ bộ mã thanh tương.

Man thiến âm trên là vạn theo Hán Thư cho rằng: Phương đông viết chữ sóc.

Xước hữu ngược lại âm trên xương lược theo Mao Thi Truyện cho rằng: Xước là rộng, sách Nhĩ Nhã giải thích: Xước là thong thả mềm mại, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trác.

Triệu sanh ngược lại âm trào tiểu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Triệu là bắt đầu, sách Thuyết Văn giải thích Mở đầu, hoặc là viết chữ triệu nghĩa cũng đồng.

Thâm thử ngược lại âm tự tư.

Truy mẫn ngược lại âm trên chỉ sư sông truy, ở biên giới Tề Châu, ngược lại âm dưới miên điển cũng là tên sông ở biên giới Hà Nam.

Kim du ngược lại âm ám đâu tha hầu.

Học đàn ngược lại âm đa an chú giải sách Thượng Thư rằng: Đàn là hết sức lực, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạc thanh đơn.

Kình tiết ngược lại âm trên kinh kính sách Thuyết Văn cho rằng: Sức mạnh, chữ viết từ bộ lực thanh kinh. Quấn chích ngược lại âm trên cư vận ngược lại âm dưới chi thạch sách Thuyết Văn cho rằng: Quấn là nhặt lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chích cũng là nhặt lấy, chữ viết từ bộ thủ đều thanh thứ quân.

Hàm giao âm giao.

Hoàng ô âm trên là hoàng âm dưới là ô theo Tả Truyện giải thích rằng: Hoàng ô là nước ngập lụt dâng tràn, Đỗ Dự chú giải rằng: Hoàng ô là ao nước dơ, sách Thuyết Văn giải thích: Hoàng là ao chứa nước, chữ viết đều từ bộ thủy đều thanh hoàng ô.

Ngu hoán ngược lại âm nô loạn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hoán là tức giận, xưa nay Chánh tự viết từ bộ tâm thanh nhuyễn.

Kỳ nguyệt sách âm sách.

Đế cấu ngược lại âm trên là đề Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đế là kết lại, buộc lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Kết lại mở không ra, chữ viết từ bộ mịch thanh đế.

Tương sử ngược lại âm trên tương lương sách Thuyết Văn giải thích: Tương lụa màu vàng lợt, mép viền biên, sách Thuyết Văn cho rằng: Sắc màu mở gà, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ mịch thanh tương. Quy nhuế ngược lại âm trên quỹ vi ngược lại âm dưới nhuy nhuế theo Hán Thư cho rằng: Quy nhuế là tên của một dòng sông gọi là sông Nhuế, chỗ ở của vua

Thuấn, nước chảy về phía bắc gọi là nhuế chữ viết từ bộ nữ thanh vi.

Đồng quản âm đồng Quảng Nhã giải thích: Đồng là màu đỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Trang sức màu son đỏ, chữ viết từ bộ đan thanh sam.

Liểm cảnh âm liêm sách Khảo Thanh cho rằng: Giống như cái hộp mà có góc cạnh, có ngăn, chỗ gọi là chứa vật, Tự Thư giải thích: Cái hộp chứa nhiều đồ trang sức của người nữ, cũng là gương soi hoặc là viết chữ liểm.

Hưng tập ngược lại âm thấp lập Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tập là nhiều lớp chồng chất lên, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tập là tu bổ, sửa chữa, sách

Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tập.

Ban giao ngược lại âm bút mân văn trên đã giải thích rồi.

Hà trĩ ngược lại âm dưới trì lý sách Khảo Thanh cho rằng: Núi cao đứng riêng sừng sửng, hoặc là viết từ bộ chỉ viết thành chữ trĩ.

Trì vụ ngược lại âm vô ngộ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vụ là con ngựa có sức mạnh, Cố Dã Vương cho rằng: Vụ là ngựa phóng nhanh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh vụ.

Khánh biện ngược lại âm bì miễn sách Khảo Thanh cho rằng: Khánh biệm viết đúng là chữ biện nay truyện viết chữ biện tục tự thường dùng.

Trần cai ngược lại âm cổ lai sách Phương Ngôn giải thích: Đông Tề gọi rễ cây là cai sách Thuyết Văn cho rằng: Rễ cỏ, chữ viết từ bộ thảo thanh cai.

Ao Đường ngược lại âm ách giao Cố Dã Vương giải thích: Ao là đất không bằng phẳng, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh ao.

Tuấn hác ngược lại âm cẩu tuấn Quảng Nhã cho rằng: Tuấn là nước tràn, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tuấn là khơi sâu, nạo vét, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh tuấn ngược lại âm dưới hảo các Cố Dã Vương cho rằng: Hác giống như khe hang. Xưa nay Chánh Tự giải thích: Hác là cống rảnh.

Phù du âm trên là phù âm dưới là do theo Mao Thi Truyện cho rằng: Con phù du cự lược, tức là sớm sanh chiều chết, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ trùng.

Tiên ký ngược lại âm dưới cơ nghi sách Thuyết Văn giải thích: Ký là con ngựa chạy ngàn dặm, Tôn Sở Tương viết từ bộ mã thanh ký.

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 9

Ly ngược lại âm trên sĩ tri đã giải thích rồi.

Giác kỳ ngược lại âm giang nhạc Quảng Nhã cho rằng: Giác là rõ ràng, Thượng Thư Đại Truyện giải thích: Giác là giác kỳ là đọ sức tranh tài, hơn thua thắng bại, chữ viết từ bộ xa thanh bạt.

Duệ thao ngược lại âm lận thuế ngược lại âm dưới tào lão sách Khảo Thanh viết đúng là tháo Văn Truyện viết từ bộ thủy viết thành chữ tháo là chẳng phải.

Ưu lạc ngược lại âm quỵ vi sách Thượng Thư giải thích: Ưu là thần điển nhạc (849) đời vua Thuấn có tám âm, tuy là hình tượng giống có tay, có sừng, hình mặt người.

Dĩ duẫn ngược lại âm cú duẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Duẫn là cái xà để treo chuông trống, ngang gọi là cứ dọc là duẫn, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ trúc âm cứ là âm cự.

Phụng chứ ngược lại âm chư lự sách Phương Ngôn cho rằng: Chứ là cất cánh bay, sách Thuyết Văn cũng giải thích cất cánh bay, chữ viết từ bộ vũ thanh giả.

Vô cương ngược lại âm cưỡng hương sách Khảo Thanh cho rằng: Biên giới, sách Thuyết Văn giải thích cũng đồng, chữ viết từ bộ điền đến bộ tam gọi là biên giới tận cùng, hoặc là viết chữ cương văn truyện viết từ bộ cung viết thành chữ cương là chẳng phải.

Đa khuy ngược lại âm khứ nguy sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ khuy nay truyện từ bộ hoắc viết thành chữ khuy tục tự thường hay dùng.

Kinh thích ngược lại âm đinh lịch.

Khiếm khẩn ngược lại âm trên khiêm điếm sách Khảo Thanh cho rằng: Thỏa lòng Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nói nhàm chán, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hiềm ngược lại âm dưới khẩu ngận Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Khẩn là kiên nhẫn, Quảng Nhã cho rằng: Thành khẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Khẫn là thành thật tốt đẹp, chữ viết từ bộ tâm thanh khẩn ngược lại âm khổn bổn.

Mong lai ngược lại âm lai đại sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lai là ban tặng, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lai là quân đều, xưa nay Chánh tự viết từ bộ bối thanh lai.

Di thải ngược lại âm trên dĩ chi Quách Phác chú giải rằng: Di là biếu tặng, để lại, truyền lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh đài. Tiệp dư ngược lại âm trên tử diệp ngược lại âm dưới dữ chư theo Thanh Loại giải thích, vào đời nhà Hán có chức nữ quan gọi là tiệp dư, vị nữ quan này tiếp theo đến các người nữ sau này làm quan, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiệp dư đều từ bộ nữ gọi là kiện nữ, âm cùng với âm trên đồng, hoặc là viết chữ dư Văn Truyện viết chữ là chẳng phải.

Thúc vĩ ngược lại âm vũ quy sách Nhĩ Nhã cho rằng: Quan coi cửa bên trong gọi là vĩ, Quách Phác chú giải rằng: Gọi thông đến cửa nhỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh vĩ.

Thân thí ngược lại âm trên sơ cân viết đúng là chữ thân từ bộ khẩu nay Văn Truyện viết từ bộ bối viết thành chữ thân chưa rõ chữ này.

Tương thuyên ngược lại âm tử duyên sách Khảo Thanh Thiết Vận viết đúng là chữ thuyên cũng viết chữ thuyên tục tự dùng thông dụng.

Phong kiệt ngược lại âm cầu liệt viên đá dựng lên có khắc văn tự ghi công đức của người công, sách Thuyết Văn viết gọi là viên đá dựng đứng riêng biệt, chữ viết từ bộ thạch thanh hạt âm hạt là âm hạt.

Trọng lô ngược lại âm dưới lỗ đô sách Thuyết Văn cho rằng: Lô là cây đòn mỏng kê trên cây cột, chữ viết từ bộ mộc thanh.

Vân mi ngược lại âm mỹ bi sách Nhĩ Nhã cho rằng:

Mi gọi là cây đòn dông, Quách Phác chú giải rằng:

Thanh ngang gác trên cửa, chữ viết từ bộ mộc thanh mi. Quân uất ngược lại âm trên ủy luân ngược lại âm dưới ôn vật.

Tù kiền ngược lại âm trên tựu do Mao Thi Truyện cho rằng: Tù là cứng cỏi mạnh mẽ, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh tù ngược lại âm dưới là kiện Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kiện cũng là sức mạnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh kiện.

Tỏa tỏa ngược lại âm tô quả sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tỏa tỏa là vụn vặt, Quách Phác chú giải rằng: Đều gọi là đồ dùng tạm thời cũ kỹ, loan lổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh tỏa âm tỏa cùng với âm trên cũng đồng, Văn Truyện viết chữ tỏa là chẳng phải.

Hộ tùng ngược lại âm hồ cố Quảng Nhã cho rằng: Là tiếng xưng gọi người hạ tiện, hèn hạ, người để sai khiến, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh hộ.

Vân đang âm trên là vân âm dưới là đảng tức theo Tả Tư Ngô Đô Phú Truyện giải thích: Mũi tên làm bằng tre, vân đang đó là trong rừng lồ ô, Lưu Lương giải thích: Đều tên của loại tre trúc, chữ viết đều từ bộ trúc Văn Truyện viết từ bộ thảo là chẳng phải.

Phụng hoàng ngược lại âm hồ quang sách Khảo Thanh Thiết Vận giải thích: Viết đúng là cảnh hoàng phàm theo Văn Truyện viết từ bộ điểu viết thành chữ hoàng tục tự dùng chẳng phải.

Trần bảo ngược lại âm bảo lão theo Thanh Loại cho rằng: Đất cao ráo, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh bảo.

Thuyên tốc ngược lại âm trên thù duyên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thuyên tốc là mau chóng, theo Mao Thi Truyện giải thích: Thuyên mau nhanh chóng, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh đoan.

Nô đài ngược lại âm trên nổ hồ ngược lại âm dưới đại lai Quảng Nhã cho rằng: Nô cũng giống như là đài Cố Dã Vương cho rằng: Đài cũng là nô tức là ngựa tồi, ngựa kém, vô dụng, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ mã đều thanh nô đài.

Dật táo âm táo.

Chấp ý ngược lại âm trắc lập Mao Thi Truyện cho rằng: Chấp là trói buộc, hoặc là viết chữ trấp sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh chấp.

Xuyên du ngược lại âm dưới du chu sách Khảo Thanh cho rằng: Xuyên là khoét ngạch cửa, Tống Trung chú giải kinh Thái Huyền rằng: Du cũng là xuyên, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nữa bên cửa nhìn trộm, cũng gọi là đào tường, khoét vách, chỉ kẻ ăn trộm, chữ viết từ bộ huyệt thanh du.

Cảo kinh âm trên là hạo sách Thượng Thư giải thích: Thuộc kinh đô của Vũ Vương, Mao Thi Truyện cho rằng: Chỗ cao ráo sáng sủa vua ở, sách Thuyết Văn giải thích: Trường An phía tây kinh đô của Vũ vương, chữ viết từ bộ kim thanh cao.

Kiến phu âm phu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phu là thành ngoài, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh phu.

Hất hưởng ngược lại âm trên hân ngật sách Khảo

Thanh cho rằng: Gọi là âm thanh vang khắp, sách Thuyết Văn viết đúng là chữ hất hất là động tác không an, chữ viết từ bộ nhục bộ bát.

Ác xĩ ngược lại âm ư giác ngược lại âm dưới song lạc Ứng Thiệu Hán Thư chú giải rằng: Ác xi là thục dục cấp bách, sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng bức bách chật hẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh ốc hoặc là viết từ bộ túc viết thành chữ ác sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ xỉ từ bộ túc đến thanh xỉ.

Tất môn ngược lại âm trên vân mật Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tất môn là cổng đan bằng cỏ tất, chỉ nhà nghèo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tất.

ĐẠI ĐƯỜNG TAM TẠNG HUYỀN TRANG PHÁP SƯ BỔN TRUYỆN QUYỂN 10

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Vĩ vĩ là đẹp, tốt đẹp, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Vĩ vĩ là gắng sức, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Vĩ Vĩ là nhỏ bé mà qua được khe giữa.

Đam đam ngược lại âm đáp hàm Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Đam là ưa thích, sách Thuyết Văn cho rằng: Mê đắm dục lạc, ham vui hoặc là viết chữ đam.

Cấp cấp âm cấp. Vân thụy âm thùy.

Chánh cơ ngược lại âm trên sửu sanh Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khuy là nhìn trộm, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn thẳng, chữ viết từ bộ huyệt bộ chánh bộ kiến chánh cũng là thanh.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh đỉnh Văn Truyện viết từ bộ khẩu viết thành chữ khánh tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới khái ái theo Văn Truyện viết từ bộ khẩu viết thành chữ khái đều chẳng phải cùng với bổn nghĩa khác lạ.

Thiên trinh ngược lại âm tri dinh Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cây nữ trinh, lá đến mùa đông không rụng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây kiên mộc, chữ viết từ bộ mộc thanh trinh.

Xuyển tức ngược lại âm xuyên nhuyễn.

Ô ế ngược lại âm trên ốc ngô ngược lại âm dưới yên kiết. Dục nhật ngược lại âm dăng chức viết chữ dục cũng đồng. Chu tập âm tiếp.

Cứ trừ âm trên là cự âm dưới là trừ Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Cứ trừ là loại cỏ làm chiếu, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tống Ngụy gọi chiếu tre thô là cứ trừ, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết đều từ bộ trúc đều thanh cứ trừ.

Táng sản ngược lại âm sơn nhãn sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy từ kinh đô vào sông Lam Điền tỉnh Thiển Tây Trung Quốc chảy vào sông Vị, sông Bá, chữ viết từ bộ thủy thanh sản.

Bi da ngược lại âm cổ hà Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là nhạc khí của người Hồ, dùng lá lâu vấn lại mà thổi. Hoặc viết là hà xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh da.

Thê vãn ngược lại âm dưới vô viển theo Thanh Loại cho rằng: Vãn là dẫn dắt, lôi kéo, hoặc là từ bộ xa viết thành chữ vãn xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh vãn.

Dật dưỡng ngược lại âm dưới dương thượng Hán Thư âm nghĩa giải thích rằng: Nước mênh mông không bờ bến, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh dưỡng.

Lang can ngược lại âm trên là lãng âm dưới là vu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lang can đều là đá mà lại giống như ngọc, kinh Sơn Hải nói rằng: Ở núi Côn Lôn có cây lang can, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ ngọc đều thanh lang can.

Kiềm kiện ngược lại âm trên liểm diêm sách Phương Ngôn cho rằng: Kiềm là cái kiềm hại người, sách Thuyết Văn cho rằng: Áp bức kiềm kẹp bó buộc, chữ viết từ bộ kim thanh cam âm dưới kỳ yển Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Kiện là mấu chốt cái khóa, sách Phương Ngôn giải thích: Từ quan ải mà đến Đông Trần sở gọi cái khóa chốt cửa là kiện sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh kiến.

Ương ương ngược lại âm ước hướng sách Thuyết Văn cho rằng: Không hài lòng bực bội khó chịu, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh ương.

Căn hệ ngược lại âm hề kế sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hệ kế tục tiếp nối theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Hệ cũng là ràng buộc, chữ viết từ bộ mịch thanh phiệt âm phiệt là thanh tranh.

Mông dĩ ngược lại âm trên mộc hồng ngược lại âm dưới từ lý sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chỗ gọi là mặt trời ngã về phía tây là mịt mù xa tít, Quách Phác chú giải rằng: Mông dĩ là mưa khói mịt mù, chữ viết từ bộ thủy. Kỳ thuẫn ngược lại âm thù duẫn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: thuẫn thuộc mái chèo, lại gọi là có thể che chắn phía trước, sách Thuyết Văn cũng giải thích: Là cái khiên, cái thuẫn lớn chỗ gọi là che đỡ chống đỡ cái thân chữ tượng hình.

Giải di ngược lại âm dĩ y sách Phương Ngôn cho rằng: Di là phần má ngoài hàm miệng, sách Thuyết Văn viết từ bộ vi di âm di là âm di thanh hiệt.

Hổ âm là hộ.

Tru ngạn ngược lại âm trên lung chu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tru là loại chó lông beo, đó là chó hoang, giống như chồn, vật khác kêu gọi là báo chó, xuất ra từ công ngưu biến hóa như là thần cẩu, loại báo chó này không hiểu tiếng người nhe răng dọa nạt không tránh sợ người, chỗ thân cận không thể đồng ở chung khó có thể gần gũi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ trĩ thanh khu ngược lại âm dưới phiên cán ngạn con chó hoang, sách Thuyết Văn cho rằng: Chó hoang dã, chữ viết từ bộ trĩ thanh vu.

Tù trưởng ngược lại âm tợ do Văn Loại cho rằng: Gọi là khương hồ đại soái gọi là tù như ở Trung Quốc gọi người đứng đầu soái lĩnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ dậu bán bộ thủy xem trên.

Chung quyết ngược lại âm quyên huyệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quyết là loại ngọc có hình tròn mà không liền với nhau, tức là hình bán nguyệt, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh quyết.

Huệ chỉ âm trên là huệ âm dưới là chỉ Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Huệ loại cỏ thơm, lại gọi là bạch chỉ tên thảo mộc, rễ dùng làm thuốc cũng gọi là hoa huệ, xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thảo đều thanh huệ chỉ.

Cũ cũ ngược lại âm cư truất theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cũ cũ là vũ tướng hùng dũng, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cũ gọi là trang kiện tướng, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Sức mạnh khinh thường có tài, chữ viết từ bộ tẩu thanh cũ.

Bất đế âm đế Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Các ông nghĩ ra như vậy sao, ta thì sao hả, Thiên Thương Hoét cho rằng: Tiếng hắt hơi, sách Thuyết Văn giải thích: Giải tháo hơi ra, chữ viết từ bộ khẩu âm đế đồng với âm trên.

Phu du ngược lại âm dữ chu Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Du là nhan sắc hòa nhã tươi vui, Quảng Nhã cho rằng: Du là vui vẻ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh dụ.

Phát kiếm ngược lại âm dưới liêm chiêm viết đúng là chữ kiếm này, Văn Truyện viết từ bộ ngạc âm ngạc là âm tàn viết thành chữ kiếm tục tự dùng thông dụng.

Thân phục ngược lại âm trên sở sầu sách Khảo Thanh cho rằng: Cởi ra tháo ra, cởi áo ra, cởi áo trên mình ra, chữ viết từ bộ y.

Phiên dịch kinh Sa-môn Huệ Lâm soạn.

QUYỂN 84

- Âm Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Ký bốn quyển.

- Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Ký một quyển.

- Tập Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành bốn quyển.

- Tục Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành một quyển.

- Lơi thiệp Luận Hành một quyển.

- Đạo Ôn Định Tam Giáo Luận Hành một quyển.

- Bên phải dịch kinh Hồ Ký Luận Hành v.v... sáu bộ mười hai quyển đồng với âm với quyển này,

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 1

Giác thí ngược lại âm trên giang nhạc sách Lễ Ký giải thích: Mạnh Đông dùng võ lực tập trung ngăn cản chống đỡ, giác thuộc sức mạnh, Cố Dã Vương cho rằng: Giác là dùng sức lực giống như là tranh hơn thua, thắng bại, sách Lã Thị Xuân Thu giải thích: Giác là thử sức, Hán Thư giải thích: Giác là sức lực để chống đỡ, trong Đồ Ký viết từ bộ xa đến bộ giao viết thành chữ giác là chẳng phải đây dùng, Mao Thi Truyện cho rằng: Chiếc xe có ngự sĩ trang bị, sách Thuyết Văn cho rằng: Chiếc xe kỳ lạ có trang bị móc câu trên, các thừa tướng chuyên dùng, đây là sai lầm lớn chẳng nghĩa đây dùng, ngược lại âm dưới thi nhị sách Thuyết Văn cho rằng: Thí là dùng thử, Ngu Thư giải thích: Thí là xét nghiệm chứng thực rõ ràng, lấy công để chứng thực tài năng, chữ viết từ bộ ngôn thanh thử.

Quý nục ngược lại âm dưới nữ lục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nục là hổ thẹn, thẹn thùng, trong lòng xấu hổ, thẹn thùng đỏ mặt, sách Thuyết Văn cho rằng: Trong lòng hổ thẹn chữ viết từ bộ tâm thanh sửu âm ni là âm nỉ.

Tiệp dư ngược lại âm trên tiêm diệp ngược lại âm dưới dữ chư theo Thanh Loại cho rằng: Tiếp hạnh tên người phụ nữ làm quan, theo chữ tiệp dư đó là vào đời Hán, tên người con gái là Ban Duệ được may mắn làm tân phi, sách Thuyết Văn viết từ chữ nữ đều là chữ hình thanh, hoặc là viết chữ kiện dữ.

Siêm kiến ngược lại âm trên lai diểm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siêm là dòm ngó dò xét theo hầu hạ, sách Thuyết Văn cho rằng: Là hầu hạ, chữ viết từ bộ kiến thanh chiêm.

Phan ngung ngược lại âm trên là phan âm dưới là ngu tên của huyện Quảng Châu.

Cung đình hồ ngược lại âm trên là cung đây là tên của Động Đình Hồ, chữ viết vốn không đúng, Phủ Thư Quách Phác Truyện viết chữ cung dung đình nay trong Dịch Kinh Đồ Ký viết từ bộ nhân viết thành chữ cung đình, sách viết sai, theo tục truyền thấy nay gọi là Cung Đình Hồ vậy Ngô Sở nói sai khó làm chuẩn định. Đây tức là Động Đình Hồ theo Tào Thị Quận Quốc Chí giải thích: Ở Hồng Châu Quận Dự Dương, niên đại lâu xa cái hồ này vốn là nguồn nước, dựa theo xem xét văn tóm lược giải thích vậy.

Tán bại ngược lại âm trên tử thả sách Phương Ngôn cho rằng: Tán là giải, Quách Phác chú giải rằng: Tán tụng chỗ gọi là giải thích vật lý, Thích Danh cho rằng: Ca ngợi, khen người tốt đẹp gọi là tán sách Thượng Thư cho rằng: Khen ngợi có lợi ích, như khen ngợi vua Vũ, xưa nay Chánh tự viết từ bộ ngôn thanh tán, âm tán đồng với âm trên, từ bộ bối đến bộ tán bộ tán từ bộ tiên.

Man bi khắp ngược lại âm mang báng đây tức là Cung Đình Hồ thần rắn đại mãn xà ở trong hồ này, ngài An Thế Cao thật thương tâm rơi lệ mà thối lui.

Chế cẩu niết vương âm chế là âm chế sách Khảo Thanh cho rằng: Chó dại, theo Tả Truyện viết từ bộ chế viết thành chữ chế tục âm là vi kế hoặc là viết chữ kế đều e rằng chẳng phải, hoặc là viết chữ chế giải thích đều đồng trên, nay trong Đồ Ký viết từ bộ lạc viết thành chữ lạc không có dựa vào bằng cứ nào chẳng phải.

Khủ xỉ ngược lại âm khưu vũ xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cái răng bị sâu ăn, chữ viết từ bộ xỉ thanh vũ âm đố ngược lại âm đô cổ.

Khối vĩ ngược lại âm trên cổ hồi ngược lại âm dưới vĩ quỉ Bì Thương cho rằng: Khối vĩ là to lớn đẹp kỳ lạ, sách Tập Huấn giải thích: Khối là sức mạnh to lớn nhiều tràn đầy, lại gọi là vĩ đó là có cái đẹp kỳ lạ khác lạ, sách Thuyết Văn viết hai chữ khối vĩ đều từ bộ nhân đều thanh khối vĩ trong Đồ Ký viết từ bộ ngọc viết thành chữ hội là tên ngọc chẳng phải nghĩa đây dùng.

Hạt miệt ngược lại âm trên hách tiết hạt miệt là tên kinh, sách Khảo Thanh cho rằng: Con mắt không thấy vật. Lại gọi là mắt nhắm cũng viết chữ hạt chữ hình thanh, ngược lại âm dưới ngạnh diệt Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Miệt là loài thủy giới, loài sống dưới nước. Loại côn trùng mà xương ngoài mà thịt bên trong. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trùng viết thành chữ miệt kinh văn viết từ bộ ngư viết thành chữ miệt tục tự thường hay dùng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mảnh viết thành chữ miết thanh miết âm mảnh là âm mảnh âm miết cùng với âm trên đồng.

Vô Đoan Để Tổng Trì Kinh kinh này cũng còn thiếu bổn nước xưa viết tên kinh cũng là ngu dốt chất phác không phân rành âm để ngược lại âm âm đinh lễ.

----------------------------------------

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 2

Thuần ý âm dưới là ý sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ý là to lớn, sách Tiểu Nhã cho rằng: Thâm sâu, sách Ích Pháp cho rằng: Ôn nhu thánh thiện, gọi là ý yêu dân thâm sâu gọi là ý, sách Thuyết Văn viết từ bộ ế thành chí hoặc là viết từ bộ khiếm viết thành chữ ý cũng thông dụng.

Thế tửu ngược lại âm thời dạ Cố Dã Vương cho rằng: Thế là mua chịu, sách Hán Thư cho rằng: Cao tổ từ vua Ôn Thế Tửu, sách Thuyết Văn cho rằng: Thế là vay mượn, chữ viết từ bộ bối thanh thế lại âm thệ.

Vương ngung ngược lại âm vương cung tên người.

Buộn thân ngược lại âm bồn muộn bùn đất, phẫn nộ.

Trảo giáp ngược lại âm trên trách giảo tục tự thường hay dùng, viết đúng đơn viết chữ trảo chữ tượng hình văn cổ viết từ bộ hưu.

Xích chủy ô ngược lại âm tinh tủy gọi là cái mỏ chim, sách Văn Tự Điển nói rằng: Cũng là mỏ chim, kinh văn viết từ bộ duy đến bộ nải viết chữ chủy đều chẳng phải, sách Thuyết Văn phân biệt viết từ bộ thử thanh thứ âm thứ là âm thích hoặc là viết chữ chủy cũng viết chủy đều là chữ cổ.

----------------------------------------

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 3

Đàm-ma-bể ngược lại âm bế mê tiếng Phạm, tên của vị cao tăng.

Thiều niên ngược lại âm trên là điều sách Tập Huấn cho rằng:

Đứa trẻ cạo tóc còn chừa lại hai bên, không cạo gọi là tóc trái đào, sách Thuyết Văn cho rằng: Thiều là mãn tóc trái đào, chữ viết từ bộ tiêu thanh chiêu âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Bất tông ngược lại âm tông tống.

Thái tử hoằng ngược lại âm ô hoành ngược lại âm diêu hoằng.

Khánh khái ngược lại âm khinh đỉnh ngược lại âm dưới khai cái sách Vận Thuyên cho rằng: Khái là bệnh ho, kinh văn viết từ bộ khẩu viết thành chữ khái là chẳng phải.

Khương lương ngược lại âm trên khương lương ngược lại âm dưới là lương Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Con bọ hung hay ăn phẫn, cũng gọi là kiết lương.

Xích tư ngược lại âm tử tư sách Thuyết Văn cho rằng: Râu mép miệng. Hoặc từ bộ tiêu viết thành chữ tư cũng thông dụng.

Thần tỉ ngược lại âm tư thử tỉ là ngọc ấn của vua, vào niên hiệu Bắc Lương Trở Cự Mong ban đầu đã lập ra, hoặc từ bộ thổ viết thành chữ tỉ theo văn cổ là từ bộ ngọc.

Mạnh khải ngược lại âm nghi khải tên người.

Thực cấm ngược lại âm thời lực sách Phương Ngôn cho rằng: Thực là đứng thẳng, sách Vận Thuyên cho rằng: Thực là mọc lên, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thực gọi là thuộc mọc rễ, tức là trồng trọt, chữ viết từ bộ mộc thanh trực ngược lại âm dưới là cấm tục tự thường hay dùng, sách Thuyết Văn cho rằng: Tên của quả, chữ viết từ bộ mộc thanh thị trong văn lại viết thêm bộ mộc viết thành chữ cấm là chẳng phải.

Bá xưởng ngược lại âm dưới xương chưởng sách Khảo Thanh cho rằng: Nhà mà không có ngăn vách tường gọi là xưởng chữ hình thanh.

Chỉ viên tự ngược lại âm trên chi nhĩ sách Khảo Công Ký giải thích rằng: Quít vượt qua sông hoài mà trồng ở phía bắc thành quít đắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây giống như cây quít, chuyển viết từ bộ mộc thanh chỉ tên chùa.

Tuẫn vật ngược lại âm tuần tuấn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tuẫn là cầu mong, Ứng Thiệu chú giải sách Phục

Điểu Phú rằng: Tuẫn là cầu danh, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngạc thanh tuần âm ngạc là âm tàn.

----------------------------------------

CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ QUYỂN 4

Cập nghiệp ngược lại âm dưới nghiêm kiếp Hán Thư giải thích: Quân ngụy có huyện nghiệp, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ấp thanh nghiệp.

Vô đạn ngược lại âm đàn lạn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Phóng túng không kiêng sợ gì cả, Trịnh Tiển giải thích: Sợ khó lại gọi là kiêng sợ, theo Hàm Thi Truyện giải thích: Kiêng sợ điều ác, Quảng Nhã cho rằng: Kinh sợ, sách Thuyết Văn cho rằng: Kiêng kỵ nghen ghét, chữ viết từ bộ tâm thanh đan hoặc là viết từ bộ nhân viết thành chữ đạn sách Khảo Thanh giải thích: Đạn là rem sợ.

Vinh thanh ngược lại âm vĩnh huynh Tự Thư cho rằng: Vinh là thạnh nhiều, sách Sở Từ cho rằng: Cây lạc vinh hoa, sách Ích Pháp cho rằng: Nghĩa trước và sau đều có lợi gọi là vinh sách Thuyết Văn cho rằng: Cây cột giữa nhà trên đầu có nổi lên điềm tốt làm là vinh, tức là hiển đạt vinh hoa, chữ viết từ bộ mộc đến bộ vinh thanh tĩnh.

Phân củ ngược lại âm trên phương văn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phân là lộn xộn, Quảng Nhã cho rằng: Lộn xộn ngổn ngang, cũng là đông nhiều là loạn không hay, ngược lại âm dưới kinh dậu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Củ là xem xét kiểm soát, Quảng Nhã cho rằng: Củ là nóng nảy, gấp gáp đều là chữ hình thanh, sách Thuyết Văn giải thích: Chữ củ là ba sợi dây ràng buộc quấn lấy nhau, âm liệu là âm liểu chữ tượng hình âm cầu ngược lại âm cư cầu.

Âu dương ngụy ngược lại âm trên âu hầu ngược lại âm dưới nguy ủy triều đại nhà Lương, tên hầu bá.

Huệ khải ngược lại âm khai cải hoặc là viết chữ khải Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Khải là vui ca chiến thắng mừng công chiến thắng, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khải là hòa vui, sách Nhĩ Nhã giải thích: Khải là vui ca, sách Thuyết Văn cho rằng: Khải là mạnh mẽ, chữ viết từ bộ tâm thanh khải.

Thiên thê ngược lại âm thể để Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thê là thềm bậc, sách Thuyết Văn cho rằng: Thềm bậc gỗ tức là cây thang, chữ viết từ bộ mộc thanh đệ.

Tiêu cảnh ngược lại âm quỷ vĩnh tục tự thường hay dùng, nhưng trong Tự Thư đều nói không có chữ này, viết chữ cảnh.

Yên đỉnh ngược lại âm trên yên kiển ngược lại âm dưới chinh tĩnh hình sở địa danh, xưa là kinh đô của Sở Vương, thấy ở thành Dỉnh, ở Giang Lăng đông bắc hơn mười dặm, thanh khưu hư thành ngoài.

Ký cấu ngược lại âm câu hầu Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cấu là xem xét, chữ hình thanh.

Bao cổ ngược lại âm phụ mâu cũng là âm phương vô đều âm tần theo Tả Truyện cho rằng: Phu là đánh trống, lúc chiến tranh ngày xưa thường dùng. Cố Dã Vương cho rằng: Lấy dùi đánh trống, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm là phu là cầm cán đánh trống, chữ viết từ bộ mộc thanh bao trong Dịch Kinh Đồ Ký viết từ bộ phu đến bộ thủ viết thành chữ phu là chẳng phải, chữ phu nước Ngô âm là phục bất không âm phúc phù tại chữ vưu vận giữa cùng với chữ phù đồng, nói tóm lại giải thích đều đồng, âm chỉ là riêng biệt, nhận lấy tùy theo âm hưởng, nay lại không dùng.

(851) Hãi nục ngược lại âm trên hài ngai Quảng Nhã giải thích: Hãi là kinh sợ nhảy chồm lên, Thiên Thương Hoét ghi kinh hãi, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Con ngựa kinh sợ giựt mình, chữ viết từ bộ mã thanh cai ngược lại âm dưới nữ lục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nục là trong lòng hổ thẹn đỏ mặt, đều là chữ hình thanh.

Hồi bá ngược lại âm ba mạ Hán Thư âm nghĩa giải thích: Ba là dây cương buộc ngựa, sách Khảo Thanh cho rằng: Khống chế con ngựa, bá cũng là dây cương cầm nơi cán, sách Thuyết Văn là dây cương chữ viết từ bộ cách thanh ba cũng viết chữ bá âm bí là âm bí.

Hội diểm ngược lại âm trên hồi ngoại sách Vận Anh giải thích: Màu sắc rực rỡ, sách Vận Thuyên cho rằng: Đem hết tất cả màu sắc ra để vẽ, Thiên Thương Hoét ghi rằng: Giống như màu đỏ hơi xanh nhạt, sách Thuyết Văn giải thích vải lụa dệt dư màu, chữ viết từ bộ mịch thanh hội ngược lại âm dưới là diệp tiệm sách Vận Anh giải thích: Quang huy rực rỡ, Hán Thư giải thích ánh sáng rực rỡ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh diểm.

Phạm nghĩa quân âm trên là phạm họ người, âm dưới là quân tên người. Lại là âm ư luân xưa Sở Vũ Vương cũng tên là Quân chữ hình thanh.

*******

TỤC CỔ KIM DỊCH KINH ĐỒ KÝ

Tiếu yên ngược lại âm trên tề diệu Thiên Thương Hoét ghi rằng: Tiếu là mắng nhiếc, sách Vận Anh cho rằng: Trách quở, sách Khảo Thanh cho rằng: Chỉ trích, sách Thuyết Văn giải thích: Trừ bỏ, hà khắc, tàn ác, chữ viết từ bộ ngôn thanh tiếu âm dưới là ai kiền theo chữ yên là mượn âm dùng, chữ viết từ bộ nhất đến bộ ô cũng là nói thanh dư vốn âm yển kiện nay không dùng.

Ngạc công ngược lại âm ngang các Thế Bổn giải thích ngạc là địa danh. Tống Trung giải thích: Ở Giang Hạ, Ngạc Châu Cố Dã Vương cho rằng: Nay phía tây Nam Dương có huyện Ngạc.

Minh tuần ngược lại âm tuất tuân sách Vận Anh cho rằng: Dáng ôn hòa cung kính, sách Vận Thuyên cho rằng: Kính thuận. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tuần là tin, xưa nay Chánh Tự giải thích lòng tin, chữ viết từ bộ tâm thanh tuần.

Duệ bộ ngược lại âm trên duyệt huệ sách Khảo Thanh cho rằng: Duệ là sáng suốt thông minh, ngược lại âm dưới là bô cổ sách Khảo Thanh cho rằng: Bộ là cuốn sổ ghi chép sự vật, chữ viết từ bộ trúc thanh bộ âm bộ là âm phổ.

Thúc yên ngược lại âm trên hương lục sách Vận Anh cho rằng: Con chó chạy nhanh, hoặc là từ bộ hỏa viết thành chữ thúc tức là ánh sáng lay động chợt đến, ngược lại âm dưới ai càn.

Khẩn trắc ngược lại âm khẳng ngận Quảng Nhã cho rằng: Thành khẩn, sách Vận anh cho rằng: Lòng tin chân thật chữ viết từ bộ tâm thanh khẩn âm khẩn đồng với âm trên.

Lự lộc ngược lại âm trên lực cứ ngược lại âm dưới lung đốc.

Liệu tăng ngược lại âm liễu điêu sách Khảo Thanh cho rằng: Liêu bới móc lấy sửa chữa, theo Thanh Loại cho rằng: Liên lụy, chữ viết từ bộ thủ thanh liêu âm liêu ngược lại âm lực diêu.

Vi dĩ ngược lại âm quỹ ủy sách Khảo Thanh cho rằng: Trò chơi cờ bạc lấy thân mình chơi cờ bạc tranh hơn gọi là vi sách Thuyết Văn cho rằng: Vi là của cải tiền bạc đem đút lót, chữ viết từ bộ bối thanh vi cũng là văn cổ viết chữ hóa.

Quyên trích ngược lại âm trên quyết duyên sách Khảo Thanh cho rằng: Quyên trích là dòng nước nhỏ chảy, sách Thuyết Uyển nói rằng: Dòng nước nhỏ không lắp đầy sông lớn, ngược lại âm dưới đinh lịch Cố Dã Vương cho rằng: Giọt nước nhỏ xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Rải nước. Quyên đích đều là chữ hình thanh, hoặc là viết chữ đích.

Trích hội ngược lại âm trắc cách sách Khảo Thanh cho rằng: Trích là nhặt lấy, hoặc là viết chữ trích.

Thần luyện ngược lại âm vấn nhãn.

Hoài địch ngược lại âm đồ đích sách Nhĩ Nhã cho rằng: Địch là dẫn lối mở đường đi thẳng đúng hướng, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tiến tới, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mở đường chỉ lối đến nơi.

Thạch miệt ngược lại âm tiên diệt ở Tường An thành phía nam, suốt dọc phía nam tên của hang núi.

Sưu tập ngược lại âm sương lưu hoàng đế ta tìm cầu chiêu hiền nơi xa xôi, uy đức vững vàng, hưng thạnh thích giáo, lợi ích quần sanh.

Toát kỳ ngược lại âm toàn loát sao lược yếu văn bỏ đi phiền toái nảy sinh rườm rà, chỉ tóm lược chính yếu hiển bày rõ ràng, giáo thể chữ viết từ bộ thủ thanh tối.

*******

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 1

Huệ Lâm soạn.

Sở đàm ngược lại âm đồ hàm Trịnh tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Đàm là dài lâu, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Gọi là kéo dài ra che trùm đến tất cả, Văn Luận viết từ bộ tây viết thành chữ đàm là Trụ Văn viết, sách Thuyết Văn viết chữ đàm Triện Văn viết từ bộ tây dưới từ bộ cao ngược lại âm hầu khổng.

Tọa trĩ ngược lại âm trì lý Cố Dã Vương cho rằng: Trĩ là dừng lại không tiến tới phía trước, sách Thuyết Văn cho rằng: Trĩ là đi bộ, bước từng bước mà không tiến tới phía trước, Văn Luận viết từ bộ sơn viết thành chữ trĩ là sai, sách Thuyết Văn viết từ bộ chỉ thanh tự.

Kế độ ngược lại âm đường các sách Quốc Ngữ cho rằng: Độ là đoán đánh giá, sách Khảo Thanh cho rằng: Đo lường, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ Hưu đến bộ thứ thanh tĩnh.

Diệp phục ngược lại âm trên quán thiệp sách Thuyết Văn cho rằng: Diệp là thiết đồng lá mỏng, chữ viết từ bộ kim thanh diệp ngược lại âm dưới phong mục Cố Dã Vương cho rằng: Phục chỗ gọi là bao chứa trong ngũ tạng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh phục.

Khải triệt ngược lại âm triền liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng:

Triệt là vết bánh xe, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa đến bộ triệt thanh tĩnh.

Diệp diệp ngược lại âm trượng giáp theo Hàn Thi Truyện giải thích: Diệp giống như là vở không còn nguyên, theo Thanh Loại cho rằng: Tiếng của con vịt ăn, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh diệp âm khuyết ngược lại âm nhược huyệt.

Kháng ngôn ngược lại âm khang lãng theo Tả Truyện cho rằng: Kháng là chống cự, Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Giơ cao lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh khang âm khang ngược lại âm các lãng.

Tỏa tỏa ngược lại âm tang quả Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tỏa tỏa là vụn vặt, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Dụng cụ lặt vặt xưa cũ kỹ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh tỏa.

Hòe đình ngược lại âm hồ quái Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cây hòe lá ban ngày thì xếp lại, ban đêm thì giãn ra duỗi ra, tức vị quan giữ gốc cây hòe, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh quĩ.

Bao biếm ngược lại âm trên bác mao Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bao tấn lên đưa lên, Văn Tự Điển nói: Khen ngợi tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bao âm bao là chữ cổ văn cổ viết chữ bảo Văn Luận viết từ bộ bảo viết thành chữ bao tục dùng cũng thông dụng, ngược lại âm dưới là bút yểm sách Khảo Thanh cho rằng: Biểm là tổn hoại theo Công Dương Truyện cho rằng: Bị rơi rớt xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bối thanh biếm.

Hám trạch ngược lại âm kham lạm tên người.

Sai nhị ngược lại âm trên thất tài Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sai là nghi ngờ đoán, chữ viết từ bộ khuyển thanh thanh.

Tư đồ ngược lại âm tức dư Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tư là có tài trí, xưng gọi có tài trí hơn người, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh tư Văn Luận viết từ bộ thử viết thành chữ tư là sử hình như chẳng phải nghĩa này.

Thương xác ngược lại âm khẩu giác theo Hàn Khang Truyện cho rằng: Xác là cứng, gọi cách khác: Xác gọi là cứng không thể nhổ lên nổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thạch thanh xác âm xác ngược lại âm hoang các.

Đằng-lan ngược lại âm đặc đăng tiếng Phạm danh tăng.

Nhập lạc ngược lại âm lãng các Cố Dã Vương cho rằng: Đây là đời nhà Hán sửa đổi lại chữ lạc là lạc sách Thuyết Văn viết từ bộ chuy thanh các.

Tào thực ngược lại âm thừa lực danh nhân.

Lão đam ngược lại âm tha cam tên của Lão Tử.

Truyền nghị ngược lại âm nghi ký tên người.

Thái âm ngược lại âm y dâm tên người.

Khôi tẫn ngược lại âm từ nhẫn sách Phương Ngôn cho rằng: Đốt lửa cháy còn dư lại tro tàn, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh tân Văn Luận viết từ chữ tẫn tục tự thường hay dùng.

Quý nục ngược lại âm ni lục Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trong lòng hổ thẹn gọi là nục sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh nhi.

Tiệp dư ngược lại âm trên tiêm diệp ngược lại âm dưới dực chủ tên người nữ làm quan trong cung.

Túng thái ngược lại âm trên túc dụng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Buông thả phóng túng tình dục, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh tùng ngược lại âm dưới tha cái sách Hoài Nam tử cho rằng: Thải sâu ngũ tạng, Quảng Nhã cho rằng: Thải là tẩy rửa, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh thái.

Đạm bạc ngược lại âm trên đàm cảm Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đạm là mùi vị nhạt nhẽo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh đạm ngược lại âm dưới bàng các Thiên Thương Hoét ghi rằng: Bạc là mỏng manh nhỏ bé, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh bạc

Văn Luận viết từ bộ thủy viết thành cảnh bạc là đàm hồ nước không chảy, cũng chẳng phải nghĩa đây dùng.

Tử tuấn ngược lại âm tuân duẫn tên người.

Hạp nhĩ mục ngược lại âm hàm cáp sách Thuyết Văn cho rằng: Hạp là đóng cửa lại, chữ viết từ bộ môn thanh hạp âm hạp là âm hợp.

Trấp trùng ngược lại âm trên trực lập sách Nguyệt Lịnh ghi rằng: Trấp là loài côn trùng ẩn trốn, đến mùa thu thì ẩn náu trong hang thu mình lại che giấu đến mùa xuân thì loài côn trùng bắt đầu trổi dậy, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh chấp âm dưới là thần Văn Luận viết chữ này từ bộ hủy âm hủy là chẳng phải.

Loạn đại ngược lại âm loạn quan tên người.

Nhu viên ngược lại âm nô đao Mao Thi Truyện cho rằng: Thuộc loài vượn. Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ ưu viết thành chữ nhu Văn Luận viết từ bộ nhu viết thành chữ nhu tục tự thường hay dùng.

Nguyên miết ngược lại âm trên là nguyệt viên sách Nguyệt Lịch cho rằng: Đến mùa trọng thu trăng lên, mới Bồ-tát được con ba ba, ngược lại âm dưới tiên diệt, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Người ta bắt con ba ba, con cá chép đem đi nướng, sách Quốc Ngữ cho rằng: Con ba ba lớn mà dài thịt của nó ăn rất ngon, sách Thuyết Văn viết từ bộ mảnh đều thanh nguyên miết.

Huyễn hoặc ngược lại âm huyền luyện Thiên Thương Hoét ghi rằng: Huyễn ảo, hoặc loạn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh huyễn âm huyễn là âm hoạn.

Lụy nẫm ngược lại âm nhậm chẩm Đỗ Dự chú giải

Tả Truyện rằng: Nẫm là một năm, sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh niệm.

Loa nhiễu ngược lại âm nhiêu chiểu Quảng Nhã cho rằng: Nhiễu loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phiền nhiễu chữ viết từ bộ thủ thanh ưu Văn Luận viết từ bộ ưu viết thành chữ nhiễu âm ngược lại âm nô lực.

Hàm đan thuần ngược lại âm thuận luân tên người.

Hãi phục ngược lại âm hài ngai Thiên Thương Hoét ghi rằng: Kinh hãi, sách Bát Nhã cho rằng: Hãi là trỗi dậy, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh cai.

Tinh sưu ngược lại âm sở cầu sách Văn Tự Điển nói: Sưu là lục lọi tìm kiếm, cầu tìm, sách Quốc Ngữ nói rằng: Sưu là lục xét, kiểm tra, hiềm khích, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh sưu Văn Luận viết chữ sưu tục tự dùng thông dụng.

Phưởng phất ngược lại âm trên phương đồng sách Hán Thư cho rằng: Phưởng phất là tương tợ, thấy nghe mà không sát thật, ngược lại âm dưới phương vật sách Khảo Thanh cho rằng: Phưởng phất là không phân rõ ràng, sách Thuyết Văn đều từ bộ nhân viết thành chữ phương phất cũng đều là thanh.

Chi vẫn ngược lại âm văn phân Thiên Thương Hoét cho rằng: Vẫn là hai bên mép miệng, Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Vẫn bên mép miệng (852) sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh vật.

Tuấn niết ngược lại âm trên tư dực ngược lại âm dưới tiên triết đều là tên của vị cận thần đời Ngu Thuấn, Văn Luận viết từ bộ hòa viết thành chữ niết là chẳng phải nghĩa.

Lâm hác ngược lại âm hồ các kinh Sơn Hải ghi rằng: Ngoài biển Đông Hải có cái hang lớn, Cố Dã Vương cho rằng: Hác giống như hang hốc, khe lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ bộ hác thanh cốc âm hác là âm tàn.

Kháng bí ngược lại âm bi mi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Lục bí giống như sợi dây tơ mềm mại, sách Thuyết Văn viết từ bộ ty thanh bí Văn Luận viết từ bộ vong viết thành chữ bí tục tự dùng cũng thông dụng, âm bí ngược lại âm vi.

Kệ sở ngược lại âm khưu lệ Thiên Thương Hoét cho rằng: Kệ là tham, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hạt.

Biền mẫu ngược lại âm trên bổ miên ngược lại âm dưới mâu hậu tên người.

Lung tráo ngược lại âm tri giảo Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tráo là cái nơm bắt cá, sách Thuyết Văn viết từ bộ võng thanh trác.

Tấn thân ngược lại âm trên tân nhẫn sách Nghi Lễ giải thích: Tấn là cắm cái hột vào trong áo, sách Lễ Ký cho rằng: Cắm cái hột thẳng vào trong áo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tấn ngược lại âm phu chân Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Thân là dây thắt lưng, dây đao lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh thân.

Trù trướng ngược lại âm trắc lưu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trù trướng là cuồng vọng, nói dối sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh trù Văn Luận viết từ bộ xa viết thành chữ chu là chẳng phải nghĩa trù trướng.

Nhung mạch ngược lại âm mạc cách sách Thượng Thư rằng: Bộ tộc Hoa Hạ Man Hạc, không dựa vào quyền thế mà bắt bẻ nô tỳ, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tên bộ tộc ở đông bắc Trung Quốc gọi là mạch sách Thuyết Văn viết từ bộ trĩ thanh các hoặc là viết từ bộ bách viết thành chữ mạch Văn Luận viết từ bộ bạch viết thành chữ phạ sách Thuyết Văn giải thích phạ giống như chó sói, chẳng phải nghĩa đây dùng, âm phạ là âm phạ.

Kỳ khiếu ngược lại âm trên kiên điếu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khiếu là cần tìm tòi, sách Thuyết Văn ghi: Noi theo tuân theo, lấy sự ngăn che, chữ viết từ bộ xích thanh khiếu âm khiếu là âm dược.

Cấp nhiên ngược lại âm tam đáp sách Phương Ngôn cho rằng: Cấp là con ngựa chạy nhanh, Quách Phác chú giải rằng: Cấp là phóng nhanh vùn vụt, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh cập.

Thích tùng ngược lại âm đinh lịch sách Khảo Thanh cho rằng: Trích là chỉ ra sự thật, thích hợp tốt lành, chủ đề rõ ràng, chữ mượn âm.

Đào chú ngược lại âm trên đạo đao theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Đào là trừ bỏ, nuôi dưỡng hun đúc, sách Khảo Thanh cho rằng: Nước chảy lưu thông, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh đào ngược lại âm dưới chu thụ theo Tả Truyện cho rằng: Chú là cái đĩnh, giống như vật, Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là nung đốt đồng cho chảy ra làm khí cụ, dụng cụ, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh trù âm dương ngược lại âm dương lượng.

Đạo tắng ngược lại âm công ngoại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tắng là tên vùng đất thuộc huyện Vinh Dương Mật đông bắc, cũng là tên nước cổ. Cố Dã Vương giải thích: Tắng là Trịnh Vũ Công sau bị nước cũ diệt sau là đất Trịnh.

Băng kích ngược lại âm bàng giảng Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Băng là cây gậy lớn, Trịnh Huyền chú giải sách Phương Ngôn rằng: Nay gọi là gông cùm xiềng xích tội nhân lại rồi đánh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu cũng là thanh.

Hủy bác ngược lại âm bang giác Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Bác là tước lột, Bì Thương cho rằng: Lột bỏ đi vỏ ngoài, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh lộc Văn Luận viết từ bộ mã viết thành chữ bác bác là tên con ngựa chẳng phải nghĩa đây dùng, âm lộc là âm lộc.

Thực ế ngược lại âm yên kiết Trịnh Huyền chú giải sách Phương Ngôn rằng: Ế là đau nhức, sách Thuyết

Văn cho rằng: Ăn cơm mắc nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế âm trất ngược lại âm chân lật.

Khổn trí ngược lại âm tri lợi Cố Dã Vương cho rằng: Trí giống như bị đốn ngã, theo Tả Truyện cho rằng: Đổ Hồi bị thất bại mà điên cuồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chất.

Biện bát ngược lại âm bán mạt Quảng Nhã cho rằng: Bát là trừ bỏ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Vất bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh bát.

Thác bạt đảo ngược lại âm đồ đáo tên của Ngụy Thế

Tổ.

Cung thuẫn ngược lại âm thần chuẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thuẫn là thuộc cái khiên, cái thuẫn lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ gọi là chống đỡ che thân, chữ viết từ bộ mục chữ tượng hình.

Thiêu lược ngược lại âm lực ước theo Tả Truyện giải thích: Lược gọi là cướp đoạt tài sản tài vật, Cố Dã Vương giải thích: Gọi bắt được lấy tước đoạt hết tài vật rồi giết bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh kinh âm lổ là âm lổ.

Kiêu trảm Cố Dã Vương giải thích: Cái đầu treo lên cây gậy trúc nơi hàng quán gọi là tội ác, sách Thuyết Văn cho rằng: Đầu treo ngược là kiêu chữ tượng hình, Văn Luận cho rằng: Chữ viết từ bộ điểu viết thành chữ kiêu là chẳng phải.

Di chi ngược lại âm dĩ chi sách Phương Ngôn giải thích: Di gọi là ban tặng, biếu thức ăn cho người, từ quan ải mà đến đông Trần Tống đều thông ngữ như vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Gạo lương thực được sấy khô, chữ viết từ bộ thực thanh đài âm nghiệt ngược lại âm ngôn liệt.

Cận gián ngược lại âm hàm ảm Xuân Thu Truyện giải thích rằng: Bó buộc lại đào đất đem chôn, Hán Thư giải thích rằng: Mảnh hổ đào đất làm hang, ở trong hang, Tống Thư giải thích đào lấy đất cứng, cho nên chữ viết từ bộ thổ viết thành chữ giám tức là hầm dưới đất, sách Thuyết Văn viết từ bộ giám thanh tĩnh theo Văn Luận viết từ bộ mộc viết thành chữ hạm cũng là con hổ trong chuồng, giống như cái củi, cái hòm, âm tĩnh là âm tịnh.

Tuấn tập ngược lại âm trên cú nhuận âm dưới là tập tên người.

Thông duệ ngược lại âm trên thất công theo Hàn Thi Tuyện cho rằng: Thông minh sáng suốt, hiểu biết chính xác, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ thanh thông ngược lại âm dưới là du huệ sách Thuyết Văn cho rằng: Duệ là trí của bậc thánh, hoặc là viết từ bộ thổ viết thành chữ duệ Trụ Văn viết chữ này, Văn Luận viết chữ duệ là chữ cổ từ bộ duệ đến bộ mục đến bộ cốc thanh tĩnh âm duệ là âm tàn.

Thố hoài ngược lại âm thô lộ sách Luận Ngữ cho rằng: Thố là có đặt để, sách Phương Ngôn giải thích: Để cho an ổn, sách Thuyết Văn viết từ bộ hán thanh tích âm hán là âm hãn.

Chu khải ngược lại âm ngư khải tên người. Vương mật ngược lại âm dân tất tên người.

Kháng tích ngược lại âm khang lãng Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Kháng là giơ cao lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh kháng.

Thi quy ngược lại âm thư di Thiên Thương Hoét cho rằng: Thi là thẻ tre để bói toán, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc cỏ ngãi, ngàn năm mới mọc lên, ba trăm năm mới trổ cọng thân cây, Cố Dã Vương cho rằng: Thẻ tre dùng bốn mươi chín miếng để bói, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh kỳ.

Khuông bân ngược lại âm bút thân tên người.

Hoàn tịch ngược lại âm hồ quan Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hoàn là cây cói dùng làm chiếu, dệt chiếu, Cố Dã Vương cho rằng: Hoàn giống như cỏ xương bồ mà lại tròn, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh hoàn.

Thảo lũ ngược lại âm câu vũ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lũ gọi là giày dép cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ lý tóm lược là bộ lũ thanh lũ.

Tân thiên ngược lại âm nhị diên sách Chu Lễ cho rằng: Mùa đông mỡ dê, mỡ cừu đông lại, mùi trên thân con cừu, sách Thuyết Văn cho rằng: Mùi, chữ viết từ ba bộ dương Văn Luận viết chữ thiên tục tự dùng thông dụng.

Thước linh ngược lại âm thương chước Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Thước là sáng sủa, Mao Thi Truyện cho rằng: Tốt đẹp mạnh mẽ, Văn Luận viết từ bộ hỏa viết thành chữ thước thước là làm nóng chảy tiêu đồng, lò đúc, chẳng phải nghĩa đây dùng, sách Thuyết Văn viết từ bộ lạc thanh kim.

Y bát ngược lại âm ban mạt Văn thông dụng cho rằng: Cái bình bát của vị tăng đi khất thực, sách Thuyết Văn viết từ bộ mảng thanh bạt âm bạt ngược lại âm bàn mạt.

Tịch bạc ngược lại âm phan mạch chữ mượn âm.

Cúc nghiệt ngược lại âm ngôn liệt sách Thượng Thư cho rằng: Giống như ủ làm men rượu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Men rượu, sách Thuyết Văn viết từ bộ mễ thanh nghiệt.

Tân huân ngược lại âm hư vân Trịnh chú giải sách Lễ Ký rằng: Huân là loại rau có mùi và có chất cay, theo Thanh Loại tỏi mọc ngoài hoang dã, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh quân.--------------------------------------

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 2

Tương đấu ngược lại âm đinh đậu Thiên Thương Hoét cho rằng: Cửa đấu tranh, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai tướng sĩ cùng đấu binh trượng với nhau, chữ tượng hình, nay viết từ bộ môn bên trong là chữ đấu đó là tục dùng thông dụng, Văn Luận viết từ bộ đao viết thành chữ đấu đó là sai vậy.

Trở hải ngược lại âm trên trang sở sách Khảo Thanh cho rằng: Trở là dụng cụ để thịt lên như cái mâm để nhiều thịt, sách Lễ Ký cho rằng: Thời nhà Chu bày mâm cổ bàn để đầy thịt cúng tể, trở giống như bàn án, sách Thuyết Văn cho rằng: Phân nữa thịt để ở trên, chữ tượng hình, âm dưới là hải Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hải là thịt làm tương, sách Thuyết Văn viết từ bộ dậu thanh hải âm hữu ngược lại âm du hải âm hữu ngược lại âm vu cứu hoặc là viết từ bộ hữu viết thành chữ hữu cũng thông dụng.

Thân siêm ngược lại âm lặc diểm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siêm dòm ngó hầu hạ, Trịnh Tiển chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhìn trộm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kiến thanh chiêm âm khuy ngược lại âm xí duy.

Dương giác ngược lại âm khẩu giác Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Dương giác là thô lược

Quảng Nhã cho rằng: Giác là cây cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc viết thành chữ giác tức cây cầu bắc ngang sông chỗ gọi là qua sông.

Thương đố ngược lại âm đô cố theo Tả Truyện cho rằng: Công tụ đó tức là con sâu mọt, loại côn trùng hại vật, chữ viết từ bộ côn thanh thác âm thác là âm thác.

Phác tố ngược lại âm phổ bác Vương Bậc chú giải sách Lão Tử rằng: Phác là chân thật, sách Thuyết Văn ghi: Gỗ dưa thành khí, gỗ thuần chất, cũng gọi là giản dị mộc mạc, chân chất, thật thà, chữ viết từ bộ mộc thanh phác hoặc là viết từ bộ bốc viết thành chữ phác cũng thông dụng.

Quýnh kỳ ngược lại âm hưu thạnh Lưu Triệu chú giải Hán Thư rằng: Quýnh là sâu xa, Cốc Lương Truyện giải thích: Nước đi vào một ngàn dặm, lại cuối doanh trại đô thành, sách Thuyết Văn viết từ bộ quỳnh đến bộ nhân trong huyệt trên, âm mân ngược lại âm hỏa liệt.

Độc phù ngược lại âm phụ du Mao Thi Truyện cho rằng: Phù là loài thủy điểu, Cố Dã Vương cho rằng: Tức là con vịt, con le le, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu tóm lược thanh phù âm phù là âm thù.

Sở hấp ngược lại âm huất ấp Mao Thi Truyện cho rằng: Giống như là dẫn vào, Quảng Nhã cho rằng: Uống vào, sách Khảo Thanh cho rằng: Hít hơi vào bên trong, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh cập Văn Luận viết từ bộ hấp viết thành chữ hấp là chẳng phải.

Khấu xỉ ngược lại âm khổ hậu Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Khấu là đánh gõ, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Khấu là đánh gõ, chữ viết từ bộ thủ thanh khẩu.

Tiến tịch âm trên tiên điện Như Thuần chú giải Hán Thư rằng: Cỏ nhiều dày đặc gọi là tiến Thích Danh cho rằng: Giường cỏ, chỗ gọi là tự lấy cỏ héo làm giường, Quảng Nhã cho rằng: Chiếu cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tử âm trĩ là âm trĩ Văn Luận viết từ bộ thảo bộ trúc viết thành chữ túc là chẳng phải.

Lư triển ngược lại âm dưới triển nghiển Bì Thương cho rằng: Con ngựa nằm trên đất gọi là ngựa biếng nhác, tức con lừa, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh triển, Văn Luận viết từ bộ xa viết thành chữ triển là sai.

Trích đầu ngược lại âm trắc thảo sách Khảo Thanh cho rằng: Trích là bẻ ngắt, hái, nhặt lấy, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh trích.

Huyền trất ngược lại âm trắc sắc sách Lễ Ký cho rằng: Triết dùng giống như chữ trất sách Thuyết Văn cho rằng: Tên gọi chung là cây lược chải tóc, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết.

Diên thực ngược lại âm trên thức diên ngược lại âm dưới là thời dực Ngự chú giải sách Lão Tử rằng: Diên là hòa trộn, nhồi nắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh diên thực là đất sét, đất dẻo, người thợ gốm nhồi trộn đất làm đồ sành sứ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh thực Văn Luận viết từ bộ thổ viết thành chữ diên là chẳng phải.

Mảnh pháp sư ngược lại âm mạc danh tăng.

Chi trù ngược lại âm trực lưu sách Vận Lược cho rằng: Trù là loại bậc, Quảng Nhã cho rằng: Dựa vào, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh trù.

Bế thần ngược lại âm bổ đê Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bế là người được vua sủng ái yêu chiều, thân được may mắn, Lưu Hy chú giải Hán Thư rằng: Người thấp hèn được sủng ái yêu chiều, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh tích.

Kích thiết ngược lại âm kinh đích Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cảm kích, sách Phương Ngôn cho rằng: Thanh sạch, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh kích âm kích ngược lại âm dương chước.

Ái pháp sư ngược lại âm y cái danh tăng.

Tạp nhu ngược lại âm ni cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu là lộn xộn tạp, sách Thuyết Văn cho rằng: Cơm pha trộn, chữ viết từ bộ mễ thanh sửu Văn Luận viết từ bộ nhu viết thành chữ nhu tục dùng thông dụng.

Thực trâm ngược lại âm thập nhận Văn Tự Điển nói: Trâm là quả dâu, Mao (853) Thi Truyện cho rằng: Than ôi con chim tu hú nó không ăn quả dâu ta, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh thậm.

Đảm quan ngược lại âm đinh cam Quảng Nhã giải thích Đảm là nhấc cao lê, Tự Thư cho rằng: Gánh vác, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh đảm. Dung phẩu ngược lại âm phổ hậu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phẩu là lột da, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phân ở trong ra gọi là phẩu sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh phẩu Văn Luận viết từ bộ thiệt viết thành chữ quát là chẳng phải.

Thích tiển ngược lại âm trên tha lịch Ngọc Thiên giải thích Thích là sửa chữa, cạo tóc, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh dịch ngược lại âm dưới tử tiện Trịnh tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tiển là đoạn ra, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tiển là cắt cho bằng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đoạn ra cắt cho đều bằng nhau, chữ viết từ bộ vũ thanh tiển. Manh tục ngược lại âm mạch canh Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nói ở trong ngoài biến đổi, manh giống như mờ mịt không biết rõ, Lưu Hy chú giải Hán Thư rằng: Gọi là nơi biên giới vùng đất xa xôi, con người chất phác, quê dốt không hiểu biết, sách Thuyết Văn viết từ bộ dân thanh vong.

Mẫn chi ngược lại âm di nhẫn Mao Thi Truyện giải thích: Mẫn là mất hết, tiêu diệt, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hết sạch, tận diệt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh dân Văn Luận viết từ bộ sơn viết thành chữ mẫn là sai.

Tử huân ngược lại âm vu luân tên của vị vua.

Trâm chùy ngược lại âm chấp lâm sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh thậm Văn luận viết từ bộ chiêm viết thành chữ trâm tục dùng thông dụng, ngược lại âm dưới trực truy sách Thái Công Lục Thao giải thích: Chỗ gọi là dùng đánh vào vật, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh chuy Văn Luận viết từ chữ trùy chữ truy này là chẳng, âm chấp ngược lại âm trâm lập.

--------------------------------------

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 3

Tân tư ngược lại âm tương dĩ, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Xưng gọi người có trí tuệ, cũng là tên người.

Cửu tâm ngược lại âm cư Hưu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tật bệnh, theo Tả Truyện giải thích: Người quân tử không làm lợi, không làm nghĩa cảm thấy trong lòng áy náy, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm nứ ách thanh cửu.

Trọng xưởng ngược lại âm xương lượng danh tăng. Cảnh khái ngược lại âm khả hạnh Vương Dật chú giải sách Sở từ rằng: Cảnh là ương ngạnh can cường, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Thẳng thắn, ngược lại âm dưới khả đại Tát Tông chú giải Đông Đô Phú Truyện rằng: Cảnh khái là không nhã nhặn nhu nhuyến, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mộc đều thanh cảnh khái.

Xuân bác ngược lại âm trên xuân duẫn Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Từng bước ngập ngừng cũng gọi là kém, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh xuân ngược lại âm dưới bang giác sách Trang Tử cho rằng: Xuân bác là không đều hòa lại một, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh hòa Văn Luận viết từ bộ giao viết thành chữ bác là sai.

Thư tỏa ngược lại âm trên là thử cũng là âm tử sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh thử âm dưới là tỏa văn trước Luận Tựa đã giải thích rồi.

Chỉ quỵ ngược lại âm trên chi thị theo Tả Truyện cho rằng: Như ngón chân ngọc bước đi, Đỗ Dự chú giải rằng: Chỉ là ngón chân, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chỉ Văn Luận viết từ bộ hổ viết thành chữ hổ là sai, âm hộ ngược lại âm đinh kế.

Nữu nãn ngược lại âm trên nữ lục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nữu là hổ thẹn đỏ mặt, Quảng Nhã cho rằng: Quay lưng đi, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh nữu ngược lại âm dưới nữ giản sách Phương Ngôn cho rằng: Nãn cũng là thẹn thùng, sách Thuyết Văn cho rằng: Hổ thẹn đỏ mặt, viết đúng từ bộ xích thanh triển âm triển là âm triển thanh triển Văn Luận viết từ bộ bì viết thành chữ nãn tục dùng cũng thông dụng.

Khanh hoành ngược lại âm trên khẩu canh ngược lại âm dưới hồ hoành sách Khảo Thanh cho rằng: Khanh hoành là tiếng chuông, sách Thuyết Văn viết hai chữ đều từ bộ kim đều thanh khanh hoành âm hoành đồng với âm trên, Văn Luận viết từ bộ thác viết thành chữ hoành là sai.

Ẩu chi ngược lại âm ư khẩu sách Sử Ký cho rằng: Ngạc nhiên muốn đánh người, sách Thuyết Văn cho rằng: Ẩu là đánh chữ viết từ bộ thù thanh khu âm thù là âm thù Văn Luận viết từ bộ phộc viết thành chữ khu là sai chẳng phải.

Đạo trữu ngược lại âm chu dậu Thế Bổn cho rằng: Thiếu Khang viết chữ cỏ trữu Cố Dã Vương cho rằng: Trữu chỗ gọi là lấy chổi quét trừ phân dơ uế, sách Thuyết Văn viết từ bộ hựu tức là tay cầm nắm đến bộ cân là khăn, tức là lau quét từ trong ra đến ngoài cửa.

Tiểu thuyết ngược lại âm sở giao Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiểu là khẩn cấp, âm khẩn ngược lại âm kiếp kiên gọi là dùng người mà nói cho rằng đã giảng nói rồi, Bì Thương cho rằng: Thay thế người mà giảng nói, hoặc là viết từ chữ giảng sách Thuyết Văn viết từ bộ lực thanh sào.

Cực phát ngược lại âm khi sử sách Nhĩ Nhã cho rằng: Rất nhanh, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nhiều lần, sách Phương Ngôn cho rằng: Yêu thích sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhân bộ khẩu bộ hưu bộ nhị nhị là thiên địa, chữ hội ý.

Thác ủy ngược lại âm trên trúc nhuế ngược lại âm dưới nữ nhuế Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lấy việc liên lụy dính líu tới mà phó chúc cho người là thác ủy, sách Thái Mô giải thích: Phó thác, giao cho, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ ngôn đều thanh ủy thác âm nhuế ngược lại âm y quý.

Xuân khuẫn ngược lại âm trên sĩ luân sách Trang Tử nói rằng: Cây xuân to lớn, cây đại xuân tám trăm (800) năm là một mùa xuân, tám trăm năm là một mùa thu, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh xuân ngược lại âm dưới là quần vẫn kinh Sơn Hải Mạnh tử nói: Trên núi có nhiều nấm móc, không biết chiều tối hay đêm trăng sáng mới mọc, Tư Mã Bưu cho rằng: Loại nấm yêu nghiệt Giang Đông gọi là nấm đất, cũng gọi là nấm quỳ trù, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh khuẫn âm khuẫn ngược lại âm khưu luân.

Bột giải ngược lại âm trên bồn một ngược lại âm dưới hài mại sách Thuyết Văn giải thích: Bột giải là tên riêng của biển, Tử Hư Phú Quang Truyện giải thích: Bột giải là nổi trên mặt nước, sách Thuyết Văn nói: Hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh bột giải.

Luy tiết ngược lại âm trên luật truy ngược lại âm dưới tiên liệt Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Luy là sợi dây màu đen, tiết là trói lại, chỗ gọi là trói câu thúc tội nhân lại, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tiết là trói buộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mịch đều là thanh lụy tiết âm lũy là âm lôi Văn Luận viết chữ lụy viết thành chữ luy là chẳng phải.

Báng độc ngược lại âm trên bác lãng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hủy báng, chê bai, sách Quốc Ngữ giải: Tra hỏi, tra hạch người đi bên đường, lại gọi là lệ vua đặt ra, người trong nước chê bai vua, người ngang ngược, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh báng ngược lại âm dưới đồng ốc Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Độc giống như là khinh khi, sách Quốc Ngữ cho rằng: Độc là sinh ra oán hận, sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh độc.

Chất cốc ngược lại âm trên chân viết ngược lại âm dưới cổ ốc Trịnh Tiển chú giải sách Chu Lễ rằng: Gông cùm trong chân gọi là chất gông cùm trong tay gọi là cốc sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cốc là cái gông thẳng, sách Thuyết Văn giải thích: Chất là còng ở chân, chỗ gọi là chất địa, cốc là còng ở tay, chỗ gọi là cốc thiên đều tả hình hữu thanh Trịnh Huyền giải thích rằng: Cộng thêm tên cốc đó gọi là ghi chép họ và người tội nhân, gông cùm nơi tay đó là phải viết ra tên họ.

Sài lang ngược lại âm trên sĩ giai sách Nhĩ Nhã cho rằng: Sài là chân giống như chó, thuộc chó sói, sách Thuyết Văn viết từ bộ trĩ thanh tài âm trĩ ngược lại âm trạch giới Văn Luận viết từ bộ phó viết thành chữ phủ là chẳng phải, ngược lại âm dưới lạc đường sách Chu Lễ nói rằng: Người ta nuôi gia súc là đến mùa xuân hiến cho chó sói, sách Thuyết Văn cho rằng: Lang giống như con chó, đầu nó rất nhạy bén, bên má trắng cổ cao, phía trước rộng phía sau hẹp, Mao Thi Truyện cho rằng: Đều chạy rất giỏi, chữ viết từ bộ khuyển hai chữ đều nghĩa chó sói, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyên thanh lang.

Cuồng quyến ngược lại âm trên cụ vương Cố Dã Vương cho rằng: Cuồng là ngu si rồ dại kinh hãi, tính lo sợ không luân lý, sách Luận Ngữ cho rằng: Tính can cường, không thích học hỏi, buông thả, bừa bãi, cuồng si sợ hãi, âm quý là âm kỳ quý ngược lại âm dưới quyết diện sách Thuyết Văn cho rằng: Quyến gấp vội nhảy mau, lại cũng gọi là nôn nóng, hai chữ đều từ bộ khuyển đều thanh vương quyến âm quyến ngược lại âm nhất huyền.

Đạo lý ngược lại âm y ký danh tăng.

Hoạch lạc ngược lại âm hồ quách Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hoạch là chìm, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hoạch là do bức bách mà mất chí, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hoạch âm hoạch ngược lại âm ô hoạch.

Lạc thuyên ngược lại âm thất toàn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thuyên là loại cỏ thơm, cỏ ly tảo, hoa huệ cũng là cỏ may, cỏ tranh, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh thuyên.

Khiếu da ngược lại âm khí điếu Trịnh Tiển chú giải sách Lễ Ký rằng: Khiếu là lỗ, lại chú giải sách Lễ Ký rằng: Dương chiếu có bảy, âm khiếu có hai, Văn Tự Điển nói: Đục khiếu côn đồn, tức là chỉ buổi hồng hoang của thế giới, lúc chưa phân định, cái gì là cái gì, mơ hồ không rõ, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh khiếu âm khiếu ngược lại âm dương chước.

Vu hích ngược lại âm hình kích sách Quốc Ngữ giải thích: Đồng cốt, thầy cúng, ở người nam gọi là hích ở người nữ gọi là vu hích là có thể trình bày tấu với thần minh các việc, sách Thuyết Văn viết từ bộ vu thanh kiến. Dân oa ngược lại âm ư chuy Thiên Thương Hoét ghi rằng: Oa là ca hát, Quảng Nhã cho rằng: Tà, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng nịnh hót, chữ viết từ bộ khẩu thanh khuê.

--------------------------------------

TẬP CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH QUYỂN 4

Truy mẫn ngược lại âm trôn trắc cơ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Truy là tên của sông, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sông truy phát xuất từ Bạo Sơn Lương Phụ Tây phía bắc chảy vào Đông Ba, ngược lại âm dưới miên biến sông Mẫn xuất phát từ nước Tề đến huyện Truy phía bắc nước chảy vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thủy đều thành truy mảnh âm mảnh là âm mảnh âm biến ngược lại âm tất miến.

Kham tế ngược lại âm khổ cam Mao Thi Truyện cho rằng: Kham là nhận chịu, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kham là khắc khổ, sách Khảo Thanh cho rằng: Đến gánh vác trách nhiệm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ thanh thậm Văn Luận viết từ bộ qua viết thành chữ kham là sai.

Ưu long ngược lại âm quỹ vi tên của vị đại thần thời vua Thuấn. Huệ tôn ngược lại âm trên khuê quế ngược lại âm dưới tức tôn

Ngọc Thiên cho rằng: Đều là cỏ thơm sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh huệ tôn. Mãn lịch ngược lại âm trên mạc quan theo Tả Truyện cho rằng: Bộ hạ của Sở Vũ Công, chất đầy cây ngang dưới, sách Thuyết Văn cho rằng: Mãn là tâm thư thả thoải mái, Hán Thư giải thích rằng: Nước Ô Tôn có rất nhiều cây tùng mãn, ngược lại âm dưới linh đích theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trên núi có nhiều cây bao lịch tức cây sồi, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mộc đều thanh vãn lịch âm mãn là âm mãn Văn Luận viết từ bộ lịch viết thành chữ lịch là chẳng phải.

Hô cước ngược lại âm trên sửu dư theo Mao Thi Truyện cho rằng: Hồ là tên cây xấu xí, sách Trang Tử cho rằng: Có loại cây đại thọ người ta gọi là cây đại hô, cành cây ôm vào gốc cây mà trông không có dây kim nhỏ, nhánh cong cuộn lại như nắm tay, mà trông không có quy cũ, thẳng mực, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh hô âm hô là âm hồ âm dưới là căng lực, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cước là cây gai, lá nhỏ có gai đâm vào, Quảng Nhã cho rằng: Cước là che dấu, sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm cây cỏ gai nhọn người Giang Hoài gọi là cước sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ hai bộ thứ ngược lại âm thất tứ.

Đình ngãi ngược lại âm trên định đinh sách Khảo Thanh cho rằng: Tên cỏ đình lịch, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lá thật giống lá kinh giới, tên gọi khác nữa là cẩu v.v... ngược lại âm dưới ngô cái Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cây cao ngãi, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh đình ngãi.

Tật tì ngược lại âm trên tần thất ngược lại âm dưới tự tư Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cỏ tật tì thân nằm trên đất như loại cây bò lan, lá nhỏ như lông vũ, thân cọng có ba cạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh tật thứ.

Bại phạn ngược lại âm bổ quái Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cây lúa mà giống như cỏ vậy. Như Thuần chú giải Hán Thư rằng: Lúa có hạt gạo nhỏ bé là bại sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh tỳ.

Sương hoạch ngược lại âm hồ quách Mao Thi Truyện cho rằng: Tháng tám thu hoạch lúa ngũ cốc, tháng mười thu hoạch lúa nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Gặt bông lúa chữ viết từ bộ hòa thanh hoạch âm hoạch ngược lại âm ô hoạch.

Chữ vẫn ngược lại âm vu quân theo Mao Thi Truyện cho rằng: Vân là trừ cỏ cái bừa làm cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ lỗi thanh viên âm lỗi ngược lại âm lực đối Luận Văn viết chữ vân tục tự dùng thông dụng.

Trần độc ngược lại âm đồng ốc sách Khảo Thanh cho rằng: Độc là ô nhiễm dơ bẩn mà màu đen, sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh độc.

Quái ngộ ngược lại âm trên quan mãi ngược lại âm dưới ngô cố sách Hán Thư giải thích: Xả bỏ sách là chỗ sai lầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ ngôn đều thanh quái ngô Văn Luận viết từ bộ tâm viết thành chữ ngỡ là sai.

Điền thãng ngược lại âm trên đồ kiên âm dưới đảng lãng Ngọc Thiên cho rằng: Điền thãng là chứa đầy, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Điền là đám đông tiếng chân đi trước cửa. Hứa Thúc Trọng sách Hoài Nam tử rằng: Thãng là tiếng trống, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ môn đều thanh chân đường Văn Luận viết từ bộ y viết thành chữ ám là sai.

Khảo hạch ngược lại âm hành cách sách Thuyết Văn cho rằng: Hạch là tra khảo sự thật, Hán Thư cho rằng: Hạch là xem xét sự vụ bị che đậy, chuẩn đúng pháp xưa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ á thanh kích âm á ngược lại âm hư trá.

Huệ khả ngược lại âm các khả sách Phương Ngôn cho rằng: Nam Sở Giang Hồ phàm chiếc thuyền lớn đó gọi là khả sách Thuyết Văn viết từ bộ chu thanh khả.

Lăng lịch ngược lại âm trên lực huy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lăng là nhục ta, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh lăng âm lăng đồng với âm trên, ngược lại âm dưới linh đích sách Thuyết Văn giải thích: Lịch là bánh xe cán qua, Lã Thị Xuân Thu giải thích: Lăng lịch là các chư hầu bị lăng nhục (854) đè áp bức, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh lạc.

Tá sóc ngược lại âm song tróc Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây giáo dài, sách Thuyết Văn viết từ bộ mâu thanh tiếu.

Giác tư ngược lại âm tử di theo Tả Truyện cho rằng: Linh Vương khi mới sinh ra mà đã có ria mép, sách Thuyết Văn cho rằng: Râu trên miệng, chữ viết từ bộ tu thanh thử Văn Luận viết từ bộ tiêu viết thành chữ tư tục tự thường hay dùng, âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Giải di ngược lại âm dĩ chi sách Phương Ngôn cho rằng: Di là hàm má, sách Chu Dịch giải rằng: Di là trong có ngậm vật gọi là cắn nhai, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hiệt thanh di âm phệ là âm thệ âm hạp là âm hợp âm di đồng với âm trên.

Tạo phụ ngược lại âm tào đạo Mao Thi Truyện cho rằng: Tạo là làm ra, Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Tạo tác, xây dựng, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thành lập, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh cáo âm xước ngược lại âm sửu lược.

Phụ nghị ngược lại âm ngư ký tên người, sách Thuyết Văn viết từ bộ thù thanh nghị âm thù là âm thù là âm âm nghị là âm nghĩ Văn Luận viết từ bộ trĩ viết thành chữ nghị là sai.

Huân hồ ngược lại âm trên hứa vân ngược lại âm dưới hồ quái điểu.

Tỏa lạp ngược lại âm trên tổ quá Trịnh Tiển chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Tỏa là bẻ gãy, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bẻ gãy ngọn đao gọi là tỏa ngược lại âm dưới lực đáp Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Lạp cũng là bẻ gãy, vặn bẻ, ngắt, hái, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thủ đều thanh lập tọa.

Miến lai ngược lại âm trên miện biến ngược lại âm dưới lực đại Quảng Nhã cho rằng: Miến lai đều là nhìn, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhìn con mắt không thẳng, tức là liếc nhìn, nhìn nghiêng, sách Thuyết Văn cho rằng:

Hai chữ đều từ bộ mục đều thanh miến lai âm miến ngược lại âm miên biến.

Nghĩa bao ngược lại âm bác mao danh tăng, sách

Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bao âm bao là âm bảo Văn Luận viết chữ bảo viết thành chữ bao tục tự thường dùng. Chủ vĩ ngược lại âm chu du Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Chủ giống như con hươu mà lại lớn hơn, theo Thanh Loại cho rằng: Cái đuôi của nó có thể làm chổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lộc thanh chủ Văn Luận viết từ bộ thổ viết thành chữ chủ trần là sai.

Dĩ nuy ngược lại âm ủy nguy Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nuy là bệnh, Như Thuần chú giải sách Hán Thư rằng: Bệnh liệt gân chân không thể đi được, không nhấc chân qua gọi là nuy sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật than ủy âm tật ngược lại âm nữ ách Văn Luận viết từ bộ thảo viết thành chữ ủy là sai.

Ký nục ngược lại âm nữ lục sách Phương Ngôn cho rằng: Nục là hổ thẹn, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trong lòng hổ thẹn là nục sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh nhi.

Mậu tích ngược lại âm trên mâu hậu Phạm Minh chú giải rằng: Mậu là gắng sức, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tự mình cố gắng, cố sức lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm âm mậu thanh đồng với âm trên, ngược lại âm dưới tinh lịch Cốc Lương Truyện giải thích rằng: Tích chứa công lao nhọc. Lại gọi là công nghiệp, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trách.

Trữ trục ngược lại âm trên trừ lữ sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh dư ngược lại âm dưới trung lục sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xa thanh do Mao Thi Truyện cho rằng: Cái trục xe, cái bầu rỗng không, Trịnh Tiển chú giải rằng: Trữ trục không làm.

Xi hiêu ngược lại âm trên xỉ chi ngược lại âm dưới vưu kêu Mao Thi Truyện cho rằng: Xi hiêu là giống chim có tiếng kêu ác, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Giống như con chim tu hú mà lông màu xanh, Cố Dã Vương cho rằng: Người nước Sở gọi là điểu phục, trong Giả Huyên Sở Vi Phú nói là giống chim sâu, sách Thuyết Văn viết hai chữ đều từ bộ điểu đều thanh để hiệu Văn Luận viết từ bộ chí viết thành chữ chí tục tự giải loại chú vọ giống chim bất thường, ban đêm thường hay kêu.

Bưu truyền ngược lại âm hựu ngưu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Bưu là con đường trải qua, Mạnh Tả nói rằng: Đức Khổng Tử chuyển văn thư rất mau mà truyền ra mạng lệnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ấp thanh thùy Văn Luận viết từ bộ phửu viết thành chữ bưu cũng thông dụng.

Trí sai ngược lại âm thất tài Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sai là nghi ngờ, đoán, lo sợ, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh thanh.

Xung thiên ngược lại âm xúc dung Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Xung là hướng lên, sách Phương Ngôn cho rằng: Xung là hành động thiếu suy nghĩ, động tác thiếu suy nghĩ, Quảng Nhã cho rằng: Xung đột, va chạm nhau, tranh chấp nhau, sách Sở Từ giải thích: Xung là sóng gió tự nhiên nổi lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ hành thanh tung Văn Luận viết từ bộ xa viết thành chữ xung là sai.

Cấp phụ ngược lại âm phù vụ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Gọi là phụ Trợ cấp thêm vào nhà tang, tức là tiền phúng điếu, không đủ. Công Dương Truyện cho rằng: Đồ vật tặng cho người chết, cho xe ngựa gọi là phúng cho cho áo liệm gọi là tùy cho tiền bạc gọi là phụ theo Cốc Lương Truyện cho người chết phụ thêm vào, chỗ còn thiếu gọi là phụ sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh phụ.

Nhiếp thừa viển ngược lại âm niêm triếp tên người.

Chủy hàm ngược lại âm tuân lụy Tự Thư cho rằng: Chủy là mỏ chim, ngược lại âm hứa vĩ hoặc là từ bộ thử viết thành chữ chủy sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh thứ.

Vẫn phệ ngược lại âm trên là văn phân Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Vẫn là bên mép miệng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Vẫn hai bên môi, ngược lại âm dưới là thời chế Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Phệ là cắn, sách Thuyết Văn viết hai chữ đều từ bộ khẩu thanh vật phệ âm niết ngược lại âm nghiên kiết.

Quyết giác ngược lại âm quyết định quyền nguyệt sách Trang Tử cho rằng: Phía trước có bịt mõm con ngựa lại, làm đồ trang sức, phía sau có sợi dây cương làm uy thế, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh quyết.

Tảng trâm ngược lại âm thời niếm Mao Thi Truyện cho rằng: Than ôi! Con chim tu hú là không ăn quả dâu ta, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh thậm.

Thuyên tử ngược lại âm thù chuyên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thuyên là mau chóng, Mao Thi Truyện cho rằng: Thuyên là mau chóng, người mà không có lễ không mau chóng chết đi, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh đoan âm xước ngược lại âm sửu lược âm đoan là âm đoan.

Bỉ ký ngược lại âm ly tử Thiên Thương Hoét cho rằng: Lý là ấp dưới của nước, Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Đất hẻo lánh ngoài vùng biên giới, Như Thuần chú giải Hán Thư rằng: Nói tuy là chất phác, không giống như là rộng rãi, khoáng đại, rất chật hẹp, thô kệch, nói là bỉ sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh lý Văn Luận viết từ bộ nhân viết thành chữ lý là sai.

Khu ky ngược lại âm trên xúc du ngược lại âm dưới cư y Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Khu là then cài cửa, sách Trang Tử nói rằng: Cửa phên tức cửa làm bằng cỏ bồng, lại không may, tức hoặc làm khóa, cho rằng khu là đục gỗ làm then chốt cửa có khóa xích đó là tất có lỗ trọng tâm của khóa, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cơ cũng là cái nỏ, âm độ ngược lại âm đường lạc cơ là có độ chuẩn đúng chốt, Hàn Khang Bá chú giải rằng: Khu cơ là chủ của động cơ chế ra, sách Chu Dịch cho rằng: Khu cơ là chủ chỗ phát ra vinh nhục, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mộc đều là thanh khu cơ.

Ô thậm ngược lại âm đồ cảm Cố Dã Vương cho rằng: Theo sách Sở Từ cho rằng: Ảm đạm không sáng sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Thậm là màu đen xanh lá dâu, chữ viết từ bộ hắc thanh thậm âm ảm ngược lại âm ô cảm.

Kiết khương ngược lại âm trên khứ kiết ngược lại âm dưới khi lương sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kiết khương là khương lương tức là con bọ hung vì bọ hung thích vê tròn phân đất, tức là loài côn trùng này ở trong phân đất, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ trùng đều thanh kiết khương âm hủy là âm huy.

Lưu ngang ngược lại âm tỷ chu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Loại cờ tua có chín dây kết gom lại, sách Lễ Ký cho rằng: Cờ của vua có mười hai tua làm năm màu sắc, tô điểm làm tua cờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ư thanh lưu âm ư là âm yểm.

Tức khang ngược lại âm hoàn bản Thiên Thương Hoét ghi rằng: Khoang là cười nhẹ, có hình mà không có tiếng, sách Luận Ngữ cho rằng: Phu tử cười mỉm, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh kiến.

Lạo khúc ngược lại âm đồ liễu theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Lạo là quan lại, dùng dằng, lưu luyến, Thiên Thương Hoét cho rằng:

Yêu thích, theo Thanh Loại cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh diệu âm diệu là âm thác.

Thần giám ngược lại âm trên thân nhân Văn Tự Điển nói Vua có cung điện màu tím, thần quan đều thuộc về vua, gọi là chỗ nhà ốc vua ở, sách Thuyết Văn viết từ bộ miên thanh thần âm miên là âm miên ngược lại âm dưới giáp sám Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Giám sát, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Là răn dạy, Quảng Nhã cho rằng: Giám là chiếu soi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kim thanh lam.

Xí hổn ngược lại âm hồn khổn Thiên Thương Hoét cho rằng: Hổn là chỗ nhốt heo, sách Thuyết Văn cho rằng: Hổn là nhà xí, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thỉ trong bộ vi chữ tượng hình, âm vi là âm vĩ Văn Luận viết từ bộ thủy viết thành chữ hổn là sai.

Cửu bí ngược lại âm bút mi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bí là cẩn thận, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Bí là đóng cửa cẩn thận, Tả Truyện lại cho rằng: Lúc chiều tối đóng cửa cẩn thận, Tả Truyện cũng cho rằng: Vị quan coi việc chiều tối đóng cửa, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh tất.

Khước tê ngược lại âm ty lợi sách Khảo Thanh cho rằng: Chân bị liệt gân không có sức, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh tê thấp, chữ viết từ bộ tật thanh ty âm tật ngược lại âm nữ ách.

Chiến lật ngược lại âm lân thật sách Thượng Thư cho rằng: Lật là rêm sợ nguy hiểm, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chiến lật là lo sợ ưu phiền, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh lật.

Kình địch ngược lại âm kịch kinh theo Tả Truyện cho rằng: Kẻ địch mạnh, Bì Thương cho rằng: Kình là sức mạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Kình là chống cự, sức mạnh, chữ viết từ bộ lực thanh kinh.

Cảo mộc ngược lại âm khổ lão sách Khảo Thanh cho rằng: Cảo là cây khô, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lao nhọc. Sách Lễ Ký cho rằng: Đứng trụ như cây khô. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh cao.

Cứ ngô ngược lại âm kình ư Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Cứ là có lóng mắc bên trong ngoài là nhánh rất rắn chắc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh cư.

Lão ngược lại âm trao giảo sách Khảo Thanh cho rằng: Lão là giống người thuộc bộ tộc Tây Nam di, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển thanh sào Văn Luận viết từ bộ liêu viết thành chữ lão tục tự thường hay dùng, âm trào ngược lại âm tri giao.

Giải cấu ngược lại âm trên hài giải ngược lại âm dưới hậu cấu theo Mao Thi Truyện cho rằng: Giải cấu là không hẹn mà gặp gỡ. Lại cũng gọi là giải thoát, theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Giải hậu là không có cố định, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ xước đều thanh giải hậu.

Phiêu bảng ngược lại âm trên tất diêu sách Khảo Thanh cho rằng: Phiêu nêu cao lên, phản hiệu viết vào nêu cao lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh phiêu âm phiêu đồng với âm trên, ngược lại âm dưới bác lãng Thần Dị Kinh nói rằng: Bảng hiệu, Văn Tự Điển nói: Cái biển treo để yết thị, sách Thuyết Văn viết từ bộ phiến thanh bàng Văn Luận viết từ bộ mộc viết thành chữ bàng là sai.

*******

ĐỘC CỔ KIM PHẬT ĐẠO LUẬN HÀNH

Phiếm trướng ngược lại âm phù phạm Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng, Phiếm là nổi lên mặt nước, Mao Thi Truyện cho rằng: Phiếm là trôi nổi, ngược lại âm dưới trương lượng sách Khảo Thanh cho rằng: Trướng là nước dâng lên cao bến nước cát theo vào nước chảy, kéo dài thành bãi cát, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều thành bộ thủy đều thanh phạt trương Văn Luận viết từ bộ phàm viết thành chữ phiếm là sai.

Thuyên thạch ngược lại âm từ duyên sách Phương Ngôn giải thích: Thuyên chạm khắc ngọc, Quảng Nhã cho rằng: Thuyên là đục đẽo, sách Thuyết Văn cho rằng: Màu kim giũa ngọc, chữ viết từ bộ kim thanh thuyên âm thuyên ngược lại âm tồ duyên Văn Luận viết chữ thuyên này tục tự thường hay dùng, chữ thuyên từ bộ chuy đến bộ cung ngang.

Dự tảo ngược lại âm tang lão sách Lễ Ký cho rằng: Giả bộ kính ngưỡng đau khổ để lấy lòng người khác, sách Thuyết Văn cho rằng: Tảo là cạo, gãy, chữ viết từ bộ thủ thanh tảo âm quát ngược lại âm cổ bát âm tảo là âm tảo.

Nhạc vinh ngược lại âm hồ manh sách Sở Từ cho rằng: Núi cao chót vót mà không có đất, sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh vinh âm tranh ngược lại âm sừ canh.

Khương cẩu nhi ngược lại âm cư lương họ người, sách Quốc Ngữ giải thích: Vua Viên Đế ở với Khương Thủy nên lấy họ Khương, sinh con ra tặng cho họ Khương, Mao Thi Truyện cho rằng: Lúc bấy giờ chỉ có Khương Nguyên, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh dương Văn Luận viết cộng thêm bộ thảo viết thành chữ khương là chẳng phải.

Lý thực ngược lại âm thời chức tên người, Văn Luận viết từ bộ lưỡng viết thành chữ thực là sai vậy.

Hoàng trọc ngược lại âm hồ quang Hán Thư cho rằng: Hoàng là tên sông phát xuất từ kinh thành đến huyện Khương, lắp ngoài phía đông chảy vào sông, sách Thuyết Văn chữ từ bộ thủy thanh hoàng.

Đàm-ma-sấm ngược lại âm sở cấm danh tăng, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh tiêm âm tiêm ngược lại âm tức liêm chữ tiêm từ bộ phi thanh tái âm tập ngược lại âm tiếp trì chữ tập giống chữ cửu là lại nhỏ bé, xuất phát từ ngữ nguyên Văn Luận viết từ bộ thủ viết thành chữ sấm là chẳng phải.

*******

LỢI THIỆN LUẬN HÀNH

Lão đam nghĩa đạm cam tự là lão quân, Văn Luận viết chữ tập tục tự thường dùng, âm đạm ngược lại âm trì cảm.

(855) Phản phệ ngược lại âm tiện niêm Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Phệ là cắn, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu phệ cũng là thanh, kinh văn viết từ bộ thảo viết thành chữ phệ là sai.

Chư hào ngược lại âm hiệu giao sách Thượng Thư cho rằng: Sư Tấn Tướng Công bị thua chư hào, Khổng An Quốc chú giải rằng: Hào là hiểm yếu, lắp bít, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tên núi ở huyện Hoằng Nông Thằng Tha, ở phía tây, hoặc là viết chữ hào.

Bão vi ngược lại âm trên bảo mao Cố Dã Vương cho rằng: Bảo giống như khen ngợi tốt đẹp, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bão giống như đưa lên, nâng lên tiến cử, sách Khảo Thanh cho rằng: Chữ viết đúng chữ bão sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bảo chữ bão văn cổ viết chữ bão Luận Văn viết từ bộ bão viết thành chữ bão cũng thông dụng.

Canh thực ngược lại âm thừa chức sách Phương Ngôn cho rằng: Thực là trồng trọt Văn Tự Điển nói thực là sinh sản, sanh sôi nẩy nở, chữ viết từ bộ ngạc thanh trực âm ngạc ngược lại âm ngũ hạt kinh văn viết chữ thực tục dùng cũng thông dụng.

Trác trùy ngược lại âm đinh giác Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác là tước lột, vót gọt, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cầm nắm cái búa mà đoạn ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Đốn chặt, chữ viết từ bộ cân thanh đậu âm đậu là âm đậu Văn Luận viết chữ trác tục dùng cũng thông dụng.

Mặc xuyết ngược lại âm xuyên nhiệt biệt hiệu bộ tộc Bắc Địch.

Nãn nhiên ngược lại âm ninh tạc Mạng Tử cho rằng: Sắc mặt đỏ ửng lên vì thẹn thùng, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mặt hổ thẹn gọi là nản sách Thuyết Văn cho rằng: Mặt đỏ lên vì hổ thẹn, hoặc là viết từ bộ triển viết thành chữ nãn âm nanh ngược lại âm nạch canh âm tạc ngược lại âm lễ nhãn niển ngược lại âm nhi nhuyễn.

Nại tu ngược lại âm trên nải đại Cố Dã Vương cho rằng: Nại là có thể, Tô Lâm chú giải Hán Thư rằng: Nại là có thể nhận chịu, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhẫn nại, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhi kinh văn viết từ bộ diện viết thành chữ tạc là sai.

Sưu vị ngược lại âm trâu phế sách Khảo Thanh cho rằng: Sưu là lọc bỏ, đặt để, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phó luật, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tạo kinh văn viết từ bộ trúc viết thành chữ sưu là sai.

*******

ĐẠO NHÂN ĐỊNH TAM GIÁO LUẬN HÀNH

Đạo nhân ngược lại âm nhất nhân tên vị tăng.

Nữu địa duy ngược lại âm nặc cửu Quảng Nhã cho rằng: Nữu là thắt rút buộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Ràng buộc, chữ viết từ bộ mịch thanh sửu văn luận viết từ bộ nhẫn viết thành chữ nhẫn âm nhẫn ngược lại âm ni lân sách Thuyết Văn đơn viết chữ thằng là chẳng phải nghĩa địa duy.

Tất tụy ngược lại âm từ túy sách Chu Dịch cho rằng: Tụy đó là gom tụ lại, Mao Thi Truyện cho rằng: Tụy là tụ tập. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tụy.

Cự dung ngược lại âm cự lữ sách Khảo Thanh cho rằng: Cự là chưa vì sao? Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh cự.

Hạ lý ngược lại âm ly chỉ Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Lý là vùng đất xa xôi hẻo lánh, hoặc là từ bộ ấp viết thành chữ lý.

Oa thanh ngược lại âm ách giai Thiên Thương Hoét cho rằng: Oa gọi là ca hát, sách Thuyết Văn hoặc là viết từ bộ khiếm viết thành chữ oa Văn Luận viết từ bộ trùng viết thành chữ oa sách Thuyết Văn cho rằng: Con ếch giếng nước, chẳng phải nghĩa âu oa âm oa ngược lại âm ô oa.

Anh mạo ngược lại âm mạo cao Mao Thi Truyện cho rằng: Mạo là tuấn tú đẹp, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tuấn tú kẻ sĩ phương phi tuấn tú, đẹp như râu tóc, sách Thuyết Văn viết từ bộ tiêu thanh mao âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Tích thổ ngược lại âm tình tích sách Quốc Ngữ giải thích: Lựa chọn vùng đất cao ráo thoáng nước, Giả Quỳ chú giải rằng: Đất mỏng không màu mở, hoặc là từ bộ nhục viết thành chữ tích.

QUYỂN 85

-Biện Chánh Luận Âm quyển thượng từ đầu âm luận tựa cho đến hết quyển thứ tư.

BIỆN CHÁNH LUẬN

TỰA

Thám trách ngược lại âm tha hàm theo Thanh Loại cho rằng: Cũng thông dụng, sách Vận Thuyên cho rằng: Dẫn dắt nắm lấy, sách Khảo Thanh cho rằng: Dò thử, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nếm thử ý dò xét, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy tin từ xa, chữ viết từ bộ thủ thanh thám âm thám là âm thâm từ bộ huyệt đến bộ cầu ngược lại âm dưới sài trách sách Vận Anh cho rằng: Trách là thâm u, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thâm u, chữ viết từ bộ di thanh trách âm di ngược lại âm dĩ nhi chữ trách viết đúng thể là chữ trách từ bộ thứ âm thứ là âm thứ.

Tích mân ngược lại âm trên tinh diệc gọi là dấu chân, ngược lại âm dưới mật dẫn sách Vận Anh cho rằng: Mân là mất tiêu diệt, dứt hết, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh dân âm dân ngược lại âm mật tân.

Đằng xà ngược lại âm trên đường năng chữ viết từ bộ mã hoặc là viết từ bộ thủy viết thành chữ đằng đằng xà đó là mưu tính, dối gạt, lừa dối.

Thuyên đề ngược lại âm trên thúy duyên gọi là lấy cái lồng làm bằng tre bắt cá giống như cái nơm, cũng gọi là cái đăng bắt cá, ngược lại âm dưới đê hề sách Trang Tử nói rằng: Đề chỗ gọi là bắt được con thỏ, đã được thỏ rồi là quên đi cái bẩy, chữ viết từ bộ túc thanh đế.

Câu dũ âm trên là câu sách Khảo Thanh cho rằng: Câu là ôm chặt vào lòng, sách cho rằng: Cầm nắm, chữ viết từ bộ thủ thanh cú âm dưới là dậu xưa tên của ngục, ở đảng âm văn vương chỗ ở của tù nhân, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ dẫn dắt người làm tốt, chữ viết từ bộ dương thanh cửu hoặc là viết chữ khương cũng thông dụng, cũng có viết chữ dũ chẳng phải nghĩa đây dùng.

Ngọc di ngược lại âm ngu lục âm dưới là di sách Khảo Thanh cho rằng: Di chuyển đổi, di chuyển theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Chuyển đổi, dời chỗ, chữ viết từ bộ di thanh tĩnh hoặc là viết chữ di cũng được, âm xước ngược lại sửu lược tục gọi là đi nhiễu quanh.

Tạp tháp ngược lại âm tàm hạp chữ chánh thể, ngược lại âm dưới đàm hạp sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đi vội gấp, sách Tập Huấn cho rằng: Ngoài cửa nhiều người đi, tiếng người đi rầm rập, chữ viết từ bộ xước thanh tháp âm tháp đồng với âm trên.

Bi lụy ngược lại âm trên bỉ bì ngược lại âm dưới lực quỹ sách Khảo Thanh cho rằng: Lụy là làm văn để tường thuật hành trạng của người chết, người xưa gọi là luy là hành trạng liên quan lúc sinh thời của người chết để đặt tên thụy, sách Thuyết Văn cho rằng: Lụy là đặt tên thụy cho người chết, chữ viết từ bộ ngôn thanh lỗi âm lỗi ngược lại âm dư hội.

Đàm bá ngược lại âm ba mạ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bá là cầm nắm, là chức vụ quyền hành đứng đầu nắm quyền các chư hầu, thúc nách, bức hiếp các chư hầu, nắm giữ quyền nhiếp chính, không để cho sơ thất nghĩa của thần dân, suy tôn phụ giúp cho vương nghiệp bền vững, sách Khảo Thanh cho rằng: Đứng đầu chúng dân chịu trách nhiệm đứng đầu tất cả bá tánh, giống như nguyệt phách, chữ hội ý, chữ viết từ bộ nguyệt thanh bá âm bá ngược lại âm phổ bác từ bộ vũ đến bộ cách.

-----------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 1

Diên thực ngược lại âm trên thương diên ngược lại âm thừa lực sách Hoài Nam Tử cho rằng: Người thợ làm đồ gốm gọi là diên thực, Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Diên là nhồi nặn, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thực là đất dính lại, Thích Danh cho rằng: Đất màu mở, giống như đất có chất mỡ trơn, Như Thuần cho rằng: Diên là đập nhồi nắn khiến cho đất mềm mại, hòa trộn lại, sách Thuyết Văn ghi chữ diên từ bộ thủ chữ thực từ bộ thổ chữ hình thanh.

Phú đạo ngược lại âm trên phu cứu ngược lại âm dưới đào đáo sách Khảo Thanh cho rằng: Phú là che, chữ viết từ bộ á âm á ngược lại âm hồ giả cảnh đạo từ bộ tiều âm tiều ngược lại âm tất diêu che trùm, bao phủ, chiếu khắp, chữ viết từ bộ đào chữ chuyển chú.

Toàn toại ngược lại âm trên tổ quan Cố Dã Vương cho rằng: Toàn là đục đẽo, chạm khắc, sách Khảo Thanh cho rằng: Đâm thẳng vào, sách Mạnh Tử nói rằng: Đục lỗ hang, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dục xuyên qua, chữ hình thanh, ngược lại âm dưới là toại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dụng cụ lấy lửa ngày xưa, phàm là có năm loại: Hỏa toàn; hỏa thạch; hỏa chu; hỏa cảnh; hỏa thiết. Thời xưa làm lấy lửa như đá lửa là đục vào đá để lấy, thường dùng năm loại phổ thông để lấy lửa.

Tinh tảo ngược lại âm trên là tinh con chó ngửi mùi mỡ tanh, ngược lại âm dưới là tảo tao sách Khảo Thanh cho rằng: Mùi tanh của mỡ heo cũng là chữ hình thanh.

Lỗi tỉ ngược lại âm trên lôi đoài Thế Bổn cho rằng: Người xưa cúi xuống cày ruộng đó là thần nông, sách Khảo Thanh cho rằng: Lỗi đó nay gọi là kéo lưỡi cày, tỉ lưỡi cày có cán gỗ cong lại, từ bộ phong thanh mộc âm phong là âm giới âm tỷ là âm tợ sách Khảo Thanh cho rằng: Như nay gọi là cái thiêu có cán cong như lưỡi kiếm đó là lưỡi cày, cày ruộng trồng lúa, như đã thấy trong nhà nông. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ tỉ từ bộ lỗi đến bộ dĩ chữ dĩ văn cổ viết chữ dĩ bộ khẩu tên là không hợp, tức là lại viết chữ tỉ ba thể chữ.

Trác mộc âm trên là trác sách Khảo Thanh cho rằng: Trác là chặt đốn. Nay gọi là chặt cây làm cán lưỡi cày.

Nhu mộc ngược lại âm nhu trửu sách Tập Huấn giải thích rằng: Thiêu đốt cây uốn nắn cho cong, tức nay gọi là lưỡi cày có cái càng lôi kéo đi, âm ao ngược lại âm lưu giao âm liệt ngược lại âm liên niết đều từ bộ thủ.

Bát khải ngược lại âm khang hải gọi là hiền thần bát nhân của vua Thuấn.

Thoán tam miêu ngược lại âm thương loạn sách Khảo Thanh cho rằng: Thoán là ném, gọi là chạy trốn ẩn giấu, Cố Dã Vương cho rằng: Tội chết mà được thả phóng thả, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Ẩn trốn, che đậy, chữ viết từ bộ thử trong bộ huyệt chữ hội ý, tam miêu tên nước cũng là tên núi.

Đào ngột ngược lại âm trên đường đao ngược lại dưới ngột nhiêu tên một giống thú dữ, sách Vận Anh cho rằng: Giống thú dữ, hung ác.

Đế thừa tứ tái Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đường bộ chở bằng xe, đường thủy chở bằng ghe, đường núi chở bằng lạc đà, đường bùn chở bằng xe quệt, âm thuẫn là âm xuân âm luy ngược lại âm lực truy Văn Luận viết từ bộ mao viết thành chữ khiêu chưa rõ nghĩa chữ này, lại viết xuân e rằng sai lầm.

Tế tế ngược lại âm tinh lễ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tế tế là đông đúc, tràn đầy, mọi người đông đúc đẹp đẽ, Văn Luận viết chữ tế trong bản thảo là không thành chữ.

Du sâm ngược lại âm trên thức chu thu nạp vào, ngược lại âm dưới lạc lâm của báu, hoặc là viết từ bộ ngọc viết thành chữ sâm.

Tạ dĩ ngược lại âm tình dạ gọi là chiếu cỏ trải đất gọi là tạ sách Khảo Thanh cho rằng: Cỏ khô héo, nói khác là dùng cỏ mao trắng làm chiếu không có lỗi.

Cấu bằng án chi ngụ ngôn âm trên câu hầu âm kế là bằng âm dưới là án bằng là chim lớn, án là chim nhỏ, Trang Sinh Thác lấy truyện ngụ ngôn dụ cho việc lớn nhỏ.

Miểu mang ngược lại âm trên di tiểu gọi là nhỏ bé, ngược lại âm dưới mạc lang gọi là xa vời.

Phạn nhĩ tùng thuật âm nhĩ là âm nhị cầu ngược lại âm trực luật loại thảo dược trên núi, tên một loại cỏ thuộc họ cúc thân và lá có gai dùng làm thuốc, rễ rất thơm, âm kế là âm kế.

Hoan tâm ngược lại âm hồ quan trong lòng vui vẻ, Văn Luận viết chữ quyền là sai chẳng phải.

Hữu khiếu ngược lại âm cổ điếu quây về kết cuộc, cuối cùng.

Lãng uyển âm trên là lãng Quảng Nhã cho rằng: Ở đảo Côn Lôn có ba ngọn núi, một tên Lãng Phong; hai tên là Bản Đồng; ba tên là Huyền Phố đều là chỗ ở của thần tiên.

Xương hạp âm trên là xương âm dưới là hạp Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cửa trời, sách Thuyết Văn cho rằng: Người nước Sở gọi là cửa quan, gọi là xương hạp, cửa quan sở.

Khống hộc ngược lại âm hồng ốc hộc tức là loại chim hạc.

Cô xạ âm dạ lại cũng trong xung hư Chân Kinh nói rằng: Cô xạ ở trong núi đông trong biển, người sông chảy vào biển gọi là châu đảo, Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Chỗ nước sông chảy vào biển, trong biển có đảo núi, trên có thần, (856) nhân dông gió, lộ thiên không ăn ngủ cốc. Xưa cũng là chỗ ở của thần tiên.

Bàng bạt âm trên là bàng âm dưới quảng bạt sách Tập Huấn cho rằng: Bàng bạt là rộng rãi to lớn, kinh Thái Huyền cũng cho rằng: Bao la vũ trụ.

Lô trùy âm trên là lô âm dưới là trường truy.

Miểu miểu ngược lại âm di tiểu Quảng Nhã giải thích: Miểu miểu gọi là hé mắt nhìn xa trông rộng, sách Thuyết Văn giải thích: Một con mắt nhỏ, chột mắt, chữ viết từ bộ mục thanh thiểu.

Mang mang ngược lại âm mạc lang vũ trụ rộng lớn bao la gọi là mang mang.

Bất hiểu ngược lại âm trạch giáo mái chèo đẩy chiếc thuyền đi.

Tuấn đông minh âm trên là tuấn thâm sâu, rộng lớn, âm dưới là minh sách Địa Lý Chí giải thích: Ngoài biển đông hoang sơ có cái hang to lớn, sâu thẳm rộng không thể đo lường được gọi là Đại Hắc Hải, nước thường rót vào mà không đầy.

Âu hòa ngược lại âm trên a câu gọi là ca hát.

Tuẫn chủ ngược lại âm tuần tuấn lấy thân mình theo cái chết gọi là tuẫn.

Nhĩ nhĩ ngược lại âm mê dĩ theo Mao Thi Truyện giải thích: Thâm sâu, tràn đầy.

An duệ ngược lại âm duyệt huệ tên người. Thê cơ âm trên thể hề thềm bực của đạo.

Khế thiền lâm ngược lại âm hương nghệ gọi là nghỉ ngơi. Tỏa mạn ngược lại âm trên tổ ngọa triết phục, bẻ gãy.

Kình nghê ngược lại âm trên cạnh kinh ngược lại âm dưới nhiệt kê sách Vận Thuyên giải thích: Trong biển có con cá rất lớn, con cá đực gọi là kình con cá cái gọi là nghê thân dài hơn ngàn dặm, mắt to như mặt trời.

Phân vụ âm trên là phân cũng viết chữ phân gọi là hơi mây khói, âm dưới là vụ sách Nhĩ Nhã giải thích: Vụ là đất có hơi sương bốc lên trời, không nên gọi là sương, giống như hơi nước phần gần mặt đất ngưng kết thành hạt mờ mịt, phần gần lơ lững không trung cũng ngưng kết thành hạt li ti tạo thành sương mù.

Chi trù ngược lại âm trụ lưu là loại bậc chánh, thứ hạng.

Huy đàm bính âm trên là huy gọi là chỉ huy, âm dưới binh mạng chỗ cán nắm giữ.

Tôn trở âm trên là tôn gọi là bình đựng rượu, ngược lại âm dưới trang sở sách Khảo Thanh cho rằng: Dụng cụ đựng thịt, thớt xắt thịt.

Điệp vinh ngược lại âm điềm hiệp sách Khảo Thanh cho rằng: Điệp là thẻ tre ngày xưa dùng để viết, sách Thuyết Văn cho rằng: Điệp là công văn, thư từ, Văn Luận viết từ bộ ngôn viết thành chữ điệp cũng thông dụng.

Bảo trục âm dưới là trục.

Hoạch lạc ngược lại âm trên hoàng quách âm dưới lạc rộng lớn vô bờ bến.

Hân tiểu ngược lại âm ngân cẩn sách Vận Thuyên cho rằng: Hân là cười mỉm, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi là cười.

Đại bác ngược lại âm giang nhạc sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bác là thẳng, Quảng Nhã cho rằng: Sáng suốt sách

Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xa thanh hào Văn Luận viết từ bộ giao tục tự thường hay dùng.

Thuần man ngược lại âm mã bang gọi là khô kệt, chất phác.

Lạp thực âm trên là lập sách Thượng Thư cho rằng: Ăn gạo gọi là lạp sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mễ thanh lập.

Gia huống âm dưới là huống ban tài vật, tặng cho.

Tích địa ngược lại âm trên tình tích sách Khảo Thanh cho rằng: Mang giày dép. Mao Thi Truyện cho rằng: Phiền lụy, bước từng bước ngắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc thanh tích.

Ngung ngung hoặc là viết chữ ngung cũng thông dụng, ngược lại âm ngu cung sách Tập Huấn cho rằng: Cáu ý có chỗ sợ sệt, cung kính ngăn ngừa, cẩn thận dáng vẻ khép nép khiêm cung.

Cấp cấp ngược lại âm kim lập sách Vân Anh cho rằng: Đi vội vàng, đi gấp, chữ viết từ bộ xước thanh cập Văn Luận viết từ bộ thủy là chẳng phải sách viết sai.

Tiêm kỳ ngược lại âm tiếp diêm sách Vận Anh, Khảo Thanh đều cho rằng: Tiêm là diệt sạch, Văn Luận viết từ bộ tiệt là chẳng phải.

Bá xuyên ngược lại âm bách mạ Ở đất Tần tên sông ở phía đông hoàng thành.

Giải đậu âm đậu là âm đậu Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Đậu là cái cổ, theo Tả Truyện cho rằng: Thẳng, duỗi thẳng sinh ra nứt cổ mà chết, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh đậu.

Kháp não ngược lại âm nô lão Chánh Tự giải thích:

Tức là tủy não, xưa nay Chánh tự viết từ bộ chủy thanh não âm não đồng với âm trên, Văn Luận hoặc là viết chữ não tục tự thường hay dùng.

Vong thư ngược lại âm thất dư sách Trang Tử nói rằng: Chữ viên cùng với chữ thư đều nghĩa như nhau, Quảng Nhã cho rằng: Thư là loài khỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc loài vượn, chữ viết từ bộ khuyển thanh thư âm thư ngược lại âm tử dư cũng có viết từ bộ mục đến bộ hữu từ bộ thư viết thành chữ thư là chẳng phải.

Hạ điếu ngược lại âm ảnh yếu sách Khảo Thanh cho rằng: Điếu là móc câu dẫn sợi dây treo lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Móc câu, câu cá, chữ viết từ bộ kim thanh điếu hoặc là viết chữ điếu.

Hà thoan ngược lại âm thang quan Tự Thư cho rằng: Thoan là nước chảy xiết trên bãi nước cạn, bãi cát, Hứa thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Thoan là nước chảy mau trên bãi cát nước cạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Thoan cũng là bãi nước cạn, chữ viết từ bộ thủy thanh đoan âm đoan là âm đoan Văn Luận viết từ bộ thổ là chẳng phải.

Sô hoạn ngược lại âm trên sở câu sách Vận Anh cho rằng: Sô là cỏ loại cỏ mọc rối loạn dưới đất, sách Thuyết Văn cho rằng: Cắt cỏ trên giống như cắt cỏ bao buộc bó cỏ lại, chữ viết từ hai bộ bao đến hai bộ triệt âm triệt ngược lại âm sửu liệt âm bao là âm bao hoặc là viết từ bộ thảo viết thành chữ sô cũng đúng, Văn Luận viết chữ sô là chẳng phải, là bởi vì văn cổ nhiều chữ, ngược lại âm dưới là hoạn là âm hoạn Trịnh Huyền chú giải sách

Chu Lễ rằng: Nuôi bò, dê gọi là sô tức là bò dê ăn cỏ, nuôi chó, heo gọi là hoạn sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy chuồng chứa thóc lúa nuôi heo, chữ viết từ bộ thỉ đến bộ quyển thanh tĩnh.

Xác nhiễm chỉ chi nguyên ngược lại âm trên hà các sách Khảo Thanh cho rằng: Xác giống như canh mà đặc hơn nồng đặc hơn gọi là xác sách Thuyết Văn cho rằng: Canh thịt, chữ viết từ bộ nhục thanh xác âm xác là âm hạc dưới là nguyên là âm nguyên sách Thuyết Văn cho rằng: Loài thủy giới, con ba ba lớn, chữ viết từ bộ mảnh thanh nguyên nói nhiễm chỉ nguyên đó là trong việc của Tả Thị Truyện giải thích.

Phửu như chi miệt ngược lại âm trên phương Hựu chữ thương thanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Nấu lửa chín nhừ như canh là không có chất nước gọi là phửu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh phửu âm phửu ngược lại âm phổ cẩu ngược lại âm dưới tiên diệt sách Thuyết Văn cho rằng: Loài thủy giới nói chu miệt đó là sách Lã Thị Xuân Thu giải thích rằng: Tên của loài thủy giới ngâm rượu gọi là rượu chu miệt, lại nói loài thủy giới này trên xương sống, có chậu ngọc màu trắng, thân như châu ngọc cho nên gọi là chu miệt. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mảnh thanh tệ âm tệ ngược lại âm tỳ duệ.

Đạo chích ngược lại âm trên đào đáo ngược lại âm dưới chinh diệc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trộm của tài vật gọi là đạo Cốc Lương Truyện giải thích rằng: Của phi lý mà lấy về phần mình gọi là đạo sách Thuyết Văn cho rằng: Tài vật tư lợi riêng chữ viết từ bộ diên âm diên ngược lại âm tù tiên đến bộ mảnh âm mảnh ngược lại âm minh bính dưới là chữ chích Quảng Nhã cho rằng:

Chích đó là mang giày dép, sách Hoài Nam Tử cho rằng: Chích là giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn nói chích là bàn chân, sách Trang Tử nói đạo chích đó tên của kẻ hung ác kẻ trộm nổi danh thời Xuân thu. Em trai của Triển Lý. Nang trang ngược lại âm nhã lang sách Khảo Thanh cho rằng: Cái túi có đáy gọi là nang. Theo Tả Truyện giải thích: Cái túi lớn gọi là nang, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái túi, chữ viết từ bộ thác bộ mang thanh tĩnh âm thác là âm thác âm nang là âm côn âm tương là âm nanh âm dưới là trang âm trang.

Kiết di âm trên là kiết Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Kiết là thừa sót lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Không có cánh tay trái tức cô đơn lẻ loi, chữ viết từ bộ liễu thanh quyết âm quyết là âm quyết ngược lại âm dưới duy quý Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Di là mất, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Di chí, Tống Ngọc chú giải sách Sở Từ rằng: Di là còn dư thừa lại, còn sót lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh quý.

Khư khiếp ngược lại âm trên khương ngư sách Khảo Thanh cho rằng: Khư là tay áo, sách Lễ Ký cho rằng: Cũng là tay áo, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh khứ ngược lại âm dưới khiêm diệp sách Tập Huấn cho rằng: Khiếp là loại rương nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Khiếp là cái hòm dán kín lại, chữ viết từ bộ trúc thanh khiếp âm khiếp đồng với âm trên.

Đào ngột âm trên đào âm dưới ngũ cốt Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Đào ngột là thời vua Ngũ Đế có bốn người hung ác, cuồng si không có chỗ hiểu biết, hai chữ đều từ bộ mộc chữ hình thanh.

Hống hống ngược lại âm hồng động nói hống hống đó là rất say, say mèm, say khước, không có chỗ tỉnh biết, thân thể mềm nhủn như bùn, chữ viết từ bộ thủy thanh hạng.

Bao biếm ngược lại âm trên bão mao Cố Dã Vương cho rằng: Bao gọi là khen ngợi tốt đẹp, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giáo lý tiến cử, cất nhắc. Sách Thuyết Văn giải thích: Áo rộng, vạt áo trước, chữ viết từ bộ y thanh bão ngược lại âm dưới binh yểm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Biếm là giảm bớt, sách Khảo Thanh cho rằng: Truất phế, sách Thuyết Văn cho rằng: Biếm là dìm hạ thấp, áp chế, chữ viết từ bộ bối thanh phiếm.

Tiểu khiên ngược lại âm khưu ngôn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khiên là có lỗi, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mắc lỗi nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Có tội, chữ viết từ bộ tâm thanh diễn hoặc là viết từ bộ khu đến bộ ngôn viết thành chữ khiên cũng thông dụng.

Tam ung ngược lại âm vu cung sách Khảo Thanh cho rằng: Ung là bửa ăn sáng. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ung đó gọi là cắt thịt chưng nấu, hòa trộn lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi là thức ăn nấu chín, chữ viết từ bộ thực thanh ung.

Chi tu ngược lại âm trên tinh du sách Thuyết Văn cho rằng: Tu là hiến dâng lên, dâng thức ăn ngon, chữ viết từ bộ dương thanh sửu dương chỗ gọi là dâng, tiến, cũng gọi là xanh tốt, um tùm, đúng là chữ dương Văn

Luận viết từ bộ quyến viết thành chữ quyến là chẳng phải, không thành chữ.

Kiển lật ngược lại âm trên kiên điển lại gọi là sừng bò để tế thiên địa, trời đất là kiển lật, sách Thuyết Văn cho rằng: Kiển là con tằm ở trong áo tức kén, chữ viết từ bộ mịch đến bộ trùng thanh miên âm miên là âm miên giống như con bướm có hai sừng, hoặc là từ bộ kiến viết thành chữ kiểm cũng thông dụng. Văn Luận viết từ bộ nhĩ viết thành chữ kiển là chẳng phải.

Kiên khống lạt ngược lại âm không cống gọi là dây cương buộc đầu con ngựa, chỗ người ta cầm nắm gọi là khống sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ cánh thanh không chữ khứ thanh.

Tiếp mao ngược lại âm trên tử diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếp đó là trên mí mắt, lông mi, Thiên Thương Hoét cho rằng: Lông mi mí mắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Lông bên mi mắt, chữ viết từ bộ mục thanh tiếp âm tí là âm tự tức là khóe mắt.

Thanh trí ngược lại âm dưới trì lợi Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trí là dày đặc. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh trí.

Chu nghị ngược lại âm ngư ký tên người. Vương mong âm mong cũng là tên người. Hy siêu ngược lại âm lạt tri tên người.

Vương mật âm mật tên người.

Vũ nội ngược lại âm trên vu cũ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thiên địa bốn phương, trong giữa gọi là vũ xưa nay Chánh tự viết từ bộ miên thanh vũ Trụ Văn viết vũ này dùng cũng đồng.

Uy huệ sách Khảo Thanh cho rằng: Huệ là yêu thích, từ ái hòa nhã, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhân từ, hoặc là viết chữ huệ (857) là chẳng phải. Văn Luận viết chữ huệ cũng thông dụng.

Quý yên ngược lại âm quý vị hoặc là viết từ bộ tâm viết thành chữ quý.

Tích lịch ngược lại âm trên sính kính âm dưới lực đích Cố Dã Vương cho rằng: Đại lôi, sấm sét nổ lớn, Văn Luận hoặc là viết từ bộ thạch viết thành chữ tích lịch tục tự cho không có bằng cứ, không có nghĩa.

-----------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 2 - TAM GIÁO TRỊ ĐẠO THIÊN HẠ

Tương tương ngược lại âm tích dương sách Tập Huấn cho rằng: Tiếng kim, ngọc khua leng keng, hoặc là viết từ bộ môn viết thành chữ tương hoặc là viết từ bộ túc viết thành chữ tương hoặc là từ bộ ngọc viết thành chữ tương đều là chữ cổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng khua, chữ hình thanh.

Hôn điếm ngược lại âm dưới đinh niệm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Người dân mê muội chìm đắm, khốn khổ, nơi tai họa, nước lửa, sách Khảo Thanh cho rằng: Điếm là chìm xuống, xưa nay Chánh tự chữ từ bộ chấp đến bộ thổ.

Thước thạch ngược lại âm thương chước Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thước là nung nóng tiêu chảy đồng kim loại, chữ viết từ bộ kim thanh thước.

Lang bái âm trên lang âm dưới bối sách Khảo Thanh cho rằng: Mất trật tự gấp gáp vội vàng.

Ngân hạp ngược lại âm dưới khâm hạp sách Khảo Thanh cho rằng: Hạp là dụng cụ chứa rượu, Văn Luận viết từ chữ hạp tục tự dùng thông dụng.

Nhượng tý âm trên như dương Khảo Thanh cho rằng: Nhượng là chống cự, chống giữ, bảo vệ. Ngọc Thiên cho rằng: Trừ bỏ tay áo ra lộ cánh tay gọi là nhượng phế bỏ cái tâm phẫn hận, phát tâm dõng mãnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh nhương.

Bình la ngược lại âm trên bình miên Thiên Thương Hoét cho rằng: Bình là cái áo trùm xe, sách Chu Lễ cho rằng: Bình cái màn che bốn phía, xưa thường dùng cho xe phụ nữ, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh tinh.

Dực diệu âm trên dực sách Khảo Thanh cho rằng: Dực diệu là lửa cháy sáng rực, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dực diệu là mê hoặc, tức là đèn lù mù, không tỏ rõ.

Biện âu ngược lại âm trên biến miên sách Khảo Thanh cho rằng: Biện giống như cái hủ mà dưới gọi là miệng nhỏ bụng to, sách Thuyết Văn cho rằng: Biến giống như cái vò to mà miệng nhỏ thấp, ngược lại âm dưới a hầu sách Khảo Thanh cho rằng: Âu là chậu nhỏ, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cái bình đất nung cũng gọi là cái chén, đều là chữ hình thanh, âm phẩu ngược lại âm phẩu hậu.

Ngoa ngôn ngược lại âm ngũ hòa Mao Thi Truyện cho rằng: Ngoa là dối trá, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lời nói giả dối xảo mị, dối gạt không chân thật, Tự Thư viết chữ ngoa xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh hóa.

Lão nham âm tham sách Văn Tự Tập Lược giải thích: Thời Chu Cơ tên Lý Tử. Văn Luận viết từ bộ thân viết thành chữ nham là chẳng phải.

Kê khang âm trên là khê thời đông Tấn đại phu tên Kê Thúc Dạ.

Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ sơn thanh kê âm kê là âm kê.

Kháp bạch mã ngược lại âm trên sở giáp, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Là một nghi thức liên kết đồng minh ngày xưa, tức là dùng máu của con vật được dùng để tế lễ bôi vào hai mép của những người ăn thề. Ngọc Thiên cho rằng: Lấy miệng nhỏ bé hút máu, sách Thuyết Văn viết từ bộ khiếm thanh sáp âm ngược lại âm xoa giáp từ bộ can đến bộ cửu Văn Luận viết từ bộ khẩu đến bộ thiếp viết thành chữ sáp đó là chẳng phải nghĩa đây dùng.

Cự hư âm trên là cự âm dưới là hư hư là tên con thú nuôi, Tào Hiến chú giải sách Quảng Nhã rằng: Cùng với Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Là nước Cô Trúc, đông Bắc Di là thuộc giống lạc đà.

Tích lữ âm trên tinh diệc sách Khảo Thanh cho rằng: Tích là xương sống âm dưới là lữ văn cổ viết chữ lữ cũng giống như xương sống.

Luật chước ngược lại âm xương nhược sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ao nước. Quách Phác chú giải rằng: Giếng nước hoặc là có nước, hoặc là không có nước gọi là chước chữ hình thanh.

Quỹ thuyết ngược lại âm quy hủy sách Khảo Thanh cho rằng: Dối trá, khinh khi xấu ác, chữ viết từ bộ nguy chữ hình thanh.

Thị dục ngược lại âm thời chí Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tham muốn ưa thích, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Không nhàm chán, chữ viết từ bộ chủy.

Vi hạp ngược lại âm cam đáp Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Một trăm năm con yến vào sông nước biến làm con sò, sách Khảo Thanh cho rằng: thuộc loại sò trai, con ngọc trai.

Vi thận ngược lại âm thần nhẫn sách Thuyết Văn cho rằng: Con chim trĩ vào sông Hoài, chỗ hóa làm con sò lớn, chữ hình thanh.

Diệp phục ngược lại âm trên phổ diệp ngoại đạo lao nhọc làm việc vất vả, Độ Xoa lấy đồng thiết bó quấn cái bụng, chữ viết từ bộ kim thanh diệp.

Khỉ tháo ngược lại âm trên khi kỹ sách Thuyết Văn cho rằng: Vải lụa có năm màu, vải lụa hoa, ngược lại âm dưới tao lão Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cỏ mịn nhuộm màu mà có văn hoa, sách Khảo Thanh cho rằng: Văn chương trau chuốt.

Ky cảnh ngược lại âm kỹ hy Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Là nhỏ bé, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tư âm tư là âm u đến bộ tuất chữ hội ý, ngược lại âm dưới kinh ảnh sách Khảo Thanh cho rằng: Cảnh giác. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cảnh răn dạy ngăn ngừa, xưa nay Chánh tự viết từ bộ ngôn thanh kính.

Không đồng âm trên là không âm dưới là đồng tên núi ở tỉnh Cam Túc. Chỗ Quảng Thành Tử ẩn cư vua đến hỏi đạo.

Thoát tỷ ngược lại âm trên thoan quát ngược lại âm dưới sư khỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc guốc gỗ, Văn Luận viết từ bộ lộc viết thành chữ tỷ tục tự thường dùng.

Khốt nê ngược lại âm trên côn một gọi là chìm đắm dưới nước, tiếng nước chảy.

Bàn san âm trên bàn âm dưới tán lan sách Khảo Thanh cho rằng: Đi mà không bước tới, đi loanh quanh, quẩn quanh. Xưa nay Chánh tự đều viết từ bộ túc đều thanh bàn san.

Phanh chi ngược lại âm phách manh hoặc là viết chữ phanh xưa nay Chánh tự giải thích: Phanh là đàn chỉ ngón tay, khoan dùi lổ.

-----------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 3 - THẬP ĐẠI PHỤNG PHẬT THÊN THƯỢNG

Hang nhật ngược lại âm trên học giáng ngược lại âm dưới nhân chất Hán Minh Đế cảm mộng thấy Phật hạng, sau đó nhật quang bay tới điện đình thần lực của Phật cảm hóa.

Đàn ngôn âm trên là đan sách Khảo Thanh cho rằng: Hết tận, chữ viết từ bộ ngạt âm ngạt là âm tàn.

Trác khỉ âm trên vi lực trắc là hào quanh tường. Núi

Tam Trọng, âm dưới khi dĩ xưa nay Chánh tự cho rằng:

Núi không có cây cỏ gọi là khỉ chữ viết từ bộ sơn thanh dĩ.

Cửu sơn âm cửu tên loại rau, tức cây hẹ, bởi vì trên núi thường tạo chùa nên tên chùa.

Kham tiển ngược lại âm trên khâm cam sách Thượng Thư cho rằng: Từ nay viết chữ kham nay. Sách Khảo Thanh cho rằng: Vứt bỏ, dẹp yên. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kham là thắng sách Thuyết Văn cho rằng: Giết sạch âm dưới là tiển sách Thuyết Văn cho rằng: Tiển là diệt trừ, chữ viết từ bộ qua thanh tấn.

Tú cũng ngược lại âm trên tu tụ sách Khảo Công Ký cho rằng: Thuê đủ năm màu sắc gọi là tú sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh túc ngược lại âm dưới cung dũng sách Văn Tự Điển nói: Cung là cây cầu, chữ viết từ bộ mộc thanh cũng.

Điêu doanh ngược lại âm trên điểu liêu Quảng Nhã cho rằng: Điêu là chạm khắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Điêu là chạm khắc ngọc cho có văn, âm dưới là doanh sách Khảo Thanh cho rằng: Doanh là cây cột. Xưa nay Chánh tự viết từ bộ mộc thanh doanh.

Văn bệ ngược lại âm bể di sách Khảo Thanh cho rằng: Bệ là rui nhà, theo Thanh Loại cho rằng: Nhà liên kết với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh bề âm bệ đồng với âm trên.

Đán thích ngược lại âm trên đan cán Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tên của Chu Công, âm dưới thánh diệc sách Thượng Thư cho rằng: Thích là tên của Thiệu Công, sách Thuyết Văn cho rằng: Hưng thạnh phồn vinh, chữ viết từ bộ đại thanh thích âm bách cũng là thanh âm thích là âm bí.

Trân khám âm dưới là kham Quảng Nhã cho rằng: Đục đá làm tường, làm cái hang, khám gọi là khám.

Liên manh ngược lại âm dưới là mạch canh sách Khảo Thanh cho rằng: Manh là cái mè đóng trên rui nhà để móc ngói, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngõa đến bộ manh thanh tĩnh.

Trất tỹ ngược lại âm trân sắc sách Thuyết Văn cho rằng: Trất là cây lược, tên chung của cây lược, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết ngược lại âm dưới tần dật tức là dày đặc.

Nữu địa ngược lại âm trên ni cửu Quảng Nhã cho rằng: Nữu là bó buộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Nữu là dây vải áo, chữ viết từ bộ mịch thanh sửu hoặc là khứ thanh cũng thông dụng.

Chi chỉ âm chỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Ý chỉ, chữ viết từ bộ tâm thanh chỉ.

Địch phiền ngược lại âm trên ứng lịch Địch là tẩy rửa trừ bỏ cấu uế, chữ viết từ bộ thủy thanh địch.

Xác hy ngược lại âm trên sát gian chữ bình thanh, Mao Thi Truyện cho rằng: Xác tự nhiên nước mũi chảy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh xác cũng từ bộ xác tóm lược, âm dưới hy khí sách Khảo Thanh cho rằng: Hy là đau buồn tiếng khóc rống, Văn Luận thư giáo viết sai từ văn rất quái lạ.

Hoàn tịch âm trên là hoàn tên của loài cỏ, giống như cỏ bồ nhỏ tròn, có thể lấy làm chiếu nhưng thô xấu.

Cao khôi ngược lại âm khối hồi sách Vận Anh cho rằng: Lo buồn ưu tư, khai mở ra, tên người Đan Lương Duẫn.

Giang đà ngược lại âm đạt hà tên của sông, sách Thượng Thư rằng: Ở núi Mân có con đường dẫn ra Giang Đông, có sông khác biệt tên là Đà chữ viết từ bộ thuỷ thanh đà âm đà là âm tha.

Tuấn ký âm trên là tuấn âm dưới là ký tên con ngựa đẹp, ngựa chạy ngàn dặm, chữ hình thanh.

Tông các ngược lại âm khẩu giác tên họ người, Văn Luận viết từ bộ kiết viết thành chữ các là chẳng phải.

Lưu miễn âm trên đúng là chữ lưu ngược lại âm dưới miên biện tên của Tống Tư Không, chữ viết từ bộ diện đến bộ lực.

Học tông ngược lại âm tông tống sách Khảo Thanh cho rằng: Tông là bao gồm các mối chỉ đầu máy cơ động. Vương giản ngược lại âm gian hạn chữ thượng thanh tên vua. Phu tể ngược lại âm trên phu vụ âm dưới là tể.

Liểu thầm ngược lại âm dưới thậm lâm sách Khảo Thanh cho rằng: Lòng thành kính cẩn, chữ viết từ bộ thậm âm thậm là âm dâm.

Liễu đàm âm dưới là đàm tên người. Tử khác ngược lại âm khả các.

Bá sản ngược lại âm trên ba mạ âm dưới san giản tên Tần Trung Thủy.

Húy hủ ngược lại âm vu vũ vua Ngụy. Húy đạo âm đạo chữ thượng thanh.

Phục điện âm trên phục ốc nhà nhiều tầng.

Thiềm quynh âm trên là diêm âm dưới quý dinh gọi là cái móc then cài cửa bên ngoài.

Tương liệu ngược lại âm lực điểu quấn quanh bó buộc.

Khối vỹ ngược lại âm trên cổ hồi viên ngọc lớn quý, âm dưới là vĩ loại ngọc quý lạ, quý hiếm.

Tĩnh đế ngược lại âm trên từ dĩnh an tĩnh.

Chương phủ âm trên là dương sách Chu Lễ tên sông ở Ký Châu tên là chương Hán Thư cho rằng: Sông chương nước đục, xuất phát từ trên thượng nguồn chảy vào khe núi phía đông, đến huyện Nghiệp vào sông Thanh Chương, sông này nước trong sạch, xuất phát từ thượng nguồn, chảy vào (858) hang núi, khe hang phía bắc vào sông lớn, âm dưới là phủ Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Sông phủ nước chảy vào huyện Tây Phủ, hang núi trải qua Cam Đàn vào sông Chương, sông này nước nóng như nấu sôi sùng sục.

Thuyên thạch ngược lại âm tuyệt duyên sách Vận Anh cho rằng: Thuyên là đục khoét, chạm khắc, sách Phương Ngôn cho rằng: Chạm, khắc ngọc, kim loại đá chữ viết từ bộ kim đến bộ truy dưới từ bộ cung âm tuyệt ngược lại âm tuấn duyệt.

Ưng diêu ngược lại âm trên ức canh sách Vận Anh cho rằng: Giống chim lớn mạnh mẽ hang dữ, có thể bắt chim cả thỏ và chim trĩ để ăn, âm chí là âm chí ngược lại âm dưới diêu chiểu cũng loại giống chim ưng mà nhỏ, giống chim này có thể bắt chim sẻ, chim chìa vôi.

Chí điểu âm trên là chí Mao Thi Truyện cho rằng: Chí là tên gọi chung giống chim hung dữ, mạnh mẽ, có thể bắt cả con vật khác, chữ hình thanh.

Húy bình ngược lại âm dung lục tên của hậu Chu Minh Đế lúc nhỏ và lớn lên gọi là lưu.

Húy huân ngược lại âm uy luân sách Khảo Thanh cho rằng: Tốt đẹp tên của hậu Chu Tuyên Đế.

Mậu chữ ngược lại âm trên mạc hậu sách Khảo Thanh cho rằng: Mậu là gắng sức, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh mậu âm mậu đồng với âm trên.

Sô ngu ngược lại âm trang sưu Quảng Nhã cho rằng: Thuộc về quan coi ngựa, theo, Mao Thi Truyện cho rằng: Loài thú quý hiếm, có đức tính tốt tim có niềm tin thì có ứng hiện, sách Thuyết Văn cho rằng: Phong nhã, tao nhã, chữ viết từ bộ mã chữ hình thanh.

Kỳ lân âm trên là kỳ âm dưới là khác trân giống thú quý hiếm, khi mà vua có thánh đức mới xuất hiện giống thú này, sách Thuyết Văn giải thích: Là giống thú có lòng nhân, hai chữ đều từ bộ lộc chữ hình thanh. Đông điệp ngược lại âm tham hạp cá thơn bơn thuộc giống tỹ mục ngư, hình trạng giống như cái đùi trâu, có vẫy nhỏ, có màu đen, loại cá ngưu hai mắt lồi ra hai bên, loại cá này thường sống ở gần sông biển. Tục gọi là vương ngư, sách Thuyết Văn cho rằng: Loại cá, hoặc là viết từ bộ khứ âm cùng với âm điệp cũng đồng, chữ hình thanh.

Nam kiêm âm kiêm tên giống chim tỹ vực. Sách Nhĩ Nhã chép: Ở phương nam có giống chim tỹ vực gọi là kiêm kiêm giống như chim le le bay từng đàn, nối cánh liền với nhau mà bay, so không đều không bay. Màu lông xanh đỏ, Văn Luận viết tây kiêm là chẳng phải.

Trụ sở âm sở tức nay người ta gọi đá kê dưới chân cột, cũng gọi là trụ sở, cũng gọi là trụ âm âm âm. Người phương nam gọi là sở chữ hình thanh.

Ám giả ngược lại âm trên ấp lâm sách Khảo Thanh chép: Ám là nói không ra lời, tức là câm.

Cửu khái ngược lại âm cải hài danh pháp số.

Thốn lữ âm lữ Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Mái hiên nhà, âm thiềm là âm diệm.

Xích truyện ngược lại âm trường luyến cũng gọi là giác tử cũng gọi là các tương đều, chữ viết từ bộ mộc đến bộ duyên thanh tĩnh.

Bích đang âm đang ngọc châu, ngọc đeo tai, đồ trang sức.

Đa chỉ ngược lại âm lạc lý Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chỉ là lộc may mắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phước chữ viết từ bộ thị thanh chỉ.

Suyễn đạo ngược lại âm chung nhuyễn sách Vận Anh cho rằng: Suyễn là trái ngược, sai lầm, không đồng đều, ngược lại âm dưới đào đáo chữ khứ thanh, đạo là đạp lên mà đi, chữ viết từ bộ túc.

Uẫn dị ngược lại âm trên uy phân sách Quảng Nhã cho rằng: Uẫn gói cất chứ, sách Vận Anh cho rằng: Cất chứa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ vi chữ chuyển chú.

Trâm trùy ngược lại âm trên trương lâm Vấp ngã thất bại, hoặc là viết từ bộ mộc viết thành cảnh trâm cũng thông dụng, Văn Luận viết từ bộ chiêm viết thành chữ trâm tục tự dùng thông dụng, ngược lại âm dưới là trương luy đánh kiền chùy, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh truy hoặc là viết từ bộ mộc cũng thông dụng.

Thâu sâm ngược lại âm trên thương chu sách Khảo Thanh cho rằng: Vận chuyển, đưa tiển thâu nạp vào, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh du ngược lại âm dưới lặc lâm Mao Thi Truyện cho rằng: Sâm là vật quý, hoặc là viết từ bộ ngọc hoặc là viết từ bộ bối đều thông dụng.

Lung tùng ngược lại âm trên lộc khổng ngược lại âm dưới tông khổng sách Khảo Thanh cho rằng: Ngọn núi cao chót vót um tùm, cỏ mọc. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ chuyển chú.

Lăng khoa ngược lại âm trên lực trừng chữ chánh thể. Văn Luận phần nhiều viết từ bộ phụ viết thành chữ lăng là dùng sai chữ, sách Thuyết Văn viết từ bộ lực thanh lăng âm lăng là âm lăng ngược lại âm dưới khoa hóa Tự Thư cho rằng: Khoa là nhảy vượt qua, đoán chữ viết từ bộ túc thanh khoa âm khoa đồng với âm trên, Văn Luận viết chữ khoa này chẳng phải.

Lâm ái âm dưới là ái gọi là ánh mặt trời chiều tối âm u, chữ viết từ nhật thanh ái.

Cam thúy ngược lại âm trên cam ám sách Thuyết Văn ghi rằng: Màu trắng, màu xanh đận mà dương thành màu tím thẳm, chữ viết từ bộ mịch thanh cam ngược lại âm dưới thiên túy sách Khảo Thanh cho rằng: Sắc màu ngọc bích sáng chói đó gọi là thúy chữ viết từ bộ vũ thanh tốt.

Trinh thụy âm trên là trinh điều may mắn tốt lành, âm dưới thùy ngụy ứng điềm tốt lành.

Trùng đạp ngược lại âm dưới đàm hạp đạp cũng là trùng trùng nhiều lớp hợp nhau, chữ viết từ bộ đạp thanh tĩnh âm đạp đồng với âm trên.

Phiên để ngược lại âm trên phát phiên tên chung của nước Nhung Địch, nước Phiên, nước Thổ Phỉ, ngược lại âm dưới là đinh lễ nhà của triều đình, biệt danh của nhà các vương giả, chư hầu, làm ngoài kinh sư để cho các chư hầu đến triều kiến vua, về sau thời quân chủ là nơi để cho các hầu, vương công các quân ở lại triều kiến ngoài thị trấn.

-----------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 4 - THẬP ĐẠI PHỤNG PHẬT THIÊN HẠ

Tảo phủ ngược lại âm trên tao lão sách Khảo Thanh cho rằng: Trong nước có các loại rong biển, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo chữ hình thanh, ngược lại âm dưới phó vũ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hoa văn thuê để trang sức trên lễ phục ngày xưa, phủ có hình như cái búa gọi là phủ phủ là chữ hình thanh. Yểu điệu ngược lại âm trên yêu hiểu ngược lại âm dưới điều liễu sách Khảo Thanh cho rằng: Yểu điệu là người phụ nữ có dáng thướt tha yêu kiều, Mao Thi Truyện cho rằng: Yểu điệu là người con gái khuê các đoan chánh, ở phòng khuê, hai chữ đều từ bộ huyệt chữ hình thanh.

Điều nghiêu âm trên là điều ngược lại âm dưới là nhiêu núi cao ngất ngưỡng, hai chữ đều từ bộ sơn chữ hình thanh.

Bức trắc ngược lại âm trên bi lực ngược lại âm dưới trang lực Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bức cận kề một bên, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bức bách, hai chữ đều từ bộ nhân chữ hình thanh.

Biền điền ngược lại âm trên tiện miên Cố Dã Vương cho rằng: Hai con ngựa sánh đôi đều với nhau để đóng vào xe giá gọi là biền ngược lại âm dưới điện niên sách Khảo Thanh cho rằng: Điền là lắp đầy, chữ viết từ bộ huyệt thanh chân.

Hể ẩm ngược lại âm trên hê kế sách Sử Ký ghi rằng: Vua Vũ Đế làm lễ bá thượng, Từ Quảng gọi là lễ tổ chức vào ngày tỵ thượng tuần tháng ba âm lịch, để trừ tà ma và điều xấu, Quảng Nhã cho rằng: Hể là đông nhiều, chữ viết từ bộ thị thanh khể âm phất là âm phất.

Địch thính ngược lại âm trên đinh lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Địch là đi xa,

Trịnh Huyền giải thích rằng: Qua lại rất mau, sách Thuyết Văn viết chữ dịch chữ viết từ bộ xước thanh địch âm xước ngược lại âm sửu lược.

Côn hoàng ngược lại âm trên hông cổn chữ thượng thanh âm dưới là hoàng bốn phía đều sáng rực, hai chữ đều từ bộ hỏa chữ hình thanh. Diêu khư âm, trên là diêu ngược lại âm dưới là khương ngư sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ ở của vua Thuấn gọi là diêu khư, cũng gọi là họ diêu, chữ đều tả hình, hiểu thanh.

Tư thư ngược lại âm trên thử tư ngược lại âm dưới thất dư Quảng Nhã cho rằng: Tư thư là chùn chân, không tiến tới được, khó đi, sách Thuyết Văn cho rằng: Không tiến tới được cũng là tả hình, hữu thảnh chữ hình thanh.

Phân xâm âm trên là phân âm dưới tinh cấm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Xâm là yêu khí, sách Chu Lễ cho rằng: Khí âm dương tương xâm lần lần, thành tai họa, sách Thuyết Văn cho rằng: Cảm khí không tốt lành, chữ viết từ bộ thị đến bộ xâm thanh tĩnh.

Sam thương ngược lại âm sa hàm ngược lại âm dưới là sách Tinh Kinh giải thích rằng: Sam thương là yêu tinh, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cũng là yêu tinh. Tinh Kinh giải thích rằng: Phi tinh là trong nước có tai ách là sẽ thấy xảy ra vậy. Hai chữ đều từ bộ thủ.

Đế giao ngược lại âm trên đề đế Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tên của hỏa tế, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tế lễ để rước thần chủ của người chết sau khi hết tang ba năm, vào thờ chung với tổ tiên trong miếu, bởi vì chủ thần miếu ở xa nên phải dời vào nhà thờ tổ tiên. Bởi vậy cho nên đại tế lễ gọi là đế sách Thuyết Văn cho rằng: Một năm tế lễ một lần, chữ viết từ bộ thị thanh đế âm phụ là âm phụ.

Linh ngữ ngược lại âm lịch sách Khảo Thanh cho rằng: Linh ngữ là ngục, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh rằng: Linh ngữ chỗ gọi là cấm thủ bó buộc, sách Thuyết Văn viết từ bộ vi thanh linh, ngược lại âm dưới ngư cử sách Khảo Thanh cho rằng: Ngữ ngục vuông, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngữ là ngục nhốt người từ, Phổ Chước chú giải sách Hán Thư rằng: Ngữ là ngục cấm ngăn người tội, sách Thuyết Văn cho rằng: Giam giữ, chữ viết từ bộ vi thanh ngữ cũng viết chữ ngữ.

Phong quán âm trên là phong sách Phương Ngôn cho rằng: Phong là ngày xưa ở vùng biên giới, người canh giữ khi thấy giặc đến thì đốt lửa lên ở nơi cao, để báo hiệu, Hán Thư âm nghĩa giải thích: Phong là có quan canh giữ báo hiệu khi có giặc phiên nổi lửa lên đốt lửa lên, sách Sử Ký ghi rằng: Dụng cụ lấy lửa sách Thuyết Văn ghi: Chư hầu canh giữ trên chòi cao trông ra xa có giặc đốt lửa lên khiến kinh sợ mà thối lui, chữ viết từ bộ hỏa thanh phong âm phiên là âm phiền ngược lại âm dưới nghi uyển sách Chu Lễ ghi rằng: Đốt lửa lên để làm hiệu lịnh công phá thành, Trịnh Chúng giải thích: Mỗi năm tùy theo thời, lại dùng lửa đốt cây củi, sách Khảo Thanh Thiết Vận ghi: Dụng cụ lấy lửa từ nơi cung mặt trời, cũng là dùng lửa làm tín hiệu, sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh quán cũng là chữ hoàn âm hoàn là âm hoàn âm quán là âm quán.

Huống u ngược lại âm huân cuồng. Sách Khảo Thanh sách Nhĩ Nhã đều cho rằng: Huống là ban tặng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh huống.

Hoàng việt ngược lại âm dưới viên nguyệt sách Khảo Thanh viết chữ việt nghĩa là cái búa lớn. Tư Mã Pháp chú giải Tả Truyện rằng: Cây gậy vàng Thiên Thương Hoét giải thích: Việt là cây búa. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lấy vàng để trang sức cây búa. Sách Thanh văn viết từ bộ kim thanh việt âm việt đồng với âm trên.

Kim thốc Ngược lại âm dưới tông tốc Quảng Nhã cho rằng: Thốc là đầu nhọn mũi tên. Sách Nhĩ Nhã giải thích: Kim thốc là mũi tên có gắn lông chim gọi là hầu. Sách Thanh văn giải thích: Mũi tên nhọn đâm thẳng vào.

Chữ viết từ bộ kim thanh tộc. Âm địch là âm đích âm hầu là âm hầu âm thứ ngược lại âm thư tứ.

Thương ế ngược lại âm ư kế Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ế là hết sạch. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ế là giết chết. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chết xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngạc thanh ế âm ngạc là âm căng.

Đê thích ngược lại đế hề đê là hiệu của Tỷ Địch Tây Nhung. Quảng Nhã cho rằng: Địch đê thích, sách Thuyết Văn cho rằng: Đê là giày da chữ viết từ bộ cách thanh thị. Ngược lại âm dưới doanh chích. Sách Khảo Thanh cho rằng: Bộ tộc Bắc địch. Sách Lễ Ký cũng giải thích, cũng cho rằng: Phương bắc là dịch, sách Thuyết Văn ghi rằng: Địch là nói truyền lại Tứ Di. Chữ viết từ bộ ngôn thanh dịch âm dịch là âm diệc Văn Luận viết từ bộ hạnh viết thành chữ dịch là tục dùng chẳng phải.

Bát hoành ngược lại âm dưới thoại manh. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Hoành là sợi chỉ quai mủ cũng là vải áo buộc. Sách Hoài Nam Tử cho rằng: Phải biết bát hoành cửu dã là hình ký, tức là bờ sông uốn cong. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Hoành cũng là vải áo. Dưỡng Hùng gọi là cầm lồng đèn lục hợp bát hoành. Xưa nay Chánh Tự viết từ mịch thanh hoằng. Cũng từ bộ hoằng viết thành chữ hoàng âm loát là âm liệt.

Ngoại tề Văn cổ viết chữ tề.

Thập phúc ngược lại âm dưới phong mục Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Phúc là áo nhiều lớp Thiên Thương Hoét cho rằng: Dày, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là áo nhiều lớp, chữ viết từ bộ y thanh phục âm phục là âm phục.

Hổ độc ngược lại âm trên hồ cổ sách Khảo Thanh cho rằng: Hổ là tên dòng sông. Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Thương Hoét ghi vua đến Nam Dương. Núi Hư đến sông Huyền Hổ rùa linh thiêng vác pho sách, đến dâng. Từ đó tức tên của dòng sông này. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hổ.

Đam nhĩ ngược lại âm trên háp cam sách Khảo Thanh cho rằng: Đam là tai dài rũ xuống. Kinh Sơn Hải có ghi: Trong nước có người tai dài rũ xuống. Quách Phác chú giải rằng: Nước này người dân có tai to lớn rũ xuống vai. Sách Thanh văn cho rằng: Cũng là tai to dái lòng thòng tới vai. Chữ viết từ bộ nhĩ thanh đảm đãm cũng là thanh, âm đồng với âm trên.

Chi tù ngược lại âm tựu do Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng:

Tù trưởng, người đứng đầu. Hán Thư cho rằng: Bắt được chém đầu Khương Tù Trưởng. Văn Địch giải thích: Tên của nước Hồ. Đại Soái là tù. Như Trung Quốc nói. Quốc sư người đứng đầu. Văn Tự Điển nói, xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ dậu bán bộ thủy xan trên chữ hội ý.

Hoặc mô ngược lại âm dưới mẫu hồ sách Khảo Thanh cho rằng: Mô là nắm giữ. Bì Thương cho rằng: Bắt chước, Quảng Nhã cho rằng: Phỏng theo hình, sách Thanh văn viết từ bộ mạc đến bộ thủ viết đúng từ bộ thủ viết thành chữ mô.

Bị si âm trên đúng là chữ bị ngược lại âm dưới sĩ ly

Thục Đô Phú giải thích rằng: Si là trau chuốt lời văn của Hạm Thiên. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã tựa rằng: Lời văn hoa mỹ uyển chuyển cao vút như cánh chim. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Si là thư thả thoải mái. Chữ viết từ (859) thủ thanh ly cũng viết chữ ly âm ly đồng với âm trên.

Chi diên ngược lại âm di nhiên Đỗ Dự chú giải Tả Truyện và sách Khảo Thanh cho rằng: Vải dọc che trên, cũng là thong thả kéo dài. Trịnh Huyền chú sách Lễ Ký rằng: Sâu xa xuất ra kéo dài ra phía trước, rũ xuống, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mịch thanh diên âm thủy ngược lại âm tư túy.

Thái tộc ngược lại âm dưới thương đậu sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh cho rằng: Thái tộc tên đúng là Nguyệt luật. Văn Tự Điển nói: Chữ từ bộ thảo thanh tộc.

Ư thước ngược lại âm dưới hương chước sách Khảo Thanh cho rằng: thước là nấu đồng cho tiêu chảy ra. Mao Thi Truyện cho rằng: Thước là sáng sủa tốt đẹp. Sách Thanh văn cho rằng: Nung nóng chảy đồng ra. Chữ viết từ bộ kim thanh lạc.

Vu quốc ngược lại âm trên vũ câu theo Tả Truyện cho rằng: Vu là vua Mục Đế đời Tấn tên Ứng Hàn Văn. Đỗ Dự chú giải rằng: Tên sông cũng là địa danh sách Thuyết Văn cho rằng: Vu quốc là con của Vũ Vương, chỗ phong vương chữ viết từ bộ ấp thanh vu.

Tú cảnh ngược lại âm dưới quỉ vĩnh tên của Đường Thái Phủ Hương.

Nải toản ngược lại âm dưới tổ quản sách Khảo Thanh cho rằng: Toản là thừa kế. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kế thừa, sách Thượng Thư cho rằng: Thừa kế vua vũ cựu phục. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mịch thanh toàn.

Cưỡng phụ ngược lại âm trên cưỡng ngưỡng sách Khảo Thanh cho rằng: Cưỡng là cái chăn bọc trẻ em lại, cái đãy vác trẻ con. Bao trùm chú giải sách Luận Ngữ cho rằng: Dụng cụ bọc trẻ con gọi là cưỡng.

Bác Vật Chí cho rằng: Cưỡng là chăn bao bọc trẻ con, rộng tám. Tám tấc dài ước chừng thước hai, vừa đủ bao bọc trẻ sơ sinh. Sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh cưỡng.

Quyệt quỹ ngược lại âm trên quyến huyệt, sách Phương Ngôn cho rằng: Từ Quan Đông cho tới Tây quan gọi dối trá là quyệt. Trịnh chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dối trá, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Khinh khi lừa dối thiên hạ gọi là quyệt. Quyệt từ bộ ngôn thanh duật. Ngược lại âm dưới quy ủy sách Khảo Thanh cho rằng: Quỷ là trách mắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng trách mắng, chữ viết từ bộ ngôn thanh nguy âm trách là âm trách.

Phù nhân âm trên là phù sách Chu Lễ giải thích rằng: Gọi là công kim, gọi là phù thi là khánh thị là phù nhân, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thư phù, tức là chim le le, sách Thuyết Văn ghi rằng: Chữ viết từ bộ phù bộ điểu thanh tĩnh, âm vụ là âm mộc âm phù là âm thù.

Đế cấu ngược lại âm trên đề kế, Vương Dật chú giải sách Sở Từ kết buộc lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kết buộc không mở ra, chữ viết từ bộ mịch thanh đế ngược lại âm dưới câu hậu.

Ngân điệp ngược lại âm dưới điềm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Diệp là công văn, văn thư, trạm trình công văn liên. Nay gọi là giãn lược. Sách Thuyết Văn cho rằng: cũng là văn thư, chữ viết từ bộ phiến thanh điệp âm diệp đồng với âm trên.

Nghiệt hành ngược lại âm trên ngư liệt. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nghiệt là thanh gỗ ngang cài cửa. Sách Thuyết Văn giải thích cũng đồng, chữ viết từ bộ môn thanh nghiệt âm nghiệt đồng với âm trên.

Tú nhi ngược lại âm dưới nhĩ chi. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nhi gọi là cây cột phụ. Sách Thuyết Văn giải thích: Nhi là cột kê trên làm tiêu chuẩn, chữ viết từ bộ mộc thanh nhi âm tư là âm tiết âm kê là âm kê âm tiêu là âm diêu Văn Luận viết từ bộ nhuyễn viết thành chữ nhuyến là chẳng phải.

Lậu hạm ngược lại âm trên lực hầu. Sách Khảo Thanh cho rằng: Lậu là chạm khắc sửa chữa kim loại, chạm trổ điêu khắc, gọi là lậu. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cũng là chạm khắc. Xưa nay Chánh Tự cảnh từ bộ kim thanh lũ âm sưu là âm sưu ngược lại âm dưới hàm dảm sách Khảo Thanh cho rằng: Lam là lan can hàng rào. Cố Dã Vương giải thích: Lan Can bao quanh cung điện trên. Sách Thuyết Văn giải thích: Ham là chuồng nuôi súc vật. Chữ viết từ bộ mộc thanh lam âm ngược lại âm câu cấu.

Cũ hoạch ngược lại âm trên câu vũ Quảng Nhã cho rằng: Cũ là cái ê-ke góc vuông. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cây thước nẩy mực. Kích thước quy cũ. Phép tắc cũng gọi. Thước đo góc vuông, chữ viết từ bộ mộc thanh cũ Văn Luận viết chữ cũ tục dùng cũng đồng. Ngược lại âm dưới uông hoạch. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hoạch là phép tắc, âm thùy là âm thùy xưa gọi là người thợ, âm hoạch ngược lại âm vương phược.

Đàn tảo hội ngược lại âm trên là đan sách Khảo Thanh cho rằng: Đàn là hết tận. Văn Luận viết từ bộ cung viết thành chữ đàn là sai. Âm giữa là tảo Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tảo là rong biển, có văn văn, sách Khảo Thanh cho rằng: Văn chương trau chuốt sáng sủa, âm dưới là gội. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hội là vẽ. Thiên Thương Hoét cho rằng: Hội là vẽ có nhiều màu sắc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vẽ đường ngang, chữ viết từ bộ mịch thanh hội.

Ý liệt vương ngược lại âm trên là y khí sách Ích Pháp giải thích: Thể hòa vui trong lòng vui vẻ chỗ ở thuận hòa gọi là ý. Sách Thuyết Văn cho rằng: Ý là chuyên chú lâu dài tốt đẹp, chữ viết từ bộ ế thanh tứ.

Vương hiệp ngược lại âm dưới hồ hiệp. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiệp là hòa hợp. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệp là hòa đồng tư tưởng. Suy nghĩ chữ viết từ bộ tư thanh hiệp Văn Luận viết từ ba bộ đao viết thành chữ hiệp là chẳng phải.

Lâm lang ngược lại âm trên lực kim Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lâm là tên của loại ngọc, ngược lại âm dưới là lạc đang Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lang là loại đá đẹp gần như ngọc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngọc đều là thanh lâm lương Văn Luận viết chữ lang tục tự thường hay dùng.

Khôi nghi ngược lại âm dưới khổ hồi Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Khôi là người đứng đầu, cao to, mạnh mẽ gọi là khôi sách Thuyết Văn viết từ bộ đẩu thanh. Ngược lại âm dưới ngưng cực sách cho rằng: Nghi là núi cao ngất ngưỡng, sách Thuyết Văn viết từ bộ Sơn thanh nghi.

Lữ lực âm trên là lữ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Lữ là xương sống. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh lữ Văn Luận viết từ bộ thủ viết thành chữ lữ tục tự thường hay dùng.

Vương di ngược lại âm dĩ chi sách Khảo Thanh cho rằng: Di là thường, chữ viết từ bộ mịch Văn Luận viết từ bộ phân viết thành chữ di tục tự dùng thông dụng.

Tư đồ dinh ngược lại âm quyên minh sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ dinh cùng với chữ dinh cũng đồng.

Đàm hước ngược lại âm hương chước sách Khảo Thanh cho rằng: Hước cũng là hý tức là làm trò vui đùa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thanh ngược.

Bằng hy ngược lại âm hân kỳ sách Khảo Thanh giải thích Hy là hòa hợp vui, cũng gọi là ngọn lửa cháy sáng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh âm di là âm.

Thường sơn vương sát ngược lại âm khang giác. Sách Khảo Thanh cho rằng: Sát là kiên cố. Luận Văn viết từ bộ vũ viết thành chữ sát là chẳng phải.

Từ viễn ngược lại âm tình do Quảng Nhã cho rằng: Tù là gần sát. Mao Thi Truyện cho rằng: Tận cùng, Khổng An quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tù là vị quan tuyên lệnh. Sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh tù âm từ đồng với âm trên.

Hiếu hạnh ngược lại âm hạnh canh. Sách Đại Đái Lễ giải thích: Ngọc bội treo trên mình. Có hai mãnh gọi là hành là ngọc bội đeo ngang thắc lưng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngọc thanh hành.

Hàm áo ngược lại âm vu lục sách Thuyết Văn cho rằng: Áo là ấm bên trong. Chữ viết từ bộ hỏa thanh áo.

Tuần tuần ngược lại âm tuất tuân. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tuần là tin tưởng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh tuần.

Lưu địch ngược lại âm thính đích. Sách Khảo Thanh cho rằng: Địch là xa tên người.

Ca khi ngược lại âm trên là giá âm dưới là tiết sách Thuyết Văn âm ngưu cây núi không có cây cỏ. Tự Lâm cho rằng: Núi tụ khi cây cỏ đều khô héo, âm nhai là âm ngu nay tục âm là tiết không biết căn cứ vào đâu là phải. Sách Thuyết Văn giải thích là tiết là sai.

Triệt phụng ngược lại âm trên sĩ liệt Mao Thi Truyện cho rằng: Triệt là tước lột. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là bỏ đi. Quảng Nhã cho rằng: Triệt là giảm bớt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ bộ triệt thanh tĩnh ngược lại âm dưới phong dụng.

Phù lăng ngược lại âm trên phụ mâu Hán Thư cho rằng: Phù là sông nước chảy xiết từ ngoài man đến Chấp Giang Đông vào Hán âm chấp là âm diệp theo chữ phù lăng. Nay là phù châu, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu.

Gia điệp ngược lại âm điềm diệp. Sách Khảo Thanh cho rằng: Giản lược. Văn Thư truyền ra Hán Thư cho rằng: Phác họa sơ đồ, theo chữ điệp là Tô Lâm giải thích: Điệp là thông báo phổ biến. Sách Thuyết Văn cũng giải thích, Văn Thư phổ biến. Chữ viết từ bộ phiến thanh diệp.

Phiệt duyệt ngược lại âm trên phiền bát sách Khảo Thanh cho rằng: Phiệt duyệt là biểu viết công trạng ở văn treo nơi cửa cổng. Sách Sử Ký giải thích: Công lao của quan, lại có năm bậc, nêu rõ thứ bậc v.v... gọi là phiệt, ghi năm tháng ngày lập công gọi là duyệt, Văn Tự Điển nói: Phiệt duyệt đó là tấm biển treo trước cổng, của bậc cao quý, hai chữ đều từ bộ môn đều thanh phạt duyệt.

Sảng khải ngược lại âm sương giản sách Khảo Thanh cho rằng: Sảng là bầu trời trong sạch sảng khoái. Đỗ dự chú giải Tả Truyện rằng: Sảng là sáng sủa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xuyết ngược lại âm ước lý hai âm ngược lại âm dưới khai cải. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khải là vùng đất cao ráo, sách Thuyết Văn cho rằng: Khải là cao khô ráo chữ viết từ bộ thổ thanh khải.

Tích dịch ngược lại âm trên tinh tích. Theo Thanh Loại cho rằng: Tích là guốc gỗ, sách Chu Lễ cho rằng: Người mang guốc gỗ, có loại guốc gỗ màu đỏ và màu đen. Trịnh Huyền chú giải rằng: Loại giày dép da dưới đáy bằng gỗ gọi là tích sách Thuyết Văn cho rằng: Tích là guốc gỗ, chữ tượng hình, cũng từ bộ cách viết thành chữ tích âm dưới văn phổ, đều đồng, âm dưới chinh ích sách Khảo Thanh cho rằng: Dịch là màn che. Sách Chu Lễ cho rằng: Màn kịch, nơi trú đóng quân dùng màn bao che. Trịnh Chúng giải thích rằng: Thí là tấm bình phong màn che. Trịnh Huyền giải thích: Màn che tòa trên che bụi. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân cũng là thanh cân. Giáp trữ ngược lại âm trên lam hạp Quảng Nhã cho rằng: Giáp là áo nhiều lớp, Văn Luận viết chữ giáp là chẳng phải. Theo Thanh Loại âm diệp là sai, giáp nghĩa xưa không dùng. Ngược lại âm dưới trừ lữ sách Chu Lễ giải thích rằng: Cây gai, vải gai, bao gai, làm ra chỉ dệt thành các vật. Trịnh Huyền chú giải rằng: Bó tơ mười lăm thăng, vải gai rút ra phân nửa. Lại màu sắc trắng mịn gọi là trữ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ thích từ bộ mịch thanh trữ âm trữ ngược lại âm trực lữ.

Đậu xí ngược lại âm xỉ chí sách Khảo Thanh cho rằng: Xí là lửa rực sáng. Chu Thái Truyện cho rằng: Tên của Đặng Quốc Công.

Đông giao ngược lại âm giao hòa sách Khảo Thanh cho rằng: Giao là tên của Đông Thái Thủy. Sách Lễ Ký cho rằng: Cổ phần người nuôi dưỡng Quốc Lão Đông Giao. Trịnh Huyền chú giải rằng: Đông giao cũng là tên của trường đại học. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh giao.

Hiến tiệp ngược lại âm tiềm diệp theo Mao Thi Truyện cho rằng: Tiệp là chiến thắng. Cốc Lương Truyện giải thích, tiệp là quân đắc thắng. Tả truyện cho rằng: Tề hầu đến hiến nhung tiệp. Đỗ Dự chú giải rằng: Tiệp khắc ghi, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiệp là săn bắt được, chữ viết từ bộ thủ thanh tiệp âm tiệp ngược lại âm tật tiếp.

Tế gia ngược lại âm ca ngã sách Khảo Thanh cho rằng: Gia là tốt đem lời nói hay. Tên của Chu Tân Châu thứ sử.

Tán quốc ngược lại âm trên tại hà. Hán Thư cho rằng: Tán bái quốc tên của một huyện. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ấp thanh tán cũng viết chữ thú âm thú ngược lại âm tài khổ.

Khiển khiển ngược lại âm cư triển Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Kiển là dáng uy nghi sách Khảo Thanh cho rằng: Khiển khiển là từ khó nói tránh từ nói ngọng. Xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng: Người phương Bắc thông ngữ, chữ viết từ bộ ngôn bộ khiển thanh tĩnh.

Dịch diệp ngược lại âm doanh ích sách Khảo Thanh cho rằng: Dịch là cao to lớn, sách Nhĩ Nhã cho rằng: To lớn dựa theo áo mão che trùm khắp cả công hầu làm cho gia tộc rạng rỡ, sáng chói, Văn Luận viết từ bộ cũng viết thành chữ dịch là sai chẳng phải.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 86

-Biện chánh Chánh Luận âm quyển hạ. Từ quyển thứ năm đến hết quyển thứ tám là bốn quyển đồng âm đây.

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 5 - PHẬT ĐẠO TIÊN HẬU THIÊN

Nạo dung âm trên nhiêu giáo Thế Bổn giải thích rằng: Nạo là tạo thành giáp tý bao lịch sách đều do tôi thần của Hoàng Đế. Văn Luận viết tùng dung nghi là sai, chưa rõ chỗ giải thích.

Mai côi âm trên là mai âm dưới công hồi Thiên Thương Hoét cho rằng: Hạt ngọc có vân màu hồng. Mao Thi Truyện cho rằng: Mai côi đó là tinh của đá rất đẹp giống ngọc hạt ngọc to rộng nhưng ngọc xấu, chữ hình thanh, chữ viết đều từ bộ ngọc Văn Luận viết chữ hồi là chẳng phải.

Hôn ngạnh ngược lại âm canh hạnh chữ thượng thanh. Sách Thuyết Văn ghi: Xương cá hoặc là viết chữ ngạnh là bộ cốt.

Hoét hàng ngược lại âm trên là hiền kiết ngược lại âm dưới hà lãng sách Khảo Thanh cho rằng: Hoét hàng là bay lên bay xuống. Mao Thi Truyện giải thích: Chim bay lên cao gọi là hiệt chim bay xuống gọi là hàng sách Thuyết Văn giải thích ý nói đối chọi nhau không phân trên dưới, chữ viết đều từ bộ hiệt âm hiệt ngược lại âm hiền kiết Lỗ Đầu cho rằng: Chẳng phải.

Biên niên ngược lại âm miệt miên Cố Dã Vương giải thích rằng: Biên là ghi việc theo niên đại trước sau thứ tự.

Hà noa ngược lại âm thóa hỏa Lương triều đại học sĩ.

Am kinh tịch ngược lại âm trên ám hàm sách Khảo Thanh cho rằng: Am là thuộc lòng văn tụng Quảng Nhã giải thích ghi nhớ đọc thuộc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh âm xưa nay Chánh Tự viết chữ hàm đều thông dụng.

Đế hệ phổ ngược lại âm âm dưới bộ phổ sách Sử Ký cho rằng: Các hệ phổ trong gia tộc được ghi chép lại Thích Danh giải thích: Phổ là công bố khắp cùng cho mọi người biết. Xưa nay Chánh Tự giải thích: Phổ hệ đó là công bố theo thứ tự ghi chép trước sau xem xét sự việc hệ thống gia tộc, chữ viết từ bộ ngôn thanh phổ chữ chuyển chú.

Mạn thiến âm trên là vạn âm dưới là thiến hiệu Hán Triều Đông Phương Sóc.

Cân cố ngược lại âm trên cân cận sách Khảo Thanh cho rằng: Cân cố là hà tiện, tằng tiện bủn xỉn tiếc. Theo Tả Truyện cho rằng: Cân cố là lo sợ hổ thẹn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cách thanh cân.

Hoàng bộ mật ngược lại âm dưới mân tất sách Nhĩ Nhã giải thích: Yên tịnh. Tên người.

Phúng hồ ngược lại âm trên vũ phúng sách Khảo Thanh cho rằng: phúng là lấy lời nói khinh khi mắng nhiếc chê bai người. Sách Thuyết Văn viết từ bộ quynh âm quynh ngược lại âm quý dinh dưới giống như là chữ võng lời văn lộn xộn âm vu là âm vu.

-Thích Lý sư tư thiên.

Mễ mục âm trên là mễ sách Vận Anh cho rằng: Trong mắt có bụi đất gọi là mễ mục.

Báng độc ngược lại âm trên bác bàng Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Chê bai xúc siểm nói xấu sau lưng. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hủy báng sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh báng ngược lại âm dưới đồng mục Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Độc là chê bai nói xấu, khinh khi Quảng Nhã cho rằng: Xấu ác Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn cho rằng: Vu oan cho người khiến cho người ta đau khổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh độc.

Vĩ diệp ngược lại âm trên vĩ quỹ sách Khảo Thanh cho rằng: Vĩ diệp là sáng cho chói rực rỡ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là ánh sáng tràn ngập. Chữ viết từ bộ hỏa thanh vĩ hoặc là viết từ bộ nhật viết thành chữ vĩ cũng thông dụng. Ngược lại âm dưới đạm triếp sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ diệp sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh diệp nay viết chữ diệp hoặc là viết chữ diệp chữ biến thể, cũng đều thông dụng.

Khoa đản ngược lại âm trên khoa qua Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lời nói khoác khoe khoang, sách Ích Pháp cho rằng: Dối trá không thật gọi là khoa sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh khoa âm khoa đồng với âm trên. Ngược lại âm dưới đàn làn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đản là khinh khi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh đản.

Phi cộng ngược lại âm cộng ngung sách Nhĩ Nhã cho rằng: Con dế. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cũng gọi là xúc chức cũng là con dế. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trùng thanh công Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ hạo viết thành chữ cộng là chữ cổ, cũng thông dụng. Cảo du ngược lại âm trên hồ lão sách Khảo Thanh cho rằng: Cảo là đất kinh nơi Chu Vũ Vương dựng đô. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cảo là đất kinh đô. Tây chu Vũ Vương nơi kinh đô Trường An, thuộc tây nam, chữ viết từ bộ kim thanh cao.

Vũ thố âm dưới thổ cố thố là đầu cùng với chữ thô cũng đồng chữ viết từ bộ thô tóm lại sau điểm giống như cái đuôi con thỏ.

Bao nữ ngược lại âm bảo mao sách Khảo Thanh cho rằng: Bao là khen tốt đẹp. Cũng là tên nước. Bao giống như chu u vương. Bao phi xem lửa cháy thì cười, cười nên bá mị yêu kiều. Khiến cho u vương vui lòng đẹp ý, bởi vậy mà thất bại mất nước Tây Nhung đến tiêu diệt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh bảo. Oa giác ngược lại âm trên quả hoa sách Thuyết Văn cho rằng: Oa tức là ốc sên.

Thỉ tức ngược lại âm thời nhĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng lưỡi liếm thức ăn, chữ viết từ bộ thiệt thanh dị cũng viết chữ thỉ đều là chữ cổ.

-------------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 6 - THẬP DỤ THIÊN

Quản khuy âm dưới khuyển quy sách Khảo Thanh cho rằng: Khuy là nhìn trộm, dùng ống tre để nhìn thiên văn. Xưa gọi là quản khuy tức ống nhòm. Sách Phương Ngôn cho rằng: Khuy là nhìn, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh quy âm thú ngược lại âm thật dự.

Tước hỏa ngược lại âm trên tượng tước Tư Thư cho rằng: Tước hỏa là cây đuốc nhỏ. Sách Thuyết Văn giải thích đốt đuốc trừ tà, chữ viết từ bộ hỏa thanh tước tước viết đúng là chữ tước âm phất ngược lại âm bổ vật gọi là quét trừ bỏ những điều không tốt gọi là phất.

Dư khái ngược lại âm dưới khai ái sách Khảo Thanh cho rằng: Khái buồn bã than thở khản khái là chí kích động lên. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Khái là than thở, sách Thuyết Văn cho rằng: Quá tức tối vì chí không toại nguyện, chữ viết từ bộ tâm thanh khái âm khang ngược lại âm khang lãng.

Cửu châm ngược lại âm chấp nhậm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Châm là răn, can ngăn theo Thanh Loại cho rằng: Châm chích, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Châm là dạy bảo. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Dạy bảo cho hiểu, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh hàm âm thứ là âm thứ chữ cổ viết đúng chữ thứ.

Tả dịch âm diệc lại cũng âm chi diệc từ vai xuống trên khuỷu tay tức là nách. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh dạ âm trữu ngược lại âm tri liễu.

Hữu hiếp ngược lại âm khâm kiếp sách Khảo Thanh cho rằng: Hiếp là xương sườn, sách Thanh văn ghi: Hiếp là hai bên xương sườn, chữ viết từ bộ nhục thanh hiếp âm hiếp là âm diệp Văn Luận viết từ ba bộ đao là chẳng phải, chữ viết đúng là ba bộ lực hoặc là viết chữ hiếp cũng thông dụng.

Tả nhậm ngược lại âm nhậm chẩm. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nhậm đó gọi là vạt áo trước. Trịnh Huyền chú giải Lễ Ký rằng: Nhậm là cái xiêm bức vải quấn ngược lại phía sau, cũng gọi là cái yếm. Sách Thuyết Văn giải thích Nhậm là xiêm áo, chữ viết từ bộ y thanh nhậm người dân tộc quấn bên trái.

Cao dao âm trên là cao âm dưới là điêu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cao dao là tên của vị quan coi hình luật thời vua Thuấn ở Trung Quốc. Sách Thuyết Văn ghi cảnh cao từ bộ bạch thanh diêu âm diêu ngược lại âm chiểu sách Thượng Thư viết cửu chữ cổ chữ dao cũng viết chữ đào âm đào người xưa mượn dùng, chữ viết từ bộ tự là chẳng phải.

Khai dụ ngược lại âm dưới do tửu sách Khảo Thanh cho rằng: Dụ là lời nói khéo léo dẫn dắt, cũng là dạy bảo chỉ đường. Sách Luận Ngữ nói phu tử. Từ từ khéo léo khuyên bảo dẫn dắt người. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Khuyên bảo nhau gọi là dụ chữ viết từ bộ ngôn thanh tư âm thuật là âm thuật.

Nam vương ngược lại âm ninh giãn ích hiệu của chu mạt vương. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nạn là hổ thẹn đỏ mặt. Sách Phương Ngôn cho rằng: Xấu hổ, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Xấu hổ đỏ mặt gọi là nản sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xích thanh niển âm niển là âm triển chữ viết từ bộ bì là chẳng phải.

Vân tụy ngược lại âm dưới là tình túy sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Đồng Tề gọi tuy là tụ tập, rậm rạp, um tùm. Mao Thi Truyện cho rằng: Tập trung đông đúc, chữ viết bộ thảo thanh tụy Văn Luận viết chữ tuy là chẳng phải.

Chùy hung ngược lại âm tụy truy Tự Thư cho rằng: Chùy gọi là đánh vào vật. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh chuy Văn Luận viết chữ truy là chẳng phải. Ngược lại âm dưới húc cung sách Khảo Thanh cho rằng: Hung là ngực, bằng đồng đều, sách Thuyết Văn viết từ bộ bao thanh hung.

Tần dật ngược lại âm một dần kiết sách Khảo Thanh cho rằng: Dật là tốt đẹp tên của vị ẩn sĩ.

Nhãn lai ngược lại âm lai đại lai đó con ngươi trong mắt không chánh. Quảng Nhã cho rằng: Nhìn nghiêng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mục thanh lai.

Thùy đóa ngược lại âm đô quả Tự Thư cho rằng: Tai rũ xuống.

Hoặc là viết chữ đóa đều thông dụng, chữ viết từ bộ thổ thoay.

Bát thập chủng trinh âm dưới là trinh sách Khảo Thanh cho rằng: trinh là điều tốt lành. Tức là đức Như

Lai có tám món tốt đẹp. Thiên Thương Hoét ghi: Trinh là khéo léo tốt đẹp khánh hỷ điều vui. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thị trinh.

Bác đạo ngược lại âm trên bang mạc Trang Tử giải thích: Lưng con ngựa không điều hòa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa vằn lông màu sắc không thuần, gọi là bác chữ viết từ bộ mã thanh bác âm xuân ngược lại âm xuân duẩn.

Cân hạt ngược lại âm hàn át hạt là áo vải thô. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hạt là áo lông, vải gai. Người Nam sở gọi vạt áo ngắn là hạt sách Thuyết Văn cho rằng: Áo Thô chữ viết từ bộ thanh hạt chữ thô văn cổ viết chữ thổ từ ba bộ lộc.

Tê thủ âm trên là tây sách Khảo Thanh cho rằng: Tê là tên của con thú. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ly ngưu giống như con heo, Quách Phác chú giải rằng: Tê hình nó giống như trâu nước, đầu giống như con heo, to lớn bụng thấp chân có ba móng, màu đen, hai sừng, một sừng dùng để săn mồi sừng ở mũi để ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con Tê Ngưu, xuất phát từ Nam Hải ngoài biên giới, chữ viết từ bộ ngưu đến bộ vĩ thanh tĩnh Văn Luận viết từ bộ viết thành chữ tê là chẳng phải. Nay không dùng.

Quá thủy ngược lại âm biên ngoa sách Nhĩ Nhã cho rằng: Quá là tên của sông, sách Hán Thư cho rằng: Quá là sông xuất phát từ Hoài Dương, phù cấu. Huyện lạc cấu phía đông chảy vào sông Hoài. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ thủy thanh quá.

- Đường Trùng Tử.

- Lưu Quyến Tử.

Tháo hàn ngược lại âm trên thảo đao sách Văn Tự Điển nói rằng: Thao là nắm giữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ bao gồm, chữ viết từ bộ thủ âm thao ngược lại tảng đáo ngược lại âm dưới hàn cán sách Thuyết Văn cho rằng: Hàn là lông nhỏ có thể làm bút viết. Cho nên gọi văn bút là. Trát hàn chữ viết từ bộ mao thanh cán Văn Luận viết từ bộ vũ viết thành chữ hàn tục dùng thông dụng, nhưng vốn không phải chữ.

Hình tồ ngược lại âm tạng lô Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tồ là chết, qua đời. Sách Thuyết Văn cho rằng: Tồ là người đã qua đời khác, chữ viết từ bộ ngạt thanh thư hoặc là viết chữ tồ âm ngạc là âm tàn.

Huyền vưu âm dưới là vưu sách Khảo Thanh cho rằng: Vưu là bệnh cũng là trên da phong kết lại. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh vưu âm tật ngược lại âm nữ ách văn cổ viết chữ vưu đều đồng nghĩa.

Yên uẩn âm trên là nhân âm dưới là uất vân sách Bát-nhã giải thích: Khí của trời đất Văn Luận viết chữ uân sách Khảo Thanh cho rằng: Mây khói đều thông dụng nghĩa.

Phẩu lâu ngược lại âm trên bạc hậu ngược lại âm dưới lâu phẩu sách Phương Ngôn cho rằng: Phẩu lâu là đống đất, gò đất cao. Hoặc là viết từ bộ sơn viết thành chữ phẩu lâu tức là núi nhỏ. Ở nghĩa phong, xưa nay Chánh Tự viết hai chữ đều từ bộ thổ thanh phẩu lâu.

Minh bột âm trên là minh âm dưới là bột tên của biển Huyền Minh phía bắc. Tên biển bột giải phía đông biển lớn, sâu đến không có đáy, cùng với sông Đế miệng giếng, so sánh thì sông này cũng có chỗ cạn, sâu.

Thiểu ải ngược lại âm trên tiều tiểu sách Khảo Thanh cho rằng: Vùng đất nhỏ hẹp trũng và ẩm ướt, âm dưới ách giới sách Khảo Thanh cho rằng: Ải chật hẹp thấu suốt, xuyên qua.

Sử sách ngược lại âm sổ cách sách Thái Ấp Độc Đoán giải thích: Sách là quyển sổ nhỏ. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Quyển sổ gọi ghi chép, vương mệnh, bài văn do các quan ngày xưa làm để ca tụng công đức cùng phô trương tài năng vua dâng lệnh khi vua thu lệnh, dùng Chấn Quốc sách chữ tượng hình, văn cổ viết là ba trường hai đoản, trong có hai biên giềng Văn Luận viết chữ sách tục từ thường hay dùng.

Quảng hiệp ngược lại âm hàm giáp sách Khảo Thanh cho rằng: Hiệp là vùng đất nơi vùng quan ải chật hẹp, chữ viết từ bộ phụ thanh hiệp Văn Luận viết từ bộ khuyển viết thành chữ hiệp là chẳng phải.

Sử đảm ngược lại âm đáp nam sách Khảo Thanh cho rằng: Đảm là trợ giúp. Tên sử quan sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh đảm.

Chung quỷ âm dưới là quỳ tên của vị thần hay bát quỷ, nên người ta thường treo tượng để trừ tà.

Đại xuân ngược lại âm tuất luân sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của cây xuân, sách Trang Tử cho rằng: Cây thần xuân tám trăm năm là một mùa xuân. Tám trăm năm là một mùa thu, mượn lấy làm thí dụ hưng thạnh.

Phù du ngược lại âm trên phụ vô âm dưới dậu chu sách Bạt Thanh cho rằng: Phù du con kiến bay. Mao Thi

Truyện cho rằng: Phù du là sớm sinh chiều chết. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ hình thanh, đều từ bộ trùng đều thanh phù du.

Quy hạt ngược lại âm trên quỹ quy sách Văn Tự Điển nói rằng: Loại giáp trùng ba trăm sáu mươi quy là trường xương bên ngoài thịt bên trong. Con nguyên quy là một thước hai tấc, sống thọ đến ngàn năm chữ tượng hình. Âm dưới hà các Tự Thư cho rằng: Tên của Tiên Điểu một khi đã cất cánh bay là ngàn dặm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh hạt âm hạt đồng với âm trên. Chu đĩnh đó thọ đến vạn năm. Loại chim rất linh thiêng. Tiên nhân cỡi chim hạt này. Chữ hình thanh.

Ngôn điếm âm điếm Mao Thi Truyện cho rằng: Tì vết trên ngọc khuê trắng còn có thể mài được. Sai lầm của lời nói ấy không thể sửa chữa được. Văn Tự Điển nói điếm là khuyết, nói có lỗi lầm, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh điếm.

Miểu mạc ngược lại âm trên di tiểu miểu là nhìn xa, mắt bé nhỏ (861) chột mắt, âm dưới mang bát âm mang ngược lại âm ma bang.

Nghê anh ngược lại âm trên nghệ kê âm dưới ích doanh ban đầu mới sinh ra gọi là tiểu nhi con trai gọi là nghê con gái gọi là anh.

Đằng án ngược lại âm trên đặt nặng trong núi có rồng nhỏ đằng là giống như con rắn, âm dưới là án chim cú nhỏ làm hang dưới đất làm tổ, tức là chim cút.

Bằng dực âm trên là bằng chim to lớn. Cánh của nó che cả bầu trời, hơn chín vạn dặm, nói là to lớn.

Nô đài âm trên là nô âm dưới là đường lai sách Khảo

Thanh cho rằng: Nô Dài là con ngựa ngu si đần độn, gọi là con ngựa một ngày đi hơn mười dặm.

Kỳ ký âm trên là kỳ âm dưới là ký tên con tuấn mã, ngày đi hơn ngàn dặm.

Phản ác ngược lại âm anh giác nắm trong tay. Trong ngoài Đức Như Lai đều nắm trong tay. Nói cách khác là Như Lai đều biết rõ.

Cam tiệp ngược lại âm tiêm diệp tiệp lông mi. mí mắt.

Thiên phúc âm phúc là trên thân của Đức Như Lai có sáu chỗ có ngàn bánh xe Văn Luận viết chữ phàm sách viết sai, chẳng phải.

Mong kỳ âm kỳ tướng diện của Khổng Phu Tử. Hoặc là viết chữ kỳ âm kỳ.

Đoạn tử âm tư ngược lại âm tử sư theo Tào Thực Tương Nhân Luận cho rằng: Theo Tào Thực Tướng Nhân Luận giải thích rằng: Hình tướng của Chu Công như đoạn tư Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tư đó là hình tướng của Phúc Nhân Cốc cũng chưa rõ.

Tông miệt âm trên là tông ngược lại âm dưới miên miết.

Mạnh thú ngược lại âm tinh du sách Khảo Thanh cho rằng: Thú là người con gái đẹp. Thế Bổn cho rằng: Thú là thứ phi của vua Học. Sinh ra vua Chất. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thú là cưới người con gái đẹp. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nữ thanh thú.

Cạnh nghiên ngược lại âm nghiên kiên Quảng Nhã cho rằng: Nghiên là đẹp đẽ, xinh đẹp. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nghiên là đẹp. Chữ viết từ bộ khiên cân khiên là âm khiên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ chánh thể là chữ nghiên đều từ hai bộ can Văn Luận viết chữ nghiên tục tự thường hay dùng.

Hoành mạn ngược lại âm mãn bàn đây tức là đạo Ba-la-môn dùng vải lụa trơn. Nước này làm cái quần để che thân hình xấu xí.

Cẩu cư ngược lại âm cư ngự cư là ngồi xổm, chữ hình thanh.

Hồn tồn trên là hồ yêu thú âm dưới là tồn đứng đầu gối quỳ ngồi xổm.

Tiều dã ngược lại âm tề diêu người tiều phu đi hái củi, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh tiều văn luận viết chữ tiều là chẳng phải.

Huệ đới Ngọc Thiên cho rằng: Huệ là cơ thơm sách Sở Từ cho rằng: Bao áo ngoài của hoa sen gọi là huệ đối đạo gọi là người ẩn dật, mặc áo cỏ y phục của người tiên nhân.

Hạt quan ngược lại âm trên là hàn hạt sách Khảo Thanh cho rằng: Tên chim hạt. Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Hạt là tên của một con chim.

Tô kỳ vô sĩ cắm lông đuôi chim trên mũ nón. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hạt giống như chim trĩ. Xuất phát từ núi Yên Nính loại chim này mạnh mẽ. Thích chiến đấu đến chết mới thôi, nói là dõng mãnh.

Hạp xĩ ngược lại âm trên khảm hạp sách Giai Uyển Chu tòng cho rằng: Hạp đá va chạm với nhau phát ra tiếng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh hạp âm hạp là âm hợp hoặc viết chữ hạp.

Hư khí ngược lại âm trên hứa cư sách Khảo Thanh giải thích: Hư là mở miệng hơi ra. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hư là thối hơi, hà hơi, chữ viết từ bộ khẩu thanh hư.

Tử thánh ngược lại âm trên tư thử sách Lễ Ký ghi rằng: Lấy lời nói hay nhục người. Lại cũng viết chữ tử cũng đồng, chữ viết từ bộ ngôn thanh thử.

Mông tẩu âm trên là mong âm dưới là tảng cẩu chữ chánh thể. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Con mắt không có con ngươi, chữ hình thanh.

Phất linh ngược lại âm dưới lịch đinh Thiên Thương Hoét Quảng Nhã đều giải thích rằng: Linh là nghe kinh Thái Huyền giải thích rằng: Linh là lấy ống trúc để làm cái linh khi gió thổi sẽ phát ra tiếng leng keng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ thanh linh.

Chi suyển dã ngược lại âm sách Khảo Thanh sách Khảo Thanh cho rằng: Suyển là chống trái với nhau. Cố Dã Vương cho rằng: Suyển là sai sót không đều nhau sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tịch đến bộ suyển là chống trái với nhau Văn Luận viết từ bộ phản viết thành chữ suyển có khi cũng dùng.

Nhuyễn phu ngược lại âm trên nải loạn sách Khảo Thanh cho rằng: Nhuyễn là khiếp nhược, lo sợ yếu mềm. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh nhuyễn âm nhuyễn ngược lại âm như luyến cũng viết chữ nhuyễn.

Hà khôi ngược lại âm giải hà Quách Phác chẳng sách Nhĩ Nhã rằng: Hà là cỏ lau. Mao Thi Truyện cho rằng: Hà cũng là cả mây, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh hà.

Bưu tiều ngược lại âm trên bút hưu bưu là vằn của con cọp, sách Chu Dịch Văn Ngôn cho rằng: Phong vẽ của con cọp. Sách Thuyết Văn cho rằng: Bưu là vằn của con cọp, chữ viết từ bộ hổ đến bộ sam giống như vằn con cọp, âm sam là âm sam âm dưới tiêu tiều.

Huân hồ âm trên là huấn sách Khảo Thanh cho rằng: Tên huấn hồ sách Thuyết Văn ghi: Viết chữ huân là khói lửa bốc lên, âm huân là húc đến bộ triệt đến bộ hắc Văn Luận viết từ bộ khuyển viết thành chữ huân tục tự thường hay dùng.

Khi quyết ngược lại âm cơ khi âm dưới cư nguyện sách Thuyết Văn cho rằng: Khi là mũi đao vốn cong lại. Khắc vào rĩ nước ra, hai chữ đều từ bộ đao đều thanh ký quyết.

Tiễn ốc ngược lại âm trên tiên điển sách Khảo Thanh cho rằng: Tiễn là kim loại sáng láng đẹp. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kim loại tuyệt đẹp, sáng lấp lánh gọi là tiễn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ kim thanh tiên âm dưới ô độc Khảo Thanh Mao Thi Truyện cho rằng: Ốc là bạch kim. Xưa nay Chánh cho rằng: Chữ viết từ bộ kim thanh ốc.

Tường quân ngược lại âm dưới cốt môn sách Nhĩ Nhã giải thích: Quân là con gà cao ba thước gọi là quân Vương Dật chú giải Sở Từ rằng: Quân là hình trạng như con chim hạt mà lớn hơn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ điểu thanh quân Văn Luận viết từ bộ côn viết thành chữ côn đều đồng nghĩa.

Kỳ phụng âm trên xí sách Khảo Thanh cho rằng: Kỳ là chân đi vùn vụt như bay Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Kỳ gọi là gót chân đi không chấm đất. Cố Dã Vương cho rằng: Nhón chân lên nhìn, giống như người nhón chân lên nhìn mong ngóng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh kỳ âm dưới là phong mộng sách Thiên Lão ghi: Phụng là chim thần. Khảo Thanh giải thích: Là chim đem điều may mắn tốt lành đến. Xuất phát nơi hướng đông trong nước có người quân tử. Bay là đà thì bốn biển khắp thiên hạ thái bình an lạc.

Lan trứu âm dưới trâu cứu là co rút nhỏ lại. Sách Chu Dịch Tĩnh Quái giải thích: Xây giếng không để lâu dài. Sách Thuyết Văn ghi: Trứu là giếng nhỏ chữ viết từ bộ ngão thanh thu âm bích ngược lại âm bình mịch gạch ngói nhựa nung.

Côn lang ngược lại âm trên cốt hồn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Núi côn có xuất ra ngọc. Kinh Sơn Hải giải thích: Khung thành chỉ có vua quan. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khâu là phần mộ có ba thành bậc là côn Quách Phác chú giải rằng: Ba thành ba lớp. Xưa nay Chánh giải thích: Côn là núi Côn núi ngọc, chữ viết từ bộ sơn thanh côn âm dưới lang đãng sách Khảo Thanh giải thích: Lãng là trên núi phong lãng. Quảng Nhã giải thích: Côn lôn có ba núi, Lãng, Phong, Phản. Đều có vườn trồng hoa quả. Sách Thuyết Văn giải thích chữ viết từ bộ môn thanh lương.

Kỳ cứ âm trên là ky âm dưới là cứ.

Khôn đầu âm trên khổn hồn sách Khảo Thanh cho rằng: Khôn là tên hình phạt, cạo bỏ tóc của người tội. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Khôn là cao đầu mà thôi, sách Thuyết Văn giải thích chữ viết từ bộ tiêu thanh ngọt âm tiêu là âm phiêu văn Luận viết từ bộ trường viết thành chữ khôn tục tự dùng thông dụng viết lược.

Biển bức âm trên là bế miên âm dưới phong mục sách Nhĩ Nhã cho rằng: Biển bức là con dơi. Sách Phương Ngôn giải thích: Từ quan ải mà đến cửa đồn gọi là dơi là phục dực Quan Tây Tần Lung gọi con dơi là biển bức. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Biển bức hai chữ đều tự bộ trùng đều thanh biển bức chữ hình thanh âm biên là âm biên âm bức ngược lại âm phôi bức.

Cơ nhậm âm dưới nhập xam sách Khảo Thanh cho rằng: Nhận là dệt sợi chỉ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dệt đường tuyết ngang dọc thành tấm lụa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh nhậm âm tằng ngược lại âm tật dăng âm dưới nghĩa là người phụ nữ dệt lụa âm đều đồng.

Ly chu âm trên lật chi Trang Tử giải thích: Châu ngọc đáng giá ngàn vàng, tức là ở sâu đến chín từng thăm thẳm hang ổ của rồng đen. Trong miệng rồng ngậm châu ngọc, đó quý giá dưới hang đó khi gặp rồng ngủ, hoặc là được ngọc đó phải khiến cho hiểu được nó mới nhã ngọc ra, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ mã thanh lê âm hàm ngược lại âm hàm cam.

Nhu viên âm trên nô đao âm dưới việt nguyên sách Thượng Hoằng Minh Tập âm là giải thích là huấn ngật, tức là con vượn.

Thần cáp âm trên thận âm dưới cam táp văn trước đã giải thích xong rồi.

Tức ổi ngược lại âm dưới sáu hồi Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Ôi là lửa cháy hết. Hiếu Kinh Tựa giải thích: Ổi là ngọn lửa tàn lụi hết. Quảng Nhã cho rằng: Ổi là ấm áp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh ôi âm tẫn ngược lại âm âm tất dẫn âm vẫn ngược lại âm ủy vận.

Kiêu cảnh ngược lại âm trên kiếu nhiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Kiêu là giống chim xấu ác. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Kiêu cũng là giống chim xấu ác. Sách Thuyết Văn giải thích: Giống chim bất hiếu mùa hè đến bắt chim mẹ xé ra để ăn thịt, âm trách ngược lại âm trắc cách chữ viết từ bộ điểu đến bộ mộc chữ hình thanh, âm dưới là kính sách Sử Ký cho rằng: Tên của loại thú phá vỡ gương tốt. Sách Khảo Thanh giải thích: Loại thú ăn thịt cha mẹ của chúng.

Hùng hủy ngược lại âm dưới huy vĩ Mao Thi Truyện cho rằng: Vô vi hủy dịch sách Nhĩ Nhã giải thích: Loại rắn hổ thân dài ba tấc đều to lớn bằng cánh tay. Cố Dã Vương giải thích: Hủy là rắn hổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh ngột cũng viết chữ hủy âm cũng đồng.

Doanh chánh ngược lại âm trên diệc chinh sách Khảo Thanh giải thích: Họ doanh thiện nhà Tần Thiếu Hạo. Hậu duệ sách Sử Ký giải thích: Tần Thủy Hoàng họ Doanh tên Chánh sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ đến bộ luy thanh tĩnh.

Đạo ưu lung âm giữa ức hưu Hán Thư cho rằng: Y hưu á từ chưa định, Thiên Thương Hoét cho rằng: Ưu là càu nhàu la lối. Lão tử giải thích: Suốt ngày la hét mà không ngừng nghỉ. Cố Dã Vương cho rằng: Nơi đi ngược tức là ho. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh ưu âm y là âm y âm ách là âm ách ngược lại âm dưới lộc đông sách Lễ Ký cho rằng: Câm, điếc, khiển chân. Thiên Thương Hoét Thuyết Văn đều giải thích tai không thể nghe được, chữ viết từ bộ nhĩ thanh long âm ám là âm ám âm bả ngược lại âm ba phả.

Phụ kíp ngược lại âm dưới là kỳ triếp sách Khảo Thanh cho rằng: Kíp là cái hòm chứa sách, tráp sách. Sách Hán Thư cho rằng: Phụ kíp là nắp trên theo thầy tức là đi học. Bì thương cho rằng: Kíp đan tráp bằng tre, làm cái rương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh cận âm khiếp ngược lại âm liêm diệp.

Đảm đăng ngược lại âm dưới đắc năng sách Khảo Thanh cho rằng: Bện trúc làm nấp che đậy. Sách Quốc Ngữ giải thích: Đăng là bện trúc làm cái dù nối liền với tay cầm. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Đăng là cây dù che mưa. Sách Sử Ký âm nghĩa giải thích rằng: Cái nón có tay cầm gọi là đăng sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh đăng.

Nan cấu âm dưới câu hầu Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cấu là nhìn thấy. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cấu thành kết cấu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kiến thanh cấu hoặc là viết chữ âm cũng đồng.

Bằng ly ngược lại âm dưới sĩ ly sách Sở Từ cho rằng: Rồng làm mưa Vương Dật chú giải rằng: Li giống như rồng mà không có sừng cũng gọi là xà lũ Quảng Nhã sách Thuyết Văn đều cho rằng: Đồng nghĩa trên, chữ viết từ bộ trùng thanh ly âm lâu là âm lâu.

Cương quái ngược lại âm dưới hoa quải Cố Dã Vương cho rằng: Quải là trở ngại. Sách Hoài Nam Tử cho rằng: Chim bay lên vướng lưới bất động, không cựa quậy được. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh khuê.

Châu trở âm trên là châu hựu âm dưới là trắc cứ Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: Việc lớn cần phải thề thốt gọi là minh việc nhỏ thề thốt gọi là trở sách Thuyết Văn cho rằng: Châu trở là thề thốt. Châu trở hai chữ đều từ bộ ngôn đều thanh châu trở Văn Luận viết từ bộ khẩu viết thành chú trở tục tự dùng thông dụng.

Huân do ngược lại âm trên châu vân sách Ngọc Thiên cho rằng: Huân là cỏ thơm âm dưới là do đều là chữ chánh thể. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Do là cỏ mùi, cỏ cọng nhỏ mọc nơi bên nước. Tả Truyện cho rằng: Một cọng cỏ huân, cọng cỏ do mười năm mới giống như có mùi, sách Thuyết Văn (862) cho rằng: Huân do hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh huân do Văn Luận viết chữ huân là chẳng phải.

Đố mộc ngược lại âm trên dô lộ sách Chu Lễ cho rằng: Cầm nắm cây kéo cắt bỏ vật đã bị mọt đục khoét. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đố là con sâu mọt ăn cây gỗ, chữ viết từ bộ côn bộ thác thanh tĩnh âm tiển là âm tiển âm thác là âm thác cũng viết từ bộ mộc viết thành chữ đố chữ cổ âm nghĩa đều đồng.

Tiếu kinh ngược lại âm trên tiều tiêu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tiều con sâu ăn cây đào. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tiều tiêu là con sâu mọt ăn cây đào, chữ viết từ bộ điểu thanh tiều âm dưới là minh sách Trang Tử cho rằng: Tiếu minh là con vật, con sâu bé nhỏ làm tổ, che kín lại gọi là vật nhỏ nhít. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Minh viết từ bộ trùng thanh minh âm tiếu là âm miểu âm hiệp là âm tiếp âm man là âm mạn.

Hề thử ngược lại âm trên hiền kê Xuân Thu giải thích rằng: Hề thử là ở quanh vùng đất giao ngưu. Cố Dã Vương giải thích rằng: Hể Thử ăn thây người chết và chim thú đến cũng không biết đau đớn. Sách Thuyết Văn giải thích: Hễ thử là con chuột nhỏ, chữ viết từ bộ thử thanh hề.

Tấn thân ngược lại âm trên tân tín Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký sách Khảo Thanh rằng: Tấn thân giống như cắm vào. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tấn gọi là cắm cái hốt vào đai áo, chỉ các quan lại. Giống như cắm cây kiếm vào đai thắt lưng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tấn âm sáp ngược lại âm sơ hạp âm hốt là âm hốt âm dưới thất chân sách Khảo Thanh cho rằng: Thân là dây đai lớn Quảng Nhã giải thích: Thân giống như dây đai bó buộc lại, sách Luận Ngữ giải thích: Thân là thắt lưng to bản, đai lưng các sách đều có giải thân là đai lưng chỉ các quan lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ mịch thanh thân.

Tế đảm ngược lại âm trên tất duệ Bao Quát chú giải sách Luận Ngữ rằng: Tế giống như là đương nhiên như vậy. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tế là chướng ngăn che. Quảng Nhã giải thích rằng: Ẩn trốn sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tế âm tế là âm tế âm dưới là xương đảm sanh Nhĩ Nhã cho rằng: Đảm là vạt áo che phía trước, gọi đảm nay gọi là vạt áo che đầu gối. Cố Dã Vương cho rằng: Vạt áo che phía trước sau rũ xuống.

Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh đảm âm du là âm du Văn Luận viết chữ tể là chẳng phải.

Hào loạn ngược lại âm trên hiệu giao sách Khảo Thanh cho rằng: Hào là tạp loạn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Trộn lẫn lộn với nhau, chữ viết từ bộ thù thanh hào văn luận viết từ bộ thủy viết thành chữ hào là tên sông.

Hoặc tiệm ngược lại âm trên hoằng quốc theo Văn Luận giải thích tiệm là nghi ngờ là thành chữ nhược không theo bộ tâm thì sai. Nay sửa đổi lại. Theo bộ tâm viết chữ hoặc ngược lại âm dưới thất diểm Tự Thư cùng Quảng Nhã cho rằng: Tiệm là hầm dài. Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là hào ao bao quanh thành gọi là tiệm sách Thanh văn cho rằng: Tiệm là cái hầm, chữ viết từ bộ thổ thanh tiệm Văn Luận viết từ bộ trảm viết thành chữ tiệm chữ này chẳng phải.

Kinh nghê ngược lại âm trên cạnh kinh ngược lại âm nghệ kê Hứa Thúc Trọng giải thích rằng: Kình là loại cá vua. Cố Dã Vương cho rằng: Nghê đó là ăn cá con. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Kình nghê là con cá lớn. Sách Hoài Nam Tử cho rằng: Kình là con cá chết mà có tuệ tinh. Sách Văn giải thích: Cũng là con cá lớn. Kinh hai chữ đều từ bộ ngư đều là thanh kinh nghê âm đồng với âm trên.

Tuyền ky ngược lại âm trên từ duyên ngược lại âm dưới phàm hy sách Thượng Thư cho rằng: Là viên ngọc không tròn, lấy từ nơi Từ Thất Công. Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Tuyền là viên ngọc đẹp sáng óng ánh. Sách Thuyết Văn cho rằng: Ky cũng là viên ngọc không tròn. Tuyền hy hai chữ đều từ bộ ngọc đều thanh tuyền hy Văn Luận viết từ bộ túc viết thành chữ tuyền tục tự thường hay dùng. Cũng viết từ bộ dung viết thành chữ tuyền là chẳng phải.

Sàn nhiên ngược lại âm sạn nhàn vi thiệu chú giải sách Sử Ký rằng: Sàn là lòng cẩn thận, thận trọng sách Thuyết Văn giải thích: Cũng cẩn thận đàng hoàng, chữ viết từ bộ thi thanh sàn hoặc từ ba bộ tử viết thành chữ sàn âm cùng đồng với âm trên.

Lâm nghê ngược lại âm dưới chữ kê sách Mục Thiên Tử Truyện giải thích rằng: Toan nghê tức là sư tử. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khuyển thanh nghê hoặc là viết từ bộ lộc viết thành chữ nghê hoặc là viết chữ nghê âm cũng đồng.

Giả phục ngược lại âm giá dã sách Khảo Thanh cho rằng: Giả là mùa đỏ. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Y màu đỏ văn trước đã giải thích rồi.

Kinh nghị ngược lại âm trên cạnh nghinh sách Chu Lễ giải thích rằng: kinh là hình phạt bộ mực đen. Như nay ở Ân Độ bôi mặt đen. Sách Sử Ký giải thích: Kinh phía sau vua che mặt nạ đen đó là hình phạt trên mặt. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh kinh cũng viết từ bộ đao viết thành chữ kinh Văn Luận viết từ bộ kinh viết thành chữ kinh tục tự dùng thông dụng. Ngược lại âm dưới nghi khí sách Khảo Thanh cho rằng: Nghị là cắt xẻo mũi. Sách Thuyết Văn viết chữ nghị xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao đến bộ nghị âm nguyệt là âm ngột.

Thủ giới ngược lại âm trên trừu cửu ngược lại âm dưới hài giới sách Thuyết Văn giải thích: Thủ giới gông cùm xiềng xích. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng:

Bản gỗ còng tay gọi là chất còng ở chân gọi là cốc xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh thủ cũng viết chữ nữu giới chất cốc. Tên gọi chung gông cùm xiềng xích, chữ viết từ bộ mộc thanh giới.

Thôi điệt ngược lại âm trên thương hồi âm dưới điền kiết thôi điệt là tang phục. Văn Tự Điển nói: Điệt là trên đầu chít khăn tang. Thôi điệt hai chữ đều từ bộ mịch đều thanh thôi chí.

Hôn tráng ngược lại âm trên hôn muộn sách Khảo Thanh cho rằng: hôn là già mà đa chí. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hôn là loạn lầm lẫn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh hôn Văn Luận hoặc là viết chữ hôn là sai lầm. Ngược lại âm dưới trác giáng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tráng là tính nóng nảy tinh thần không thoải mái. Sách Thuyết Văn cho rằng: Tráng là ngu si. Chữ viết từ bộ tâm thanh tráng âm tráng Trụ Văn viết chữ trách âm sảng ngược lại âm sương giảng.

Lung mậu ngược lại âm dưới mạc hậu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Mậu là gắng sức, cũng gọi là tự cố gắng, vươn lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh mậu âm mậu đồng với thanh trên.

Tư khiển âm trên là từ sách Nhĩ Nhã giải thích rằng: Tư là bệnh sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh thử ngược lại âm dưới khiên chiến. Quảng Nhã giải thích rằng: Khiển trách, Thiên Thương Hoét giải thích: Quở trách mắng nhiếc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh khiển.

Mi vu ngược lại âm trên mỹ bi âm dưới là vô ngọc thiên giải thích rằng: Mi vô là loại cỏ thơm. Bản Thảo giải thích: Mi vu hoa cung cúc, lá nhỏ có mùi thơm thoang thoảng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mi vu hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh mi vô.

Yểm nhân ngược lại âm trên yểm diêm Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: Yểm nhân là nay gọi là huỳnh môn. Sách Thuyết Văn giải rằng: Là người trong cung chiều tối đóng cửa, giữ cửa, tức là quan thái giám, chữ viết từ bộ môn thanh yểm âm hôn là âm hôn.

Phẩu tích ngược lại âm trên phổ cấu sách Thuyết Văn giải thích: Phẩu là cắt ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu ngược lại âm dưới tinh kích sách Thuyết Văn ghi: Tích là chặt đốn cây, cảnh v.v... từ bộ mộc đến bộ cân.

Ngưng tử âm dưới truy sử sách Khảo Thanh cho rằng: Tử là cặn bã dơ uế, sách Thuyết Văn cho rằng: Tử là cặn rượu, chữ viết từ bộ thủy thanh tể âm điện là âm điện.

Miểu mang ngược lại âm trên di tiểu Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Miểu là nhìn xa trông rộng sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh thiếu ngược lại âm dưới mạc lãng Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mang là mênh mông bát ngát. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh mang âm mang đồng âm trên.

Xuy cú ngược lại âm dưới huống vu Ngọc Thiên cho rằng: Quát mắng thổi hà hơi, sách Thuyết Văn viết từ bộ khiếm thanh cú.

Áo đường ngược lại âm trên ách giao Cố Dã Vương cho rằng: Áo là không bằng phẳng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh ảo.

-------------------------------------

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 7 - THIÊN TÍN HỦY GIAO BÁO

Dương huyễn chi âm huyền quyến Quảng Nhã cho rằng: huyễn là khoe khoang, cũng là dối trá tự khoe tài, tên người, âm đản là âm đán.

U kiền ngược lại âm kiềm yển sách Khảo Thanh cho rằng: Kiền nay gọi là mấu chốt cửa. Xưa nay Chánh Tự viết chữ kiện từ bộ mộc thanh kiên.

Tật sưu âm dưới sửu do Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Sưu là kém, giảm. Sách Khảo Thanh cho rằng: Bệnh hao tổn, sách Thuyết Văn cho rằng: Bệnh từ từ thuyên giảm, chữ viết từ bộ tật thanh sưu âm sưu ngược lại âm lực hưu âm sai ngược lại âm xoa mại. Phùng dịch ngược lại âm phụng phong Quảng Nhã giải thích

Phùng là hội họp. Sách Lễ Ký giải thích: Khổng Tử lúc thiếu thời ở nhà họ Lỗ may áo dưới nách. Trịnh Huyền chú giải rằng: Phùng là may áo, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ mịch thanh phùng âm dưới doanh tích Bì

Thương cho rằng: Dịch là nách bên trái sau khuỷu tay. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục đến thanh dạ âm dật ngược lại âm trần lật âm trửu ngược lại âm tri liễu.

Quách thuyên ngược lại âm dưới thất duyên tên họ Ích Châu thứ sĩ.

Đu văn ngược lại âm trừu hưu sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ du họ người.

Mang thân ngược lại âm mạc bàng sách Nhĩ Nhã giải thích rằng: Mang là rắn chúa. Quách Phác chú giải rằng: Rắn lớn, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ trùng thanh mang Văn Luận viết từ bộ bôn viết thành chữ mang tục tự thường hay dùng, âm hủy là âm hủy âm mang đồng với âm trên. Nam Xương gọi là con chó phéo đuổi con thỏ trong cỏ. Cho nên chữ mang từ bộ khuyển.

Sử tuấn ngược lại âm dưới tuân tuấn sách Khảo Thanh cho rằng: Tuấn là người tài xuất chúng hơn ngàn người. Có uy lực, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân âm thuyên ngược lại âm tuyền nhuyến Khảo Thanh cho rằng: Tên người, Văn Luận viết từ bộ nải viết thành chữ tuấn tục tự thường hay dùng.

Xương bột ngược lại âm trên xương chương Trang Tử cho rằng: Xương là cuồng vọng. Cố Dã Vương cho rằng: Cuồng điên kinh hãi, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ khuyển thanh xương âm hải ngược lại âm ngũ hải âm dưới bồ một sách Khảo Thanh cho rằng: Bột là nói trái lẽ. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trái nghịch sách Thuyết Văn giải thích: Loạn, chữ viết từ bộ ngôn thanh bột âm bột là âm bột Trụ Văn viết chữ bột Văn Luận viết từ bộ tâm viết thành chữ bột đều thông dụng âm trụ đồng với âm trên.

Giá bạt ngược lại âm trên thang lạc chữ viết từ bộ y ngược lại âm dưới bàn bát họ của Đông Ngụy.

Tích bệnh ngược lại âm trên tình diệc Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tích là bệnh. Công Dương Truyện cho rằng: Tích là cằn cỗi, gầy ốm.

Hà Hựu chú giải rằng: Bệnh kiết lỵ âm lị là âm li theo Thanh Loại cho rằng: Gầy ốm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật thanh tích.

Âm đông ngược lại âm dưới là đồng đong Quảng Nhã giải thích: Đông là bệnh đau nhức. Thích Danh cho rằng: Bệnh tê liệt, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật chữ cổ âm tê là âm tỳ.

Tợ thiện ngược lại âm dưới thiền triển. Sách Khảo Thanh giải thích rằng: Thiền là tên cá. Sách Thuyết Văn cho rằng: Da cá có thể làm trống, chữ viết từ bộ ngư thanh thiền hoặc là viết từ bộ đản viết thành chữ thiện cũng là chữ cổ.

Húc tai ngược lại âm hung dục sách Nhĩ Nhã cho rằng: Húc là gắng sức khích lệ, cố gắng lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ lực thanh mạo.

Sàn nhiên ngược lại âm sạn nhàn trước đã giải thích rồi. Phong thiềm ngược lại âm sạn nhàn trước đã giải thích rồi.

Phong thiềm ngược lại âm diệp kiêm sách Khảo Thanh cho rằng: Thiềm là cây gậy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh chiêm Văn Luận viết thiềm tục tự thường hay dùng.

Phi mi ngược lại âm trên tuy lủy âm dưới là mỹ sách Sở Từ giải thích: Cỏ tần gọi là phi mi, Vương Dật chú giải rằng: Tùy theo gió mà trải ra. Sách Vận Anh cho rằng: Phi mi là cỏ yếu mềm. Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ phi thanh ma.

Bố hộ sách Khảo Thanh cho rằng: Bố là ban la, âm dưới là hộ hộ là nhiều cỏ, sách Bát-nhã giải thích: Hộ đó là biến khắp, phổ biến.

Uy nhuy ngược lại âm trên ôi vĩ ngược lại âm dưới nhủ truy bản thảo giải thích: Uy nhuy là cỏ tức nay gọi là thảo dược, sách Thuyết Văn viết chữ uy nhuy hai chữ đều từ bộ thảo âm nhuy ngược lại âm như duy văn luận viết từ bộ mạch viết thành chữ nhuy tục tự dùng thông dụng.

Độn bôn ngược lại âm trên đồn côn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký sách Khảo Thanh cho rằng: Độn là chạy trốn, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng ẩn giấu. Quảng Nhã cho rằng: Trốn tránh đời, sách Thuyết Văn viết chữ cổ cũng là chạy trốn, chữ viết từ bộ xước thanh độn Tự Thư giải thích rằng: Viết chữ độn Văn Luận viết từ bộ nhục viết thành chữ đồn tục tự thường hay dùng.

Cấp quận ngược lại âm kim ấp. Sách Khảo Thanh cho rằng: Cấp quận nay gọi là chu vi quanh châu thành gọi là vệ châu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh cập.

Ủy duyệt ngược lại âm dưới duyên duyết Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Duyệt là thẻ tre. Sách Khảo Thanh giải thích: Thư từ sách vở, công nghiệp, ghi chép. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ môn thanh duyệt.

Cao hoang ngược lại âm trên cáo đao âm dưới hoang quang Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bệnh trong tim, dưới gọi là cao trong ngực gọi là hoang sách Thuyết Văn cho rằng: Cao hoang hai chữ đều từ bộ nhục đều thanh cao vong âm cách là âm cách.

Khám trạch ngược lại âm kham cam khám trạch là tên họ người. Dương xác âm dưới khổ giác tên người.

Nhữ mao âm trên như dự sách Lễ vận giải thích rằng: Thời còn sơ khai ăn lông ở lỗ. Sách Thuyết Văn từ bộ thảo thanh như.

Bao diêm ngược lại âm trên bao giao Hứa Thận giải thích sách Thuyết Văn tựa ghi rằng: Xưa đó Bao Hy Thị làm vua trong thiên hạ. Ban đầu làm nha dịch, và sau làm vua viên, tức là bao viêm. Sách Thuyết Văn viết tà bộ nghiểm thanh bao âm nghiểm là âm nghiêm.

Tương mậu ngược lại âm dưới mạc hầu Quảng Nhã giải thích rằng: mậu dịch, trao đổi, trước đã giải thích xong rồi.

Đạo trí ngược lại âm dưới tri lợi sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là tiệp ngại tức là không thông. Cố Dã Vương cho rằng: Trí là đốn ngã. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh chất.

(863) Khanh nhiệt ngược lại âm trên khổ hành sách Khảo Thanh cho rằng: Khanh là hầm, ngược lại âm dưới nhi chuyết theo chữ khanh nhiệt đó. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư tựa rằng: Tần Thủy Hoàng đốt sách đào hầm chôn sống các nho sinh. Xưa nay Chánh Tự giải thích: Nhiệt là thiêu đốt chữ viết từ bộ hỏa đến bộ nghệ thanh tĩnh âm nghê là âm nghệ.

Mân khí âm trên dân duẫn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mân là hôn loạn. Mao Thi Truyện giải thích: Mân là tiêu diệt sách Nhĩ Nhã giải thích: Diệt tận tiêu diệt hết sạch. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh dân.

Cấp trũng âm trên là cấp ngược lại âm dưới chu lung sách Thuyết Văn cho rằng: Trũng là lăng mộ. Phong trũng, phong con trưởng gọi là trưởng tử, chữ viết từ bộ mịch thanh thỉ âm bao là âm bao âm lung ngược lại âm lung lục Văn Luận viết từ bộ thổ viết thành chữ trũng tục tự dùng chẳng phải.

Bộ trật âm dưới trần lật Tự Thư cho rằng: Trật là bìa áo bọc sách. Sách Khảo Thanh cho rằng: Bao gói lại. Xưa nay Chánh Tự giải thích: Bó buộc chữ viết từ bộ y thanh thất hoặc là viết chữ trật nghĩa cũng đồng. Văn Luận viết chữ trật tục tự thường hay dùng.

Mặc định ngược lại âm đình lịch tên người. Tức là Mạc Tử. Mạnh khả âm dưới khả hà tên người con của Mạnh Tử.

Bất truân âm dưới độn luật thế bổn giải thích: Thời hậu Chu tức thuân sinh. Bất tuân tứ Văn Vương Tổ đời thứ ba mươi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh xuất Văn Luận hoặc viết là từ bộ kiết viết thành chữ giáo là chẳng phải.

Biên trục ngược lại âm miệt miên Thiên Thương Hoét cho rằng: Biên là dệt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Biên là lề sách tức dây xâu các thẻ tre ngày xưa. Chữ viết từ bộ mịch thanh biên âm biên là âm thiên ngược lại âm dưới xung lục.

Duyên cập ngược lại âm dưới kim lập sách Khảo Thanh cho rằng: Cập là thú sự cũng là ràng buộc trong lòng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh cập.

Chỉnh đạo ngược lại âm đồ náo Văn Luận viết từ bộ nhật viết thành chữ đạo đó là chẳng phải.

Đồ liệu ngược lại âm trên đổ hạo ngược lại âm dưới liên điểu Mao Thi Truyện cho rằng: Liệu là loại rau cay, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đồ cũng là rau cay. Xưa Chánh Tự cho rằng: Đồ liệu hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh dư giao âm giao ngược lại âm lược ấu Văn Luận viết chữ liệu tục tự dùng thông dụng.

Cấu hức ngược lại âm trên cổ hầu ngược lại âm dưới huy vực Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cấu hức đó chỗ gọi là bờ mương thông nước ra nơi sông. Cấu là mương rộng bốn thước, sâu bốn thước. Hức là bờ mương rộng tám thước, sâu tám thước. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ cấu hức đều từ bộ thủy âm giảng là âm quan thanh huyết.

Vô tư âm dưới là tư sách Khảo Thanh cho rằng: Tư là hàng hóa Trịnh Tiễn chú giải sách Nghi Lễ rằng: Tư là của cải dùng riêng tư, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là của cải, chữ viết từ bộ bối thanh thứ Văn Luận viết từ bộ thử viết thành chữ tư tư đó là người có tội nhỏ xài lạm phí vào của cải lấy của cải ra chuộc tội, chẳng phải nghĩa của bổn luận, cho nên không lấy dùng nghĩa này.

Xung thúy âm dưới tuy thúy sách Khảo Thanh cho rằng: Thúy là sâu xa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thúy là sâu xa, chữ viết từ bộ huyệt thanh toai.

Tỉ thư ngược lại âm trên tư hử sách Khảo Thanh cho rằng: Tỉ là ấn của thiên tử. Hán Thư cho rằng: Phong Hoàng Đế Phù Tỉ, ngọc ấn. Ứng thiệu chú giải rằng: Tỉ là ấn tín, Trụ Văn viết từ bộ ngọc viết thành chữ tỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Vua đó là phải có ngọc ấn, chữ viết từ bộ ngọc thanh nhĩ chữ viết từ hai bộ mịch viết thành chữ tỉ tục tự thường hay dùng, âm mịch là mịch.

BIỆN CHÁNH LUẬN QUYỂN 8 - XUẤT ĐẠO NGỤY MẬU THIÊN

Lân quân ngược lại âm trên lật trân Công Dương Truyện giải thích rằng: Lân là con thú có lòng nhân, cũng từ bộ lận viết thành chữ lân nghĩa cũng đồng, đã giải thích rồi sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lộc thanh lân âm lân là âm lân ngược lại âm âm dưới câu vân Công Dương Truyện cho rằng: Có con dương không có sừng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lộc thanh khuẩn âm khuẩn ngược lại âm khu quân Trụ Văn viết từ bộ hòa viết thành chữ quân cũng viết chữ quân âm khuân là âm huấn đều đồng nghĩa.

Phiền ổi ngược lại âm dưới ô hối sách Khảo Thanh cho rằng: Ổi là không đúng, lạm dụng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khuyên thanh ổi. Dung bể ngược lại âm trên lặc lung sách Khảo Thanh cho rằng: Dung là trên dưới quân đều. Mao Thi Truyện cho rằng: Quân đồng đều sách Thuyết Văn giải thích: Dung là thẳng đều chữ viết từ bộ nhân thanh dung âm dưới cổ mế sách Thuyết Văn giải thích: Bể là xương đùi ngoài, chữ viết từ bộ cốt thanh ty.

Thô duyên ngược lại âm trên thương hồ sách Thuyết Văn ghi chữ thô từ ba bộ lộc sách Khảo Thanh cho rằng: Thô là to lớn. Lại không tinh xảo, Văn Luận viết chữ thô tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới là thuyên nhuyễn Tự Thư cho rằng: Duyên là bắp chân, bắp đùi, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh duyên âm phì là âm phì Văn Luận viết từ bộ đoan viết thành chữ thuyên túc tự dùng chẳng phải.

Kỳ tạng ngược lại âm dưới tát lang sách Khảo Thanh cho rằng: Tạng là của đút lót hối lộ sách Phương Ngôn cho rằng: Thọ nhận của cải gọi là tạng cũng viết chữ tạng.

Tăng huy ngược lại âm âm ư nghi theo Mao Thi Truyện cho rằng: Huy là áo đẹp, áo tế của vua. Tên người.

Khả bạo ngược lại âm bao báo sách Khảo Thanh cho rằng: Bạo loạn cũng là phạm. Mao Thi Truyện cho rằng: Xâm phạm với nhau. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ nhật bộ xuất đến bộ can mà đến bộ phong âm cũng là âm cung âm phong là âm thao Văn Luận viết chữ bạo là chẳng phải.

Linh thứu ngược lại âm tề tu tên núi, cũng là tên loại chim sách Khảo Thanh viết đúng là chữ cứu.

Kế tân ngược lại âm trên cư nghệ Tây Vực tên nước.

Sở thích ngược lại âm dưới thanh chích sách Thuyết Văn ghi: Loại côn trùng bò đi cắn chích người, chữ viết từ bộ hủy thanh xá âm hủy là âm hủy âm xá là âm xá.

Tật đố âm trên là tật Khảo Thanh cho rằng: Tật đố

Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tật là hại. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hại người hiền gọi là tật. Hại sắc gọi là đố chữ viết từ bộ nữ thanh tật ngược lại âm dưới đô cố.

Phạm lễ ngược lại âm dưới lịch để tên người.

Diện trứu ngược lại âm dưới trắc sưu, ngược lại âm dưới trắc sưu sách Khảo Thanh cho rằng: Trứu là da tụ lại, da nhíu lại. Văn Tự Điển nói: Da tụ lại rộng ra, tức da nhăn, chữ viết từ bộ bì thanh sô âm sơ ngược lại âm sơ câu Văn Luận viết từ hai bộ kệ viết thành chữ trứu tục tự thường hay dùng.

Kháp đáo ngược lại âm trên khâm giáp sách Khảo Thanh cho rằng: kháp là vừa văn đúng, dụng tâm khít khao.

Huất lai ngược lại âm trên húc luật Tát Tông chú giải Tây Kinh Phú Truyện rằng: Huất là bỗng nhiên, sách Thuyết Văn cho rằng: Có gió thổi nổi lên. Chữ viết từ bộ khiếm đến bộ viêm.

Văn tăng ngược lại âm trên dật phân sách Khảo

Thanh cho rằng: Văn Ngô Việt gọi là lụa mỏng có hoa. Văn Tự Điển nói: Dệt lụa có hoa văn gọi là lăng theo chữ văn tăng nay gọi là lụa mỏng, có hoa,

Trì hốt ngược lại âm dưới hôn một sách Khảo Thanh cho rằng: Hốt là thẻ tre. Sách Lễ Ký giải thích rằng: Phàm vua trước dùng hốt để truyền mạng mệnh, vua trước viết lên thẻ tre, tức là hốt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh vật.

Trang hoàng ngược lại âm trên trắc sương sách Khảo Thanh cho rằng: Trang sức làm đẹp, ngược lại âm dưới hoàng khoáng sách Khảo Thanh cho rằng: Hoàng là nhuộm màu vàng. Theo chữ hoàng nay gọi là tô điểm mạ vàng kinh sách đặt để nơi cao dùng vải lụa mùa xanh gói lại, âm phiếu ngược lại âm tất miểu.

Tước hỏa âm tước đã giải thích rồi. Chữ viết từ bộ hỏa thanh tước tục tự thường dùng.

Thần vi ngược lại âm trên thất nhân Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Thần là người đàn bà có mang bào thai. Quảng Nhã cho rằng: Trên thân có mang thai. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Người phụ nữ mang thai, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh thần âm thân là âm thân.

Phụ hy ngược lại âm dưới y hỷ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khe hở cửa sổ gọi là hy xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thanh y.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 87

- Âm Phá Tà Luận hai quyển.

- Sùng Chánh Lục mười lăm quyển.

- Chân Chánh Luận ba quyển.

- Thập Môn Biện Hoặc Luận hai quyển.

Bên phải bốn luận hai mươi hai quyển đồng âm với quyển này.

PHÁ TÀ LUẬN

TỰA

Yểu minh ngược lại âm yếu hiểu sách Thuyết Văn cho rằng: Yểu là mắt sâu tối khó nhìn, chữ viết từ bộ huyệt bộ mục trong. Nay văn bút viết mỗi bộ thổ lại có che trên đều thông dụng chữ này. Nhưng lại lấy nghĩa sâu xa, không biết lý lẽ rất quái lạ, mất đi nghĩa sâu xa, hoặc là từ bộ ấu viết thành chữ yểu Mao Thi Truyện giải thích rằng: U tịch sách Thuyết Văn giải thích: Sâu xa mà nương hình như chưa được hợp, chữ viết từ bộ tảo viết thành chữ yểu chữ này thì đúng với chữ yểu minh có khi phần nhiều không dùng. Bởi vậy không xem bổn tự, sách Thuyết Văn cho rằng: Yểu minh từ bộ huyệt thanh tảo âm tảo đồng với âm trên cũng viết chữ hạnh.

Phát trích ngược lại âm đinh lịch sách Khảo Thanh cho rằng: Trích là lau chùi, bẻ ngắt vặn vẹo. Xưa nay Chánh Tự giải thích: Chữ viết từ bộ thủ thanh trích.

Phi độn ngược lại âm đồn độn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Độn là ở ẩn. Quảng Nhã giải thích: Trốn tránh đời, sách Thuyết Văn cho rằng: Dời chuyển. Lại gọi là đi tuần hành, chữ viết từ bộ xước thanh thuẫn Văn Luận viết chữ đồn tục tự dùng cũng thông dụng.

------------------------------------

QUYỂN THƯỢNG

Sĩ vận ngược lại âm trên trì nhỉ Thiên Thương Hoét giải thích rằng: Sĩ là thấu suốt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cướp được chữ viết từ bộ y thanh sĩ âm sĩ là âm đoạn.

Tiến lôi ngược lại âm trên tiền tiến Chu Dịch giải thích rằng: Tiến lôi là sấm sét nổ. Vương Bậc chú giải rằng:

Tiến là nặng, sách Thuyết Văn viết chữ tiến từ bộ thủy thanh tiến cũng viết chữ tiến.

Phẫn muộn ngược lại âm trên phân vẫn ngược lại âm dưới môn bổn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Muộn cũng là phẫn Thiên Thương Hoét giải thích: Muộn là phiền muộn sách Thuyết Văn giải thích: Phiền muộn chữ viết từ bộ tâm thanh mãn Văn Cổ viết chữ muộn nghĩa cũng đồng.

Nịch yên ngược lại âm âm trên ninh lịch chữ chánh thể. Mao Thi Truyện cho rằng: Nịch là lo lắng, suy nghĩ, sách Thuyết Văn cho rằng: Lo âu ưu phiền, chữ viết từ bộ tâm thanh thục.

Tham độc ngược lại âm trên sơ cẩm âm dưới là độc Lục Cơ Hán Tổ Công Thần đọc chữ mênh mông mù mịt trên là trụ dưới là tham độc là nhàm chán chấn động cả bốn biển bụi bay núi ngũ nhạc, cửu phục. Bồi hồi Tam Linh sửa đổi là bốc xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh tham hoặc là từ bộ thổ viết thành chữ tham.

Điếu đẩu ngược lại âm trên điểu liểu ngược lại âm dưới đâu ngẩu Mạnh Khang chú giải Hán Thư rằng: Lấy ống đồng làm ống điếu, chứa một đấu, ban ngày nấu thức ăn uống, ban đêm đánh gõ, dùng làm cảnh báo trong đông người, cầm nắm đi theo quân lính, ở trong doanh trại, trong dương khố. Nay sửa đổi lại làm ống đồng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ chữ tượng hình, giống như cái đấu cái cán cầm. Văn Luận viết chữ thăng là sai.

Oa ca ngược lại âm trên á giai Thiên Thương Hoét cho rằng: Oa là ca hát, Thanh Loại cho rằng: Nịnh hót sách Thuyết Văn cho rằng: Hòa tấu âm thanh, chữ viết từ bộ khẩu thanh khuê cũng viết chữ oa.

Bạch hoàn ngược lại âm hoán loan Hứa Thúc Trọng giải thích rằng: (864) Hoàn là lụa trắng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh hoàn.

Thái ám ngược lại âm tập dâm tên người.

Quyên kỳ dục ngược lại âm trên quyết huyền sách Khảo Thanh cho rằng: Quyên là dọn trừ dơ uế cho sạch sẽ.

Không đồng âm trên là không âm dưới là đồng. Tên núi, đã giải thích rồi trong Biện Chánh Luận quyển thứ hai. Núi trong biển, tức là đảo.

Tiệp dư ngược lại âm trên tiêm diệp ngược lại âm dưới dữ chư theo Thanh Loại cho rằng: Tiếp phong tên người phụ nữ làm quan trong triều. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ nữ đều thanh tiệp dư.

Hán trạch ngược lại âm trên khám lạm chữ khứ thanh.

Sức hội ngược lại âm trên dư lực âm dưới hồi ngoại Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hội là dùng năm màu sắc để vẽ Trịnh Tiễn chú giải sách Luận Ngữ rằng: Vẽ sách Thuyết Văn giải thích rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh hội cũng viết chữ hội.

Lộc âm trên là trác Ứng Thiệu chú giải: Hán Thư rằng: Trác lộc là tên sông thuộc huyện Lộc, thượng nguồn là khe, tức là sông Dịch Châu, vùng biên giới.

Cửu ánh ngược lại âm ánh trình ánh là bướu cổ.

Hôn chấp ngược lại âm chiêm niệm Biện Chánh Luận quyển thứ hai đã giải thích âm chiêm ngược lại âm đinh diểm.

Thứ phi âm trên đan nai âm dưới cơ nghi phi tần được yêu quý của vua Trụ. Văn Luận viết từ bộ nữ viết thành chữ phi âm phi ngược lại âm phương vi chẳng phải.

Hiểm duẫn ngược lại âm trên khảm kiếm âm dưới là duẫn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Một bộ tộc ở phương Bắc Trung Quốc. Xưa gọi là Bắc Địch, Trịnh Tiễn chú giải rằng: Bộ tộc Hung Nô. Văn Tự Điển nói: Giải thích cũng đồng âm trên, chữ viết đều từ bộ khuyển đều thanh nghiêm duẫn Văn Luận viết chữ hiểm ngược lại âm lực chiêm chẳng phải chữ nghĩa này.

Khiên vi ngược lại âm trên di kiên âm dưới là vị nhị tên sông. Hán Thư chú giải rằng: Khiêm là con sông chảy ra sông huyện Khiên Dương, phía bắc vào sông Vị, sách Thuyết Văn hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh nghiên vị âm nghiên là âm kiên.

Dương giới ngược lại âm âm giai giới. Tên người.

Nghiên soán ngược lại âm trên nghê kế chữ chánh thể từ bộ cung viết thành nghê ngược lại âm dưới sô hoạn sách Luận Ngữ cho rằng: Nghê là cái nỏ kheo bắn cung. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vua khen ngợi các quan bắn cung. Tức là Hạ Thiếu Khang bắn tên tiêu diệt quân địch, chữ viết từ bộ cung thanh nghiên Văn Luận viết từ bộ vũ viết thành chữ nghiên nghĩa là chim bay, nay tục dùng lâu chưa rõ thật nghĩa, chẳng phải bổn tự.

Trạc toán ngược lại âm trên sĩ giác theo Tả Truyện cho rằng: Bá Minh Thị Thích nói xấu việc của người. Có người đệ tử là Hàn Trác, tức là Sát Nghiên.

Đệ y ngược lại âm đệ hề sách Thuyết Văn cho rằng:

Đệ là mảnh lụa dày, chữ viết từ bộ mịch thanh đệ.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Cấu tuất âm dưới huynh vực nghĩa đã giải thích đầy đủ. Biện Chánh Luận trong quyển thứ bảy.

Hốt cốt âm trên là hốt âm dưới cốt sách Khảo Thanh cho rằng: Tên sông lớn, nước chảy hỗn loạn, hoạt là loạn nước chảy nhiều ngã; sóng nước ào ào, sóng lớn dồn dập. Bàng bạc ngược lại âm bạc lang Biện Chánh Luận trong quyển thứ nhất cũng có, ngược lại âm dưới bổ mạc sách Khảo Thanh cho rằng: Rộng lớn.

Y-nại-quốc âm giữa nại tiếng Phạm.

Lam-tỳ-viên ngược lại âm lam-hàm tiếng Phạm.

Nhiệt trừ ngược lại âm trên nhuyễn chuyết Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nhiệt là thiêu đốt, sách Thuyết Văn viết chữ nhiệt từ bộ hỏa đến bộ chấp thanh chấp.

Hoa lưu âm trên họa qua âm dưới lưu Quách Phác chú giải rằng: Hoa là con ngựa có màu sắc rực rỡ như hoa, mà màu đỏ. Mao Thi Truyện cho rằng: Con ngựa trên thân màu đỏ đen lẫn lộn gọi là lưu cũng viết chữ lưu.

Bát tuấn ngược lại âm tuân tuấn.

Sái tâm ngược lại âm trên sĩ giai tục viết chữ sài.

Bất thuyên âm thuyên Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thuyên là hối lỗi, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh thuyên. Xích an ngược lại âm lưu giảm nghĩa đã giải thích rồi. Biện Chánh Luận trong quyển thứ sáu.

Tĩnh oa ngược lại âm ô giai viết đúng là oa theo Thanh Loại cho rằng: Con ễnh ương dưới giếng.

Trào khuân ngược lại âm trên trương diệu ngược lại âm dưới quần vẫn Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Khuẫn là một nắm mốc mọc dưới đất, giống như cây dù, Trang Tử giải thích rằng: Trào khuẩn là không biết ngày tối tăm, âm u. Tư Mã Bưu giải thích: Một loại nấm yêu ma.

Tuệ cô âm trên là huệ âm dưới là cô Trang Tử giải thích rằng: Tuệ cô là con dế không biết mùa xuân mùa thu gì cả. Suốt ngày cứ kêu, sách Thuyết Văn giải: Hai chữ đều từ bộ trùng đều thanh huệ cô.

Uyển vãn ngược lại âm trên vu nguyên âm dưới là vãn theo Mao Thi Truyện cho rằng: Uyển là thuận theo Trịnh Huyền giải thích: Uyển là nói lời dịu dàng thuận theo, vãn nói lời nhu mì, dung mạo xinh đẹp, uyển chuyển. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ nữ đều thanh uyển vãn.

Bàn cổ ngược lại âm trên bán man xưa cũng viết chữ cô tên cổ của vua, danh hiệu vua, Văn Luận viết từ bộ mộc đến bộ bán viết thành chữ bán là chẳng phải.

Thiện liên âm dưới là liên Cố Dã Vương cho rằng: Thiện liên là nói liên tục không gián đoạn.

Cổn sức ngược lại âm trên công bổn Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Cổn là áo rồng của vua. Trịnh Huyền chú giải rằng: Áo đen mà có thêu rồng. Sách Nhĩ Nhã giải thích: Áo thêu, sách Thuyết Văn cho rằng: Thiên tử hưởng lộc tiên vương thêu áo có rồng cuộn, phía sau đến vạt áo phía trước một bức, rồng uyển chuyển trên gọi là hương phục, sách Thanh văn viết từ bộ y thanh công.

Khuể bộ ngược lại âm trên khuy quý sách Lễ Ký cho rằng: Quân tử nửa bước cũng không dám quên, sách Phương Ngôn giải thích: Nửa bước gọi là khuể sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh khuể.

Mẫn thương ngược lại âm âm trên mân vẫn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mẫn là dáng vẻ lo buồn. Ly Tao giải thích: Thương xót lo âu thở dài, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh mẫn ngược lại âm dưới thường dương.

Ách quan ngược lại âm trên anh cách Tự Thư cho rằng: Ách là cầm nắm giữ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ cách từ bộ thủ thanh cách âm cách là âm cách Văn Luận viết chữ ách tục tự dùng thông dụng. Ngược lại âm dưới ô quán chữ chánh thể, sách Thuyết Văn giải thích: Quán là bàn tay nắm lại phía sau lóng tay, chữ viết từ bộ thủ thanh quán âm quan ngược lại âm miễn bản Văn Luận viết chữ uyển tục tự thường hay dùng.

Để dưỡng ngược lại âm trên chi tiểu sách Khảo Thanh cho rằng:

Để là đánh dẹp, tay đánh ném, đấm nện.

Vu hành ngược lại âm trên huống vu Quách Phác giải thích: Vu gọi là giương mắt lên trợn mắt. Thiên Thương Hoét cho rằng: Căng mắt ra nhìn. Hán Thư cho rằng: Vu hành là mắt háo sắc. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mục thanh vu.

Dương đế ngược lại âm trên dương lượng sách Đọa Đế Ích pháp giải: Nghịch thiên ngược dân gọi là dương bên giải đãi biếng nhác gọi là dương.

Tiêu chi ngược lại âm trên chánh diêu tên sao Bắc đẩu. Tức sao thứ năm, sáu và bảy trong đuôi của chòm Bắc đẩu, đứng đầu các sao.

Bổ ngao ngược lại âm phu cao sách Khảo Thanh cho rằng: Con rùa lớn, Văn Luận viết chữ ngao tục tự không thể dùng.

San sơn ngược lại âm trên khu can Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: San là trừ bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh can.

Sạn hải ngược lại âm sát giản Quảng Nhã giải thích: Sạn là tước đoạt, san bằng. Xưa nay Chánh Tự viết tư bộ đao thanh tàn.

Mạn hiểm ngược lại âm trên man phan sách Khảo Thanh cho rằng: Man là chậm trễ, chậm rãi, thong thả. Hoặc là viết chữ mạn Văn Luận viết từ bộ mục đến bộ man là chẳng phải ngược lại âm dưới kiểm yểm.

Bao bột ngược lại âm trên bao mao Quảng Nhã giải thích: Bao là tiếng chim hót, sách Thuyết Văn ghi: Tiếng hót ríu rít, tiếng rống, chữ viết từ bộ khẩu thanh bao ngược lại âm dưới bồn một Cố Dã Vương cho rằng: Bột là bùng lên thịnh vượng Thiên Thương Hoét cho rằng: Bỗng nhiên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ lực thanh bột.

Đam miện âm trên đảm cam âm dưới miên biến.

Tức thư âm trên tử lực âm dưới tử dư sách Phương Ngôn cho rằng: Con cuốn chiếu, con dế. Xưa nay Chánh Tự viết hai chữ đều từ bộ hủy đều thanh tức thư.

*******

SÙNG CHÁNH DUYÊN

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 1

Vĩ cấu ngược lại âm cẩu hầu Thích Danh cho rằng: Cấu là áo đơn không có cổ của dân tộc Hồ. Tự Thư giải thích: Áo trên, theo vĩ cấu đó là nhung địch bắt được tù binh lột da làm y phục. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân thanh cấu cũng từ bộ y viết thành chữ cấu âm cấu đồng với âm trên.

Xế mạc ngược lại âm trên xương nhuế âm dưới mạc theo xế mạc đó là thuộc màn nhung che của nước Nhung Hồ.

Bề lao ngược lại âm trên tinh hề Vương Tú giải thích sách Gia Ngữ rằng: Bề lao là ngục, sách Tập Huấn giải thích: Bề lao là cửa ngoài ngựa chạy, sách Khảo Thanh giải thích: Chữ viết từ bộ mộc đến bộ phi đến bộ mộc viết thành chữ bề tên ngục. Nay tục tự dùng thông dụng, từ bộ tỷ viết thành chữ bề là sai. Sách Thuyết Văn cho rằng: Lao ngục, chỗ gọi là câu thúc tội nhân. Chẳng phải từ chữ bề thanh tĩnh trong Văn Luận viết từ bộ khuyển viết thành chữ bề cũng chẳng phải.

Bô cự ngược lại âm trên bộ hồ sách Sử Ký giải thích: Thủy Hoàng làm vua hai mươi lăm năm trong thiên hạ thường hội họp uống rượu, năm ngày. Đến đời nhà Hán luật trong nước vô cớ hội họp từ ba người sắp lên ăn uống, đó là bị phạt vàng bốn lạng. Nay thì hội họp uống ăn tặng biếu năm ngày thì không hề gì. Ngược lại âm dưới cự ngược Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Góp tiền uống rượu. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vua đức lớn khắp thiên hạ hội họp uống rượu mà thôi, chữ viết từ bộ dậu thanh bổ cự là hội họp ăn uống, chữ viết từ bộ dậu thanh cự hoặc là viết chữ tạc.

Tuyền hào ngược lại âm tuyền duyên Quách Phác chú giải rằng: Tuyền là tên loại ngọc. Mục Thiên Tử Truyện giải thích: Bảo vật ở núi Xuân Sơn, có châu ngọc tên là tuyền. Cố Dã Vương cho rằng: Tức là hạt ngọc trai, chỗ gọi là bao gồm châu ngọc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Người đẹp chữ viết từ bộ ngọc thanh tuyền trụ văn viết chữ hác văn cổ viết chữ giãn ngược lại âm dưới hiệu cao.

Thiên trụ ngược lại âm thù hựu Văn Luận viết chữ bị ngụy chữ này thì thiên triều chọn chữ ngụy không kham dùng. Nay không lấy.

Ngự nhất cảnh ngược lại âm trên ngự cứ cùng với chữ ngự cũng đồng.

Thôi ấp ngược lại âm bồi tập Trương Tấn giải thích rằng: Tập là cung tay giơ lên, chắp tay cung kính ủng hộ, vâng theo. Lục Bổn viết chữ ấp âm đồng, nghĩa khác cũng châm chước dùng được. Bất kiểu ngược lại âm kiêu liễu sáng trắng rõ ràng.

---------------------------------------

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 2

Trí kiếm ngược lại âm liêm chiêm. phiền tụ ngược lại âm tích lung (865) theo Thanh Loại cho rằng: Tụ tán người ta lấy thức ăn không tạp, đều gọi là tụ.

Dung tiểu ngược lại âm tiểu liễu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiểu là nói nhỏ bé. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh sưu.

Kiêu ngụy ngược lại âm trên kiêu tiểu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Kiêu xưng là giả dạng dối trá, lấy làm có. Cố Dã Vương cho rằng: Giã dạng xưng danh gọi là kiểu. Giả Quỳ giải thích rằng: Pháp luật của vua trước chẳng phải sửa đổi lại gọi là kiêu sách Sở Từ cho rằng: Kiểu là kêu là dáng bộ làm đẹp, lấy lòng sách Thuyết Văn cho rằng: Kiểu là duyên, chữ viết từ bộ thủ thanh kiêu Lục Bổn ghi: Viết từ bộ thỉ viết thành chữ kiêu âm thì đồng, nghĩa thì khác lạ.

Quỹ vọng ngược lại âm quy ủy gọi là dối trá.

Trọng kiển ngược lại âm kiên hiển sách Khảo Thanh cho rằng: Da hư nổi lên mụt như nứt nẻ ra. Xưa nay Chánh Tự viết chữ nghiên. Nay Lục Bổn viết chữ kiển là sai lầm.

Thôi cúc ngược lại âm cưu lục Trương Tấn Khảo Thanh cho rằng: Cúc là người có tội cúi khom lưng xuống. Viết đúng là chữ cúc từ bộ nhân đến bộ trúc đến bộ ngôn hoặc là viết chữ cúc.

Ngu khoáng ngược lại âm quang mãnh sách Thuyết Văn cho rằng: Khoáng là con chó hung dữ không thể đến gần, chữ viết từ bộ khuyển thanh quảng.

Tề manh ngược lại âm mạch bành.

Thận mạc ngược lại âm trên thần nhẫn văn chữ cổ. Nay viết chữ thận.

Du sử ngược lại âm trên dậu chu Mao Thi Truyện cho rằng: Du là chiếc xe loan nhẹ do nai kéo. Theo Tuyện cho rằng: Chiếc xe nhẹ có mui che trên dành cho người đi sứ.

Vu điền quốc âm giữa là điền luyện.

Từ quyết âm quyết.

Quỷ mị ngược lại âm mi bí Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Mị chỗ gọi là từ quái vật biến làm người để hoặc con người. Bởi vậy cúng tế trời đất. Thấy rõ ràng gọi là vật trăm năm làm thần gọi là mị kinh Sơn Hải giải thích: Mị là vật làm thân người đầu nó đen ngòm. Sách Thuyết Văn viết đúng là chữ mị là tinh của vật già nua biến làm người, con quỷ mọc lông lá, bộ sam nay cũng viết chữ mị hoặc là viết chữ mị.

Ngư quyến ngược lại âm hoàn mạn.

Tổn đạp ngược lại âm trên tôn tổn ngược lại âm dưới đàm hợp Mao Thi Truyện cho rằng: Tụ hợp nói chuyện với nhau, nói qua nói lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Tụ hợp nói chuyện chữ viết từ bộ khẩu đều thanh tôn đạp cũng viết chữ tổn nay Văn Lục viết từ bộ túc viết thành chữ tôn đạp là chẳng phải.

-Quyển 3 Còn thiếu bổn không âm.

---------------------------------------

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 4

Vỷ diệp ngược lại âm trên vĩ quỹ ngược lại âm dưới viêm triếp Văn cổ viết chữ chánh thể. Mao Thi Truyện cho rằng: Vĩ là lửa cháy đỏ rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Lửa cháy sáng rực, chữ viết từ bộ hỏa thanh vĩ Quảng Nhã cho rằng: Diệp là sáng rực. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh diệp âm diệp đồng với âm trên. Chữ chánh thể. Văn Lục viết chữ diệp là sai.

Khô mệnh ngược lại âm trên khổ cô Cố Dã Vương cho rằng: Khô là khoét trong bụng ra còn rỗng không. Sách Thuyết Văn giải thích: Phanh ra chữ viết từ bộ đao thanh khô.

Mãng xà ngược lại âm trên mang hoảng.

Lư triển ngược lại âm trên lữ khưu ngược lại âm dưới chiêm triển Bì Thương cho rằng: Triển là người kỵ sĩ nằm trên lưng con ngựa phóng nhanh. Trương Tấn giải thích: Con ngựa phóng từ từ di chuyển. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh triển.

Nhị chiêm ngược lại âm trên xưng chiêm Mao Thi Truyện cho rằng: Vạt áo che phía trước, gọi là thiềm, sách Phương Ngôn giải thích: Chiêm gọi là vạt áo che dưới nách. Quách Phác chú giải rằng: Áo che dưới nách, sách Thuyết Văn giải thích: Áo che phía trước, chữ viết từ bộ y thanh chiêm. Theo Truyện viết từ bộ thị viết thành chữ xâm là phân xâm âm tử phụng không có nghĩa. Lưỡng phiêu ngược lại âm ty liệu Quảng Nhã cho rằng: Phiêu là tay áo. Bì Thương cho rằng: Tay áo xưa nay Chánh Tự viết từ bộ y thanh phiêu.

- Quyển 5: trong quyển này đều Lục Biện chứng Luận quyển thứ hai. Quyển thứ năm Văn Bổn Luận đã âm giải thích rồi, lại không giải thích trùng lắp nữa.

- Quyển 6: Trong quyển này Lục Biện Chánh Luận, đầu quyển thứ sáu cho đến hết quyển thứ sáu một nửa Bổn Luận giải thích rồi.

- Quyển 7: Quyển này Lục Biện Chánh Luận quyển thứ sáu, đến cuối cùng Bổn Luận đã âm giải thích rồi.

- Quyển 8: Quyển này Lục Biện Chánh Luận, quyển thứ tám cuối quyển đầu trang bốn hơn Bổn Luận âm giải thích rồi.

- Quyển 9: Bổn thiếu không âm.

- Quyển 10: Quyển này Lục Chân Chánh Luận, Bổn Luận đã âm giải thích rồi.

- Quyển 11: Quyển này Lục Chân Chánh Luận. Bổn Luận đã giải thích đầy đủ.

---------------------------------------

SÙNG CHÁNH DUYÊN QUYỂN 12

Đầu quỷ ngược lại âm quy vĩ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quỷ là cái tráp, cái hộp. Nay xem cái hộp có gốc vuông, tên gọi khác.

Lạp thiên ngược lại âm lam hạp Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Lạp là bẻ gãy. Sách Thuyết Văn cho rằng: Là đánh, đục khoét, chữ viết từ bộ thủ thanh lập cũng viết chữ lập.

Lang vũ âm trên là lang âm dưới vô phủ Thích Danh cho rằng: Nhà lớn gọi vũ sách Thuyết Văn giải thích rằng: Nhà nhỏ xây chung quanh nhà lớn, chữ viết từ bộ nghiểm thanh vô.

Trấn ỷ ngược lại âm trên thận trân ngược lại âm dưới y ky.

Khổn khoản ngược lại âm trên khôn ổn ngược lại âm dưới khoan quản Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hết lòng chân thành. Quảng Nhã cho rằng: Chí thành thực, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh khổn.

Phẩm vị ngược lại âm vĩ quý Quảng Nhã giải thích: Vị là cùng một loại, lấy các thứ cùng một loại xếp cùng với nhau, kéo ra, dẫn ra cùng một loại. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ quy đến bộ vị thanh tĩnh âm kệ ngược lại âm đại hề. Đan khiểm ngược lại âm liêm điếm sách Khảo Thanh cho rằng: Khiểm là vừa lòng thỏa dạ, đầy đủ.

Khuê hy tịch ngược lại âm trên tủy họ người.

Quyển 13, Quyển 14, Quyển 15. Ba quyển trên bổn thiếu không có âm.

*******

CHÂN CHÁNH LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Điên trí ngược lại âm trên điển niên theo Thanh Loại cho rằng: Điên đốn ngã ngửa, Quảng Nhã cho rằng: Ngã ngửa, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Té ngã ngược lại phía sau. Sách Thuyết Văn cho rằng: Gót chân chữ viết từ bộ túc thanh chân cũng viết điền. Nay Bổn Luận viết chữ điên âm cũng đồng. Nhưng mà mất nghĩa, ngược lại âm dưới tri li Cố Dã Vương cho rằng: Trí giống như là đốn ngã. Quảng Nhã cho giẫm đạp lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Gót chân, chữ viết từ bộ túc thanh chất âm liềm là âm nghiệp.

Tọa khư ngược lại âm dưới khư ngư sách Khảo Thanh cho rằng: Khứ là cởi áo, trừ bỏ, cắt bỏ tay áo.

Ẩn kỷ ngược lại âm trên âm cân âm dưới là kỷ.

Giản sách ngược lại âm gian nhãn Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Giản thẻ tre dùng để viết ngày xưa, thư từ viết trên tre. Cố Dã Vương giải thích: Chỗ dùng để viết thư ghi chú các việc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thư tờ giấy từ ngày xưa như dâng sớ lên vua, chữ viết từ bộ trúc thanh gian Văn Tự viết từ bộ thảo viết thành chữ giản là sai. Ngược lại âm dưới thương trách sách Chu Lễ cho rằng: Cửu mệnh chư hầu thì là sách mệnh. Tức công lệnh cáo thị đề ra. Trịnh Huyền chú giải rằng: Gọi là giản sách thư vương mệnh, tức là mệnh lệnh của vua ban hành. Khảo sát ấp, độc đoán sách đó gọi là giản là không đầy đủ một trăm văn thư không phải là thư. Sách đó là người ta chế ra dài hai thước, ngắn đó là phân nửa, một dài, một ngắn bện lại hai cái trên dưới thành chữ triện, nổi lên năm tháng. Phàm mệnh lệnh chư hầu, bậc tam công có tội chết và miễn tội viết vào văn thư. Sách Thuyết Văn cho rằng: Phù mệnh tức thẻ bài, chư hầu được vua tiến cử, giống như trao cho văn thư lệnh bài, một dài một ngắn trong có hai thẻ bện lại. Văn Cổ viết từ bộ trúc viết thành chữ sách.

Bì mậu ngược lại âm thất di sách Khảo Thanh cho rằng: Bì là viền mép, mãnh lụa viền màu trắng, buộc chân mỏng. Ngược lại âm dưới mi ấu lừa dối, khinh khi, lầm lẫn.

Cừ lô ngược lại âm trên cự ngư Trương Tấn giải thích rằng: Cừ là chiếu tre, cũng là bệnh phù thủng. Nói lời mềm dịu sợ làm cho người khác buồn, khác thể cúi đầu khuất phục, ngược lại âm dưới lữ chư sách Khảo Thanh cho rằng: Loại nhà ở trọ.

Ngôn nghị ngược lại âm nghi ký Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nghị đó là bàn luận sắp xếp các việc có thứ tự, Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Nghị đó giống như sắp xếp sửa chữa. Mao Thi Truyện cho rằng: Khéo léo, đúng nghi thức, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Phép tắc nghi tắc của người, chữ viết từ bộ ngôn thanh nghi.

Đạo cai ngược lại âm cải ai Giả Quỳ giải thích rằng: Cai là chuẩn bị bao gồm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh cai.

Tư giảm ngược lại âm lam sám sách Khảo Thanh cho rằng: Giám là chiếu soi rõ ràng. Lại cũng viết chữ giảm.

Cảm tố ngược lại âm tô cố Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tố giống như là hướng tới. Xưa nay Chánh Tự giải nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ nhân viết thành chữ tổ

Giản độc ngược lại âm đồng lộc.

Cụ nhiên ngược lại âm trên cụ ngộ Cố Dã Vương cho rằng: Dáng vẻ kinh sợ. Mao Thi Truyện cho rằng: Dáng điệu không giữ bình tĩnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ duy thanh cụ viết đúng từ hai bộ mục viết thành chữ cụ gọi là nhìn bên phải bên trái. Nay văn truyện viết chữ cụ là sai.

Đa mộng ngược lại âm mặc băng sách Khảo Thanh cho rằng: Hổ thẹn buồn bã, sách Thuyết Văn viết chữ mộng gọi là tối tăm u ám, chữ viết từ bộ tâm đến thanh mộng.

Kiểu mộc ngược lại âm trên tiệp yểu các chữ trong sách và kinh sử đều không có chữ này. Các vấn đạo gia tương truyền là âm kiển chưa rõ nghĩa nào.

Dương ác ngược lại âm giang nhạc Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Dương sát là thô lược. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh sát âm đồng với âm trên.

Kiêm tương ngược lại âm trên hiệp liêm ngược lại âm dưới tưởng dương.

Đế học ngược lại âm không ốc cha của vua Nghiêu. Hoàng phủ mật ngược lại âm dân tất tên Tấn Cao Sĩ.

Thần kiêu ngược lại âm trên thùy luân Khổng An Quốc chẳng sách Thượng Thư rằng: Thuần túy, Quảng Nhã cho rằng: Thuần hậu. Sách Thuyết Văn cho rằng: Không rót tưới thấm ướt, chữ viết từ bộ dậu thanh thuần âm thuần đồng với âm trên. Văn Luận viết chữ thuần âm cũng đồng, nghĩa thì chẳng phải. Ngược lại dưới hiểu nghiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Kiêu là mỏng manh, bạc bẽo,

Kiều tự ngược lại âm huyền huyễn Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Loại thú giống trâu lông màu xanh, có một sừng, xuất ra từ Tây Hải nước Đại Tần, có nuôi dưỡng giống như con chó có nhiều sức mạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Phân biệt từ bộ hổ tức là đấu tranh của cải, âm hổ ngược lại âm ngũ nhàn (866) Văn Luận viết chữ bưu là sai. Ngược lại âm dưới tư tỉ Kinh Sơn Hải giải thích rằng: Tự là ở nơi vua Thuấn Trang. Đông Minh sông Nam, có giống thú hình trạng giống như con trâu lông màu xanh đen, Quách Phác chú giải rằng: Con thú có một sừng mày xanh nặng ngàn cân. Sách Thuyết Văn ghi: Như giả thú, trâu hoang mà lông màu xanh đen, chữ tượng hình, đồng đồng như cầm thú. Bổn Luận viết chữ tiên.

Quỷ vọng ngược lại âm lạt tri sách Khảo Thanh cho rằng: Quái vật thần ở sông núi, cũng gọi là tinh vật của sông núi.

Phái kỳ ngược lại âm trên ba ngõa sách Thuyết Văn giải thích: Phái là nước chảy rẽ riêng ngã khác. Chữ viết từ bộ thủy thanh phái âm phái cũng là thanh, âm phái ngược lại âm phổ mại Văn Luận viết chữ phải là sai lầm. Hữu sào ngược lại âm sĩ giao tức là hiệu của cổ cũng gọi là sào cư.

Toại nhân âm trên trại cũng là hiệu của vua ban đầu, dụng cụ lấy lửa ngày xưa đã thuần thục.

Thao thanh ngược lại âm âm trên thảo đao. Sách Khảo Thanh cho rằng: Thao là bao đựng kiếm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ vĩ thanh thao.

Táo độc ngược lại âm đồng lộc Giả Quỳ chú giải rằng: Độc là kết hôn. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Gọi là kết hôn nhiều lần mà không thành lễ. Sách Thuyết Văn giải thích: Nắm giữ ô uế, nhơ bẩn, chữ viết từ bộ hắc thanh độc cũng viết chữ độc.

Chích thật ngược lại âm trên chánh thạch sách Phương Ngôn cho rằng: Chích là nhặt lấy, sách Thuyết Văn viết chữ chích cũng gọi là thu gom, nhặt góp, góp nhặt, chữ viết từ bộ thủ thanh thạch.

Phẩu ích ngược lại âm trên phổ hậu ngược lại âm dưới tinh diệc sách Thuyết Văn ghi: Chẻ cây ra phân tách ra, chữ viết từ bộ mộc thanh cân Văn Luận viết tích là chẳng phải.

Sáng tác ngược lại âm sơ hướng Giả Quỳ chú giải rằng: Sáng là lập ra đầu tiên. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mở đầu cơ nghiệp, chữ viết từ bộ tinh thanh đao Văn Luận viết chữ sang tục dùng thông dụng, âm nhẫn ngược lại âm sở lương.

Chương tiều ngược lại âm tiều tiếu nghĩa đã giải thích rồi trong Biện Chánh Luận cũng viết tiều tiêu.

Khảo hạch ngược lại âm hành ách sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật. Tây Vực dùng từ hẹp bao trùm kín nghĩa, từ được khảo sát sự thật.

Chi trăm ngược lại âm tàm cảm sách Thuyết Văn giải thích thẻ gỗ để viết đánh gõ, chữ viết từ bộ mộc thanh trảm.

Chi cô ngược lại âm cổ hồ Mã Dung chú giải sách Luận Ngữ rằng: Cô là chén rượu ngày xưa dùng các lễ ở làng, dung lượng chứa hai thăng. Theo Văn Luận nghĩa tức là loại dụng cụ bằng tre dùng để viết chữ ngày xưa. Ví dụ tháo cô là nhuộm lông chim làm viết, cũng viết chữ cô.

Tiêm đề ngược lại âm tiếp diêm Trương Tấn chú giải rằng: Thẻ tre nhỏ. Xưa đó là đề mục viết lên thẻ tre, để ghi sự việc cho rõ ràng gọi là tiêm. Nay nghĩa là tên của vị quan Điển Thượng chủ Bạch sự. Sách Thuyết Văn giải thích người có nhiều kinh nghiệm, chữ viết từ bộ trúc thanh tiêm âm tiêm là âm tiêm.

Cúc lý ngược lại âm trên quan lục sách Khảo Thanh cho rằng: Khom lưng, cùng cực Văn Luận viết chữ cúc tục tự dùng thông dụng.

Thước kim ngược lại âm trên thương nhược Văn Luận viết chữ thước mất nghĩa.

Oa giác ngược lại âm trên quả hoa Trang Tử giải thích: Có nước có loại ốc sên có sừng bên phải. Có nước loại ốc sên có sừng bên trái, như thời Man đấu tranh với nhau dành đất đai. Chiến tranh thây chết đến hàng vạn, đuổi về phương bắc, tuần có năm ngày mà thối lui. Cố Dã Vương cho rằng: Tức phù du, sách Thuyết Văn giải thích: Tức là ốc sên, chữ viết từ bộ trùng thanh oa.

Mong ế ngược lại âm trên mộc bồng ngược lại âm dưới khẩn kế tên của Đạo Gia Thiên.

Lượng diệc ngược lại âm trên lương thượng Mao Thi Truyện cho rằng: Lượng là tin. Tin số đông gọi là lượng Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ ngôn thanh kinh.

Biện hựu ngược lại âm vưu cứu.

Từ ba ngược lại âm phổ ba sách Thuyết Văn cho rằng: Ba là hoa của cây cỏ, chữ viết từ bộ thảo thanh ba. Chi hú ngược lại âm vu cú Quảng Nhã cho rằng: Hú là ấm áp, nóng nhiệt sách Thuyết Văn giải thích: Hấp chưng ấm, lại cũng gọi là lửa cháy đỏ rực. Lại cũng gọi là ướt át, ấm áp, chữ viết từ bộ hỏa thanh hú.

Thu phiêu ngược lại âm tất diêu.

Đại cự ngược lại âm cương ngược sách Thuyết Văn cho rằng: Cự là cười lớn, chữ viết từ bộ khẩu thanh cự.

Thư công ngược lại âm trên thất dư một loại khỉ theo sách Trang Tử giải thích: Thủ công gọi là nhiều loại vượn, cũng gọi là sáng ba chiều bốn vậy là như thế nào. Nhiều vượn đều phẫn nộ mới đổi lại sáng bốn chiều ba, như vậy số vượn đều vui vẻ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh thư Văn Luận viết chữ thư.

Bối suyển ngược lại âm trên cổ hoài Quảng Nhã cho rằng: Bối là phía sau lưng, nghiêng một bên. Sách Thuyết Văn giải thích rằng: Quay lại xoay chuyển, ngang ngạch. Loại rau cỏ phương Bắc, so sánh văn cổ có khác biệt, âm vu là âm quán, ngược lại âm dưới là xuyên nhuyễn Cố Dã Vương cho rằng: Suyển là sai sót, không đều. Mạnh Khang cho rằng: Đan xen lẫn nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Đối ngọa, chữ viết từ bộ chuy đến bộ khoa gọi là chống trái với nhau, bộ chuy là âm tuy bộ khoa là âm khoa là âm khoa Dương Hùng viết chữ sai.

----------------------------------------

QUYỂN TRUNG

Tuyền ky ngược lại âm trên tịch duyên ngược lại âm dưới kỹ hy sách Ngu Thư giải thích rằng: Tuyền ky là viên ngọc đo lường đoán dụng cụ thiên văn thời xưa, lấy từ người Tề thất chính.

Trú cảnh ngược lại âm trên chu cụ tăng thượng cho rằng: Trú là dừng lại nghỉ ngơi, sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa đứng lại chữ viết từ bộ mã thanh trụ.

Kiểm ái ngược lại âm ai cái.

Sát thật ngược lại âm trên kháng giác Hàn Khang Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Sát là cứng chắc, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thạch thanh sát Văn Luận viết chữ sát là sai.

Át vận ngược lại âm trên quán hoạt Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Át là xoay chuyển, sách Thuyết Văn viết từ bộ đấu thanh át.

Ám giả ngược lại âm trên ư câm sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tề Tống khóc mà không có tiếng là ám tục gọi là ám á tức khóc thầm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu âm thanh ám.

Phát tiết ngược lại âm tiên tiết Quảng Nhã giải thích: Tiết là rĩ nước, Mao Thi Truyện cho rằng: Phát tiết, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh tiết cũng viết chữ tiết. Ly tục ngược lại âm ly chi Quảng Nhã cho rằng: Ly là rượu nhạt, sách Thuyết Văn ghi rằng: Thù tạc rót rượu mời nhau, chữ viết từ bộ dậu thanh ly.

Thư trá ngược lại âm trên thất dư Quảng Nhã cho rằng: Thư là con vượn, khỉ. Hán Thư giải thích: Những con khỉ làm trò dối trá, chọc ghẹo. Cố Dã Vương giải thích: Những con khỉ xông tới, gọi là dò xét hậu hạ. Hán Thư viết từ bộ khuyển thanh thư.

Nguyệt xế ngược lại âm xuyên nhuế Đỗ Tử Xuân chú giải sách Chu Lễ rằng: Xế là đào hang xuyên qua. Nay ở Nam Dương gọi là xuyên qua đất tức là đường hầm, gọi là xế xưa nay Chánh Tự viết từ bộ huyệt thanh xế.

Đế phù cừ ngược lại âm trên để kế sách Thuyết Văn cho rằng: Đế là quả dưa, quả bầu, chữ viết từ bộ thảo thanh đới âm giữa là phù ngược lại âm dưới cự ngư là tên khác của hoa sen.

Vi lư ngược lại âm giả ư Quảng Nhã giải thích: Lư là căng ra thư giản. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh lư.

Hạp lư ngược lại âm trên hàm lạp âm dưới lữ cư.

Lai ngũ phù ngược lại âm tế tề nắm giữ công tác cứu tế, ban phát của cải cho người.

Lôi đình âm trên lô đôi viết đúng chữ lôi ngược lại âm dưới định đinh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tiếng sấm nổ chớp nhoáng là đình Quách Phác chú giải rằng: Tiếng nổ bắn ra tung tóe, Thiên Thương Hoét giải thích rằng: Tiếng sấm sét, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Tiếng lôi chấn, tiếng chuông len keng, chỗ gọi là đề xuất ra vạn vật, chữ viết từ bộ vũ thanh đình.

Chi chiêm âm điểm.

Ly chu ngược lại âm trên li tri ly là hạt châu của rồng.

Sâm nhu ngược lại âm như cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu là tạp loạn, lộn xộn, viết đúng là chữ nhu sách Thuyết Văn viết từ bộ mễ thanh sửu.

Khu y ngược lại âm trên khẩu cấu sách Lễ Ký cho rằng: Khu là cắt bỏ hai tay áo, bằng một thước tấc. Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là lấy tay áo giơ lên phía trước Quảng Sơ giải thích: Nâng lên, giơ lên. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh khu Văn Luận viết từ bộ mộc viết thành chữ khu là chẳng phải.

Triệt nhẫn ngược lại âm trên triền liệt sách Bát-nhã giải thích: Triệt là phát ra, ngược lại âm dưới ni chấn Vương Dật chú giải, sách Sở Từ rằng: Nhân là xoay chuyển bánh xe, bánh xe lăn trên đất, sách Thuyết Văn giải thích: Chiếu xe bị chướng ngại, chữ viết từ bộ xa thanh nhẫn.

Uyển túc ngược lại âm trên miễn nguyễn Trương Tấn giải thích rằng: Chân chưa bước thẳng tới chạy nhanh được, chân bị gãy.

Trầm hoàng ngược lại âm hoảng quang Bì Thương cho rằng: Du hoàng là tên của loại thuyền đời nhà Ngô. Ngô Công Tử trước cùng với nước Sở chiến đầu, khi ngưng chiến dùng chiếc thuyền này để chuyên chở quân lính, âm dư là âm dư.

Vạn vị ngược lại âm vi quý nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi, trong quyển Sùng Chánh Lục.

Ngạo vật ngược lại âm trên ngô đáo Khổng An Quốc chú giải rằng: Ngạo là khinh thường, Văn Luận viết từ bộ tâm thích thành chữ ngạo nghĩa cũng đồng.

Phục hy ngược lại âm hứa ky cũng là hiệu của vua Bao Hy. Văn Luận viết chữ hy cũng đồng.

Chuyên hồi ngược lại âm trên triển liên Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Chuyên là chuyển đi, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh chiên.

Khể thúc dạ ngược lại âm trên hệ kê tên của người nước Tấn gọi là Trúc Lâm Thất Hiền.

Nghịch thần ngược lại âm trên là xích chữ chánh thể Văn Luận viết chữ nghịch tục tự thường hay dùng.

Nhượng tai ngược lại âm trên nhương chương sách Khảo Thanh cho rằng: Nhượng là bài trừ, ngược lại âm dưới tể tài chữ chánh thể Văn Luận viết chữ tai tục tự thường hay dùng.

Văn thải ngược lại âm trên vẫn phân sách Khảo

Thanh giải thích rằng: Ngô Việt gọi lụa mỏng có hoa chấm nhỏ là văn âm dưới sai tể sách Khảo Thanh cho rằng: Tấm lụa màu trắng, có màu sắc, lụa màu.

-----------------------------------------

QUYỂN HẠ

Ân vẫn ngược lại âm văn phân sách Thuyết Văn cho rằng: Vẫn là bên mép miệng, chữ viết từ bộ khẩu thanh vật.

Trước hỏa ngược lại âm trên tương dược Tự Thư cho rằng: Tước là cây đuốc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh tước.

Hy cảnh ngược lại âm trên hỷ ky.

Tằng diệu ngược lại âm trên phú đăng Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Tằng nhà nhiều tầng, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thi thanh tắng.

Hấp khí ngược lại âm trên hấp ấp sách Thuyết Văn cho rằng: Hấp là trong thở ra hô hấp, chữ viết từ bộ khẩu thanh cập Văn Luận viết chữ hấp tục tự thường hay dùng.

Giới thận chữ cổ viết chữ thận.

Bính nhiên ngược lại âm trên binh mãnh Quảng Số chú giải rằng: Bính (867) là lửa cháy sáng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hóa thanh bính hoặc là viết chữ bính.

Ngũ tộ ngược lại âm tạng lạc Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tộ là vui vẻ phúc lạc, tên trong cung của Hán Vũ Đế.

Vân hạt ngược lại âm hàn át sách Phương Ngôn cho rằng: Người nước Sở gọi áo bào là hạt sách Đạo Gia Huấn phần nhiều nói là áo. Trên lại viết là vân tức là khí sương hơi ẩm ướt.

Nghê thường ngược lại âm trên nghịch hề Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nghê là mây có màu sắc giống như rồng. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nghê cầu vồng cũng gọi là thường tức là tên bài múa hát do Đường Minh Hoàng tu chỉnh dùng cho vũ nữ ca múa, trên áo có vẽ màu sắc lẫn lộn. Hoặc là màu xanh, màu đỏ giống như cầu vồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cầu vồng cong lại như ráng trời, khí âm, chữ viết từ bộ vũ thanh nghê.

Các vụ ngược lại âm vô phó Cố Dã Vương cho rằng: Vụ là ngựa chạy mau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh vụ.

Đậu duyên ngược lại âm trên đầu lậu Cố Dã Vương cho rằng: Đậu là dừng lại. Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Đậu là đi trốn tránh quanh co, trốn tránh quân địch, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngừng chữ viết từ bộ xước thanh đậu.

Quyến cước ngược lại âm trên quyết huyền ngược lại âm dưới căng lực tên của hai người, tức là sư quyến cước là con.

Đế thường ngược lại âm đề lệ sách Thuyết Văn cho rằng: Đế là buộc lại, chữ viết từ bộ mịch thanh đế.

Đàn toản ngược lại âm trên đản đan Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đàn là đài cao đắp bằng đất, chỗ cúng tế trời, nói là đàn đó buồn rầu, vua Minh Hoàng. Ngược lại âm dưới là toàn toán âm toán là âm toan theo chữ đàn toản đó nghi thức, mỗi ngày phải rót rượu cúng tế đàn là dựng cây đứng bốn mặt khắc vẽ ở trên đất, hoặc là cắm lông lên trên. Như nay người nước Sở mỗi ngày cầu đảo, nên buộc cỏ mao lại làm bó ngắn cắt cho bằng, cắm cây gậy trúc, cắm lên trên, cắm đứng thẳng trên đất, rồi bày ra rượu thơm cúng tế xong rồi mới vất bỏ chẳng phải toán là nghĩa biên tập.

Cao hoang âm trên là cao âm dưới là hoang Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hoang là ngăn che. Cố Dã Vương cho rằng: Bộ vị trong cơ thể dưới tim trên cơ hoành. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm trên ngăn che, đến bộ nhục đến bộ vong thanh vong.

Trầm cố ngược lại âm trầm cố ngược lại âm trên chẩm lâm ngược lại âm dưới cô hộ sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ cổ là bệnh, chữ viết từ bộ tật thanh cổ.

Nhất khái ngược lại âm cai ái Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khái là đong lường, có thể lấy thanh gỗ gạt ngang cho bằng, cái hộc, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh ký.

Khiển nột ngược lại âm trên cư liển sách Chu Dịch giải thích rằng: Kiển đó là khó khăn khó nói. Sách Phương Ngôn cho rằng: Nói Thẳng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn bộ hàn thanh tĩnh ngược lại âm dưới nô ngột bao gồm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nột là trì trệ, chậm lụt, sách Thuyết Văn cho rằng: Khó nói ấp úng, chữ viết từ bộ ngôn thanh nội Văn Luận viết chữ kiển là sai.

Đoàn diêu ngược lại âm trên đoạn loan âm dưới là diêu sách Trang tử cho rằng: Ở Bắc Ninh một loại cá tên này gọi là côn hóa làm con chim. Chim này gọi là đằng vừa đem đến sông minh, nước bắn lên ba ngàn dặm, đưa cao lên lắc lư lay động trên chín vạn dặm giống như mây bao phủ bầu trời rất là kỳ lạ.

Khái thóa ngược lại âm trên khái cái ngược lại âm dưới thổ ngọa.

Tước cao ngược lại âm trên tương dược ngược lại âm dưới cao lão Tự Thư giải thích: Vốn là ngọn cây cỏ chặt ngang, vót nhọn, tước lột da. Nay xem có loại cỏ rơm rạ là nói cảo.

Sưu thủ ngược lại âm trên sở lưu ngược lại âm dưới thâu hựu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Đi săn mùa xuân gọi là sưu đi săn mùa đông gọi là thủ đi cả hai mùa gọi là lạp.

Tiệt quắc ngược lại âm tiền tiết sách Thuyết Văn cho rằng: Tiệt là cắt đoạn, chữ viết từ bộ qua thanh tĩnh ngược lại âm dưới quang hoạch Mao Thi Truyện cho rằng: Quắc là thu hoạch được, không phục đó là giết mà cắt xẻo tai, gọi là quắc Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bắt sống xẻo tay, sách Thuyết Văn cho rằng: Quân chiến đánh bắt được tù binh xẻo tai, chữ viết từ bộ thủ thanh hoặc viết đúng từ bộ nhĩ viết thành chữ hoặc.

Tể hy ngược lại âm hỷ ky.

Phù tỉ ngược lại âm tư thị Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tỉ là ấn tín của vua, cũng viết chữ tỉ Văn Luận viết chữ tỉ là chẳng phải.

Hý vu ngược lại âm trên hy ký Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hy sinh gọi hý Bì Thương giải thích: Hy là biếu tặng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thực thanh khí.

Đỗ bưu ngược lại âm hữu cầu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bưu là quan trông coi điền ruộng giám sát, xem xét bá tánh chỗ làm ruộng, giống, chợ búa. Cố Dã Vương cho rằng: Trạm bưu cục chỗ truyền thông tin thư từ. Quách Phác chú giải rằng: Trải qua trên đường trạm dừng chân nghỉ, cũng viết chữ bưu.

Phân tiêu ngược lại âm biểu niêu sách Thuyết Văn cho rằng: Đàm thiết ngựa chữ viết từ bộ kim thanh tiêu. Thượng tiên âm tiên sách Trang Tử nói rằng: Nhàm chán thế tục, mà cởi mây trăng đi lên đến đế cung. Quảng Nhã cho rằng: Hóa thân sách Thuyết Văn cho rằng: Tiên là bỏ đi trương sanh tức chết chỉ thần tiên, chữ viết từ bộ nhân đến bộ thiên thanh tĩnh.

Lai chúng ngược lại âm phong phụng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phúng đồ vật tặng cho người chết trợ táng như cho xe ngựa gọi là phúng xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bốc thanh mao.

Tiểu tuyệt ngược lại âm trên tiêu tiểu sách Khảo Thanh cho rằng:

Tiểu là giết bỏ, trừ tuyệt hết, cắt bỏ Văn Luận viết từ bộ lực viết thành chữ tiểu là sai.

Chiêu khuẩn ngược lại âm quỳ vẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Khuẩn là loại nấm mọc đất, nấm mốc sách Trang Tử cho rằng: Sớm mọc đến trời tối là héo.

Đại xuân ngược lại âm dưới truất luân sách Trang Tử cho rằng: Cây đại xuân. Tám trăm năm là một mùa xuân. Tám ngàn năm là một mùa thu.

Nghiên xúc ngược lại âm trên niết kiên Quảng Nhã giải thích rằng: Nghiên là người con gái đẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Ghen ghét, chữ viết từ bộ nữ thanh nghiên âm nghiên là âm kiên Văn Luận viết chữ nghiên tục tự thường hay dùng.

Tập liệu ngược lại âm liễu điểu tên loại rau.

Hội quang ngược lại âm đội lôi sách Khảo Thanh cho rằng: Hội là vật rơi xuống hầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Rơi xuống chữ viết từ bộ phụ thanh hội Văn Luận viết đồi là chẳng phải.

Thư thân âm thân sách Luận Ngữ cho rằng: Thân là thắt lưng bản to chỉ quan lại, kẻ sĩ.

*******

THẬP MÔN BIỆN HOẶC LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Phục lễ ngược lại âm trên bằng phúc. Tấn thân ngược lại âm trên tân tín.

La cốc ngược lại âm hồng ốc.

Nải quyến âm trên là nải Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nải giống như chữ nhi nghĩa mà. Cố Dã Vương cho rằng: Nải là đến, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Chữ viết từ bộ tây thanh nải âm nải đó văn cổ viết chữ nải Văn Luận viết từ bộ xước viết thành chữ nải tục dùng chữ chẳng phải, ngược lại âm dưới cư hoãn. Cố Dã Vương chú giải sách Thượng Thư rằng: Quyến là nhìn, Mao Thi Truyện Cố Dã Vương sách Thuyết Văn đều cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ mục bộ quyển thanh tĩnh Văn Luận viết chữ quyển tục tự dùng thông dụng. Thẩn hề ngược lại âm trên thân nhẫn Trịnh Huyền chú giải sách

Nhĩ Nhã rằng: Thẩn là huống, nữa là sách Thuyết Văn cho rằng: Huống chi trợ từ, thần viết từ bộ thỉ bộ dẫn thanh tĩnh Văn Luận viết chữ dẫn tục tự dùng thông dụng.

Ổi tẫn ngược lại âm trên ôi hồi ngược lại âm dưới từ tận Quảng Nhã giải thích: Ôi là ấm áp. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lửa cháy củi lửa còn dư lại tro tàn, viết đúng là chữ tẫn.

Hoan dã ngược lại âm huy viên Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hoan là nói ầm ĩ Thanh Loại giải thích: Ồn ào chữ viết từ bộ ngôn thanh hoan âm quan là âm quán.

Hê kê ngược lại hinh kê hê là loại bọ mắt bay trên lọ rượu cũng gọi là miệt miệt.

Đại cự ngược lại âm cường ngược nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi.

Chân Chánh Luận trong quyển thượng.

Tuyệt lữ ngược lại âm dưới lư trữ Giả Quỳ giải thích rằng: Lữ là xương sống, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Chữ viết từ bộ nhục thanh lữ Văn Luận viết chữ lữ là chẳng phải.

Khiếu diệu ngược lại âm trên cổ điếu sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh khiếu.

Tứ doanh dĩnh tinh sách Khảo Thanh cho rằng: Doanh là biển lớn, gọi là tứ hải tức biển bao quanh đại lục.

Luân hoán ngược lại âm hoan quán Mao Thi Truyện cho rằng: Màu sắc sáng sủa. Sách Thuyết Văn ghi: To lớn rực rỡ, chữ viết từ bộ cũng bộ quỳnh thanh tĩnh.

Mỹ tốc âm tốc sách Chu Dịch cho rằng: Vạc gãy chân đổ thức ăn của vua về sau dùng chữ phúc tốc để chỉ tài năng kém không gánh vác nổi để việc hỏng. Cố Dã Vương cho rằng: Cái vạc thật. Sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thực thanh tốc.

Uế hổn ngược lại âm trên vu phế lại cũng viết chữ uế ngược lại âm dưới hồn khổn Thiên Thương Hoét giải thích rằng: Hổn là chỗ ở của con heo, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhà xí, chữ viết từ bộ vi bộ thỉ trong bộ vi.

Chỉ quỹ ngược lại âm quỳ vị Trương Tấn chú giải rằng: Quỷ là cái sọt đựng cỏ, có thể vận chuyển đất, có thể bỏ đất vào trong sọt mà vẫn chuyển đi, sách Luận Ngữ giải thích rằng: Là trên núi Cửu Sơn, còn thiếu một sọt sách Thuyết Văn giải thích nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ thảo thanh quý.

Tuy sứu ngược lại âm sơ sưu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sưu là chức vụ phó, thứ, sách Khảo Thanh giải thích rằng: Đặt để lẫn lộn thân vào trong đó. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh tạo Văn Luận viết từ bộ trúc viết thành chữ sưu là sai lầm.

Bá liêu ngược lại âm liễu tú cũng viết chữ liêu.

Hiểu yểm ngược lại âm yểm nghiêm Mao Thi Truyện giải thích rằng: Yểm là mây ùn ùn nổi lên che mát. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh yểm yểm cũng viết chữ yểm.

Khu ky ngược lại âm xương chu ngược lại âm dưới kỹ hy.

Hành biển ngược lại âm tiêm niệm Cố Dã Vương cho rằng: Biển là chật hẹp, sách Thanh văn viết từ bộ y thanh biển.

Ách uyển ngược lại âm trên cách viết chánh thể là chữ cách Văn Luận viết chữ ách tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới uyển oán chữ chánh thể cũng viết chữ uyển viết chữ uyển là chẳng phải.

Kiêu hãnh ngược lại âm trên là hiểu kiêu sách Khảo Thanh giải thích rằng: Kiêu chẳng phải phần mà câu được. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh nhiêu ngược lại âm dưới kinh cảnh sách Khảo Thanh giải thích rằng: Hãnh là kích là tôn quý, chỗ gọi là được sủng ái yêu chiều. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân đến thanh hạnh Tự Thư viết chữ hãnh.

-------------------------------------

QUYỂN HẠ

Thương tiếu ngược lại âm tiểu diêu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đau xót chân chính, đầu nhứt đau đầu, Bì Thương cho rằng: Bệnh khát nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ tật thanh tiếu.

Tì cước ngược lại âm trên tự tư sách Khảo Thanh cho rằng: Từ là loại cỏ dùng để lợp nhà, tích chứa đầy, âm dưới là căng ức chữ chánh thể biện Hoặc Luận viết chữ cước là chẳng phải.

Lỗ mang ngược lại âm trên lô đổ âm dưới mạc bổ.

Vẫn nhi ngược lại âm vẫn quân Mao Thi Truyện giải thích: Vẫn là cái bừa làm cỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lỗi thanh vẫn cũng viết chữ vân Văn Luận viết chữ vân tục dùng thông dụng.

Bất lang ngược lại âm lang hàng Mao Thi Truyện giải thích: Lang là giống cỏ hại lúa. Quách Phác chú giải loại cỏ tú. Sách Thuyết Văn giải thích cỏ mọc lộn lẫn trong lúa không thành lúa, lúa lép gọi là đồng lang viết đúng là chữ lang từ bộ thảo thanh lang.

Như để ngược lại âm trỉ ni sách Thuyết Văn giải thích rằng: Để là dòng nước nhỏ chữ viết từ bộ thổ thanh để.

Tích lê ngược lại âm trên bệ kế (868) âm dưới lê đệ sách Khảo Thanh giải thích cỏ thơm.

Khiên phù dung ngược lại âm trên hạt yên sách Phương Ngôn giải thích: Nam Sở gọi nhổ lấy là khiên Thiên Thương Hoét giải thích: Nhổ lấy cũng viết chữ khiên Văn Luận viết chữ khiên cũng thông dụng.

Hòa thúc ngược lại âm thâu lục tục tự, Khảo Thanh cho rằng: Loại đậu viết đúng chữ thúc này.

Mâu lai ngược lại âm trên mặc hầu ngược lại âm dưới lăn cai Lưu Hy chú giải sách Mạnh Tử rằng: Mâu? là lúa mạch có hai loại. Mâu đó nay Bắc Tề sông Hà phần nhiều trồng vào mùa xuân, mùa hè nóng nhiệt, Quảng Nhã cho rằng: Mâu là lúa đại mạch lai là tiêu mạch. Sách Thuyết Văn giải thích: Mâu viết từ bộ mạch thanh mâu xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lai viết từ bộ mạch thanh lai hoặc là viết chữ lai Tự Thư viết chữ lai cùng với Luận Văn cũng đồng.

Kim đọa ngược lại âm đồ ngọa sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ đóng đọa gọi là không cung kính, chữ viết từ bộ tâm thanh đọa hoặc là tóm lược từ bộ phụ chữ đọa cùng với Văn Luận cũng đồng, Văn Cổ viết chữ đọa.

Khẩu cấm ngược lại âm dưới cầm cấm Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cấm là ngậm miệng lại, sách Thuyết Văn viết chữ cấm từ bộ khẩu thanh kim.

Tỷ viên ngược lại âm viễn nguyên sách Khảo công Ký giải thích: Viên là càng xe do người kéo, phàm là viên là có loại xe ba bánh, xe cho người kéo có ba phần xe này dài phần phía trước, một phần ở phía sau, sách Thuyết Văn cho rằng: Xe kéo, chữ viết từ bộ xa thanh viên.

Trì sính ngược lại âm sửu lĩnh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sính là chạy. Quảng Sổ cho rằng: Chạy nhanh, xưa nay Chánh Tự cho rằng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ mã thanh sính âm sính ngược lại âm thất đinh.

Thí nghịch ngược lại âm thí chí Bạch Hổ Thông chú giải rằng: Thí đó giống như là giết hại, nói là thần tử giết vua cha soán ngôi thừa lúc hầu hạ mà giết chết, kẻ dưới giết người trên, chữ viết từ bộ sát tóm lược bộ thí thanh thí.

Lạm thương ngược lại âm trên lam đạm gọi là thấm ướt lên trên, ngâm vào trong nước, ngược lại âm dưới thường chương sách Thuyết Văn cho rằng: Thương là chén đựng rượu, chén có rượu, gọi là thương không có rượu gọi là chí chữ viết từ bộ giác thanh thương Trụ Văn viết chữ thương âm chí là âm chí Bổn Luận viết chữ thương là sai.

Bất nạo ngược lại âm nhiêu xảo Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nạo là quấy rối. Sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiễu loạn, chữ viết từ bộ thủ thanh nhiêu.

Chúng lại ngược lại âm lại đại theo chữ lại này chẳng phải là ống tiêu mà là trong hang núi thâm sâu, tre trúc cây cối rừng rậm mọc um tùm. Gió thổi nhẹ lay động lắc lư nghe nhiều tiếng như ống tiêu thổi vậy. Chỗ gọi là im phăng phắc, im vắng hoàn toàn, chỉ nghe tiếng trúc vi vu, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh lại.

Hàn xiển ngược lại âm xi thiện Hàn Khang Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Xiển dương, đưa cao, mở mang thành tích, phát huy y nghĩa. Thiên Thương Hoét cho rằng: Mở mang.

Mẫn nhiên ngược lại âm trên dân dẫn.

Ban thùy ngược lại âm trên bản man âm dưới là thùy tên của hai người.

Chu tiếp ngược lại âm tiêm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Mái chèo để chèo thuyền, đẩy chiếc thuyền đi tới Văn Luận viết từ bộ chu viết thành chữ tập là chẳng phải.

Họa nghịch ngược lại âm điện lịch loài thủy điểu. Phương nhiêu ngược lại âm nhiêu chiểu tức mái chèo.

Ty xuyết ngược lại âm tri liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Xuyết là thôi nghỉ.

Tức phẩu ngược lại âm phổ hậu sách Thuyết Văn ghi phẩu là phanh ra chẻ cây ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu Văn Luận viết từ bộ thủ viết thành chữ phẩu là chẳng phải.

Hoảng hề ngược lại âm trên hoàng quảng Trương

Tấn giải thích rằng: Hoảng là vẻ thất vọng, muốn bỏ phế. Vu tai ngược lại âm ngu câu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vu là cổ hủ, Trịnh Huyền giải thích: Rộng lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh vu.

Đạm nhĩ ngược lại âm trên đạm lam sách Khảo Thanh cho rằng: Đạm là yên tĩnh. Luận Văn viết chữ đạm là sóng nước nhấp nhô, chẳng phải nghĩa yên tĩnh. Chỉ thanh âm trên là chỉ Thiên Thương Hoét giải thích rằng: Chỉ là bãi cát nổi giữa sông. Theo quán sát kỹ thì là nước trong không chảy, nhìn thấy hình người, nước chảy động thì loạn động, hình ảnh chỉ tức là định hợp là viết chữ chỉ từ bộ thủy là mất đi nghĩa định tâm. Thúc yên ngược lại âm trên thú lục.

Nhi mật ngược lại âm mân tất sách Nhĩ Nhã ghi: Mật là yên tịnh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh mật âm mật đồng với âm trên.

Vị nhiên ngược lại âm trên khẩu quỹ Hà Án chú giải sách Luận Ngữ rằng: Vị là tiếng than. Sách Thuyết Văn ghi: Tiếng thở dài, chữ viết từ bộ khẩu thanh vị.

Tĩnh oa ngược lại âm ô qua tức là con ễnh ương.

Thê trứu âm trên tây ngược lại âm dưới trâu cứu sách Thuyết Văn cho rằng: Tĩnh trứu là xây giếng, chữ viết từ bộ ngỏa thanh thu.

Trạch án âm án Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Án là chim cút. Đỗ Dự giải thích: Chim vàng anh đến mùa xuân thì hót đến mùa thu thì bay đi, viết đúng chữ án.

Vô dịch ngược lại âm doanh tích Văn Tự Điển giải thích: Dịch là nhàm chán chữ viết từ bộ phộc thanh dịch.

Tào tán âm trên tào ngược lại âm dưới tài hạt Quảng Số giải thích: Nói ồn ào, sách Khảo Thanh giải thích: Tiếng nói ồn ào xôn xao của nhiều người cũng viết chữ tào hiến đều đồng nghĩa.

Quỳnh ly ngược lại âm trên quý dinh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quỳnh là đơn độc. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Không có anh em gọi là huỳnh Mao Thi Truyện cho rằng: Không có chỗ nương dựa. Sách Thuyết Văn giải thích: Chữ viết từ bộ tấn bộ quỳnh thanh tĩnh hoặc là viết chữ quỳnh cùng với Văn Luận đều đồng, cũng viết chữ hoàn ngược lại âm dưới lý chi sách Khảo Thanh cho rằng: Ly là quả phụ đàn bà goá. Văn Luận viết chữ ly là sai.

Hôn điếm ngược lại âm đinh niệm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điếm là chìm đắm, khốn khó vì thiên tai lũ lụt. Sách Phương Ngôn giải thích rằng: Chìm xuống nước. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh chấp.

Ngự nhật âm trên là ngự.

Khuých kỳ ngược lại âm trên khuy dịch Bì Thương giải thích: Khuých là lặng lẽ, vắng lặng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ môn thanh khuých.

Kham tiển ngược lại âm trên khảm cam Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kham là thắng. Theo Đại Truyện giải thích: Nhanh chóng, sách Thuyết Văn ghi: Giết, nay Thanh Cổ Văn viết chữ kham Văn Luận viết chữ kham tục tự dùng cũng thông dụng. Âm dưới tiêu tiên gọi là cắt xén chia cắt.

Hổ trùng ngược lại âm trên hồ cổ Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Hổ là chậm rãi, thong thả tiết Tông giải thích: Dũng mãnh Quảng Nhã giải thích: Sai khiến hầu hạ, ngược lại âm dưới tài dụng.

Phưởng phất âm trên phương cương âm dưới là phu vật.

Nãng cấu ngược lại âm trên mang lãng Giả Quỳ giải thích rằng: Nãng là xưa, cố hương, lâu cũ xưa kia, sách Thuyết Văn cho rằng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ nhật thanh nang ngược lại âm dưới câu hầu.

Ái quân tử ngược lại âm trên ai cái sách Khảo Thanh giải thích: Ái là dáng vẻ ôn hòa, từ ái nghĩ ngợi thần tôi tận trung với vua.

Thúy kiện ngược lại âm trên tuy thúy sách Thuyết Văn giải thích: Thâm thúy, chữ viết từ bộ huyệt thanh truy ngược lại âm dưới càn yển sách Chu Lễ giải thích: Quan tuần giữ cửa, móc then chốt khóa cửa thành. Trịnh Chúng giải thích: Kiện là sức mạnh, sách Phương Ngôn giải thích: Gọi là khóa mấu chốt cửa là kiện sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh kiên.

Thám trách âm trên đạm nam âm dưới sĩ cách.

Nhãn hề âm trên nhân chấn sách Luận Ngữ giải thích: Người có lòng nhân, nói lời khiêm nhường nhãn chịu, nhãn cũng là khó nói dè dặt ấp úng, không được nói lời bừa bãi, sách Thuyết Văn nói đốn ngã, chữ viết từ bộ ngôn thanh nhãn.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 88

- Âm Pháp Lâm Pháp Sư Truyện năm quyển.

- Tập Sa-môn Bất Bái Tục Nghi sáu quyển.

Bên phải là hai tập truyện mười một quyển đồng âm với quyển này.

- Chung Nam Sơn Long Điền Tự Thích Pháp Lâm Truyện năm quyển.

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN

TỰA

Ký nải âm trên là kỵ âm dưới là nải Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ký là đến, sách Vận Anh giải thích: Đến kịp, sách Thuyết Văn ghi nhìn thấy rõ, đến gần, chữ viết từ bộ thư thanh ký.

Tuyệt nữu ngược lại âm ni cửu Quảng Nhã cho rằng: Nữu là bó buộc lại. Sách Thuyết Văn ghi rằng: Dùng sợi tơ bó buộc thắt rút lại, thắt nút lại có thể mở ra, chữ viết từ bộ mịch thanh sửu.

Hội cang âm trên đồ lôi âm dưới chữ chánh thể cang. Quảng Nhã giải thích: Hội là thư hoại, Hàn Thi Truyện giải thích: Di vật sách Khảo Thanh cho rằng: Vật rơi xuống, hủy hoại sách Thuyết Văn ghi vật rơi xuống, hủy hoại sách Thuyết Văn ghi vật rơi xuống hầm, chữ viết từ bộ phụ thanh quý hoặc là viết từ bộ thổ viết thành chữ hội nghĩa cũng đồng, Văn Truyện viết từ bộ hiệt viết thành chữ đời chẳng phải dùng nghĩa nầy.

Dĩ vấn âm vấn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vấn là rối loạn chữ viết từ bộ mịch thanh văn.

Nhân diệt ngược lại âm trên nhất dần Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nhân là chìm xuống sách Nhĩ Nhã cho rằng: Rơi xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Chìm xuống vùi lấp, chữ viết từ bộ thủy thanh chân âm nhân đồng với âm trên.

Tông thượng nhân âm trên tàng tống sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tông là lo âu, sách Thuyết Văn giải thích: Vui vẻ chữ tượng hình. Đường Triều tên của Đại Đức Pháp Sư Nhan Tông.

Quân chích ngược lại âm trên quân vận sách Phương Ngôn cho rằng: Quân là nhặt lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhặt lấy chữ viết từ bộ thủ thanh quân âm dưới chinh diệc sách Phương Ngôn giải thích: Chích cũng là nhặt lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng nghĩa là nhặt lấy.

--------------------------------------

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 1

Đàn ngọc điệp ngược lại âm đang an Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đàn là hết tận, chữ viết từ bộ ngạt thanh đàn ngọc diệp đó là Phạm Hiệp Kinh Luận.

Ẩn đồn ngược lại âm độn nộn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tiềm ẩn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Chạy trốn Quảng Nhã cho rằng: Tránh đời hoặc là viết độn từ bộ xước thanh đồn âm đồn là âm đồ hồn.

Khanh hoàng ngược lại âm trên khách hành sách Lễ Ký Tử Hạ giải thích: Tiếng chuông leng keng, đánh chuông nghe tiếng loong soong là khanh sách Thuyết Văn viết từ bộ xa đến bộ chân viết thành chữ chấn hoặc là viết chữ chấn đều là thanh âm dưới là hoằng Mao Thi Truyện cho rằng: Tiếng chuông trống nghe loong boong. Theo Truyện cho rằng: Hòa nhạc sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cũng là hòa nhạc. Quách Phác cho rằng: Hoàng là tiếng trống, sách Thuyết Văn giải thích là tiếng chuông. Tự Thư cho rằng: Hoặc cũng viết chữ hoàng đều là một nghĩa trong truyện lại viết chữ hoằng tục tự thường hay dùng.

Phục giam ngược lại âm hàm ảm theo chữ giam tức là xe nhốt tù, sách Khảo Thanh cho rằng: Xe chở tù nhân, tội phạm. Du Pháp Sư muốn bẻ gãy tà đảng nên khéo léo, trước đưa ra tông khác, sau đó mới cầu thắng còn ẩn tàng trong thức biến hóa, lại chín năm sau, mới ở trong hoàng trung đạo sĩ mà cho rằng người dẫn đường đầu tiên. Xem xét ba trương là ngụy dã dối tà thuật, khom mình xuống mà đi. Phù tiền chương tấu văn, uẩn khúc, hết căn nguyện mới trở về quay lại cội gốc mà chế ra luận. Giống như mảnh thú tiềm ẩn giam mình chờ đợi.

Xuẩn xuẩn ngược lại âm xuân duẫn xuẩn xuẩn là loại côn trùng, bò lúc nhúc (869). Sách Thuyết Văn viết từ bộ côn thanh xuân âm côn là âm côn.

Điên đọa âm trên đinh kiên sách Nhĩ Nhã cho rằng: Điên là trên đảnh núi. Quảng Nhã giải thích rằng: Trên cao, sách Khảo Thanh giải thích: Trên ngọn chót vót lại gọi là chết mất chữ viết từ bộ sơn thanh điên cảnh điên chánh thể, bên phải bộ hiệt bên trái bộ chấn tục viết theo hai bộ chân là sai âm dưới trực loại sách Nhĩ Nhã giải thích rằng: Đọa là rơi từ trên cao xuống. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cao thanh đọa từ bộ phụ thanh đồi tục dùng cộng thêm bộ thổ cũng thông.

Cổn long ngược lại âm trên công bổn nghĩa đã giải thích rồi. Trong quyển Phá Tà Luận.

Tu phát ngược lại âm trên túc du Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tu là râu dưới má, sách Thuyết Văn cho rằng: Lông mặt chữ viết từ bộ hiệt đến bộ sam nay tục dùng cũng viết từ bộ tiêu viết thành chữ tu văn truyện viết chữ tu đều chẳng phải, âm hiệt ngược lại âm hiền kiết âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Tâm tập ngược lại âm bài lập Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Tập là cất giữ, Mao Thi Truyện cho rằng: Đông nhiều, sách Thuyết Văn cho rằng: Cất giấu binh khí, chữ viết từ bộ qua thanh tập.

Huệ lưu âm trên huệ Mao Thi Truyện cho rằng: Huệ là yêu thích. Sách Khảo Thanh cho rằng: Huệ là từ ái, lòng nhân Mao Thi Truyện Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ tâm thanh tuệ Văn Cổ viết chữ tuệ từ ba bộ triết âm tuệ ngược lại âm trên thượng tập.

Trần độc ngược lại âm đồng lộc Cố Dã Vương cho rằng: Độc giống như khinh mạn. Giả Quỳ chú giải rằng:

Khinh lờn Thiên Thương Hoét cho rằng: Dơ uế sách Thuyết Văn giải thích: Chữ viết từ bộ hắc thanh độc âm tiết ngược lại âm tức liệt.

Chi tiếu ngược lại âm tiêu diêu sách Phương Ngôn giải thích rằng: Tề Sở Tống Vệ gọi trách khéo là tiếu Thiên Thương Hoét đều cho rằng: Trách mắng lẫn nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh tiếu.

Xương ngôn ngược lại âm trên xưởng thương sách Trang Tử giải thích: Xương là cuồng vọng. Theo chữ xương mà nói: Như người điên cuồng nói khoát loát, nói như trong hàng quán không đủ tin. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Từ bộ khuyển thanh xương dưỡng.

Chúc dịch ngược lại âm trên chung dục sách Khảo Thanh cho rằng: Chúc là nhìn chăm chăm nhiều con mắt quy về nhìn một chỗ. Tục tự viết đúng chữ chúc âm dưới là diệc tên người.

Nghịch kỳ âm trên là xích theo truyện viết nghịch tục tự viết sai. Chu hàng ngược lại âm hạt lang gọi là chiếc thuyền.

Húc hoa ngược lại âm trên huấn vân ngược lại âm dưới họa qua Đường, Ngu hai tên tự hai vua. Tên của vua Nghiêu. Phóng húc. Tên của vua Thuấn là Trùng Hoa.

Tiếp chủng ngược lại âm dung dũng Cố Dã Vương cho rằng: Dũng là gót chân. Vương Dật chú giải rằng: Tiếp nối kế tục sách Thuyết Văn cho rằng: Truy đuổi, chữ viết từ bộ chỉ thanh dung Bổn Truyện viết chữ chủng là sai.

Tiến lôi ngược lại âm tiền tiến nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi, trong quyển Phá Tà Luận.

Tường tiệm ngược lại âm tương dương ngược âm dưới tiếp diễm.

Quán muộn ngược lại âm trên phân vẫn ngược lại âm dưới môn bổn nghĩa đã giải thích đầy đủ trong Phá Tà Luận.

Sâm độc ngược lại âm trên sơ cẩm âm dưới là độc nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi. Trong quyển Phá Tà Luận.

Nguyên liệu ngược lại âm lực chiểu sách Thượng Thư giải thích: Liệu là lửa cháy lan ngoài đồng ruộng thảo nguyên gọi là liệu sách Thuyết Văn cho rằng: Phóng hỏa chữ viết từ bộ hỏa thanh liệu.

Điếu đẩu ngược lại âm trên điểu liễu ngược lại âm dưới đâu ngẫu nghĩa đã giải thích rồi trong quyển Phá Tà Luận.

Tư duyệt ngược lại âm trên tức dư Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cùng nhau, Trịnh Tiễn chú giải rằng: Đều cùng nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục thanh sơ âm sơ là âm sơ.

Thái tể phi ngược lại âm phi bỉ Truyện viết chữ cũng thông dụng tên Thái Tể.

Tái xưởng ngược lại âm xương lượng sách Khảo Thanh cho rằng: Xưởng là khai mở, sáng sủa, thoáng mát, sách Thuyết Văn viết từ bộ phộc thanh thượng.

Phả trắc ngược lại âm trên bã ma xưa nay Chánh Tự cho rằng: Phả là không thể. Sách Thuyết Văn cho rằng: ngược lại có thể. Tả Thú ghi có thể lường được, âm ma ngược lại ma khả.

Luân ngược lại âm thất bế Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Phế là sanh đôi ngang nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Xứng đôi phối hợp, chữ viết từ bộ nữ thanh bề âm bề ngược lại âm bế mê.

Đồng tẫn ngược lại âm tần tấn viết đúng là chữ tẫn tục âm là tợ tấn chẳng phải.

Thoát tỹ ngược lại âm sư nhĩ giày dép da.

Khảm lẫm ngược lại âm lam cảm sách Khảo Thanh cho rằng: Khảm là long đong, lận đận, chỗ trũng sâu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thổ đều thanh khảm lâm.

Thấu lý ngược lại âm trên thương tấu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Thấu là lớp da bên trong sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng là lớp da bên trong. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhục thanh thấu.

Thanh tù ngược lại âm tựu do Mao Thi Truyện giải thích rằng: Tù là đến gần sát bên, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh tù.

Thẫn đàm ngược lại âm trên thân nhẫn Tư Mã Tương Như chú giải sách Luận Ngữ rằng: Thẫn là mỉm cười Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Răng vốn gọi là thẫn cười lớn thì sẽ thấy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh dậu cũng viết chữ dẫn hoặc là viết chữ trương.

Từ đàn âm đan gọi là hết tận.

Khoa đẩu ngược lại âm trên khổ hòa ngược lại âm dưới đâu khẩu Tự Thư cho rằng: Khoa đẩu là con nòng nọc sống dưới nước đó là con ếch con. Văn Truyện viết chữ đẩu đẩu tức là chữ tượng hình.

Khuých nhiên ngược lại âm khuynh mịch chữ viết từ bộ môn thanh khứu chữ khứu từ bộ mục đến bộ khuyển.

Cổ ngược lại âm cô hộ Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Cổ là bỗng nhiên. Mao Thi Truyện cho rằng: Việc của vua tiêu xài hoang phí. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lam bộ tĩnh thanh cổ.

Quân đạo ngược lại âm trên quân vận sách Phương Ngôn cho rằng: Quân là nhặt lấy chữ viết từ bộ thủ.

Tũng chiếp ngược lại âm trên túc dũng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tũng là sợ hãi, sách Thuyết Văn cho rằng: viết đúng là chữ cụ từ bộ tâm thanh cụ Tự Thư hoặc là viết chữ cụ Văn Truyện viết chữ tũng nay tục dùng thông dụng. Ngược lại âm dưới điềm hiệp sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chiếp cũng là sợ hãi Quách Phác chú giải rằng: Làm cho sợ hãi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh tập.

Chân nãn ngược lại âm minh giản sách Khảo Thanh giải thích rằng: Hổ thẹn đỏ mặt viết đúng là chữ nản.

Tích thị ngược lại âm chi thị sách Thuyết Văn cho rằng: Thị là dòng nước ngưng chảy, chữ viết từ bộ thủy thanh thị.

Câu dũ ngược lại âm do liễu sách Thuyết Văn giải thích: Dũ là nơi đây ngày xưa vua Trụ nhà An cầm tù Chu Văn Vương, lúc đó Văn Vương còn là Tây Bá hầu, cầm tù bỏ trong hang tối, chữ viết từ bộ dương thanh cửu Văn Truyện viết từ bộ cửu viết thành chữ khương là chẳng phải.

Tạp đạp ngược lại âm đàm hạp sách Khảo Thanh cho rằng: Đạp là đi vội, gấp gáp về phía trước, tiếng chân của người đi rầm rập, sách Thuyết Văn cho rằng: Đến kịp, chữ viết từ bộ xước thanh tháp âm tháp đồng với âm trên, âm hạp là âm hợp Văn Truyện viết chữ tháp là sai. Tranh vụ ngược lại âm vô phó Quảng Nhã giải thích rằng: Vụ là chạy loạn lên. Cố Dã Vương cho rằng: Chạy nhanh, phóng nhanh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh vụ.

Chú giải ngược lại âm trên chu cú Quảng Nhã giải thích rằng: Chú là sơ lược. Bì Thương cho rằng: Giải ra. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh chú nay phần nhiều viết chữ chú ngược lại âm chu dụ nghĩa cũng thông, ngược âm dưới giai mại âm giả là chẳng phải.

Tân tư ngược lại âm tư lữ tên người. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tư là xưng người có tài trí. Thôi xán ngược lại âm trên thôi hội ngược lại âm dưới lang thu. Biện hựu ngược lại âm vưu cứu Trịnh Huyền chú giải sách Chu

Lễ rằng: Hựu nay gọi là vườn thượng uyển sách Thuyết Văn giải thích rằng: Vườn có tường bao quanh đó, cho nên chữ viết từ bộ vi thanh hữu âm vi là âm vĩ.

Thiển dung ngược lại âm thiên điển Mao Thi Truyện cho rằng: Thiển là tật đố ghen tỵ Trịnh Tiễn chú giải rằng: Ganh ghét có mặt và mắt sách Khảo Thanh cho rằng: Gọi là không biết xấu hổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ diện thanh kiến.

Tước hỏa âm trên là tước Tự Thư cho rằng: Cây đuốc lớn, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Lấy đuốc phất lên để trừ tà ma yêu quái, chữ viết từ bộ hỏa thanh tước.

Hy siêu ngược lại âm trên sĩ ni tên họ người Văn Truyện viết chữ sát là sai.

--------------------------------------

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 2

Vọng thượng âm trên võng sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy lời nói khinh khi vu oan cho người.

Khám khắc ngược lại âm dưới hằng đắc gọi là đẩy vào khắc lên Cố Dã Vương cho rằng: Theo từ khắc ngược tương cáo chứng cứ khắc vào. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vương pháp người có tội, khắc chữ vào trán, tức là văn cổ khắc chữ tội vào người tội nhân, chữ viết từ bộ lực thanh khắc không từ bộ nhẫn Văn Truyện viết chữ vẫn là sai.

Lụy tiết ngược lại âm trên lụy truy âm dưới tiên tiết Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Lụy là dây màu đen, trói buộc tội nhân câu thúc lại. Xưa nay Chánh Tự đều viết lại từ hai bộ mịch thanh lụy tiết viết đúng là chữ tiết tục viết chữ tiết.

Trữ linh ngược lại âm lịch đinh Thiên Thương Hoét cho rằng: Linh là tiếng kêu leng keng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ linh.

Đảo muội ngược lại âm đao lão sách Khảo Thanh cho rằng: Là tật tâm đạp giả, chữ viết từ bộ thủ.

Thao sửu ngược lại âm trên thảo đao ngược lại âm dưới sô sưu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sứu là làm phó, thứ. Sách Khảo Thanh cho rằng: Thứ tự lẫn lộn bằng nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tạo Văn Truyện viết từ bộ trúc viết thành chữ sứu là sai.

Bổ tào âm trên bổ hồ âm dưới tao.

Xuyết ly ngược lại âm trên xuyên liệt âm dưới là ly. Di trinh ngược lại âm trên mật ty Trịnh Huyền chú giải Nghi Lễ rằng: Tăng thêm, chữ giả tá. Sách Thuyết Văn giải thích viết đúng là chữ di chữ viết từ bộ cung đến thanh di tục viết chữ di.

Khốt nê ngược lại âm trên côn ngột sách Khảo Thanh cho rằng: Nước chảy xiết khuấy động khiến cho nước đục.

Vĩ tông ngược lại âm tộc tông.

Tra lê ngược lại âm trên trắc da Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tra lê đó không che giấu được. Quách Phác chú giải rằng: Cây tra lê, nhánh cây thẳng đứng lá đều màu đỏ, màu vàng hoa màu trắng đen. Thật là xuất phát mọc trên núi cam tra.

Sát trần ngược lại âm trên khổ giác.

Phủ ỷ ngược lại âm y khải sách Chu Lễ cho rằng: Phàm là phong quốc lệnh vị trí các chú hầu bày ra thêu hoa văn, làm tấm bình phong che trong cung. Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Thêu viền làm tấm bình phong che, cho thêu lưỡi búa hoa văn, chỗ gọi là cửa tây, sách Thuyết Văn viết từ bộ hô thanh y.

Khị hích ngược lại âm mi bỉ âm dưới đình lịch Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hịch là nhìn thấy vốn có viết chữ hịch nghĩa giải thích cũng đồng, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kiến thanh độc.

Vi âm ngược lại âm ô sang Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Am là nhà tranh nhỏ. Quảng Nhã cho rằng: Nhà làm bằng cỏ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nghiễm thanh am.

Ác thúc ngược lại âm trên ô học ngược lại âm dưới dũ giác (870) sách Khảo Thanh cho rằng: Là hẹp hòi nhỏ bé vội vã.

Đạo chích ngược lại âm chinh diệc tên người. Theo sách Trang Tử giải thích: Đệ tử của Liễu Hạ Huệ.

Quỳnh viễn ngược lại âm hỏa sính Lưu Truyện chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Quỳnh cũng là viễn tức xa xôi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mân bộ nhân trong bộ huyệt trên âm mân ngược lại âm hỏa liệt.

--------------------------------------

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 3

Khiếu diệu ngược lại âm trên cổ điếu sách Khảo Thanh cho rằng: Ngoài biên giới, sách Vận Thuyên giải thích rằng: Đường nhỏ hẹp, chỗ bít lấp của nước Man Di, sách Thuyết Văn viết từ bộ kích thanh xước âm xước ngược lại âm sửu diệc.

Cự lộc ngược lại âm cự ngữ tên của quận huyện. Viên linh ngược lại âm tỉnh tình tên của đạo sĩ. Ế khí ngược lại âm yên kiết.

Nhi dung ngược lại âm chúng nhung Bì Thương cho rằng: Chung là chết, lâm chung, qua đời. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngạt thanh đông nay từ bộ mịch viết thành chữ chung cũng thông dụng, âm ngạt ngược lại sửu cát.

Thang ngược lại âm tề giới Mao Thi Truyện cho rằng: Trái là bệnh phổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật âm tật ngược lại âm nữ ách thanh tế.

Long đồi ngược lại âm đối lôi Quách Phác chú giải rằng: Đống đất nhô cao. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh chuy cũng viết chữ truy nghĩa cũng đồng.

Lân quân ngược lại âm trên lật chân Công Dương Truyện giải thích rằng: Lân đó là con thú có lòng nhân. Có thánh vương ra đời. Thì kỳ lân xuất hiện ngoài thành. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Quân giống như con hoẳng, thân như con trâu có đuôi một sừng, sừng thẳng có nhục thịt nổi lên. Cố Dã Vương cho rằng: Con đực gọi là quân con cái gọi là lân. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lộc thanh lân cũng viết chữ lân ngược lại âm dưới quỹ quân Công Dương Truyện giải thích rằng: Có con hươu có sừng. Lưu triệu giải thích rằng: Quân tức là con hoẳng. Mao Thi Truyện giải thích rằng: Loài dã thú có con hươu, sách Thuyết Văn cho rằng: Đây là Trụ Văn viết chữ quân viết đúng từ bộ lộc đến bộ khuân thanh tĩnh tục dùng thông dụng, cũng viết chữ quân đều đồng nghĩa.

Lý đam ngược lại âm tha cam tức là Lão Tử sách Quốc Ngữ giải thích rừng: Cột trụ dưới của Sử Bá Dương. Sách Sử Ký cho rằng: Lý Nhĩ.

Đào giảo ngược lại âm trên đạo đao Bì Thương cho rằng: Đào là cái thoi dệt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh đào Văn Truyện viết chữ đào âm thổ điêu là chẳng phải âm đào đồng với âm trên, âm dưới cổ xảo.

Chân loan ngược lại âm trên chân nhân họ người.

Long bả ngược lại âm trên lục trung Thiên Thương Hoét cho rằng: Long là bệnh tật lâu ngày. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật thanh long ngược lại âm dưới ba ma.

Võng nhiêu âm trên là võng sách Khảo Thanh cho rằng: Võng buồn chán thất vọng.

Tuẫn đạo ngược lại âm trên tuần tuấn Ứng thiệu giải thích: Tuẫn là ham danh không kể mạng sống. Sách Ích Pháp giải thích: Vong thân theo vật lợi ích mưu đồ gọi là tuẫn xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngạt thanh tuần.

Tràng kích ngược lại âm trên trạc giang Cố Dã Vương cho rằng: Tràng giống như là đánh sách Thuyết Văn cho rằng: Đập giả nên, chữ viết từ bộ thủ thanh đồng.

Yểm yểm ngược lại âm y viêm Mao Thi Truyện cho rằng: Yểm yểm là an tĩnh. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiểu rõ an tường. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh yểm.

Mô mẫu ngược lại âm trên mô bổ thời xưa tên người đàn bà xấu xí.

Ninh quyết ngược lại âm trên nịnh đinh ngược lại âm dưới quyên huyệt Quảng Nhã cho rằng: Ninh quyết tức là qua loa phi nữ tương công tước. Sách Phương Ngôn nói chim tảng phi từ quan ải mà đến Đông gọi chim ninh quyết tục gọi là người phụ khéo léo là chim nhỏ tức chim đỗ quyên, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ điểu đều thanh ninh quyết âm quyết ngược lại âm cổ khoái.

Nịch la ngược lại âm minh bích âm dưới là la tên của sông. Ở quận trường sa sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh la.

Điền ế âm trên là điền âm dưới là yên kết Văn Truyện viết chữ điền là chẳng phải.

Lan ba ngược lại âm phạ ba sách Thuyết Văn cho rằng: Ba là hoa của cây cỏ, chữ viết từ bộ thảo bộ bạch thanh ba.

Đình phân ngược lại âm phẫn vân Mao Thi Truyện cho rằng: Phân là sương tuyết mờ mịt.

Bát diên ngược lại âm diễn tiên Hán Thư âm nghĩa giải thích rằng: Bát diên là vùng đất xa xôi, nơi hoang vắng vùng biên địa. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh diên.

--------------------------------------

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 4

Tùng tỉnh ngược lại âm tụng dung ngược lại âm trên hồ cổ âm dưới đồng mộc Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải và Hà Đồ Thiên Thương Hoét v.v... gọi là Hoàng Đế đến Nam núi Thang Hư, sông can Huyền hổ, rùa linh thiêng vác pho sách đến dâng cho vua. Này đây tức là sông. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hổ.

Đảm nhĩ ngược lại âm trên đảm cam kinh Sơn Hải giải thích. Đảm Nhĩ là do họ của Quốc Nhậm Quách Phác chú giải rằng: Đảm là thân người có dái tai to lớn rủ xuống vai, sách Thuyết Văn giải thích: Dái tai rủ xuống chữ viết từ bộ nhĩ thanh đảm cũng viết chữ đam Văn Truyện viết từ bộ nhân viết thành chữ đảm cũng thông dụng.

Hiến sâm ngược lại âm dưới sĩ lâm Mao Thi Truyện cho rằng: Sâm là vật báu quý báu vật đẹp là sâm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bộ bối thanh thâm cũng viết chữ sâm.

Ư thước âm trên ô âm dưới thương lược.

Đê dịch âm trên để hề sách Lễ Ký giải thích: Dân chúng của khắp nơi lời nói không thông, ưa thích, ham muốn không đồng, để đạt tới chỗ nhất trí. Thông dụng ưa thích đồng phương Tây gọi kẻ địch là đê địch, Trịnh Huyền chú giải rằng: Đều là thế gian tên gọi khác nhau, dựa theo sự việc, phân loại nói đê là hiểu biết. Nay dựa theo bộ có nói địch đế đó. Quảng Nhã giải rằng: Địch đê là thay đổi, có nghĩa là hoán đổi ngôn ngữ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cách thanh thị âm dưới là diệc.

Huệ trách ngược lại âm sĩ cách tên người.

Côn hoàng ngược lại âm trên hỗn bổn âm dưới là hoàng sách Phương Ngôn giải thích rằng: Côn là lửa cháy rực. Mao Thi Truyện cho rằng: Hoàng sáng tỏ.

Cáp yên ngược lại âm trên thổ hạp sách Trang Tử giải thích rằng: Cáp giống như là cười ha ha, ngẫu nhiên mà cười. Tư Mã Bưu chú giải rằng: Mất đi sự thăng bằng, nên có trạng thái giống như là cười vậy. Sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ khẩu thanh hạp Văn Truyện viết chữ đáp là chẳng phải.

Lỗi thạch ngược lại âm trên lôi tội chữ thượng thanh, cũng viết chữ lỗi.

Tùng giá ngược lại âm da nhã Tả Truyện cho rằng: Cây lục giải trong vườn Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cây sơn quyết, thuộc cây tử cây thị, lá nhỏ gọi là cây giả, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh giả cũng viết chữ giả.

Sủy ma ngược lại âm trên sơ lạng ngược lại âm dưới ba ma Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sủy là suy đoán độ cao. Đánh giá cao thấp, gọi là sủy Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là thương lượng đo lường. Hàng Khang Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Ma là cùng nhau chà xát. Quỷ Cốc Tử nói có hai thiên sủy ma. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thủ đến bộ thuy thanh tĩnh chữ ma Tự Thư hoặc là viết chữ.

Tranh vinh ngược lại âm trên sĩ canh ngược lại âm dưới hoạch mạnh Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tranh vinh là núi cao chót vót nguy hiểm. Quảng Nhã giải thích rằng: Tranh vinh thâm sâu cao xa, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng là chữ thanh giải thích cũng đồng, trên hai chữ đều từ bộ sơn đều thanh tranh vinh.

Sáp hán ngược lại âm trên sơ hạp.

Tà hám ngược lại âm kham cảm Tự Thư cho rằng: Hám là trông mong, nhìn cũng viết chữ khám.

Thư dương ngược lại âm trên sĩ dư âm dưới là dương tên của hai dòng sông ở Đang Dương.

Sổ đô ngược lại âm đổ hồ tức là chữ đô.

Sàm tước ngược lại âm trên sĩ hàm ngược lại âm dưới sĩ giác sách Thuyết Văn giải thích rằng: Tiếng giọt nước nhỏ xuống từng giọt nhỏ ly ty, chữ viết từ bộ thủy đều thanh sàm tước.

Ngô thử ngược lại âm trên ngũ hồ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ngô thử là sóc bay, con chồn sóc Quách Phác chú giải rằng: Hình trạng nó giống như con chồn nhỏ có cánh bay đuôi dài. Cổ và họng có lông màu tím trên lưng màu xanh vàng, dưới bụng vàng trắng, hàm mỏ giống như con chuột chân ngắn, móng dài, đuôi như đuôi chồn bay, lại sinh sống như chuột cho nên gọi là sóc bay, tiếng kêu như đứa trẻ khóc. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thử thanh ngô âm dữu là âm do âm hàm ngược lại âm hàm cảm.

Nghê ngư ngược lại âm nghệ hề.

Phi manh ngược lại âm mạch canh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Có thể ở trên cây hót như đứa trẻ khóc. Manh là cái mè đóng trên rui nhà để móc ngói, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngõa đến bộ mộng thanh tĩnh.

Biện la ngược lại âm trên bí biên Quảng Nhã giải thích: Biện la là xếp hàng ngay thẳng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh biện cũng viết chữ biện Văn Truyện viết chữ biện ngược lại âm bạc đinh chẳng phải nghĩa đây dùng.

Quán thấu âm trên quan oán sách Thuyết Văn giải thích: Quán là rửa tay, chữ viết từ bộ cửu bộ tủy đến bộ mảnh Văn Truyện viết chữ từ bộ thủy viết thành chữ quán là chẳng phải. Ngược lại âm dưới sưu cứu cái chậu rửa mặt súc miệng.

Tăng tiệp ngược lại âm tiềm diệp. Tiêu ngôn âm ngôn tên người.

Bích nhung âm nhung tên cây.

Chỉ câu âm trên kiết dĩ âm dưới câu tên cây, tên núi.

Dược diêu ngược lại âm điều điếu.

Tú nghiểu ngược lại âm ngôn kiển.

Chuyên khảm ngược lại âm trên thuận luân Cố Dã Vương cho rằng: Nay Giang Đông ở giữa sông có loại rong phần nhiều người ta ăn được, ngược lại âm dưới kiềm liểm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Khảm là cây hoa súng, cũng gọi là cỏ đầu gà. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thảo đều thanh duyên khảm.

--------------------------------------

THÍCH PHÁP LÂM BỔN TRUYỆN QUYỂN 5

Nguyên giới ngược lại âm trên hàng tức âm dưới hài giới sách Sở Từ giải thích: Nguyên giới đều là tên sông ở phương Bắc, nửa đêm bốc hơi lên, sương mù tỏa khắp. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ thủy đến bộ nguyên đều thanh giới nguyên.

Mạc tợ ngược lại âm thang lạc Quảng Nhã cho rằng: Áo rộng, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh thạch.

Yểm tư ngược lại âm yểm liên âm dưới là tư Bì Thương cho rằng: Yểm tư là tên núi. Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Suốt ngày ở trong núi.

Húc nhật ngược lại âm hung ngọc (871) Mao Thi

Truyện cho rằng: Húc là mặt trời mới bắt đầu mọc to lớn. Minh nao ngược lại âm náo giáo sách Chu Lễ giải thích: Nao loại chiêng nhỏ, giống như cái mà không có lưỡi, có cán cầm như cái linh, dùng đúng là đánh vào mặt trống, tục gọi là chiêng đồng, cái chũm chọe, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái chiêng nhỏ, chữ viết từ bộ kim thanh nhiêu.

Phi viêm ngược lại âm diệp chiêm Lưu Triệu chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Viêm là rui nhà, Văn Tự Tập Lược viết chiêm âm lữ là âm lữ.

Lị di ngược lại âm lực thị âm dưới di nhĩ. Cập sái âm trên tam hạp âm dưới sa giả.

Văn bì ngược lại âm tỵ tỷ Thiên Thương Hoét giải thích: Bì là mái hiên nhà Thanh Loại ghi: Chái nhà liên kết nhau sách Thuyết Văn cho rằng: Cháy nhà chữ viết từ bộ mộc thanh bề.

Tiếp hiến ngược lại âm hiên yển Thích Danh cho rằng: Hiến là màn xe chỗ gọi là ngăn nóng nhiệt Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là màn thưa che đậy xe trên tức mui xe là hiến xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân thanh hiến.

Liên tiêu ngược lại âm biểu miêu sách Khảo Thanh cho rằng: Thanh gỗ ngang đặt bên miệng ngựa. Sách Thuyết Văn ghi thiết hàm ngựa chữ viết từ bộ kim thanh tiêu.

Át bề âm trên an cát âm dưới bệ mê.

Dục dược ngược lại âm trên dung túc Bì Thương cho rằng: Ngọn lửa cháy rực sáng. Quảng Nhã giải thích lửa cháy rực sáng, ngược lại âm dưới dương tước sách Thuyết Văn giải dương tước sách Thuyết Văn giải dược là lửa cháy lòe rực cháy sáng. Hai chữ đều từ bộ hỏa đều thanh dục dược Văn Truyện viết chữ dược là chẳng phải chữ dục hoặc là viết chữ dục.

Thanh diêu ngược lại âm tất diêu.

Si tương cân ngược lại âm trên trì nhĩ nghĩa đã giải thích rồi trong quyển Phá Tà Luận. Sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh si Văn Truyện viết chữ si là chẳng phải. Âm giữa là tưởng dương sách Khảo Thanh cho rằng: Màu sắc vàng lợt viết đúng là chữ cương xưa nay Chánh Tự viết như vậy.

Điếm tể âm trên thiếp sách Khảo Thanh cho rằng: bàn chân mang guốc gỗ mà đi giẫm đạp lên.

Mậu loạn ngược lại âm trên mâu hầu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Mậu là mắt lờ mờ không thấy rõ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thanh mậu.

Cơ chỉ âm chỉ xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chỉ cũng là cơ tức là nền móng căn bản, chữ viết từ bộ thổ thanh chỉ Văn Truyện viết chữ chích là chẳng phải.

Phân nể âm trên phân âm dưới lê đế yêu khí. Lưu miên ngược lại âm miên biên.

Hội cương ngược lại âm trên đồi lôi sách Khảo Thanh cho rằng: Vật rơi xuống, làm hư hoại, hủy hoại sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ bộ hội thanh tĩnh âm hội đồng với âm trên. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ phụ thanh hội Văn Truyện viết chữ đồi là chẳng phải, ngược lại âm dưới ca hàng.

Hạch kỳ ngược lại âm trên hành cách sách Thuyết Văn Khảo Thanh đều đồng giải, hạch là khảo sát tìm sự thật chữ viết từ bộ á thanh kích âm á ngược lại âm ha giá âm kích là âm dược.

Sí ám ngược lại âm trên sĩ ly ngược lại âm dưới âm diêu tên họ người.

Luân tư ngược lại âm trên luật tư ngược lại âm dưới tức dư sách Vận Lược cho rằng: Tư là chìm xuống, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh tư Văn Truyện viết chữ tiêu tục tự dùng thông dụng.

Bôi huyễn ngược lại âm trên phối mai sách Thuyết Văn cho rằng: Phôi là gạch ngói chưa nung, chữ viết từ bộ thổ thanh bôi ngược lại âm dưới hoàn quán.

Quái ngu ngược lại âm trên cổ mại ngược lại âm dưới ngô cố. Đằng trần ngược lại âm trên thời đăng sách Thuyết Văn viết:

Đằng là ghim lại, dán kín, xung quanh quyển sách có mạ vàng, bọc lại chữ viết từ bộ mịch thanh chẩm.

Oa long ngược lại âm trên ất qua sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là chỗ trũng thấp, bùn ẩm ướt dưới, chữ viết từ bộ huyệt thanh qua.

Mạc nhĩ ngược lại âm trên mang bác âm dưới là nhĩ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mạc là đi xa. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh mạc kinh Văn viết chữ mạc tên loài cỏ chẳng phải nghĩa đây dùng.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Vĩ là tốt đẹp, gắng sức tiến tới, viết đúng là chữ vĩ.

*******

TẬP SA MÔN BẤT ỨNG BÁI TỤC ĐẲNG SỰ LỤC QUYỂN TINH TỰA

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 1

Đoan chấn ngược lại âm thận chân Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Thần là nhà của vua. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ miên thanh thần.

Tiêu ỷ ngược lại âm y khải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khe cửa sổ gọi là ỷ Quách Phác chú giải rằng: Cửa sổ phía đông, cửa sổ phía tây. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hộ thanh y.

Ban tỷ ngược lại âm bát phan theo Thanh Loại cho rằng: Ban là ngựa vằn, có chấm nhỏ xen lẫn với nhau, có màu sắc đẹp, văn lớn nhỏ. Sách Thuyết Văn Tập Lược viết từ bộ đao viết thành chữ ban nghĩa lại khác sách Thuyết Văn cũng viết chữ quyên ban âm giác ngược lại âm dưới sư ỷ theo Thanh Loại cho rằng: Giày dép da, sách Thuyết Văn cho rằng: Guốc gỗ, lại cũng viết chữ tỷ hoặc viết chữ tỷ.

Chi tuấn ngược lại âm tuân tuấn Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tài năng vượt qua ngàn người gọi là tuấn sách Khảo Thanh cho rằng: Có uy lực tài năng khác thường. Sách Thuyết Văn giải rằng: Chữ viết từ bộ ao đến bộ chuy nay tập văn phần nhiều viết chữ tuấn tục tự lại viết từ bộ ao ngang bộ cung.

Thỉ nữu ngược lại âm thi thị Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thỉ là buông dây cung, Quảng Nhã cho rằng: Thong thả, chậm rãi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cung ngược lại âm dưới nữ cửu.

Tinh tầm ngược lại âm tập lâm Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tầm là bến nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Một bên rất sâu.

Sĩ chiếu ngược lại âm trì nhĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Sĩ là cướp đoạt lột da, tháo ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh sĩ tập văn viết chữ sĩ là sai.

Kế tân ngược lại âm cư lệ nước Kế Tân.

Đồng hy ngược lại âm hỷ kỳ Thiên Thương Hoét cho rằng: Hy là làm trò đùa, sách Thuyết Văn cũng viết chữ hy.

Ái nhi ngược lại âm ai đại sách Khảo Thanh cho rằng: Ái là ánh mặt trời mờ một ờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh ái.

Nhân ái ngược lại âm ế lân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhân là thảm nệm, ngược lại âm dưới ai cái sách Nhĩ Nhã giải thích: Ái là dung hòa, lại cỏ cây rậm rạp tươi tốt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh ái.

Tông thượng nhân ngược lại âm tại tông danh tăng. Tũng chân ngược lại âm lạt dũng sách Khảo Thanh cho rằng: Tũng là cao. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ Khảo Thanh hoặc là viết chữ tũng.

Khao tiết ngược lại âm khổ qua Tự Lâm cho rằng: Khoa là to lớn. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khoa là tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh khoa cũng viết chữ khoa hoặc là viết chữ khoa.

Thu lân ngược lại âm lật lữ sách Khảo Thanh cho rằng: Lân là con đom đóm. Mao Thi Truyện cho rằng: Đom đóm chiếu sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ sinh thanh lân cũng viết chữ lân.

Xuân oa ngược lại âm ô qua chữ oa nghĩa kỳ lạ. Thanh trọc sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là con ễnh ương viết đúng là chữ oa.

Thần hạp ngược lại âm sơn giáp tên người.

Khôn tước ngược lại âm khổ côn sách Thuyết Văn ghi khôn là cạo tóc chữ viết từ bộ tiêu thanh ngột.

Vương mật ngược lại âm di tất tên người.

Quyến miến âm quyết quyện Mao Thi Truyện giải thích: Quyến là liếc nhìn ngoái đầu lại nhìn. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nhìn sách Thuyết Văn viết từ bộ mục bộ quyển thanh tĩnh âm dưới mạc biên sách Thuyết Văn cho rằng: Miến là liếc nhìn, liếc xéo, nhắm bên mắt còn một bên nhìn, chữ viết từ bộ mục thanh miến âm miến ngược lại âm di diễn.

Hoạch nhiên ngược lại âm hồ mạch Quảng Nhã giải thích: Hoạch là hiểu biết, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hoạch Di nùng ngược lại âm mật di Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng, cho rằng: Là nhiều tràn đày, sách Thuyết Văn viết từ bộ cung thanh nhĩ tập văn viết chữ di tục tự thường hay dùng âm dưới nữ long sách Thuyết Văn cho rằng: Nùng là nhiều đậm đặc, dày.

Huỳnh kỳ ngược lại âm ô định sách Bát-nhã giải thích Huỳnh là tô điểm. Lại cũng viết chữ huỳnh.

Miến chí ngược lại âm di diễn Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Miến là tưởng chớ đến, Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Bạc bẽo, xem thường sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh diện cũng viết chữ miến.

Thuyên đế ngược lại âm thất nghi Tư Mã Bưu chú giải Trang Tử rằng: Thuyên là cái nơm cá, sách Thuyết Văn viết từ bộ trú thanh thuyên tập văn viết từ bộ thảo viết thành chữ thuyên là chẳng phải nghĩa này.

Tông triệt ngược lại âm trực liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là vết của bánh xe. Tập Lược cũng từ bộ túc viết thành chữ triệt là chẳng phải.

Kính tập ngược lại âm trắc lập Tự Lâm giải thích: Phàm là thâu thập cất giấu gọi là tập Mao Thi Truyện cho rằng: Tập là tụ họp, sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh tập âm tập ngược lại âm thất nhập.

Hòa thượng ngược lại âm hiệu cao sách Vận Lược giải thích: Hào cây cầu bắt ngang sông. Trang Huệ cho rằng: Chỗ vượt qua, Cố Dã Vương cho rằng: Tên dòng sông, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hào.

Ký dương ngược lại âm hy ký Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ký là thức ăn nóng gọi là sáng Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Lấy con vật cúng tế gọi là khí khi cũng giống kho chứa vật để cho phân phát ra. Bì Thương cho rằng: Dâng thức ăn lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh khí.

Thích phát Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Thích là cạo cắt tóc, viết đúng chữ thích Văn cổ viết chữ định.

-----------------------------------

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 2

Đồn thế ngược lại âm đồ đốn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đồn là chạy trốn, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ẩn náu trốn tránh. Quảng Nhã cho rằng: Trốn tránh, lại cũng là bỏ đi viết đúng chữ đồn cũng đồng, hoặc là viết chữ đồn.

Quan kiện ngược lại âm cổ hoàn âm dưới kiền kiển sách Chu Lễ quan giữ của dòng mấu chốt khóa lại của thành. Sách Phương Ngôn giải Quan Đông gọi là mấu chốt khóa cửa gọi là kiện.

Ky tử ngược lại âm kinh kỳ Quảng Nhã giải thích Ky là nhà trọ, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Chữ viết từ bộ võng đến bộ ky tập văn viết chữ ky chữ cổ.

Cổ tẩu ngược lại âm cô ngũ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Không có con mắt gọi là cổ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mục thanh cổ ngược lại âm dưới tô tẩu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Có con mắt mà không có con ngươi gọi là tẩu sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh tẩu tập văn viết chữ tẩu là chẳng phải.

Hầu lương ngược lại âm hậu cấu Mao Thi Truyện cho rằng: Hầu là thức ăn, sách Thuyết Văn giải thích, thức ăn khô, chữ viết từ bộ thực thanh tập văn viết chữ hầu tục tự thường hay dùng, âm dưới lực trương Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lương là thức ăn khô dự trữ, thức ăn đầy đủ thức ăn ngon sách Thuyết Văn cho rằng: Lương thực thuộc ngũ cốc, cũng viết chữ lương thực.

Quân văn ngược lại âm cổ loạn Mao Thi Truyện giải thích: Thủy điểu có mỏ dài, tiếng hót vui tai. Trịnh Tiễn giải thích: Loài thủy điểu, mây kéo đến trời (872) mưa là hót. Mục Thiên Tử Truyện giải thích: Quán là chim giống hạt bay một ngày tám trăm dặm. Quách Phác giải thích rằng: Loài ngỗng trời sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu đến bộ quan âm dưới là văn.

Nô độn ngược lại âm nổ hồ sách Bát-nhã giải thích rằng: Nô là ngựa tồi, sách Lễ Ký giải thích: Tín Niên cởi con ngựa tồi. Cố Dã Vương cho rằng: Trong sáu loại ngựa đây là loại ngựa thấp nhất.

Địch tự âm trên thính lịch sách Nhĩ Nhã giải thích: Địch là xa xôi, viết đúng là chữ địch.

Long phù ngược lại âm phù hữu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đất không có đá sỏi gọi là phụ chữ tượng hình tập văn viết là chữ là chẳng phải.

Tẫn bảo ngược lại âm tần tín Thiên Thương Hoét cho rằng: Tẫn là tài vật hàng hóa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bối thanh tẫn.

Manh giai ngược lại âm mạch canh sách Bát-nhã cho rằng: Manh là ngu si tức là nông dân, sách Thuyết Văn cho rằng: Người làm ruộng chữ viết từ bộ điền thanh manh.

Cánh hiệu ngược lại âm hồ đáo Khổng An Quốc chú giải. Điệu là ra lệnh, tập ăn viết chữ hiệu là sai.

Đảng ngôn ngược lại âm đang lãng Thanh Loại giải thích: Đảng là lời nói khéo, Cố Dã Vương giải thích: Đảng là nói thẳng.

Khỉ dư ngược lại âm ỷ tri Mao Thi Truyện cho rằng: Ỷ là thân từ, ái chà, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển thanh y ngược lại âm dưới chữ chư Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dư là từ ngữ biểu thị nghi vấn, Vận Lược giải thích cũng viết chữ dữ.-----------------------------------

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 3

Khiển ngạc ngược lại âm cư triển sách Chu Dịch giải thích: Kiển là khó nói, sách Phương Ngôn cho rằng: Kiển là nói ngọng nghịu, sách Sở Từ Quách Phác đều giải rằng: Thông ngữ của người phương Bắc, theo Thanh Loại cho rằng: Cũng viết chữ khiển âm dưới ngã các Cố Dã Vương cho rằng: Ngạc là nói thẳng ngay, Quảng Nhã giải thích: Ngạc là nói thẳng thắn.

Chi trục ngược lại âm chung lục Hán Thư âm nghĩa giải thích rằng: Trục là dấu vết của ba bánh xe, cũng gọi là dấu chân đi qua trục.

Lại hương ngược lại âm lai cái.

Du hiên ngược lại âm dĩ chu Mao Thi Truyện giải thích rằng: Là xe nhẹ, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh tù âm tù với âm trên, âm dưới hứa ngôn Tả Truyện giải thích xe nhỏ chở vua hay sứ thần, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh vu.

Liệu thái ngược lại âm liễu điêu sách Nhĩ Nhã giải thích rằng: Liêu là quan lại cũng viết chữ liệu âm dưới thương cải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thái là đất thuộc nhà quan, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ miên thanh thái.

Cực thiệp ngược lại âm khi sử sách Nhĩ Nhã giải thích rằng: Cực là số nhiều, âm số là âm tố lại âm cạch lực. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhị đến bộ nhân đến bộ khẩu đến bộ hựu âm hựu là âm thủ nói người quân tử sống giữa trời đất là dựa vào tay và miệng, là cực.

Oa long ngược lại âm ô qua sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là chỗ trũng thấp hoang sơ dưới ẩm thấp, chữ viết từ bộ huyệt thanh oa ngược lại âm dưới lực trung.

Cửu cai ngược lại âm cải hải Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Cửu cai là trời đất chữ viết từ bộ thổ thanh cai.

Tàm ngược lại âm tạp hàm sách Thuyết Văn cho rằng: Tàm là xấu hổ chữ viết từ bộ tâm thanh trảm ngược lại âm thiên lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dịch là lo âu, Mao Thi Truyện cho rằng: Thích là thận trọng lo lắng, âm đao là âm đao sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh dịch.

Đề bại ngược lại âm đệ tây sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đệ là giống như lúa tắc, tên gọi khác của hoa rụng giống như cỏ dại, sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh đệ âm dưới bổ mại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bại giống như lúa thóc nhưng không phải lúa thóc loại lúa ma, có hạt lép sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh bại.

Điêu ngoa ngược lại âm điểu liêu sách Thuyết Văn cho rằng: Điêu khắc chạm trổ, vẽ hoa văn viết đúng là chữ điêu văn cổ viết chữ điêu.

Thiết phục ngược lại âm thiên tiết Trịnh Huyền chẳng sách Lễ Ký rằng: Thiết là kẻ trộm sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ huyệt bộ cam bộ mễ bộ cao tập văn viết từ bộ tường viết thành chữ thiết.

Thiên quyển ngược lại âm quyết quyển trước đã giải thích rồi. Khô trước ngược lại âm khổ cô Khổng An Quốc chú giải Thượng Thư rằng: Khô là phanh ra, khoét ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh khoa âm dưới trắc lược Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trước là chém chặt, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tước lột, vót nhọn Quảng Nhã giải thích đoạn ra sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh tích.

Phất mị ngược lại âm mị ba gọi là tiêu dùng, tiêu tiền.

Bác tạp ngược lại âm bang giác Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Con ngựa có lông vằn, không đều nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Bác là ngựa không thuần màu, chữ viết từ bộ mã thanh bác.

Trâm phất ngược lại âm trắc lâm Thiên Thương Hoét giải thích: Trâm là cây trâm, người con trai lấy cây trâm cứng cài lên đầu người con gái, làm trang sức, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh tán ngược lại âm dưới phân vật Thiên Thương Hoét giải thích: Phất là dây thao buộc ấn sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh phất Tự Thư cũng viết chữ bái.

Nghiên hạch ngược lại âm ngũ kiên sách Bát-nhã giải thích: Nghiên là suy nghĩ chín chắn, kỹ càng, sách Thuyết Văn viết từ chữ nghiên ngược lại âm dưới hành cách sách Thuyết Văn cho rằng: Hạch là khảo sát sự thật chữ viết từ bộ tây thanh kích.

Nghĩa tạ ngược lại âm tình dạ sách Chu Dịch giải thích: Tạ là cùng cỏ mao trắng. Cố Dã Vương giải thích: Tạ là cỏ héo, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tịch. Di chương ngược lại âm dĩ chỉ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Di là phép tắc, sách Nhĩ Nhã cho rằng:

Thường, sách Thượng Thư cho rằng: Di là dựa theo luân thường đạo lý, sách tất cả viết từ bộ mịch bộ mễ bộ cũng bộ kệ.

Trung đạo ngược lại âm trúc long sách Thuyết Văn cho rằng: Trung là lời nói từ đáy lòng chân thật răn dạy, chữ viết từ bộ y thanh trung tập văn viết chữ trung là chẳng phải.

Phục nhẫn ngược lại âm nhân chấn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nhẫn là khúc gỗ chèn bánh xe sách Thuyết Văn cho rằng: Chiếc xe bị trở ngại vật, chữ viết từ bộ xa thanh nhẫn.

Huyên bằng ngược lại âm huyết huỳnh sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng nhỏ bay là đà, chữ viết từ bộ vũ thanh hoàn ngược lại âm dưới bổ đằng sách Trang Tử nói rằng: Ở phía Bắc sông tên của con cá gọi là côn côn hóa chim gọi là bằng.

Vãn án ngược lại âm điểu giản Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Án là tên của loại chim ưng, hoặc là viết chữ án.

Sam... ngược lại âm sở hàm Mao Thi Truyện cho rằng: Sam là dụng cụ trừ cỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo đến bộ thù âm dưới thể kế Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thế là bới cỏ, cắt cỏ, bới móc rễ lên thiêu đốt, không cho cỏ mọc trở lại mưa lớn giáng xuống đất thêm màu mỡ tốt có thể cày ruộng trồng trọt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh trĩ.

Đế phân ngược lại âm đinh kế theo Thanh Loại giải thích rằng: Đế là cuống của trái cây, âm dưới là phương văn sách Phương Ngôn nói: Cỏ thơm.

Tảo thủ ngược lại âm sưu đao Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài nam Tử rằng: Tảo là gãi, sách Thuyết Văn cho rằng: Gãi là ngứa cào, chữ viết từ bộ thủ thanh tảo.

Môn tâm ngược lại âm mạc bôn theo Thanh Loại cho rằng: Môn là sờ mó sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ thủ thanh môn.

Hụy can ngược lại âm hứa quy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Huy là hủy bỏ, hủy hoại, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ thanh tùy.

Duệ tưởng ngược lại âm duyệt tuế Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Duệ là sáng suốt. Quảng Nhã cho rằng: Trí tuệ, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Là thánh trí sách Thuyết Văn viết từ bộ duệ đến bộ mục đến bộ cốc thanh tĩnh văn cổ viết chữ duệ Trụ Văn viết chữ duệ là chẳng phải âm duệ ngược lại âm tại an.

Hoài duyên ngược lại âm duyệt tuyền sách Khảo Thanh cho rằng: Duyên là loại nguyên tố hóa học, sách Thuyết Văn cho rằng: Duyên là kim loại màu xanh chữ viết từ bộ kim thanh duyên.

Vạn lại ngược lại âm lai đái sách Vận Thuyên cho rằng: Lại là loài cỏ. Cố Dã Vương, Ngọc Thiên cho rằng: Thuộc cỏ ngãi, cũng gọi là cỏ Mộc Liên loại thuốc, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh lại.

Thiển nhan ngược lại âm trên thiên điển sách Vận Thuyên cho rằng: Xấu hổ nét mặt bẽn lẽn, sách Vận Anh cho rằng: Xấu hổ đỏ mặt, hoặc là viết chữ thiển sách Khảo xấu hổ nhục mặt mày bẽn lẽn, sách Thuyết Văn cho rằng: Xấu hổ thẹn cả mặt, chữ viết từ bộ diện thanh kiến.

Nãn úy ngược lại âm nữ giãn sách Thuyết Văn cho rằng: Nãn là hổ thẹn đỏ mặt, chữ viết từ bộ xích thanh niễn âm niển là âm triển chữ viết từ bộ bì là chẳng phải.-----------------------------------

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 4

Bái vương phủ ngược lại âm bổ cái tên quận.

Xung tịch ngược lại âm tình lịch sách Phương Ngôn giải: Tịch là an tĩnh, sách Thuyết Văn ghi: Không có tiếng người, xưa viết chữ tịch hoặc là viết chữ tịch nay thông dụng viết chữ tịch.

Nhẫn truy ngược lại âm nữ nĩ Cố Dã Vương cho rằng: Nhẫn là sợi dây, sợi chỉ xâu kim. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Nay cũng viết chữ tuyến là sợi chỉ xâu kim, là nhẫn Quảng Nhã giải thích: Nhẫn là nứt ra, áo rách may vá, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh thẫn âm dưới tử tắc Mao Thi Truyện cho rằng: Truy là mảnh lụa thâm, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh truy âm truy là âm truy sách Tập Văn viết chữ truy tục tự thường hay dùng.

Khể tảng ngược lại âm hề lễ sách Khảo Thanh cho rằng: Lễ bái mà đầu sát tận đất, tay thi lễ, sách Bát-nhã viết chữ khê âm dưới tang lãng sách Phương giải thích: Tảng là cái trán. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Khể tảng gọi là khấu đầu nơi đất.

Cổ tập ngược lại âm trên cơ ngũ gọi là cổ động sách Thuyết Văn viết từ bộ khải đến bộ phộc ngược lại âm thảo đao sách Tập Văn viết từ bộ bì viết thành chữ cổ là sai. Âm thụ ngược lại âm chu thu ngược lại âm dưới tử diệp Mao Thi Truyện cho rằng: Tập là mái chèo, chèo thuyền. Lại cũng viết chữ trạo cũng viết chữ tập.

Chu hàng ngược lại âm hồ lang sách Phương Ngôn cho rằng: Hàng là tên một chiếc thuyền, sách Thuyết Văn viết từ bộ chu thanh nguyên Tập Văn viết chữ hàng tục tự thường hay dùng.

Thám trách ngược lại âm tha hàm sách Thuyết Văn ghi: Thám là dò xét thử nghiệm thương thuyết lấy tin từ xa, chữ viết từ bộ thủ thanh thám âm thám âm thâm ngược lại âm dưới sĩ trách Lưu Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Trách là rất thâm u. Sách Thuyết Văn viết từ bộ di thanh trách sách Tập văn viết chữ trách tục tự thường hay dùng.

Đãng ngược lại âm đỗ lãng sách Thuyết Văn cho rằng: Đãng là đoán nơi qua lại, đã qua, trì hoãn, chữ viết từ bộ miên thanh thạch.

Yểu minh ngược lại âm trên yêu điểu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Yểu là u tịch, sách Thuyết Văn ghi: Sâu xa chữ viết từ bộ huyệt thanh yểu ngược lại âm dưới mạc bình Mao Thi Truyện cho rằng: Minh là đen tối sách Thuyết Văn cho rằng: U ám từ bộ nhật đến bộ lục gọi là đến ngày mười sáu, trăng bắt đầu khuyết nên gọi là tối, thanh tịnh.

Nghi nhĩ ngược lại âm trên ngư lực chữ chỉ ý núi rất cao chót vót, ngược lại âm dưới nghi chỉ.

Viên trạm ngược lại âm trực giảm theo chữ trạm giống như lóng, trong, sạch. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nước lóng trong, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh thậm.

Nục kim ngược lại âm nữ lục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nục là thẹn thùng đỏ mặt, Quảng Nhã cho rằng: Ái náy thẹn thùng, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh sửu.

Sô nhiêu ngược lại âm trên trắc câu âm dưới hiểu nhiêu Mao Thi Truyện giải thích: Cắt cỏ nuôi súc vật, loại cỏ mao lợp nhà.

Tôn trở ngược lại âm tổ côn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: tôn là dụng cụ đựng rượu, sách Thuyết Văn viết chữ tôn lại viết chữ tôn cũng viết chữ tôn âm dưới trắc sở Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Trở là cái mâm đựng đồ cúng tế, sách Phương Ngôn cho rằng: Thớt xắt thịt sách Thuyết Văn viết từ nửa bộ nhục bên bộ thư.

Hoạch văn ngược lại âm huyết quyên Thiên Thương Hoét cho rằng: Hoạch là treo lên cao, có sách viết là cầu sách Thuyết Văn giải: Nói lưu loát, trôi chảy. Lại nói lời không thật chữ viết từ bộ ngôn thanh huỳnh Tập Văn lại viết chữ huỳnh là không thành chữ.

Tiếp hoặc ngược lại âm tư giáp Hàn Thi Truyện giải thích rằng: Tiếp là thấm ướt thấu suốt, biến khắp. Mao Thi Truyện cho rằng: Tiếp là đạt đến, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hiệp ngược lại âm dưới vinh hức âm hức ngược lại âm huynh vực Mạnh Tử cho rằng: Vực là chỗ ở (873) sách Thuyết Văn cho rằng: Đất phong cho hoặc là viết từ bộ thổ thanh hoặc.

Thái huyến ngược lại âm huyết quyên Tư Mã Bưu chú giải sách Luận Ngữ rằng: Huyễn là mạ màu sắc rực rỡ. Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Màu ngũ sắc hoa văn gọi là huyến sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch đến bộ huyễn.

Ca-nhị-sắc-ca ngược lại âm ni trí tiếng Phạm hiệu của vua.

Thân vu ngược lại âm y vu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vu là ngoằn ngoèo, quanh co, sách Thuyết Văn cho rằng: Vây quanh, quấn quanh, chữ viết từ bộ mịch thanh vu.

Chi tất ngược lại âm tân mật Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tất là ngăn cấm đường đi, ngày xưa vua di hành cấm không được đi lại và phải quét dọn đường sạch sẽ. Như thời nay gọi là cảnh báo ngăn cấm đường, chữ viết từ bộ túc thanh tất.

Ngưng quỳnh ngược lại âm ngư lăng ngược lại âm dưới huyết huyện Lưu Triệu chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Quỳnh là sâu xa, sách Thuyết Văn giải thích: Chữ viết từ bộ mân trong bộ nhân bộ huyệt trên âm mân là âm quynh liệt.

Hy đế ngược lại âm đê hề Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đế là kết buộc lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kết buộc lại không mở ra, chữ viết từ bộ mịch thanh đế.

Lý mộng ngược lại âm mặc đặng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mộng là sầu muộn. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hổ thẹn, hoặc là viết chữ mộng.

Hấn đại ngược lại âm hứa cẩn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng; Hấn là có tội, sách Thuyết Văn viết từ bộ phân đến bộ dậu sách Tập Văn viết từ bộ xuyên viết thành chữ hấn là chẳng phải.

Thính chúc ngược lại âm dung nhục sách Vận Lược giải thích: Chúc là nhìn chăm chú, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mục thanh chúc Tập Văn viết chữ chúc tục tự thường hay dùng.

Hoàn trung ngược lại âm hoạt quan Lưu Triệu chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Hoàn là đất của vua bao gồm trong thành ngàn dặm, sách Thuyết Văn viết từ bộ miên thanh hoàn.

Thỉ pháp ngược lại âm thi để trước đã giải thích rồi. Vấn điển ngược lại âm văn phấn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vấn là tơ rối loạn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh văn Tập Truyện viết chữ vấn là sai chẳng phải.

Nhi cổ ngược lại âm vân bút Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cốt là nước cuốn trôi đi, sách Phương Ngôn cho rằng: Nước chảy xiết, chữ viết từ bộ thủy thanh viết là âm việt.

Tuần cự ngược lại âm tuẫn tuân Bát-nhã giải thích: Tuần là loài cầm thú hay quấy nhiễu, được huấn luyện cho thuần thục ngoan. Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Tuần là đi theo, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh xuyên.

Bất sủy ngược lại âm câu ủy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sủy là đoán, đánh giá, sách Thuyết Văn cho rằng: Đo lường, chữ viết từ bộ thủ bộ thụy thanh tĩnh.

-----------------------------------

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 5

Giác nhi ngược lại âm giang nhạc sách Bát-nhã giải thích rằng: Giác là sáng sủa, tranh tài đọ sức, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh giảo.

Đậu lô giản ngược lại âm cổ hạn tên người. Tập Văn viết từ bộ đông viết thành chữ giản là sai.

Bạch hồng ngược lại âm hồ công sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cầu vồng có nhiều màu sắc. Mây trắng kết cầu vồng trắng cuộn lại hơi đóng thành băng.

Bi giáo ngược lại âm ty chi Mao Thi Truyện cho rằng: Bi là dày sách Bát-nhã cho rằng: Tốt lành phép tắc, khuôn phép, sách Thuyết Văn cho rằng: Tăng thêm, chữ viết từ bộ thị thanh ty.

Tài cao ngược lại âm tại lai Đông Quán Hán Ký giải thích: Tài là cần mẫn siêng năng, sách Khảo Thanh cho rằng: Tạm thời, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh sàm âm sàm ngược lại âm sang hàm.

Mô bái âm mạc Quách Phác chú giải sách Mục Thiên Tử rằng: Mô là quỳ lễ Phật xưng Nam-mô, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh mạc.

Độc thiên ngược lại âm đình lịch Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Độc là nhìn thấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kiến thanh độc.

Phủ cốc ngược lại âm phương vũ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Phủ là thêu thùa, văn vẽ, hoa văn. Quách Phác chú giải: Phủ là thêu văn vẽ, thêu để trang sức trên lễ phục ngày xưa, phủ là thêu hình như cái búa, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Dùng con cừu non và con chồn thêu lông trắng đen xen tạp gọi là phủ sách Thuyết Văn viết từ bộ thỉ thanh phủ âm trĩ ngược lại đinh trĩ âm dưới hồng cốc Thích Danh cho rằng: Sợi tơ, sợi bông, sách Thuyết Văn cho rằng: Lưới võng, chữ viết từ bộ mịch thanh cốc.

Miệt biện ngược lại âm tiên diệt Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Miệt là chim trĩ, chỗ gọi là côn trùng hóa thành, kinh Sơn Hải cho rằng: Núi Hoa Sơn có nhiều loài chim màu đỏ, Quách Phác chú giải rằng: Thuộc chim trĩ, trên đầu màu đỏ, trên lưng màu vàng ánh, đầu màu xanh, đuôi màu đỏ, có bộ lông sáng rực rỡ, sách Nhĩ Nhã giải thích: Giống như con gà mà nhỏ ở núi. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Miệt là con chim trĩ ở núi, đến mùa thu, mùa đông là bay vào biển hóa làm con sò, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh tệ âm dưới bì biến sách Thuyết Văn cho rằng: Biện là miển, bỏ ra.

Nhược sân sách Lễ Ký giải thích: Hai mươi tuổi gọi là nhược tức đã đội mũ, ngược lại âm dưới sơ cận Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đứa bé trai tám tuổi thay đổi, hủy bỏ răng sữa gọi là sấn sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh thất Tập Văn viết từ chữ sấn là sai chẳng phải.

Kiềm đầu ngược lại âm kiểm liêm Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kiềm là đầu đen, đời nhà Tần dùng từ này để chỉ dân đen sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh kim.

Đạm bạc ngược lại âm đạm lam ngược lại âm dưới bàn bác.

Tân tân ngược lại âm sở trân Mao Thi Truyện cho rằng: Tân tân là đông nhiều, lại kéo dài lê thê thườn thượt, sách Thuyết Văn viết bằng bộ thảo thanh tân.

Trường ế ngược lại âm y kế sách Thuyết Văn cho rằng: Kế là gom góp tập hợp lại, chữ viết từ bộ thủ thanh ế.

Tỷ cáo ngược lại âm tư tử Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tỷ là ấn tín, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Phong thư, Ứng Thiệu chú giải sách Hán Thư rằng: Vật làm tin, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngọc thanh nhĩ ngược lại âm dưới cao hiệu sách Nhĩ Nhã giải thích: Cáo là khuyên răn. Xưa đó là hiệu của vua nay lấy căn làm gắng sức khích lệ.

Thư dịch ngược lại âm doanh ích Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dịch là nhàm chán, sách Thuyết Văn giải thích: Suy sụp, rốt cuộc, cởi bỏ, chữ viết từ bộ phộc thanh dịch Tập Văn viết từ bộ khuyển viết thành chữ dịch là sai.

Quý tạc ngược lại âm quỷ vị Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quý là xấu hổ, thẹn thùng, sách Bát-nhã giải thích: Xấu hổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ quý ngược lại âm dưới tàng tác sách Thuyết Văn cho rằng: Tạc là hổ thẹn, thẹn thùng, sách Thuyết Văn cho rằng: Tạc là xấu hổ, chữ viết từ bộ tâm thanh sạ.

Nghê quốc ngược lại âm ngũ hề gọi là sư tử con, hoặc là viết chữ kỹ.

Thông sơn ngược lại âm thô hồng Tập Văn cho rằng: Viết chữ thông là sai.

-----------------------------------

TẬP SA MÔN BÁI TỤC NGHI TỰA QUYỂN 6

Trình sĩ ngung ngược lại âm ngu cung.

Du tà ngược lại âm du chu sách Thuyết Văn cho rằng: Du là nịnh hót, chữ viết từ bộ ngôn thanh du sách Tập Văn viết chữ du là tục tự thường hay dùng.

Mậu chúng ngược lại âm mạc hầu Mao Thi Truyện cho rằng: Mậu là mua bán, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bối thanh mậu Tập Văn viết mậu tục dùng là sai.

Phế ngẫu ngược lại âm phi kế sách Khảo Thanh cho rằng: Là sanh kịp sách Thuyết Văn cho rằng: Phối hợp chữ viết từ bộ nữ thanh bề âm bề ngược lại âm ty kê.

Hàm trượng ngược lại âm hai cam Ngọc thiên giải thích: Loại trúc tre thật có tim tục gọi là trong đầy là trúc, xuất ra từ Phương Nam, có thể làm cây gậy, viết đúng là từ bộ trúc thanh hàm.

Truất dĩ ngược lại âm xuân luật Quảng Nhã giải thích: Truất là may, khâu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh xuất.

Luân tư ngược lại âm tương dữ sách Vận Thuyên cho rằng: Nước chảy bài cát, chữ viết từ bộ thủy.

Nhẫn khải ngược lại âm khai ái sách Thuyết Văn cho rằng: Áo giáp chữ viết từ bộ kim thanh khải hoặc là chữ tượng thanh.

Quán giáp ngược lại âm khai hoạn áo giáp, hoặc là viết quán tức là mặc áo giáp.

Chiếp-ma ngược lại âm trác diệp sách Nhĩ Nhã giải thích: Chiếp là lo sơn hoặc là viết chữ nhiếp.

Đẩu tẩu âm trên là đẩu sách Khảo Thanh cho rằng: Đẩu tẩu là cứu giúp bảo vệ, xiêm áo hoặc gọi là đầu óc kéo dài sự phiền muộn, nhàm chán, ít muốn biết đủ.

Nhiếp y ngược lại âm trên chiêm diệp sách Bát-nhã cho rằng: Áo lót chữ viết từ bộ y thanh niếp.

Tư tư ngược lại âm tử tư Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tư tư là siêng năng không biếng nhác trể nãy, siêng năng không biết mệt.

Luyến khu ngược lại âm liệt quyền bệnh tay chân co quắp, sách Tập Văn viết chữ luyến cũng thông dụng, ngược lại âm dưới khu cũ sách Bát-nhã cho rằng: Khu là gù lưng, xương sống cong lại.

1* Xỉ khủ ngược lại âm khưu tự sách Thuyết Văn cho rằng: Cái răng bị sâu ăn.

2* Đàm tử ngược lại âm đàm nam họ người, miếng bói màu đen. 3* Cú cú ngược lại âm tư tôn Vương Tiêu chú giải sách Luận Ngữ rằng: Cú cú là dáng vẻ ôn hòa cung kính, Quảng Nhã giải thích rằng:

Cung kính Quách Phác chú giải Nhĩ Nhã rằng: run sợ sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh cú.

Cổ hào âm trên là cổ Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cổ là loài sâu bọ độc hại, sách Chu Dịch giải thích: Có loại độc trùng quái lạ, ngược lại âm dưới hiệu giao quẻ lục hào.

Đàm tiếu ngược lại âm tô diệu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cùng nhau bàn luận, Thiên

Thương Hoét cho rằng: Khiển trách, lại cũng gọi là đùa cợt sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tề, Sở, Tống, Vệ gọi trách mắng, chỉ trích là tiếu lại cũng viết chữ tiều.

Đố hại ngược lại âm đô cố Mục Thiên Tử Truyện cho rằng: Đố là con mọt sách, sách Thuyết Văn cho rằng: Con mọt đục trong vỏ cây.

Minh đằng ngược lại âm mịch bình ngược lại âm dưới đặng đắc. Mao Thi Truyện cho rằng: Loại ấu trùng, giống sâu hại lúa, ăn lá mạ non, đục bông lúa gọi là minh ăn lá mạ gọi là đằng sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng viết thành chữ đằng Tập văn viết chữ đằng là sai.

Bát hoằng ngược lại âm hoạch manh Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Hoằng gọi là tám phương, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh hoằng.

Bàn úy ngược lại âm phân huất Thiên Thương Hoét cho rằng: Úy là hoa cỏ xanh tốt, lại gọi là tươi tốt, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh ủy.

Tự mi ngược lại âm mỹ bi sách Thuyết Văn giải thích Mi là cháu.

Diên hình ngược lại âm thiếu liên Hứa Thúc Trọng chú giải sách

Hoài Nam Tử rằng: Khuôn làm đồ sứ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh diên.

Trần độc ngược lại âm đồng lộc Thiên Thương Hoét cho rằng: Độc là dơ bẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ dơ, cấu bẩn, chữ viết từ bộ hắc thanh độc.

Ỷ lưu ngược lại âm y khải Trịnh Huyền chú giải sách

Chu Lễ rằng: Gọi thêu hình cây búa, có màu đen trắng, lấy vải lụa trắng thêu làm tấm bình phong. Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Lụa màu đỏ thẩm, thô sơ làm bình phong, có thêu hình cái búa viền, chỗ gọi là thị uy, sách Thuyết Văn viết từ bộ hộ thanh y ngược lại âm dưới liễu do Mao Thi Truyện cho rằng: Lưu là tấm bích chương, Cố Dã Vương cho rằng: Lưu là tua cờ, sách Lễ Ký cho rằng: Vua làm huy hiệu, Ngọc Thiên cho rằng: Trong mười dặm có cắm hai cây cờ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ư thanh lưu âm ư là âm yển âm lưu là âm lưu.

Vị thấu ngược lại âm dưới là thương hầu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Thấu là lớp da bên trong. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh thấu.

Kỳ điệt ngược lại âm điền kiết sách Nhĩ Nhã cho rằng: Điệt là người. Mao Thi Truyện cho rằng: Tám mươi tuổi gọi là điệt. Sách Tôn Viêm Tử cho rằng: Người già trên mặt có thêm sắc đen sám, sách Thuyết Văn viết từ bộ lão.

Thức biện ngược lại âm bì biến Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngón tay đan xen nhau gọi là bện, sách Thuyết Văn cho rằng: Tay phủi bụi, chữ viết từ bộ thủ thanh biện hoặc là viết chữ biện.

Sở chủy ngược lại âm duy luy sách Thuyết Văn cho rằng: Chủy là (870) lấy roi quất ngựa mà đánh, chữ viết từ bộ trúc hoặc là viết chữ chủy.

Khánh tước ngược lại âm khinh kinh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khánh là hết tận, sách Thuyết Văn viết từ bộ phửu thanh khánh âm khánh ngược lại âm khẩu canh ngược lại âm dưới tử dược Tự Thư cho rằng: Tước là cây đuốc lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy cây đuốc huơ huơ trừ yêu quái, chữ viết từ bộ hỏa.

Uyên hác ngược lại âm ô huyền sách Thuyết Văn cho rằng: Uyên là sâu chữ viết từ bộ thủy thanh uyên Miếu Húy nói lấy âm tuyền âm dưới ha các kinh Sơn Hải giải thích rằng: Hác là hang sâu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hang rỗng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái ao chữ viết từ bộ duệ đến bộ cốc sách Vận Tập Văn viết từ bộ thổ viết thành chữ hát cũng thông dụng.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 89

Âm Lương Hàn Cao Tăng Truyện từ quyển thứ nhất đến quyển thứ sáu.

CAO TĂNG TRUYỆN

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 1

Phong địch ngược lại âm bổng dung Địch Văn chú giải Hán Thư rằng: Phong là mũi tên bén nhọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phong tức là binh khí có mũi nhọn thẳng, chữ viết từ bộ kim thanh phong âm phong đông đồng với âm trên, ngược lại âm dưới đinh lịch Quảng Nhã cho rằng: Đích tức là mũi nhọn sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là mũi tên nhọn, chữ viết từ bộ kim thanh đích âm đích đồng với âm trên.

Thái âm ngược lại âm ấp châm sách Văn Tự Điển nói: Âm hòa hợp chữ viết từ bộ tâm thanh âm Thái Âm là tên người.

Các ấp ngược lại âm lãng các Lưu Hướng Điển Lược cho rằng: Triều Hán Hỏa Đức Vương làm rơi thanh kiếm xuống sông, mới khắc vào mạng thuyền, đốt lửa tìm kiếm, cố nhiên là dòng chảy mất đi, mà vẫn giữ lấy để tìm thanh kiếm, tức là người ngu si.

Trụy hận ngược lại âm trên chùy loại sách Nhĩ Nhã cho rằng: Truy là oán giận, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh đối.

Bất thuyên ngược lại âm dưới thủ huyên Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thuyên hối cải sửa đổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuyên là đưa lên cao, chữ viết từ bộ tâm thanh thuyên âm thuyên ngược lại âm thất tuần.

Cung đình hồ ngược lại âm trên cũng long sách Dị Uyển giải thích rằng: Công là tên của thôn ấp. Tấn Thư Quách Phác Truyện giải thích rằng: Cung cũng là đình tên là đình Quận Quốc Chí, theo Đồ Tịch gọi là Quận Dự Chương, có Cung Đình Hồ, văn trước trong Điển Lục Âm nghĩa đã giải thích rồi.

Tán bại ngược lại âm trên tả thư Thích Danh cho rằng: Tán gọi là khen ngợi sự tốt đẹp của người. Văn Tự Điển nói tán giống như biểu dương khen ngợi, đức tính tốt của con người, chữ viết từ bộ ngôn thanh tán âm tán đồng với âm trên, ngược lại âm dưới là bài bái sách Văn Tự Điển nói: Bại-tán là tiếng Phạm, chữ viết từ bộ khẩu thanh bối.

Trường kỵ ngược lại âm ký nghị sách Trang Tử nói rằng: Thần dân thi lễ cung tay, chân quỳ, sách Thuyết Văn cho rằng: Kỵ là quỳ lâu, chữ viết từ bộ túc thanh kỵ hoặc là viết chữ kỵ.

Nhất giam ngược lại âm dưới bảm giam Quảng Nhã cho rằng: Cái rương nhỏ gọi là giam sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là cái rương chữ viết từ bộ mộc thanh hàm trong truyện lại viết chữ hàm tục tự dùng trong chữ cổ.

Mâu thuẫn ngược lại âm giải hầu Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Mâu là loại binh khí, sách Khảo Công Ký giải thích: Loại binh khí thời xưa có loại dài bốn thước, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây mâu dài hai trượng gắn trước đầu xe, chữ tượng hình, Văn Cổ viết từ bộ kim viết thành chữ mâu lại cũng từ bộ qua viết thành mâu. Trong truyện viết từ bộ mâu viết thành chữ mâu âm giải thích cũng đồng, tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới thần chuẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thuẫn là vũ khí có thể làm vật che thân, theo chữ thuẫn tức là tấm biển viết yết thị, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuẫn là vũ khí để che thân, che mắt, chữ tượng hình, âm đại là âm đại.

Đồ sấm ngược lại âm trên kiền nô theo Tả Truyện cho rằng: Đồ là vẽ, mưu đồ, tính toán, kế hoạch, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đồ là khảo sát, nói có công lao sự nghiệp. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Mưu tính kế hoạch sách Thuyết Văn cho rằng: Đồ là vẽ ra kế hoạch khó, chữ viết từ bộ vi thanh đồ âm đồ là âm đồ nói là ý khó, chữ chuyển chú, ngược lại âm dưới sở tán Thiên Thương Hoét cho rằng: Sấm là lời tiên đoán, có kinh nghiệm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh sấm âm sấm là âm kiểm. Hôn mạc ngược lại âm trên hốt cơn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hôn là loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hôn là không hiểu rõ, chữ viết từ bộ tâm thanh hôn âm liễu là âm liễu ngược lại âm dưới mang bác Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lặng lẽ, vắng lặng âm thầm khảo sát, sách Sở Từ cho rằng: Chỉ muốn yên tịnh, khoáng đạt tuyệt đối không có tiếng người, sách Thuyết Văn cho rằng: Mạc phương Bắc gọi là vùng u minh sa mạc vắng lặng, chữ viết từ bộ thủy thanh mạc.

Thương nhiên ngược lại âm trên sách tranh Thống Tự giải thích rằng: Thương thương là nối gót theo sau, tiếng gót chân đi chữ viết từ bộ kim thanh thương.

Trâm chùy ngược lại âm chập lâm Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chân gọi là chặt đẽo cây, Thiên Thương Hoét cho rằng: Cái búa lớn, sách Khảo Thanh cho rằng: Chày đập giả quần áo, chữ viết từ bộ thạch viết thành chữ châm cùng với chữ châm đồng nghĩa. Văn Tự Điển cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh kham Tự Thư cho rằng: Lại cũng từ bộ chi viết thành chữ chàm hoặc là viết chữ trâm âm giải thích đều đồng, ngược lại âm dưới đọa truy sách Phương Ngôn giải thích: Chùy là quả trùy nặng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Thiết chùy sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ kim thanh chuy lại cũng viết chữ chùy viết thành chữ trùy đồng âm. Văn Truyện viết chữ trùy tục tự thường hay dùng.

Hà ngược ngược lại âm trên hạ ca Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hà là thảm khốc, hà khắc sách Bátnhã cho rằng: Giận dữ Quảng Nhã cho rằng: Ngang ngược, phiền muộn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo thanh khả văn truyện viết chữ hà là chẳng phải.

Tôn xước âm dưới xương chước Tấn Tự Trung Tôn Xước, cũng tự là Hưng Công: Tên người.

Huất nhiên ngược lại âm trên huân luật sách Thuyết Văn cho rằng: Huất là bỗng nhiên, chữ viết từ bộ khảm thanh viêm.

Đôn hoàng ngược lại âm trên tuần hồn âm dưới là hoàng Hán Thư cho rằng: Quận Đôn Hoàng, ở Sa Châu, đời Vũ Đế Nguyên Niên, phân làm quận Tửu tuyền đặt để là Đôn hoàng. Đỗ Lâm chú giải rằng: Đôn hoàng đó là xưa gọi là qua châu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đôn hoàng đều từ bộ hỏa chuyển hình thanh.

Thấu thủy ngược lại âm trên sưu hựu Tự Thư cho rằng: Thấu là nước sôi bắn lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Thấu chậu súc miệng, chữ viết từ bộ thủy thanh sóc cũng là chữ hội ý, âm sóc là âm sóc.

Khiên dương huyện ngược lại âm trên khiển diên ban bố Tây Đô Truyện giải thích: Khiên là nơi dòng nước đổ vào đầm, sông phía tây, Tự Lâm giải thích rằng: Khiêm là dòng người xoáy, bên phải đưa theo gió, Thống Tự giải thích rằng: Khiên là nơi dòng sông chảy vào Tây Bắc vào sông Hy Hàm đổ vào sông Vị, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh nghiên âm nghiên là âm khiên.

Ký sân ngược lại âm dưới sất nhân Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ sân Cố Dã Vương cho rằng: Sân gọi là tức giận. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh chân.

Lang lang vương mân ngược lại âm trên lãng đang Hán Thư cho rằng: Quận Lang Tà thuộc Triết Châu, âm dưới mật bân tên người âm bân ngược lại âm bỉ mẫn.

Kim nhật đàn âm nhật ngược lại âm nhân chất ngược lại âm dưới để đang Hán Thị Trung họ người.

Thiều niên ngược lại âm trên điền diêu Thiên Thương Hoét cho rằng: thiều là mái tóc chấm lông mày, Văn Tự Tập Lược cho rằng: Theo đời nhà Chu viết chữ thiều tức tóc của trẻ để trái đào. Thống Tự cho rằng: Thiều là đứa trẻ để tóc trái đào có cột làm trang sức, Văn Điển Lược viết từ bộ tiêu thanh chiêu cũng viết từ bộ xỉ viết thành chữ thiều âm mao là âm mao.

Phu tích ngược lại âm vũ vô Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phu là thí cho sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phộc thanh phu ngược lại âm dưới tinh tích Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phân tích, Văn Tự Điển nói rằng: Mở ra, phân ra, chữ viết từ bộ mộc thanh cân trong truyện viết chữ tích tục tự cũng thường hay dùng.

------------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 2

Thích thảng ngược lại âm trên đinh lịch ngược lại âm dưới thang lãng Tư Mã Tương Như Phong Thiền Thư ghi rằng: Biến hóa vô cùng tận, Cố Dã Vương giải thích Thích thảng giống như cất cao lên, nhiều to lớn, sách Sử Ký giải thích tốt đẹp, to lớn kỳ lạ, dáng phong lưu hào phóng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ nhân đều thanh thích thảng.

Uyên tủy ngược lại âm nhất huyền ngược lại âm dưới tuy túy Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Tinh thuần Quảng Nhã cho rằng: Thuần túy, sách Thuyết Văn cho rằng: Túy là không tạp chữ viết từ bộ mễ thanh tốt hoặc là viết từ bộ mục viết thành chữ âm giải thích cũng đồng.

Nghiên hạch ngược lại âm trên niết kiên sách Bátnhã cho rằng: Nghiên là suy nghĩ thuần thục sách Thuyết Văn cho rằng: Nghiên là mày mò, tìm kiếm chữ viết từ bộ thạch thanh nghiên âm nghiên là âm khiên hoặc là từ bộ thủy viết thành chữ nghiên đều là chữ cổ, âm giải thích đều đồng. Ngược lại âm dưới hành cách theo Thanh Loại cho rằng: Hạch là che đậy. Hán Thư cho rằng: Khảo sát phép tắc chuẩn mực, sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật, chữ viết từ bộ á thanh kích âm á ngược lại âm hồ giá âm kích là âm kích.

Kình địch ngược lại âm trên cạnh nghinh Bì Thương cho rằng: Kình là dùng sức mạnh chống lại. Quảng Nhã cho rằng: Dùng võ lực, sách Thuyết Văn cho rằng: Giống như cưỡng lại chữ viết từ bộ lực thanh kình ngược lại âm dưới là đình lịch Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Địch là đối đầu chống lại. Lại gọi là đương đầu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cừu địch, sách Thuyết Văn cho rằng: Địch là thuật lại chữ viết từ bộ phộc thanh đích âm thuật ngược lại âm cầu cũng là âm phi thất âm phộc ngược lại âm phổ bốc âm địch là âm đích Văn Truyện viết chữ địch tục tự thường hay dùng.

Lang bái âm trên lang âm dưới là bối Văn Tự Tập Lược giải thích lang bái là bại hoại loạn, rối loạn sách Giai Uyển Chu Tòng giải thích: Lang bái là lồng lộn, điên cuồng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Gấp gáp vội vàng, lại gọi là bừa bãi ngỗn ngang, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lang bái đều từ bộ khuyển, chữ hình thanh âm thốt là âm tốt.

Cận dĩ âm trên là cận Quảng Nhã cho rằng: Cận giống như là ít ỏi, qua loa. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Cẩn là kém thiếu, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cận là tạm thời có thể, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng có nghĩa là tài năng, chữ viết từ nhân thanh cận âm cận là âm cẩn.

Vong nguyện âm trên là vong Cố Dã Vương cho rằng: Vong là không nhớ, ngược lại âm dưới quyền quyến Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quyện giống như mỏi mệt giải đãi. Thiên Thương Hoét cho rằng: Quyện là hẹn ước Quảng Nhã cho rằng: Rất mực mỏi mệt, cần phải nghỉ ngợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Mỏi mệt, chữ viết từ bộ nhân thanh quyện theo Thanh Loại cho rằng: Chữ viết từ bộ lực viết thành chữ quyện Bác Sớ viết chữ quyển cũng thông dụng.

Bì tích ngược lại âm trên thất di sách Lễ Ký cho rằng: Vật vật bị nhầm lẫn, thì dân chúng sẽ không được yên ổn, ắt phải bị tổn thất, Trịnh Huyền chú giải rằng: Bì là sai lầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh tỷ ngược lại âm dưới là sính bính Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Tích gọi là hiếm. Cố Dã Vương cho rằng: Tích gọi là việc oan uổng bên trong, thể giải thoát được, sách Thuyết Văn cho rằng: Tích là nơi vắng vẻ hẻo lánh, trốn tránh, ở nơi yên tịnh vắng lặng, chữ viết từ bộ nhân thanh tích.

Tăng khế ngược lại âm lương nhược Danh Tăng sách Khảo Thanh cho rằng: Khế là đá mài dao.

Tăng duệ ngược lại âm vinh khuệ tên vị Sa-môn. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Duệ là trí tuệ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ duệ đến bộ đến cốc thanh tĩnh âm duệ là âm tàn.

Âu uyết ngược lại âm âu cẩu Tả Truyện cho rằng: Âu là bao đựng cung thủng rách đâm chảy máu, sách Thuyết Văn cho rằng: Giống như ói ra, nôn ra, chữ viết từ bộ khiếm thanh âu âm thao là âm thao lại khu hầy ngược lại âm dưới miễn việt sách Lễ Ký giải thích Uyết là cha của Tử Thị không dám hắt hơi ra tiếng, sách Thuyết Văn cho rằng: Uyết giống như hắc hơi, chữ viết từ bộ khẩu thanh uế âm y ngược lại âm ách giới âm đế là âm đế âm khái ngược lại âm khai cái.

Tế thử ngược lại âm trên tế hề Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tế là đi hành đạo đem tiền của ra bố thí cứu giúp, lại chú giải sách Lễ Ký rằng: Tế chỗ gọi là đem cho. Cố Dã Vương cho rằng: Nắm giữ. Quảng Nhã cho rằng: Đem cho, tặng, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm giữ di vật chữ viết từ bộ bối thanh tề Văn Truyện viết chữ tế tục tự thường hay dùng.

Khí huyên âm dưới huyên viên tục tự thường hay dùng. Tự Thư giải thích rằng: Từ bộ quyền viết thành chữ huyên Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Huyên là ồn ào huyên náo, tiếng ồn sách Phương Ngôn cho rằng: Huyên là trách mắng, Quảng Nhã cho rằng: Chim hót líu lo. Văn cổ viết từ bộ hiệt bộ khẩu làm chữ huyên giống như kinh sợ la ó toán lên, nghĩa cùng với chữ huyên chữ ngương đều đồng cũng xem ở trước giải thích rồi.

Thù đối ngược lại âm thời chu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Báo thù Quách Phác chú giải rằng: Thù là cùng nhau báo đáp, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thù là nói vòng vo, lại cũng gọi là thẳng thắn, tin là chắc thật. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hiến cho chữ viết từ bộ dậu thanh châu lại xưa viết chữ thù Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành chữ thù tục tự thường dùng, ngược lại âm dưới viết đúng là chữ đối âm hạnh (875) ngược lại âm sĩ giác Văn Truyện viết chữ đối tục tự thường hay dùng. Thiếp dắng ngược lại âm trên kiểm diệp Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Là tiếng tự xưng của người phụ nữ Bạch Hổ Thông cho rằng: Nói là cùng thời gian tiếp kiến, Văn Tự Điển nói chữ từ bộ nữ thanh đến bộ lập chữ hội ý, ngược lại âm dưới thực chứng sách Nhĩ Nhã giải thích dắng là đưa theo. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Dắng gọi là hầu gái theo cô dâu về nhà chồng, hầu hạ cô dâu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ nữ thanh dắng âm điệt là âm điệt âm đệ là âm đệ.

Cước lâm ngược lại âm căng lực Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cước là lấy cây gai nhọn màu đỏ mà đâm từ ngoài vào. Mao Thi Truyện cho rằng: Cước là cây táo gai, sách Thuyết Văn cho rằng: Cước giống như cây táo mọc um tùm, chữ viết từ bộ tinh bộ thứ chữ hội ý.

Thao bì ngược lại âm trên sang đao sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là nắm giữ chữ viết từ bộ thủ thanh táo âm táo là âm táo ngược lại âm dưới bi mật Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Người nước Thục gọi bút là không có phép tắc. Sử Ký cho rằng: Mơ hồ điềm tỉnh mà tạo bút, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh duật Văn Truyện viết từ bộ mao viết thành chữ bì là chẳng phải âm điềm ngược lại âm diệp kiêm.

Dữ sấn ngược lại âm dưới sổ cận chữ dữ sấn đồng tức là sấn là tăng tàng.

Thái tử hoằng ngược lại âm dưới ách hoằng tên người, sách Bát-nhã giải thích: Hoằng là chỗ nước sâu, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước dưới đáy sâu chữ viết từ bộ thủy thanh hoằng.

Vu điền ngược lại âm dưới điền giản hồ ngữ tên nước Tây Vực, nay ở An Tây phía Nam hơn hai ngàn dặm thuộc An Tây, chữ viết từ bộ môn thanh chân Văn Truyện viết từ bộ điềm.

Quỷ hoạt ngược lại âm trên quy ủy Mao Thi Truyện cho rằng: Nhắm mắt liều mạng mà theo. Trịnh Tiễn chú giải rằng: Dối trá làm trái ngược, phóng túng mà theo kẻ ác, sách Hoài Nam Tử giải thích: Tô tần lấy một trăm quỷ kế mà thành một niềm tin. Hứa Thúc Trọng cho rằng: Quỷ giống như là khinh mạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Trách mắng, chữ viết từ bộ ngôn thanh nguy ngược lại âm dưới hoàn bát sách Thuyết Văn cho rằng: Hoạt là lanh lợi, chữ viết từ bộ thủy thanh cốt.

Báng độc ngược lại âm trên bác lãng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Báng giống như là hủy nhục, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh báng ngược lại âm dưới đồng lộc sách Phương Ngôn cho rằng: Độc giống như là đau khổ, Quảng Nhã giải thích rằng: Là xấu ác, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chê bai, sách Thuyết Văn cho rằng: Độc là quá đau khổ oán hận, chữ viết từ bộ cạnh thanh độc sách truyện viết từ bộ hắc viết thành chữ độc là chẳng phải âm cạnh là âm cạnh.

Ngũ bách âm dưới là bạch Trang Tử cho rằng: Thuyền đi trên sông gọi là vệ chu Thái Bạch Tư Mã Bưu chú giải rằng: Thái Bạch cũng gọi là thuyền. Quảng Nhã cho rằng: Bạch là chiếc thuyền, Thiên Thương Hoét cho rằng: Bạch là chiếc thuyền lớn, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ chu thanh bạch.

Dung chức tháp ngược lại âm trên dũng chung Mạnh Tử giải thích: Dung là giống như dùng sức mạnh để phục dịch, Cố Dã Vương cho rằng: Dung là người làm lao động chân tay, dùng sức lực của mình để phục dịch. Quảng Nhã cho rằng: Dung là người để cho người khác sai khiến. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Dung là người làm nô lệ phục dịch, chữ viết từ bộ nhân thanh dùng ngược lại âm dưới tham đáp Bì Thương cho rằng: Điệp là tấm thảm nhung, chiếu lót chân. Thích Danh giải thích: Điệp là tấm thảm trải giường lớn, cái giường nhỏ trên trải nệm, sách Khảo Thanh cho rằng: Điệp là loại thảm dệt lông nhung ở Tây vực làm hoa văn, có màu sắc rực rỡ, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mao thanh tháp âm tháp đồng với âm trên, âm đăng là âm đăng.

Tàm ngộ ngược lại âm trên tạp cam sách Thuyết Văn cho rằng: Tàm là hổ thẹn, chữ viết từ bộ tâm thanh trảm ngược lại âm dưới ngộ cố sách Thuyết Văn cho rằng: Ngô là tỉnh giấc, giống như là hiểu rõ, chữ viết từ bộ tâm thanh ngô Văn Truyện viết chữ tàm là sai lầm thông thường âm liễu là âm liễu.

Thác bạc âm kế là bàn mạt âm dưới là đạo tên của vua nước Ngụy đời thứ ba.

Yến ư ngược lại âm yên kiến Mao Thi Truyện cho rằng: Yến là an, hoặc là viết chữ yến cũng thông dụng.------------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 3

Thiều sấn ngược lại âm trên là điều văn trước quyển thứ nhất đã giải thích rồi, âm dưới phạm cẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sấn gọi là con trai tám tuổi, con gái bảy tuổi là hủy bỏ cái răng sữa, Tự Thống cho rằng: Con gái sinh ra bảy tháng mọc răng, bảy tuổi là thay răng, con trai sinh ra tám tháng mọc răng, tám tuổi thay răng, sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh thất.

Suyển quyết ngược lại âm trên xuyên nhuyến Tư Mã Bưu chú giải Trang Tử rằng: Suyển là nói lộn xộn Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Suyển là chống trái nhau, Cố Dã Vương cho rằng: Suyển là so le không đồng đều, sách Thuyết Văn cho rằng: Suyển là đối đầu, chữ viết từ bộ tịch đến bộ suyển là chống trái nhau, chữ hội ý, Văn Truyện viết suyển cũng thông dụng.

Nhiếp huyền hằng ngược lại âm trên ni triếp sách Phương Ngôn cho rằng: Nhiếp giống như là đi trên cao. Thiên Thương Hoét cho rằng: Nhiếp là kéo dài, giống như trời trong quang đãng, có cầu vồng lớn kiêu ngạo, mà rất lâu trên bầu trời, dùng sợi dây buộc chặt treo lên mà thẳng vượt qua gọi là hằng Văn Truyện viết từ bộ cách viết thành chữ cách Văn Truyện viết sai chẳng phải dùng chữ này, âm dưới hoàn hằng sách Thuyết Văn cho rằng: Hằng là sợi dây lớn, chữ viết từ bộ mịch thanh hằng cũng viết từ bộ mộc viết thành chữ hằng tức là vội vàng, gấp gáp mãnh liệt.

Cấm chiến ngược lại âm trên cầm ẩm sách Sở Từ cho rằng: Cấm là ngậm miệng lại mà không nói, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngậm miệng gọi là cấm sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh cấm lại cũng viết chữ cấm.

Lai tôn ngược lại âm dưới tồ côn sách Hoài Nam Tử cho rằng: Tôn tức là ngồi xổm. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tu tập lại ngồi, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là ngồi xổm, chữ viết từ bộ túc thanh tôn.

Thỉ thần ngược lại âm trên thời nhĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Thỉ là dùng lưỡi để liếm thức ăn, chữ viết từ bộ thiệt thanh dịch hoặc là viết từ bộ thị viết thành chữ thỉ.

U canh ngược lại âm trên nhất do Mao Thi Truyện cho rằng: U là thâm sâu, sâu xa. Lại gọi là màu sắc đen thẳm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chỗ thâm u ngoài biên giới chật hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: U ẩn chữ viết từ bộ yêu bộ sơn chữ hội ý âm u đồng với âm trên, ngược lại âm dưới canh hạnh sách Trang Tử nói rằng: Cạnh là chướng ngại sách Thuyết Văn cho rằng: Cây mọc núi Du Sơn không thẳng. Lại cũng có nghĩa thẳng thắn, chữ viết từ bộ mộc thanh cảnh.

Tuấn viễn ngược lại âm trên tôn tuấn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tuấn là hoàn toàn khác thường, sách Khảo Thanh cho rằng: Tài năng vượt hơn ngàn người. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ nhân thanh tuân lại cũng viết chữ tuấn âm thuyên ngược lại âm toàn nhuyễn.

Vu thạnh lạc ngược lại âm trên là vu sách Phương Ngôn cho rằng: Cái bát gọi là vu cái bát lớn mà không có chân, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mảnh thanh vu âm thạnh là âm thành Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cái bát chứa đựng nhiều đầy gọi là thạnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Dụng cu chứa tắc lúa mạch, chữ viết từ bộ mãnh thanh thành ngược lại âm dưới lãng các sách Lễ Ký cho rằng: Lạc là phó mát, sữa đặc, Trịnh Huyền chú giải rằng: Lạc tức là chủ khách rót rượu mời với nhau. Thích Danh cho rằng: Lạc là sữa đặc chỗ làm cho đông lại. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ dậu thanh các âm lễ là âm lễ âm tai là âm tại.

Hoàng cự ngược lại âm trên hoàng Thiên Thương Hoét ghi rằng: Hoàng là lo sợ Quảng Nhã giải thích: Hoảng là sợ sệt không yên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ xước thanh hoàng hoặc là viết từ bộ tâm viết thành cảnh hoàng giải thích đều đồng ngược lại âm dưới cư ngự Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Gấp gáp mà lo sợ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Cứ giống như là đột nhiên đến, sách Khảo Thanh cho rằng: vội vàng nhanh chóng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh cứ âm thớt ngược lại âm sang cốt âm xước ngược lại âm sửu lược Văn Truyện viết chữ cứ cũng đồng.

Miễn vãn ngược lại âm trên miên biến âm dưới là vãn Mao Thi Truyện cho rằng: Miễn vãn có cố gắng sức, sách Giai Uyển Chu Tòng cũng giải thích: Gắng sức, sách Khảo Thanh cho rằng: Miễn giống như không biết mỏi mệt, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lực thanh diện đều là chữ hình thanh, Văn Truyện viết từ bộ mãnh viết thành chữ miễn cũng thông dụng.

Ổi tẫn ngược lại âm trên ôi hồi Quảng Nhã cho rằng: Ôi giống như là ấm áp, sách Thuyết Văn cho rằng: Ôi là trong nhiều lửa, chữ viết từ bộ hỏa thanh ôi ngược lại âm dưới từ tận tục tự giải thích, viết đúng từ bộ hỏa viết thành cảnh tẫn sách Phương Ngôn giải thích: Tẫn giống như là dư lửa. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tẫn là thiêu đốt cây củi còn dư lại tro tàn, cho nên xem xét chú giải Hiếu Kinh rằng: Chìm đắm mất, tiêu diệt, nhà Tần tiêu diệt hết còn lại ngọn tức là sau cùng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hỏa viết thành chữ tẫn đến chữ tận thanh tĩnh.

Tán khế ngược lại âm trên tảng thả chữ viết từ bộ nhục thanh tán ngược lại âm dưới hương nghệ sách Vận Anh cho rằng: Khế là nghỉ ngơi.

Khắc tiệp âm trên là khắc giống như có thể. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vượt hơn gắng sức. Văn Truyện viết từ bộ đao viết thành chữ khắc cũng đồng, ngược lại âm dưới là tiềm diệp Mao Thi Truyện cho rằng: Tiệp tức là thắng. Đỗ Dự chú giải rằng: Tiệp là khắc sách Khảo Thanh cho rằng: Gọi là tiệp sách Thuyết Văn cho rằng: Tiệp là săn được, chữ viết từ bộ thủ thanh tiệp âm tiệp đồng với âm trên.

Khiêm chí Như Lai khiêm niệm sách Vận Anh cho rằng: Khiêm là theo hầu, chữ viết từ bộ nhân thanh kiêm.

Khẩn trắc ngược lại âm trên khang ngận Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Khẩn là khiên nhẫn, sách Lễ Ký cho rằng: Kéo dây cung gọi là khẩn tức đến khẩn cấp, sách Khảo Thanh cho rằng: Đến kịp thành khẩn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh khẩn âm khẩn ngược lại âm khẩn ngược lại âm khôn ẩn ngược lại âm dưới sở sắc Quảng Nhã cho rằng: Trắc là động lòng thưng xót, sách Thuyết Văn cho rằng: Đau xót, chữ viết từ bộ tâm thanh tắc.

Kiềm thủ ngược lại âm trên kiểm viêm Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kiềm thủ là từ dùng để gọi dân đen, sách Sử Ký ghi rằng: Ban đầu vua lập ra hai mươi sáu loại đổ tên, gọi dân chúng là kiềm thủ tức dân đen, sách Thuyết Văn cho rằng: Kiềm thủ là dân đen, chữ viết từ bộ hắc thanh kim.

Khổn bức ngược lại âm trên khổ bổn ngược lại âm dưới bằng bức Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khổn là chân thành, Quảng Nhã cho rằng: Chí thành, Trương Án chú giải Hán Thư rằng: Khổn bức giống như là chí thành, sách Thuyết Văn cho rằng: Thành thực gọi là khổn bức, hai chữ đều từ bộ tâm đều thanh khổn bức. Tũng trĩ ngược lại âm trên túc dũng Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Tũng giống như là cao. Hoặc là viết chữ tũng sách Trang Tử cho rằng: Tũng là đứng thẳng mà cao. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhĩ thanh tùng ngược lại âm dưới trì lý sách Khảo Thanh cho rằng: Trĩ là núi đứng riêng biệt cao sừng sững, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ chỉ thanh tự Văn Truyện viết từ bộ sơn viết thành chữ trĩ tục dùng thông dụng.

Mậu huyên ngược lại âm mưu hầu Hán Thư cho rằng: Ở quận Hội Khể có huyện Mậu, cũng là địa danh chữ viết từ bộ ấp thanh mậu.

Thiện thiện tên nước Thích Tây Phiên, một trong các nước ở Tây Vực đời nhà Hán vốn gọi là Lâu Lan, đến đời Châu Đế đổi thành tên Thiện Thiện. Nay thuộc An Tây, Tư Chấn, Đông Chấn, Yên Kỳ vậy, đi về phía tây cách Tây An bảy trăm dặm.

Đầu trâm ngược lại âm dưới tiếm lâm. Sách Tập Huấn cho rằng: Cái mũ đội trên đầu có cài trâm ngọc bao quanh cái mũ vắt trâm cài khiến cho không bị rơi xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Trên đầu cài trâm, tượng hình Văn Truyện viết chữ trâm tục tự thường hay dùng.

Hỏa hạm ngược lại âm dưới hàm ảm Quảng Nhã giải thích rằng: Hạm là chiếc thuyền, Bì Thương cho rằng: Hạm là bánh lái sau đuôi thuyền, sách Khảo Thanh cho rằng: Hảo thuyền đó gọi là thuyền chiến đấu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chiếc thuyền trên có nhiều lớp, tầng, chữ viết từ bộ chu thanh lam.

Mệnh tế ngược lại âm trên minh bính Văn Truyện viết sai khiến cho chẳng phải nghĩa này, ngược lại âm dưới tiết kế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tế giống như là vượt qua sông, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh tề văn cổ viết cư thấp âm giải thích cũng đồng, Văn Truyện viết chữ tề tục tự thường hay dùng.

Thủy tề ngược lại âm dưới tình tế trung hữu chú giải sách Chu Lễ rằng: Lấy sự đo lường cân bằng gọi là tề sách Khảo Thanh cho rằng: Phân đoạn cắt chia ra, chữ viết từ bộ đao Văn Truyện viết mượn dùng. Thâm sử ngược lại âm dưới sư sự Thiên Thương Hoét cho rằng: Sử giống như con ngựa chạy nhanh gấp gáp. Văn Tự Điển nói: Sử gọi là con ngựa chạy nhanh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh sử.

Tiếu vương ngược lại âm trên hồ tiếu theo Hán Thư cho rằng: Quận Bái có huyện Tiếu tức là tiếu vương thuộc thực ấp sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh tiều.

Am cứu ngược lại âm trên ám hàm. Quảng Nhã cho rằng: Ám là đọc thuộc lòng, Bì Thương cho rằng: Đọc tụng Đông Quán Hán Thư Ký rằng: Đều là đọc thuộc lòng, sách Khảo Thanh cho rằng: Ám là ghi nhớ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh ám lại cũng viết chữ ám ngược lại âm dưới cưu hựu Mao Thi Truyện cho rằng: Cứu là truy xét tận cùng lý lẽ. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tận cùng, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh cửu.

Điệt tương ngược lại âm trên điền kiết Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Điệt giống như là thay thế, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi là thay đổi, chữ viết từ bộ xước thất âm xước ngược lại âm sửu lược theo Thanh Loại cho rằng: Chữ viết từ bộ túc viết thành chữ dật tức là nhảy vượt qua, chẳng phải nghĩa này.

Khu yêu ngược lại âm xúc chu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Then cài cửa, Quảng Nhã cho rằng: Then chốt Hàn Khang Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Khu là đầu máy chủ chế ra cơ động, Tựa Hiếu Kinh yếu giải rằng: Là mấu chốt toát yếu, cơ bản của bộ máy, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh khu.

Yểm xướng ngược lại âm trên yểm nghiêm theo Mao Thi Truyện cho rằng: Yểm là an ủi vỗ về, Tự Thư cho rằng: Viết chữ yểm giải thích nghĩa cũng đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Yểm là che lấp gom góp, chữ viết từ bộ thủ thanh yểm âm yểm đồng với âm trên.

------------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 4

Trác lạc ngược lại âm dưới lụy giác Ban Cố Tây Đô Phú giải rằng: Trác lạc là rõ ràng nổi bậc, Chư Hạ Lữ Diên Tề giải thích: Trác Lạc là siêu tuyệt (876) sách Khảo Thanh cho rằng: Trác lạc là nổi bậc, cao lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngưu đến bộ lao thanh tĩnh.

Du khải ngược lại âm dưới ngải hài tên của Dĩnh Dụng Cao Sĩ, theo Tả Truyện cho rằng: Cao Dương Thị có tài tử tám người Loại Hội Khải, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ có sửa trị, chữ viết từ bộ phộc thanh khải.

Hất hưởng ngược lại âm trên cân thuyết Dương Hùng Cam Tuyền Phú Truyện giải thích rằng: Hất hưởng là vang vọng, Phong dung Lưu Lương giải thích: Hất hưởng là vang khắp, Mạnh Tử giải thích: Tiếng vang biến khắp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ bát đến bộ nhục viết thành chữ hất là mạch máu trong thịt có bắp. Hát là cử động, theo chữ hưởng là âm thanh vang vọng lại từ trên cao bên vách núi, trong tòa nhà lớn, tiếng vang vọng lại khi phát ra đó gọi là hưởng, lại giải thích rằng: Tiếng vọng từ xa, lan khắp ra xa.

Chấp chữ vĩ âm trên dúng là chữ chấp từ bộ hoàn đến bộ chấp chấp cũng là thanh âm kích là âm kích âm chấp ngược lại âm nữ thiệp âm kế là chu dữ Quách Phác chú Kinh Sơn Hải rằng: Chư giống như con hươu mà lớn hơn, theo Thanh Loại cho rằng: Cái đuôi của con vật có thể làm đồ cây phất trần làm quạt, Tấn Thư giải thích: Vua đi bộ cần nắm thử cái đuôi của nó, cùng với cái tay thì cũng không khác, sách Thuyết Văn cho rằng: Chủ là thuộc con nai lớn mà có một cái sừng, chữ viết từ bộ lộc thanh chủ, âm dưới đúng là chữ vĩ.

Sa thải âm thái Quảng Nhã cho rằng: Thải là chọn lựa bỏ ra, sa thải là bỏ đi vật xấu.

Du liệp ngược lại âm dưới liệm triếp Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Đi ven ngoài thảo nguyên đồng ruộng gọi là liệp Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Liệp là giống như nắm bắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển thanh liệp Văn Truyện viết chữ liệp cũng đồng.

Tạc huyệt âm trên là tạc sách Thuyết Văn cho rằng: Tạc viết từ bộ kim đến bộ diệp đến bộ cửu đến bộ thù xem trước đã giải thích rồi, âm tiết ngược lại âm sĩ giác âm thù là âm thù ngược lại âm dưới huyền quyết.

Trước kịch ngược lại âm trên trương lược ngược lại âm dưới kình kích Khổng An Quốc chú giải sách Tòng Tử rằng: Trước là khoác qua khỏi đầu mới có thể mang vào được xem xét bằng phẳng, như tu tập lại, trên thảm cỏ, sách Trang Tử giải rằng lấy guốc gỗ mà mang. Nay gọi là mang guốc ngọc bằng xương, sách Thuyết Văn giày dép gọi là kiêu từ bộ lý tóm tắt thanh chi.

Diễm sơn ngược lại âm thời nhiễm theo chữ diễm sơn nay là việt châu huyện diễm, tên núi.

Trào chi ngược lại âm trên trắc giao Thiên Thương Hoét cho rằng: Trào phúng tức là chế nhạo, Cố Dã Vương cho rằng: Trào gọi là cười chế nhạo, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh trào.

Phụ tiền ngược lại âm trên phu vụ trung hữu chú giải sách Chu Lễ rằng: Phụ gọi là tang gia phụ trợ không đủ phải nhận tiền phúng điếu, tặng đồ vật cho người chết, Cốc Lương Truyện cho rằng: Người sống đem biếu tặng cho người chết, gọi là phụ xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh phu âm phu là âm phổ âm phúng là âm phong phúng.

Tài tháo ngược lại âm dưới tao lão Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Táo là rong rêu, mọc dưới nước có hoa văn, Mao Thi Truyện cho rằng: Táo là loại rau mọc dưới nước, theo chữ tài táo đó là người có tài năng khéo léo như hoa văn rong rêu mọc trong nước. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh táo âm táo ngược lại âm táo đáo sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy viết thành chữ táo nghĩa cũng đồng.

Tuấn dật ngược lại âm trên tôn tuấn Quách Phác chú giải sách Mục Thiên Tử Truyền rằng: Tuấn là danh xưng con ngựa đẹp, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tuấn giống như là con ngựa hay, ngựa giỏi chạy nhanh như gió, cũng gọi là ngựa chạy nhanh, sách Thuyết Văn cho rằng: con ngựa có tài, giỏi, chữ viết từ bộ mã thanh tuấn âm tuấn ngược lại âm thất tuần.

Kiệt chích ngược lại âm trên kiền nghiệt sách Khảo Thanh cho rằng: Kiệt là đời nhà Hạ Ích của Hậu Thị vua Kiệt Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kiệt là thuộc ấp An Đô, sách Ích Pháp cho rằng: Kẻ tặc nhân phần nhiều có liên lụy đến nên gọi là kiệt. Lưu Hy giải thích: Lấy việc xấu ác làm ngược lại liên lụy với người hiền, kẻ phạm tội đời nhà Hạ chính là có nhiều như vậy. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kiệt là hết sạch, chữ viết từ bộ tịch đến bộ suyển là cây mọc trái ngược lên trên vậy, âm tịch ngược lại âm tuy tĩnh âm dưới là chinh diệc Trang Tử giải thích rằng: Đạo chích, kẻ trộm hung ác, sách Thuyết Văn cho rằng: Tư lợi tài vật gọi là trộm, Ngọc Thiên cho rằng: Chích là bàn chân dưới bàn chân, nay cũng gọi là chữ kiệt gọi là vua mất nước. Chích là kẻ trộm, loại người hung ác.

Trì quân lai ngược lại âm trên trì trĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng là chữ trì từ bộ ngưu đến bộ vĩ thanh tĩnh Văn Truyện viết chữ trì tục tự dùng thông dụng.

Phiêu yết ngược lại âm trên tất tiêu Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Phiêu là từ dưới gốc đưa lên ngọn. Chiến Quốc sách cho rằng: Đưa lên rất cao. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh phiêu âm phiêu ngược lại âm tất diêu ngược lại âm dưới kiền nghiệt trung hữu chú giải sách Chu Lễ rằng: Tiêu chí giống như cáo thị còn gọi là yết giống như đưa lên cao, chữ viết từ bộ thủ thanh yết.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phỉ Lưu Hoàn chú giải sách Chu Dịch rằng: Vĩ vĩ giống như là nhỏ bé. Mao Thi Truyện cho rằng: Gắng sức, Hàn Thi Truyện cho rằng: Tiến lên sách Sở Từ cho rằng: Gắng sức đưa cao lên.

Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ dậu đến bộ vĩ thanh tĩnh.

Bỉnh nhị triệu ngược lại âm trên binh mảnh Mao Thi Truyện cho rằng: Bỉnh giống như cầm nắm, thao tác. Lại cũng gọi là ôm vào lòng. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bỉnh giống như là cầm. Quảng Nhã cho rằng: Cầm nắm bông lúa chữ viết từ bộ hưu là tay cầm nắm bông lúa, chữ hội ý. Văn Truyện viết chữ thừa sách viết sai.

Linh mô ngược lại âm trên mạc bộ Bì Thương cho rằng: Mô là bắt chước vẽ phỏng theo vật. Quảng Nhã cho rằng: Mô hình phỏng tác theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Khuôn pháp chữ viết từ bộ mộc thanh mạc Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ mô cũng thông dụng.

Tề linh ngược lại âm dưới lịch đinh Quảng Nhã cho rằng: Linh là tuổi Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Linh là số tuổi thọ của người. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xỉ thanh linh theo Văn Truyện cho rằng: Tề linh hai nghĩa đó gọi là tuổi thọ sống bằng với trời đất.

Yêu vu ngược lại âm trên ai kiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Vật quỹ quái từ đất làm ngược lại hại người. Hoặc là viết từ bộ ngôn viết thành chữ yêu sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thị thanh yêu âm yêu đồng với âm trên. Trong truyện viết từ bộ nữ viết thành chữ yêu cũng thông dụng, âm dưới là vô Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vu là khinh khi, Trịnh Huyền chú giải sách

Lễ Ký rằng: Nói dối cộng thêm phỉ báng chê bai, sách Thuyết Văn cho rằng: Nói thêm vào, chuyện không nói có, chữ viết từ bộ ngôn thanh vu đều là chữ hình thanh. Khưu đảo ngược lại âm dưới đao lão Trịnh Huyền chú giải sách chu lễ rằng: Cầu phúc gọi là đảo bao quát chú giải sách Luận Ngữ rằng: Đảo là thỉnh cầu nơi quỷ thần, Ký Văn ghi rằng: Báo cáo sự việc cầu phúc, chữ viết từ bộ thi đến bộ thọ âm thị âm kỳ.

Phấn hoằng bí ngược lại âm tiên phân vấn Mã Dung chú giải sách Thượng Thư rằng: Phấn là rõ ràng, sách thức vậy cho rằng: Phấn là bay lên, chữ viết từ bộ chuy trong bộ điền chữ hội ý âm chuy là tuy ngược lại âm dưới bi mị Mao Thi Truyện cho rằng: Cầm nắm sợi dây giống như dây cương ngựa vậy, Cố Dã Vương cho rằng: Bí là chỗ chế ngự chiếc xe, trong xe ngựa. Lại nói là dây cương, sách thức vậy cho rằng: Bí là dây cương buộc ngựa, chữ hội ý, âm bí là âm vi.

Thấu lưu ngược lại âm trên sưu hựu sách Vận Anh cho rằng: Tẩy rửa súc miệng, sách Thanh văn cho rằng: Ngâm nước súc miệng chà răng. Nay nói thấu lưu đó là học đạo trên núi, ăn cây cỏ, uống nước sông dài, nuôi dưỡng người, như là thuốc trị bệnh, người học đạo cũng thế, chữ viết từ bộ thủy thanh thấu.

Lam lũ ngược lại âm lạp đam Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Lam là vải gai thô sơ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lam là loại vải thô, cũng là vải trắng dày, lại gọi là vải phấn tảo, thưa mà thô kịch sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng viết chữ uẩn từ bộ ty thanh ôn âm ôn là âm ôn ngược lại âm dưới long nữ sách Thuyết Văn cho rằng: Lũ là sợi chỉ, chữ viết từ bộ mịch thanh lũ âm lâu? là âm lâu.

Xúc tích ngược lại âm trên tử dục ngược lại âm dưới tinh diệc sách Khảo Thanh cho rằng: Xúc tích là đi mà không bước tới trước Quảng Nhã cho rằng: Dáng vẻ sợ sệt cung kính. Mã Dung chú giải sách Luận Ngữ rằng: Cung kính dáng khép nép sách Thuyết Văn cho rằng: Xúc tích là bình dị hai chữ đều từ bộ túc đều thanh thúc tích Văn Truyện viết chữ phục cũng dùng thông dụng.

Xác phá sồ ngược lại âm trên khang phửu sách Giai Uyển Chu tòng cho rằng: Xác là vỏ cứng bên ngoài của trứng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ uyển đến bộ xác xác cũng là thanh âm xác đồng với âm trên. Văn Truyện viết chữ xác tục tự dùng thông dụng. Âm dưới sừ ngô Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Sồ là chim mới nở mà tự ăn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Sồ là con gà con mới nở, chữ viết từ bộ chuy thanh sô âm sô là âm sổ câu Trụ Văn viết chữ sồ Văn Truyện viết chữ sô cũng thông dụng.

Dư diêu ô ngược lại âm dưới ô cổ Thống Tự giải thích rằng: Ô là thành cổ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ viết thành chữ ô gọi là đống đất nhỏ làm chướng ngại, Văn Truyện viết từ bộ thổ viết thành chữ ô tục tự dùng cũng thông dụng.

Dị tháo ngược lại âm dưới thương cáo Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tháo là ý chí không thay đổi, Cố Dã Vương cho rằng: Nắm giữ ý chí kiên cố gọi là tháo là âm giữ trong lòng, chữ viết từ bộ thủ thanh tảo âm tảo ngược lại âm tiên đáo.

Vu đảo ngược lại âm trên hủ vu Hán Thư cho rằng:

Tên huyện vu lũ thuộc quận Lô Giang, quận Dự Dương, sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của Ngô ấp, Văn Truyện viết từ bộ sơn viết thành chữ vu Tự Thư cho rằng: Và quận Quốc Chí, đều không có chữ vu này, phần nhiều e rằng: Văn Truyện viết sai, âm dưới là thắng sách Khảo Thanh cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ viết thành chữ đỏa tức là núi nhỏ, theo quận Quốc Chí đỏa là đống đất ngăn ở tại núi Diễm Sơn.

Hữu oa long ngược lại âm trên ô hoa Quảng Nhã cho rằng: Oa giống như trũng dưới thấp. Sách Hoài Nam Tử cho rằng: Dấu chân của con trâu bước đi có trũng đọng nước, không sinh cá lớn cũng gọi là ao nước nhỏ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh oa âm oa đồng với âm trên ngược lại âm dưới lục xung Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Long là ở chính giữa trung ương cao. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Long là hưng thạnh. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ đến bộ long.

Tảo mộc ngược lại âm trên tao lão Cố Dã Vương cho rằng: Tảo giống như tẩy rửa sạch sẽ.

Tiên năng ngược lại âm trên tiên tiễn Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tiên giống như hiếm ít, sách Thuyết Văn cho rằng: Có thể hiếm có, chữ viết từ bộ thị thanh thiểu chữ hội ý.

Khanh tướng ngược lại âm trên khách canh sách Lễ Ký Tử Hạ ghi là tiếng chuông đánh lên nghe boong boong. Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Tiếng đàn cầm khẩy, ngược lại âm dưới tích lương Mao Thi Truyện cho rằng: Tưởng là tiếng ngọc, kim loại nghe leng keng, sách Thuyết Văn cho rằng: Khanh tướng hai chữ đều từ bộ kim đều thanh kiên tưởng âm tiêu ngược lại âm bỉ miêu.

Thúc hốt ngược lại âm trên thư dục.

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 5

Mã túc ngược lại âm sở lục sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Lương Tống gọi máng cho ngựa ăn là giá Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Giác là máng đựng thức ăn cho ngựa, Văn Truyện viết chữ uyển rằng sai, chẳng phải, Cảm Thông Lục cũng có viết chữ này, đồng nghĩa với duyên chỗ trong quyển Truyện Đạo An.

Mã đâu ngược lại âm dưới đấu hầu Quảng Nhã cho rằng: Túi đâu lâu sách Thuyết Văn cũng giải thích: Máng đựng thức ăn cho ngựa chữ viết từ bộ trúc thanh đâu Văn Truyện viết chữ đâu tức là mũ giáp trụ, chẳng phải bổn nghĩa này.

Tập tạc sĩ âm trên chính là chữ tập sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ vũ đến bộ bạch âm kế là tạc ngược lại âm dưới si nhĩ tập tạc sĩ là tên của Nhương Dương Cao Sĩ.

Lung tráo ngược lại âm trên lộc đông sách Trang Tử cho rằng: Như chim cưu trong lồng, cái lồng che đậy lại. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh lung ngược lại âm dưới trào giáo Tự Thư giải thích rằng: Tráo là cái nơm bắt cá làm bằng tre như quả chuông đậy lại. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tráo tức cái nơm dùng để bắt cá, giống như cái lồng, sách thức vậy ghi là cái lồng bắt cá, chữ viết từ bộ võng thanh trác Văn Truyện viết chữ lung là chẳng phải.

Lãng phong ngược lại âm trên lang đãng sách Quảng Nhã cho rằng: Ở Côn Lôn có ba núi một tên Lãng Phong. Sách Thuyết Văn cho rằng: Lãng là cổng cao, chữ viết từ bộ môn thanh lương.

Giang mi ngược lại âm trên mỹ bi Mao Thi Truyện cho rằng: Ở chỗ ven sông, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chỗ nước và cỏ mọc lẫn lộn gọi là mi sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh mi.

Thiên hộc ngược lại âm dưới hồng cốc sách Nghi Lễ cho rằng: Mười đấu gọi là hộc sách Thuyết Văn cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ đẩu thanh giác Văn Truyện cho rằng: Chữ viết từ bộ bài viết thành chữ hộc tục tự thường hay dùng.

Vi dược ngược lại âm dương dước Thiên Thương Hoét cho rằng: Dược là năm ngón tay nắm lại. Hán Thư cho rằng: Xưa là dụng cụ đo lường, hình dáng như cái chén vậy, dùng chứa một ngàn hai trăm thứ, tức là một đấu, nặng mười hai chu, hai dược là thành một hợp. Hợp đó là dược để đong lường. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đo lường sửa chữa, cũng là ống tiêu, loại nhạc khí chữ viết từ bộ phẩm đến bộ du chữ hội ý, âm lượng ngược lại âm lương văn Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ dược cũng thông dụng.

Triện minh ngược lại âm trên truyện luyến Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Triện đó là truyện Cự Chu, Nghi Vương, Thần Sử, Trụ Văn, viết đại triện, Loa Tần, Lý Tư viết tiểu triện, giảm bớt tóm tắt đại triện, mà làm viết triện, chữ viết từ bộ trúc thanh duyên.

Xuyết bộ ngược lại âm trên chuyển liệt Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Xuyết là ngưng nghỉ, chữ viết từ bộ xa thanh xuyết âm xuyết đồng với âm trên, ngược lại âm dưới bổ mộ gọi là đứa trẻ ban đầu phương pháp ăn bú mún sữa, Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Ngậm thức ăn trong miệng, bú mớm, sách Thuyết Văn cho rằng: Bộ là bú mớm, chữ viết từ bộ khẩu thanh bộ âm tự ngược lại âm tần dữ.

Mẩm nhiên ngược lại âm lâm thậm sách Phương Ngôn cho rằng: Bẩm là cung kính, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bẩm là lo sợ nguy hiểm xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh bẩm.

Long tương ngược lại âm dưới tước dương Tấn Thư giải thích rằng: Là Vương Đảm làm Long tướng quân Lữ Hoàn chú giải sách Hán Thư rằng: tương là con ngựa chạy chồm lên, cũng gọi là con ngựa chạy mau, sách Thuyết Văn cho rằng: Tương là ngẩng đầu lên, chữ viết từ bộ mã thanh tương.

Tương chẩm ngược lại âm dưới châm nhậm Cố Dã Vương cho rằng: Chẩm là gối kê đầu nằm, chỗ có cỏ khô sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh chẫm âm chẫm là âm dâm.

Diêu trưởng ngược lại âm dưới văn lương trước đời nhà Tần phù kiên đại tướng quân, toán phù, đời hậu Tần là bá chủ.

Hoa mao ngược lại âm trên vu hòa Tự Thư cho rằng: Hoa là giày dép da. Thích Danh cho rằng: Giày cao cổ giày mang vào hai chân, mỗi chân bước trên cái nài cởi trên lưng ngựa, theo chữ hoa đó là phục sức của người nước Hồ, chữ viết từ bộ cách thanh hoa âm dưới là mao náo. Tự Thư cho rằng: Nao gọi là nón, mũ đội trên đầu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cân thanh mao.

Tường hạch ngược lại âm trên tượng dương Mao Thi

Truyện cho rằng: Tường xem xét kỹ càng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh dương ngược lại âm dưới hành cách Hán Thư cho rằng: Tường là xem xét tra hạch, sự vụ rõ ràng, đúng chuẩn theo khuôn phép xưa, sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật, chữ viết từ bộ hựu thanh kích âm kích ngược lại âm kinh ích. Đông hoàn ngược lại âm dưới hoàn quan theo hoàn đó là địa danh của nước Tề.

Chủ vĩ khấu án âm trên là chủ âm kế viết đúng là vĩ chủ vĩ là cái đuôi con hươu có thể làm phất trần, quyển trước đã giải thích rồi. Âm khấu là âm khẩu Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Khấu là đánh, Quảng Nhã cho rằng: Nắm giữ sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy phất trần mà quất quất, đánh, chữ viết từ bộ thủ đến bộ khẩu văn cổ hoặc là viết từ bộ ngôn viết thành chữ khấu lại cũng viết chữ khấu âm khấu giải thích cũng đồng nghĩa.

Thứ biền ngược lại âm dưới biện miên Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Biền giống như hợp lại hai con ngựa sanh đôi, chiếc xe có cán máng lên cái ách, hai con ngựa kéo, Cố Dã Vương cho rằng: Biền đó gọi là xếp thẳng hàng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mã thanh biện.

Nhất lạp âm dưới là lập Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Gạo nấu thành thức ăn gọi là lạp sách Thuyết Văn cho rằng: Lạp là hạt gạo, chữ viết từ bộ mễ thanh lập âm thậm ngược lại âm tam cảm.

Nhất trích ngược lại âm dưới đinh lịch Cố Dã Vương cho rằng: Đích là giọt nước rơi xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Đích giống như giọt nước tưới rót nước, chữ viết từ bộ thủy thanh đích âm đích đồng với âm trên, Văn Truyện viết từ bộ đế viết thành chữ đế tục tự thường hay dùng.

Táo dương ngược lại âm trên là tảo theo chữ táo dương đó nay tên gọi là huyện Tùy Châu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thứ chữ hội ý.

Khiên lung Ban Cổ Tây Đô Phú Truyện giải thích: Khiên là nơi dòng nước bắn lên, cũng là tên của dòng sông tại Thiểm Tây. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Khiên là tên sông, xuất phát từ phía hữu huyện Phù Phong, cũng là tên huyện, phía Tây bắc chảy vào sông Vị, chữ viết từ bộ thủy thanh nghiên âm khiên đồng với âm trên. Duẫn tập âm dưới là tập sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tập là yên ổn, hòa mục Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Cũng là chữ tập Cố Dã Vương cho rằng: Hài hòa, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh tập âm tập là âm tập.

Hào ly ngược lại âm trên hạo cao âm dưới lý chi sách Hán Thư cho rằng: Không mất một hào ly nào cả. Âm nghĩa giải thích rằng: Mười hào gọi là một ly, hoặc là viết từ bộ mao viết thành chữ hào cũng từ bộ mịch viết thành chữ âm nghĩa đều đồng, Văn Truyện viết chữ ly là sai.

Ỷ uất ngược lại âm ỷ nghi Quảng Nhã cho rằng: Y là thán từ chả cha tốt lành thay. Mao Thi Truyện cho rằng: Thán từ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đại thanh kỳ âm dưới vân vật sách Chu Dịch giải thích: Người quân tử nhìn lại thân mình biến đổi, giống như là con báo nhìn lại vằn của mình biến đổi mà tự tiếc. Thiên Thương Hoét cho rằng: Vất là cây cỏ mọc xanh tốt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo bộ uất thanh tĩnh văn cổ viết chữ uất.

Xác nhiên ngược lại âm trên khang phửu sách Chu Dịch cho rằng: gọi là xác là cứng chắc không thể nhổ lên được, sách Khảo Thanh cho rằng: Kiên cố chữ hình thanh.

Tẩm trái ngược lại âm trên xâm nhậm sách thức vậy giải thích Tẩm là nằm ngủ chữ viết từ bộ mịch thanh xâm âm dưới là trái sách Khảo Thanh cho rằng: Trái là bệnh lao phổi chữ hình thanh.

------------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 6

Khuê dương ngược lại âm trên giai khuê sách Chu Dịch cho rằng: Khuê là viên ngọc tròn, từ trên thiên tử giáng xuống, là năm cấp bậc các chư hầu cầm giữ để bảo vệ thân mình. Bạch Hổ Thông cho rằng: Khuê là nói viên ngọc sạch sẽ trong suốt, sách Thuyết Văn cho rằng: Viên ngọc dính nhiều lớp đất được rửa sạch tốt đẹp, gọi là viên ngọc quý trên tròn dưới vuông, văn cổ viết từ bộ ngọc viết thành chữ khuê cùng với Văn Truyện cũng đồng. Ngược lại âm dưới chước dương Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nửa viên ngọc khuê gọi là dương là nói viên ngọc sáng sủa, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh dương.

Bác tống âm trên đúng là chữ bác sách Thuyết Văn cho rằng: Bác là thông thái, rộng lớn, chữ viết từ bộ thập đến bộ phu âm phu là âm bổ bổ tức là vang khắp, ngược lại âm dưới tông tống kinh Thái Huyền cho rằng: Go sợi khi dệt, tức dệt sợi nọ với sợi kia, tức giữa sợi dọc kết với sợi ngang. Tống Trung giải thích: Chỗ gọi là gọp lại các sợi chỉ, sách Thuyết Văn cho rằng: Tông là đầu sợi dọc với sợi ngang, chữ viết từ bộ mịch thanh tông âm mịch là âm mịch.

Nam đậu ngược lại âm dưới đầu hầu Tự Thư cho rằng: Ngừng lại sự truy tìm lưu giữ lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngưng lại, chữ viết từ bộ xước thanh đậu.

Biên hiệp ngược lại âm trên tiên miến Quảng Nhã cho rằng: Biển giống như chật hẹp, sách Sở Từ cho rằng: Khả năng trí tuệ cạn cợt hạn hẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh biên âm dưới hàm giáp Tự Thư cho rằng:

Chỗ rộng thâu hẹp lại. Chữ viết từ bộ phụ thanh hiệp

Văn Truyện viết từ bộ khuyển viết thành chữ hiệp là chẳng phải nghĩa này. Bộc bố ngược lại âm trên bồng mộc sách Thuyết Văn cho rằng:

Bộc là nước chảy xiết chữ viết từ bộ thủy đến bộ bộc bộc cũng là thanh. Sách Khảo Thanh cho rằng: Bộc là nước chảy vào huyện sông lớn gọi là chảy khắp các con sông. Theo chữ bộc bố đó là nước trong khe núi chảy như bay xuống sông mà bị vách núi ngăn chặn lại, nên nước lên tung tóe, giống như dòng nước chảy xiết bắn lên. Tôn Trác Thiên Đài Phú Truyện nói: Bộc bố là nước chảy xiết như bay, mà lan khắp hang cùng ngỏ hẹp, Văn Truyện viết từ bộ nhật viết thành cảnh bộc hoặc là viết chữ bộc đều chẳng phải.

Diễm phát ngược lại âm trên biêm tiệm Mao Thi Truyện cho rằng: Diễm là màu sắc rực rỡ, sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Tần và Tấn gọi màu sắc đẹp là diễm, sách Thuyết Văn cho rằng: Tốt đẹp mà bền chặt dài lâu, chữ viết từ bộ phong thanh cái âm phong là âm phong Văn Truyện viết chữ diễm tục tự dùng thông dụng.

Vị chinh ngược lại âm trên vĩ quý Quảng Nhã cho rằng: Vị giống như cùng một loại. Sách Chu Dịch cho rằng: Nhổ cỏ cùng loại như cỏ mao xếp hàng theo một thứ, cỏ kiết tường, Vương Bật chú giải rằng: Vị chinh là lấy các thứ cùng một loại xếp chung với nhau, liên tiếp buộc vào nhau dẫn dắt lôi ra, chinh là đi thẳng hàng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ kệ bộ miên tóm tắt lại dưới chữ quả chữ chuyển chú, âm đệ là âm đệ.

Tâm quý ngược lại âm dưới quý quý Mao Thi Truyện cho rằng: Quý là có khúc mắc trong lòng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Quý là trong lòng rung động lo sợ chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Phụ hà ngược lại âm dưới da nhã sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hà là to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hà là xa xôi, chữ viết từ bộ cổ thanh hà tên của Viễn Công người thời xưa.

Tư tư ngược lại âm tử tư Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tư tư là không mệt mỏi. Quảng Nhã cho rằng: Gắng sức, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phộc thanh tử.

Thiên liêm âm dưới lý kiêm Thiên Thương Hoét cho rằng: Liêm là thấm ướt. Tống Trung chú giải kinh Thái Huyền rằng: Liêm là quát nhiên yên tịnh. Cố Dã Vương cho rằng: Chính sự của vua Thánh Bình thì có sông biển, có điềm tốt lành, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh kiêm.

Bì truyện dịch ngược lại âm trên là mỹ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bì là hủy hoại. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Che dấu hủy hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ thanh dĩ âm dĩ là âm tự.

Du thạch ngược lại âm trên tư hầu Bì Thương cho rằng: Du thạch giống như là kim loại. Sách Khảo Thanh cho rằng: Du thạch giống như là vàng. Tây Vực lấy đồng thiết trộn lộn hợp làm kim loại, như vàng, hoặc là viết chữ đậu đồng âm với âm trên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ kim đến bộ du thanh tĩnh.

Tín hướng âm dưới thương nhương Quảng Nhã cho rằng: Hướng là biếu tặng thức ăn, Tự Lâm cho rằng: Tặng, dâng thức ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng cho rằng: Nhường thức ăn đem biếu tặng, chữ viết từ bộ thực thanh hướng âm quý là âm quỷ âm nhương đồng với âm trên.

Đoạn canh ngược lại âm dưới canh hạnh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Canh là dây gàu múc nước, sách Phương Ngôn cho rằng: Hàn Phong gọi là sợi dây lớn là canh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh canh.

Thể luy ngược lại âm trên đệ lễ Cố Dã Vương cho rằng: Thể tức thân hình cũng tổng xưng gọi thân thể. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cốt thanh lễ Văn Truyện viết từ bộ thân viết thanh chữ thể tục dùng thông dụng. Âm dưới luy ngụy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Luy là gầy yếu. Giả Quỳ chú giải sách

Quốc Ngữ rằng: Bệnh thân thể suy nhược, sách Thuyết Văn cho rằng: Ốm yếu, chữ viết từ bộ dương đến bộ loa âm loa ngược lại âm lực ngọa.

Luân tư âm trên là luận âm dưới tức dư Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Tư thanh sạch. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tư là chìm đắm, sách Khảo Thanh cho rằng: Tư là chìm, Quảng Nhã cho rằng: Nước chảy, sách Thuyết Văn cho rằng: Nạo vét khơi sâu dòng nước, chữ viết từ bộ thủy thanh tư âm tuấn là âm tuấn.

Tư thư âm trên là thư ngược lại âm dưới thất dư sách Chu Dịch cho rằng: Tư thư là chùn bước chẳng thể tiến tới, sách Bát-nhã cho rằng: Tư thư là khó đi. Cố Dã Vương cho rằng: Trong lòng bồi hồi e ngại, sách Thuyết Văn cho rằng: không tiến tới trước mặt. Tư thư hai chữ đều từ bộ tẩu đều thanh tư thư âm thư ngược lại âm tức dư.

Chưng nịch âm trên là chữ dưng thượng thanh. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chưng giống như cứu trợ, Quảng Nhã cho rằng: Thâu nhận gom lấy sách Thuyết Văn viết chữ thăng âm dưới ninh đích sách Trang Tử giải thích rằng: Khéo léo nổi mà không chìm, Quảng Nhã cho rằng: Nịch gọi là chìm đắm Văn Tự Điển nói rằng: Nịch là chìm trong nước chữ viết từ bộ thủy thanh nịch.

Trì vụ ngược lại âm trên trực ly Tự Thư viết chữ đà Cố Dã Vương giải thích: Đà là chạy, Quảng Nhã cho rằng: Chạy trốn, sách Thuyết Văn cho rằng: Đà là con vật mang vác nhiều đồ vật đi xa như lạc đà, chữ viết từ bộ mã thanh tha âm tha ngược lại âm thái hà ngược lại âm dưới vô phụ Quách Phác chú giải sách Mục Thiên Tử Truyện rằng: Vụ là đánh ngựa cho chạy mau, Cố Dã Vương cho rằng: Bỗng nhiên con ngựa chạy chồm lên truy đuổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Vụ là ngựa phi nhanh, chữ viết từ bộ mã thanh vụ âm vụ đồng với âm trên.

Hài cửu âm trên là hài Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hài cốt, Cố Dã Vương cho rằng: Xương cốt của thân thể gọi chung là hài cốt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cốt thanh hài ngược lại âm dưới cầu cứu Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ phương viết thành cảnh cửu gọi là xác chết bỏ vào quan tài gọi là cửu. Sách Lễ Ký cho rằng: Trong quan tài gọi là cửu sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phương thanh cửu hoặc là viết từ bộ mộc Trụ Văn viết chữ cửu.

Tạc khoáng âm trên là tạc âm dưới là khổ báng Quảng Nhã cho rằng: Khoáng là khoảng đất trống, theo chữ khoáng đó là cái hầm được đục khoét từ trên núi, âm cái mộ gọi là khoáng, đất bằng làm mộ gọi là trũng trũng là sâu. Khoáng là cạn chữ viết từ bộ thổ thanh quảng lại cũng gọi là cái hầm.

Khai trụy ngược lại âm dưới tùy túy theo Thanh Loại cho rằng: Trụy là đường lộ hoang vắng. Nay sách Thuyết Văn và Khảo Thanh cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ viết thành chữ trụy tức là hoang vu, con đường vắng vẻ.

Bi văn ngược lại âm trên bỉ mi bi nhiều mãng đá khắc bia ghi công trạng của người có công làm bia kỷ niệm. Thích Danh cho rằng: Bi là bia thuật lại công đức tốt đẹp của vua cha, lấy ra trong sách sử như Hán Huệ Đô là Tứ Hạo lập bia mộ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh bi.

Sái lạc ngược lại âm trên sanh mại Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Giống như lấy nước rẫy xuống đất, sách Thuyết Văn cho rằng: Sái là rẫy nước chữ viết từ bộ thủy thanh sái âm tấn là âm tín.

Tựa tán ngược lại âm dưới tả hán Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Tán là tụng chỗ gọi là giải thích vật lý. Thích Danh cho rằng: Tán là khen ngợi người có công đức tốt đẹp. Cố Dã Vương cho rằng: Tán là phải có sự hỗ trợ dẫn dắt tuyên dương công đức của người lập công. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh tán âm tán đồng với âm trên. Văn Truyện viết chữ tán tục tự thường hay dùng.

Tuấn sảng ngược lại âm trên tôn tuấn sách Thượng Thư cho rằng: Khắc mình tuấn đức. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tuấn gọi là tài năng vượt trội hơn người một cách khác thường. Bạch Hổ Thông cho rằng: Tên riêng của Lễ ghi lại người hiền vượt hơn trăm người gọi là tuấn xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ nhân thanh thuyên âm thuyên ngược lại âm tuyền nhuyễn hoặc là viết chữ tuấn cũng thông dụng ngược lại âm dưới sương lượng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Sảng là rõ ràng Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Cao quý sách Thuyết Văn viết từ bộ xuyết đến bộ đại âm xuyết là âm lệ.

Cách lệ ngược lại âm sư tể sách Thuyết Văn cho rằng: Lệ tức là chân đi giày dép. Trang Tử giải thích rằng: Nguyên Hiến mang giày chống gậy lê bước vào chốn dân gian. Thiên Thương Hoét cho rằng: Lệ cũng mang giày đi xa theo chữ cách lệ đó là, nay Ba-la-môn đi giày dép da, đi hài dưới đất lót ba lớp nhung đều không cứng dây đai cũng có sau gót chân, cho nên gọi tên là cách lệ. Theo Thanh Loại cho rằng: Viết chữ tỷ cùng với Văn Truyện cũng đồng, cân lũ ngược lại âm câu ngộ.

Nga mi âm trên là ngã âm dưới là mi theo Quận Quốc Chí Truyện cho rằng: Tên ngọn núi ở Tây Thục.

Vẫn mặc ngược lại âm trên mân vẫn sách Vận Anh cho rằng: Mẫn là thương xót, ngược lại âm dưới mộng bắc sách Khảo Thanh cho rằng: Mẫn mặc đó là trong lòng có tình thương xót mà không nói ra được sách Vận Thuyên cho rằng: Mẫn cũng là mặc, chữ viết từ bộ tâm thanh mẫn sách Khảo Thanh cho rằng: Mặc gọi yên tịnh, chữ viết từ bộ khuyển thanh hắc.

Phong đích ngược lại âm trên mạch phòng Văn Dịch chú giải Hán Thư rằng: Phong là mũi nhọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phong gọi là binh đao, đao kiếm có mũi nhọn thẳng, chữ viết từ bộ kim thanh phong âm phong là âm phong âm dưới đinh lịch Quảng Nhã cho rằng: Mũi tên nhọn, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là mũi tên nhọn chữ viết từ bộ kim thanh đích âm thốc ngược lại âm tông tốc âm đích là âm đích.

Hung bộc ngược lại âm dưới bồn một Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bột giống như là làm ngược lại, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bột là loạn tâm. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Không (878) thuận, chữ viết từ bộ tâm thanh bột âm bột đồng với âm trên.

Vãn bi ngược lại âm dưới bị mi.

Quán sái Hán Thư giải thích rằng: Phàm rửa tẩy gọi là quán sách Thuyết Văn cho rằng: Rửa tay, chữ viết từ bộ cửu bộ thủy đến bộ mảnh chữ hội ý, âm táo là âm tảo âm cửu là âm cúc ngược lại âm dưới tẩy tây Tự Thư cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy đến bộ tây Văn Truyện viết từ bộ tiên viết thành chữ tẩy tục dùng thông dụng.

Lộc thủy ngược lại âm trên lung cốc Cố Dã Vương cho rằng: Lộc giống như giọt nước, Quảng Nhã cho rằng: Lộc là hết tận, theo chữ lộc thủy đó. Nay người Samôn lấy vải làm đãy lọc nước làm hộ sanh bỏ đi cấu uế, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy đến bộ lộc thanh lộc.

Lan hoằng ngược lại âm ô hoằng danh tăng.

Lô tùng âm trên là lữ âm dưới tông khổng Bì Thương cho rằng: Lô tùng là nhà xây trên ngọn đồi cao Lâm Phú Truyện ghi: Ngọn đồi cao, núi cao, cũng là tên núi.

Trúc thần miếu ngược lại âm trên tung lục sách Thuyết Văn giải thích Trúc là đạp giả, chữ viết từ bộ mộc thanh chủ âm trúc là âm trúc Văn Truyện viết chữ trúc là chẳng phải.

Kinh diêu âm dưới là điều sách Thuyết Văn cho rằng: Diêu là nhảy vượt qua, chữ viết từ bộ túc thanh triệu Thanh Loại viết chữ diêu giải thích cũng đồng.

Hổ cứ ngược lại âm dưới cư ngự sách Thuyết Văn cho rằng: Cứ tức là ngồi xổm, chữ viết từ bộ túc thanh cứ.

Cưỡng hãn ngược lại âm dưới hàn thu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thiên giống như phòng vệ, lại gọi là che giấu sách Thuyết Văn cho rằng: Che chắn, chữ viết từ bộ thủ thanh thiên hoặc là viết từ bộ hãn viết thành chữ hãn. Y hiệp ngược lại âm dưới lam hiệp Thiên Thương Hoét cho rằng: Hiệp là hợp Quảng Nhã cho rằng: Cái áo nhiều lớp, sách Thuyết Văn cho rằng: Áo không có độn bông, chữ viết từ bộ y thanh hợp.

Thúc bất kiến ngược lại âm thi dục sách Sở Từ cho rằng: Vụt đến vụt đi, qua lại vội vàng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thúc là con chó chạy mau, chữ viết từ bộ khuyển thanh thúc Văn Truyện viết chữ thúc cũng đồng nghĩa.

Đạo khướt ngược lại âm dưới lương chước nghĩa cùng với chữ lược cũng đồng, danh tăng.

Tuấn tiệp ngược lại âm trên tuân tuấn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tuấn là ngựa chạy rất mau, Quách Phác chú giải rằng: Là chạy mau sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa tốt chữ viết từ bộ mã thanh tuấn âm tuấn ngược lại âm thiên tuần ngược lại âm dưới tiềm diệp Mao Thi Truyện cho rằng: Tiệp là thắng trận Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiệp là khắc sách Thuyết Văn cho rằng: Tiệp cũng là đi săn, chữ viết từ bộ thủ thanh tiệp âm tiệp đồng với âm trên, âm liệp ngược lại âm liêm triếp.

Vi phiên ngược lại âm dưới miễn tinh âm độc cũng phiên dịch đồng âm, sách Vận Anh cho rằng: Thay phiên đổi phiên với nhau, kết tiếp phiên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ điền đến bộ mễ thanh diên tượng hình giống như năm tay con thú, âm miển ngược lại âm phương vạn âm tinh ngược lại âm vãn phiền,

Oa lưu ngược lại âm hoằng hoa Quảng Nhã cho rằng: Oa là lỗ trũng dưới trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Hình cẩn ngược lại âm cán ẩn sách Vận Thuyên cho rằng: Cẩn thận Thiên Thương Hoét cho rằng: Cẩn là niềm tin. Trung hữu chú giải sách Luận Ngữ rằng: Kính cẩn. Hiếu kinh giải thích cẩn là thân cẩn thận dùng thân tiết cẩn dùng với nghĩa nâng lên, đồng với Văn Truyện viết từ bộ ấp viết thành chữ cẩn Văn Truyện viết sai chẳng phải nghĩa này.

Tăng giai ngược lại âm khanh ngai sách Khảo Thanh cho rằng: Giai pháp tắc, khuôn mẫu mô phạm chữ viết từ bộ thủ thanh giai.

Miên tích ngược lại âm trên miên biển miên tích đó là nghĩa ẩn cư, sách Thuyết Văn cho rằng: Miên là cố hương thôn quê, Tôn Á đó ẩn thân nơi miền thôn dã.

Dung thư âm trên là dung sách Trang Tử giải thích: Dung thư đó là ở nơi người. Cố Dã Vương cho rằng: Dùng sức lực phục dịch, chịu cho người ta sai khiến gọi là dung xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh dung.

Ngọ thứ âm trên ngọ ngọ thứ là triều nhà Hán tên người ẩn dật. Thôi nục ngược lại âm dưới nữ lục sách thừa cho rằng: Xấu hổ Cố

Dã Vương cho rằng: Nục là bẽ gãy chém chặt ngang lưng, gãy đổ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ huyết thanh sửu Văn Truyện viết từ bộ nhẫn viết thành chữ nục cũng thông dụng.

Suyển tạp ngược lại âm trên dụng nhuyễn Quảng Nhã cho rằng Suyển là làm trái lại. Cố Dã Vương cho rằng: So le không bằng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đối đầu, chữ viết từ bộ đa nghĩa chống trái nhau chữ hội ý.

Tịch khoan âm trên văn cổ viết chữ tịch sách Thuyết Văn viết đúng chữ tịch nghĩa là an tịnh, tịch mặc không có tiếng người.

Đế bảng ngược lại âm dưới bác quảy Bì Thương cho rằng: Bảng tức là biển viết để mục, bảng yết thị. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tên của loại cờ phan được nêu cao lên, chữ viết từ bộ phiến thanh bàng.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 90

Trước cao tăng truyện âm quyển hạ, đến quyển thứ bảy đến hết quyển thứ mười bốn.

CAO TĂNG TRUYỆN

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 7

Vong thuyên ngược lại âm trên võng phương ngược lại âm dưới thất huyên sách Khảo Thanh cho rằng: Thuyên là cái lồng bắt cá, chữ viết từ bộ trúc thanh thuyên Trang Tử nói được cá quên nơm.

Ẩn kỹ ngược lại âm ân cân Giai Uyển Chu Tòng nói: Ẩn là dựa vào, chữ viết từ bộ nhân thanh ẩn âm ẩn là âm ẩn ngược lại âm dưới cơ nghị sách Khảo Thanh cho rằng: Thuộc ghế dựa, sách Vận Anh nói: Kỹ là chỗ đề dựa vào nương vào. Sách Thuyết Văn ghi: Ngồi xổm lên tượng hình, Văn Truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ kỹ cũng có thể thông dụng.

Hịch ma văn ngược lại âm trên nha kích Cố Dã Vương ghi: Kích thư đó là trách mắng tội nhân thay thế hình phạt sách ghi lời hiểu dụ trong bá tánh lao nhọc. Hán Thư ghi lấy lông chim là bút hay huy hiệu trong thiên hạ, tức là binh khí tiêu biểu. Lại giải thích Lấy lông chim cắm vào thư tịch trên mặt, tiêu biểu sự lao nhọc vất vả mau chóng như chim bay. Hịch là lời văn để kêu gọi ngày xưa, thuở xưa viết lời hịch vào thẻ dài chừng một thước hai tấc, nếu kêu gọi khẩn cấp thì kẹp lông chim vào gọi là hịch vũ sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh kích trong âm là kích.

Tiêu mộ ngược lại âm trên tô điêu sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo âm điệp ngược lại âm nữ triếp âm điệp trong bộ uyên âm uyên ngược lại âm nhuế duyên ngược lại âm dưới là mạc hồ chữ viết từ bộ thủ thanh mạc.

Giác đàm âm trên là giác sách Tập Huấn giải thích: Giác là lo buồn ưu sầu kém cõi, hoặc là viết từ bộ phộc viết thành chữ giác viết đúng là bộ hào viết thành chữ giác Văn Truyện viết từ bộ giao viết thành chữ giao tục tự dùng thông dụng.

Thương đố ngược lại âm đô cố sách Thuyết Văn cho rằng: Con sâu mọt trong cây gỗ, con mọt gỗ, chữ viết từ bộ côn đến bộ đố thanh tĩnh.

Phẩu tích ngược lại âm trên phổ khẩu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phân trong ra phanh ra gọi là phẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Tách ra phanh ra mở ra, chữ viết từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm tha khẩu âm tích là âm thích.

Hấp nhiên ngược lại âm huất ấp Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hấp là hợp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ vũ thanh hợp cũng là chữ chuyển chú.

Để hạ ngược lại âm trên để lễ Thiên Thương Hoét cho rằng: Để là khinh khi. Quảng Nhã cho rằng: Hủy nhục sách Thuyết Văn cho rằng: Để là trách mắng chữ viết từ bộ ngôn thanh để âm để đồng với âm trên.

Sấn di ngược lại âm sơ cận âm dưới duy sấn chữ khứ thanh, chữ giải tá, sách Văn Tự Tập Lược ghi sấn là đem tài của ra bố thí cho người nghèo cùng, tặng cho hoặc là viết từ bộ khẩu viết thành chữ sấn âm cân ngược lại âm cẩn cận.

Thanh xác ngược lại âm khổ giác xưa nay Chánh Tự ghi: Xác là cứng chắc, chữ viết từ bộ thạch thanh xác âm xác là âm hại Văn Truyện viết từ bộ xác viết thành chữ xác tục tự dùng chẳng phải.

Phi tích lịch ngược lại âm trên tỳ kế âm dưới lê kế Khảo Thanh cho rằng: Tích lịch là tên của loài cỏ, theo chữ tích lịch loại cỏ dây leo mọc um tùm leo lên cây đại thọ như bao ngoài lớp áo.

Sính phân ngược lại âm trên lặc hàm Mao Thi Truyện cho rằng: Sính là làm càng tỏ rõ sức lực, sách Vận Anh ghi: Thông suốt, vui thích, thỏa thích. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh trình.

Phất truy ngược lại âm tử sư Mao Thi Truyện cho rằng: Màu sắc đen, sách thức vậy ghi: Chữ viết từ bộ mịch thanh truy Văn Truyện viết chữ truy là chẳng phải. Phất niết âm dưới niên kiết Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Niết là có thể lấy vải trắng đem nhuộm, sách Thuyết Văn ghi: Đất màu đen, trong nước tức là đất bùn chữ viết từ bộ tủy thanh niết âm niết đồng với âm trên.

Vĩ diệp ngược lại âm trên vĩ quỹ âm dưới diêm kiếp Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Vĩ diệp là sáng rực rỡ gọi là lửa cháy sáng đỏ rực. Hoặc là viết từ bộ hỏa viết thành chữ diệp cũng thông dụng, đều là chữ hình thanh.

Hành bân ngược lại âm dưới bi bân tên người. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ sơn thanh bân âm bân đồng với âm trên.

Dung quân ngược lại âm dũng chung Hán Thư âm nghĩa giải thích Dung là lò đúc tiền, sách Thuyết Văn ghi: Phương pháp đúc đồng làm cho đồng chảy ra, dụng cụ đúc đồng, chữ viết từ bộ kim thanh dung âm dưới quý quân sách Thuyết Văn cho rằng: Mười cân gọi là quân đơn vị đo lường, chữ viết từ bộ kim đến bộ quân thanh quân âm quân ngược lại âm duẫn tuân.

Tẩu thoán ngược lại âm bảng cẩu đúng thể là chữ tẩu sách Thuyết Văn tẩu là chạy đi, chữ viết từ bộ yên đến bộ chỉ âm dưới thương loạn Cố Dã Vương cho rằng: Thoán là chạy trốn, Văn Tự Điển nói: Con chuột nó trốn trong hang, chữ hội ý.

Lộc sơn âm trên là lộc Mao Thi Truyện cho rằng: Lộc dưới chân núi, dưới núi có rừng cây, chữ viết từ bộ lâm thanh lộc.

Tức sưu ngược lại âm dưới lặc lưu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Sưu là kém dần Khảo Thanh cho rằng: Bệnh tổn giảm, giảm bớt bệnh, chữ viết từ bộ tật thanh sưu âm sưu ngược lại âm lực ấu.

Trương thiệu ngược lại âm thường diệu tên người.

Chất cốc âm trên là chất ngược lại âm dưới công cốc sách Vận Anh ghi rằng: Gông cùm ở tay gọi là chất gông cùm ở chân gọi là cốc Trịnh Chúng chú giải rằng: Hai tay, hai chân đều còng buộc trói vào cây, lại cũng là nữu giới gọi là trói buộc tội nhân câu thúc lại.

Dụ nhân ngược lại âm do tửu gọi là khuyên bảo dụ dẫn, người, chữ hình thanh.

Lộ quát ngược lại âm hỏa quát Bì Thương cho rằng: Quát là nhìn chăm chăm, chữ viết từ bộ mục thanh quát âm quát ngược lại âm hoàn quát chữ quát từ bộ can đến bộ khẩu.

Hạp tịch ngược lại âm trên hàm hạp sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hạp gọi là cánh cửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Hạp là cánh cửa đóng lại, chữ viết từ bộ môn thanh hạp âm hạp là âm hạp Văn Truyện viết từ bộ súc viết thành chữ hạp là sai chẳng phải.

Lâm truy âm trên là lâm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tôn ty thứ tự gọi là lâm Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Lâm là sửa trị, sách Phương Ngôn giải thích Lâm là chiếu sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Lâm là đến, chữ viết từ bộ ngọa thanh phẩm ngược lại âm tử sư truy châu, cửu châu, phân ra thành đất thanh châu, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Truy là tên sông, xuất phát từ núi Thái Sơn, Lương phụ phía tây bắc chảy vào sông mân. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh truy âm truy đồng với âm trên.

Từ kham ngược lại âm trạch ảm tên người kham giống như tề chỉnh.

Vu thặng âm trên là hộ âm dưới thặng văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Lụy yên ngược lại âm trên luật ủy sách Lễ Ký cho rằng: Lụy là dấu tích có liên lụy tới, nói lúc sinh thời có liên quan đến hành trạng, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lụy là có liên quan tới, sách Thuyết Văn cho rằng: Có lợi ích như điếu văn, chữ viết từ bộ ngôn thanh lỗi âm lỗi ngược lại âm lôi hội.

Chẩn thí ngược lại âm trên chân nhẫn sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chẩn là giàu có. Quách Phác chú giải rằng: Giàu có ẩn bên trong, cứu giúp cấp cho, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh chấn.

Tri trù ngược lại âm trên tri trỉ ngược lại âm dưới trụ chu sách Khảo Thanh cho rằng: Tri trù giống như bồi hồi, đi đi lại lại. Quảng Số (879) cho rằng: Viết chữ trù trừ là âm trừ gọi là do dự. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ túc đều thanh tri trù.

Phụ kíp ngược lại âm dưới liểm kiếp sách Khảo Thanh cho rằng: Kíp là cái tráp đựng đầy sách. Xưa nay Chánh Tự từ bộ trúc thanh cấp tức là cắp sách đến trường.

-----------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 8

Xước hữu ngược lại âm trên xương dước sách Nhĩ Nhã giải thích Xước là thong thả, Mao Thi Truyện cho rằng: Xước là rộng rãi, thừa thải, Văn Tự Điển nói: Rộng rãi thong thả, chữ viết từ bộ mịch thanh trác.

Nục yên ngược lại âm trên nữ lục lại cũng âm là nữ lực sách Phương Ngôn giải thích: Nục là xấu hổ, sách Tiểu Nhĩ Số giải thích: Trong lòng hổ thẹn gọi là nục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hổ thẹn đỏ mặt, sách Thuyết Văn cho rằng: Hổ thẹn, chữ viết từ bộ nhi thanh tâm.

Phụ trật ngược lại âm trần lật theo chữ trật đó là bìa sách, Văn Tự Điển nói hoặc là viết từ bộ cân viết thành chữ trật tục viết chữ trật cũng đồng.

Ổi lai ngược lại âm trên ô hối Quảng Số cho rằng: Ổi là đông nhiều lộn xộn, Bát-nhã cho rằng: Có nhiều Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Ổi là vật hỗn tạp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển thanh ổi.

Vương thước ngược lại âm dưới thương chước Tự Thư giải thích: Phía Nam gọi Nam Húy Thước, Tự Lâm Huyền Mao Thi Truyện cho rằng: Thước là tốt đẹp, nung nóng chảy đồng ra, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ kim thanh lạc.

Giáng tất âm dưới là tất Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tất gọi là dừng chân, tức là đường ngăn cấm, như nay gọi là vua đi ngăn không được đi lại, có nghĩa ở một chỗ, Văn Tự Điển viết từ bộ túc thanh tất.

Cai thiệp ngược lại âm trên ca ai Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cai là dự bị sách Phương Ngôn giải: Bao gồm Quảng Nhã Hy Cai bàn luận phải trái, lại cũng gọi là bao quát, sách Thuyết Văn ghi: chuẩn bị bao gồm đầu đuôi, chữ viết từ bộ ngôn thanh cai.

Bính hữu ngược lại âm trên binh mãnh hoặc là viết chữ bính cũng đồng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Sáng sủa chữ viết từ bộ nhật thanh bính hoặc là viết từ bộ hỏa viết thành chữ bính dùng cũng thông dụng. Vương nghi âm dưới nghi cước Tống Triều tên của Dự Dương Vương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ sơn thanh nghi.

Biếm vu ngược lại âm dưới bi nghiệm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Biếm là đem chôn mai táng xác chết, bỏ quan tài xuống đất.

Chu ngung ngược lại âm ngu cung tên người.

Mẫn nhi mi vẫn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mẫn là thương xót lo buồn. Xưa nay Chánh Tự giải thích chữ hình thanh.

Vãng vãng ngược lại âm vương huống sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vãng vãng sáng rực đẹp, sách Khảo Thanh cho rằng: Ánh sáng rực rỡ đẹp, Mao Thi Truyện cho rằng: Vãng vãng là luôn luôn sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Ánh sáng muôn màu đẹp, chữ viết từ bộ nhật thanh thanh vãng.

Trì thao ngược lại âm dưới thảo đáo Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tháo là đến, Cố Dã Vương cho rằng: Nắm giữ ý chí vững chắc gọi là tháo sách Khảo Thanh cho rằng: Lập chí không thay đổi, chữ viết từ bộ thủ thanh táo.

Lưu hiệp ngược lại âm khiêm hiệp thời kỳ Triều Lương tên vị tú tài, kẻ sĩ viết bốn cuốn sách, gọi tên Lưu Tử, cùng với Lưu mậu v.v... đều là hoàng kỹ quý tộc.

Phảng hạch ngược lại âm dưới hành cách văn trước trong quyển năm đã giải thích đầy đủ rồi.

Lưu hiến ngược lại âm ngôn kiển tên người.

Bàng ngung ngược lại âm trên bản quan âm dưới là ngu tên huyện Nam Hải, Quảng Châu. Văn Truyện viết từ bộ phụ viết thành chữ ngung cũng thông dụng, cùng với Quảng Châu cách một tiểu hải lý.

Tán nghiên ngược lại âm trên toán loan sách Mạnh Tử giải thích: Tán là đục xuyên qua, sách Khảo Thanh cho rằng: Đâm vào, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh toàn Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ tán chẳng phải, ngược lại âm dưới nghiên kiên.

Trào hước ngược lại âm trích giao Cố Dã Vương cho rằng: Trào gọi là làm trò hài hước vui cười, chế giễu, sách Sở Từ viết từ bộ khẩu viết chữ trào giải thích đều đồng nghĩa, ngược lại âm dưới hương ngược sách Nhĩ

Nhã cho rằng: Hước là pha trò, nói đùa, khôi hài, Mao Thi Truyện cho rằng: Khôi hài làm trò vui, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh ngược.

Giá táo âm trên giá dạ tức là cam giá cây mía. Tên của loại thực vật mỹ thảo, âm dưới là tảo tên quả cam ngọt, sách Thuyết Văn ghi loại táo dương, chữ viết từ hai bộ thứ.

Mi huyện âm trên là mi Hán Thư giải thích địa danh. Xưa nay phù phong chữ viết hình thanh.

Tương hiếp âm dưới khâm kiếp Công Dương Truyện cho rằng: Hiếp là bức bách. Quảng Nhã cho rằng: Khiếp sợ Cố Dã Vương cho rằng: Dùng sức lực dọa nạt khủng bố bức hiếp người. Văn Tự Điển nói: Hiếp tức là dọa nạt, chữ viết từ bộ tâm thanh hiếp Văn Truyện viết từ bộ nhục viết chữ hiếp là chẳng phải.

Tái xưởng ngược lại âm dưới xương dưỡng tên của vị Sa-môn. Tăng triệu ngược lại âm thiệu chiêu tên người.

Đức cảnh ngược lại âm quỷ vĩnh danh tăng, chữ viết từ bộ công viết thành chữ cảnh tục tự thường hay dùng.

Đông hoàn âm quan địa danh.

Huyền huyện âm trên hình kiên sách Thuyết Văn cho rằng: Huyền là gấp vội, chữ viết từ bộ tâm thanh huyền âm huyền đồng với âm trên, sách Khảo Thanh cho rằng: Đến kịp sách Thuyết Văn đều viết chữ thuyên chữ cổ. Ở Hà Nam Mật huyện, có Huyền Đình Văn Truyện viết chữ duyệt cũng đồng.

Ký biệt ngược lại âm bỉ liệt gọi là phân biệt cùng với thọ ký cũng đồng.

Đái trách ngược lại âm dưới tranh cách sách Phương Ngôn cho rằng: Khăn bao búi tóc, gọi là trách sách Thuyết Văn cho rằng: Tóc có cột cái khăn gọi là trách chữ viết từ bộ cân thanh trách chữ trách từ bộ thứ âm thứ là âm thích.

Minh tịch ngược lại âm trên mịch bình ngược lại âm dưới tình diệc chữ viết từ bộ miên âm miên đến bộ thúc âm thúc.

Thực lại ngược lại âm trên thừa lực Đỗ Dự chú giải sách Tả Truyện rằng: Thực là giống y nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ miên thanh thọ trong Văn Truyện viết từ bộ huyệt viết thành chữ thực là chẳng phải.

Đàm phỉ ngược lại âm phi vĩ phỉ là văn chương trau chuốt, tên của vị Sa-môn.

Giam mặc ngược lại âm giáp hàm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Giam là đóng lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Giam là buộc cái rương kín lại, chữ viết từ bộ mịch thanh hàm ngược lại âm dưới mộng bắc gọi là tịch mặc không có tiếng người, hoặc là viết từ bộ khuyển viết thành chữ mặc cũng đồng.

Miễu mạn ngược lại âm trên diệu phiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Dòng nước mênh mong bát ngát, sách Vận Anh cho rằng: Dòng nước lớn, chữ viết từ ba bộ thủy Văn Truyện viết từ bộ thủy viết thành chữ miễu cũng thông dụng, nghiệp dưới mãn bán Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Mạn là dằng dặc, mênh mông, Cố Dã Vương cho rằng: Không có thể phân biệt được, Quảng Nhã cho rằng: Mênh mong mù mịt, sách Sở Từ cho rằng: Kéo dài lê thê. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh mạn.

Túy triết âm trên tuy túy sách Khảo Thanh cho rằng: Tinh thuần, sách Thuyết Văn cho rằng: Không xen tạp chữ viết từ bộ mễ thanh tốt âm dưới tri liệt.

Phiên phủ âm trên là phiền sách Vận Thuyên cho rằng: Cây búa lớn Bì Thương cho rằng: Chém chặt san bằng, cái búa lớn, khai mở rộng ra, sách Văn Tự Điển nói: Đẩy ra chữ viết từ bộ kim thanh phiên.

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 9

Tuệ bột ngược lại âm trên toàn nhuế Tự Uyển giải thích: Tuệ là thuộc các vì sao tinh tú, sách Lã Thị Xuân Thu giải thích: Tuệ là sao lạ thuộc yêu quái, sách Thuyết Văn cho rằng: Tuệ là sao chổi, chữ viết từ bộ hựu tức nắm giữ lấy, cũng là chữ hình thanh, gọi là đông đúc, âm sân là âm thiên ngược lại âm âm dưới bồn một Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Bột là sao bột, giống như là bông trắng phau phau, cũng là khí yêu quái, sách Thuyết Văn viết từ bộ phỉ âm phỉ là phí đến bộ tử Văn Truyện viết chữ bột cũng thông dụng.

Cố tật âm trên là cố hoặc là viết chữ cổ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tật chữ hình thanh.

Càn táo ngược lại âm trên ca an âm dưới tảo đáo văn trước đã giải thích rồi.

Trách như ngược lại âm trên sĩ cách Quảng Nhã cho rằng: Phân tách ra sách Thuyết Văn cho rằng: Nứt ra, chữ viết từ bộ thổ thanh trách âm trách là âm xích.

Thạch lương ô ngược lại âm ô cổ Văn Tự Điển Tập Lược cho rằng: vách tường thành nhỏ, theo chữ ô đó đồi đất cao, trên núi, tên giữa hai gò đất, gọi là ô chữ viết từ bộ phụ viết thành chữ ô cũng đồng, chữ viết từ bộ thổ thanh ô.

Thụ sách ngược lại âm dưới sở sách Quảng Nhã cho rằng: Sách là hàng rào. Thiên Thương Hoét cho rằng: Hàng rào song cửa, Thống Tự cho rằng: Dùng cây dựng đứng hàng rào giống như vách tường, gọi là sách sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh sách âm sách đồng với âm trên, âm chấp ngược lại âm tri lập.

Biên thước ngược lại âm biên diện sách Thuyết Văn viết từ bộ hộ đến bộ biển thanh tĩnh âm dưới thương chược theo chữ biển thước tên của thầy thuốc thời xưa, vốn họ Lư người thời lục quốc.

Nhung bách âm trên nhi dung sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng viết từ bộ giáp viết thành nhung nay từ bộ thập viết thành chữ nhung tục tự thường hay dùng, âm dưới mạch săn thú. Xưa loại người Nam Man đi săn bắt thú ăn sống, Văn Truyện viết từ bộ thỉ cũng thông dụng.

Thạch bân ngược lại âm bỉ mân tên người.

Côn hào ngược lại âm trên hồn khổn Quảng Nhã giải thích côn là nước đục, ngược lại âm dưới là hiệu giao Hán Thư cho rằng: Hào là hài hòa, hòa trộn lại chữ viết từ bộ thù thanh hào chữ hào từ bộ nhục.

Ma chu ngược lại âm như chu theo chữ nhu nay gọi là áo ngắn áo kép, Ma nhu tức là áo dài, sách Thuyết Văn ghi: Nhu tức là áo ngắn chữ viết từ bộ y chữ hình thanh. Hoàn nhiên ngược lại âm hoàn quan Hà Yến chú giải sách Luận Ngữ rằng: Hoàn mỉm cười.

Thạch thao ngược lại âm thảo đao.

Trọng nhân âm dưới là nhân trung hữu chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhân là đêm thảm, Cố Dã Vương cho rằng: Lấy da con hổ làm mền, sách Thuyết Văn cho rằng: Trên xe có nhiều lớp chiếu điện, chữ viết từ bộ thảo thanh nhân Tư Mã Tương Như giải thích: Trong Tử Hư Phú Truyện rằng: Chữ viết từ bộ cách viết thành chữ nhân cũng đồng nghĩa. Ứng mao ngược lại âm duyên mao báo theo Tả Truyện cho rằng:

Lão tưởng có râu tóc dài. Đỗ Dự chú giải rằng: Mao là râu tóc rối loạn, sách Lễ Ký giải thích: Tám mươi, chín mươi tuổi gọi là ma Trịnh Huyền chú giải rằng: Mao là già cao tuổi hay lẫn lộn, mau quên, chữ viết từ bộ lão thanh mao sách Thuyết Văn viết chữ mao là chữ cổ.

Bất hôn ngược lại âm hốt côn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hôn là loạn lầm lẫn, sách Khảo Thanh cho rằng: Già nên hay quên nhiều Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Người hôn loạn không có chỗ biết, không biết gì. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hôn.

Thiết tỏa xuyên ngược lại âm thiển liết sách Thuyết Văn cho rằng: Kim loại màu đen, tức là chì, chữ viết từ bộ kim thanh thiết âm thiết là âm điệt ngược lại âm dưới tô quả Quảng Nhã giải thích tỏa là móc xích liên kết với nhau, gọi là móc xích lại với nhau, liên kết lại, ngược lại âm dưới xuyên sách Thuyết Văn cho rằng: Xuyên là thông suốt qua, xuyên qua, Văn Truyện viết từ bộ thân viết thành chữ xuyên là chẳng phải.

Hoàn liệt sách Vận Thuyên cho rằng: Hoàn là càng xe, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Chiếc xe làm nứt ra gọi là hoàn lại là âm quyển lại cũng là âm hoan giải thích cũng là một nghĩa, chữ viết từ bộ xa đến bộ hoàn thanh tĩnh.

Hưu chỉ ngược lại âm lặc lý Mao Thi Truyện cho rằng: Chỉ là phúc lành. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chỉ là lộc, chữ viết từ bộ thị thanh chỉ.

Ô ế ngược lại âm trên ô cô ngược lại âm dưới yên kiết Thượng Thư cho rằng: Ô thán từ tiếng than, sách Thuyết Văn hoặc là viết từ bộ khảm viết thành chữ ô Mao Thi Truyện cho rằng: Ế gọi là lo buồn không thể nghỉ ngơi, sách Phương Ngôn cho rằng: Đau khổ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu chữ hình thanh.

Tháp chi ngược lại âm trên đàm hợp Quảng Số cho rằng: Tháp là mang giày dép giẫm đạp lên, chà đạp dưới chân, chữ viết từ bộ túc thanh tháp âm tháp là âm tháp trong Văn Truyện viết cảnh tháp là sai chẳng phải.

Tuấn tử vĩ ngược lại âm trên tôn tuấn cùng với chữ tuấn đồng nghĩa, ngược lại âm dưới vĩ quỹ tên người tên đứa trẻ Mộ Dung Tuấn.

Trừng-tranh-tranh-đăng bốn chữ này đều là tên Phật Đồ Trừng gọi là tiếng Phạm, độc âm có nặng có nhẹ không đồng nên khiến cho số nhiều lặp lại nhiều lần. Nay thông dụng phần nhiều là chữ trừng.

Đôn hoàng ngược lại âm trên độn hồn âm dưới là hoàng văn trước trong quyển trung đã giải thích đầy đủ rồi.

Pháp lâm ngược lại âm sửu lâm danh tăng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Lâm là khéo léo giỏi về.

Mao tư âm trên uyển bao âm dưới từ theo Mao Tư là loại cỏ lợp nhà. Quảng Nhã cho rằng: Che đậy (880) Mao Thi Truyện cho rằng: Che lợp nhà đều từ bộ thảo đều thanh mao thứ.

Khang hoằng âm điểu hoằng.

Nhữ chi ngược lại âm trên như thứ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Số rằng: Nhữ là cho ăn, nuôi ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo thanh như âm dưới đúng là chữ chi đó là thần tiên chỗ ăn loại cỏ tốt lành.

Vấn sưu ngược lại âm tháo lão Văn Truyện viết chữ canh là chẳng phải.

Xúc thãng ngược lại âm trên sung lục âm dưới thang lãng khí thần định đặc biệt gọi là xúc đãng đều từ bộ nhân.

Phưởng phất ngược lại âm phưởng cương âm dưới phân vật lại âm phương vị xưa nay Chánh Tự cho rằng: Phưởng phất đó là nghe thấy không rõ ràng, mơ hồ, không chắc thật, chữ viết từ bộ tiêu chữ hình thanh. Người xưa hoặc là viết chữ phưởng phất âm đều đồng với âm trên.

Thủ nịch ngược lại âm dưới minh đích Cố Dã Vương cho rằng: Mịch giống như nắm bắt, sách Thuyết Văn cho rằng: Ấn xuống, dìm xuống chữ viết từ bộ thủ thanh nịch.

Ứ nê ngược lại âm trên ư cứ âm dưới nịch đề ứ nê là trong ao nước có bùn dưới đáy, có mùi hôi bùn đất, mùi xú uế xanh đen cặn bã, chữ viết từ bộ thủy chữ hình thanh.

-----------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 10

Cơ chích ngược lại âm trên kỹ kỳ sách Nhĩ Số cho rằng: Cơ là mới bắt đầu, cơ bản, cội gốc, âm dưới là chỉ chữ viết từ bộ thổ thanh kỳ ngược lại âm dưới là chinh diệc Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Chích là giẫm đạp lên. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Đi lướt qua giẫm lên mà đi. Quảng Số giải thích rằng: Mang giày dép giẫm đạp lên Văn Truyện viết từ bộ thổ viết thành chữ chích cũng là đồng nghĩa với chữ cỏ hoặc là viết chữ cỏ hoặc là viết chữ chỉ đều thông dụng.

Giác quyển ngược lại âm quán hoàn chữ viết từ bộ lực thanh quyển.

Phiên dương ngược lại âm phạt viên sách Khảo Thanh cho rằng: Bên vách núi, sách Địa Chí giải thích: Xưa đó là tên của một nước nhỏ, hiệu là Chu Địa Ấp, sách Thuyết Văn viết từ bộ lâm âm phiền là âm phiên.

Triển thất ngược lại âm trên ni triển Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Triển là giẫm đạp lên, Quảng Nhã cho rằng: Mang giày dép giẫm đạp lên. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh triển.

Bích ảm ngược lại âm dưới âm cảm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ảm là chỗ tối tăm. Quách Phác chú giải rằng: Ảm là chỗ tối mờ mờ mịt mịt, nói đây là Thánh tăng làm thần tiên thông suốt.

Lang trung ngược lại âm lãng thác sách Thuyết Văn cho rằng: Quận ba có huyện lãng trung. Nay là Đông Thục Xuyên, có Lãng Châu.

Đồ tiên ngược lại âm dưới tiên điển sách Thuyết Văn cho rằng: Tiễn là đi chân trần, chữ hình thanh.

Triệt huyền ngược lại âm trên sĩ liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Hủy bỏ, truất phế, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ đến bộ triệt thanh tĩnh âm dưới là huyền trung hữu chú giải sách Chu Lễ rằng: Huyền gọi là treo cái chuông, đánh nghe tiếng, giống như tiếng sáo, tiếng kèn mà phế bỏ không dùng đến trống, huyền cũng gọi là treo lên chữ chuyển chú.

Chu đồng âm dưới là đồng văn trước trong Tần thư giải thích tên người, đồng cũng là màu đỏ.

Nhục đàn ngược lại âm nung đốc âm dưới đàn lan tiếng nước Phiên, hiệu Nam Lương Tiềm, vua thứ ba.

Thổ đại âm dưới là đại Tấn Trung Hưng Thư gọi là đại tức cầu chiếc xe trâu dẫn dắt, lôi kéo, đất giữ lấy. Lại cũng gọi là đập người ngăn nước biển mặn tràn vào, sách Khảo Thanh cho rằng: Ngăn tiệt nước ao hồ, cống rãnh lại cũng viết chữ yển đạp nước.

Dẫn tạc âm tạc Thiên Thương Hoét cho rằng: Tác là sợi dây bện bằng trúc. Theo chữ tạc đó là ở Thục xuyên núi phía tây, có cái ao rất sâu, tuyệt nhiên không thể vượt qua được nên bện sợi dây bằng trúc, căng hai bên bờ để người ta đi qua, trên có mấu chốt cột chặt giống như cầu cho người qua lại nên gọi là tạc chữ viết từ bộ trúc thanh tác Văn Truyện viết từ bộ mịch viết thành chữ tác là chẳng phải.

Thúc hốt ngược lại âm trên thương nhục quyển đầu đã giải thích đầy đủ.

Tiểu âu ngược lại âm âu hầu sách Phương Ngôn cho rằng: Cái chậu nhỏ gọi là âu. Âu là cái bát, Văn Truyện viết từ bộ thổ viết thành chữ âu là chẳng phải.

Lam lũ âm trên lam âm dưới long chủ sách Phương Ngôn cho rằng: Áo mà không có đường chỉ may gọi là lam Quách Phác chú giải rằng: Cái áo đã hư rách, sách Thuyết Văn cho rằng: Trên từ bộ y dưới từ bộ mịch chữ hình thanh.

Hám nhục ngược lại âm đạm lam Quảng Nhã cho rằng: Đút cho ăn hoặc là viết chữ đạm giải thích dùng cũng đồng.

Tân quái ngược lại âm quý ngoại sách Thuyết Văn cho rằng: Xắt thịt mỏng, chữ viết từ bộ nhũ thanh hội Văn Truyện viết từ bộ ngư viết thành chữ quái là chẳng phải. Tân là mùi vị cay.

Phụ thuyên âm dưới thị duyên sách Tập Huấn giải thích: Bện trúc làm cái sọt chứa ngũ cốc, thóc lúa mạch. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vi thanh thuyên.

Chí minh ngược lại âm minh tinh minh là tối ban đêm.

Tẫn táng âm trên tân tẫn âm dưới tàng táng Văn Truyện viết chữ táng là chẳng phải.

Nổi giả ngược lại âm nô lỗi hoặc là viết từ bộ ngư viết thành chữ nổi tức mùi tanh con cá chết, sách Luận Ngữ giải thích: Con cá chết thịt của nó hư hoại thối rửa, Khổng An Quốc chú giải rằng: Con cá chết, gọi là nổi cũng viết từ bộ nhục viết thành chữ nổi đều nghĩa mùi tanh con cá chết.

Diễm huyền ngược lại âm thường diễm tên của huyện Việt Châu.

Mông mông âm mong cây che bóng râm gọi là mù mịt mây khói che phủ.

Phù mạt ngược lại âm dưới mán bát chữ viết từ bộ thủy thanh mạt chữ mạt chữ cổ chữ mộc cộng thêm nhất tức là ngọn cây.

Lụy trí ngược lại âm dưới tri lợi vấp té ngã ngửa.

Miệt xú ngược lại âm niêm triếp Trịnh Huyền chú giải Mao Thi Truyện rằng: Miệt xem thường, khinh dễ

Văn Truyện viết từ bộ phạt viết thành chữ miệt là chẳng phải âm bệ ngược lại âm bề miệt.

Khuê xuyết ngược lại âm trên tuệ khuê Lưu Hy giải thích rằng: Hai mươi lăm mẫu là một tiêu khuê, năm mươi mẫu là đại khuê, ngược lại âm dưới xuyên liệt sách Thuyết Văn cho rằng: Xuyết là nếm thử.

Ẩm tiến ngược lại âm dưới tiền tiến.

Đại hàng lan ngược lại âm trên hà cang sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải mà đến cửa đông gọi ghe thuyền là hàng tức là thuyền lớn, chữ hình thanh.

Triêm thấp ngược lại âm trên trương liêm Quảng Nhã cho rằng: Triêm là thấm ướt. Hàn Thi Truyện cho rằng: Chìm dưới nước. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vũ thanh chiêm ngược lại âm dưới thâm nhập sách Thuyết Văn cho rằng: Ẩm thấp u tối, chữ viết từ bộ thủy thanh thấp âm thấp đồng với âm trên.

Sai tật ngược lại âm thái lai âm dưới là tật.

Thiêu lược âm dưới lược sách Nguyệt Lịnh giải thích rằng: Không treo ngược hàng quán tức trộm cướp tước lấy, đoạt lấy, gọi bắt được lợi chiến thắng, dành lấy được, lại âm lượng giải thích dùng nghĩa cũng đồng.

Chấp thoán ngược lại âm thương loạn tục tự cho rằng: Chữ viết đúng thể là chữ thoán nay xem văn có nhiều nẩy sinh tóm lược chữ viết thoán là sai tóm lược, Tả Truyện cho rằng: Thoán là bếp nấu nướng thức ăn, sách Chu Lễ viết chữ thoán.

Thanh yến ngược lại âm yên kiến hoặc là viết từ bộ ngôn viết thành chữ yến cũng thông dụng. Nay viết chữ yến Mao Thi Truyện giải thích: An ổn yến là hội hợp uống rượu vui vẻ.

Bi ngược lại âm bị bi Hán Thư cho rằng: Ở quận thục có huyện Bi lại âm tỳ.

Oản tế ngược lại âm trên loan bản sách Hoài Nam Tử giải thích rằng: Giống như thâu nhiếp giữ lấy. Theo Văn Truyện viết chữ oản tức là nắm tay dìu dắt, tay nắm tay cùng dìu dắt.

Lưu cũ âm u cũ sách Vận Anh cho rằng: Rồng không có sừng, nằm ẩn đất Kinh Châu, gọi là buông thả, dựa vào chùa.

Vương hoán âm hoán tên người hoán là văn vẻ sáng sủa, Ngọc Thiên giải thích: Ánh sáng rõ ràng thắp sáng lên. Sách Thuyết Văn cho rằng: Theo ngọn lửa cháy bùng lên.

Xà hộc âm trên thường giá tức loại rồng rắn linh thiêng, âm dưới hồng mục hộc là loài thủy điểu loài chim giống như nhạn mà lớn hơn, tuổi thọ đầy một ngàn tuổi, tức là biến hóa thành loài khác.

Ế lai ngược lại âm ích hề chữ hình thanh. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Ế giống như vậy sách Thuyết Văn: Tiếng nói phát ra chữ hình thanh, từ ngữ.-----------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 11

Bát hung âm trên là bát Quảng Nhã giải thích: Bát bỏ, trừ ra, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh bát âm dưới húc cung sách Thuyết Văn cho rằng: Hung là trước ngực, chữ viết từ bộ bao thanh hung Văn Truyện viết từ bộ nhục cũng thông dụng.

Hành cổ âm cổ tức loại sâu trùng bọ đi gieo độc hại, loài sâu độc có Phương pháp làm cho con người bệnh, tức là hại người, loài yểm mị, chữ hội ý.

Ô bệ âm dưới bệ mê sách Thuyết Văn cho rằng: Bệ là cỡi ngựa đánh trống tiến quân, tiếng trống ra hiệu lệnh chiến đấu, Văn Truyện viết từ bộ cách chữ cổ cũng thông dụng.

Huệ ngôi ngược lại âm ngũ lỗi tục tự viết đúng từ bộ nhân đến bộ quý viết thành chữ ngôi ngôi là to lớn dài lâu, tên của vị cao tăng.

Hoàng độc âm trên hoàng âm dưới độc tức là loài côn trùng độc hại làm tai họa hại người, ăn mọng mạ khiến cho hạt giống không mọc được, tức loài châu chấu cào cào, màu vàng loài côn trùng trong mặt nước biển, chỗ hóa sinh, hoặc là sinh trên đất ẩm ướt làm tai họa, phá hại mùa màng, chỗ chiêu cảm.

Tẩy thấu âm trên tây lễ viết đúng thể là chữ tẩy Văn Truyện viết chữ tẩy tục tự thường hay dùng, âm dưới sưu cứu văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Thiền thuế âm trên thiện diên Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thiền là xác con ve, sách Phương Ngôn cho rằng: Con ve đến mùa hè kêu dưới bụng.

Lượng biện âm dưới tiên miến Quách Phác chú giải sách Nhĩ Số rằng: Biện giống như gấp gáp, vội vàng, sách Thuyết Văn cho rằng: Áo nhỏ, hẹp chữ viết từ bộ y thanh biên âm biên đồng với âm trên. Tự Thư viết chữ trách.

Di thần âm trên dĩ chi sách Phương Ngôn cho rằng: Di là hàm má, Vương Bộ Từ chú giải sách Chu Dịch rằng: Di là được nuôi dưỡng, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ hiệt thanh di âm di đồng với âm trên.

Tất tể âm tỳ duệ sách Vận Anh cho rằng: Tể là ngã chết bên đường, sách Thuyết Văn viết từ bộ tử thanh tệ. Văn manh âm trên là văn âm dưới là manh đều loài côn trùng như muỗi, mắc biết bay, cắn chích người, văn trước đã giải thích nhiều lần rồi.

Phân phúc ngược lại âm trên phương văn âm dưới phong phúc. Bỉnh hốt âm trên binh mãnh âm dưới hốt nắm trong bàn tay.

Tạc lộc sơn âm trên là tạc âm dưới là lộc trước đã giải thích rồi. Lộc lộc âm lộc.

Quỳnh tước âm trên là huỳnh là lửa đom đóm, âm dưới là tước cây đước nhỏ, tục tự thường dùng.

Khô thước âm dưới thương dược thước là nùng ống tiêu chảy ra. Trương chiêu âm dưới đình diêu tên người.

Phúc thấu âm trên phúc âm dưới thương thấu Cố Dã Vương cho rằng: Phúc đó căm xe, sách Thuyết Văn (881) cho rằng: Thấu là chỗ chụm lại, tụ lại, chữ hình thanh.

Tăng cứ âm cự tên người.

Lâm ngung âm cũng ngung âm ngung ngược lại âm ngu cung Thục Xuyên tên huyện Ngung.

Phi thi âm trên là phiền thiêu đốt tử thi.

Hiểm duẫn âm trên là hiểm âm dưới là duẫn Mao

Thi Truyện cho rằng: Hiểm duẫn một bộ tộc ở phương Bắc Trung Quốc thời vua Chu tức bọn Hung Nô, hoặc là viết chữ hiểm đều từ bộ khuyển.

Tánh du ngược lại âm sửu cứu họ người.

Hạ phi âm dưới là bì tên huyện thuộc Tứ Xuyên, theo Tào Thị Quận Quốc cho rằng: Tứ Xuyên nhà Tần sau khi bình được thiên hạ lập nên quân phi có huyện Hạ Phi, có bảy thôn phía tây Bắc một trăm tám mươi dặm.

Câu khái âm trên câu âm dưới ngu cái Văn Truyện viết từ bộ thạch viết thành chữ khái là chẳng phải.

Bàn ngọ âm trên là bàn theo Thanh Loại cho rằng: Bàn là loại đá lớn bằng phẳng. Văn Truyện viết chữ ngọ là sai.

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 12

Triết sí âm trên thiền nhiệt sách Khảo Thanh cho rằng: Triết là bẻ gãy, chữ viết từ bộ thủ ngược lại âm dưới thi chí sách Thuyết Văn cho rằng: Cánh chim chữ viết từ bộ vũ thanh chi chữ chi từ bộ bán bộ trúc đến bộ hựu.

Chẩn bần âm trên là chấn âm dưới chân nhẫn sách Tập Huấn giải thích: Chấn là giàu có, sách Thuyết Văn cho rằng: Cứu giúp, chữ viết từ bộ bối thanh chấn hoặc là viết chữ chẩn cũng thông dụng.

Tăng du ngược lại âm canh chu danh tăng.

Khắc bính âm dưới binh mảnh sách Thuyết Văn cho rằng: Bính là lửa cháy rực, chữ viết từ bộ hỏa thanh bính.

Phỉ vũ âm trên là phi tên của thiền sư.

Ông ủy âm trên ô khổng âm dưới huy khuyết Tư Mã Tương Như chú giải Tử Hư Phú Truyện rằng: Cây cỏ mọc um tùm, xanh tốt.

Đạo cảnh ngược lại âm quỷ vĩnh danh tăng.

Nải phù âm trên là nải sách Khảo Thanh cho rằng: Đi đến giựt mình kinh động, sách Thuyết Văn cho rằng: Cửa hẹp âm dưới là phó Thiên Thương Hoét cho rằng: Phù là chạy trốn cùng với chữ phó đồng nghĩa, hoặc là viết chữ kế.

Phương tất ngược lại âm trên phu vong ngược lại âm dưới tần mật phương tất là khí thơm ngào ngạt.

Do liệu âm dưới liệu điểu sách Thuyết Văn cho rằng: Liệu là hiểu rõ chữ viết từ bộ tâm thanh liệu âm liệu là âm hiểu.

Giao chỉ âm dưới là chỉ ở Nam Hải quận Giao Chỉ.

Tự khi âm khi Hàn Thi Truyện cho rằng: Khi là nghiêng. Ngọc Thiên cho rằng: Không chánh, sách Thuyết Văn: Khi vách núi không nghiêng chữ viết từ bộ phộc thanh kỳ.

Vu hích âm trên là vô người nữ làm thầy cúng bái việc quỉ thần gọi là vu người nam làm việc đồng cốt quỉ thần gọi là hích âm hích ngược lại âm hình kích hích là chỉ người đàn ông tu theo đạo gia, làm đồng thấy thần linh mách bảo. Xưa thời nhà Ân vu bao gồm ban đầu lấy sự múa vũ trước mặt dưới là thần, giống như hình múa vũ trừ tà.

Duệ công âm trên vinh tuệ tên của cao tăng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mục viết thành chữ duệ Văn Truyện viết từ bộ viết là chẳng phải.

Nhĩ tùng thuật âm trên là nhị âm kế là tục dung âm dưới truy luật lại cũng tên sơn tùng tên dược thảo, mùi vị rất thơm, chế làm thuốc uống một viên không đó rất nóng, rất thơm.

Tự chi âm trên là tự Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lấy cơm thức ăn bày ra cúng dâng cho người gọi là tự sách Thuyết Văn cho rằng: Tự là lương thực, chữ viết từ bộ thực đến bộ nhân chữ hội ý, Văn Truyện viết từ bộ đài viết thành chữ di là chẳng phải.

Thanh trung âm trên là thanh tức là nhà xí, dơ uế, chỗ nhốt heo ngoại hình nội thanh.

Mạnh khải ngược lại âm nghi khải tên người. Lưu sơn ngược lại âm lưu cứu.

Tiểu di ngược lại âm dĩ chi dựa theo thời, phi thời trải qua lường đong đủ lượng, bóng ngã qua một chút giống như sai thời, quá không được ăn, e rằng phạm tội ăn phi thời.

Huân lao âm trên là huân loại hành, hẹ, tỏi v.v... các loại rau có mùi cay nồng. Âm dưới lao tức là rượu trắng, đục v.v... tất cả các thứ rượu.

Tiên hoạn âm trên là tiên tiên là mới, âm dưới là hoạn sách Vận Thuyên cho rằng: Thức ăn nuôi súc vật như gạo, cám gọi là hoạn cho ăn cỏ gọi là sô truyện giải thích tiên hoạn là loại cá thịt mỡ tươi sống.

Tuệ lợi âm trên là tuệ nghĩa là đồng với chữ tuệ giải thích dùng cũng đồng.

Dữ bác ngược lại âm dưới giang nhạc Quảng Nhã cho rằng: Bác là sáng sủa. Xưa nay Chánh Tự giải thích thử xem hơn kém, chữ viết từ bộ xa thanh hào Văn Truyện viết từ bộ giao tục tự thường hay dùng, văn trước trong quyển Cao Tăng đã giải thích rồi.

-----------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 13

Điền liệp âm trên là điền sách Thượng Thư cho rằng: Điền là tiêu biểu cho việc làm có rơi rụng xuống. Theo chữ điền tức là đi săn. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Điền là tên gọi chung của săn bắn bắt được. Hoặc là viết từ bộ khuyển viết thành chữ điền ngược lại âm dưới liêm triếp Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Làm cung, tước lấy cung tên làm dụng cụ đi săn. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Liệp là săn bắt lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng sức cỡi lên con ngựa đuổi bắt cầm thú, mà khiến cho không hại lúa mạ, chỗ gọi là săn được, đó là lấy cỏ héo, trong Tông Miếu cho ăn chữ viết từ bộ khuyển thanh liệp Văn Truyện viết từ bộ sơn đến bộ điểu viết thành chữ liệp là không thành chữ, chẳng phải.

Khẩn đáo âm trên khẳng hận Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Khẩn là tha thiết cầu xin. Quảng Nhã cho rằng: Khẩn là thành thật, sách Thuyết Văn cho rằng: Khẩn là thành tâm ý tốt, chữ viết từ bộ tâm thanh khẩn âm khẩn ngược lại âm khổ bổn Văn Truyện viết chữ khẩn là khẩn điền, khai khẩn đất điền làm ruộng, chẳng phải dùng cho nghĩa này.

Thiết giam ngược lại âm thiên kiết sách Thuyết Văn cho rằng: Loại đồng đen âm dưới là hàm hoặc là viết từ bộ mộc viết thành chữ giam Quảng Nhã giải thích: Tức là cái rương gọi là giam Thống Tự giải thích rằng: Giam là cái rương bằng cây, Văn Truyện viết từ bộ chiểu viết thành chữ hàm vốn âm là hàm chẳng phải tục dùng vốn chẳng phải chữ này, tức là sách viết sai.

Huyền diệu âm trên là huyền quyến Quảng Nhã giải thích: Huyền là sáng sủa, Bì Thương cho rằng: Sáng ánh rực rỡ, ngược lại âm dưới diêu chiếu sách Thuyết Văn cho rằng: Diệu là chiếu sáng, huyền diệu hai chữ đều từ bộ hỏa chữ hình thanh.

Cao lôi ngược lại âm không hồi tên người.

Quang phu âm trên chánh thể là chữ quang từ bộ hỏa đến bộ nhân Văn Truyện viết chữ quang tục dùng chữ biến thể, âm dưới bổ vô cũng viết chánh thể chữ phu Văn Truyện viết từ bộ phu viết thành chữ phu tục tự dùng cũng thông dụng.

Hư hy âm trên là hư âm dưới là hy Vương Dật chú giải sách Sở từ rằng: Hư hy là khóc sướt mướt.

Mậu đáp ngược lại âm trên mạt hậu văn trước trong quyển thứ ba đã giải thích rồi.

Cơ chích ngược lại âm chinh diệc văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Trịch oa ngược lại âm đồ hòa viên đá tròn mỏng mà nhỏ hình giống như bánh xe dùng để ném cho rằng là trò vui, cũng gọi là phao tức ném đá, lại gọi là ném xu bồ, tức chơi trò cờ bạc. Quang Hương Ngô Việt nói chẳng phải kinh sử, thông ngữ. Đây là chữ vốn không phải nhà nho tùy ý viết, cho nên không định thể. Nay đều xuất phát ra chưa rõ đúng sai, sách tập huấn viết từ thổ viết thành tùy Khảo Thanh viết từ bộ thạch viết thành chữ duyên Vận Thuyên viết từ bộ mộc viết thành chữ ký Văn Tự Tập Lược và Vận Anh viết từ bộ thạch viết thành chữ oa nay cho rằng dùng đúng.

Khổng quan âm dưới hoàn quản tên người.

Trương thiệu ngược lại âm dương nhiêu tên người, chữ viết từ bộ ấp thanh chiếu Văn Truyện viết từ quận là sách viết sai.

Quán thiến ngược lại âm trên cổ hoán âm dưới thiên kiến danh tăng. Hán Thư cho rằng: Cũng Đông Phương Sóc có chữ này. Tức là cây thiến thảo, có thể dùng làm chất nhuộm màu đỏ.

Thập tao âm dưới tảng đao chữ chánh thể tao hoặc là từ bộ mộc viết thành chữ tao dùng cũng đồng nghĩa, gọi là tàu thuyền lớn chuyên chở, Thống Tự giải thích Chữ tao giống như gọi chiếc thuyền từ số đến tàu thuyền, gọi là tao sách Khảo Thanh cho rằng: Tao cũng là chiếc thuyền, chữ viết từ bộ chu thanh chữ sưu viết đúng là chữ sưu.

Tất tể âm dưới tỳ tế trước trong quyển thứ mười một đã giải thích rồi, Văn Truyện viết từ bộ mảnh viết thành tệ sách viết sai lầm.

Yển diên ngược lại âm trên ư điển âm dưới điền điển sách Tiểu Số cho rằng: Yển diên tức là thủ cung, tức là con cuốn chiếu Văn Truyện viết từ chữ cung hoặc là cũng thông như viết chữ nể là chẳng phải.

Thoán cư âm trên thông loạn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thoán giống như là ẩn trốn, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Ẩn náu, sách Thuyết Văn cho rằng: Con chuột trốn trong hang, chữ hội ý âm phốc ngược lại âm phổ bốc.

Mật phạm âm dưới là phạm Cố Dã Vương cho rằng: Phạm gọi là mô phạm, sách Thuyết Văn cho rằng: Khuôn pháp, chữ viết từ bộ trúc đến bộ xa đến bộ phạm thanh tĩnh.

Truy diệp âm trên trụy truy nay lấy chữ khứ thanh, âm dưới là diệp tức là đắp lên mạ vàng tượng Phật. Hoặc là nung đồng cho chảy ra làm miếng mỏng sâu chỉ làm tượng, lấy vàng làm trang sức, hoặc là vàng lá thật, bạc thật ẩn bên trong cái khám, cái thất thờ lễ bái tất có công đức.

Trương quyện âm dưới khu viện tên người.

Biếm ư ngược lại âm bi nghiệm sách Thuyết Văn cho rằng: Thây chết bỏ vào quan tài, chữ viết từ bộ huyệt thanh biếm lại âm nổ đặng.

Nhiếp hóa ngược lại âm trên chiêm thiện xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nhiếp là lo sợ bẻ gãy ngang lưng chữ viết từ bộ tâm thanh nhiếp Văn Truyện viết từ bộ phụ là chẳng phải.

Khiêm thiết âm trên khiêm viêm Trịnh Huyền chú giải rằng: Khiêm giống như nhàm chán, sách Thuyết Văn âm diệp kiêm khiêm là nghi ngờ, chữ viết từ bộ tâm thanh kiêm.

Yểm diệu âm trên yểm liểm Văn Truyện viết chữ yểm chữ cổ đúng thông dụng là chữ yểm diệu đó giống như ánh sáng bị bao trùm che lấp ánh sáng, chữ viết từ bộ thủ thanh hiệp.

Tẩy thấu âm trên tây lễ sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩy là rửa sạch chữ viết từ bộ thủy thanh tây Văn Truyện viết từ bộ tiên viết thành chữ tẩy tục tự thường hay dùng, ngược lại âm dưới sưu hữu văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Ách uyển âm trên là ách chữ viết đúng thể âm dưới ô quan khuỷu tay gọi là uyển tục tự thường hay dùng chánh thể cổ văn viết chữ uyển chữ hội ý.

Tánh quái ngược lại âm khổ quyết khô quái họ người, tên loài cỏ, lại âm quỷ.

Huệ húc âm dưới là húc danh tăng.

Bình hạp ngược lại âm trên phách manh âm dưới kham hạp bình hạp là tiếng đá va chạm lớn, Văn Truyện viết từ bộ đương là chẳng phải, không phải chữ này.

Triết tả ngược lại âm đàn nhiệt tức là triết giang, triết là đất Việt Châu v.v... hai bên tả vậy.

Bao thuật ngược lại âm trên bảo mao Đỗ Dự cho rằng: Phàm là văn chương một chữ lấy làm khen chê, bao là nói khen ngợi người có đức hạnh.

Thiệu vũ ngược lại âm thường chiêu Cố Dã Vương cho rằng: Chiêu là tên của Thuấn Lạc, cho nên sách Chu Lễ cho rằng: Thuấn Đại Chiêu Trịnh Huyền chú giải rằng: Thiệu là kế tục. Nói là vua Thuấn có thể kế thừa đức của vua Nghiêu, sách Thuyết Văn viết từ bộ âm thanh chiêu âm dưới là vũ vũ là âm vũ nói là vua võ vũ là lạc xưa nay Chánh Tự cho rằng: Võ đó là định họa, loạn uy phục không có thần tập binh gọi là vũ cho nên lấy bộ chỉ bộ qua làm chữ vũ.

Kích sở âm kích gọi là cầm tháo khúc, tức là đánh đàn, Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Nước chảy ngầm ẩn bên trong gọi là kích sách Sở Từ gọi là tiếng nước chảy róc rách, mà không thông Vương Dật chú giải rằng: Cảm kích, chữ hình thanh.

Trùng phục âm dưới phong mục Quảng Nhã cho rằng: Phục là áo dày. Sách Thuyết Văn cho rằng: Áo nhiều lớp chữ viết từ bộ y thanh phục âm phục là âm phục.

Kỹ luân ngược lại âm luật độn sách Tập Huấn cho rằng: Luân là nhớ tưởng suy nghĩ. Tên cao tăng, Văn Truyện Đại Triện viết chữ dược âm đồng với âm trên, thời nay dùng lấy làm chữ dược chẳng phải nghĩa đây dùng, Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ dược là sai, chữ này vô nghĩa.

Ngoa phế âm ngũ qua sách Thượng Thư cho rằng: Ngoa là dối trá Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Ngụy là giam dối. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Thay thế lời tốt lành nói lừa bịp, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh vi Văn Truyện phần nhiều viết chữ ngoa tục tự thường hay dùng cũng thông dụng.

Vong chữ ngược lại âm chư thứ sách Sở Từ giải thích rằng: Chim cất cánh bay mà bay lượn, sách Phương Ngôn cho rằng: Bay cao sách Tập Huấn cho rằng: Chữ gọi là bay thẳng mà lượn qua mau, sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ thanh giả.

Quyện cục âm trên quyển viên Bì Thương cho rằng: Quyên cục là không duỗi ra được, cong lại, Tự Thư cho rằng: Đi khập khiển kỳ lạ, trên khom xuống cong lại, tức là gù lưng, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh quyển âm dưới là cục Quảng Số cho rằng: Cục là hợp lại nhập lại, âm kiềm ngược lại âm kiềm kiếp Cố Dã Vương cho rằng: Quyện cục là cong lại, không thể duỗi ra được, lại cũng viết chữ cục dùng cũng đồng, Văn Truyện viết từ bộ túc cũng thông dụng.

Kiết thạch âm trên gian bát Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kiết là đánh gõ nhẹ thành tiếng nhạc phát ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Đánh chữ viết từ bộ qua đến bộ hiệt thanh tĩnh Văn Truyện viết sai không thành chữ.

Linh ngữ âm trên lịch đinh sách Thuyết Văn cho rằng: Linh là nghe chữ viết từ bộ nhĩ thanh linh.

Diên thóa âm trên tường diên sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng than thở chữ viết từ bộ khẩu thanh diên sách Vận Anh cho rằng: Nước dãi trong miệng hoặc là viết từ bộ thủy viết thành chữ diên ngược lại âm dưới sĩ ngọa theo Tả Truyện cho rằng: Bỗng nhiên mà nôn ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Nước dãi trong miệng nhổ ra chữ viết từ bộ khẩu thanh thóa hoặc là viết chữ thóa.

Huệ cự âm trên là chữ huệ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ sân âm bân sân là sân từ bộ hựu đến bộ tâm thanh tuệ âm tuệ ngược lại âm tùy duệ âm dưới là cự tên của viên ngọc. Trong truyện tên của vị tăng, chữ viết từ bộ ngọc.

Khánh vô ngược lại âm trên khinh cảnh sách Tiểu Số cho rằng: Khánh là hết sạch, chữ viết từ bộ phửu đến thanh khánh thanh tĩnh.

Mạt lăng âm trên mạn bát tên đất.

Vương sưởng ngược lại âm sướng lượng sách Bátnhã cho rằng: Suốt ngày thông suốt, chữ viết từ bộ nhật thanh vĩnh.

Xưng thiện ngược lại âm thiện sách Thuyết Văn cho rằng: Điều tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ dương đến bộ cạnh Văn Triện viết từ bộ dương đến bộ ngôn Văn Truyện viết từ bộ thảo đến bộ ngôn là chẳng phải, không thành chữ.

Bảo xúy âm trên là bảo Quảng Nhã cho rằng: Bảo là to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiều tràn đầy chữ viết từ bộ thảo thanh bảo gọi là bày biện vui vẻ, âm dưới thôi loại loại thổi ống tiêu, ống địch ống sáo.

Khiển cước ngược lại âm trên kiện hiến Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Khiển là khó nói, sách Phương Ngôn cho rằng: Khiển là nói ngọng khó nói ra lời, âm dưới cạnh lực cước đó là cây có gai góc không trơn.

Khánh khái ngược lại âm trên khinh cảnh ho tiếng trong họng âm dưới khai ái hơi thông lên cổ.

-----------------------------------

CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 14

Chưng vật không có trùng hợp, không có vận âm, cho nên không có âm, dùng chữ chưng, tức chữ tương thanh, là phải vậy, sách Khảo Thanh cho rằng: Chủng là truy cứu, trợ giúp, chữ viết từ bộ thủ thanh dưng.

Lưu thuyên âm dưới là thuyên tên người.

Tấn diễm ngược lại âm thời nhiễm làng Việt Châu huyện Diễm.

Tên đất, tức địa danh xuất phát từ làng Đăng Kỳ.

Trì chích ngược lại âm dưới chinh đích sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa nhà Trần, Tống dùng tay lấy vật gọi là chích sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ chánh thể từ bộ thạch viết thành chữ chích chích là nhặt lấy vật, chữ viết từ bộ thủ thanh thứ.

Thuyên trảm âm trên duyên âm dưới tàm cảm lại âm tháp diễm Dương Hùng đáp Lưu Ảm Thư cho rằng: Dùng búa để chặt cây, Thích Danh cho rằng: Chỉ cây mỏng làm sách viết, dài ba thước. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chỉ cây làm băng, viết chữ vào làm biển treo lên, chữ viết từ bộ mộc thanh trảm âm bản là âm bản.

Ký nhu âm dưới nữ cứu sách Thuyết Văn cho rằng: Nhu là tạp loạn lộn xộn, chữ viết từ bộ mễ thanh nhu.

Bất san âm dưới hạt can sách Phương Ngôn Hậu Tựa giải thích mặt trời mặt trăng treo lên không khắc vào sách vậy, Văn Tự Điển nói rằng: San là khắc bản vào gỗ, chữ viết từ bộ đao thanh can sách Thượng Thư viết chữ san.

Khiên hằng ngược lại âm giảm biến Mao Thi Truyện cho rằng: Miên là sợi chỉ dài mà không dứt tuyệt có đầu mối, Vương Dật chú giải sách sở từ rằng: Miên là sợi dây vấn quanh bó buộc, Hứa thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Miên giống như đầu mối chỉ nối kết các mối chỉ khác âm dưới cang đặng Vận Anh cho rằng: Hằng là lâu dài xa vời.

Nhập sứu ngược lại âm dưới sứu sứu sách Vận Anh cho rằng: Phong phú, đều bằng phẳng sách Khảo Thanh cho rằng: Phong trú đầy tràn, cỏ mọc um tùm, hoặc là viết từ bộ thảo cũng thông dụng, từ bộ trúc thanh tạo.

Mong dư ngược lại âm uổng vương sách Vận Anh cho rằng: Uông là yếu ớt gầy yếu, tục âm là hoạch hoàng chuyển thanh sai.

Điển mặc âm trên thiên điển sách Phương Ngôn cho rằng: Điển là xấu hổ, giữa Tần Tấn cho rằng: Gọi là trong lòng hổ thẹn, gọi là điển sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là xấu hổ trong lòng, chữ viết từ bộ tâm thanh điển âm dưới là mặc ứng thiện chú giải Hán Thư rằng: Mặc là trong lòng buồn buồn không ngừng nghĩ ngợi, Cố Dã Vương cho rằng: Không nói ra lời, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển viết thành chữ mặc gọi là hổ thẹn quá hổ thẹn, xấu hổ vô cùng, truy đuổi theo người, chữ viết từ bộ khuyển thanh hắc Văn Truyện viết từ bộ tâm viết thành chữ mặc là chẳng phải, không có chữ này.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 91

-Đây là từ quyển thứ nhất cho hết quyển thứ năm.

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 1

Di luân âm trên dĩ chi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Danh tăng, sách Chu Lễ cho rằng: Có sáu loại phép tắc, sách Thuyết Văn cho rằng: Thường khí trong tông miếu, chữ tượng hình, chữ viết từ bộ mế đến bộ mịch đến nhị thập âm cũng cũng là giữ gìn cái thật trong, thanh vương âm vương là âm kinh hựu trong truyện viết từ bộ phân viết thành chữ di là sách viết sai. Kiêu thuần âm trên là ký nhiêu sách Hoài Nam Tử cho rằng: Kiêu là bạc bẽo, sách Thuyết Văn cho rằng: Tưới rót nước, chữ viết từ bộ thủy thanh kiêu âm dưới là thùy luân xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thật thà, mộc mạc, chân chất chữ viết từ bộ thủy thanh thuần âm lộc là âm lộc.

Khấu huyền ky âm trên là khẩu khổng lại chú giải sách Luận Ngữ rằng: Khấu là đánh, Quảng Nhã cho rằng: Cầm lấy vật đánh vào sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh khẩu âm dưới ký hy sách

Thuyết Văn cho rằng: Chỗ phát sinh, chữ viết từ bộ mộc thanh ky.

Hoán hồ âm trên hoan quán sách Khảo Thanh cho rằng: Ánh đuốc sáng rực Thiên Thương Hoét cho rằng: Văn chương sáng sủa. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh hoán âm hoán đồng với âm trên.

Vị toản ngược lại âm toàn quản sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nối tiếp, kế thừa sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh toàn.

Đại để âm dưới đinh lễ đại để giống như, ước chừng, đại loại. Huống chi, sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm lấy vặn, vắt, dùng sức ép, chèn ép ấm tế là âm tế âm để là âm để đồng với âm trên.

Đãi túc ngược lại âm đãi lai sách Sở Từ cho rằng: Quất con ngựa tồi, đi trên đường, Ngọc Thiện cho rằng: Đãi là con ngựa tồi.

Phổ chi âm trên bố hộ Quảng Nhã cho rằng: Phổ là công văn truyền ra, Thích Danh cho rằng: phổ ban ra lực, biến khắp, công văn ghi rõ việc dán khắp cáo thị, cho mọi người xem thấy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ hình thanh.

Trữ đối ngược lại âm trừ lữ chữ thượng thanh, sách Vận Anh cho rằng: Đứng chờ lâu, sách Khảo Thanh cho rằng: Đợi sách vậy viết từ bộ lập thanh trữ hoặc là viết chữ trữ âm đồng với âm trên.

Địch thính âm trên đinh lịch Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Địch là đi xa, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Địch là tẩy rửa, cũng là qua lại mau chóng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xước thanh địch hoặc là viết chữ dịch âm giải thích cũng đồng.

Biên vĩ âm trên biển miên Lưu Triệu chú giải, Công Dương Truyện rằng: Biên vĩ đó là so sánh liên tục, nối kết nhau, các thẻ tre, tức dây xâu các thẻ tre, có thứ tự xâu lại, chữ viết từ bộ mịch thanh biên âm dưới vị quy sách thức vậy cho rằng: Da con thú gọi là vĩ có thể buộc lại làm mũi tên, chữ viết từ bộ suyển đến bộ vi âm suyển là âm xuyên nhuyễn âm vi là âm vĩ âm biên là âm ty diễn đến bộ y.

San định âm trên sát gian theo Thanh Loại cho rằng: San tức là thẩm định, sự việc chắc thật, sách Thuyết Văn cho rằng: Thẩm định sửa đổi, sửa chữa chữ viết từ bộ đao đến bộ san âm xuyết ngược lại âm trúc liệt âm sách là âm sách.

Y đức âm trên là ý.

Dĩ ban ngược lại âm bát man Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phải ban ra khắp tuyên cáo thị nói, cho mọi người biết, sách Phương Ngôn cho rằng: Xếp hàng sách Thuyết Văn cho rằng: Phân ra, chữ viết từ bộ hiệt thanh phân âm hiệt là âm hiệt.

Thành chân ngược lại âm nhất dần Mao Thi Truyện cho rằng: Chân là cuộn lại sách Thuyết Văn cho rằng: Là chỗ cổng thành có nhiều lớp cửa cuộn lại, chữ hình thanh.

Huyền chi ngược lại âm huyền luyện danh tăng.

Viêm áo ngược lại âm anh cúc âm áo sách Thuyết Văn cho rằng: Áo là nấu chín nhừ ở trong, chữ viết từ bộ hỏa thanh áo.

Giang bi ngược lại âm bi mi tên người.

Bài bát âm trên bát mại tục tự viết chánh thể từ bộ bi đến bộ thủ viết thành chữ bài sách Khảo Thanh cho rằng: Giơ tay cao lên âm dưới bàn mạt Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Bát là sửa chữa sai lầm, rối loạn, Quảng Nhã cho rằng: Trừ bỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh phát chữ hình thanh.

Mân việt âm trên mật bân âm dưới viên nguyệt Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Mân việt, tây ẩu tức là quận Kiến an, gần biển, sách Thuyết Văn cho rằng: Mân là loại rắn ở Nam Việt, chữ viết từ bộ trùng thanh việt hoặc là viết chữ việt cũng đồng âm.

Xuyết ỷ âm trên truy vệ Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Chuyết là nối liềm sợi dây, sách Thuyết Văn cho rằng: Các đầu mối dây gọp lại, chữ viết từ bộ mịch thanh xuyết âm dưới tần mật sách Vận Anh cho rằng: Tỷ là so sánh có thứ tự, trong Văn Truyện viết bộ mịch viết thành chữ bì là chẳng phải âm mịch là âm mịch âm xuyết ngược lại âm chuyển liệt.

Lâm nghê âm dưới nghê kế sách Thuyết Văn cho rằng: Ty nghê là (882) nhìn nghiêng, chữ viết từ bộ mục thanh nghê lại gọi là trên thành có lỗ hỏng hé nhìn trộm. Y phụng âm trên y cứ Mao Thi Truyện cho rằng: Y là no rồi Văn Tự Điển nói nhàm chán, chữ viết từ bộ thực.

Lang vũ âm trên lang âm dưới là cũ đều là nhà dưới vây quanh hai bên nhà lớn, Văn Tự Điển nói nhà lớn gọi là vũ nhà nhỏ lại là thiền ngắn gọi là lang chữ hình thanh.

Thềm lưu âm trên là diêm gọi là mái hiên nhà, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh đảm âm dưới lưu cấu sách Lễ Ký cho rằng: Lưu là giọt nước trước hiên nhà tồn đọng lại rơi xuống, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ vũ thanh lưu.

Hư hy âm hứa ngư âm dưới hỷ ky Thiên Thương Hoét cho rằng: Hư hy là tiếng khóc rống la lớn tiếng.

Sảng khải âm trên sương lượng Quảng Nhã giải thích rằng: Sảng là cao quý, sách Thuyết Văn cho rằng: Sáng sủa chữ viết từ bộ xuyết âm xuyết âm lực kế đến bộ đại âm dưới khai cải Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sảng là sáng sủa cao ráo, khải là khô ráo, ngoài đồng trống cao đất cao ráo sảng khoái.

Lục nga âm trên lục Mao Thi Truyện cho rằng: Lục là xanh tốt dài, lớn, âm dưới là nga Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nga là cây cỏ ngải Mao Thi Truyện chú giải rằng: Nga là một loại cây cỏ mọc có dây leo mọc um tùm, gọi là Nữ La Lục Nga, chữ hình thanh.

Liễm khiếp âm trên lực chiêm âm dưới liêm diệp văn trước trong truyện quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Đàn thế tục âm trên là đàn sách Thuyết Văn cho rằng: Hết tận gọi là ba mươi năm gọi là một đời.

Giao nhân âm trên là giao sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thôn ấp ngoài thành gọi là giao Đỗ Dự chú giải rằng: Năm mươi dặm là gần một giao âm dưới nhân Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nhãn là khối, vây quanh người có mùi hôi, mùi hôi khí tanh làm thượng đế, hưởng nhận là sách Quốc Ngữ cho rằng: Tinh ý làm thuần gọi là nhân, sách Khảo Thanh cho rằng: Tinh khiết, trai giới sạch sẽ để cúng tế sách Thuyết Văn cho rằng: Cúng tế sạch tinh thuần khiết, chữ viết từ bộ thị thanh nhân âm nhân đồng với âm trên, âm thị là âm kỳ. Hàn tuấn âm dưới tôn tuấn sách Khảo Thanh cho rằng: Tài trí vượt hơn ngàn người gọi tuấn tuấn là có uy lực, sức mạnh khác thường âm dưới viết từ bộ cung đến bộ truy đến bộ nhân chữ hội ý,

Tỷ thư âm trên tư tử sách Vận Anh cho rằng: Chuyên Quốc Bảo sách Khảo Thanh cho rằng: Ngọc ấn của vua, văn cổ viết từ bộ thổ viết thành chữ tỷ nay viết từ bộ ngọc chữ hình thanh.

Quân thập âm trên quỷ vận sách Khảo Thanh cho rằng: Quân cũng là thập tức là nhặt lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh quân âm quân là âm quân.

Sam túc âm trên sa hàm Mao Thi Truyện cho rằng: Dùng dao trừ cỏ sách Thuyết Văn cho rằng: Cắt cỏ chữ viết từ bộ thảo đến bộ thù âm dưới tinh tục sách Vận Anh cho rằng: Thêm vào dưới cho đủ, chữ giả tá.

Thuyên chi âm trên tinh duyên sách Phương Ngôn cho rằng: Thuyên giống như đẽo gọt mài giũa, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuyên mài giũa ngọc khắc chạm vàng ghi trên bia đá, chữ viết từ bộ thuyên thanh tĩnh.

Nham khám âm trên nha lam âm dưới kham cam Quảng Nhã cho rằng: Khám là chưa đầy sách Thuyết Văn viết từ bộ long thanh hàn.

Chất tỷ âm trên sắc sách Thuyết Văn cho rằng: Chất đó là tên gọi chung của cây lược chải tóc, âm dưới mật Quảng Nhã cho rằng: Kết nối tương tục mật thiết với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Rất mật thiết khít khao.

Nhu kim âm trên như châu Ngọc thiên cho rằng: Gọi là đun nóng vàng thau lẫn lộn chữ viết từ bộ kim thanh nhu Văn Truyện cho rằng: Lấy đá mà trộn chung với vàng là quên đi lời nói.

Y bát âm dưới là chữ bát Văn Tự Điển nói rằng: Bát tức cái chén, chữ chánh thể từ bộ mảnh thanh bạt viết chữ bát tục dùng thông dụng. Đệ tương âm trên là đệ sách Khảo Thanh cho rằng: Đệ là thay phiên nhau, thay thế, hoặc là viết chữ đệ chữ thượng thanh, từ bộ sĩ âm sĩ là âm trỉ chữ viết từ bộ xước.

Ẩm vân âm trên là yểm Mao Thi Truyện cho rằng: Yểm là mây che có bóng râm mát. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Mây che làm ẩm ướt âm trạc ngược lại âm trọc đông gọi là có mưa phùn, chữ viết từ bộ thủy thanh yểm âm yểm đồng với âm trên.

Thương xác âm trên là thương gọi là thương lượng, âm dưới là giác sách Khảo Thanh cho rằng: Chuyên làm có lợi, sách Sử Ký cho rằng: Gọi là mua bán thương lượng vật đánh giá thẳng vào, chữ viết từ bộ mộc thanh xác ngược lại âm hà các từ bộ quynh đến bộ chuy xuất ra bộ quynh gọi hạt.

Hộc tư xuân âm trên hồng cốc tục tự cũng viết chữ hộc họ người âm dưới sĩ luân tên người cũng là tên cây chữ hình thanh.

Tư tư ngược lại âm tử từ sách Khảo Thanh cho rằng: Không biếng nhác mỏi mệt yêu thích làm việc siêng năng chuyên cần, khắc ghi, gắng sức mãnh liệt.

Liễu huy âm trên liễu điêu âm dưới hủy vi sách Vận

Anh cho rằng: Huy là giơ tay lên cao, phất tay lên, chỉ huy. Chữ viết từ bộ thủ thanh vi.

Quán tẩy âm rên là quan lại âm oản chữ thượng thanh sách Khảo Thanh cho rằng: Tẩy rửa tay, chữ viết từ bộ cửu âm cửu là âm cúc từ bộ thủy đến bộ mảnh chữ hội ý âm dưới tinh lễ hoặc là viết chữ tẩy đều từ bộ thủy chữ hình thanh.

Ngung áo âm trên ngộ câu sách Khảo Công Ký rằng: Ngung lả một góc xó xỉnh nào đó, sách Thuyết Văn cho rằng: Tức là tụ ấp, âm tụ ngược lại âm tẩu hầu âm dưới là áo Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Áo là ẩn nấp Thiên Thương Hoét cho rằng: Áo là.

Trì hốt ngược lại âm hôn cốt trong triều các quan hầu thần trên tay cầm nắm thẻ tre tức hốt, hoặc là bằng sừng hoặc là bằng gỗ. Xưa đó là ghi các việc sợ rằng có chỗ quên, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh vật.

Thải trích âm trên thái ngược lại âm dưới tri cách sách Vận Anh cho rằng: Trong tay nắm lấy, ngắt hái hoặc là viết chữ trích.

Trí thiên âm dưới tiết diên danh tăng.

Ám giản âm trên ám hàm sách Khảo Thanh cho rằng: Đọc tụng thuộc lòng nói ra, tục tự viết đúng từ bộ dậu đến bộ ngôn viết thành chữ ám nay tóm lược viết từ bộ oán.

Sưu soạn âm trên sơ trứu Văn Tự Điển nói: Là cầu theo Thanh Loại cho rằng: Sưu là tụ lại, Tự thư cho rằng: Sợi dây lớn, chữ viết từ bộ thủ thanh sưu.

Manh phẩm âm trên mạch bành phàm thứ dân, dân đen bá tánh.

Biếm bạch âm dưới là bạch gọi là thuyền trong biển lớn vào nước sâu sáu mươi thước, có sức lướt sóng cột căng trên cây cột lướt sóng thuyền đi nhanh.

Dung dã âm trên là dung sách Khảo Thanh cho rằng: Lò đập giả kim loại sách Thuyết Văn cho rằng: Phương pháp làm dụng cụ giống như lò đúc đồng, thần hình thanh, âm dưới là dã sách Khảo Công Ký cho rằng: Đập giả tán mỏng đồng ra, chữ viết từ bộ băng thanh đài.

Công nguy ngược lại âm nguy quỷ tên người.

Tháp thủy thượng âm trên tham hạp lấy lá sen trải trên mặt nước để chở giọt sương.

Thử tỏa âm trên là thử. Sách Khảo Thanh cho rằng: Kẻ tiểu nhân, chữ viết từ bộ nhân thanh thử Văn Truyện viết từ bộ vương là chẳng phải vốn không có chữ này, âm dưới tỏa ngược lại âm tô quả sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vụn vặt cũng gọi là vụn vặt.

Hoài xướng ngược lại xương dưỡng sách Khảo Thanh cho rằng: Xưởng là khai mở, sáng sủa, chỗ vùng đất cao ráo làm nơi có thể trông xa, chữ viết từ bộ phộc thanh thượng.

Pháp cù ngược lại âm cụ ngu tên người. Hoàng sử quân cù cũng là loại áo cẩm bào, áo khoác lông.

Kinh điền âm trên kình cưỡng sách Khảo Thanh cho rằng: Có nhiều sức lực chữ viết từ bộ lực thanh kinh âm dưới điền điển cảnh thượng thanh, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điền là dứt tuyệt sách Thuyết Văn cho rằng: Hết tận chữ viết từ bộ ngạt đến bộ chẩn âm chẩn là âm chi nhẫn.

Kiêu ngụ âm trên cự kiêu Quảng Nhã cho rằng: Nhà khách ở trọ.

Âu dương âm trên ất hầu họ người.

Cai phú âm trên cải hài Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cai là bao gồm, Quảng Nhã cho rằng: Bao quát, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh cao.

Khuýt nhiên ngược lại âm khuynh dịch sách Khảo Thanh cho rằng: Không có người, nơi đồng trống hoang vu khoáng dã yên lặng, chữ viết từ bộ môn thanh cụ.

Lương áo âm trên lượng trương sách Khảo Thanh cho rằng: Lương là lạnh giá, chữ viết từ bộ thủy âm dưới là áo sách Khảo Thanh cho rằng: Áo là nóng nhiệt, cũng là chín nhừ, âm thục ngược lại âm ư lục Mao Thi Truyện cho rằng: Cực nóng, nghĩa cũng đồng với chữ nhiệt.

Chuế tập ngược lại âm trên truy vệ sách Khảo Thanh cho rằng: Nối sợi dây âm thanh lập Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Tập là tiếp tục chữ hình thanh.

Trí kích âm dương cân sách Vận Anh cho rằng: Dạng nước chảy, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ bạch đến bộ phóng chữ hội ý.

Nghiêng hạch âm trên nghiên kiên sách Khảo Thanh cho rằng: Nghiên là mài, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thạch thanh nghiên âm dưới hành cách sách Vận Anh cho rằng: Hảo xác sự thật, Văn Tự Điển nói: Khảo sát được sự thật bị che dậy, chữ kích là tìm ra sự thật bị che đậy, chữ viết từ bộ tây thanh kích.

Xuyết thập âm trên đoan phù lượm lặt góp nhặt, âm dưới là thập.

Huệ khả ngược lại âm ca ngã Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vui mừng tên người.

Hám đẳng âm kham lạm sách Thuyết Văn cho rằng: Trông mong cũng là tên người.

Chỉ đính ngược lại âm đình đinh Thiên Thương Hoét cho rằng: Đính là nghị luận bàn việc phải trái, chữ hình thanh.

------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 2

Nhuế nhuế quốc ngược lại âm nhiệt nhuệ cũng là tên nước Nhuế ở phía Bắc Địch, đột xuất bên trong nước nhỏ.

Thị triền âm trên thời chỉ chữ thượng thanh, sách Chu dịch Phồn Từ cho rằng: Thần nông thị gọi là trong chợ, Giả Quỳ chú giải rằng: Chợ mua bán kiếm lợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ mua bán Văn Tự Điển nói: Các vật đem từ bên ngoài đến trao đổi cùng nhau.

Triền náo âm trên triệt liên một nửa mẫu làm nhà thôn ấp, một nửa là thành thị, nơi đồng trống làm thành thị. Hoặc là viết chữ triền âm dưới ninh hiệu chữ viết từ bộ thị đến bộ nhân chữ hội ý.

Nội tập ngược lại âm tầm nhân Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tập là thọ nhận bên trong, sách Thuyết Văn cho rằng: Ban cho bộ quần áo, chịu nhận bổng lộc triều đình, chữ viết từ bộ long đến bộ y chữ chuyển chú.

Điêu quẫn âm trên điểu tế Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Che đậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Tàn rụng hạt sương móc rơi trong rừng cây, chữ viết từ bộ băng Văn Truyện viết từ bộ sam viết thành chữ điêu là chẳng phải dùng chữ này, âm dưới cự vẫn Mao Thi Truyện cho rằng: Quẫn là bức bách, cấp bách, sách Thuyết Văn cho rằng: Bức bách, chữ viết từ bộ huyệt thanh quẫn.

Cấu hác âm trên cẩu hầu sách Thuyết Văn cho rằng: Cấu là nước ở cống rảnh dơ bẩn, chữ viết từ bộ thủy thanh cấu âm dưới ha các Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hác là cái hang, cái hầm, cái hầm nhỏ, cái mộ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là cống rảnh, chữ viết từ bộ dung đến cốc đến bộ thượng.

Long ác âm trên lục xung đất nổi cao lên, âm dưới lưu giác thấm ướt.

Tạp tháp ngược lại âm đàm hạp nhiều thứ trộn lộn, lộn xộn.

Ky khách âm trên kỹ nghi Trịnh Huyền chú giải rằng: Ky là quán trọ cho khách dừng chân tạm nghỉ, sách Thuyết Văn cho rằng: Dây cương buộc ngựa, chữ viết từ bộ võng đến bộ trập âm trập ngược lại âm tri nhập dây cương buộc ngựa.

Tũng nhược âm trên túc dũng gọi là trên cao. Sử thủy âm trên sư xí nước (884) chảy gấp.

Thiều sấn âm trên là đình diêu thiều là tóc trẻ con, âm dưới sa cận đứa trẻ hủy bỏ cái răng sữa.

Bỉnh tháo âm trên binh mảnh âm dưới thương đáo.

Khanh nhiên âm trên khách canh theo Thanh Loại cho rằng: Khanh là loại đồng thiết cứng chắc, cũng là tiếng đàn cầm, hoặc là viết chữ thân hoặc là viết chữ khanh đều đồng với âm trên.

Ly cải ngược lại âm ly tri ly là cải cách, sửa đổi, thẩm định.

Âu mân âm trên âu hầu âm dưới mật bân Nam Việt Tây Âu Quách Phác chú giải: Quân kiến an, đại danh. Mân cũng là loại rắn.

Sách thọ âm trên là sách Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sách gọi là thẻ tre kết lại làm sách, trong đó ghi lệnh của vua, sách Thuyết Văn cho rằng: Tấm lệnh bài, chữ hình thanh.

Trí huyền âm dưới là huyền danh tăng.

Đát-nã âm trên kiện âm kế là minh da tiếng Phạm. Tạp nhu âm dưới ni cứu chữ viết từ bộ mễ thanh nhu.

Quán vụ sơn âm trên là hoan âm dưới là vụ.

Tiêu giác ngược lại âm kháng giác.

Chỉ hạch ngược lại âm hạnh cách hạch là khảo xác tì ra sự thật. Phả lê uyển chánh âm phạm gọi là táp phá trí ca nói là phả lẽ đó, là xưa dịch sai lược.

Kế nhi ngược lại âm anh kế gọi là chôn dấu dưới đất.

Tu toản ngược lại âm tổ quản lại cũng viết chữ toán Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bé nhỏ, chữ viết từ bộ mịch thanh toán Văn Truyện viết chữ du là chẳng phải.

Quy mô âm trên quý duy âm là mạc phổ.

Nga suyển âm dưới xuyên nhuyễn sách Thuyết Văn cho rằng: Chống trái lại với nhau, chữ tượng hình, âm chuy là âm suy âm khoa là âm khoa chữ thượng thanh.

Bì mậu âm trên thất di Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Mậu lừa dối, sai lầm, sách Ích Pháp cho rằng: Làm cùng với sự thật trái ngược nhau, tức là dối trá, sách Thuyết Văn cho rằng: Vọng ngữ, chữ viết từ bộ ngôn thanh mậu âm mậu ngược lại âm lực cứu.

Ám triện lệ âm trên ám ám hàm Bì Thương cho rằng: Ám là tụng đọc, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Phúng tụng đọc thuộc, âm kế là truyện miển sách Sử Trụ viết Đại Triện, đời Tần kế tiếp là Lý Tư viết tiểu truyện, sách Thuyết Văn cho rằng: Lời tựa của sách chữ viết từ bộ trúc thanh duyên âm duyên ngược lại âm thoát loạn âm dưới lê đế Trình Mạc viết lệ sách có nhiều thay đổi Lý Tư viết tiểu truyện là lệ hoặc là viết chữ lệ sách Thuyết Văn viết từ bộ thị thanh đãi.

------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 3

Huệ trách âm dưới tranh trách chữ chanh thể. Tên của vị tăng, âm tránh ngược lại âm tra hạnh chữ trách từ bộ di âm di là âm di thanh trách.

Thụ trách âm dưới tinh diệc hoặc là viết chữ trách từ bộ lực thanh trách.

Trác lạc âm trên trắc giác âm dưới lực giác vạt áo trước văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ tư đã giải thích đầy đủ rồi.

Đạo khuyết ngược lại âm khuyển duyệt Mao Thi

Truyện cho rằng: Khuyết là xong hết việc nghỉ ngơi, Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ cho rằng: Khuyết là xong hết, sách Thuyết Văn cho rằng: Xong việc rồi đóng cửa lại, chữ viết từ bộ môn thanh quý.

Giám vong âm trên lam sám hoặc là viết chữ giám cũng đồng nghĩa giải thích cũng đồng, Quảng Nhã cho rằng: Giám là soi xét. Mao Thi Truyện cho rằng: Giám sát tình hình, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ hình thanh. Mạn tũng âm trên man phân Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mạn là xem thường, Cố Dã Vương cho rằng: Khinh khi xem thường, khinh nhờn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh man âm man là âm vạn âm dưới tương dũng Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Mong muốn, sách Khảo Thanh cho rằng: Cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ đến bộ thanh tùng.

Hàm trượng âm trên là hàm sách Khảo Thanh cho rằng: Hàm là dung chứa, ngậm lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cũng chữ tượng hình, hoặc là viết chữ hàm.

Huỳnh tâm âm trên quỳnh định Văn Truyện viết từ bộ kim viết thành chữ huỳnh Quảng Nhã cho rằng: Mày mò gọi là lau chùi ngọc châu v.v... khiến cho phát ra ánh sáng, sách Thanh văn cho rằng: Màu sắc của ngọc chữ viết từ bộ ngọc đến bộ huỳnh thanh tĩnh.

Để lệ âm trên là để ngược lại âm dưới lực duệ Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Lệ là đá mài sách Thuyết Văn cho rằng: Loại đá mài kiếm cho sắc bén, đá có từ núi Yểm Tự.

Lôi đình âm dưới là đình gọi là tiếng nổ lớn, sách

Nhĩ Nhã cho rằng: Tiếng nổ tung tóe chớp mau, chớp nhoáng, là đình tức là tiếng sấm chớp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ hình thanh.

Thoát tỷ âm trên thổ hoạt âm dưới sở ỷ sách Khảo Thanh cho rằng: Tỷ là mang guốc cây, gót chân không chấm đất, hoặc là viết chữ tỷ đều thông dụng.

Thiển dung âm trên thiên điển Mao Thi Truyện cho rằng: Mặt bẽn lẽn, sách Khảo Thanh cho rằng: Thiển là xấu hổ, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Xem mặt hổ thẹn, chữ viết từ bộ diện thanh kiến chữ hình thanh.

Nữu ni âm trên ni lục âm dưới là ni Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nữu ni là thẹn thùng đỏ mặt, Quảng Nhã cho rằng: Xúc tích ấp úng khó bước đi, sách Phương Ngôn cho rằng: Hổ thẹn đỏ mặt, sách Thuyết Văn cho rằng: Xấu hổ thẹn thùng, chữ hình thanh.

Nãn nhiên âm trên minh giảm sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng là thẹn thùng đỏ mặt, chữ viết từ bộ xích thanh nãn.

Lung trạo âm trên lộc đông âm dưới triêu giáo lung tráo hai dụng cụ đều là che đậy. Lung là cái lồng làm bằng trúc bắt cá bỏ vào khiến cho con cá không chạy nhảy ra ngoài được, hoặc là viết la tráo đều thông dụng, chữ hình thanh, đều từ bộ võng.

Tiếp nữu ngược lại âm nữ cửu chữ thượng thanh: Nữu là dây cúc áo buộc lại Quảng Nhã cho rằng: Nữu là buộc gút lại mà không thể mở ra được, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh sửu.

Thung trì âm trên thúc dung sách Bát-nhã giải thích

Thung là nhảy vọt giẫm đạp lên, sách Khảo Thanh cho rằng: Chạy nhanh, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh thung âm thung đồng với âm trên từ bộ cửu âm cửu là âm cựu.

Quyến để đồ âm dưới là chỉ loại đá mài cho bằng phẳng, chăm sóc con đường cho bằng phẳng như đá mài, mà than thở cho con đường dài. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh để âm để ngược lại âm đinh lễ lại cũng viết chữ để.

Chích khỏa âm trên chinh diệc âm dưới là quả trục hai đầu xe, cái bầu chứa, lại gọi là bầu chứa dầu mỡ để bôi trơn xe, khi hơ nóng là mỡ tan ra. Trần Tư Vương Qua cho rằng: Đồng với chích khỏa nói là Tuệ Trịnh tài học uyên bác, cũng là như vậy, chữ viết từ bộ xa thanh quả.

Tỏa kỳ nhuế âm trên tổ quá Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tỏa là bẻ gãy, sách Thuyết Văn cho rằng: Bẻ gãy ra, tách ra chữ viết từ bộ thủ thanh tọa âm dưới duyệt tuế Quảng Nhã cho rằng: Nhuế là nhạy bén, chữ viết từ bộ kim thanh thuế.

Thanh mậu âm dưới mạc hậu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mậu là gắng sức. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh mậu âm mậu đồng với âm trên.

Diễm nhã âm diễm Cố Dã Vương cho rằng: Chiếu sáng, ánh lửa chiếu sáng rực, chữ viết từ bộ thủ thanh diêm.

Chiêu nhiêu âm trên là điều âm dưới là nhiêu giống như núi cao chót vót.

Hoài thiên âm dưới là duyên Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thuyên là đồng thau màu xanh, chữ viết từ bộ kim thanh công âm thuyên đồng với âm trên.

Chủng dật quỷ âm trên chung dũng âm dưới là quỷ. Quan tuế âm trên quan hoạn sách toán văn giải thích rằng: Tổng quan quyển giác, chữ tượng hình, âm tổng là âm thông.

Sâm tiêu âm trên sáp tiềm âm dưới sở giao.

Phát nhẫn âm dưới là nhẫn Vương Dật chú giải. Phạm Từ rằng: Thanh ngang chặng bánh xe, sách Thuyết Văn cho rằng: Chiếc xe bị ngăn chặng lại bởi một vật chướng ngại, thanh gỗ chặng xe, chữ viết từ bộ xa thanh nhẫn.

Linh gia âm trên lịch đinh Thiên Thương Hoét cho rằng: Linh là nghe, chữ viết từ bộ nhĩ thanh linh.

Uẫn tư âm trên uy phân âm dưới tử tư sách Khảo Thanh cho rằng: Uẩn là che dấu ẩn tàng.

Mâu thuẫn ngược lại âm mẫu phù âm dưới thuận sách Thuyết Văn cho rằng: Mâu là cây thương, cây kích thuẫn là bày ra xô đẩy ra, đều là chữ hình thanh.

Tiểu thuyết ngược lại âm tiều liễu.

Đàm bính âm binh mệnh loại cán cầm như ý vừa lòng. Tạm huy âm dưới là huy dùng tay chỉ huy.

Kinh chiếp âm chiêm diệp hoặc là viết chữ triếp triếp là sợ sệt, thất thần, chữ thượng thanh.

Tảo lạp âm dưới lam đáp sách Thuyết Văn cho rằng: Bẻ gãy chữ viết từ bộ thủ thanh lập lại cũng từ thủ viết thành chữ lạp.

Ma độn âm dưới đồn hổn không nhạy bén, lanh lợi ngu muội, cũng gọi là dao không bén.

Xúy hư âm dưới hứa cư hơi trong miệng xuất ra.

Tòng doanh âm trên tộc công âm dưới là doanh doanh là đầy đủ dư thừa, tòng là gom tụ lại, chữ viết từ bộ diệp thanh thủ.

Điệp can âm trên kiềm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Điệp là chứa nhiều lớp, âm dưới càng ngạn nay gọi bảng vách tường.

Uy nhuy âm trên uy âm dưới nhi chuy tên của vị thuốc đúng nghĩa của Văn Truyện gọi là Linh tướng uy nguy, đó là chỉ có Đức Phật mới dung chứa thuốc từ bi, cũng là loại linh dược bao trùm cho tất cả chúng sinh, vì chúng sinh cứu độ.

Hất hưởng âm trên hân ất gọi là vang động âm dưới hương lượng thần uy vang khắp khó mà lường.

Ung túy âm trên ung cung âm dưới tật túy túy là gom tụ chờ đợi, chữ hình thanh.

Tốt tư âm dưới tinh lữ chữ thượng thanh tên người.

Nhuyễn động âm trên như duẫn Văn Tự Điển nói: Nhuyễn là loài côn trùng bò lúc nhúc.

Hoạch lạc âm trên hoàng quách âm dưới lạc sách Khảo Thanh cho rằng: Hoạch lạc đó là nước lớn dâng lên cao, Văn Luận nói kia giống như là nước dâng lên cao, tranh luận hơn.

Canh ký âm trên canh hạnh chữ thượng thanh âm dưới cai canh ký đó là nói tóm lược, tóm tắt.

Đề ty âm trên đề hề âm dưới tinh hề đề cương, nêu lên đề cương, tóm lược để tựa.

Xuân khuẩn âm trên sĩ luân tên của đại thần thủy, tám ngàn tuổi mà không điêu tàn, không héo chết, âm dưới quần vẫn tức là phân uế (885) hư hoại, tức là loại nấm sớm mọc chiều tàn, chết hết.

Tước hỏa âm trên tương tước cây đuốc nhỏ gọi là tước, giống như đóm lửa.

Nghiên si âm trên sĩ kiên chánh thể chữ nghiên nghiên tức là tốt đẹp người con gái có trí tuệ, âm dưới sĩ chi Thích Danh cho rằng: Ngu si, theo Thanh Loại cho rằng: Si là ngu ngốc, sách Khảo Thanh cho rằng: Si là xấu ác, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh si là chữ cổ.

La hộc ngược lại âm hồng mộc sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch đến bộ hắc thanh tĩnh.

Sô nhiêu âm trên trắc câu loại cỏ thơm, âm dưới nhĩ chiêu cơ mới mọc.

Khanh nhiên âm trên khách canh cứng kiên cố. Si diễm âm trên sĩ tri âm dưới là diễm.

Đốn khử ngược lại âm khứ ngư khử là trừ bỏ đi. Các triệt âm sĩ liệt giảm bớt, thí cho.

Nải trí âm trên nải chữ cổ.

Thôi xán âm trên thôi toái âm dưới sang lan.

Phù hạt âm trên phù âm dưới hà các phù là loài thủy điểu, hạt là chim tiên, chim hạt.

Hạt dược âm dưới là dược loại chìa khóa.

Chuyết kỳ âm trên trúc liệt chữ viết từ bộ thủy thanh xuyết âm xuyết đồng với âm trên.

Yết kỳ âm trên kiền tiết sách Thuyết Văn cho rằng:

Lấy cây gậy giơ lên cao, chữ viết từ bộ thủy.

Thanh hoa âm trên là tinh âm dưới là thoại qua sách Khảo Thanh cho rằng: Hoa thanh anh.

Nhuyễn phù âm trên nô loạn khiếp sợ, người yếu kém khiếp nhược.

------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 4

-Huyền Trang Pháp Sư Truyện.

Huyền Trang âm dưới tạng lang đời Hán tên Tam Tạng, sách Phương Ngôn cho rằng: Trang là to lớn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đại thanh trang chữ này lại có âm khác, nay không lấy âm này.

Bổn danh vỹ ngược lại âm ỷ nghi sách Vận Anh cho rằng: Hình thể cái áo đẹp, chữ viết từ bộ y.

Giải anh âm dưới ích doanh anh là sợi dây buộc mũ. Trường tiệp âm tiềm diệp tên của một vị tăng. Thân huynh của Huyền Trang, chữ viết từ bộ thủ.

Nhã kỳ âm nhã hạ tiếng than.

Khoa tráo âm trên khoa háo gọi là vượt qua âm dưới trào giáo cái nơm cá làm bằng trúc.

Diệp trung âm nghiệp tên quận ở phía bắc đất nghiệp đô. Chỉ trích âm dưới trảo cách dùng tay ngắt hái giữ lấy. Vô dịch âm diệc sách Vận Thuyên cho rằng: Chữ viết từ bộ phộc âm phộc ngược lại âm phổ bốc thanh dịch âm yểm ngược lại âm y diễm yểm tức là no rồi.

Kỷ tử âm trên là khởi âm dưới là tử kỷ tức là cây kỷ tên cây, quả làm thuốc tử tức là tử thu cây tử thu, cũng đều tên nước thời xưa ở Trung Quốc.

Túy chu ngược lại âm tiêm diệp lông mi bên mắt, nghĩa là vây quanh giữ lấy.

Tiêu vũ âm vũ tên người.

Giải tiêm ngược lại âm tiếp diêm sách Khảo Thanh cho rằng: Thẻ tre nhỏ xâu suốt xuyên qua ghi lên sự việc rõ ràng chữ hình thanh.

Phong dĩnh âm trên là phong âm dưới vinh bình sách Khảo Thanh cho rằng: Dĩnh là bông lúa chữ viết từ bộ hòa thanh khuynh.

Bưu nhật âm trên là vưu Văn Tự Tập Lược giải rằng: Nhà ở vùng biên giới, tiếp quan sứ thần đến nghỉ ngơi. Nay gọi là tràm huyền công văn, chữ viết từ bộ thóa đến bộ ấp Văn Truyện viết từ bộ ngự là chẳng phải âm ngự ngược lại âm tinh dạ chẳng phải dùng nghĩa này.

Hối lộ âm trên là hối âm dưới là lộ sách Vận Thuyên cho rằng: Của cải tài vật đem lo lót chuộc tội.

Tảo trửu âm trên tảng đáo âm dưới chi dậu dụng cụ quét dọn trừ bỏ phân dơ uế, chữ vừa vừa đều từ bộ thủ.

Hiến sao ngược lại âm xương chiểu sách Văn Tự Điển nói hông sấy, xay giả lúa mạch làm bột mì gọi là sao chữ viết từ bộ mạch thanh tù Văn Truyện viết chữ sao tục tự thường hay dùng.

Vi cang âm can đàn sách Vận Thuyên viết chữ can. Bất miếu âm trên đúng là chữ bát chánh thể bát là cái chén đựng thức ăn.

Siểm phụng âm thương nhiễm xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nhìn thoáng qua liếc mắt nhìn, chữ viết từ bộ mục thanh viêm.

Phật chích âm dưới chinh diệc Quảng Nhã cho rằng: Chích là mang giày dép, sách Sở Từ cho rằng: Giẫm đạp lên, sách Hoài Nam Tử cho rằng: Dấu chim trên không bay lên, dấu chân thật sự của con thú mà chạy đạp lên, chữ hình thanh.

Trách-ca-quốc âm trên trương cách tiếng Phạm, tên của ngoài nước.

Kiếp lược âm dưới lược Trịnh Huyền chú giải sách Nguyệt Lịnh rằng: Lược là đoạt lấy, cưỡng đoạt lấy vật của người.

Chiêu tàn âm trên dương diêu xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chiêu là gọt giũa, chạm khắc, cắt đứt, chữ viết từ bộ đao chữ hình thanh.

Thảng tàng âm trên thang lãng sách Thuyết Văn cho rằng: Thảng là kho chứa vàng bạc, vải vóc, gọi là phủ chữ hội ý.

Chu đệ âm dưới là đệ xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nhìn nghiêng liếc nhìn.

Chỉ trích âm trên là chỉ âm dưới chinh diệc chữ viết từ bộ túc Văn Truyện viết từ bộ thổ là chẳng phải.

Nhân một âm trên là nhân Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nhân là chìm đắm, rơi rụng, chìm sâu chữ viết từ bộ chân thanh tĩnh.

Giác xứ âm trên là giác giác là đánh giá ưu liệt, hơn kém, chữ viết từ bộ thủ.

Đồi si âm trên xung hồi Thiên Thương Hoét cho rằng: Đồi là rơi rụng âm dưới trì nhĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Tước đoạt lột áo, chữ viết từ bộ y thanh ôi âm si ngược lại âm thiên y.

Nặc-tư âm trên nãn tiết tiếng phạm. Tên nước Tây Vực phương tây.

Khắc-già-hà ngược lại âm nghi đẳng tên sông Tây Vực cũng gọi là tiếng Phạm.

Chu đang âm dưới là đang hạt châu đeo trên tai gọi là đang trang sức nơi tai.

Tứ đệ âm dưới là đệ nghiêng đầu tạm nhìn xem. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ chánh thể.

Vi thê ngược lại âm thể để xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cây thang gỗ chữ viết từ bộ mộc thanh đệ.

Thạch há ngược lại âm hách giá sách Bát-nhã cho rằng: Há là vết nứt, sách Thuyết Văn cho rằng: Đất nứt ra, phá ra, chữ viết từ bộ phửu thanh há chữ chuyển chú.

Bi nghê âm trên phi phi bế âm dưới nghê kế Bì Thương cho rằng: Liếc nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mục chữ hình thanh.

Kiết-lật-đà-la-quật-trá-sơn âm trên khất âm quật ngược lại âm quân vật tiếng Phạm, xưa dịch là núi Kỳ Xà Quật. Đường Huyền Trang dịch là núi Thứu Phong cũng gọi là núi Linh Thứu, núi này có nhiều chim thứu đến đậu.

Đậu khấu âm dưới ha cấu vi thuốc xuất phát từ quận Giao Chỉ.

Hỏa hạt ngược lại âm ai hạt Văn Tự Điển nói rằng: Hạt là hết sạch, chữ hình thanh.

Hạp nhiên âm trên kham nạp Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Bỗng nhiên mà đến không định kỳ, bỗng nhiên mà có gọi là hạp nhiên chữ viết từ bộ thủy thanh hạp âm hạp là âm hạp.

Tảo lợi quốc âm trên tạo Hồ ngữ tên nước.

Khôi ngọc âm trên ngoại ổi Quảng Nhã cho rằng: Khôi là cao chót vót âm dưới ngang các sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ ngạc là vách núi cao nguy hiểm, chánh thể chữ viết từ bộ ngạc viết thành chữ ngạc Văn Truyện viết chữ ngạc tục tự thường hay dùng.

Côn luân hư âm trên côn âm kế luân âm dưới khứ ngư hoặc là viết chữ hư tên khác của núi Tuyết Sơn.

Đông tạm ngược lại âm tiếp lam Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tạm là nước thấm vào, lại gọi là thấm vào vách tường, âm lam giải thích cũng đồng nghĩa trên.

Miễu mạn âm trên diệu liễu miễu là nhìn ra trông ra xa.

Nghịch lưu âm trên tố nghịch giống như nước chảy ngược dòng lên trên.

Kình khấu âm trên là kình là có nhiều sức lực, sách

Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ lực thanh kinh Văn Truyện viết từ bộ đao viết thành chữ kình là chẳng phải. Nhai kiêm âm trên nhã giao âm dưới nghiễm vách núi ven đường nhiều tầng, sách Khảo Thanh cho rằng: Vách núi vuông như cái bình có nhiều lớp ngoằn ngoèo. Hạt bàn đà quốc âm trên phiên nghiệt hồ ngữ tên nước.

Tu phát âm trên tương du râu miệng trên, mé trên miệng, chữ viết từ bộ sam sách Thuyết Văn nói âm sam là âm sam chữ tượng hình.

Phiếm trướng âm trên phù phạm hoặc là viết chữ phiếm âm dưới (886) trương lượng cũng là chữ khứ thanh.

Hung quáng âm dưới hồ mảnh.

Điền ế âm trên điền âm dưới ế ngược lại âm yên kiết gọi là đầy lấp bít.

Hiểm duẫn âm trên hiểm âm dưới là duẫn tên khác của nước Hung Nô phía bắc địch.

Kháp thuật ngược lại âm khanh giáp sách Vận Thuyên cho rằng: dụng tâm vừa vặn cũng là thông tục ngữ, xưng là xứng hợp.

Sưu trạc âm trên sương trứu âm dưới trọc sưu là tìm tòi, hỏi thăm làm cho rõ ràng thăm dò, trong kinh luận đồng dịch như vậy.

Trắc lậu âm trên là trắc âm dưới lâu đậu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Người sáng suốt đánh giá được việc xấu tốt đo lường được những việc rộng cầu người hiền đức.

Biên năng âm trên tiên miến sách Nhĩ Nhã cho rằng: Biên là gấp gáp vội vàng. Khảo Thanh Vận Anh đều cho rằng: Chật hẹp nhỏ nhen, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh biên Văn Truyện viết từ bộ đại là chẳng phải.

Xuyết tập âm trên truy vệ âm dưới xâm nhập. Liên bì âm dưới tẫn mật sắp bày có thứ tự.

Tỏa liên âm trên tảng quả âm dưới liên liên là loại.

Phồn phúc âm trên phạt viên nẩy sinh ra nhiều, âm dưới phong mục gọi là từng lớp lớp có liên hệ với nhau. Cùng hạch âm dưới hành cách sách Vận Thuyên cho rằng: Khảo sát tìm cầu sự thật, chữ viết từ bộ á âm á ngược lại âm nha giã âm kích là âm dược.

Cửu luy âm dĩ anh hải điểu ở tiên châu biển đông.

Khoa thiên cổ ngược lại âm khoa hóa xưa nay Chánh Tự cho rằng: khoa là vượt qua, chữ hình thanh.

Thần quyển ngược lại âm quyết quyện hoặc là viết chữ quyến cũng đồng, sách Khảo Thanh cho rằng: Quyến là quay lại nhìn, lưu luyến.

Nghiễm nhai âm dưới nhã giai bến nước gọi là nhai. Tú vũ âm vũ tên người.

Tú cảnh ngược lại âm quỷ vĩnh tên người. Trù yên âm trên trụ lưu trù là bạn bè.

Tảng tử âm dưới là tử.

Toàn tẫn ngược lại âm bảo nhẫn sách Thuyết Văn viết từ bộ phản thanh tân mai táng chôn giấu, âm kế ngược lại âm cơ kế.

Kỳ huỳnh âm dinh phần mộ.

Thanh tiệm ngược lại âm tiếp diêm.

Đề hiệp âm trên đê hề âm dưới liên hiệp.

Khỉ khu âm trên khởi nghi âm dưới khương ngu. Diên thực âm trên thương thiên âm dưới thừa lực.

Khôi khôi ngược lại âm khổ hồi Khảo Thanh cho rằng: Có chí lớn hoặc là viết chữ khôi.

Cộng kích ngược lại âm kinh diệc sách Khảo Thanh cho rằng: Nước chảy như tên bắn.

Sô nhiêu âm trên trắc triếu sách Vận Anh cho rằng:

Loại cỏ thơm âm dưới nhiêu chiêu.

Phủ tháo âm dưới tao lão sách Khảo Thanh cho rằng: rong trong nước có vân có màu sắc rất đẹp.

Tất dũng ngược lại âm dung dũng sách Khảo Thanh cho rằng: Gót chân, lại cũng viết cảnh dũng.

------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 5

Trừng thị âm trên trực chứng Bì Thương cho rằng: Trừng là nhìn thẳng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mục đến bộ trừng thanh tĩnh.

Trở ngại âm trên trang sở Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trở ngại, hoặc là có núi làm cho ngăn trở, sách Thuyết Văn cho rằng: Trừ bỏ, chữ viết từ bộ phụ thanh thư âm thư ngược lại âm tinh dư âm dưới ngã cái Quảng Nhã cho rằng: Ngại là cự li khoảng cách, sách Thuyết Văn cho rằng: Dừng lại, chữ viết từ bộ thạch thanh ngại chữ hội ý hoặc là viết chữ ngại cũng đồng.

Giang phẫn âm dưới phù văn Tự Lâm cho rằng: Phãn là bến nước sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh bộn âm bộn ngược lại âm bổ môn.

Ngôn hước âm dưới hương ước Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hước là cùng nhau làm trò hài hước làm trò cười, sách Thuyết Văn cho rằng: Nói hài hước khôi hài khiến người ta nghe tức cười, làm trò đùa, chữ viết từ bộ ngôn thanh ngược.

Luy tích âm trên cửu truy âm dưới tinh diệc sách Khảo Thanh cho rằng: Ốm yếu, Tự Thư cho rằng: Bệnh gầy yếu cũng viết chữ tích từ bộ tích đến bộ tật thanh tích.

Nguyễn thao âm trên nguyên viễn họ người âm dưới thảo đao tên người chữ viết từ bộ vi thanh thao.

Chu ngung ngược lại âm ngộ cung triều nhà Lương sách ghi tên của Kiết Lang.

Khai giá ngược lại âm thang giả Quảng Nhã cho rằng: To lớn cũng gọi là mở rộng vòng tay, chữ hình thanh.

Xác nhiên ngược lại âm khổ giác sách Khảo Thanh cho rằng: Kiến cố bền chắc, văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Sấn thí ngược lại âm sở cận sách Vận Anh cho rằng: Sấn thí là đem của cải ra giúp đỡ cho người Tự Thư cho rằng: Thí là có phúc, giàu chiêu cảm thắng quả, quả tốt lành vượt hơn người.

Bốn cự âm trên phổ bố sợ sệt, lo sợ, âm dưới cư ngự khứ thanh, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lo sợ, sợ hãi, hoặc là viết chữ cự cũng đồng nghĩa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xước thanh cứ âm xước ngược lại âm sửu lược âm cứ la là âm cự dưới từ bộ thỉ.

Xướng hiên âm trên xương dưỡng Thiên Thương Hoét cho rằng: Xướng là cao tráo hiển đạt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ cao có thể nhìn ra xa, chữ viết từ bộ phộc thanh thượng.

Diễm huyền âm trên quân vận âm dưới thái cải sách Phương Ngôn cho rằng: Quân là ngắt, hái nhặt lấy, sách

Thuyết Văn cho rằng: Nhặt lấy văn cổ viết chữ quân viết chữ cứ nay theo tóm lược từ bộ thảo viết thành chữ quân.

Tiêu bính ngược lại âm binh vĩnh.

Huệ vũ ngược lại âm vu vũ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: To lớn biến khắp, hòa hợp tên vị tăng.

Sài đảng âm trên sĩ giai sách Khảo Thanh cho rằng:

Thẳng thắn, dũng mãnh, chữ viết từ bộ mộc thanh cách. Kình địch âm trên cường nghinh sách Khảo Thanh cho rằng: Có nhiều sức lực, võ lực mạnh mẽ, chữ viết từ bộ lực thanh kình.

Trừng mâu âm trên trường lăng âm dưới mộ phù con ngươi trong con mắt.

Tư tư ngược lại âm tử từ sách Khảo Thanh cho rằng: Kỹ năng, nay gọi là văn lược.

Lang bại âm trên lang âm dưới là bốn Văn Tự Tập Lược cho rằng: Lang con thú điên cuồng lồng lộn lên, loạn tâm, làm mất trật tự.

Hôn bi ngược lại âm bi mi sách Khảo Thanh cho rằng: Hiểm hóc mỏng manh bạc bẽo, biện luận mà không đúng nịnh hót mà có trí tuệ, sách Thuyết Văn cho rằng:

Chữ viết từ bộ ngôn đến bộ bỉ thanh tĩnh.

Cực thâm âm trên căng lực rất gấp gáp bức bách.

Quyến duyệt ngược lại âm quyết quyển Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quyến là nhìn, quay lại nhìn.

Đông khoan âm hoạn địa danh.

Lưu hiệp ngược lại âm liêm hiệp tên người trước thư cho rằng: Tên Lưu Tử.

Tế tôn ngược lại âm tôn tổn tên người.

Lam lô âm trên loạn đoan Quảng Nhã cho rằng: Chặt bẻ gãy cây vốn cong gọi là loan tức nay cung hai cái đấu hai đầu cong lại, âm dưới là lô sách Thuyết Văn cho rằng: Thanh gỗ mỏng kê trên trụ cột, âm nghiêng ngược lại âm xí kiến.

Thiềm lưu âm trên là viêm mái hiên nhà tức là trụ cột ngoài, để hờ chữ viết từ bộ mộc thanh chiêm từ bộ thủ là chẳng phải, âm dưới lưu cứu sách Thuyết Văn cho rằng: Lưu là nước mưa trên mái nhà nhỏ xuống, chữ viết từ bộ vũ thanh lưu.

Quang trình âm trên quang cây gỗ ngang kê dưới cái giường, sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ hoàng hoàng là đường đông sang tây, chữ dưới lễ đinh sách Vận Thuyên cho rằng: Cứng chắc một bên, tức là thanh gỗ dài bên giường hai bên, cũng gọi là bệ giường, Văn Truyện viết từ bộ đức viết thành chữ đức là chẳng phải cũng e rằng sách viết sai, viết trong văn đó nên viết từ bộ mộc viết thành chữ cứ cũng không thành chữ, sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ trình.

Lục thóa âm đóa tên người.

Lô liểm âm trên lô loại cỏ thơm phấn thơm trang sức của phụ nữ, tức là cái rương chứa đầy phấn hương thơm. Chủ vĩ âm trên chủ tức con nai có cái như cây phất trần, chủ là con nai có đuôi dài có thể làm phất trần.

Sa uyển âm trên tinh da gọi là buồn bã than thở, âm dưới uyển hoán Văn Tự Tập Lược cho rằng: Uyển gọi là hoảng sợ lo âu, sợ sệt uyển gọi là hoảng sợ lo âu, sợ sệt uyển hận oán, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh uyển xấu hổ, kinh sợ.

Kiêu bạc âm trên hiểu nhiêu âm dưới bàng bác.

Khuy nhún âm trên khuyển quy gọi là trộm nhìn, sách Vận Thuyên cho rằng: Len lén nhìn, âm thú ngược lại âm (887) thanh dư cúi đầu trong khe cửa nhìn trộm.

Tâm mậu ngược lại âm trên mạc hầu sách Sở Từ cho rằng: Trong lòng sầu muộn, loạn tâm, sách Thuyết Văn cho rằng: Mắt nhìn chăm chăm, lờ mờ chữ viết từ bộ mục thanh mậu chữ viết từ bộ mục thanh mậu.

Lưu hội âm hội tên người.

Đông hoàn ngược lại âm hồ quan địa danh.

Cân hạt ngược lại âm hàn cát Mao Thi Truyện cho rằng: Hạt là áo vải thô. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Người nước Sở gọi áo bào ngắn là hạt sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh hạt.

Mạt lăng âm trên mãn bát địa danh ở quận Ngô cũng gọi là Kim lăng, sở đô của đời Lương.

Sảng khải âm trên sương lượng Đỗ Dự giải thích Tả Truyện rằng: Khải là chỗ cao ráo, sáng sủa, sách Thuyết Văn, Triện Văn viết chữ sảng Nhĩ Nhã cho rằng: Sảng tức là vũ lực Mao Thi Truyện cho rằng: Sảng là bại hoại, sách Phương Ngôn cho rằng: Sảng là mãnh liệt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ xuyết âm xuyết là âm lệ đến bộ đại âm dưới khai cải Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khải là chỗ cao khô ráo, sạc Thuyết Văn cho rằng: Cao ráo.

Tương kim âm trên tích dương tiếng khua vàng ngọc leng keng, âm khanh là âm khanh.

Hầu húc ngược lại âm hung ngục sách Khảo Thanh cho rằng: Mặt trời mới mọc rất đẹp.

Phân vân âm trên phù văn âm dưới uy vân phân vân là khí thơm ngào ngạt.

Phẩu tích âm trên mậu khẩu âm dưới tinh diệc phân tích văn nghĩa khiến cho người ta hiểu.

Bàn ngung âm trên phán bàn âm dưới ngu đại danh tên của huyện ở Quảng Châu.

Huân tân ngược lại âm trên huy vân tên gọi chung năm loại rau cay mùi trong rừng.

Tri trù âm trên trừ ly âm dưới trụ chu sách Vận Thuyên cho rằng: Ít lựa chọn, chần chừ không tiến tới được.

Y chấn ngược lại âm chân nhẫn văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích đầy đủ rồi.

Khiếp phái âm dưới bạch mãi sách Thuyết Văn cho rằng: Phái đó là nước chảy riêng, rẽ ngã khác, chữ viết từ bộ phản đến bộ thủy.

Truân tịch ngược lại âm trên truy luân âm dưới tịch Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Truân là dày. Tịch là ban đêm gọi là chôn cất dưới đất lâu dài như đêm tối, sách Thuyết Văn cho rằng: Truân tịch đều từ bộ huyệt chữ hình thanh.

Đại tảo ngược lại âm tảo tao rối loạn, tảo là lồng lớn rối loạn không an.

Phụ y ngược lại âm y khải Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Y là gối mềm mại, gối dựa, giữa cửa sổ gọi là y chữ viết từ bộ hộ thanh y.

Thự mụ ngược lại âm trên thực dĩ sách Vận Anh cho rằng: Thự là nhà ở nông thôn, khu riêng biệt ngoài thành gọi là thự, lại âm là dã giải thích nhiếp cũng đồng, âm dưới là mẫu. Người đàn bà gọi là mẫu, chữ hội ý.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn

QUYỂN 92

Từ quyển thứ sáu cho đến hết quyển thứ mười.

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 6

Trù nhân âm trên trường lưu Mao Thi Truyện cho rằng: Trù cũng gọi là mật, tức dày đặc, thẳng như tóc, Thiên Thương Hoét cho rằng: Trù là đông nhiều, sách Thuyết Văn cho rằng: Trù là đông đúc nhiều, chữ viết từ bộ hòa thanh chu.

Mô khải âm trên là mưu Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Mô là phép tắc, khuôn mẫu, sách Thuyết Văn giải thích: Mô là quy cách mẫu mực, chữ viết từ bộ thủ thanh mạc âm dưới khanh ngu lại cũng là âm nhai mại Quảng Nhã cho rằng: Khải là lau chùi. Tự Thư cho rằng: Sờ mó, cũng là lau chùi sạch sẽ, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh giai.

Tạ dược âm dưới dương chước tên người.

Chưng mạch âm trên lấy chữ chưng chữ thượng thanh, âm dưới ninh đích văn trước Cao Tặng Truyện trong quyển thứ bảy đã giải thích đầy đủ rồi.

Thúc nhiên âm trên thương nhục văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ sáu đã giải thích đầy đủ rồi.

Mê lạp âm trên mích bệ Độc Nhược Mê chú giải sách Chu Lễ rằng: Mê là con hươu con. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lộc thanh nhị âm dưới liêm triếp Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Săn bắt ngoài đồng ruộng gọi là liệp. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khuyển thanh lạp âm lạp đồng với âm trên.

Ngự vũ âm dưới vu củ cùng với chữ vũ cũng đồng âm. Mao Thi Truyện giải thích rằng: Vũ là nhà ở, chỗ cư trú, sách Thuyết Văn giải thích rằng: Chữ viết từ bộ miên thanh vũ hoặc là viết từ bộ nghiểm viết thành chữ vũ cũng đồng với âm miên là âm miên.

Kiêm khoáng âm trên hiệp kiêm sách Thuyết Văn cho rằng: Kiêm là hợp gộp sợi tơ lại dệt thành tấm lụa màu chữ viết từ bộ mịch thanh kiêm kiêm viết đúng là chữ kiêm âm dưới quách hoàng Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Khoáng là thuộc bông tơ sách Thuyết Văn cho rằng: Khoáng là bông làm tơ kéo tơ, chữ viết từ bộ mịch thanh quảng.

Tiểu lục âm trên ngư tiểu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tiểu giống như diệt sạch, tiểu trừ, sách Thuyết Văn viết từ bộ lực thanh sào âm dưới long thúc Tự Thư cho rằng: Lục là giết sạch. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Chịu nhục, sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh mậu âm mậu ngược lại âm lực cứu.

Lâm quyết âm dưới là quyết sách Vận Lược cho rằng: Quyết là nói lời chia biệt, cùng với người đã chết chia biệt thiên thu, tức là lúc lâm chung nói lời vĩnh biệt.

Nhụ mộ âm trên nhu tuất Tự Thư cho rằng: Nhụ giống như thuộc về, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhụ là đứa bé có thể dạy được, tức là trẻ thơ chữ viết từ bộ tử thanh nhu âm nhu là tu.

Kiết ngược lại âm cổ bát Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kiết giống như rơm rạ, Ngọc Thiên cho rằng: Bông lúa đã rụng hết còn lại cọng rơm, âm cảo ngược lại âm cao lão sách Thuyết Văn viết chữ giai văn cổ viết chữ kiết.

Vị chức âm trên lê trí sách Phương Ngôn cho rằng: Vị là đến Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Vị là nhìn xem, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh vị sách Khảo Thanh cho rằng: Lại từ bộ thủy viết thành chữ vị âm đồng với âm trên.

Quân hà âm trên quẫn vân âm quẫn ngược lại âm quân vẫn Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Quân là con hươu, sách Thuyết Văn viết từ bộ lộc thanh khuân âm khuân là âm quận Tự Thư cho rằng: Hà là con hươu đực, sách Thuyết Văn cho rằng: Hà là con hươu cái, sách Hạ Chí cho rằng: con nai cởi bỏ cái sừng, chữ viết từ bộ lộc thanh hà âm hà là âm giá giả Văn Truyện viết chữ hà tục tự thường hay dùng.

Phù vụ âm trên bổ vô Cố Dã vương cho rằng: Phù tức là con vịt trời, văn trước trong quyển thứ ba đã giải thích rồi âm dưới mong bốc cũng là âm vụ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Vụ cũng là con vịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Vụ là con thiên nga, chữ viết từ bộ điểu thanh vụ.

Ưng chiên âm trên ức lăng Trịnh Tiễn chú giải Mao

Thi Truyện rằng: Ưng là loại chim ưng hung dữ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ điểu thanh ưng âm dưới chương nhiên sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ điểu thanh chiên Mục Thiên Tử Truyện cho rằng: cũng là giống diều màu xanh vàng mỏ cong.

Dã ảo âm dưới áo bảo sách Thuyết Văn cho rằng: Ảo là tiếng xưng gọi người đàn bà sống lâu nhiều tuổi, chữ viết từ bộ nữ thanh ôn âm ôn ngược lại âm ô hồn.

Đồ diệp âm trên đổ mô Quảng Nhã giải thích rằng: Đồ giống như là mưu tính, đo lường, âm đạt là âm đạt sách Thuyết Văn cho rằng: Diệp giống như là cái tráp đựng văn tự chữ viết từ bộ phiến thanh diệp âm diệp là âm diệp, theo sách giản đồ diệp hoặc là viết từ bộ trúc hoặc là bản nghĩa khiến từ bộ phiến viết thành chữ diệp Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành chữ diệp là chẳng phải, gọi là diệp giống như trộm kẻ trộm chẳng phải bổn nghĩa này, nay không dùng.

Điềm dũ âm trên diệp kiêm sách Phương Ngôn cho rằng: Điềm tĩnh, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là an tĩnh, chữ viết từ bộ tâm đến bộ điềm thanh tĩnh âm điềm đồng với âm trên, âm dưới du chu Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Dũ là nhan sắc, vui vẻ, ôn hòa, Quảng Nhã cho rằng: Vui vẻ vui mừng, sách thức viết từ bộ tâm thanh du.

Tật du âm dưới là du Cố Dã Vương cho rằng: Du gọi là tật bệnh nhỏ, nhẹ lành khỏi bệnh, chữ viết từ bộ tật thanh du.

Siêm quốc ngược lại âm trên lạt chiêm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siêm là nhòm ngó hầu hạ, chăm sóc, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn xem, chữ viết từ bộ kiến thanh chiêm.

Trữ linh âm trên trừ lữ Mao Thi Truyện cho rằng: Trữ là đứng lâu. Tự thư cho rằng: Chữ viết từ bộ lập viết thành chữ trữ cùng với chữ trữ đồng nghĩa. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trừ âm trữ là âm trừ âm dưới lịch đinh văn trước trong quyển thứ ba đã giải thích rồi.

Đạm chi âm trên đàm cảm văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ mười đã giải thích rồi, Văn Truyện viết chữ cảm tục tự thường hay dùng.

Liên cấm âm dưới cầm cấm văn trước Cao Tăng Truyện đã giải thích rồi, trong quyển thứ ba.

Mang khiêu âm trên đúng là chữ mang âm dưới khương lược Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Khiêu là giày cỏ, Thiên Thương Hoét cho rằng: Khiêu là giày dép, guốc gỗ âm cùng với âm khước này cũng đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Giày dép, chữ viết từ bộ lý tóm lược thanh kiêu.

Thăng nam âm trên thăng chứng âm dưới là man tên bộ kinh.

Khảm lẫm âm dưới lạp âm lạp âm cảm Tự Thư cho rằng: Khảm lẫm là đất không bằng, sách Khảo Thanh cho rằng: Đất ngoài quan ải gồ ghề, gập ghềnh, Cổ Thi cho rằng: Khảm lẫm là nhiều khổ đau, lận đận âm lạp là âm lạp.

Vu hành âm trên hung vu Tư Mã Bưu chú giải rằng: Vu giống như là nhìn mà không biết gì, Thiên Thương Hoét cho rằng: Căng mắt ra mà nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Vu vì bệnh u buồn trầm uất mắt nhìn xa xăm, chữ viết từ bộ mục thanh vu Văn Truyện viết từ bộ nhật viết thành chữ hu là sách viết sai. Âm dưới đúng là chữ hành sách Khảo Thanh cho rằng: Theo chữ hành là cái sừng đến bộ đại gọi là con trâu húc vào người thì là ngang ngạnh, một cây trên sừng tức hoành giống như ngang chữ hội ý, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ hạnh thanh giác đúng là chữ hành.

Tiếu ngạo âm trên tiếu tiều Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tiêu gọi là cong cái lưỡi lên mà thổi ra tiếng. Theo chữ tiếu ngạo đó là đi du phương đây đó, thanh nhàn nơi hoang dã mà ngâm nga, thổi sáo, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khảm viết thành chữ tiêu nay thông dụng viết chữ tiều cũng đồng nghĩa, âm dưới ao cáo sách Bát-nhã cho rằng: Ngạo là phóng đãng, chữ viết từ bộ nhân thanh ao Văn Truyện viết từ bộ khẩu viết thành chữ ngạo là chẳng phải.

Tất suất âm trên là tất âm dưới suy luật sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh cho rằng: Con dế sinh ra năm ngày mà trên vách tường, Mao Thi Truyện cho rằng: Con dế đến mùa thu nó kêu. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Loài côn trùng đến mùa thu kêu. Tất suất hai chữ đều viết từ bộ thủy đều thanh tất suất âm cung ngược lại âm cộng ngung.

Chiên chúc âm trên chiến chiên Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chiên tức là cháo nhừ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng đồng nghĩa cháo chữ viết từ bộ thực thanh chiên âm mi là âm mi.

Hồ khẩu âm trên là hồ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hồ cũng là cháo lỏng. Quách Phác chú giải rằng: Hồ cũng là cháo, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi ăn gởi nằm (888) nhờ là hồ khẩu chữ viết từ bộ thực thanh hồ.

Áo túy âm dưới tuy túy sách Chu Dịch cho rằng: Thuần túy, tinh túy, sách Thuyết Văn cho rằng: Túy là không tạp chữ viết từ bộ mễ thanh túy.

Thể luy âm dưới lụy truy Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Luy là ốm yếu. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Bệnh hoạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Gầy ốm, chữ luy âm loa ngược lại âm lực ngoa.

Tạ huệ âm dưới huề khuê tên người.

Tý tài âm trên tử di Cố Dã Vương cho rằng: Tý gọi là tài vật tự riêng trong nhà, sơn sinh ra nhiều, Quảng Nhã cho rằng: Tý là hàng hóa, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh thử.

Trần tử âm dưới truy sử sách Thuyết Văn cho rằng: Tử giống như là căn bã, chữ viết từ bộ thủy thanh tể âm điện ngược lại âm điềm luyến.

Tiền trạc âm trên tiển tiên Văn Tự tập Lược cho rằng: Tẩy rửa áo cho sạch bùn, âm dưới tràng giác Quảng Nhã cho rằng: Tẩy rửa Mao Thi Truyện cho rằng: Tẩy giặt, Cố Dã Vương cho rằng: Tắm gội sách Thuyết Văn cho rằng: Giặt giũ, chữ viết từ bộ thủy thanh trạc âm trạc là âm thác.

Giải hoán âm trên giai mại giải là phán ra, tách ra, chữ viết từ bộ đao từ con dao tách bỏ cái sừng con trâu, chữ hội ý, âm dưới hoàn quản Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hoàn gọi là tẩy rửa, Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Trừ bỏ đi cấu bẩn, gọi là hoán sách Thuyết Văn viết chữ hoán Tự Thư viết từ bộ cán viết thành chữ hoán âm nghĩa đều đồng.

Nhuyễn kỹ âm trên nhu nhuyễn sách Chu Lễ cho rằng: Nhuyễn là mềm mại, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhi thanh khuyển Văn Truyện viết từ bộ xa viết thành chữ nhuyễn tục tự dùng chẳng phải, âm dưới ky lý.

Trù mậu âm trên trụ lưu Mao Thi Truyện cho rằng: Trù mậu giống như là dũng mãnh vải bó buộc lại quấn quanh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh trù âm dưới mỹ ưu Mậu giống như sai lầm, là mười dây bó buộc xiết chặt lại, chữ viết từ bộ mịch thanh mậu âm mậu là âm lực cứu âm khiết ngược lại âm kiết.

Thô sáp âm trên thông hồ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ ba bộ lộc chữ hội ý. Nay tóm lược viết chữ thô Cố Dã Vương cho rằng: Thô gọi là không tốt đẹp, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thô giống như không tinh thuần, âm dưới sâm tập sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ chỉ hai bộ chánh, hai bộ ngược, sách cho rằng: Chữ hội ý, Văn Truyện viết chữ sáp là chẳng phải.

Canh nan âm trên canh hạnh Mao Thi Truyện cho rằng: Danh là bệnh, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Canh là có hại, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thẳng thắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Núi Du Sơn có cây chẻ ra hai chán hai, cành cây, chính giữa đâm thẳng lên, chữ viết từ bộ mộc thanh canh Văn Truyện viết từ bộ ngư thích thành chữ cánh tục tự thường hay dùng.

Pháp xưởng âm dưới xương ngưỡng tên người Văn Truyện viết chữ xưởng là sai lầm.

Lạc hoang âm trên lạc âm dưới hoang theo chữ lãng hoang đó là loài chó sói có nhiều mưu mô xảo quyệt, nghĩa đó là không thật, chữ lãng hợp lại viết chữ lạc Văn Truyện dùng chữ lãng là chẳng phải. Tự Thư cũng không dùng chữ này.

Nhất lộc âm dưới tũng mộc sách Thuyết Văn cho rằng: Lộc là cái rương làm bằng tre, chữ viết từ bộ trúc thanh lộc.

Hước chi âm trên hương khước văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích đầy đủ rồi.

Sảnh tương âm dưới tưởng dương sách Niết-bàn cho rằng: Tương là cái rương màu đỏ, thanh tre màu, Hán Thư cho rằng: Tấm thẻ phù của người phục dịch làm bằng thẻ tre.

Cưỡng hãn âm dưới hàn đán sách Thuyết Văn cho rằng: Dũng mãnh, hung hăng chữ viết từ bộ tâm thanh hãn.

Quỷ nỗi âm trên quỳ vị Mao Thi Truyện cho rằng: Quỷ là cạn kiệt. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nghèo nàn, trong tủ không còn của cải, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phương thanh quý âm phương là âm phương âm dưới nô ổi Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nổi là đói khát, Thiên Thương Hoét cho rằng: Đói khổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh nổi.

Bàn khuyết âm dưới khuyển duyệt Mao Thi Truyện cho rằng: Khuyết là xong hết thôi nghĩ. Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Khuyết là chung cuộc, rốt cuộc Thiên Thương Hoét cho rằng: Xong rồi sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh quý.

Tương tuần âm dưới là tuần Tự Thư cho rằng: Hoặc là viết chữ tuần tuần giống như đi xem xét, khảo sát, sách Thuyết Văn cho rằng: Tuần gọi là dùng dây tơ quấn quanh lại chữ viết từ bộ mịch thanh xuyên.

Diêu cử âm trên tất diêu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Diêu gọi là gió bão từ trên mà xoáy xuống sách Thuyết Văn cho rằng: Diêu là nổi lên lắc lư chữ viết từ bộ phong thanh diêu âm diêu là âm phiêu.

Châm manh âm trên chấp nhậm Quảng Nhã cho rằng: Chân là đâm vào theo chữ chân manh đó lấy chánh pháp để trị tà kiến, như châm manh là bệnh tật lâu đời cố chấp, sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh hàm nay thông dụng từ bộ thập viết thành chữ châm tục tự thường hay dùng. Âm dưới mạch canh sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt không có con ngươi, chữ viết từ bộ mạc thanh manh.

Du chỉ âm trên du chu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Du là dưới bụng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhục thanh du âm dưới đúng là chữ chỉ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Chỉ là tốt đẹp.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 7

Tầm tương âm trên tợ lâm sách Thuyết Văn cho rằng: tầm là kéo mối tơ liên tục không dứt, chữ viết từ bộ kỹ bộ công bộ kệ đến thốn phân ra sửa chữa, chữ hội ý, chữ chuyển chú âm dưới tưởng dương Thích Danh cho rằng: Tương là lụa màu mỡ gà xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh tương.

Tấn vân âm trên tân tín Xuân Thu Truyện cho rằng: Tấn vân thị là địa danh, sách Thuyết Văn viết chữ từ bộ mịch thanh tấn Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ tấn là chẳng phải.

An đổ âm dưới đô lỗ Cố Dã Vương cho rằng: Đổ là vách tường nhiều lớp. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vách tường có năm bảng là đổ chữ viết từ bộ thổ thanh giả tám thước gọi là bản.

Thanh mậu âm trên đúng là chữ thượng thanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Âm thanh chữ viết từ bộ nhĩ thanh khánh âm khánh ngược lại âm khẩu lãnh âm dưới mâu hầu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Giống như gắng sức, cùng với chữ mậu nghĩa cũng đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh mậu âm mậu đồng với âm trên. Hoặc là viết chữ mâu viết thành chữ mậu.

Phúc huệ âm trên là phúc văn trước Cao Tăng Truyện đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển thứ mười một âm dưới là huệ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Huệ là cỏ thơm, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh huệ.

Nữu lỗ ngược lại âm trên nữ cửu Quảng Nhã cho rằng: Nữu là buộc gút lại, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nữu là vải lụa buộc mũ trên chót mũi nhỏ, chỗ xỏ xuyên qua giữ nón mũ không bị gió bay, sách Thuyết Văn cho rằng: Sợi dây tơ lụa, chữ vừa vừa từ bộ mịch thanh sửu lại gọi là buộc kết lại mà có thể mở ra được âm dưới lô đổ sách Thuyết Văn cho rằng: Lỗ là bắt được làm tù binh, chữ viết từ bộ quân đến bộ lực âm quán là âm quan sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ nhất ngang, bộ quán chữ tượng hình.

Hành lỗ âm trên đúng là chữ hành Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hành là ngang dọc, Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Bằng phẳng sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục đến bộ đại thanh hành Văn Truyện viết từ bộ ngư viết thành chữ hành là sai, âm dưới là lỗ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lỗ là cái thuấn to lớn âm tuần là âm thuận sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh lỗ cũng viết chữ lỗ âm nghĩa đều đồng.

Khưu tĩnh âm dưới tình dĩnh Tự thư viết đúng từ bộ phụ viết thành chữ tĩnh Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tĩnh đó là chỗ đào xuyên qua đất làm hang, hầm có nước, mà gài bẩy bắt cầm thú, Quảng Nhã cho rằng: Tĩnh tức là cái hầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Tĩnh là cái hầm rơi xuống, chữ viết từ bộ phi thanh tĩnh văn cổ viết từ bộ thủy viết thành chữ tĩnh hoặc là viết từ bộ huyệt viết thành chữ tĩnh đều đồng.

Liêu quỳnh ngược lại âm trên liễu tiều Quảng Nhã cho rằng: Liêu là xa xôi sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xước thanh liêu âm liêu đồng với âm trên, âm dưới hoàn sính Lưu Triệu chú giải Cốc Lương Truyện cho rằng: Đúng từ bộ phộc viết thành chữ quỳnh âm quỳnh là âm dinh tìm cầu chưa toại nguyện, cũng gọi là xa xôi, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Tìm cầu danh vọng, chữ viết từ bộ quỳnh bộ nhân trong huyệt chữ chuyển chú âm phộc ngược lại âm liệt.

Đê lệ âm trên chỉ âm dưới lệ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Để lệ đều là đá mài dao văn trước trong quyển thứ ba giải thích rồi.

Ngôn nghệ âm dưới ngự đệ Bì Thương cho rằng: Nghệ là gặt lúa thu hoạch đem về, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Cái lưỡi liềm cắt cỏ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ đao thanh nghệ.

Thái hiệt âm dưới hiền kiết Tự Thư cho rằng: Hoét giống như xắn vạt áo lên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Vén tay áo lên chữ viết từ bộ thủ thanh hiệt.

Bối giáp âm trên đúng là chữ bối từ bộ bắc đến nhục âm dưới là giáp Ngô Việt Xuân Thu cho rằng: Xuyên qua bả vai. Thích Danh cho rằng: Giáp là nói thông suốt bao gồm thích hợp, âm hạp là âm hợp gọi là cùng với hông ngực tương hội cho nên gọi là hạp xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa. Chữ viết từ bộ giáp đến bộ nhục thanh nhục.

Tuấn thường âm trên tuân tuấn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tuấn là vô cùng khác biệt, Ngọc Thiên, Tự thu cũng cho rằng: Chữ tuấn đồng như trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ sáu đã giải thích rồi, âm dưới là thường Hàn Thi Truyện cho rằng: Thường là quần dưới gọi là thường Bạch Hổ Thông cho rằng: Thường là chướng ngại, chỗ gọi là từ chướng ngại mà che đậy, sách Thuyết Văn viết chữ thường là quần dưới.

Xế bàn ngược lại âm trên xương nhuế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Xuế là lông nhuyễn mịn, sách Thuyết Văn cho rằng: Xế là lông thú đệt thành áo khoác ngoài, chữ viết từ ba bộ mao chữ hội ý.

Phục sảnh âm dưới tình tánh Quảng Nhã cho rằng:

Sảnh là mang lệnh vâng theo, cũng là kêu gọi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kêu gọi triệu tập chữ viết từ bộ kiến thanh sảnh.

Tuệ phi âm trên là tuệ Quách Phác chú giải rằng: Tuệ nhớ nghĩ tinh tường, đồng ý.

Tắc tái ngược lại âm trên sơ sắc, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tắc gọi là rất có lợi, sách vận lược cho rằng: Cái mân bày đầy vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Cày xới đất gieo trồng cấy lúa, chữ viết từ bộ điền đến bộ nhân đến bộ cửu cửu tức là núi cao nguy hiểm. Kinh thủ âm trên là kình văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ hai đã giải thích rồi. Vô dịch âm dưới doanh ích Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dịch là nhàm chán, sách Thuyết Văn cho rằng: Biếng nhác, chữ viết từ bộ phộc thanh dịch âm dịch đồng với âm trên, Văn Truyện viết từ bộ khiếm viết thành dịch là chẳng phải.

Tát môn âm trên mật Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cửa làm bằng cỏ, cửa rơm. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tất cũng là cỏ sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh tất.

Khuê đậu âm trên khuế huề sách Lễ Ký Nhu Hành giải thích rằng: Khoét màn che chắn ngang cửa lớn và cửa sổ, Trịnh Huyền màn che chắn ngang cửa lớn và cửa sổ, Trịnh Huyền chú giải rằng: Đậu là khoét lỗ hỏng, khe hở, theo chữ khuê đậu đó là thuộc cửa sổ nhỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng dưới bộ thổ âm đậu.

Huỳnh huỳnh ngược lại âm quý vinh Khổng An

Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Huỳnh là cô đơn.

Mao Thi Truyện cho rằng: Quỳnh là không có chỗ nương nhờ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tấn đến bộ quỳnh thanh tĩnh âm tấn là âm tín âm quỳnh ngược lại âm huyệt vinh.

Bẩm nhiên âm trên lâm cẩm Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Bẩm giống như cung kính. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bẩm là lo sợ nguy hiểm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh bẩm âm bẩm ngược lại âm bỉ cẩm.

Hội hội ngược lại âm hoài nội Thiên Thương Hoét cho rằng: Hội hội là loạn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh quý.

Tiểu nhuế âm dưới nhu nhuế Tự Lâm cho rằng: Nhuế là con ễnh ương ở dưới giếng, Cố Dã Vương cho rằng: Nhuế tức là loài côn trùng thích cắn người, gọi là ngậm nọc độc hại người sách Thuyết Văn cho rằng: Tần gọi là nhuế Sở gọi là vân âm vấn là âm văn âm nhuế đồng với âm trên.

Hôn mộng âm trên hồ côn Quảng Nhã cho rằng: Hôn loạn. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hôn là không biết gì, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh hôn âm dưới mặc bằng Mao Thi Truyện cho rằng: Mộng là mơ hồ, mê loạn, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Mộng mắt mơ hồ không rõ, chữ viết từ bộ tâm thanh mộng âm mộng đồng với âm trên.

Tao phách âm trên là tao âm dưới phổ mạc Hứa Thúc Trọng cho rằng: Tao là cặn rượu, Phách cũng là cặn bã của rượu đã lọc rồi còn lại cặn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tao phách hai chữ đều từ nghĩa cặn bã của rượu, còn dư lại, chữ viết đều từ bộ mễ đều thanh tao bạch.--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 8

Triệu doanh âm trên đúng là chữ triệu âm dưới là doanh tên người.

Canh ký âm trên cách mảnh sách Nhĩ Nhã cho rằng: Canh là cành cây thẳng. Đều Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh cánh âm dưới hoài ngãi Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ký là (889) thanh gạt ngang để đo lường. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc thanh ký.

Loa lũ âm trên lô qua theo chữ loa lũ đó là sắp xếp có thứ tự có trước có sau, theo sách Thuyết Văn cho rằng: Loa là tốt đẹp, chữ viết từ bộ kiến thanh loạn âm loạn là âm loạn âm dưới lung chủ Cao Tăng Truyện trong quyển thứ hai đã giải thích rồi.

Dụng khư âm trên đúng là chữ dụng sách Thuyết Văn cho rằng: Dụng là làm chữ viết từ bộ bốc trong vi bộ hoằng theo văn cổ hoặc là viết chữ dụng âm nghĩa đều đồng. Nay thông dụng viết chữ dụng âm dưới khước ngư Hàn Thi Truyện cho rằng: Khư giống như là bỏ đi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y thanh khứ.

Mân nga âm trên mật bân ngược lại âm dưới ngã ca theo chữ mân nga đó là tên riêng của núi sông. Xem Quận Quốc Chí, mân nga hai chữ đều tên của núi.

Chỉ trích âm trên đúng là chữ chỉ âm dưới đinh lịch sách Khảo Thanh cho rằng: Chỉ trích là vạch bày ra sự thật.

Tống vĩ âm trên là chữ tông sách Khảo Thanh cho rằng: Tông là con ngựa có đuôi chuột, cũng viết từ bộ mã viết thành chữ tông âm dưới là chữ vi âm lạp là âm lạp.

Khôi nhiên âm trên ngoại Ổi sách Thuyết Văn cho rằng: Khôi là núi cao, lổm chổm, không bằng phẳng, chữ viết từ bộ sơn thanh quỷ.

Thuyên cách âm trên là thuyên văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Bất lộc âm dưới nung cốc Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lộc là lọc bỏ đi hết nước cặn bã dơ, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh lộc.

Cự trừ yểm âm trên cự cư âm kế là trừ theo chữ cự trừ yểm đó là nay lấy cỏ khô làm chiếu tre làm nhà, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cự trừ là cỏ may, làm chiếu, âm phế là âm phế âm dưới là hàm Quảng Nhã cho rằng: Yểm là nhà. Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Yêm là nhà tranh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nghiểm thanh âm nghiểm là âm nghiêm.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 9

Luân tháp âm trên lô hồn âm dưới tham đáp Thích Danh cho rằng: Tháp tức là cái giường, hẹp mà dài. Tháp tức nay gọi là cái giường. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh tháp âm tháp đồng với âm trên.

Chấp thâu âm trên đúng là chữ chấp Tự Thư cho rằng: Chấp là cầm nắm giữ lấy, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kích đến bộ thiệp cũng là thanh âm kích là âm kích âm thiệp ngược lại âm nữ thiệp âm dưới thâu Bì Thương cho rằng: Thâu là đá mà lại giống như vàng mà chẳng phải vàng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim đến bộ thâu thanh tĩnh.

Quán thủ ngược lại âm trên quan uyển sách Thuyết Văn cho rằng: Quán là chậu rửa tay, chữ viết từ bộ cửu bộ thủy đến bộ mảnh chữ hội ý. Xem trước đã giải thích rồi, âm cửu là âm cúc.

Mạo trâm ngược lại âm trên mao bao Tự Thư viết đúng là chữ mạo Trịnh Tiễn chú giải sách Thượng Thư Đại Truyện rằng: Mạo là che đậy, Văn Tự Điển nói rằng: Mao là cái mũ cũng là để đội trên đầu, chữ viết từ bộ cân thanh mạo hoặc là viết từ bộ y viết thành chữ mao âm mao đồng với âm trên. Ngược lại âm dưới tập sâm Thiên Thương Hoét cho rằng: Cây trâm cài đầu, âm kế la âm kê sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng không phải chữ kê là cây trâm cài đầu, chữ tượng hình. Cũng từ bộ trúc viết thành chữ trâm âm trâm nghĩa cũng đều đồng. Văn Truyện viết chữ bề tục tự thường hay dùng.

Phi đạo âm dưới đạo Văn Truyện Bổn Nghĩa vốn hợp dùng chữ đạo, nghĩa phải trái không dùng. Nay hợp dùng từ bộ huyền viết thành chữ độc là thứ cờ ngày xưa có cắm lông chim chẳng phải bổn nghĩa này nên không lấy dùng.

Tĩnh lạc âm trên đúng là chữ tĩnh Chu Thư cho rằng: Hoàng đế ban đào giếng lấy nước, thế bổn cho rằng: Bá tánh Bách ích đào giếng, Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Làm thông giếng. Bạch Hổ Thông cho rằng: Nhân vì đào giếng bá tánh đến lấy nước nên làm chợ mua bán đổi chác cho nên nơi nào có chợ là có giếng nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Tám nhà làm một cái giếng, âm dưới lang các Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Lạc là sợi dây quấn quanh, chữ viết từ bộ mịch thanh các.

Khoa nhiếp âm trên khoa hóa văn trước quyển thứ tư đã giải thích rồi Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khoa gọi là bước qua vượt lên trên, sách Thuyết Văn cho rằng: Vượt qua, chữ viết từ bộ túc đến thanh khoa âm dưới niêm triếp âm niêm ngược lại âm ni chiêm sách Phương Ngôn cho rằng: Nhiếp là đi lên. Quảng Nhã cho rằng: Mang giày dép, sách Thuyết Văn cho rằng: Giẫm đạp lên, chữ viết từ bộ túc thanh niếp.

Ký lịch âm dưới là lịch sách Thuyết Văn cho rằng: Lịch là đá vụn, đá nhỏ, chữ viết từ bộ thạch thanh lạc.

Ô trì âm trên là ô sách Khảo Thanh cho rằng: Ao nước không chảy, chữ viết từ bộ thủy thanh ô.

Khào đoan âm trên khảo cao sách Khảo Thanh cho rằng: Khào là chỗ tận cùng của xương cốt ở mông đít, sách Thuyết Văn viết từ bộ thi thanh cửu âm dưới đúng là chữ đoan sách Thuyết Văn cho rằng: Đoan là thẳng, chữ viết từ bộ lập thanh đoan âm đoan đồng với âm trên.

Tu tập âm trên đúng là chữ tu âm dưới là xâm nhập Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tập gọi là sửa chữa thêm vào, bổ sung vào sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tập âm tập đồng với âm trên.

Liên manh âm dưới mạch canh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Manh là cái mè đóng trên rui nhà để móc ngói, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngõa đến bộ mộng thanh tĩnh.

Tánh du âm sửu hộ họ người.

Xuân sân ngược lại âm trên lặc luân âm dưới sắc trân tên họ người.

Đàn khê âm trên đường hàn sách Quân Quốc Chí cho rằng: Tên Nhương Châu Khê âm dưới từ bộ thủy viết thành chữ khuê tục tự thường hay dùng. Âm dưới đúng là chữ khê sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy không có cống rãnh gọi là khê, tức là nước chảy, gọi là khê chữ viết từ bộ cốc thanh khê Văn Truyện viết âm trên là đàn là sai, từ bộ ế viết thành chữ đàn là chẳng phải, âm dưới từ bộ thủy viết thành chữ hề tục tự thường hay dùng.

Bái chú âm trên nôi bối Văn Tự Tập Lược cho rằng: Bái là mưa lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ thanh bái âm bái là âm bối.

Nghịch lưu âm trên tô lộ sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy ngược dòng trở lên, âm trên gọi là nghịch từ bộ thủy thanh nghịch âm nghịch là âm xích.

Tuệ hằng ngược lại âm dưới ca đặng danh tăng.

Vũ pháp ngược lại âm vu vũ tên của pháp sư, Thiên Thương Hoét cho rằng: Vũ là giống như thuần hào Trịnh Huyền chú giải Lễ Ký rằng: Phổ khắp sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh vũ.

Thiện sư âm trên xương diễn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thiện là sợi dây dài rộng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thiện giống như sợi dây nịt, thắt lưng, chữ viết từ bộ mịch thanh thiện âm thiện là âm thiện.

Bản đảng ngược lại âm trên ban giản Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Bản nay gọi là mục lục sách sổ hộ tịch, tự ghi ngày sinh, tháng đẻ lên trên sổ sách, danh sách đến đăng ký ghi vào hằng vạn người, Văn Tự Điển viết từ bộ phiến thanh phản Văn Truyện hoặc là viết chữ sư là sai, âm dưới đường đảng Tự Thư cho rằng: Viết đúng từ bộ manh viết thành chữ đảng sách Khảo Thanh cho rằng: Đảng giống như là trừ bỏ, theo chữ bản đảng đó là giống như trừ bỏ bộ sổ hộ tịch. Xóa bỏ tên họ trong bộ sổ.

Nghê thường ngược lại âm trên nghệ kê Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nghê đó ráng mây có màu sắc, giống như là rồng, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cầu vồng gọi là nghê, cong lên bầu trời chữ viết từ bộ vũ đến nhi thanh tĩnh nói nghê thường đó là thần tiên bay đi áo phất phơ như cầu vồng có màu sắc.

Vô sướng âm dưới sương lượng sách Thuyết Văn cho rằng: Sướng là sáng sủa hơn vượt qua, chỗ cao thoáng Văn Truyện viết chữ sách viết sai.

Điền du ngược lại âm trên điện niên Cố Dã Vương cho rằng: Săn bắt cầm thú trong đầu ruộng du điền tên gọi chung giăng lưới bắt giữ cầm thú, sách Thuyết Văn viết từ bộ phộc thanh điền.

Ung hí ngược lại âm ung cung Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ung đó dâng thức ăn đã nấu chín, phàm là người khách không nhiều dâng thức ăn đem đến phải che đậy lại gọi là lễ, sách Thuyết Văn cho rằng: Thức ăn nấu chín, chữ viết từ bộ thực thanh cung Trụ Văn viết từ bộ cung viết thành chữ cung âm dưới hy ký Trịnh Huyền hy ký Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Biếu tặng con vật đã giết rồi gọi là hy Bì Thương cho rằng: Biếu tặng thức ăn, Tự Thư cho rằng: Dâng thức ăn bậc trên. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh khí.

Tư phù ngược lại âm trên tá tư Mao Thi Truyện cho rằng: Tư gọi là giăng lưới săn bắn thỏ, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tư giống như là lưới che trùm lên. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Lưới bủa bắt thỏ, chữ viết từ bộ võng thanh thư âm dưới phụ mưu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giăng lưới bắt thú gọi là phù sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ võng thanh bồi Văn Truyện viết chữ phù là chẳng phải.

Tăng chước âm trên tắc tăng Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Lấy dây buộc vào mũi tên bắn đi gọi là tăng chữ tăng từ bộ thỉ hoặc là viết từ bộ vũ viết thành chữ tăng tăng là buộc mũi tên bảy phần ba phía trước, còn bốn phần phía sau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thỉ thanh tăng âm dưới dương nhược Cố Dã Vương cho rằng: Chước là sợi dây buộc mũi tên vào cây cung, sách Thuyết Văn cho rằng: Dưới tức sợi tơ sống sợi chỉ dài, chữ viết từ bộ mịch thanh kích âm kích, âm kích là âm dược lại cũng viết chữ chước âm mịch là âm mích âm lủ ngược lại âm long chủ.

Nguyên chiếu âm dưới diệu chiếu tên của bậc sư phụ cao tăng tuệ, âm bậc ngược lại âm bì mật.

Thoát sĩ âm dưới sư nhĩ Mạnh Tử cho rằng: Nhìn thiên hạ bỏ đi như là bỏ giày dép dưới chân, nghĩa cởi bỏ giày dép, sách Khảo Thanh viết chữ sĩ tức là thực dép cỏ, không giữ lấy gót chân, cũng là từ bộ cách viết thành chữ sĩ sách Thuyết Văn viết chữ sĩ là thuộc giày dép, chữ viết từ bộ túc thanh lệ.

Cổn miên âm trên cổ bổn sách Chu Lễ cho rằng: Lễ phục của tiên vương. Trịnh Chúng chú giải rằng: Cổn là áo thêu rồng Trịnh Huyền, Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Áo đen mà lại thêu rồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là áo thêu rồng, vạt áo dưới thêu chữ phúc có một con rồng uốn khúc, từ dưới lên trên, chữ viết từ bộ y thanh công âm dưới mi biện Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Miễn là trên đầu có trang sức, sách Thuyết Văn viết từ bộ viết thanh miễn âm viết là âm viên.

Dung phạm âm trên dục chủng ngược lại âm dưới phạm thuyên Hán Thư cho rằng: Giống như kim loại ở trong lò đúc chỗ đập giả, duy trì thiết chì, sách Thuyết Văn cho rằng: Dung là lò đúc dụng cụ, làm cho đồng tiêu chảy thành khuôn đúc, chữ viết từ bộ kim thanh dung.

Triêm khối âm trên chiêm Ngọc Thiên cho rằng: Loại cỏ làm nhà, Cố Dã Vương cho rằng: Nhà giống như có tang gọi là lấy cỏ che làm nhà, sách Lễ Ký cho rằng: Gọi là lúc có tang cha mẹ. Ngày xưa lúc có tang cha mẹ dùng cỏ khô đan thành chiếu, dùng hòn đất làm gối, bày tỏ sự đau khổ, Văn Tự Điển nói: Lấy cỏ khô làm chiếu, chữ viết từ bộ thảo thanh xâm cùng với Văn Truyện viết chữ triêm nghĩa lược đều đồng, sâm triêm đều đồng âm âm tịch ngược lại âm tình dạ ngược lại âm dưới khô ngoại sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh khảm âm khảm ngược lại âm khẩu phạm hoặc là viết chữ khối đều đồng âm.

Nhẩm nhiễm âm trên nhâm tẩm âm dưới nhi diễm sách Vận Lược cho rằng: Nhẩm nhiễm là loại cơ có màu sắc, theo chữ nhẩm nhiễm như nay là lãng phí thời gian, lần lựa qua ngày, sách Thuyết Văn cho rằng: Theo chữ nhẩm nhiễm chữ viết từ bộ thảo thanh nhậm chữ nhiễm từ bộ thảo thanh nhiễm âm chu đồng âm thảo là âm thảo. Chương phủ âm trên chước dương Hán Thư cho rằng: Chương là tên của sông. Sông chương có hai: Một là thanh chương; hai là trọc chương. Sông Trọc chương xuất phát từ thượng nguồn sông Đặng Trường Tử, huyện Lộc Cốc hang núi phía đông đến huyện Nghiệp chảy vào sông Thanh Chương, sông này nước thường nóng nhiệt, cho nên gọi là phủ thủy tức nước sôi. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh phủ âm hổn ngược lại âm hồ bổn.

Viêm nhục âm trên chữ viêm sách Thuyết Văn giải thích viêm là lửa cháy lan. Theo ngọn lửa cháy ngùn ngụt, cho nên sách Nguyệt Lịnh giải thích rằng: Thần lửa của vua Diêm Đế thâu lấy bao vây làm mền. Sách Ngọc Chúc Bảo Điển nhục thâu là nước đồng sôi rót vào. Theo chữ viêm nhục tức là lửa thiêu đốt từ mùa hạ đến mùa thu, gọi là viêm nhục, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhục là bay cỏ khô thiêu đốt mầm cỏ tươi mới mọc, chữ viết từ bộ thảo thanh nhục Trục Văn viết từ bộ mang âm mang là âm mang.

Phó yên âm trên phù vụ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Phó là đến. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh bốc Tự Thư cũng viết từ bộ tẩu viết thành chữ phó lại cũng từ bộ túc viết thành chữ phó hoặc là từ bộ xước viết thành chữ phó âm nghĩa đều đồng.

Mạo ngạn âm trên viên bao Mao Thi Truyện cho rằng: Mạo là tuấn tú, dung mạo đẹp đẽ, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trong giới kẻ sĩ gọi là tuấn giống như là râu tóc. Quảng Nhã cho rằng: Râu tóc nhiều người to lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tiêu thanh mao âm tiêu ngược lại âm tất tiêu ngược lại âm dưới ngôn kiến Bì Thương cho rằng: Ngạn là kẻ sĩ tài giỏi. Thống Tự cho rằng: Kẻ sĩ khéo léo có tài, văn chương lỗi lạc, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kẻ sĩ văn vẻ trau chuốt đẹp đẽ gọi là ngạn sách Thuyết Văn viết từ bộ văn thanh hán âm hán là âm hán chữ văn đúng là chữ văn từ bộ sam đến bộ văn âm sam là âm sam.

Thường sổ âm dưới là sở sách Hoài Nam Tử giải thích rằng: Núi tuyết có cây cột trụ kê lên chống thấm ướt. Hứa Thúc Trọng cho rằng: Người nước Sở gọi đá kê chân cột là sở xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thạch thanh sở âm tích là âm tích theo chữ sổ tức là đá để neo thuyền khi đỗ bến, âm đĩnh là âm đinh ninh.

Tông hạt âm dưới nhàn tiết Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ khiên theo Tả Truyện cho rằng: Chốt đầu trục xe chỗ vô dầu mỡ cho trơn. Theo Thanh Loại cho rằng: Chỗ mấu chốt dẫn dắt chiếc xe, sách Thuyết Văn cho rằng: Trục thẳng chỗ mấu chốt dẫn chiếc xe, chữ viết từ bộ suyển suyển tức là chống trái lại với nhau, chữ hội ý Văn Truyện viết từ bộ xa viết thành chữ hạt nay thông dụng viết (890) từ bộ kim viết thành chữ hạt lại cũng viết chữ tiết âm nghĩa đều đồng.

Huyên náo âm trên là huyên sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng là huyên từ bộ ngôn thanh quán âm quán là âm quán Văn Truyện viết từ bộ huyên viết thành chữ huyên hoặc là từ bộ khẩu viết thành chữ huyên đều tục tự thường hay dùng. Ngược lại âm dưới ninh giáo sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân đến bộ thị chữ hội ý Văn Truyện viết chữ náo tục tự thường hay dùng.

Sạn tích ngược lại âm trên tế nhãn Quảng Nhã cho rằng: Sạn là tước gọt vót nhọn, thanh Loại cho rằng: san bằng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh tàn âm tàn là âm tàn.

Củ chưng âm trên củ ngu Quảng Nhã cho rằng: Củ giống như là phép tắc khuôn mẫu. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh cầu âm dưới là chữ dưng chữ thượng thanh. Ngọc Thiên viết từ bộ cũng viết thành chữ thăng sách Bát-nhã giải thích Thăng là nhổ lên, Quảng Nhã cho rằng: Thâu, tóm thâu, sách Thuyết Văn cho rằng: thăng là giơ cao lên chữ viết từ bộ thủ thanh thăng.

Lâm lộc âm dưới long đốc trung hữu chú giải sách Lễ Ký rằng: Lộc là rừng dưới chân núi, sách Thuyết Văn viết từ bộ lâm thanh lộc.

Yểm cách âm dưới canh ngạch Lý Lâm Phủ chú giải sách Nguyệt Lịnh rằng: Xương khô gọi là cách sách Thuyết Văn cho rằng: Xương cầm thú gọi là cách chữ viết từ bộ cốt thanh cách.

Đệ thăng âm trên đế lễ sách Thuyết Văn viết từ bộ xước đến thanh sĩ âm sĩ là âm đại y văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Ky quyệt ngược lại âm trên phàm y âm dưới quyên duyệt Trịnh Tiến chú giải sách Luận Ngữ rằng: Quyệt giống như dối trá. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Quyệt là không thẳng thắn, nói lời không thật, sách Thuyết Văn cho rằng: Khinh khi kẻ dưới, chữ viết từ bộ ngôn thanh quyết âm duật ngược lại âm quỷ duật.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 10

Cố miến ngược lại âm trên cổ lộ Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cố giống như quay lại nhìn, Thiên Thương Hoét cho rằng: Con mắt nhìn quanh. Quảng Nhã cho rằng: Hướng theo, sách Thuyết Văn cho rằng: Quay đầu nhìn lại, ngoáy lại nhìn, chữ viết từ bộ hiệt thanh cố âm cố đồng với âm trên, âm dưới miên điền sách Thuyết Văn cho rằng: Niếm giống như liếc nhìn, chữ viết từ bộ mục thanh âm miến là âm miên biến Văn Truyện viết chữ miến tục tự viết sai.

Đào bính âm trên là đào âm trên là đào Quảng Nhã cho rằng: Đào trốn tránh, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiêu mất, chữ viết từ bộ xước thanh đào Văn Truyện viết chữ đào tục tự thường hay dùng. Âm dưới bách mảnh Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Bính là chạy tán loạn. Tự Thư cho rằng: Cũng là chữ viết từ bộ túc viết thành chữ bính bính giống như là chạy lung tung. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xước thanh bính.

Tự sủy âm dưới sơ ủy sách Thuyết Văn cho rằng: Sủy là đánh giá đo lường, chữ viết từ bộ thủ thanh đoan âm đoan là âm đoạn.

Tề tiêu âm dưới bỉ miêu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tiều giống như là hàm thiết, Quách Phác chú giải rằng: Hàm thiết ngựa đặt một bên miệng ngựa, như dây cương, sách Khảo Thanh cho rằng: Tiêu là cái máng cho ngựa uống nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiêu là hàm thiết ngựa, chữ viết từ bộ kim thanh bao âm bao cũng là từ bộ giác viết thành chữ tiều âm nghĩa đều đồng với âm trên, Văn Truyện viết chữ tiều tục tự thường hay dùng.

Kiếm hạch âm dưới hành cách sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cuống lông chim gọi là hạch Quách Phác chú giải rằng: cuống lông chim, sách Thuyết Văn cho rằng: Cọng lông chim, chữ viết từ bộ vũ thanh cách âm cách là âm cách.

Tùy hán ngược lại âm trên tùy quy Quảng Nhã cho rằng: Tùy là theo đuổi theo, sách Khảo Thanh Thiết Vận cho rằng: Tùy là tên của nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh tuy âm tùy đồng với âm trên. Theo chữ tùy đều là tên nước.

Tinh vụ âm trên đúng là chữ tinh sách Thuyết Văn cho rằng: Tinh là đều nhau, bằng nhau, chữ viết từ hai bộ lập vu phó Mục Thiên Tử Truyện cho rằng: Vụ là ngựa chạy mau phi nhanh, Quảng Nhã cho rằng: chạy loạn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh vu âm vụ là âm vũ.

Kình nghê ngược lại âm trên cạnh nghinh sách Hoài Nam Tử cho rằng: Kình là cá voi, xem thấy sao chổi là cá xuất hiện. Thống Tự cho rằng: Kình là cá lớn trong biển. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Kình con cá lớn trong biển chữ viết từ bộ ngư thanh cũng từ bộ kình viết thành chữ kình tục tự thường hay dùng. Âm dưới nghệ kê Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Kình nghê là con cá to lớn, Cố Dã Vương cho rằng: Con cá lớn ăn con cá bé, sách Thuyết Văn cho rằng: Là con cá lạt có nhỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngư thanh nghê âm nghê đồng với âm trên.

Tư siểm âm trên đúng là tư âm dưới siểm viêm Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Siểm là nhìn trộm. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siểm là dòm ngó hậu hạ, sách Thuyết Văn viết từ bộ kiến thanh chiêm.

Chiết đông âm trên chiên nhiệt Thống Tự cho rằng: Sông Chiết Giang xuất phát từ quận hội kê, sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng là tên sông. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh chiết.

Để khoáng âm trên chỉ văn trước quyển thứ bảy đã giải thích rồi, âm dưới hổ mãnh Quảng Nhã cho rằng: Thiết đồng quặng còn nguyên chất gọi là khoáng sách Thuyết Văn cho rằng: Khoáng là đồng thiết nguyên chất chữ viết từ bộ thạch thanh khoáng lại cũng viết chữ quan âm đồng với âm trên.

Đông âu âm dưới điểu hầu Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Nay đến huyện Vĩnh Nĩnh gần bãi biển. Tức là biển Đông Âu, phía bên trái của biển, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngõa thanh âu âm đồng với âm trên.

Tông tích âm dưới tinh lịch theo Thanh Loại cho rằng: Tích là chứa công đức sức lực. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tích là chứa nhóm. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lực thanh tích.

Đồng sấn âm dưới sơ cận sách Thuyết Văn viết từ bộ xỉ thanh thất văn trước Cao Tăng Truyện đã giải thích rồi, trong quyển thứ hai.

Giam tỵ âm trên cổ hàm văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ tám đã giải thích đầy đủ rồi, âm dưới manh tỷ âm manh là âm mặc băng Cố Dã Vương cho rằng: Mặc là yên tĩnh không có tiếng ồn ào, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh mặc Tự thư cũng viết từ bộ viết viết thành chữ mặc âm đồng với âm trên.

Tỉ thư âm trên tư tử trong quyển thứ nhất trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Hữu huỳnh âm dưới huỳnh định sách Dương Tử Vân Cam Tuyền Phú cho rằng: Giống như là nước chảy yếu trong suốt thấy đáy, sách Văn Tự Điển cùng với Ngọc Thiên đều đồng viết từ bộ thủy thanh huỳnh.

Luyến tích âm trên liệt viên theo Thanh Loại cho rằng: Luyến là bệnh. Cố Dã Vương cho rằng: Luyến gọi là thân thể co quắp lại cong rút lại, sách Khảo Thanh cho rằng: Bệnh tay chân, Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ tật thanh luyến Tự Thư cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ viết thành chữ luyến hoặc là viết từ bộ suyển viết thành chữ luyến âm nghĩa đều đồng, Văn Truyện viết từ bộ túc viết thành chữ luyến tục tự viết chẳng phải. Âm dưới tinh tích sách Vận Lược cho rằng: Chân bị què không thể đi được. Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là chân nghiêng lệch teo khô. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ túc thanh tích sách Thuyết Văn cho rằng: Đúng là từ bộ chỉ viết thành tích âm nghĩa đều đồng.

Cố tật âm trên là cố sách Thuyết Văn viết đúng từ bộ cổ viết thành chữ cố sách Lễ Ký cho rằng: trên thân có tật bệnh, văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ chín đã giải thích đầy đủ rồi.

Át xỉ âm trên là ác âm dưới xỉ giác Ứng Thiệu chú giải sách Sử Ký rằng: Át xỉ là thúc bách gấp gáp. Lại gọi là người dân đen nắm chặt vào quá vội vàng nghiệp lực, ma nghiệp, Bì Thương cùng với Thanh Loại đều cho rằng: Bức bách, gấp gáp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh ác âm dưới xỉ xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh xỉ cho nên Hán Thư cho rằng: Át xỉ là dáng vẻ gấp gáp vội vàng.

Trịch khuynh âm dưới hồ các Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: hạc là cho cạn kiệt, khô cạn Tự Thư cho rằng: Khô sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh cố.

Chung lũ âm dưới cụ canh Mao Thi Truyện cho rằng: Chung lũ là rất nghèo hèn, Văn Truyện cho rằng: Lục giống như là không có lễ nghĩa, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nghèo khổ Tự thư cho rằng: Trống rỗng, sách Thuyết Văn viết từ bộ huyệt thanh lũ âm lũ là âm lậu.

Tầng nghiển âm trên tằng lăng Quách Phác chú giải kinh Sơn Hải rằng: Tằng là nhiều tầng lớp, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Liên lụy với nhau nối liền với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Tằng là nhà nhiều tầng, chữ viết từ bộ thi thanh tằng âm dưới ngôn kiển Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nghiển là núi nhỏ nằm trên ngọn lớn, liền nhau, gọi là nghiển. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: đồng nghĩa chữ viết từ bộ sơn thanh hiến.

Kỹ nghi ngược lại âm trên chi củ di Mao Thi Truyện cho rằng: Kỹ nghi là biết ý, Trịnh Huyền, Trịnh Tiễn cho rằng: Kỹ nghi là ý tự nhiên có chỗ biết, sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh kỹ chữ kỹ viết đúng từ nửa bộ trúc âm dưới ngưng cước Mao Thi Truyện cho rằng: Nghi là nhận biết Trịnh Huyền, Trịnh Tiễn cho rằng: Nghi là tự nhiên có chỗ biết phân biệt, sách Khảo Thanh cho rằng: Nghi là đứa trẻ sinh ra biết tự nhiên mà có biết sách Thuyết Văn cho rằng: Đứa trẻ nhỏ biết tự nhiên, chữ viết từ bộ khẩu than nghi Văn Truyện viết từ bộ sơn viết thành chữ nghi là chẳng phải lại viết chữ nghi âm đồng với âm trên.

Hào hàm âm trên hiệu giao Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: hào là núi lấp bít vùng đất yếu hiểm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hào hàm là núi ở huyện Mãnh Trì phía tây, sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh hào âm dưới là hàm Ban Cố Tây Đô Phú Truyện cho rằng: Ở phía trái Cự Hàm Cốc có hai núi cản trở, sách Thuyết Văn viết từ bộ cung thanh thích âm cung ngược lại âm ha cảm sách Khảo Thanh cho rằng: Hàm là tên vùng quan ải.

Tinh uyên âm trên là tịnh âm dưới y huyền danh tăng. Văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ hai đã giải thích rồi.

Uyển nhãn âm trên ô hoàn Bì Thương cho rằng: Uyển giống như tước vót gọt, Quảng Nhã cho rằng: Cũng đồng nghĩa, Bì Thương cho rằng: Viết đúng từ bộ đao viết thành chữ uyển sách Thuyết Văn cho rằng: Uyển là chọn lựa chữ viết từ bộ đao thanh tử âm tử là âm uyển tục tự thường hay dùng.

Tăng trù âm dưới trực lưu danh tăng.

Đình kích ngược lại âm trên định ninh Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Đình là tiếng nổ sấm sét nhanh Thiên Thương Hoét cho rằng: Tiếng sấm sét chớp Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Đình là tiếng sấm nổ điện chớp, chữ viết từ bộ vũ thanh đình.

Trách ải âm trên tranh cách Bì Thương cho rằng: Theo luật định viết chữ trách tức là chật hẹp, bức bách Tự Thư viết đúng từ bộ trúc viết thành chữ trách Trịnh Chúng giải thích sách Chu Lễ rằng: Trách là vùng biên ải chật hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ trách từ bộ trúc thanh sạ sách Khảo Thanh cùng với Thanh Loại cho rằng: Chữ viết từ bộ huyệt viết thành chữ trách gọi là chật hẹp, nhỏ hẹp. Lại viết chữ trách âm đồng với âm trên. Âm dưới ách giới Quảng Nhã cho rằng: Củ là hẹp Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ải là nơi biên giới nguy hiểm, chật hẹp, Cố Dã Vương cho rằng: Ải giống như bức bách. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ phụ thanh ích cũng từ bộ ách viết thành chữ ải tục tự thường hay dùng.

Tự chích âm dưới chinh thạch văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ mười đã giải thích đầy đủ rồi.

Nhân phế âm trên ế trân Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nhân là chìm đắm đọa lạc, rơi xuống sách Thuyết Văn cho rằng: Chìm chữ viết từ bộ thủy thanh chân âm nhân là âm nhân Văn Tự Tập Lược và Vệ Hoằng đều viết từ bộ thủy thanh nhân xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân âm đều đồng.

Tiện nhĩ ngược lại âm dưới nhi chí Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nhĩ là xẻo tai Quảng Nhã cho rằng: Nhĩ là cắt xẻo bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhĩ là cắt bỏ tai, chữ viết từ bộ đao thanh nhĩ.

Hầu lạp âm trên hầu cấu đều Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thực viết thành chữ hầu Văn Tự Tập Lược cho rằng: Hầu là thức ăn khô. Sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ hầu gọi là lương thực, âm dưới lập Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Gạo làm thức ăn gọi là lạp sách Thuyết Văn cho rằng: Lạp tức là hạt gạo, chữ viết từ bộ mễ thanh lập âm kham ngược lại âm tam cảm Văn cổ viết từ bộ thực viết thành chữ lạp âm đồng với âm trên.

Chiên trang âm dưới trang trạng chữ khứ thanh Hứa Thúc Trọng giải thích rằng: Trang giống như bó buộc, sách Thuyết Văn cho rằng: Trang là gói vào bên trong, chữ viết từ bộ y thanh trang.

Cứ ngạo âm trên cứ ngự Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cứ là kiêu ngạo Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Cứ là không cung kính, sách Thuyết Văn cho rằng: Cứ là không khiêm nhường, chữ viết từ bộ nhân thanh cứ âm dưới ao cáo Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Ngạo mạn phóng đãng. Quảng Nhã cho rằng: Khinh nhờn, sách Thuyết Văn cho rằng: Cứ viết từ bộ nhân đến bộ ao thanh ao ao viết đúng chữ ao. Yên hàm âm trên yến kiên Thiên Thương Hoét cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu viết thành chữ yên cùng với chữ yên là cuống họng. Theo Thanh Loại cho rằng: Yết hầu, đều Khảo Thanh cho rằng: Cũng từ bộ nhục viết thành chữ yên gọi là yết hầu. Văn cổ viết từ bộ khẩu viết thành chữ yên âm đều đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là cuống họng chữ viết từ bộ khẩu thanh nhân âm dưới hàm cảm gọi là má. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh hàm âm ích là âm ách âm di là âm di âm hiệt là âm hiệt.

Tăng nhiếp đạn âm trên chiêm diệp Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhiếp là e sợ lo sợ sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh nhiếp âm dưới đàn thư Trịnh Huyền Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Đạn là sợ sệt Quảng Nhã cho rằng: Kiêng kỵ xấu ác chữ viết từ bộ tâm thanh đan.

Hùng kiệt âm dưới kiền nghiệt Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kiệt là người kiệt xuất hơn ngàn người sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh kiệt âm kiệt đồng với âm trên.

Giang thần âm dưới thuận xuân Mao Thi Truyện cho rằng: Thần là bến nước, chỗ tàu thuyền đậu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh thần âm kiêm ngược lại âm nghiêm liễm.

Kháp chu quan âm trên khẩu giáp, (891) sách Thuyết Văn cho rằng: Kháp là dụng tâm vừa vặn, thích hợp đúng lúc, lại cũng gọi là thỏa đáng, các chữ trong sách đều không có chữ này.

Chinh cổ âm trên chích doanh Mao Thi Truyện cho rằng: Chinh giống như cái chiêng, lấy sự yên tỉnh, Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công Ký rằng: Cái chuông gọi là chinh sách Thuyết Văn cho rằng: Chinh là cái chập chả, chữ viết từ bộ kim thanh chinh ngược lại âm dưới cô ngọ Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tiếng trống, chữ viết từ bộ đậu thanh phộc từ bộ bán đến bộ trúc âm đậu là âm trúc cú.

Trạm lộ ngược lại âm trên trạch giảm Mao Thi Truyện cho rằng: Trạm là dày đặc tràn trề, chỉ sương móc nhiều sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy đến thanh thậm âm dưới lộ Hàn Thi Ngoại Truyện cho rằng: Lộ là sương che phủ, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Lộ là sương thấm ướt, gọi là nước dịch yêu chỗ vạn vật, chữ viết từ bộ vũ thanh lộ. Hy thần âm trên hứa y Mao Thi Truyện cho rằng: Hy là khô ráo.

Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhật thanh hy.

Ế vu ngược lại âm trên anh nghệ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ế là chôn giấu Quách Phác chú giải rằng: Ế gọi là cất giấu vật nhỏ nơi u tối, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh thổ âm hiệp là âm hiệp Văn cổ viết chữ ế âm nghĩa đều đồng.

Hàm tước âm dưới tương tước Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tước là nhai, Quảng Nhã cho rằng: Tước giống như cho ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Cắn mút, chữ viết từ bộ khẩu thanh tước chữ tước viết đúng là chữ tước.

- Độc Cao Tăng Truyện quyển thứ hai từ quyển thứ sáu cho đến hết quyển thứ mười.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 93

- Độc Cao Tăng Truyện từ quyển thứ mười một cho đến hết quyển thứ mười sáu.

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 11

Kỹ tử âm trên khởi tên cây. Kinh Sơn Hải giải thích: Phía đông trên núi ban đầu có loại cây này, hình trạng giống như cây dương, mà màu đỏ, lá bên trong ra nước như máu. Tên không có thật gọi là kỹ âm dưới tư tử tên của cây ở phương Nam. Cây tương tử sơn có thể làm cây đàn, đều Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc chữ hình thanh.

Kình phong âm trên cạnh nghinh theo Tả Truyện cho rằng: Kình là kẻ địch, đối địch sách Thuyết Văn cho rằng: Cường địch. Mai Thương Kiện, Quảng Nhã cho rằng: Chữ viết từ bộ lực thanh kinh.

Trữ linh âm trên trừ lữ Tự Cảnh giải thích Trữ là đứng đợi lâu, hoặc là viết chữ trữ giải thích đều đồng, âm dưới lực đinh Vận Thuyên cho rằng: Linh là nghe. Hoặc là viết từ bộ lập viết thành chữ linh thanh linh.

Cực động âm trên căng lực sách Thuyết Văn viết từ bộ nhị người xưa viết từ bộ khẩu đến bộ hựu sách Vận Anh cho rằng: Rất gấp gáp, vội vàng, giữa trời đất, người nơi tay, miệng rất vội vàng, chữ hội ý.

Tự sủy ngược lại âm trên sơ ủy gọi là trừ bỏ, đánh giá, đo lường, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh đoan.

Tề tiêu ngược lại âm biểu miêu nay gọi là hàm thiết ngựa đặt bên miệng con ngựa, Văn Truyện viết từ bộ mã viết thành chữ tiêu là chẳng phải.

Quỳnh cổ ngược lại âm huyết huyện sách Khảo Thanh cho rằng: Xa xôi mong ngóng, tìm cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân đến bộ mãnh thanh mân âm tứ là âm dinh âm mân là âm huynh vực.

Vương cảm ngược lại âm thoán viên sách Thuyết Văn cho rằng: Cảm là mũi tên nhỏ bén nhọn, ngẩng cao đầu, chữ viết từ bộ chi bộ công âm quy ngược lại âm quyết quy.

Chỉ lệ âm trên là chỉ âm dưới lệ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Chỉ là đá nhuyễn lệ đều là đá mài dao. Kinh Sơn hải giải thích rằng: Loại đá này xuất phát và có nhiều từ núi Yểm Tư.

Hữu huỳnh ngược lại âm huỳnh định nước lóng rất trong.

Luyến tích ngược lại âm lực truyện ngược lại âm dưới ti diệc cái chân không thể đi được, văn trước đã giải thích rồi.

Kỳ châu âm trên là kỳ.

Tằng nghiển âm trên tặc lăng âm dưới ngôn kiển núi cao chót vót, núi nhỏ nằm trên ngọn núi lớn.

Hào hàm âm trên hộ giao âm dưới là hàm.

Tự chích ngược lại âm chinh diệc đất bít lấp, ùn tắt nghẽn. Mi âm mi tên huyện.

Trác lạc ngược lại âm lực trác sách Khảo Thanh cho rằng: Dáng cao hơn người, nói là người anh kiệt, tuấn tú, tài hoa hơn người.

Hùng cảm ngược lại âm hồ lãm Ngọc Thiên trích dẫn Mao Thi Truyện rằng: Cảm là ngu muội, chữ viết từ bộ tâm thanh cảm.

Thường vị ngược lại âm lê chí sách Khảo Thanh cho rằng: Đến, chữ viết từ bộ thảo thanh vị.

Giang thần ngược lại âm thuận xuân sách Vận Anh cho rằng: Bến nước. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trên bến nước có gò đất bằng phẳng mà dưới có nước sâu đó gọi là thần không phát ra tiếng nước chảy, chữ viết từ bộ thủy thanh thần.

Chỉ bạc ngược lại âm bác mạc Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Bạc là dừng, đỗ bến, ở trong nước có thể ở, dừng nghỉ, cập bến đó gọi là chữ viết từ bộ thủy thanh bạch.

Chinh cổ âm trên chi doanh Mao Thi Truyện cho rằng: Chinh giống như cái trống không đánh yên tĩnh, làm cho động lên, tức là đánh trống gióng chuông, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái chuông, chữ viết từ bộ kim thanh chính.

Chủ vĩ âm trên là chủ con hươu cái đuôi có thể làm phất trần, cái đuôi con hươu giống như đuôi con nai, lấy làm trang sức có cán cầm quắt bụi, gọi là chủ vĩ âm Giảng Luận cho rằng: Đàm luận phải nắm lấy cốt cán.

Ủy phu ngược lại âm phù phó cùng với chữ phụ đồng âm. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Gọi là tặng biếu đồ vật cho người chết như là nhà, quần áo, giúp đỡ vật không đủ, quy về người đã chết, gọi là viên là thuộc về biếu tặng người sống. Biếu tặng người chết đó là phù âm phong ngược lại âm phong phúng sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh phù.

Ế Vu ngược lại âm ư kế sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tế trời gọi là phiên đốt củi đất gọi là ế cất giấu Quách Phác chú giải rằng: Cất giấu nơi u tối, ế là chôn giấu dưới đất.--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 12

Cung huy ngược lại âm hủy vi Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Chỉ bên tả, bên hữu gọi huy, tức là chỉ huy, chữ hình thanh.

Khác thận ngược lại âm khang các sách Vận Anh cho rằng: Cung kính, hoặc là viết chữ khác đều đồng.

Xác pháp sư ngược lại âm khang giác âm khang ngược lại âm khả giang các hoặc là viết cao bức sách Vận Anh cho rằng: Kiên cố chắc chắn, xác định không dời đổi.

Hoán hạch âm trên đoán loạn ngục quyết đoán, âm dưới hành sách Hán Thư cho rằng: Tra xét thẩm định tội nhân, tra hạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Khảo sát sự thật, chữ viết từ bộ á âm á là nha giả thanh kích âm kích là âm kích.

Hằng công ngược lại âm trên võng đặc sách Vận Anh cho rằng: Hằng là khô ráo, chữ hình thanh cũng kiêm luôn chữ hội ý.

Thương xác âm giác Cố Dã Vương cho rằng: Xác là đánh giá, đo lường.

Đào bổ âm trên đào âm dưới phổ đều từ bộ thủy.

Chiếu thước âm dưới thương chước Quách Phác chú giải rằng: Thước là ánh sáng tóe ra sáng lòa, chữ hình thanh.

Hiếu khải ngược lại âm khai cải sách Vận Anh cho rằng: Tên Chấn Lữ Lạc.

Triệt thiện ngược lại âm trên sĩ liệt sách Vận Anh cho rằng: Dùng tay rút bỏ đi, trừ đi, chữ viết từ bộ thủ chữ hình thanh.

Tuệ bính ngược lại âm binh mảnh âm mảnh ngược lại âm minh bính hoặc là viết chữ bính là chiếu sáng, tên người.

U trách âm dưới sài trách u gọi là sâu xa, thâm u, chữ viết từ bộ di âm di là âm di.

Âu y ngược lại âm khẩu hầu sách Lễ Ký cho rằng: Hai vén áo lên sách Khảo Thanh cho rằng: Cũng là vén áo, chữ viết từ bộ thủ.

Truyện tể âm tải tên người âm dưới tê là việc, sự việc.

Bái nhiên âm phối sách Khảo Thanh cho rằng: Bái là mưa dầm.

Trắc tịch âm trên trắc Tự Thư cho rằng: Rõ ràng minh dương trắc lậu, rộng cầu người hiền.

Tri trù ngược lại âm trên trường tri hoặc là trù ngược lại âm trường lưu âm dưới trường chu hoặc là viết chữ trù ngược lại âm trường ư hai chữ này mỗi chữ đều hai thể thông dụng, đều Khảo Thanh cho rằng: Bồi hồi, nghi nhỏ, chưa thẩm định không bước tới, đều từ bộ túc chữ hình thanh.

Độ sạn ngược lại âm tra hạn đường kính nhỏ hẹp nguy hiểm, là quán trọ bên đường, chữ viết từ bộ mộc thanh tàn âm tàn đồng với âm trên.

Niết xuyết âm dưới đoan hoạt tay nắm giữ lấy vo ve, xe tròn âm niêm ngược lại âm niệm liêm chữ viết từ bộ thủ.

Xung truy âm trên trục dung âm dưới tuy túy gọi là thâm u không lường được. Xem sách Tiểu Nhĩ Nhã giải thích.

Tuần tuần âm tuần tuần tuần là không mỏi mệt, siêng năng ưu tú.

Trắc cổ âm trên huy lực âm dưới là cổ thời hậu Chu. Tên chùa. Di luân âm trên là di hoặc là viết từ bộ kệ bộ cũng viết thành chữ di di là thường, văn cổ viết chữ di. Quynh bế âm trên quý vinh.

Yểm tý âm trên yểm viêm theo Tả Truyện cho rằng: Thấm nước lâu, âm dưới từ tự sách Thuyết Văn cho rằng: Tý là bọt nước cũng là thấm nước.

Đinh đóa ngược lại âm trên đồ đinh. Hoặc là viết chữ đình sách Thuyết Văn cho rằng: Đinh là đánh âm tràng ngược lại âm trọc giang.

Thiện cấu âm trên là thiện Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thiện là sửa trị, sách Thuyết Văn cho rằng: Bổ thêm vào, âm dưới (892) là cấu là rui nhà móc ngói, sách Thuyết Văn cho rằng: Che đậy lên, chữ hình thanh.

Ti hạ âm tiên tề sách Khảo Thanh cho rằng: Trời âm u mà có tiếng đạp, tiếng chẻ củi, người hàn sĩ nghèo, hèn hạ cho nên "Ti hạ" là chỉ người đồ đệ.

Tình khái ngược lại âm cai ngại sách Khảo Thanh cho rằng: Thanh gỗ ngang gạt khi đong lường, chữ viết từ bộ mộc chữ hội ý.

Bạo liệt âm trên sắc mạo lửa cháy phát ra tiếng nổ, gọi là bạo. Đồ tiễn âm tiên tiễn chân thân cận đất không giẫm đạp giày dép, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh tiên.

Trí ngại âm trên tri lợi Ngọc Thiên cho rằng: Trí là đốn ngã, âm dưới ngã cái sách Khảo Thanh cho rằng:

Chần chừ không tiến tới.

Bao mỹ âm trên bảo mao khen ngợi tốt đẹp.

Côn hoàng âm trên hồn ổn âm dưới là hoàng sách Phương Ngôn cho rằng: Lửa cháy sáng rực, ánh lửa cháy sáng rực, sách Thuyết Văn cho rằng: Lửa cháy sáng rực, ánh lửa bập bùng, chữ hình thanh.

Sấn thích ngược lại âm sơ tấn âm tấn ngược lại âm tân sấn Văn Truyện viết từ bộ bối là chẳng phải, sách Vận Anh cho rằng: Thí cho người thân, chữ viết từ bộ khẩu thanh thân.

Ky tiệp ngược lại âm tiềm diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Trí tuệ nhanh nhẹn, chiến thắng, sức mạnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tiệp âm tiệp đồng với âm trên.

Hư hy âm trên là hư âm dưới là hy sách Khảo Thanh cho rằng: Bi thương rơi lệ tiếng khóc rống, chữ đều từ bộ khiếm chữ hình thanh.

Liên nhi âm dưới nhĩ chi sách Vận Lược cho rằng: Liên Nhi đó là nước mắt lã chã ràng rụa, sách Chu Dịch cho rằng: Nước mắt có máu chữ hình thanh.

Trạc tri âm trọc giản lựa chọn người hiểu biết đề bạt lên.

Cao diệp ngược lại âm hoàn diệp sách Khảo Thanh cho rằng: Giống như guốc gỗ, mà dày không có đế, âm diệp đồng với âm trên, gọi là lấy gỗ làm đế.

Hà đảm ngược lại âm đáp nam sách Vận Thuyên cho rằng: Dùng gỗ làm thanh ngang gánh vật, chữ viết từ bộ thủ âm trên hạ.

Doanh châu âm trên là doanh âm doanh ngược lại âm dĩ chinh.

Tiến nổi âm trên tiền tiến sách Khảo Thanh cho rằng: Theo năm mất mùa không có vật để nấu chính gọi là tiến, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tồn ngược lại âm dưới nô ổi Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nổi là đói khát, chữ chuyển chu từ bộ thực thanh ủy.

Tể giả ngược lại âm tỳ duệ sách Vận Anh cho rằng: tể là chết giữa đường, chữ hội ý.

Mân ba âm trên mật bân âm bân ngược lại âm bút mân tên núi thục địa, nước trên sông xuất phát chảy từ đó, âm dưới là ba ba là tên của nhiều núi bắt nguồn từ sông Hán, giữa đời vua Hán.

Oa thiên âm trên khoái thóa cái miệng méo xệch qua một bên, âm dưới là thiên chữ hình thanh.

Áo ngung âm trên áo âm dưới ngu đều từ bộ phụ.

Tự ích âm dưới y kế Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tự trải qua mà chết, tức tự vẫn, thắt cổ mà chết, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh ải.

Thương xác âm dưới là giác sách Khảo Thanh cho rằng: Chuyên làm có lợi, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh xác.

Thán nhạ âm dưới nha giá tiếng than,

Tú trĩ âm dưới trì lý sách Khảo Thanh cho rằng: Núi trọc đứng riêng lẽ một mình, hoặc là viết chữ trĩ đều đồng thông dụng.

Tương tương ngược lại âm tích dương nghiêm chỉnh.

Nghinh đệ ngược lại âm đến lệ văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Lang vũ âm dưới là vũ văn trước trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Đế cấu âm trên là đế Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Đế cấu là cái giá móc áo, cũng là rui nhà móc ngói.

Khôi khôi ngược lại âm khổ hồi gọi là to lớn.

Hung cấm âm trên là hung sách Thuyết Văn cho rằng: Phần ngực, hoặc là viết chữ hung cũng thông dụng.

Trí cư âm cư danh tăng.

Phụ vĩ ngược lại âm hy cư là tên của sư phụ, chữ viết từ bộ y.

Lao đề ngược lại âm trên lão đao chữ chánh thể, từ bộ, chữ viết từ bộ miên tóm lược đến bộ ngưu tạo chữ tùy theo ý.

Huân tân ngược lại âm trên huy vân văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ mười hai đã giải thích đầy đủ rồi.

Cựu diêu âm dưới là áo sách Thuyết Văn cho rằng: Văn cổ viết chữ áo Văn Tự Điển cho rằng: Lò nung ngói gạch. Lại âm triệu diêu hai âm sách Thuyết Văn cho rằng: Diêu là lò gốm là thiêu ngói, Văn Truyện viết chữ diêu là chẳng phải.

Thiêu sáp âm trên tiêu giao Ngọc Thiên cho rằng: Chữ viết từ bộ táo viết thành chữ táo sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Triệu Ngụy gọi sáp là cái mai đào đất, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Viết chữ thiêu giải thích cũng đồng như chữ sáp sách Nhĩ Nhã lại viết diêu âm đồng, âm dưới sở giáp âm sáp cũng đồng nghĩa với âm thiêu hoặc là viết chữ thiêu chữ cổ âm sáp đồng với âm trên.

An duệ ngược lại âm duyệt huệ sách Thuyết Văn giải thích: Duệ là trí tuệ chữ viết từ bộ mục đến bộ tàn âm tàn là âm tàn đếm bộ cốc thanh tĩnh.

Tiêm âm trên tiếp viêm Mao Thi Truyện cho rằng: Tiêm giết hết, Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Tiêm là giết chết diệt sạch, chữ viết từ bộ ngục âm ngạc là âm căng.

U liệt ngược lại âm dưới liên triết sách Chu Dịch cho rằng: Giếng trong suối lạnh Vương Bậc chú giải rằng:

Liệt là suối nước trong trẻo, lạnh lẽo, trong suốt, chữ hình thanh.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 13

Trí thôi ngược lại âm thôi lỗi tên người.

Thân di âm trên trắc cận đem vật ra thí cho kẻ khác, âm dưới duy nhuế sách Khảo Thanh cho rằng: Cộng thêm vào, cùng tương tuệ.

Tiêu vũ ngược lại âm vu thiên cùng với chữ vũ đồng âm. Triều nhà Đường Quan Nam tỉnh trưởng.

Ôn di ngược lại âm dĩ chỉ sách Khảo Thanh cho rằng: Thường tên người.

Huyên hoa âm trên là huyên âm dưới là hoa tiếng ồn của nhiều người.

Nghịch lưu âm trên tác nghịch nước chảy ngược dòng mà đổ lên trên, sách Vận Thuyên cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh nghịch.

Sai ẩn ngược lại âm thái tai ý không thể quyết định rõ ràng, còn nghi ngờ, giống như con chó có nhiều nghi ngờ, cho nên chữ viết từ bộ khuyển thanh thanh.

Kiêm liệt ngược lại âm trên phả viêm chữ kiêm đúng thể chữ hội ý gọi là hai nắm giữ bông lúa gọi là kiêm âm dưới là liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Ao nước trong sạch, lạnh buốt.

Phế kiến ngược lại âm phiến diệt Văn Tự Tập Lược giải thích: Phế nhìn liếc qua, chỉ thoáng thấy, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh tệ.

Ám uất âm trên là dâm ôn hòa vui vẻ, yên tĩnh, âm dưới kinh luật văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Minh bột âm trên minh âm dưới nột tên riêng của biển Đông. Thừa bạch âm dưới là bạch thuyền lớn trong biển, tấm bảng mỏng buộc trên cây cột bườm, không ngăn dưới sóng gió lớn dùng vỏ cây liễu thắt dây liên kết với nhau, không dùng, thiết, đinh e rằng mài cà xát sẽ bắn ra lửa, ngàn người cùng nhau chế ngự, cây cột dài trăm văn lớn như chiếc thuyền.

Miến tạ âm trên miên biến miến là tưởng nhớ đến.

Nhu dĩ âm trên ni cứu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Nhu là tạp, lộn xộn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mễ thanh nhu hoặc là viết chữ nhu âm nhu đồng với âm trên, lại âm nhi cứu.

Huyến thái ngược lại âm trên huyết quyên Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Những màu sắc hoa văn rực rỡ gọi là huyến Tư Mã chú giải sách Luận Ngữ rằng: Huyến là hoa văn sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh huyễn âm huyễn là âm huyên âm mịch là âm mịch. Chức tông âm dưới tông tống Liệt Nữ Truyện giải thích Chức đó là có thể dụ như công kích bày ra xô đẩy ra, lôi kéo dẫn dắt ra mà đến gọi là tông sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh tông.

Phụ nãng âm dưới nhã lang Mao Thi Truyện cho rằng: Cái túi có đáy gọi là nang cái túi không đáy gọi là thác âm thác là âm thác.

Khoa lịch âm trên khoa quả văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi. Âm dưới linh đích Thiên Thương

Hoét cho rằng: Lịch là bánh xe lăn. Sách Lã Thị Xuân Thu cho rằng: Lịch là đè nén, sách Thuyết Văn cho rằng: Lịch gọi là chỗ bánh xe nghiền nát. Chữ viết từ bộ xa thanh lịch âm triển ngược lại âm ni triển.

Thư nhiễm ngược lại âm trên tử tư theo Tả Truyện cho rằng: Linh vương mới sinh ra mà đã có râu, sách Thuyết Văn cho rằng: Râu trên miệng, chữ viết từ bộ tu thanh thư Văn Truyện viết từ bộ tiêu viết thành chữ tư cũng đồng nghĩa, ngược lại âm dưới nghiễm niêm nhiễm tức là râu hai bên má, tức râu quai nón, chữ viết từ bộ tu thanh nhiễm Trang Sinh cho rằng: Râu đẹp nhiễm tức là râu hai bên má. Sách Thuyết Văn viết chữ nhiễm cũng thông dụng khi dùng âm nhiễm đồng với âm trên.

Khanh khảm ngược lại âm trên khách canh hoặc là viết từ bộ phụ viết thành chữ khanh Cố Dã Vương cho rằng: Khanh là cái hang, hốc, cũng là cái ao từ từ cạn nước. Sách Thuyết Văn cho rằng: Khanh là cái hầm, chữ viết từ bộ thổ thanh khanh âm dưới kham cảm sách Khảo Thanh cho rằng: Cái hầm nhỏ.

Tổ nể âm trên thô cổ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tổ là người khai sáng ban đầu. Cố Dã Vương cho rằng: Tổ là bậc trên. Quảng Nhã cho rằng: Cội gốc xa xôi, sách Thuyết Văn cho rằng: Tổ là người lập ra tông miếu đầu tiên, chữ viết từ bộ thị thanh thư âm dưới nê để văn cổ viết chữ nể nay tục viết từ bộ thảo Văn Dĩnh viết chữ nể sách Chu Lễ cho rằng: Là sư phụ của tông miếu. Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ thị thanh nhĩ chữ chuyển chú.

Hoàn nhĩ âm trên hoàn quan sách Luận Ngữ cho rằng: Hoàn nhĩ là cười mỉm, Mao Thi Truyện cho rằng: Làm đẹp sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh hoàn âm hoàn ngược lại âm đãi quan.

Sái trần âm trên sa nhã rảy nước xuống đất.

Thứ phục âm trên thư tứ chữ chánh thể là chữ thứ.

Sanh nhẫn âm trên là sanh thiết chì mềm mại trên lửa luyện thành đồng thau, khiến cho thành vụn cụ bén nhọn, cứng.

Bằng cử âm trên là bằng tên chim đại bàng, chữ hình thanh dưới là chữ cử từ bộ thủ.

Lâm tẩu âm dưới tảng tẩu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ao (893) không có nước gọi là tẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Ao lớn chữ viết từ bộ thảo thanh tẩu.

Huyển tài âm trên huyền quyên sách Thuyết Văn cho rằng: Tự khoe khoang, khoe tài, khoe đồ tốt mua bán, chữ viết từ bộ hành thanh huyễn cũng viết chữ huyễn.

Chất cốc âm trên là chất âm dưới là cốc cũng gọi là nữu giới gông cùm nơi tay gọi là cốc gông cùm nơi chân gọi là chất sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ mộc chữ hình thanh.

Chúc đức âm trên dung chúc sách Chu Lễ cho rằng: Chúc là bán, sách Thuyết Văn viết từ bộ cách thanh chúc âm cách là âm lịch.

Trào hước âm trên trương giao là viết từ bộ khẩu viết thành chữ điều Thiên Thương Hoét cho rằng: Trào là làm trò vui đùa, âm dưới hương ước Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Dùng lời nói trò hài hước khiến cho vui đùa giễu cợt với nhau, chữ hình thanh.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phĩ âm trên đúng chữ vĩ, âm dưới là tục văn trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Hoàng uế ngược lại âm trên hoạch hoàng âm hoạch ngược lại âm uông quách Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hoàng là ao nước dơ bẩn, nước đục, Sở Từ giải thích rằng: Nước chảy thấm vào, sách Thuyết Văn cho rằng: Uế là nước ngưng đọng lại không chảy chữ viết từ bộ thủy thanh tuế chữ tuế chánh thể.

Huyền tế âm xác tên người.

Trụ tất âm trên chu lũ Thiên Thương Hoét cho rằng: Tru là đứng lại dừng lại, âm dưới tất Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đoàn quân xa đi làm sạch đường. Tức nay là ngăn cấm đường, hoặc là viết từ bộ tẩu viết thành chữ tất hoặc là từ bộ ngôn viết thành chữ tất giải thích nghĩa đều đồng sách Thuyết Văn viết từ bộ túc.

Cửu ban ngược lại âm nhân man hoặc là viết chữ ban Tả Truyện giải thích rằng: Ban bố khắp, xếp hàng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ phân chữ phân từ bộ bát đếm bộ đao viết thành chữ phân.

Bài bát âm trên bách mại sách Thuyết Văn cho rằng: Huơ, múa, xua tay, hoặc là viết từ bộ tất viết thành chữ huy đều từ bộ thủ âm dưới bán mạt sách Thuyết Văn cho rằng: Dùng tay xoay chuyển vật chữ viết từ bộ thủ thanh phát.

Quan hạt ngược lại âm nhàn liết âm kiết ngược lại âm gian bát thiết cứng đầu trục xe.

Chấp duy ngược lại âm trên tri lập chấp là bó buộc ngăn cấm, âm dưới duy bốn góc vuông.

Thích thăng ngược lại âm trên thiên đích âm dưới thang lãng Tư Mã Tương Như Phong Thiền Kỹ Truyện cho rằng: Thích thăng là tột cùng biến hóa, con ngựa có sức mạnh phóng nhanh ngựa chạy như bay, Quảng Nhã cho rằng: Trác tuyệt khác thường chữ viết từ bộ nhân chữ hình thanh.

Khoa phụ ngược lại âm khoa qua sách Trang Tử cho rằng: Chạy đến tận chân trời góc biển, khát vọng đến phương Bắc mà chết vậy, sách Thuyết Văn viết từ bộ đại thanh phong âm phong là âm ngược lại âm khổ phong Văn Luận viết chữ khoa tục tự thường hay dùng.

Dục hy âm dưới là hy sách Thuyết Văn cho rằng: Hy vọng, hoặc là viết chữ hy.

Huỳnh trung ngược lại uynh định văn trước trong quyển thứ mười đã giải thích rồi.

Môn lệ âm trên là môn theo Thanh Loại cho rằng:

Môn giống như là sờ mó, chữ viết từ bộ thủ thanh môn. Khôi vĩ âm trên công hồi sách Phương Ngôn cho rằng: Khôi thạnh. Tự Mã Tương Như chú giải sách Trang Tử rằng: Đẹp rất tốt đẹp, âm dưới vĩ quỹ Quảng Nhã cho rằng: Kỳ vì tốt đẹp lạ thường, hai chữ đều từ bộ nhân.

Phan trác âm dưới xương nhạ tên người.

Tọa tẫn âm dưới tân nhẫn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Xác chết ở trong quan tài đó chưa chôn an táng, quàng trên đình tây giai gọi là tẫn sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạc thanh tân Văn Truyện cho rằng: Chữ viết từ bộ thổ viết thành chữ tẫn là chẳng phải chánh thể từ bộ miến.

Lâm lạc âm trên lâm âm dưới lạc sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy nước mà tưới, rót tiếng rót nước.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 14

Huệ quân âm dưới ư luân danh tăng.

Huệ du âm dưới sưu chu cũng là danh tăng.

Phụ mân âm dưới mạt bân tên cha của Tri Lâm.

Ngang hình âm trên ngã cang theo chữ ngang hình, tức là gọi ngang tàng trượng phu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ viết viết thanh ngưỡng Tự Thư cho rằng: Từ bộ tiết viết thành chữ ngang âm ngang đồng với âm trên.

Tước pháp sư âm trên là tước sách Sử Ký Từ Quảng chú giải rằng: Bọt nước trắng phiêu nổi trên mặt nước, sách Thuyết Văn cho rằng: Màu trắng xanh, từ bộ tước đến bộ bạch Văn Truyện viết từ bộ nhục viết thành chữ tước là chẳng phải, chữ tước chánh thể.

Phi quốc âm trên bị bi theo Tả Truyện. Xưa nay Hiền Trọng Thiên là phi, nước phi tức nay hạ phi, sách Thuyết Văn từ bộ ấp thanh phi âm phi là âm phi.

Phong đích âm trên là phong âm dưới là đinh lịch văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ nhất đã giải thích đầy đủ rồi.

Vị nhiệt âm dưới nhuyễn xuyết âm nhuyễn ngược lại âm nhuyễn chuyên theo Tả Truyện cho rằng: Nhiệt là thiêu đốt, lửa cháy lan sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ hỏa thanh nhiệt hoặc là viết từ bộ hỏa viết thành chữ bính âm nghĩa giải thích đều đồng.

Giáp tuần ngược lại âm hàm giáp sách Vận Thuyên cho rằng: Giáp là trơn ướt, âm dưới là tuần mười ngày gọi là một tuần, tuần là từ giáp đến quý.

Lẫm hoài âm trên lâm cẩn sách Khảo Thanh cho rằng: Bẩm là cung kính lo sợ, trong lòng hồi hợp. Bì Thương cho rằng: Lẫm là nơm nớp lo sợ, kính sợ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ băng thanh bẩm âm dưới hoài quái sách Luận Ngữ cho rằng: Hoài là an ổn sách Vận Anh cho rằng: Suy nghĩ sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hoài âm đồng với âm trên.

Hề kích âm trên hệ kê âm hệ ngược lại âm hề kế Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hề tức là con đường hẹp. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hề tức là con đường để bẩy cầm thú. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh hề âm dưới kinh kình Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Kính là con đường xuyên thẳng qua đường hầm. Sách Thuyết Văn viết từ chữ kính là đúng.

Hồi dữ âm dưới chữ từ sách Vận Anh cho rằng: Lá cờ có vẽ chim ưng trên, rồi nắm lấy lá cờ mà tiến mau đến phía trước. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lột da con chim cắm vào đầu cán cờ, nói rằng tượng trưng cho sức mạnh hùng dũng, sách Vận Thuyên cho rằng: Dữ là cờ đi như chim bay sách Thuyết Văn viết từ bộ phương thanh dữ.

Kỹ nghi âm trên cự di sách Vận Anh cho rằng: Kỳ là con đường phân rẽ, rẽ ra, âm dưới ngưng cước. Hoặc là viết từ bộ khẩu viết thành chữ nghi nói lời tự xưng có thế lực cao lớn, như con đường phân rẽ, như núi lớn phân rẽ ra.

Tấn thân âm trên là tấn âm dưới là thân theo chữ tấn thân đó là sợi dây nịt lớn, dây đai lớn làm sợi dây màu hồng, màu trắng. Xưa đó dây buộc mũ làm trang sức cho người quý tộc, trong sách ghi các việc.

Lý thức âm trên là lý sách Thuyết Văn viết từ bộ thi đến bộ xước đến bộ cửu bộ chu dùng dây gai vải bổ làm giày dép, âm dưới là thức sách Vận Anh cho rằng: Thanh gỗ ngang gắn trước xe, biểu tượng cung kính, Quảng Nhã cho rằng: Cái mai gắn trước trục xe gọi là thức lấy vải buộc vào đuôi con ngựa làm ký hiệu.

Vũ nội âm trên vũ trong vũ trụ.

Kháp nhĩ ngược lại âm kham cáp sách Sở Từ cho rằng: Đột nhiên mà chết, lấy dòng nước mà hủy mình. Sách Khảo Thanh cho rằng: Dòng nước lớn bỗng nhiên mà ập đến, hoặc là viết chữ kháp cũng thông dụng.

Cao mạc âm dưới mang bác Mao Thi Truyện cho rằng: Mạc là to lớn. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mạc là xa vời, đều Phương Ngôn cho rằng: Rộng lớn, khoảng đất trống rộng lớn, nơi hoang vu xa xôi làng mạc.

Thành tiệm âm trên dúng là chữ thành chữ chánh thể từ bộ đinh Thế Bổn cho rằng: Hào quanh thành, sách Hoài Nam Tử cho rằng: Huyện Huyền làm thành cửu nhẫn bảy thước gọi là một nhẫn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ chữ viết từ bộ thổ thanh thành âm dưới tiếp viêm tiệm là hào quanh thành không có nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh trảm.

Giai sưu âm dưới sơ sưu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sưu là phó thứ sách Vận Thuyên cho rằng: Rễ cỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo thanh sưu.

Manh thứ âm trên là manh Mao Thi Truyện cho rằng: Manh là người dân Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Lờ mờ, không hiểu rõ, không biết rõ.

Hoàn giáp ngược lại âm hoàn quán Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Loại Hoàn là xuyên qua sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh hoàn âm quán là âm quan.

Hạp cảnh ngược lại âm hàm cáp sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hạp gọi là đóng cánh cửa lại âm cáp ngược lại âm cam đáp.

Ủy ngược lại âm trên ủy vi Mao Thi Truyện cho rằng: Cây cỏ khô héo hư hoại mà chết âm dưới tình tụy Quách Phác chú giải Phương Ngôn rằng: tụy gầy gò thương cảm, sách Thuyết Văn cho rằng: Lo âu, tiều tụy, chữ viết từ bộ tâm.

Đàm hược âm dưới hương ước Văn Truyện viết từ bộ hổ viết thành chữ hước sách viết sai, văn trước trong quyển thứ năm đã giải thích rồi.

Chỉ lệ ngược lại âm trên chi nhĩ âm dưới lực chế hai chữ đầy đủ từ bộ thạch.

Chi phái âm dưới phách mại Ngọc Thiên cho rằng: Dòng nước phân rỉ, chảy riêng ra ngã khác, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết từ bộ phản sách viết chữ vĩnh.

Trác thạch âm trên là trác Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trác là chặt đốn, hoặc là viết chữ trác sách Nhĩ Nhã cho rằng: Vót gọt, đẽo gọt sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Chặt đốn ngã, chữ viết từ bộ cân thanh đậu âm đậu là âm đậu.

Vi khám âm de khảm cam sách Vận Thuyên cho rằng: Hang của rồng, lại gọi là nhà đất, sách Vận Anh cho rằng: Hang rồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ nơi thờ tượng Phật, chữ viết từ bộ long đến bộ tâm thanh tĩnh.

Cũng bặc âm trên cộng cung Hán Thư cho rằng: Quân Thục có huyện Cũng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh công âm dưới bằng bắc theo Thanh Loại cho rằng: Bặc đó là phân biệt chủng loại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Sự nhanh nhẹn mẫn tiệp của người Man Di, chữ viết từ bộ nhân thanh cước âm cước là âm căng lực đều từ hai bộ thứ không phải bộ thúc.

Tán quốc âm trên tạng hà sách Thuyết Văn cho rằng: Ở Nam Dương có huyện Tán, quận Bái, cũng huyện Tán chữ đúng thể là chữ tán.

Thiên hoàng ngược lại âm hoảng quang Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hoàng là ao nước dơ, là ao nước không chảy, lại cũng gọi là vùng nước đọng lại, lại cũng gọi là nước mưa ngập tràn, nước lụt.

Đến hệ sách Thuyết Văn cho rằng: Đế đó vua trong thiên hạ, theo văn cổ chữ trên thanh thứ văn cổ viết chữ đế, âm dưới hê kế Thế Bổn cho rằng: Có quan hệ đến vua tức con cháu của Thiên tử, cùng nhau thừa kế, không dứt tuyệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Hệ là ràng buộc, chữ viết từ bộ mịch thanh phiệt âm phiệt là âm tiết.

Bát diên âm dưới diễn chiên Hán Thư âm nghĩa giải thích: Diên là vùng đất rất xa nơi biên giới. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh diên Văn Truyện viết từ bộ thủ là chẳng phải.

Trí khiết ngược lại âm lương chước danh tăng, sách Vận Anh cho rằng: Lanh lợi.

Ngô tỉ âm dưới phu dĩ Ngô vương tên Lưu Tỉ.

Hộ độc âm trên hồ cổ kinh Sơn Hải giải thích: Hoàng đế đến sông Huyền Hộ rùa linh thiêng vác đồ sách pho sách đem dâng xuất ra tức là tên của sông này, Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh hộ âm hộ đồng với âm trên, âm dưới là độc.

Huy tiêu âm trên là huy ngược lại âm tỷ liêu sách Vận Anh cho rằng: Tên cuồng phong gió bão, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Gió lớn, bão táp, từ trên mà xoáy xuống dưới gọi là tiêu âm phiêu đồng với âm trên, từ ba bộ khuyển không phải từ ba bộ hỏa.

Cảm quýnh âm trên kham lam Thiên Thương Hoét cho rằng: Cảm là nhìn từ khe cửa, hoặc là thích từ bộ mục viết thành cảnh cảm sách viết sai nghĩa cũng đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh cảm âm dưới huỳnh linh sách Nhĩ Nhã chú giải: Quýnh là xa xôi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh quynh.

Đạo hiệp âm dưới kiêm hiệp sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiệp là hòa hợp, sách Thuyết Văn cho rằng: Suy nghĩ, nhớ nghĩ, chữ hình thanh.

Háo hống âm trên hiếu giao Bì Thương cho rằng: Hao là gầm thét, dọa nạt, giận dữ, sách Thuyết Văn viết từ bộ (894) khẩu thanh hiếu âm dưới ha cẩu sách Sở Từ cho rằng: Tiếng kêu của con gấu, sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng rống của con hổ, con bò.

Thiên mậu âm trên là thiên Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Trao đổi, theo Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dời đổi, chuyển đổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Đi lên từ bộ xước thanh thiên âm thiên là âm thiên âm dưới là mâu hầu sách Ngọc Thiên cho rằng: Mậu là trao đổi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Trao đổi tài vật chữ viết từ bộ bối thanh uyển.

Cấp trũng âm trên là cấp địa danh quận cấp có vương an xân. Xưa là huyện trũng thời vua Tấn có kẻ trộm xuất phát ra từ huyện trũng này, theo sách ghi chép trên những thẻ tre ghi tên người chết làm mộ bia, theo truyền tục là cấp trũng. Sách Thuyết Văn viết chữ trũng từ bộ bao đến bộ thỉ âm thỉ ngược lại âm sửu lục âm thỉ cũng là thanh.

Nhi hiệp âm dưới là hàm giáp Cố Dã Vương cho rằng: Khiếp gọi là không có rộng lớn, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh hiệp âm hiệp ngược lại âm kiêm diệp Văn Truyện viết từ bộ thủ viết thành chữ khiếp là chẳng phải.

Duy y ngược lại âm trên đáp bi Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Che một bên gọi là duy Quảng Nhã cho rằng: Duy là màn che, sách Thuyết Văn cho rằng: Bộ cân thanh duy ngược lại âm dưới y phong Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cửa sổ phía đông, phía tây gọi là y sách Thuyết Văn viết từ bộ hộ thanh.

Tặng kiêm âm dưới giáp kiêm Quảng Nhã cho rằng: Mép đường viền gọi là kiêm là tơ lụa mịn, chữ viết từ bộ mịch thanh kiêm.

Lập trạch âm trên lập âm dưới là trạch Tự Thư cho rằng: Lập trạch đó là thời nhà Ngô tên huyện trạch. Đất trạch này không có cây mọc, bình thường người ta che dù mà đi, bởi vậy mà tên là Trạch Lập, chữ viết từ bộ trúc đến bộ lập.

Miễn lưu âm trên là miễn âm dưới lưu Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Sáu loại trang gọi là miễn đây là trang sức trên đầu, Trịnh Huyền lại cho rằng: Miễn đó là kéo dài từ trên che đậy xuống. Thế Bổn cho rằng: Hoàng đế làm trang sức miễn, sách Thuyết Văn viết từ bộ viết âm viết là âm quyên thanh miễn âm dưới là lưu Mao Thi Truyện cho rằng: Lưu trên đầu trang sức rất trang trọng, có hạt châu rũ xuống làm che, làm tế hốt, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh liêu chữ hình thanh.

Phu tặng âm trên là phụ sách Vận Thuyên cho rằng: Lấy tài sản vải lụa trợ giúp cho nhà còn thiếu thốn không đủ gọi là phu sách Thanh văn viết từ bộ bối thanh phu là âm phu hoặc là viết, hoặc là viết chữ phúng ngược lại âm phong mộng sách Vận Anh cho rằng: Lấy xe ngựa dàng mã tặng biếu cho người chết gọi là phúng sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh quyên âm quyên âm dưới tặc đặng lấy tài vật biếu tặng cho nhau. Ngọc Thiên cho rằng: Tặng là biếu thức ăn. Sách Vận Anh cho rằng: Lấy vật biếu tặng cho nhau, sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh tằng.

Đệ cấp âm trên đề lễ chữ thượng thanh. Văn trước trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Huệ tảng ngược lại âm trên hàm lang hoặc là viết chữ tảng danh tăng. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tuấn mã, giải thích chữ nghĩa đều đồng gọi là con ngựa chạy ngàn dặm, chữ hội, âm tuấn là âm tuấn.

Oản diễm ngược lại âm trên ư viễn Ngọc Thiên cho rằng: Oản là ngọc khuê, âm dưới diêm nhiễm sách Thuyết Văn cho rằng: Ngọc khuê dài chín tấc, cầm lấy cho rằng: Làm tin, làm tin đánh dẹp không có nghĩa này. Huệ hoàn ngược lại âm nhuế huyền sách Vận Anh cho rằng: Tính nóng nãy.

Cảo sư âm trên cao lão.

Khoáng lệ âm trên hồ mảnh âm dưới lực đối khoáng lệ là tính xấu ác.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 15

Huệ diêu âm dưới là đào chiêu danh tăng. Văn Truyện viết từ bộ nguyệt viết thành chữ diêu là sai.

Du khổn âm trên canh chu Mao Thi Truyện cho rằng: Du là vượt qua Quảng Nhã cho rằng: Vượt qua sông sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ túc thanh du ngược lại âm dưới khôn bổn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khổn là cửa hẹp, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mộc viết thành chữ khổn gọi là cây trụ cột cửa.

Ô yết âm trên ốc hồ sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng than đau buồn Tự Thư cho rằng: Cũng từ bộ khảm viết thành chữ ô âm dưới yên yết Tự Thư và Khảo Thanh cũng từ bộ ế viết thành chữ ế theo Thanh Loại cho rằng:

Không bình thanh hơi đi ngược.

Hữu thần âm dưới thất chân Tự Thư cho rằng: Chữ đúng viết từ bộ nhân viết thành chữ thân Quảng Nhã cho rằng: Thân tức là mang thai, người đàn bà mang thai trong bụng, thần thân âm nghĩa đều đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân đến bạch thân.

Trúc can sóc âm kế là can ngược lại âm cát hãn sách Thượng Thư Đại Truyện cho rằng: Can giống như là nắm chặt mũi tên trên cây cung, xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh khả âm dưới song tróc Quảng Nhã cho rằng: Sóc là cây mâu giáo. Bì Thương cho rằng: Cây giáo dài tám thước. Văn Tự Điển nói: Nay gọi là cây kích, chữ viết từ bộ mâu thanh tiếu Văn Truyện viết từ bộ mộc viết thành chữ sóc tục tự thường hay dùng.

Nhuế thành âm trên nhu thuế nay gọi là Hà Đông có huyện Nhuế Thành.

Vấn loạn âm trên căn phẫn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Vấn là tơ rối loạn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vấn cũng là loạn, chữ viết từ bộ mịch thanh vấn loạn đúng là chữ loạn.

Dị độ ngược lại âm trên di chí Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Di là đã rồi, dĩ giống như thối lui, sách Thuyết Văn viết từ bộ thanh dĩ âm là âm cũng cũng.

Hàm kính âm dưới là hình lĩnh Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Kinh là hận sách Văn Tự Điển nói cũng là oán hận, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh kinh âm kính là âm kinh.

Bổ trán âm trên liên mụ Cố Dã Vương cho rằng: Bổn giống như lắp kín, giống như sửa chữa thêm vào che kín, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh bổ ngược lại âm dưới tranh hạn trán là cái xiêm đã rách dùng kim xâu chỉ vá lại, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trán là mổ ra, Văn Tự Điển nói: Trán là rách, nứt ra chữ viết từ bộ y thanh định.

Xúc cố âm trên xung dục Văn Truyện viết chữ xúc văn cổ viết chữ xúc Quảng Nhã cho rằng: Xúc là va chạm, xung đột sách Thuyết Văn cho rằng: Vui vẻ hài hòa, chữ viết từ bộ giác thanh thục.

Phong hộ âm trên phú phong trên sông, âm dưới hồ cố tên huyện xem trước đã giải thích rồi.

Yển phốc âm trên yết kiển Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Yển là té ngã ngửa, Quảng Nhã cho rằng: Yển giống như ngửa mặt, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh yển âm dưới bằng bắc Thống Tự cho rằng: Phốc là đốn ngã, sách Khảo Thanh cho rằng: Phía trước che nên té nhào. Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ nhân thanh bốc.

Tây viện âm dưới viên uyển Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Viện là tường bao quanh hầu tránh mưa gió, sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ đến thanh hoàn âm hoàn là âm hoàn Văn Truyện viết chữ hoàn là sai. Nam duệ âm dưới diên ế Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Duệ là phần ngọn. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Xa xôi, Quảng Nhã chú giải rằng: Duệ là gấu áo (tà áo) sách Thuyết Văn cho rằng: Phần viền của áo, chữ viết từ bộ y thanh cảnh âm cảnh ngược lại âm nữ hoạt.

Quán châu âm trên là hoan Quận Quốc Chí cho rằng:

Quán châu tức là nay quản hạt An nam, Giao châu.

Sủy văn âm trên sơ ủy Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Sủy là đánh giá đo lường, Tả Truyện cho rằng: Sủy là đánh giá cao, thấp sách Thuyết Văn cho rằng: Sủy là đo lường, chữ viết từ bộ thủ thanh đoan âm đoan ngược lại âm âm tri hoàn.

Lạt thực âm trên lan hằng sách Hoài Nam Tử cho rằng: Lạt là lương thực để dành, Thiên Thương Hoét cho rằng: Lạt là gạo thô, cũng là hạt gạo mới lột trấu, chưa giả trắng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mễ đến thanh vạn Văn Truyện viết từ bộ hán viết thành chữ lạt tục tự thường hay dùng.

Viển tước âm trên viêm nhiễm âm dưới thường lược viễn tước hai chữ tên của cao tăng. Xem trước đã giải thích rồi.

Khâm đàn văn trước quyển thứ sáu đã giải thích đầy đủ rồi.

Liên tiêu âm trên liệt triền Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Xưa chữ liên đều viết chữ liên theo Thanh Loại cho rằng: Liên là sợi chỉ kéo dài ra không dứt tuyệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Liên là nối tiếp liên miên chữ viết từ bộ nhĩ đến bộ tư liên tiếp nhau không dứt âm tư là âm tư âm dưới biểu miêu xem trước quyển thứ mười đã giải thích rồi.

Tiêu cấp âm trên là tiêu gọi là góc núi có gò đất lớn, Quảng Nhã cho rằng: Vùng biên giới cấp bách. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tiêu là gò đất cao. Lại cũng gọi là nghiêm trọng vùng nguy hiểm, sách Thuyết Văn cho rằng: Gò mã, chữ viết từ bộ phụ thanh tiêu Văn Truyện viết chữ tiêu tục tự thường hay dùng.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 16

Lâm tẩu âm dưới tô tẩu văn trước quyển thứ mười ba đã giải thích rồi.

Tiêu uyên âm dưới ế huyền tên người.

Tụy kích âm trên địch hình văn trước quyển thứ mười đã giải thích rồi, âm dưới đúng là chữ kích sách Thuyết Văn cho rằng: Kích là đánh chữ viết từ bộ thủ kích âm kích là âm khiết.

Tăng lẫm âm dưới lâm cẩm Tự Thư viết đúng là lẫm sách Chu Lễ cho rằng: Lẫm là người nắm trong tay kho lẫm thóc, chứa nhiều thóc lúa tốt, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Kho gạo của nước Lỗ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kho thóc, chỗ để cứu giúp chữ viết từ bộ hòa viết thành chữ lẫm Văn Truyện viết từ bộ mễ viết thành chữ lẫm tục tự thường dùng.

Hoang tiến âm dưới tiền tiện văn trước quyển thứ mười một đã giải thích rồi.

Tháp diệp ca ngược lại âm trên đàm hạp âm kế cổ diệp Văn Truyện viết chữ cấu là sai. Âm dưới đọa hòa Tự thư viết đúng từ bộ thạch viết thành chữ oa Văn Truyện viết từ bộ kim viết thành chữ đoa tục tự thường hay dùng.

Tăng trù âm dưới trụ lưu danh tăng.

Diên thực ngược lại âm trên phiến nhiên âm dưới thừa thực sách Lão Tử: Diên thực là dụng cụ. Hà Thượng Công chú giải rằng: Diên thực là nhào nặn, thực là đất, tức là nhào nặn nắn bóp làm đồ sành sứ.

Hà sĩ âm dưới xừ sử sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi là bến nước chữ viết từ bộ thủy thanh sĩ.

Truyền hịch ngược lại âm dưới hình ích sách Sử Ký cho rằng: Trương Nghị Tương nước Tần làm văn hịch cùng với nước Sở, Cố Dã Vương cho rằng: Cái bàn tính (bàn toán) chỗ gọi là trách phạt tội nhân định tội, thay thế bằng hiểu dụ, an ủi bá tánh, viết văn hịch để kêu gọi. Hán Thư cho rằng: Có thể truyền văn hịch đi ngàn dặm, sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh kích.

Trừng thải âm dưới đạt đái Quảng Nhã cho rằng: Thải là tẩy rửa, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Lấy nước tẩy rửa bùn đất. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Đạt tới. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh thái.

Thuyên mặc âm trên duyệt huyên xem trước trong quyển thứ ba đã giải thích rồi.

Liêu công ngược lại âm trên liểu tiêu tên người.

Thác sự âm trên Văn Truyện viết làm thác tên cây, viết sai. Tự Thư cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn viết thành chữ thác sách Phương Ngôn cho rằng: Thác là ký gởi phó thác. Lại cũng là nương dựa vào.

Nhất bát âm dưới bán mạt âm dưới cũng đồng, xem trước đã giải thích rồi.

Anh đào âm trên anh đĩnh Hán Thư cho rằng: Triệu Châu có huyện Anh Đào.

Hiệp trửu âm trên kiêm hiệp Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hiệp giống như ôm ấp, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệp là nắm giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh hiệp âm dưới chu liễu Thế Bổn cho rằng: Thiếu Khang làm ra cái mẹt, cái nia sảy gạo, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây chổi quét trừ phân dơ, từ bộ hựu tức là tay cầm nắm khăn, cây chổi quét, lau chùi, tức là quét dọn lau chùi bên trong, chữ hội ý.

Bao hưởng âm trên bao giao sách Sở Từ cho rằng: Tiếng gầm của con gấu, Quảng Nhã cho rằng: Tiếng rống, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là tiếng gầm rống của loài thú, chữ viết từ bộ khẩu thanh bao.

Tịch mặc âm trên là chữ tịch cổ. Văn Truyện viết từ bộ nhân viết thành chữ tịch là sai, sách Thuyết Văn (895) viết đúng là chữ tịch nghĩa là không có tiếng người.

Tháp sơn ly âm trên lam hạp Quảng Nhã cho rằng: Tháp là chẻ ra, sách Khảo Thanh cho rằng: Hư hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là hư hoại, chữ viết từ bộ thủ thanh tập âm dưới sĩ tri Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ ly Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ly là thần nêu hình dạng giống như con thú, sách Thuyết Văn cho rằng: Ly cũng là mảnh thú. Theo cầm đầu là cầm thú, chữ viết từ bộ nhữu thanh triệt Văn Truyện viết từ bộ trùng viết thành chữ ly là chẳng phải bổn nghĩa này, âm nhữu ngược lại âm nhi cửu âm hủy là âm hủy.

Hao hổ âm trên hiếu giao Mao Thi Truyện cho rằng: Con hổ tức giận gầm rống lên, gọi là tiếng tức giận. Sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng hổ gầm chữ viết từ bộ hổ thanh cửu.

Đồi sơn âm trên đoái hồi Tự Thư viết đúng là chữ đồi xem trước trong quyển thứ tư đã giải thích đầy đủ rồi.

Xi vẫn âm trên xỉ chi Tự Thư viết đúng là chỉ xi âm dưới văn phân theo chữ xi vẫn là trên điện đường trang sức trên đầu hai xương sống buộc lại với nhau, hình dáng đuôi cong dòng để trang trí trên đầu.

Trọng đồng âm trên trù long âm dưới là đồng sách Thượng Thư cho Đại Truyện cho rằng: Bốn mắt nhìn nhau nháy, Bì Thương cho rằng: Con ngươi trong con mắt, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ mục đến thanh đồng.

Ẩu lũ âm trên vu vũ âm dưới lục chủ Cố Dã Vương cho rằng: Ẩu lủ là thân khom lại cung kính có lợi ích tăng thêm, Quảng Nhã cho rằng: Xương sống cong lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Khiễng chân, hai chữ đều từ bộ nhân đều thanh khu lũ âm khu là âm khưu âm lủ là âm lâu.

Thắng công âm trên đặng năng thẳng là tên nước. Hán Thư cho rằng: Hiệu ấp của Hạ Hầu Anh.

Lịch thực kỳ âm trên là lịch âm dưới là kỳ Hán Thư giải thích Tên họ người.

Tăng vĩ âm dưới vi quỷ danh tăng.

Luân hoán âm dưới hoan ngoạn sách Lễ Ký cho rằng: Đẹp thay bánh xe lăn, đẹp thay, thay đổi sáng suốt. Trịnh Huyền chú giải rằng: Hoán là sóng tơ, văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ mười đã giải thích rồi.

Hãn lạo âm dưới lao đáo sách Khảo Thanh cho rằng: Lạo là mạ chìm dưới đáy nước, sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh viết chữ lạo gọi là thành quách chìm trong nước hư hoại, ngập lụt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh liệu âm liệu ngược lại âm lực chiêu.

Hiêu nạo âm trên hư kiêu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Hiệu giống như ồn ào, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệu là hơi trên đầu xuất ra, chữ viết từ bộ tập thanh hiệt là âm hoặc hiệt âm dưới mã giao Quảng Nhã cho rằng: Nạo là loạn theo thanh loại cho rằng: Nạo là quấy rối. Lại cho rằng: Nhiễu loạn chữ viết từ thủ thanh kiểu.

Ly sơn âm trên lợi tri kinh Sơn Hải cho rằng: Tên núi xem trước đã giải thích rồi.

Quyệt đối ngược lại âm trên quyên duyệt Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Quyệt là dối trá, Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Nói lời không thẳng thắn, sách Thuyết Văn cho rằng: Quyệt là dùng quyền lực dối gạt người, chữ viết từ bộ ngôn thanh duật âm duật ngược lại âm cư duật âm dưới đúng là chữ đối như trước đã giải thích rồi.

Thuyên lạt âm trên tuyệt huyên trước trong quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Tán cái âm trên tảng đàn âm dưới cai cái gọi là cây dù, sách Đông Quán Hán Thư cho rằng: Khi trời mưa che trên nắm giữ cán mà đi, từ hơn một trăm cây dù để che trên lên phủ đô úy, Chư Cát Lượng Tập giải thích Không được nắm cán dù che. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tản tức dù che chữ viết từ bộ mịch thanh tán Văn Truyện viết chữ tản tục tự thường hay dùng.

Yết cam âm trên kiền nghiệt sách Sử Ký cho rằng:

Yết là giơ cao lên. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh hạt âm dưới khâm cam sách Phương Ngôn cho rằng: là đồ sành sứ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh cam.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn

QUYỂN 94

Từ quyển mười bảy cho đến hết ba mươi tính ra là bốn mươi quyển.

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 17

Trí khải âm dưới là giai danh tăng. Sách Phương Ngôn cho rằng: Khải là sắt cứng.

Tiên thành sơn âm trên là tiên núi biền là túc tương, nhưng lại gọi tên con ve lột xác, được nuôi dưỡng đầy đủ.

Cấu tích âm trên cấu hầu văn trước trong quyển thứ hai đã giải thích rồi, âm dưới bình mịch Mao Thi Truyện cho rằng: Tích là một gạch ngói, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngõa thanh tích âm lộc là âm lộc âm duyên là âm duyên.

Cao diễm âm dưới viêm chiêm Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Diêm sáng chói, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh viễn.

Thù tứ âm trên thụ chu âm dưới tư tứ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thù là nhánh của sông ở thành Lỗ phía bắc, âm dưới là tứ kinh Sơn Hải cho rằng: Sông tứ xuất phát từ đông Ngô phía bắc chảy qua Hồ lăng rót vào biển đông, sách Thuyết Văn cho rằng: Thù tứ hai chữ đều từ bộ thủy.

Yểm ứ âm trên ế diễm Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Yểm là cảm thấy đủ đầy, chữ viết từ bộ cam đến bộ nhục đến bộ khuyển Văn Truyện viết từ bộ thực viết thành chữ yểm tục tự thường hay dùng. Âm dưới ư cứ Mao Thi Truyện cho rằng: Ứ là no đủ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ứ là nhàm chán, sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh yểm.

Quẫn chích âm trên quân vận âm dưới chi diệc văn trước quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Hệ vạt âm kê nghệ sách Thuyết Văn cho rằng: Hệ là kết buộc lại, chữ viết từ bộ nhân thanh hệ âm hệ ngược lại âm hề kế âm dưới vãn phát sách Thuyết Văn cho rằng: Vạt là áo dày đầy đủ ấm, chữ viết từ bộ vi thanh miệt Văn Truyện viết từ bộ hệ viết thành chữ miệt là chẳng phải.

Đốt tai âm trên đôn cốt Tự Thư cho rằng: Đốt là tức giận quát mắng, Thiên Thương Hoét cho rằng: Trách mắng sách Thuyết Văn cho rằng: Đốt giống như là lời nói kinh ngạc, chữ viết từ bộ khẩu thanh xuất.

Oán tật âm dưới tần dật Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hại người hiền gọi là tật xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nữ thanh tật.

Trậm độc âm trên trừ cấm kinh Sơn Hải cho rằng: Mấy người con gái trên núi phần nhiều là độc giống như chim trậm, Quách Phác chú giải rằng: Loại chim trậm lông màu tím, xanh lục, cổ dài mỏ đỏ, giống chim ăn rắn, chữ viết từ bộ điểu thanh trậm âm chậm là âm dảm âm huệ ngược lại âm vu vệ âm dưới đồng với âm lộc sách Thuyết Văn cho rằng: Hại người bằng thảo dược, chữ viết từ bộ triệt thanh độc âm triệt ngược lại âm sĩ liệt.

Cao vụ âm dưới là vụ văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ sáu đã giải thích đầy đủ rồi.

Cơ chích âm dưới chinh xích văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ mười đã giải thích đầy đủ rồi.

Chế cẩu âm trên cư lệ sách Thuyết Văn giải thích Con chó điên cuồng, chó dại, chữ viết từ bộ khuyển thanh triết Tả Truyện viết từ bộ chế viết thành chữ chế.

Tê chẩm ngược lại âm trên tương thê Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Con tê hình trạng nó giống như trâu nước, đầu giống heo, bụng lớn, chân thấp, có ba móng màu đen, hai sừng, một sừng trên đảnh đầu, một sừng trên mũi. Nay gọi là tế chẩm đó là lấy sừng con tê giác làm gối, gối đầu, sách Thuyết Văn cho rằng: Tê từ bộ ngưu thanh vĩ âm dưới đúng là chữ chẩm chữ viết từ bộ âm lẫm là âm dâm.

Kỳ lộc âm trên đúng là chữ kỳ âm dưới là lọc.

Vãn khải âm trên là vãn âm dưới nghi khải danh tăng.

Nhàn xướng âm dưới xương dưỡng sách Thuyết Văn cho rằng: Đất được cho rằng: Đất được sửa san bằng phẳng cao ráo gọi là xướng chữ viết từ bộ phộc thanh thượng.

Sàn viên ngược lại âm sạn nhàn âm dưới là viên Thống Tự cho rằng: Sàn viên là nước chảy, sách Văn Tự Điển nói rằng: Tiếng nước chảy róc rách.

Mậu tùng ngược lại âm trên mỹ bưu lại cũng âm mi ấu hai âm. Lại là họ người. Theo chữ mậu là họ người, kẻ sĩ thời nhà Ngô tên Điển, Văn Truyện viết từ bộ vũ viết thành chữ mậu thoát ra âm dưới hoàn toàn sai.

Hoa đỉnh âm dưới đinh đỉnh Văn Tự Điển nói rằng: Đĩnh là đèn Văn Truyện cho rằng: Đèn hoa có một ngàn nhánh tức là đèn hoa có ngàn nhánh.

Kiểm hạ âm trên là kiểm Tự Thư cho rằng: Mi mắt trên dưới, Văn Tự Điển nói: Kiểm là mắt, chữ viết từ bộ mục thanh kiểm.

Kiêm tiếu trên đúng là chữ kiêm xem trước đã giải thích rồi, âm dưới tiều diệu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tiếu là trách khéo Tự Thư cho rằng: Chữ viết đúng từ bộ tiều viết thành chữ tiều Thiên Thương Hoét cho rằng: Trách mắng.

Khỉ khu ngược lại âm trên khởi kỳ ngược lại âm dưới khúc câu Bì Thương cho rằng: Khỉ khu là không an Bátnhã giải thích: Nghiêng lệch hoặc là từ bộ phụ viết thành chữ khi khu âm cũng đồng với âm trên.

Khiêm ngôn ngược lại âm trên khiếp điếm xem trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ ba đã giải thích rồi.

Hữu tẩm ngược lại âm dưới tầm nhậm Tự Thư cho rằng: Tẩm là loại nấm, gọi là nấm đất, sách Thuyết Văn cho rằng: Tẩm là loại nấm lá dâu, chữ viết từ bộ thảo thanh tẩm âm thức ẩm đồng với âm trên.

Đạn ngôn âm trên đán nan Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đạn là hết sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Đạn là chết tuyệt, chữ viết từ bộ ngạc thanh đạn âm ngục ngược lại âm ngũ đạt.

Si tư ngược lại âm trên sĩ tri Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Si là làm văn trau chuốt, uyển chuyển căng ra, thổi phồng lên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh si âm si đồng với âm trên, âm dưới tư tứ Tự Thư cho rằng: Chữ đúng thể là chữ tư.

Dương đế âm trên dương thượng hiệu đọa đế ích.

Kim thước âm dưới dưỡng dước Tự Thư viết đúng từ bộ môn viết thành chữ dược văn trước quyển thích giáo lục đã giải thích rồi Văn Truyện viết từ bộ trúc viết thành dược tục tự thường hay dùng cũng thông dụng.

Đồi hủy ngược lại âm trên đợi lôi văn trước trong quyển thứ tư đã giải thích rồi, ngược lại âm dưới huy ủy sách Thuyết Văn cho rằng: Thiếu khuyết, chữ viết từ bộ thổ âm hủy thanh tĩnh lược văn cổ viết từ bộ vương viết thành chữ hủy.

Khối niển âm trên ngô đối thế bổn cho rằng: Bánh xe nghiền nát, ban đầu là nghiền đá sỏi, sách Thuyết Văn cho rằng: Khối là đá mài, chữ viết từ bộ thạch đến bộ khải âm ma ngược lại âm ma phá âm dưới nữ triển chữ khứ thanh, sách Khảo Thanh cho rằng: Niển là cối đá xay gạo, chữ viết từ bộ thạch thanh triển chữ hình thanh.

Kiếp chung âm dưới chúc dung Bì Thương cho rằng: Dung là chết Quảng Nhã cho rằng: Chung là dứt hết Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Già mà chết đó gọi là chung chữ viết từ bộ ngạc thanh đông.

Hiếp bất thân vật ngược lại âm trên khảm kiếp Tả Truyện giải thích rằng: Nghe nói hai con ngựa sanh đôi nhau, như hai bên sườn kề sát nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiếp tức là xương hai bên bụng, chữ viết từ bộ nhục đến thanh hiếp âm hiếp ngược lại âm kiêm hiệp.

Bạo thanh ngược lại âm trên bao mạo Quảng Nhã cho rằng: Bao là lửa cháy nóng nhiệt, sách Khảo Thanh cho rằng: Thiêu đốt củi, trúc tre phát ra tiếng nổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hun đốt củi lửa, chữ viết từ bộ hỏa âm bạo ngược lại âm bao mạo.

Thứ cổ âm trên đúng là chữ thứ ngược lại âm thử tứ âm dưới là cổ văn trước trong quyển thứ mười ba đã giải thích rồi.

Ban bác âm trên bát man Thống Tự cũng viết từ bộ ban viết thành ban cùng với chữ ban đồng nghĩa, gọi là con ngựa vằn, xen lộn nhiều màu, lại cũng gọi là văn chương màu sắc rực rỡ, trau chuốt âm biện là âm biện Văn Truyện viết từ bộ đao viết thành chữ ban tục tự thường hay dùng. Âm dưới ban mạc Hán Thư cho rằng: Màu đen trắng hợp lại, gọi là ngựa vằn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa không thuần màu sắc chữ viết từ bộ mã thanh bát Văn Truyện viết từ bộ (896) giao viết thành chữ bát tục tự thường hay dùng.

Đôn túy âm dưới tuy túy văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ tám đã giải thích rồi.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 18

Huệ tán âm dưới tàn hãn danh tăng.

Quyền hội ngược lại âm trên lục viên họ người, Văn Truyện viết từ bộ tâm là chẳng phải, sai.

Nhất ẩu âm dưới vu vu Cố Dã Vương cho rằng: Thời nay gọi người con gái là ẩu sách Thuyết Văn cho rằng: Ẩu là láo. Chữ viết từ bộ nữ thanh khu.

Thông giác ngược lại âm trên tông khổng Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tông là búi tóc cao của người con gái. Sách Văn Tự Điển nói: Cây lược cài trên mái tóc, chữ viết từ bộ tiêu thanh thông Văn Truyện viết chữ tông tục tự thường hay dùng.

Đồi thoán âm dưới thô toán thoán là chạy trốn. Văn Truyện trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Đột trách âm dưới tranh trách văn quyển Thích Giáo Lục đã giải thích rồi.

Phách nhi âm trên là bách Cố Dã Vương cho rằng: Phách là dùng tay đánh phá, đập. Quảng Nhã cho rằng: Phân ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỉ huy, chữ viết từ bộ thủ thanh tích.

Thuyên phục ngược lại âm trên thất huyên xem trước đã giải thích rồi.

Bính lệ âm trên bách mảnh xem trước quyển thứ mười đã giải thích rồi.

Đồng tháp âm dưới tham hạp Quảng Nhã cho rằng: Tháp là bàn cờ Thích Danh cho rằng: Tháp là cái giường hẹp mà dài, Văn Tự Điển nói tháp là cái giường, chữ viết từ bộ mộc thanh tháp.

Phân vân âm trên phù văn Quảng Nhã cho rằng: Phân là tơ rối loạn, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh phân âm dưới là vân sách Khảo Thanh cho rằng:

Phân vân là tơ rối loạn rối tung.

Phong ủy ngược lại âm ổi nguy Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ủy là bệnh, Thiên Thương Hoét cho rằng: Ủy là bệnh cái chân không thể đi được sách Thuyết Văn cho rằng: Ủy là bệnh tê liệt chữ viết từ bộ tật thanh ủy.

Loa lũ âm trên lô qua âm dưới long du văn trước đã giải thích rồi, trong quyển thứ tám.

Thê nhân âm trên thiết mậu sách Khảo Thanh cho rằng: Tên huyện Tử Châu.

Thiết đôi âm dưới đồ đối sách Lễ Ký cho rằng: Tấn đơn vị khối lượng như mâu kích gắn trước và sau xe, như mũi đao. Mao Thi Truyện cho rằng: Đôi là cái khâu, cái vòng ở mát rựa, xà mâu (tức vòng sắt tán ở đầu cán để siết chặt cái chuôi) sách Thuyết Văn cho rằng: Mâu kích có chứa chút đồng thau, chữ viết từ bộ kim thanh đôn âm mi là âm bi tức là cán của cây mâu.

Thiết thương âm dưới tích dương Tự Thư viết đúng từ bộ mộc viết thành chữ thương Thiên Thương Hoét cho rằng: Thương là cây súng hai đầu rất nhạy bén, Văn Tự Điển nói rằng: Thương là cây súng bắn ra có cự ly xa, là loại binh khí chữ viết từ bộ mộc thanh thương Văn Truyện viết từ bộ kim viết thành chữ thương là chẳng phải.

Mẫn nhiên âm trên mân vẫn văn trước Cao Tăng Truyện trong quyển thứ tám đã giải thích đầy đủ rồi.

Khan thạch âm trên khát an Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khan là trừ bỏ sửa chữa, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Vót gọt khắc chạm sách Thuyết Văn viết từ bộ đao đến bộ can.

Lâm lạc âm trên lập kim Thống Tự cho rằng: Lâm là lấy nước tưới xuống đất.

Phục nhĩ âm trên là phục Tự Thư cho rằng: Đúng là chữ phục xem trước đã giải thích rồi, âm dưới nhi chí Thiên Thương Hoét cho rằng: Nhĩ là dâng thức ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhĩ tức là loại bánh nướng, chữ viết từ bộ thực thanh nhĩ.

Sam cải âm trên là sam Mao Thi Truyện cho rằng: Sam là dụng cụ trừ cỏ, Cố Dã Vương cho rằng: Sam là cái lưỡi liềm cắt cỏ.

Khích khí âm trên hương kích sách Thuyết Văn cho rằng: Vách tường có lỗ hỏng, khe hở, chữ viết từ bộ phụ đến bộ bạch trên dưới là bộ tiểu.

Bần lỹ âm dưới cụ lũ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lũ là nghèo nàn. Mao Thi Truyện cho rằng: Lũ là người không có chỗ ở không có lễ nghĩa.

Y hành âm dưới hàng lãng sách Khảo Thanh cho rằng: Hành là cái giá móc áo.

Niếp nữ quần ngược lại âm trên niêm triếp sách Phương Ngôn cho rằng: Niếp là đi lên, Quảng Nhã cho rằng: Đi giày, sách Thuyết Văn cho rằng: Rơi xuống chữ viết từ bộ túc thanh niếp âm nữ là âm nhữ âm dưới quận quần sách Thuyết Văn cho rằng: Quần là cái xiêm, cái váy, cái quần dưới, chữ viết từ bộ y thanh quần hoặc là viết chữ quần cũng thông dụng.

Khả quái âm dưới đúng là chữ quái sách Thuyết Văn cho rằng: Quái dị, khác thường, chữ viết từ bộ tâm thanh quái Cố Dã Vương cho rằng: Phàm vật gì kỳ dị rất khác thường đều gọi là quái Văn Truyện viết từ bộ chữ quái chữ cổ hoặc viết chữ quái tục tự thường hay dùng.

Quỳnh viển ngược lại âm trên hỏa sính Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Quỳnh giống như là xa xôi, ngoái nhìn lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Cầu mong nhiều, vọng cầu nơi xa xôi, chữ viết mân người xưa thường ở trong hang, nên mong cầu, chữ hội ý âm mâm là âm uy.

Thê nô âm dưới là nô sách Thượng Thư cho rằng: Con và vợ là giết các ông, Văn Tự Điển nói rằng: Chữ viết từ bộ tử thanh nô Văn Truyện viết từ bộ cân viết thành chữ nô ngược lại âm thang lãng là chẳng phải.

Đồng quan âm dưới quan hoạn văn trước quyển thứ ba đã giải thích đầy đủ rồi.

Truy thù âm trên tử sư Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tám lạng là con số rất nhỏ gọi là truy sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ kim thanh truy âm truy là âm truy âm dưới là thù chữ viết từ bộ kim thanh chu Văn Truyện viết chữ truy là tên sông Truy Thù, chẳng phải là số đơn vị ít ỏi.

Dũng hãn âm trên dung dũng Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ dũng âm dưới hàn ngạn Quảng Nhã cho rằng: Khéo léo sách Thuyết Văn cho rằng: Chống đỡ hung tợn, chữ viết từ bộ tâm thanh hãn.

Chĩnh sắc âm dưới sơ sắc văn trước trong quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 19

Trí tảo âm dưới là tảo danh tăng.

Chí điểu âm trên là chí Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Chí là loài mảnh điểu, Quảng Nhã cho rằng: Loại diều hâu, sách Sở Từ cho rằng: Chí là loài chim sống không có từng bầy, giống như chim ưng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ điểu đến bộ chấp.

Kháp dương âm trên là hạp tên huyện Đồng Châu, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kháp giống như là hạp xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ấp thanh hạp.

Gia xuy âm trên là gia ngược lại âm dưới suy thụy theo chữ da đó là nhạc khí của người Hồ, dùng lá lau vấn lại làm hai ống mà thổi, tức nhạc khí của người Hồ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Gia từ bộ trúc thanh da.

Tước pháp sư âm trên tiêu diệu tên bạch tăng. Lại âm tước.

Loát tâm ngược lại âm trên số quát sách Nhĩ Nhã cho rằng: Loát là chà rửa thật sạch. Quách Phác chú giải rằng: Quét dọn chà rửa, chỗ gọi là sạch sẽ mát mẻ, Quảng Nhã cho rằng: Loát là có lợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ đao bộ loát thanh tĩnh âm loát ngược lại âm sở liệt Văn Truyện viết từ bộ thốn viết thành chữ loát là sai.

Thiểu nhiên âm trên tửu do sách Lễ Ký cho rằng: Phu tử vẻ mặt không vui nên muốn sửa đổi dung mạo, sách Khảo Thanh cho rằng: Thiểu giống như lo âu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thanh thu.

Trưu ốc âm trên trửu lưu âm trửu ngược lại âm tri liễu sách Thuyết Văn cho rằng: Trửu gọi là đánh ra tiếng kêu từ bộ hạnh bộ phộc đến bộ mảnh chữ chuyển chú, tên huyện Hữu Phò Phong, âm dưới chân túc âm hạnh ngược lại âm nữ trắc.

Giao liệt âm dưới liên triết Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Liệt là che trùm. Trong quyển thứ mười ba đã giải thích rồi.

Trữ linh ngược lại âm trên trừ lữ âm dưới lịch đinh văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ mười ba đã giải thích đầy đủ rồi.

Sanh bách âm trên lặc trinh tên cây, trong vùng sa mạc tên loại cây nhỏ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh thánh.

Lương hộ âm dưới hồ cổ tên sông Hà Hồ Hộ ở Tần Xuyên.

Như tả âm dưới tinh dã Văn Tự Tập Lược giải thích tả là dòng nước chảy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh tả.

Hiểm duẩn phong quán âm trên phú dung Tự Thư viết đúng là chữ phong sách Sử Ký giải thích phong là nổi lửa lên. Đôn phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Phong là phóng lửa, sách Thuyết Văn cho rằng: Các chư hầu có việc khẩn cấp nổi lửa lên làm tín hiệu, chữ viết từ bộ hỏa thanh phong âm dưới quan loạn sách Thuyết Văn cho rằng: Quán là nổi lửa lên, chữ viết từ bộ thanh quán. Hạp nhiên âm trên kham hạp văn trước quyển thứ tư đã giải thích rồi. Quỳnh quỳnh ngược lại âm trên quý vinh âm quỳnh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quỳnh là cô độc không có chỗ nương nhờ, lại cho rằng: Lo buồn xa xôi, sách Thuyết Văn viết từ bộ tấn đến bộ quỳnh thanh tĩnh.

Huy hoại âm trên huyết quy Tự Thư viết đúng chữ đọa Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Huy là phế bỏ, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Huy là hủy bỏ, tổn hại sách Phương Ngôn cho rằng: Hư hoại, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ thanh tỷ ngược lại âm dưới hoài mại.

Quân hà âm trên là quân Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Quân là giống hươu mà nhỏ màu vàng đen. Âm dưới là da Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hà là loại thú giống hươu đực, nai đực sách Thuyết Văn giải thích rằng: Loài nai đến mùa hè là cởi bỏ cái sừng. Quân hàn hai chữ đều từ bộ lộc chữ hình thanh.

Hàn cấu ngược lại âm trên vũ câu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hàn là tên sông trong huyện Lạc Dương. Sách Thuyết Văn cho rằng: Là Chu Vũ Vương Phong Đất chữ viết từ bộ ấp thanh can Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành chữ cấu là chẳng phải.

Trí nghiệt âm dưới ngôn liệt sách Khảo Thanh cho rằng: Nghiệt là cái đích chuẩn để bắn mũi tên, cũng gọi là trụ cột âm quyết ngược lại âm quyền nguyệt.

Sơ dược âm dưới can lược sách Mạnh Tử cho rằng: Dược là khơi thông dòng nước, theo Thanh Loại cho rằng: Dược là vật chẻ ra làm hai nấu chín, Văn Tự Điển nói ngâm vào nước chữ viết từ bộ thủy thanh dược.

Hùng hãn âm dưới là hạn sách Thuyết Văn cho rằng:

Hạn là chống cự lại dũng mãnh, chữ viết từ bộ tâm thanh hạn sách Khảo Thanh cho rằng: Hãn là mạnh mẽ, dũng mãnh.

Phấn phát ngược lại âm trên phân vấn ngược lại âm dưới phiên vạt xem trước đã giải thích rồi. Trong sách Thuyết Văn đều cho rằng: Chữ chánh thể.

Hấp thấu âm trên hâm hấp Quảng Nhã cho rằng: Hấp là uống vào, Mao Thi Truyện cho rằng: Dẫn hơi vào. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hít hơi thở, chữ viết từ bộ khẩu thanh cập âm dưới song tróc Thiên Thương Hiệt cho rằng: Thấu là uống vào. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thấu là bú, mút, ngậm, chữ viết từ bộ phiếm thanh thứ. Phiếm khả âm dưới ca ngã sách Phương Ngôn cho rằng: Khả là chiếc thuyền tên một chiếc thuyền, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là chiếc thuyền, chữ viết từ bộ chu đến bộ khả.

Thương hoàng ngược lại âm trên sở canh sách Thuyết Văn cho rằng: Thương là cây súng, tiếng khua kim loại, chữ viết từ bộ kim thanh thương âm dưới là oanh Mao Thi Truyện cho rằng: Tiếng khua chiêng trống, tiếng hòa nhạc, chữ viết từ bộ kim thanh hoàng Văn Truyện viết chữ tranh lạc là sai. Trụ Văn viết từ bộ âm viết thành chữ hoàng cũng viết chữ hoàng âm nghĩa đều đồng.

Cương thạch âm trên là cương sách kệ tụng cho rằng: Cương thạch là đá màu trắng, mà giống như kim cương vì vậy mà đặt tên, Bì Thương cho rằng: Đất hóa đá, sách Văn Điển nói: Chữ viết từ bộ thạch thanh cương.

Toái khái âm trên phách manh Quảng Nhã cho rằng:

Toái khái là tiếng đá va chạm với nhau. Tự Thư cho rằng: Tiếng đá khua lớn, âm dưới cam hạp đều Văn Tự Điển nói: Toái viết đúng là toái khái từ bộ cũng viết thành chữ khái đều từ (897) đều nghĩa đã dưới nước va chạm tiếng than của đá, Văn Truyện viết chữ khái tục tự thường hay dùng.

Phong chuyên trên đúng là chữ phong ngược lại âm dưới ngang các xem trước đã giải thích rồi.

Kình dĩ ngược lại âm trên cạnh nghinh Quảng Nhã giải thích Kình nghĩa là nâng lên, giơ cao. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cũng là nâng cao lên, chữ viết từ bộ thủ thanh kính hoặc là từ bộ quan viết thành cư kình âm nghĩa giải thích cũng đồng. Văn Truyện viết chữ kình là chẳng phải.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 20

Tân phân âm trên thất dân âm dưới nhữ văn theo Hàn Thi Ngoại Truyện cho rằng: Tâm là qua lại lộn xộn. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tân là nhiều tràn đầy, cũng là nảy sinh rất nhiều, đông đúc.

Nghi trạo ngược lại âm trên nghi kỹ ngược lại âm dưới thác giáo sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ nghi nghĩa là chiếc thuyền đi đúng hướng, đến bờ bến, Văn Truyện viết từ bộ chu viết thành chữ nghi.

Lâm tiếu âm dưới thất tiếu văn trước Hoằng Minh Tập đã giải thích rồi.

Canh sáp âm trên canh hạnh âm dưới sâm tập xem trước quyển thứ sáu đều đã giải thích rồi. Văn Truyện viết từ hai bộ nhẫn viết thành chữ sáp là sai.

Sát sự âm trên sạn trác Tự Thư cho rằng: Cùng với chữ sát đồng nghĩa. Vệ Hoằng viết từ bộ ngôn viết thành chữ sát âm nghĩa đều đồng. Văn Truyện viết từ bộ cửu viết thành chữ sát là sai lầm.

Trách thượng âm trên là trách Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Trách là giường làm bằng tre. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ trúc thanh trách.

Huyên nạo âm trên huyên âm dưới nổ giao chữ huyên sách viết đúng là chữ huyên văn trước đã giải thích rồi.

Hoạch lân âm dưới lật trân Xuân Thu Tây Truyện giải thích: Bắt được kỳ lân là vậy. Tự Thư viết đúng từ bộ lận viết thành chữ lân Văn Truyện viết chữ lân tục tự thường hay dùng.

Kháng lệ ngược lại âm trên khang lãng theo Tả Truyện nói rằng: Không thể che đậy sự tỏ tình đôi lứa, nam nữ yêu nhau, hay vợ chồng, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Kháng là chống đối địch với nhau. Dưới dân đen chống đối lại hoàng đế, vua chúa. Bì Thương lại cho rằng: Lệ giống như đối bạn. Quảng Nhã cho rằng: Là người bạn đồng hành. Xưa nay Chánh Tự cho rằng:

Kháng lệ hai chữ đều từ bộ nhân cũng là thanh kháng lệ. Hợp cẩn ngược lại âm dưới là âm cẩn Tự Thư từ bộ thảo viết thành chữ cẩn sách Nghi Lễ nói rằng: Bốn chén rượu mà hợp lại với nhau là cẩn trung hữu lại chú giải rằng: Cẩn là cắt trái bầu ra mà hợp thì gọi là cẩn sách Thuyết Văn nói rằng: Cản là che đậy, từ bộ tiết đến bộ thủy thủy cũng là thanh chữ hội ý.

Thuật khuyến ngược lại âm trên tuân duật sách Khảo Thanh cho rằng: Thuật là dẫn dắt lấy điều thiện mà dạy bảo, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Khuyên bảo dẫn dụ, chữ viết từ bộ ngôn thanh thuật.

Nhục thực ngược lại âm trên nhu chúc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sáng sớm mà ăn nơi giường nằm, sách Phương Ngôn nói rằng: Rất dày, sách Thuyết Văn cho rằng: Bày biện trên cỏ rồi lại mọc lên gọi là nhục chữ viết từ bộ thảo thanh nhục.

Kháp châu ngược lại âm trên khẩu giáp Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Kháp là níu kéo. Khảo Thanh cho rằng: Dùng ngón tay cào gãi. Kháp tức là bấm đếm hạt châu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ đến bộ trảo đến bộ cửu chữ hội ý.

Sáp giả ngược lại âm trên phạm hạp xem trước đã giải thích rồi, Văn Truyện viết chữ chững là sai lầm.

Sấn xỉ ngược lại âm trên sơ cẩn xem trước đã giải thích rồi Văn Truyện viết từ bộ kỹ viết thành chữ sấn là chẳng phải.

Môi đài ngược lại âm trên muội bối âm dưới đãi hài sách Khảo Thanh cho rằng: Môi đài là đóng một áo rêu xanh, theo chữ môi đài là xưa nay ngồi trong rừng trúc thâm u tọa thiền, hoặc là áo có một lớp màu xanh lục, hoặc màu xanh dương.

Cận miễn âm trên tấn cận Quảng Nhã giải thích: Cận là chút ít qua loa. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: thiếu kém sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh cận âm cận là âm cẩn.

Giá vu âm trên giá dạ âm dưới thiên ngộ trước Cao Tăng Truyện đã giải thích rồi.

Tánh cân âm dưới cân cận xem trước đã giải thích rồi trong quyển Tăng Triệt Tánh.

Nghiểm hiểm âm dưới nghiêm kiểm Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hiểm là hình dáng núi như là trái trên cây cả hai dựa kề nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Vách núi, chữ viết từ bộ phụ thanh kiêm kiếm viết đúng là chữ kiêm Văn Truyện viết chữ kiêm tục tự thường hay dùng.

Sung ế âm dưới yên kiết Văn Truyện viết từ bộ môn viết thành chữ khuyết tục viết chữ mậu Mao Thi Truyện cho rằng: Trong lòng như bị nghẹn. Mao Lương Truyện cho rằng: Hơi bị nghẹn không thở được, sách Khảo Thanh cho rằng: Hơi bị tắt nghẽn sách Thuyết Văn cho rằng: Ăn cơm bị nghẹn, chữ viết từ bộ khẩu thanh ế âm thất ngược lại âm chân lật.

Phả giai âm trên bì ngã Thống Tự giải thích Phã là có thể. Tự Thư cho rằng: Phã là không thể xem trước đã giải thích rồi.

Mâu thuẫn âm trên môi xem trước đã giải thích Văn Truyện viết chữ mâu Tự Thư viết từ bộ khẩu viết thành chữ mâu thành bán bổn nghĩa nay không dùng. Mâu là loại giáo dài một trượng hai thước, văn cổ cũng viết từ bộ qua viết thành chữ mâu âm trên vấn âm dưới là thần chuẩn thuẫn là che, hai chữ trước đều hy Cao Tăng Truyện quyển thứ nhất giải thích rồi, phác là âm phạt.

Khiên phụ ngược lại âm khứ kiền Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khiên là có lỗi lầm. Tự Thư viết đúng là chữ khiên nghĩa cũng là có lỗi lầm, Vệ Hoằng viết từ bộ ngôn viết thành chữ khiên văn cổ viết chữ khiên ngược lại âm quy thú âm đều đồng âm trên tục tự viết khiên.

Sai nan âm trên sở ca Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Là trong lòng đã tha thứ cho người rồi, đây cũng là từ ngữ người nước Sở dùng.

Biển thiểm ngược lại âm trên tiên yên Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Biên là gấp vội, sách Thuyết Văn cho rằng: Biển là nhỏ hẹp, chữ viết từ bộ y thanh biên âm biên ngược lại âm biên biện Văn Truyện viết từ bộ khuyển viết thành chữ biên là chẳng phải, sách Khảo Thanh cho rằng: Biển là chật hẹp áo nhỏ bé, hoặc là viết chữ biển.

Oa long âm trên ô qua sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là dưới thấp, chữ viết từ bộ huyệt thanh qua âm qua ngược lại âm quả hoa âm dưới lục trung sách Thuyết Văn cho rằng: Long xanh tươi tốt, to lớn, chữ viết từ bộ phụ bôn suyển đến bộ thổ.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 21

Pháp tương âm dưới tích dương biệt danh tăng.

Giao chỉ âm dưới là chỉ quận Giao Chỉ, xem trước đã giải thích rồi.

Kịch đàm ngược lại âm trên kình kích Thiên Thương Hiệt giải thích rằng: Kích là đau bệnh nặng. Cố Dã Vương giải thích rằng: Rất nặng Văn Tự Điển nói rằng:

Chữ viết từ bộ đao thanh kịch âm kịch là âm cự.

Quyệt quỷ âm trên là quyết âm dưới là quỷ xem trước quyển mười bảy đã giải thích rồi. Chữ quỷ trong Cao Tăng Truyện quyển thứ hai cũng đã giải thích rồi.

Thanh dương âm đây dược chương sách Thuyết Văn viết đúng là chữ dương nghĩa là chỗ gió thổi bay bay, chữ viết từ bộ phong thanh dương Văn Truyện viết chữ dương.

Ngưng điện âm dưới điền kiến Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Điện là trơn nhuận trạch. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh điện.

Ức hỷ âm trên ư tuệ Tự Thư cũng viết từ bộ hòa viết thành chữ uế uế là loại rau cỏ dại mọc um tùm, lại cũng không sạch sẽ, cũng lại dơ cấu. Xưa nay chánh tự cũng cho rằng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ hòa thanh tuế cũng từ bộ thảo viết thành chữ uế cùng với Văn Truyện cũng đồng.

Huệ hiến âm dưới ngôn kiển danh tăng.

Tỏa lạp âm trên thô ngọa âm dưới lam hạp xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ ba đã giải thích rồi.

Tuệ tông âm dưới tông khổng danh tăng cũng là âm thông.

Trùng trĩ âm trên trọng trung âm dưới thinh bội sách Thuyết Văn cho rằng: Trĩ là loài sâu trên nó dài, đi bằng bụng gọi là trĩ chữ tượng hình, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Không có chân gọi là trĩ trùng.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 22

Thiều miên ngược lại âm trên địch liên văn trước Cao Tăng Truyện quyển thứ nhất đã giải thích đầy đủ rồi.

Quyển quái âm trên quyến huyền âm dưới hoại ngoại sách Thuyết Văn cho rằng: Quái là ngòi nước dẫn vào trong ruộng, chỗ hội tụ các dòng nước. Tự Thư viết đúng từ hai bộ quyết viết thành chữ xuyên nghĩa là trăm dặm có một dòng nước rộng là hai tầm, hẹp là hai trượng một nhẫn.

Vu hích âm trên vô âm dưới hình kích xem trước Cao Tăng Truyện đã giải thích đầy đủ rồi.

Phu thành âm trên vũ vô theo Hán Thư cho rằng: Phu thành tức là phu châu, ở phía trước vị thủy, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh lộc thanh giao ngược lại âm phủ giao.

Đồi đà âm trên đoài hồi xem trước quyển thứ tư đã giải thích rồi. Âm dưới đà khả xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đà là rơi rụng xuống, chữ viết từ bộ phụ thanh đa lại cũng từ bộ đà viết thành chữ đà âm nghĩa đều đồng, âm tha là âm đà.

Thố bưu âm trên tha lộ Văn Truyện viết từ bộ thảo viết thành chữ thố cũng đều thông dụng, cũng là nghĩa chồn thỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Thố là con thú chạy nhảy, cũng có thể ngồi xổm, cũng giống như có đóm và đuôi ở phía sau, âm dưới bỉ hưu Văn Truyện viết chữ bưu tục tự thường hay dùng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Bưu là con hổ, theo Văn Tự viết từ bộ hổ đến bộ sam giống như lông con hổ có vằn vện.

Khanh tĩnh âm trên khách canh Văn Truyện viết từ bộ thổ viết thành chữ ngoạn tục tự thường hay dùng. Xem trước quyển thứ mười ba đã giải thích rồi, âm dưới tình dĩnh Văn Truyện viết từ bộ huyệt viết thành chữ tĩnh xem trước quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Nguyên đảo âm dưới tẩu đáo xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ ba đã giải thích rồi.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 23

Tăng mảnh âm dưới mạc hạnh danh tăng, tục viết chữ mảnh.

Tịnh mật âm dưới dân tất sách Nhĩ Nhã giải thích văn cổ rằng: Mật là yên ổn, an tịnh. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mật là yên tĩnh, chữ viết từ bộ ngôn thanh tất âm đồng với âm trên.

Lưu đãng âm dưới đường lãng sách Thuyết Văn cho rằng: Trải qua mười dặm gọi là động thất, nhà nhỏ trong động, chữ viết từ bộ miên thanh dương tĩnh âm dương là âm đường.

Trừng ngãi âm trên là trừng âm dưới ngã cái.

Phu địa âm trên bào bao sách Khảo Thanh cho rằng: Dùng tay mà ngắt bẻ. Văn cổ viết chữ phù tục tự viết phảo cũng đồng, Văn Truyện viết chữ phao là chẳng phải.

Thao quật ngược lại âm trên thảo đao Văn Truyện viết từ bộ thủy viết thành chữ thao Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thao là tẩy rửa tay, vốn chẳng phải nghĩa này, nay không dùng. Thao theo Tả Truyện cho rằng: Xoay vòng bên trái, Chu Thư cho rằng: Người tướng soái phải biết cầm binh khí giới, nhỏ sạch, đánh dẹp, đều Thuyết Văn cho rằng: Thao là đào lấy quan tài, âm quan ngược lại âm uyển hoạt từ bộ thủ thanh thao âm thao là âm đào âm dưới hoạt cốt hai âm. Tự Thư cho rằng: Quật là khuấy động khiến cho nước đục, Thiên Thương Hiệt cho rằng: Dòng nước chảy thông thương gọi là quật lại viết chữ mịch sách Nhĩ Nhã cho rằng: Mịch tức là dòng nước chảy cuồn cuộn. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Dòng sông chảy. Quảng Nhã cho rằng: Nước chảy sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh khuất khuất bạch đều đồng âm.

Tạp nhu âm dưới là nữ cứu văn trước Tục Cao Tăng Truyện trong quyển thứ hai đã giải thích rồi.

Luân tư âm trên là luận Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Luân là chìm sâu dưới là tư dữ Bì Thương giải thích tư là trôi dạt, sách Thuyết Văn giải thích Tư là vượt qua, chữ viết từ bộ thủy thanh tư.

(898) Đạo chích âm dưới chinh thạch xem trước đã giải thích rồi. Viêm hy âm dưới hỷ hy tục tự thường hay dùng. Tự Thư viết đúng chữ hy Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hy là hòa hợp gọi là chế ngự, lại trong kinh Sơn Hải gọi là vợ của thiên đế, gọi tên Hy Hòa, mới sinh ra mười ngày, Vương Dật giải thích sách Sở Từ rằng: Hy là dáng mạo quang minh sáng lạng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hy thanh nghị.

Chân loan âm trên chất nhân họ của người.

Tuần tuần ngược lại âm tu quân âm quân ngược lại âm duật tuần Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Tuần tuần là dáng vẻ ôn hòa cung kính, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh tuần.

Huyền diệu âm trên huyền luyện Thiên Thương Hiệt giải thích: Huyền là nhìn thấy không rõ ràng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh huyền âm dưới là diệu viết từ bộ nhật Văn Truyện viết từ bộ mục là chẳng phải.

Thai giác âm dưới khổ giác xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ tư đã giải thích đầy đủ rồi.

Cánh đệ âm trên là canh âm dưới đề lể xem trước quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Bì ngược lại âm trên bỉ mi âm dưới tích án bì tích tức là lột vỏ cây ra, gọi là phân tích, giải thích cho hiệt. Tự Thư đều không viết từ bộ đao viết thành bộ đao Tục tự thường hay dùng.

Thâm oa âm dưới ô hòa gọi là dáng nước chảy, cũng gọi là tên của dòng sông ở quận Tiều.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 24

Hồi tất ngược lại âm dưới tân mật xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ tám đã giải thích rồi.

Thiên quyến ngược lại âm khuyết quyển Tự Thư viết đúng chữ quyến Mao Thi Truyện cho rằng: Quyến giống như chăm sóc. Sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Quyến là chăm sóc xem ngó nhìn, chữ viết từ bộ mục đến bộ quyển thanh tĩnh Văn Truyện viết chữ quyển tục tự thường hay dùng.

Hiểm duẩn âm trên là hiểm âm dưới là duẩn Tự Thư viết đúng chữ hiểm duẩn xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ mười hai đã giải thích rồi. Văn Truyện viết chữ hiểm cũng thông dụng.

Thành xác âm dưới không giác xem trước quyển thứ hai đã giải thích đầy đủ rồi.

Bại tán âm trên bại âm dưới tán xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Thê đằng âm dưới thằng chứng xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ hai đã giải thích rồi.

Kiêu hãn âm trên hiểu nhiêu Hứa Thúc Trọng giải rằng: Kêu là dũng mãnh, ngựa chạy mau. Hán Thư cho rằng: Người tướng quân cỡi trên lưng con ngựa oai phong, Quảng Nhã cho rằng: Mạnh mẽ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kiêu là con ngựa hay, chữ viết từ bộ mã thanh nhiêu âm dưới hàn đán xem trước quyển mười chín đã giải thích rồi. Cũng có từ bộ tâm viết thành chữ hãn nghĩa cũng đồng nhau.

Trùy hoặc âm trên xuất chuy âm dưới hằng khắc Cố Dã Vương cho rằng: Hặc là ấn vào ngục vạch tội tra xét, lại cũng gọi là biện tội ấn tội trong ngục. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Biện tội trong ngục hình phạt đã xong. Sách Sử Ký chép rằng: Hặc là vạch tội, sách Thuyết Văn cho rằng: Hặc là phương pháp làm cho có tội khai ra, chữ viết từ bộ đao thánh hợi Văn Truyện viết từ bộ nhẫn viết thành chữ hặc là sai lầm.

Ban cáo âm trên bát biến Tự Thư viết đúng chữ ban xem trước quyển thứ đã giải thích đầy đủ rồi.

Cứ trừ âm trên cự ngư âm dưới là trừ xem trước quyển thứ tám đã giải thích đầy đủ rồi.

Đam thuật âm trên tha hàm tên của Lão Tử, Văn Truyện viết từ bộ thiệt viết thành chữ cam chẳng phải bổn nghĩa. Xem trước Biện Chánh Luận đã giải thích rồi, đều Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ bộ đam là đúng chữ hoặc là từ bộ thân viết thành chữ đam.

Cổ diệp âm dưới điềm hiếp Tự Thư viết từ bộ phiến viết thành chữ diệp Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành chữ diệp là sai xem trước đã giải thích rồi.

Cầu thế âm trên cầu câu xem trước quyển thứ chín đã giải thích rồi.

Chi huệ âm dưới huề khuê xem trước xem Cao Tăng Truyện quyển thứ mười hai đã giải thích đầy đủ rồi.

Cảo nhai âm trên cao đạo Cố Dã Vương giải thích rằng: Cảo giống như là cỏ rác. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh cao âm dưới giới hài Cố Dã Vương giải thích nhai là ngã tư đường. Hán Thư giải thích rằng: Cảo nhai như là vùng đất Man Di, giống dân tộc còn thiếu văn minh. Xưa nay Chánh Tự viết đúng từ bộ hành thanh giai.

Phân xâm âm trên là phân âm dưới tử trẩm Trịnh Tiễn chẳng sách Chu Lễ rằng: Xâm là khí âm dương tương hợp thấm ướt lần lần, trở thành tai họa. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Xâm là màn sương mỏng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Xâm là khí cảm tốt lành, chữ viết từ bộ thị tới bộ xâm thanh tĩnh.

Huân do âm trên huấn vân âm dưới dậu chu xem trước giải thích trong quyển Giáo Lục giải thích rồi.

Tố tật âm dưới là tật xem trước đã giải thích rồi.

Võng thượng Văn Truyện viết từ bộ ngôn viết thành bộ võng là sai lầm. Sách Nhĩ Nhã giải thích võng tức không lỗ trống. Sách Luận Ngữ giải thích Có thể là khinh khi, không thể tin được. Mã Dung chú giải rằng: Gọi là vu khống. Sách Thuyết Văn viết chữ võng giống như là vân giao nhau.

Vi tông âm dưới tộc tông tên người.

Tàng thê Tự Thư viết đúng là chữ thê sách Thanh văn cho rằng: Người phụ nữ đã có chồng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ đến bộ hựu tức là nắm giữ làm các việc trong nhà đều phải biết. Chữ viết từ bộ triệt thanh triệt ngược lại âm cầu liệt.

Nhục cẩm âm trên nhu chúc Lục Cơ Văn Võ cho rằng: Nhục là màu sắc sáng chói rực rỡ, rườm rà, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhục là nhiều màu sắc như gấm hoa thêu, chữ viết từ bộ mịt thanh nhục.

Điện ái âm trên ểm kiếm theo Mao Thi Truyện giải thích êm là mây che khuất. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vũ thanh yểm âm dưới ai cái sách Khảo Thanh cho rằng: Ải là sương mù che một lớp mây chữ viết từ bộ vũ thanh ái viết thành chữ ái nghĩa có phải khác lạ.

Cúc-đa âm trên cúc tiếng Phạm Cúc-đa là ngôn từ.

Tương nhĩ âm dưới di bì theo Mao Thi Truyện cho rằng: Nhĩ là dừng nghỉ. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Chưa nghỉ ngơi. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Quên mất, sách Thuyết Văn giải thích nhĩ là chui của cây cung, cũng gọi là nhĩ, chữ viết từ bộ cung thanh nhĩ.

Tướng trá âm trên thất dư Quảng Nhã giải thích: Loài khỉ vượn Thiên Thương Hiệt cho rằng: Thư là hầu hạ, sách Thuyết Văn cho rằng: Thư thuộc loài vượn, chữ viết từ bộ khuyển thanh thư âm thư ngược lại âm tử dư âm dưới trách giá.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 25

Nhuyễn nhuyễn ngược lại âm nhi duẩn sách Thuyết Văn cho rằng: Loài suyển động, loài côn trùng bò lúc nhúc, chữ viết từ bộ trùng thanh nhuyễn.

Đổ mã âm trên đô lổ Ngô Chí giải thích: Đổ là cạnh tranh trong trò chơi để cầu lợi, tức là đánh bạc. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh giả.

Sắc tiển âm dưới tiên tiển Tự Thư viết đúng là chữ tuyền xem trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Hiệp nhãn âm trên tiềm diệp Tự Thư viết đúng là chữ tiệp Trang Tử giải thích Tiệp là lông mi mắt, Văn Tự Tập Lược viết từ bộ mao viết thành chữ tiệp Văn Tự Điển nói: Tiệp là con mắt bên lông mày, chữ viết từ bộ mục thanh hiệp âm tiệp đồng với âm trên.

Khiếm tặng ngược lại âm dưới thừa chứng sách Thuyết Văn giải thích Tặng lấy tài của cho người chữ viết từ bộ bối thanh chẩm lại cũng gọi là đưa tài vật tặng thêm cho người, âm chẩm là âm tống Văn Truyện viết chữ tặng tục tự thường hay dùng.

Luyến cấp âm trên luyến viên xem trước đã giải thích rồi.

Khố điệp âm trên là khố âm dưới chiếp Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Điệp giống như áo kép, Thích Danh cho rằng: Khố điệp đó là áo để mặc che lại. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ y thanh tập.

Phẫn đồng âm trên phò phân âm nghĩa Hán Thư giải thích: Phẫn giống như xe kéo, có người nô tỳ kéo xe, cho nên Dương Hùng Trưởng trong truyện Dương Võ giải thích rằng: Phẫn là chiếc xe kéo của người nô bộc âm uyển là âm uẩn sách Thuyết Văn cho rằng: Tên xe của Chuẩn Dương cùng long, chữ viết từ bộ xa đến bộ thanh phẫn âm dưới xúc dung Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phẫn là loại chiến xa, sách Thuyết Văn cho rằng: Loại quân xa, chữ viết từ bộ xa thanh đồng cũng là thanh.

Mạc trách âm trên luyến bát sách Khảo Thanh cho rằng: Mạt là cái nhỏ bó buộc lại. Tự Cảnh lại viết từ bộ cân viết thành bộ mạt nghĩa cũng đồng với chữ mạt sách Vận Thuyên cũng viết từ bộ cân viết thành chữ mạt Văn Truyện viết chữ bách lại là âm mạch chẳng phải nghĩa. Nay không dùng, âm dưới ngạch cách Tự Thư viết đúng chữ ngạch Văn Truyện viết chữ ngạch tục tự thường hay dùng.

Chấp quặc âm trên đúng là chữ chấp xem trước đã giải thích đầy đủ rồi, âm dưới cuống hoắt Hoài Nam Tử giải thích cắt, đoạn ra. Sách Thuyết Văn giải thích rằng: Hoắt từ bộ kim đến bộ hoắc cũng là thanh âm hoắc đồng với âm trên, âm quặc ngược lại âm vui bác.

Phong ngạc trên đúng là chữ phong âm dưới ngang các xem trước đã giải thích rồi.

Sàm nghiểm âm trên nhâm sam Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Sàm nghiểm là núi hiểm trở Quảng Nhã giải thích rằng: Núi cao, xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ sơn cũng là thanh sam nghiêm. Thần chinh âm dưới chích bồn xem trước đều đã giải thích rồi.

Vi túng ngược lại âm trên vi ủy sách Khảo Thanh cho rằng: Vi là tư ngữ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh viên.

Thanh hạ âm trên đúng là chữ thanh, ngược lại âm dưới sở trá sách Khảo Thanh cho rằng: Hạ thanh là tiếng đập đá vở vụn. Tự Thư giải thích rằng: Đều không phải như vậy. Quảng Thương cho rằng: Chữ viết từ bộ khiếm viết thành chữ hạ âm giải thích đều đồng.

Tước tiều ngược lại âm trên tường lược Tự Thư cho rằng: Tước giống như là nhai. Cố Dã Vương giải thích rằng: Là bú mớm. Văn Tự Điển cho rằng: Tước giống như là đút mớm cho ăn, chữ viết từ bộ khẩu thanh tước ngược lại âm dưới tiều tiếu sách Lễ Ký cho rằng: Tiều là nhai mà không há miệng ra Văn Tự Điển nói: Cắn bú chữ viết từ bộ khẩu thanh tiều.

Điền ế âm trên điện niên Văn Truyện viết từ bộ môn viết thành chữ điền tục tự thường hay dùng. Sách Bátnhã giải thích Điền là lắp bít, tắt nghẽn, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ điền là tắt nghẽn chữ viết từ bộ huyệt thanh chân.

Tỏa lậu âm trên tọa qua Quảng Nhã giải thích Tỏa là ngắn ngủi. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thỉ thanh tọa âm dưới lâu hầu sách Thuyết Văn cho rằng: Lậu là nơi vùng biên ải chật hẹp, người dân còn ngu dốt xấu ác bỉ lậu, chữ viết từ bộ phụ thanh lậu âm lậu đồng với âm trên.

Tổng pháp sứ âm trên thái thông tổng là thi hài. Danh tăng Tự Thư cho rằng: Suy nghĩ đúng chữ thông từ bộ tư cho nên có sự suy nghĩ đúng.

Giàm chi âm trên hàm cảm sách Thuyết Văn cho rằng: Cảm là sự rung động trong lòng.

Đỗ liệt âm trên ô giao âm dưới lân niết ảo là ấn xuống theo ảo liệt nay giải thích dùng tay bẻ gãy vật.

Chí bảo ngược lại âm dưới bảo mao xem trước đã giải thích đầy đủ rồi. Văn Truyện viết chữ bảo là sai.

Cửu sổ âm trên là cựu xem trước đã giải thích rồi. Văn Truyện viết chữ cửu là sai.

Khái thấu âm trên khai ái âm dưới sưu đậu xem trước đã giải thích đầy đủ rồi, Văn Truyện viết khái tục dùng là sai.

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 26

Đàm giai âm dưới hải giai (890) danh tăng Tự Thư giải thích giai là ngọc màu đen.

Nê ninh ngược lại âm trên nhĩ để Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nê là đất bùn trong nước, Cố Dã Vương cho rằng: Nê bụi đất dơ, được rửa trong nước làm cho sáng sạch. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh ni ngược lại âm dưới ninh định theo Tả Truyện cho rằng: Ninh là nước xoáy vòng tròn mà dừng lại. Đỗ Dự chú giải rằng: Ninh cũng là bùn đất. Quảng Nhã cho rằng: Trong sạch Thuyết Văn cho rằng: Sáng sủa chữ viết từ bộ thủy đến bộ thanh ninh.

Úng sai ngược lại âm ốc cống Bì Thương cho rằng: Úng là bị nghẹt mũi bệnh cảm. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ tỵ thanh ung.

Chúng hỏa âm dưới hòa quả chữ thượng thanh, Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Người nước Sở gọi đông nhiều hỏa sách Thuyết Văn viết từ bộ đa thanh quả.

Pháp giai âm dưới khách hài danh tăng.

Hồi khám âm dưới thâm lam Bì Thương chú giải rằng: Khám là cúi xuống mà nhìn, cũng từ bộ môn viết thành chữ khám xem trước đã giải thích rồi.

Doanh châu âm doanh xem trước đã giải thích rồi.

Ái đãi ngược lại âm trên ai đại âm dưới hào lai Bì Thương giải thích rằng: Ái đãi là mây ùn ùn kéo tới che mờ mịt không thấy rõ, sách Khảo Thanh cho rằng: Nhiều mây che phủ.

Ngâm tiêu âm dưới tiêu điếu Tự Thư viết đúng từ bộ khiếm viết thành chữ điều gọi là ca hát, miệng cong lưỡi lại xuất ra tiếng, cho nên có bài thi rằng: Ca vịnh thổi sáo, hát xướng làm trò vui. Sách Thuyết Văn cho rằng: Ngâm vịnh, chữ viết từ bộ khiếm thanh tiêu Văn Truyện viết chữ tiêu tục tự thường hay dùng.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 27

Phù lăng âm trên là phù Hán Thư giải thích: Phù là con sông rộng lớn ở huyện Phù Lăng, nay là hiệp trung phù châu.

Nhương tam bách ngược lại âm nhược chương Văn Tự Tập Lược giải thích: Nhương thuộc bộ tộc người ở Tây bắc Trung Quốc, sách Khảo Thanh giải thích: Nhương bộ tộc hiệu là nhung chữ viết từ bộ khuyển thanh ngương.

Bài hý ngược lại âm trên bại mai sách Bát-nhã Vận Thuyên Bài tên người ưa thích nhạc âm vui vẻ, sách Khảo Thanh cho rằng: Bài là ưa thích hát xướng, sách Thuyết Văn cho rằng: Bài là người làm trò vui, chữ viết từ bộ nhân thanh phi âm dưới hy nghị Mao Thi Truyện giải thích rằng: Hý là người phóng đãng vui thú. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hý là làm trò hài hước vui sách Thuyết Văn viết từ bộ qua thanh hý âm hý là âm hy.

Lẩm nhiên âm trên lâm cẩm xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ năm đã giải thích rồi.

Bất thuấn âm dưới thư nhuận sách Thuyết Văn cho rằng: Thuấn là mắt dao động nháy nhiều lần, từ bộ mục thanh thuấn cũng từ bộ dân viết thành chữ thuấn âm đồng nhau.

Thân bặc âm dưới bằng bắc sách Chu Lễ giải thích Phàm là người sát nhân làm việc mổ xẻ thịt giết hại sanh vật đem ra chợ bán, Trịnh Huyền chú giải rằng: Bặc là vấp ngã té, té ngã ngửa. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bặc là té ngã mà chết, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Bặc là té ngã về phía trước, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu cũng từ bộ tẩu viết thành chữ phẩu âm đồng với âm trên.

Tranh xúc ngược lại âm trên thác canh sách Vận Lược giải thích rằng: Tranh cũng là xúc tức là va chạm với nhau. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh trường.

Ba khỏa âm trên phách bá Quảng Nhã giải thích rằng: Ba là khăn bịt đầu. Xưa nay Chánh Tự viết từ cân thanh ba âm dưới là quả Văn Truyện viết chữ khỏa là sai lầm.

Lạc giá âm dưới thang nhạ sách Khảo Thanh cho rằng: Lạc giá là mất đi một tiết, một lóng tre, lại cũng gọi là khai mở, Tự Thư viết từ bộ y viết thành chữ giá là chẳng phải Văn Truyện cho rằng: Định nghĩa quái lạ, nay không dùng.

Kiều sơn âm kiêu tên núi hoặc âm kiều kiêu độ dốc dáng núi cao cũng e rằng chẳng phải.

Sảnh dương âm trên đúng là chữ thanh sách Thuyết Văn cho rằng: thanh là màu sắc phía đông, mộc sanh hỏa cho nên từ bộ chu âm dưới ảnh hưởng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chương là con hươu lớn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chương từ bộ lộc thanh chương.

Ngược linh âm trên ngương lược Văn Tự Điển nói rằng: Nhược là vỏ cây trúc, chữ viết từ bộ trúc đến bộ xuyết tóm lược lại là bộ xuyết văn cổ viết chữ nhược sách Khảo Thanh cho rằng: Nhược là lá của ống trúc âm dưới lịch đinh Quảng Nhã cho rằng: Linh tức là ống trúc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mắc của ống trúc chữ viết từ bộ trúc thanh linh.

Ốc manh âm dưới mạch hanh sách Thuyết Văn cho rằng: Manh cũng là cây rui móc ngói nhà, chữ viết từ bộ ngõa đến bộ manh thanh tĩnh.

Hồi xúc âm trên mai hồi Bì Thương cho rằng: Hồi là con chim trĩ. Con giun đất. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ trĩ thanh trùng.

Miến lai âm trên miên biến sách Thuyết Văn cho rằng: Miến là liếc xéo, nhìn nghiêng, chữ viết từ bộ mục thanh miến âm miến là âm miến âm dưới lại đại Thiên Thương Hiệt cho rằng: Lai là mắt liếc nhìn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngươi không chánh, chữ viết từ bộ mục thanh lai âm cũng đồng.

Hao hổ ngược lại âm trên hiếu giao xem trước quyển thứ mười lăm đã giải thích đầy đủ rồi.

Hựu lạc âm dưới lang các Văn Truyện viết chữ lạc tục tự thường dùng. Tự Thư viết từ bộ kim viết thành chữ lạc gọi là thiêu đốt, sách Khảo Thanh cho rằng: Lạc là bàn là, bàn ủi. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh lạc sách Thuyết Văn cũng viết từ bộ đao viết thành chữ lạc âm dưới văn đều đồng.

Hạ manh ngược lại âm dưới bạch manh sách Bátnhã giải thích rằng: Manh là gác trọ sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh bằng.

Phổ khiêu âm dưới là khước xem trước đã giải thích rồi.

Kiết bào âm dưới bào bao sách Sở Từ cho rằng: Tiếng kêu gầm rống của hổ, beo, gấu, Quảng Nhã giải thích Bao là tiếng chim kêu, sách Thuyết Văn cho rằng: Bao cũng là tiếng rống của loài thú trong rừng, chữ viết từ bộ khẩu thanh bao âm bi là âm bi âm hao ngược lại âm hồ cao.

Danh đình âm dưới đinh đĩnh biệt danh của tri mạng. Bao hựu âm dưới hiếu giao Mao Thi Truyện giải thích rằng: Nhữ bao hựu ở Trung Quốc. Trịnh Tiễn cho rằng: Dáng mạo hiên ngang, mạnh mẽ có khí phách cũng như là có sức mạnh hơn người cùng với chữ hao đồng nghĩa, sách Khảo Thanh cho rằng: Dũng mãnh, dáng đẹp đẽ. Xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng đồng nghĩa chữ viết từ bộ hỏa thanh hưu.

Đầu lô âm dưới lỗ hồ sách Khảo Thanh cho rằng: Lô là đầu người xưng đầu người, sách Thuyết Văn cho rằng: Đầu đã đốn gãy, chữ viết từ bộ hiệt thanh lô âm đốn là âm đạt.

Ngạch hàm âm trên nha cách sách Phương Ngôn cho rằng: Ngạch là cái trán, trung hạ cái trán là ngạch âm dưới hàm cảm sách Phương Ngôn cho rằng: Hàm là hai bên má, sách Thuyết Văn cho rằng: Ngạch hàm, hai chữ đều từ bộ hiệt cũng đều thanh cách hàm Văn Truyện viết chữ hoành lịnh là sai.

Huỳnh trung âm trên ô định Văn Truyện viết chữ quỳnh xem trước đã giải thích rồi.

Toàn quá âm trên tuyên huyền âm dưới ô qua sách Khảo Thanh cho rằng: Quá là nước chảy xoáy vòng tròn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh qua.

Quái kỳ âm trên chữ quái cổ đã giải thích trước rồi. Môn viện âm tục viết sai, chữ viện Văn Truyện nhiều lúc viết chữ này cho nên sách phải xem rõ ràng lại trước sau đều đồng.

Bì ngạch âm dưới nha cánh Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ cách đến bộ cánh gọi là chắc chắn kiên cố. Văn Tự Điển cho rằng: Đồng nghĩa Khảo Thanh cho rằng: Lại cũng từ bộ thạch viết thành chữ ngạnh nay thông dụng, nên dùng lưu thông Văn Truyện viết từ bộ ngan viết thành chữ ngạnh âm cũng Tự Thư cho rằng: Nghĩa thuộc để giày chẳng phải bổn nghĩa, nay không dùng.

Thân cấm ngược lại âm trên thất nhân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thân là ngâm nga, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh than ngược lại âm dưới cầm cấm sách Sở Từ cho rằng: Cấm là ngậm miệng lại mà không nói. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngậm miệng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Thân cấm hai chữ đều từ bộ khẩu cũng thanh thân cấm.

Khô thích ngược lại âm trên khổ cô Thiên Thương Hiệt cho rằng: Người đồ tể giết mổ, sách Phương Ngôn cho rằng: Khô là săn bắt giết mổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh ra chữ viết từ bộ đao thanh khô Cố Dã Vương cho rằng: Khô là moi trong bụng còn trống rỗng, âm khoa là âm khoa âm dưới đinh lịch Quảng Nhã cho rằng: Thích là người đồ tể đâm giết. Tự Thư cho rằng: Viết đúng là chữ thích cùng nghĩa với chữ thích. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Sửa trị chữ viết từ bộ đao thanh dịch.

Nô đài ngược lại âm dưới đai lại theo Tả Truyện cho rằng: Đài là người hầu cận thần danh sĩ làm việc trong dinh của quan từ sáng sớm cho tới tối, cấp bậc phẩm mười, nói rằng: Đài là địch thất, lại người Nam Sở mắng nhiếc xem người hạ tiện, gọi là đài Quách Phác chú giải rằng: Đài là kẻ nô bộc. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ nhân thanh đài.

Thân hiệu âm trên là thân xem trước đã giải thích rồi, âm dưới là hiệu cao Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hiệu là tiếng khóc sách Bát-nhã Vận Thuyên: Hiệu là tiếng thét la lớn, sách Thanh văn cho rằng: Hiệu là hô to, chữ viết từ bộ hiệu thanh hổ Văn Truyện viết chữ hao tức là tiếng rống của loài thú, chẳng phải bổn nghĩa nay không dùng.

Nghi nhĩ âm trên nghi khí Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nghị là xẻo mũi, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghị là khoét lỗ mũi, chữ viết từ bộ đao thanh tỵ âm quyết là âm quyết âm nghị là âm nghệ Tự Thư cùng với sách Thượng Thư thanh nghị cùng với chữ nghị thông dụng với âm trên, âm dưới là nhĩ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nhĩ là xẻo tai. Sách Thuyết Văn cho rằng: Nhĩ là cắt bỏ tai, chữ viết từ bộ đao thanh nhĩ.

Thâm điện âm dưới điền luyện Tả Thái Xung Ngụy Đô Võ cho rằng: Điện là nắm lấy cái lý Lã Đình Tế chú giải rằng: Điện cũng là tên của dòng sông ở Hà Giang Đạt Mộ huyện Tây Điện, đó là dòng sông rất sâu, cũng có chỗ cạn, âm uyên ngược lại âm ô huyền. Xưa nay Chánh Tự cho rằng đồng nghĩa chữ viết từ bộ thủy đến thanh địch.

Bặc nhi âm trên băng mạnh âm mạnh ngược lại âm hắc đặng Văn Truyện viết chữ cổ là chẳng phải. Theo Tả Truyện cho rằng: Trong chính giữa mà có mộ đất nổi lên. Đỗ Dự chú giải rằng: Bặc là mô đất để mai táng chôn người chết dưới đất, chữ viết từ bộ thổ thanh băng bằng đúng là dùng chữ. Tự Thư cho rằng: Lại viết chữ băng âm đồng với âm trên.

Chuế vưu ngược lại âm truy nhuế theo Mao Thi Truyện cho rằng: Chuế giống như là nhiều, rườm rà, dư thừa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chuế vưu là bệnh bướu, tức là có cục thịt dư, chữ viết từ bộ bối thanh chuế âm dưới hữu hưu Tự Thư cho rằng: Vưu là mắc bệnh sách Khảo Thanh cho rằng: Trên da kết phong.

Hàng giới ngược lại âm trên hàng lãng âm dưới giai giới sách Sở Từ cho rằng: Uống lục khí vào. Hàng là nước dâng cao. Vương Dật chú giải rằng: Mùa hạ ăn khí hàng nửa đêm ở phương Bắc khí sinh con. Quảng Nhã giải thích khí thường. Xưa nay Chánh Tự cũng cho rằng: Thực lục khi uống vào. Hàng giới hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh hàng giới nói âm cũng đồng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ giới từ bộ cửu đến bộ thúc thanh tĩnh âm duệ là âm khái.

--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 28

Kinh nhạ âm dưới nha giá sách Khảo Thanh cho rằng: Nhạ giống như là kinh sợ, than thở. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngôn thanh nha. Biếm tật âm bi kiểm Tự Thư viết đúng từ bộ tiết viết thành chữ biểm lại cũng viết chữ biếm nghĩa là đâm vào, thích vào Quảng Nhã cho rằng: Gọi là đâm vào, Văn Tự Điển nói: Biếm là đá nam châm, dùng để châm vào người bệnh, chữ viết từ bộ thạch thanh biếm sách Thuyết Văn cũng giải thích rằng: Lấy đá nam châm đâm vào người bệnh để trị bệnh, chữ viết từ bộ thạch thanh biếm.

Nhân sơn âm trên đậu lân Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dưới viết chữ nhân hoặc là viết chữ nhân.

Li nhung âm trên lý tri xem trước đã giải thích rồi.

Tất phân âm trên là tỳ tất mùi thơm cỏ ở Tây Vực xem trước đã giải thích rồi.

Sao thí âm trên thứ giáo sách Phương Ngôn cho rằng: Sao là cưỡng ép lấy vật, sách Thuyết Văn cho rằng: Cố lấy đoạt lấy vật, chữ viết từ bộ kim thanh thiếu lại cũng gọi (900) là cướp đoạt, hoặc là viết chữ sao âm dưới bổ cách xem trước đã giải thích rồi.

Huệ thuyên âm dưới là thuyên danh tăng. Văn Truyện viết chữ linh là chẳng phải.

Tống công vũ âm dưới là chữ lương tên của Đặc Tấn.--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 29

Hôn mai âm dưới mại bài Mao Thi Truyện cho rằng: Mai là mưa bụi sách Nhĩ Nhã giải thích: Gió mà có mưa nữa nên bụi đất cuốn theo mù mịt gọi mai. Sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ thanh mai cho nên Mao Thi Truyện giải rằng: Chung phong thả mai (gió cuốn mưa sa) cát bụi mịt mù.

Cưỡng phụ âm trên cương ngưỡng bao hàm chú giải

Luận Ngữ rằng: Cưỡng là lấy dụng cụ để mang vác cõng đó gọi là cưỡng tức lấy đãy bọc trẻ em rồi mang. Sách Hoài Nam Tử giải thích rằng: Thanh vương ở trong cái đãy bọc lại mà mang đi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cõng đứa trẻ trong chăn dài một trượng, chữ viết từ bộ y thanh cưỡng.

Thát biện âm trên lan đát âm dưới biệt biến theo lộc biện ẩn Luận giải thích, dùng da con rái cá làm mũ đội, lột da con nai làm chăn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Biện là oan cừu, viết đúng là oan từ bộ nhi chữ tượng hình Trụ Văn viết từ bộ dúng viết thành chữ biện âm cung nay thông dụng viết chữ biện.

Ngạn âm trên ký nghị sách Khảo Thanh cho rằng: Y là xanh tốt um tùm, cùng với chữ y đồng theo Văn Truyện bổn nghĩa hợp là từ bộ sơn viết thành chữ y y ngạn giống như là nguy hiểm, nhào lộn trắc trở nghiên, sách Bát-nhã cùng với Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ỷ tức là ngọn núi cao cheo leo sừng sững, nghĩa là trở ngại cho nên cả hai đều tồn tại.

Thiết xung âm trên đúng là chữ thiết, xem trước đã giải thích rồi, âm dưới hồ mảnh Quảng Nhã giải thích: Thiết là chất khoáng, ngọc chưa mài giũa, gọi là khoáng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng còn nguyên chất, chữ viết từ bộ thạch thanh hoàng cũng viết chữ khoáng âm đều đồng.

Tạm trác âm trên tạp cam sách Khảo Thanh cho rằng: Tạm là cái đục khắc chạm, sách Thuyết Văn cho rằng: Cây đục nhỏ, đục xuyên qua chữ viết từ bộ kim thanh trảm âm dưới thiệp giác Mao Thi Truyện cho rằng: Ngọc mài giũa cho sáng gọi là trác. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trác là viên ngọc được mài giũa sáng chữ viết từ bộ ngọc thanh thỉ âm thỉ ngược lại âm lung vương.

Hy khơi âm trên sĩ tri âm dưới khổ hồi tên họ người. Ôn âm trên ổn hồn âm dưới lược trương sách sử ký chép rằng: Tần Thủy Hoàng, ở trong chiếc xe ôn lươn, chế ra như là xe có cửa sổ, đóng kín lại là ấm áp mở ra là mát mẻ, chiếc xe này hình dáng rộng lớn, dùng lông chim trang sức, có may nước sáng chói kéo quan tài đi, dùng xe ôn lương như là lăn bánh, từ đời nhà Hán mà đến tuy là chỗ người trong cung, chữ lương cũng từ bộ cũng lương viết thành chữ lương sách Thuyết Văn cho rằng: Ôn lương là xe có chỗ nằm, chữ đều từ bộ xa cũng là thanh ôn lương âm ôn là âm ôn.

Hành bội âm trên hạnh canh Trịnh Chúng chú giải sách Đại Đái Lễ rằng: Hành là ngọc bội, chỗ gọi là tiết hành chỉ, cũng là ngọc bội trên có hai miếng ngọc ngang, âm dưới bôi muội Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ngọc bội chỗ đeo ngọc bội, sách Thuyết Văn viết hai chữ đều từ bộ ngọc cũng là thanh hành bội chữ bội từ bộ nhân thanh phàm bội tức là có bộ cân, cân là khăn, tức là đồ trang sức.

Huỳnh sức âm trên là hoặc huỳnh định sách Bát-nhã cho rằng: Huỳnh gọi là đồ trang sức Thiên Thương Hiệt cho rằng: Sửa trị, sách Thuyết Văn cho rằng: Dụng cụ chạm khắc dồi mài, chữ viết từ bộ kim bộ quỳnh thanh tĩnh.

Dương khuê âm dưới kê lệ sách Lễ Ký cho rằng: Vỏ ngọc khắc thương sau khi hoàng đế phong cho đất. Hán Thư cho rằng: Thuộc huyện Dương Khuê Yến quốc Triệu Công chỗ phong vương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ khế viết chữ khế âm cũng giải thích đồng nhau. Ngọc Thiên viết khê âm giải thích cũng đồng.

Bà dương âm trên bạc ba Hán Thư cho rằng: Quận Dự Chương có huyện Bà Dương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ấp đến thanh phiên âm phiên là âm phiên.

Do quyết âm dưới khuyển quyết Thiên Thương Hiệt cho rằng: Quyết là xem duyệt. Thống Tự giải thích: Quyết xem qua các sự việc trên. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thăng đường lạc quyết. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nghỉ ngơi, lại cũng viết chữ quyết Vệ Hoằng viết chữ quyết âm cũng đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn đến thanh quỷ.

Tỏa tự nhiên âm trên tuấn quả Văn Truyện viết chữ tỏa tục tự thường hay dùng. Xem trước Cao Tăng Truyện quyển thứ chín đã giải thích rồi.

Tương vĩ âm trên tương dương, âm dưới vĩ phi xem trước Hoằng Minh Tập đã giải thích rồi. Văn Truyện viết chữ lam là sai.

Xuyết thúc âm trên dụng nhiệt âm nhiệt ngược lại âm nhu chuyết sách Thuyết Văn cho rằng: Xuyết là nếm thử, hoặc là viết chữ xuyết âm cũng đồng trên. Văn Truyện viết chữ xuyết tục tự thường hay dùng.

Âm dưới thi dục theo Mao Thi Truyện giải thích thúc là một loại đậu. Sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ thúc Văn Truyện Viết Chữ thúc tục tự thường hay dùng.

Sĩ lạc ngược lại âm trên trì nhĩ xem trước quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Khẩn nhẫn ngược lại âm kiết dẫn sách Thuyết Văn giải thích Khẩn là sợi tơ cuộn chặt, xiết chặt, cấp bách chữ viết từ bộ mịch thanh khẩn âm kiên là âm khiên âm dưới là nhẫn triển Bì Thương cho rằng: Nhẫn là mền mại nhu nhuyến. Sách Thuyết Văn viết từ bộ vi đến bộ nhẫn thanh nhẫn.

Tiếp chung âm dưới chung lung Văn Truyện viết chữ chung là sai. Sách Khảo Thanh cho rằng: là giẫm đạp lên, dấu chân trước, sách Thuyết Văn cho rằng: Tương tục tiếp theo dấu chân trước, chữ viết từ bộ xước thanh dung.

Mi ủy âm trên là mi âm dưới uy nguy Quảng Nhã cho rằng: Ủy đút cho ăn, âm tự là âm từ bộ thực đến bộ ủy ủy cũng là thanh.

Tuấn tư âm trên lực trừng Trịnh Chúng giải thích sách Chu Lễ: Tuấn là thanh tiếng nước chảy, âm dưới tuấn tư sách Thuyết Văn cho rằng: Tư là nước chảy, chữ viết từ bộ thủy thanh tư.

Lô chùy âm trên đúng là chữ lô âm đạo đọa truy xem trước đã giải thích rồi.

Đọa dũ âm trên oa ngọa âm oa ngược lại đồ qua Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đọa giống như lười biếng, giải đãi, uể oải không làm việc. Quảng Nhã cho rằng: Biếng nhác, sách Thuyết Văn cho rằng: Đọa là không cung kính, chữ viết từ bộ tâm đến thanh đọa tóm lược viết đúng là chữ đọa âm nghĩa cũng đồng. Âm dưới du chủ Tự Thư viết đúng từ hai bộ qua viết thành chữ dũ Từ Quảng chú giải sách Lễ Ký rằng:

Đọa lãn cũng là lười biếng sách Thuyết Văn viết từ hai bộ qua Văn Truyện viết từ bộ miên viết thành cảnh dũ là sai.

Tế lỗi âm trên đúng là chữ tế âm dưới lôi ngoại sách Thuyết Văn cho rằng: Lỗi là rót rượu xuống đất tế lễ, chữ viết từ bộ dậu thanh luyến âm luyến là âm xuyết.

Bất quý âm dưới quý lý Khổng An Quốc chú giải sắc Thượng Thư rằng: Quý dắt qua sông, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh quý Văn Truyện viết chữ quý là sai.--------------------------------------

ÂM ĐỘC CAO TĂNG TRUYỆN QUYỂN 30

Mạo tài âm trên đúng là chữ mạo âm dưới là tài đãi theo chữ mạo tài đó là hình dáng uy nghi đỉnh đạc giống tương tợ. Nay thường có nước hồ. Tài nói lời nói hay, Văn Truyện từ bộ nhân viết thành chữ tài chưa rõ nghĩa. Thao bao âm trên thảo tao sách Thuyết Văn cho rằng: Thao là nắm giữ, giữ lấy, chữ viết từ bộ thủ thanh thao âm thao ngược lại âm tiên đáo Văn Truyện viết chữ xâm là sai, âm dưới là thất mưu sách Thuyết Văn cho rằng: Bao dùng chùy đánh trống Văn Truyện viết chữ phù là chẳng phải.

Khổn trắc âm trên khôn bổn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khổn là cánh cửa hẹp, sách Thuyết Văn lại từ bộ mộc viết thành chữ khổn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ môn đến thanh khổn.

Lâm cầm âm dưới cập ngâm sách viết đúng từ chữ cầm Khảo Thanh cho rằng: Lâm cầm Khảo Thanh cho rằng: Lâm cầm là tên của trái, Văn Truyện viết chữ cầm tục tự thường hay dùng.

Truyện tể âm dưới là tể tên người. Xem trước đã giải thích rồi.

Hoảng dưỡng âm trên hoàng quỷ lại cũng âm dưới dương dưỡng theo chữ khoảng cưỡng là tên dòng sông nước chảy xiết, dưỡng hoặc là âm diệp cũng đồng âm.

Thác trệ ngược lại âm trên đường Tự Thư viết đúng từ chữ độ viết thành chữ độ lại cũng viết chữ thác đều đồng âm. Quảng Thương cho rằng: Thác là cảm kích. Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Ưu tư lo buồn, lại cũng là rộng lớn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng đồng nương chữ viết từ bộ tâm thanh thác âm dưới sắc lệ Cố Dã Vương cho rằng: Trệ giống như cây đứng giữa mặt trời. Tử Hư Võ cho rằng: Trong ngực từng lớp không có ngăn trệ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Rất mực thông suốt chữ viết từ bộ tâm thanh đối.

Phòng lung âm dưới là nung đồng. Văn Truyện viết chữ sấn là chẳng phải. Xem trước Biện Chánh Luận đã giải thích rồi.

Linh phiến âm trên lịch đinh sách Phương Ngôn cho rằng: Rui nhà gọi là linh. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Cây trúc ngang trên đầu, cây trục âm dưới cũng viết chữ lam sách Thuyết Văn cho rằng: Ô vuông song cửa âm giải thích từ bộ mộc thanh linh âm linh đồng Văn Truyện viết chữ linh sách viết sai.

Bỉ lý âm trên bi mỹ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bỉ là nơi vùng đất hoang dã. Sách Sử Ký ghi rằng: Lậu, còn chưa văn minh, hữu lậu, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Vùng đất nhỏ hẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh bỉ âm bỉ đồng với âm trên, âm dưới lê nhĩ Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hoang dã giống như là bỉ vùng đất ngoài đô thị nơi vùng biên giới. Hán Thư giải thích rằng: Chất là không thô bỉ như là hưởng lạc, lại chú giải rằng: Bỉ là vùng đất xa một dặm, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ bộ ấp thanh lý Văn Truyện viết từ bộ nhân viết thành chữ lý tục thường dùng chữ này.

Trình huyền âm trên sắc lịnh Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Trình là tiến nhanh, sách Thuyết Văn cho rằng: Thông dụng chữ viết từ bộ xước thanh tình âm dưới là luyện. Xưa nay Chánh Tự cho viết từ bộ ngôn đến bộ hành viết thành chữ huyền gọi là đi bán hàng. Văn Truyện viết từ bộ huyền viết thành chữ huyền tục dùng thông dụng.

Diễm sức ngược lại âm trên dĩ diêm theo Tả Truyện Đại Phu Từ cho rằng: Đẹp gọi là diễm, sách Thuyết Văn cho rằng: Tốt đẹp, mà lâu dài chữ viết từ bộ phong thanh khái phong đúng là chữ phong, chữ cái chánh thể âm dưới thang dực sách Thuyết Văn cho rằng: Sức giống như là chà rửa sạch sẽ, chữ viết từ bộ cân thanh thực âm loát ngược lại âm sơ bát.

Chân mai âm trên là nhân xem trước đã giải thích rồi.

Diêm ái âm trên diêm nhiễm âm dưới ai cái đều là danh tăng. Tục Cao Tăng Truyện quyển thứ ba mươi.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 95

-Âm Hoằng Minh Tập bốn mươi quyển.

ÂM HOẰNG MINH TẬP

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 1

Đào chú ngược lại âm trên đạo lao âm dưới chu nhu Cố Dã Vương giải thích: Đào là người thợ làm ngói, đồ sành sứ. Mạnh Tử giải thích rằng: Từ đời vua Thuấn người cày ruộng gieo trồng, làm đồ gốm đánh bắt cá vậy. Quảng Nhã giải thích đào là biến hóa. Hàn Thi Truyện giải thích: Biến đổi, sách Thuyết Văn viết chữ đào gọi là làm thợ ngói, chế biến ra đồ sứ, gốm các thứ, chữ viết (901) từ bộ phửu bộ sắc thanh tĩnh, lại cho rằng: Từ bộ thi viết thành chữ đào là địa danh cũng hiệu là vua Nghiêu đến nay thông dụng lâu rồi. Theo Tả Truyện cho rằng: Đào là cái đỉnh giống như đồ vật, gọi là nấu đồng làm ra đồ dùng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Là đúc đồng cho chảy ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Làm cho tiêu đồng kim loại, chữ viết từ bộ kim thanh chú âm dung là âm dung.

Diên âm trên phiến diên âm dưới thừa lực Lão Tử cho rằng: Diên thực là dụng cụ để thay thế khi không có đồ dùng. Tống Trung Thượng Sĩ: Diên là hòa trộn lại.

Hứa Thúc Trọng cho rằng: Ngăn chận đè nén xuống, theo Thanh Loại cho rằng: Mềm mại, sách Khảo Thanh cho rằng: Chủng, hấp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh diên sách Thượng Thư cho rằng: Thiếu đất đỏ để lấp vào. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dán đất vào gọi là thực.

Hạt đán ngược lại âm hàn cát kinh Sơn Hải nói rằng: Loài chim hạt phần nhiều trên núi, sáng rực về hướng mặt trời. Quách Phác cho rằng: Giống như chim trĩ, mà lớn hơn màu sắc xanh, lông có sừng, thích đá nhau cho đến chết mới thôi, thường xuất hiện ở quận Yến. Hán Thư âm nghĩa cho rằng: Một tên của loài chim hạt là tô. Lấy đuôi của chim này làm biểu tượng cắm trên mũ của các võ sĩ, sách Thuyết Văn cho rằng: Giống như chim trĩ, chữ viết từ bộ điểu thanh hạt ngược lại âm dưới chu hạn sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải cho đến phương Đông gọi là đán sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ điểu thanh đán Bổn Tập bỏ đi bộ điểu e rằng sai âm huy là âm huy.

Rỳ thính âm trên thời chỉ sách Thuyết Văn cho rằng: Dáng mạo đang nhìn ngắm tướng mạo, cũng là chữ thị cổ Tự Thư cho rằng: Chiêm ngưỡng chữ viết từ bộ mục thanh kỳ âm kỳ là âm.

Quyến ái âm trên quyết huyền Cố Dã Vương cho rằng: Quyến là dòng nước chảy nhỏ. Sách Thuyết Uyển cho rằng: Quyến là dòng nước chảy không ngừng liên tục như vậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là nước chảy nhỏ, chữ viết từ bộ thủy thanh quyến ngược lại âm dưới ái hài sách Trang Tử giải thích: Bụi đất hoang dã, con ngựa ở ngoài hoang dã Thiên Thương Hiệt cho rằng: Ai là cấu uế, dơ bẩn, gió bụi phong trần, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Bụi trần. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh ai.

Doanh đại âm trên dĩnh tinh sách Khảo Thanh cho rằng: Doanh là nước biển lớn, sách Biệt Tử ghi rằng: Phía đông bắc có hang lớn, trong hang này có quả núi yên, ba quả gọi là doanh, châu, cái chính là đây vậy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh doanh ngược lại âm dưới đài lai sách Thượng Thư cho rằng: Tháng hai đi tuần bắt thú, đếm nơi hai tông, Phạm Ninh cho rằng: Núi Thái Sơn dài núi Ngũ Nhạc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh đại.

Mặc địch ngược lại âm đình lịch tên họ người. Sách để lại cho đời gọi là Mặc Tử là Bi-tố-ty.

Trách dung ngược lại âm trên tranh ách tên họ người. Ngô Trung Lang Tướng.

Bì mạt ngược lại âm mạc bát Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Mạt là nuôi dưỡng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đút cơm hầu hạ, chữ viết từ bộ hòa thanh mạt lại cũng viết chữ mạt.

Phục lịch âm trên đúng là chữ phục ngược lại âm linh đích sách Khảo Thanh cho rằng: Lịch là cái chuồng, Cổ thi cho rằng: Con ngựa già nằm trong chuồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chuồng ngựa chữ viết từ bộ mộc thanh lịch âm tư là âm tây.

Nhiễu nhương ngược lại âm trên nhiêu chiếu âm dưới như dưỡng Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nhiễu nhương là rối loạn, bức bách, rối chi trong lòng bực bội, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiễu phiền, nhương xô đẩy, hai chữ đều từ bộ thủ đều thanh nhiễu nhương âm ưu là âm nải đao âm ngương là âm tương.

Cầm hoàng ngược lại âm hoảng quang theo Mao Thi Truyện cho rằng: Ngồi đánh trống thổi kèn. Thế Bổn cho rằng: Nữ oa làm cây kèn có lưỡi gà để thổi, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái sẻn, một loại nhạc khí gồm mười ba ống trúc ghép lại, chữ viết từ bộ trúc thanh hoàng.

Hư hy âm trên hứa ư âm dưới hư y Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hư hy là khóc, gọi là xuất hơi ra. Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hy là buồn bi ai, Thiên Thương Hiệt cho rằng: Khóc lớn tiếng, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ khiếm đều thanh hư hy.

Si tổng ngược lại âm trên sĩ xích âm dưới hưởng nghịch sách Thuyết Văn đều cho rằng: Dây sắn, tổng gọi là tơ mịn. Lại viết chữ si tơ còn thô gọi là tổng si, chữ viết từ bộ mịch thanh hy âm tổng từ bộ mịch thanh thông lại cũng viết chữ tổng.

Uyển chiên âm trên oan nguyên âm dưới thiền chiến Thượng Lâm Võ cho rằng: Giống như con giun đất, thả ra phía tây rất sạch, Cố Dã Vương giải thích rằng: Con trèn, con giun đất thả ra uốn khúc ngoằn ngoèo uyển chuyển rất đẹp, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ trùng thanh uyển hoặc là viết chữ tử sách Thuyết Văn cho rằng: Thiện uyển là con trùng, chữ viết từ bộ trùng thanh chiên Bổn Tập lại viết chữ diên là chẳng phải âm đàn ngược lại âm đan lãn.

Hòa ly ngược lại âm trên hiệu cao âm dưới lý chi sách Chu Dịch cho rằng: Mất đi một hào ly sai đi ngàn dặm, mười hào gọi ly, Văn Tự Điển nói: Viết chữ hào từ bộ mao thanh cao sách Thuyết Văn nói có sức mạnh làm cho sợi lông cong lại, có thể xem trên áo đến chữ ly tóm lược thanh lai văn cổ viết chữ ly là tóm lược Bổn Tập viết chữ hào lông con thú con heo nằm là lông trắng lớn, như là trúc, mà đem đứng thắng gọi là hào chữ ly thông dụng ở chữ ly âm mâu.

Ngõa lịch ngược lại âm linh đích xem trước đã giải thích đầy đủ rồi. Trong quyển kinh Kim Quang Minh tối Thắng Vương.

Sơn phụ ngược lại âm phù hữu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đất cao mà bằng phẳng gọi là đại lục. Lục gọi là phụ Thiên Thương Hiệt giải thích Núi rộng lớn đất bằng, Quảng Nhã giải thích: Đất không có đá, sách Thuyết Văn cho rằng: Núi Đại Lục không có đá, tượng hình, viết đúng chữ phụ văn cổ viết chữ cự lại cũng viết chữ phụ Bổn Tập viết chữ phụ chữ thông dụng.

Bã dương ngược lại âm trên ba khả Cố Dã Vương giải thích bã là chân khập khiễng sách Chu Dịch giải cái chân không thể mang giày dép mà đi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đi không vững, đứng không thẳng, chữ viết từ bộ túc thanh bì.

Kỳ lân ngược lại âm trên cự chi âm dưới lật chan sách Khảo Thanh cho rằng: Lân là con thú quý hiếm. Sách Công Dương Truyện giải thích: Con thú có lòng nhân từ. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Thân hình giống con trâu mà đuôi giống con nai, móng chân có một sừng, Quách Phác cho rằng: Sừng thẳng lại có thịt nhục. Cố Dã Vương giải thích con lân cái gọi là kỳ con lân đực gọi là lân vua có thánh đức mới có xuất hiện đất nhuận trạch là chim thú quý hiếm, đến cõi nước làm quốc độ này, sách Thuyết Văn cho rằng: Kỳ lân là con vật linh thiêng sách Nhĩ Nhã giải thích đều đồng, hai chữ đều từ bộ lộc đều thanh kỳ lân hoặc là viết chữ lân là chẳng phải, Bổn Tập viết kỳ lân là tên con tuấn mã.

Chi sô ngược lại âm sĩ vu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Chim non mới nở, cái mỏ còn non mổ thóc. Quách Phác cho rằng: Mới sinh ra mà có thể tự ăn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con gà mới nở chữ viết từ bộ chuy thanh sô âm sồ ngược lại âm sở du.

Biền tích ngược lại âm trên biên biện xem trước đã giải thích đầy đủ rồi trong Cao Tăng Truyện.

Lão đam ngược lại âm đáp cam theo chữ lão đam tức là lão quân sách Sử Ký ghi: Họ lý, tên nhĩ là chú trụ, dưới thời sử Quốc Ngữ gọi là Bá Dương lại cũng gọi là lão đam, sách Thuyết Văn cho rằng: Đam là man tai. Chữ viết từ bộ nhĩ thanh đam bộ tập viết từ bộ thân viết thành chữ đam tục tự thông dụng.

Thác đà ngược lại âm trên thang lạc âm dưới độ hà Khảo Thanh cho rằng: Súc vật nước hồ Cố Dã Vương cho rằng: Trên lưng có nhục thịt lồi lên, có thể mang vác vật nặng, đi xe xa rất giỏi, phía bắc rất nhiều, Văn Tự Điển nói: Hai chữ đều từ bộ mã cũng là thanh thác đà viết đúng là chữ lạc âm trạch ngược lại âm trúc ách âm đà đồng với âm trên.

Hao đào âm trên là cao âm dưới diêu nghiêu tức là thầy trò. Bổn Tập viết chữ hao là chẳng phải.

Mã huệ ngược lại âm huy uế sách Thuyết Văn cho rằng: Huệ là cái mỏ chim, chữ viết từ bộ khẩu thanh trĩ âm trĩ ngược lại âm từ thử.

Bối lũ ngược lại âm lực chủ Quảng Nhã giải thích: Lũ lưng cong lại, sách Thuyết Văn cho rằng: Gù lưng, chữ viết từ bộ nhân thanh lũ âm lũ đồng với âm trên.

Tốt đầu âm trên tại cốt Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tốt là đánh, Văn Tự Điển nói: Nắm đầu tóc, chữ viết từ bộ thủ thanh tốt.

Phù san âm trên sơn luyện Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: San là chê bai, hủy báng, Thiên Thương Hiệt giải thích rằng: Nói thị phi, sách Lễ Ký nói: Là người tôi trung thần có khuyên can, thì không có chê bai, sách Thuyết Văn cho rằng: Nói lời hủy báng, chữ viết từ bộ ngôn thanh sơn.

Hao hổ ngược lại âm trên hiếu giao Mao Thi Truyện cho rằng: Con hổ tự phẫn nộ mà rống lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Tiếng hổ rống chữ viết từ bộ hổ thanh lực. Tấn thân âm trên là tấn âm dưới là thân đã giải thích rồi trong Cao Tăng Truyện.

Đôn mang âm trên đốn ôn Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Đôn hậu và quảng đại, sách Nhĩ Thất cho rằng: Đôn hậu sách Phương Ngôn cho rằng: Tin tưởng Quách Phác cũng cho rằng: Thành thật và tin tưởng, sách Thuyết Văn viết từ chữ đôn hậu chữ viết từ bộ tâm thanh đôn Bổn Tập viết chữ đôn chữ thường thông dụng, âm dưới man giang Mao Thi Truyện cho rằng: Man là dày, sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm là vật to lớn mà dày gọi là man theo Thanh Loại cho rằng: âm thuần ngược lại âm thuân luân âm hán là âm hãn âm mang đồng với âm trên.

Thánh kiết âm dưới là tri liệt sách Nhĩ Nhã cho rằng: Kiết là trí tuệ, sách Thượng Thư cho rằng: Biết người thì là việc tốt lành, sách Thuyết Văn viết chữ triết tức là biết hiểu, chữ viết từ bộ khẩu thanh triết, văn cổ viết chữ triết từ ba bộ kiết lại cũng viết chữ triết Bổn Tập viết từ bộ kiết Tự Thư viết chữ triết.

Phu da ngược lại âm trên phong ngưu Cố Dã Vương giải thích: Phu là cái dùi trống, theo Tả Truyện cho rằng: Khi nhận dùi trống để đánh trống. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cầm cán dùi đánh trống, chữ viết từ bộ mộc thanh bao Bổn Tập viết chữ phu là rường nhà.

Ngoan âm trên ngũ quan Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Không thể đo lường trong lòng được. Kinh Đức Nghĩa nói rằng: Ngoan là dối trá, Quảng Nhã cho rằng: Ngoan là ngu đần, sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh ngoan âm hiệt là âm hiệt âm dưới là ngư cân theo Tả Truyện cho rằng: Miệng không có đạo đức, nói lời không trung thực, gọi là ngân Thiên Thương Hiệt cho rằng: Là người xấu ác, Tự Thư cho rằng: Ngân cũng ngoan, sách Thuyết Văn cho rằng: Nói lớn tiếng chữ viết từ bốn bộ khẩu thanh thần âm âm ngược lại âm trang lập.

Trá đài ngược lại âm đài nải Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Đài ngăn trở nghi ngờ, Lưu Triệu cho rằng: Tướng khinh khi, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch thanh đài.

Nghiêm công âm trên trang tương xưa là dùng lô quân ích, Công Dương và Cốc Lương hai truyện đều đồng tránh húy của vua Hán.

Nang dược âm trên thang các Vương Bậc cho rằng: Thác là đẩy ra. Cố Dã Vương cho rằng: Lò đúc đồng, chỗ dùng thổi lửa, Thiên Thương Hiệt cho rằng: Túi không đáy, sách Thuyết Văn cho rằng: Ống thổi lửa chữ viết từ bộ thác tóm lược thanh thạch âm dưới dương chước sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ống tre lớn dùng làm nhạc cụ, gồm ống trúc có ba lỗ gọi là dược.

Sám vi ngược lại âm trên sở tạm Thiên Thương Hiệt cho rằng: Là sách tiên đoán, hiệu hà lạc, Hoài Nam Tử cho rằng: Trước tác ra sách sấm thư. Cố Dã Vương gọi là sách bói toán. Sau có hiệu nghiệm trải qua chữ viết từ bộ ngôn thanh sám âm dưới vi quý sách Đại Đái cho rằng: Sách Giả Thác là kinh mà nói những chiêm niệm hung cát đoán ra đồ vật. Sách Thuyết Văn cho rằng: Dệt đường chỉ ngang chữ viết từ bộ mịch thanh vi.

Linh kỳ ngược lại âm trên tĩnh doanh sách Chu Lễ cho rằng: Bẻ lông chim mà làm cờ, Trịnh Huyền cho rằng: Bẻ lông chim vẽ lên làm năm màu mà treo lên trên. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tấm bích chương âm dưới lương nghi. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Làm huy hiệu trước đám đông gọi là cột cờ, Cố Dã Vương cho rằng: Lấy lông chim vẽ rồng vẽ rắn làm cờ. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cũng biểu tượng cho cờ hiệu. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ phương thanh linh kỳ lại cũng viết linh kỳ âm ư yểm.

Nhuy tân ngược lại âm trên nguy truy sách Lễ Ký Nguyệt Lịnh cho rằng: Nhuy tân là tên của bộ luật, lại cũng viết chữ nhuy văn dưới đều đồng.

Thương ương ngược lại âm ưng lượng sách Xuân Thu Hậu Ngữ của Tần Hiếu Công là tên của thừa tướng, họ Công Tôn Thị Phong ở thương ấp.

Cư viện âm trên cự cư âm dưới viên quyến tên họ người, là vệ đại phu tự là Bá Ngọc người chánh nhân quân tử.

Dự thả ngược lại âm tử dư tên họ người.

Khưu điệt ngược lại âm điền kiết Mao Thi Truyện cho rằng: Điệt là đất phong cho chỗ trũng, sách Phương Ngôn cho rằng: Điệt là đất Dương phong sở dính lấy đất Nam nghị gọi là điệt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Khỉ là phong cho, chữ viết từ bộ thổ thanh chí âm khỉ ngược lại âm ngưu ỷ tức là con phù du.

Tuy ôn ngược lại âm ổn hồn Cố Dã Vương cho rằng: Ôn là lần lần nóng nhiệt lên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh ôn Bổn Tập viết chữ ôn là sai âm ôn đồng với âm trên.

Điệp tiếp âm trên điềm hiếp âm dưới tiêm hiệp sách Khảo Thanh cho rằng: Điệp tiếp là đi lững thững, sách Hoài Nam Tử cho rằng: Chân bước nhẹ nhàng gọi là khập khiễng, chữ viết từ bộ túc thanh chấp bộ tập viết chữ triếp cũng thông dụng.

Biều hồ âm trên phiêu diêu sách Khảo Thanh cho rằng: Biều là nửa trái bầu. Trịnh Huyền cho rằng: Cắt trái bầu làm bình đựng nước cam-lồ mang đi, bình này đều đựng rượu. Sách Phương Ngôn cho rằng: Giữa Đông Sở, Tống, Ngụy hoặc gọi là vỏ sò lớn làm cái bầu, sách Thuyết Văn viết chữ phiêu lễ chữ viết từ bộ qua thanh phiêu âm dưới cổ hồ Mã Dung chú giải sách Luận Ngữ rằng: Hồ là dụng cụ chứa vật lễ, một thăng gọi là hồ sách Thuyết Văn cho rằng: Bầu rượu uống tưới (902) gọi là hồ, chữ viết từ bộ giác thanh qua âm phiêu ngược lại âm tất diêu.

Bát tiên ngược lại âm từ diên sách Thuyết Văn cho rằng: Tiên là người sinh ra sống rất lâu, chữ viết từ bộ nhân thiên cũng là thanh, lại cũng viết chữ tiên âm tiên là âm thiên.

Hổ phách ngược lại âm bồ quách Mao Thi Truyện giải thích rằng: phách là da đã cạo lông. Sách Luận Ngữ cho rằng: Da con hổ báo, giống như da con chó, con dê, Khổng An Quốc chú giải rằng: Dao cạo lông bỏ đi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ cách thanh quách. Tối tàn ngược lại âm trên tại ngoại sách Khảo Thanh cho rằng: Tối là dáng mạo nhỏ nhắn, yếu kém, Thiên Thương Hiệt cho rằng: Tập trung dáng mạo, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thảo thanh tối Bổn Tập viết chữ tối là sai.

Thỉnh đảo ngược lại âm đao khao Trịnh Huyền cho rằng: Cầu phước gọi là đảo, Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Đảo là cầu xin nơi quỉ thần. Quảng Nhã cho rằng: Cảm tạ sách Thuyết Văn cho rằng: Báo cáo sự việc cầu phước là đảo chữ viết từ bộ thị thanh đảo.

Chu lỗ ngược lại âm trên bộ vu âm dưới đúng là chữ lỗ từ dưới theo Xuân Thu đều là tên nước.

Đạo chích ngược lại âm chinh thạch sách Khảo Thanh cho rằng: Mu dưới bàn chân, lại cũng viết chích tên người, sách Trang Tử cho rằng: Liễu hạ, lý đệ.

Tể bôi ngược lại âm bôi mỹ tên người sách Xuân

Thu nước Ngô có tên vị quan Thái Tể.

Trở hải âm trên trở sơ sách Thuyết Văn cho rằng: Trở là cải muối ướp giấm, cất chứa lâu ngày, chữ viết từ bộ thảo thanh trở âm dưới là hải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hải là thịt làm tương, chữ viết từ bộ dậu thanh hải Bổn Tập viết từ bộ cái viết thành chữ hải? là chẳng phải, âm hải ngược lại âm vu cứu.

Oa mộc ngược lại âm trên ô qua qua sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là thấp ẩm ướt phía dưới, chữ viết từ bộ huyệt thanh qua.

Uất la ngược lại âm trên uất vật Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Uất lưới võng nhỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ võng thanh ủy.

Xúc nhiên âm trên tử lục Quảng Nhã giải thích rằng: Xúc là dáng vẻ cung kính, sợ sệt, sách Lễ Ký cho rằng: Phu tử dáng vẻ cung kính, tránh đi chiếc nghỉ ngơi, sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh thúc Bổn Tập viết chữ xúc cũng thông dụng.

Mong cổ ngược lại âm trên mộc bồng Mao Thi Truyện cho rằng: Mắt có con ngươi mà không nhìn thấy gọi là mong sách Thuyết Văn cho rằng: Nhìn thấy không rõ ràng chữ viết từ bộ mục thanh mong âm dưới là cổ sách Luận Ngữ cho rằng: Chưa thấy nhan sắc mà nói gọi là cổ sách Thuyết Văn cho rằng: Con mắt nó mất đi con ngươi bằng như mặt trống, chữ viết từ bộ mục thanh cổ Bổn Tập viết chữ mong cũng thông dụng lâu đời.

Chánh Vu Luận.

Tụ u ngược lại âm út vưu sách Khảo Thanh cho rằng: Con hươu cái. Mao Thi Truyện cho rằng: Giống hươu, loại thú nhỏ con, sách Điển Lễ Nhân Luận nói: Không có lễ nghĩa, cho nên cha con cùng lấy một người đàn bà, sách Thuyết Văn viết từ bộ lộc bộ tẩn tóm lược âm u ngược lại âm nga vũ

Tham lam ngược lại âm lạp đam đều Khảo Thanh cho rằng: Tham tàn bạo ác, không trong sạch thanh khiết, sách Thuyết Văn cùng với Đỗ Lâm cho rằng: Nói bói quẻ đó hiện tướng gian trá dối lừa kinh nghiệm trải qua là lam chữ viết từ bộ nữ thanh lâm lại cũng viết chữ lam.

Hữu hấn ngược lại âm hân cẩn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Hấn là động, là có tội hiềm khích. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hấn là tiên đoán, nói có họa, điềm xấu. Sách Thuyết Văn giải thích: Lấy máu cúng tế, giống như là tế rồng. Hấn tóm lược mà nói: Chỗ gọi là cúng tế, phần thanh Bổn Tập viết chữ hấn tục tự dùng thông dụng.

Ai bì ngược lại âm tỳ di theo Tả Truyện cho rằng: Ôm giữ lấy sự thấp hèn rồi khóc than. Đỗ Dự cho rằng: Trên thành có chỗ thấp trũng, sách Thuyết Văn cho rằng: Vách tường trên thành thấp, chữ viết từ bộ phụ thanh ty Trụ Văn viết chữ bì Bổn Tập từ bộ kim viết thành chữ bì là chẳng phải, âm bì ngược lại âm bệ nghê âm nghê khê lại cũng viết âm nghê cũng đồng.

Tận khanh ngược lại âm khách canh Cố Dã Vương cho rằng: Khanh là cái hầm, cái hóc hang rơi xuống Tự Điển nói chữ viết từ bộ thổ thanh khanh.

Đổ bưu âm dưới hữu cầu Văn Tự Tập Lược cho rằng: Bưu là chỗ chuyển văn tự, trải qua. Hậu Xuân Thu nói Đỗ Bưu đó là Hàm Dương phía tây, cách mười dặm Bạch Khởi chế tại đây, sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh thùy Bổn Tập viết chữ bưu là sai lầm.

Huyền ngu âm trên huyền quyến Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Huyễn hoặc Thiên Thương Hiệt cho rằng: Nhìn thấy không rõ ràng. Sách Thuyết Văn giải thích: Con mắt không thường làm chủ, chữ viết tự bộ mục thanh huyền.

Hào loạn ngược lại âm trên hiệu giao âm dưới đúng là chữ loạn Giả Quỳ chú giải sách Ngữ hào là tạp, Quảng Nhã giải thích là loạn, sách Thuyết Văn giải hòa trộn lại với nhau, chữ viết từ bộ thù thanh hào Bổn Tập viết từ bộ thủy viết thành chữ hào cũng thông dụng, âm hào là âm thù âm hào đồng với âm trên.

Côn trùng âm trên cốt hồn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Núi Côn Minh. Minh là trùng đó là dương mà sinh ra âm, mà chứa cất giữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Côn là loại côn trùng nhỏ bé, chữ viết từ bộ hủy thanh côn viết đúng là chữ côn từ hai bộ hủy âm hủy là âm hủy.

Truy khiển ngược lại âm di chiến Quảng Nhã cho rằng: Khiển trách sách Thuyết Văn giải thích: Văn hỏi chữ viết từ bộ ngôn thanh truy.

Phủ phất âm trên là phủ âm dưới là sách Khảo Công Ký giải thích màu trắng cùng với màu đen gọi là phủ. Nhĩ Nhã cho rằng: Tấm bích cương thêu hình cái búa gọi là phủ Quách Phác cho rằng: Vẽ là hình cái búa. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Dùng cao cùng với hồ pha trộn làm hoa văn, lại màu đen cùng với màu xanh gọi là phủ. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cả chữ đều pha trộn lại với nhau, hai chữ đều từ bộ trĩ thanh phủ phất Bổn Tập viết chữ phủ phất tục tự thường hay dùng. Âm trĩ ngược lại âm trúc kỹ âm bạc ngược lại âm bàn bát.

Dương loan âm trên dương tương sách Chu Lễ cho rằng: Dương là trên mặt con ngựa phải buộc đồ trang sức một hàng khi chuyển động có tiếng kêu, chỗ gọi là chạm khắc. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Trên mi mắt con ngựa gọi là dương, có hàng lục lạc kêu leng keng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đầu ngựa có đồ trang sức chữ viết từ bộ kim thanh dương viết đúng là chữ dương.

Kỳ kỳ ngược lại âm trên cự hy sách Chu Lễ cho rằng: Dùng giao long làm cờ, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cờ mà có linh gọi là kỳ Quách Phác giải thích rằng: Treo cái linh lên đầu ngọn trúc vẽ hình giao long (tức rồng) nơi lá cờ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ư thanh cân âm ư là âm yển.

Cổ bi âm dưới bề mê sách Chu Lễ cho rằng: Tua cờ người thầy cầm cái trống, cái chuông, một vị thầy nữa cầm trống mà đánh nhạc. Tịnh Huyền viết mạn lạc tức là đánh trống làm hòa nhạc, sách Thuyết Văn cho rằng: Cỡi ngựa đánh trống, chữ viết từ bộ cổ thanh bi Tự Thư cũng viết chữ bi.

Đệ thuyên âm trên đệ nê chữ chánh thể, Vương bật cho rằng: Âm đệ sở dĩ trong có bộ thố tức là được thỏ quên đi bước chân. Cố Dã Vương cho rằng: Sở dĩ bắt được thỏ dụng cụ bắt thỏ, quên đi dụng cụ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh đệ âm dưới thất duyên sách Trang Tử cho rằng: Thuyên chỗ gọi là cái nơm bắt cá, tức là được cá quên nơm. Cố Dã Vương cho rằng: Cái lờ bắt cá. Văn Tự Điển nói chữ viết từ bộ trúc thanh toàn âm đệ đồng với âm trên. Bộ Tập viết chữ đế lưu hành lâu rồi thành quen dùng.

Bính ủy âm trên binh mảnh Quảng Nhã giải thích: Bính là sáng sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ hỏa thanh bính âm dưới uy vị Khảo Thanh cho rằng: Ủy là ngăn che, văn chương sáng sủa, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh ủy.

Thanh huân âm dưới thuận luân Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Huân là say rượu Quảng Nhã cho rằng: Dày sách Thuyết Văn viết từ bộ dậu thanh huân huân đó âm đồn.

Mẫn nhiên ngược lại âm trên mật dẫn Mao Thi Truyện cho rằng: Mẫn là diệt hết, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tận cùng hết sạch, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy thanh dân dưới văn đều đồng.

Chúc khoáng âm trên chung nhục sách Thuyết Văn cho rằng: Chúc là liên kết, chữ viết từ bộ vĩ thanh thục Bổn Tập viết từ bộ thi viết thành chữ chúc cũng thông dụng, âm dưới là khoáng Trịnh chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Khoáng là bông còn thô chưa kéo thành sợi tơ, nói là tơ còn mới để lay động, thuộc về bệnh trong cổ họng, ho ra hơi, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh quảng.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 2

Hoàng tuất âm trên hồ quang Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hoàng là sự nhàn rỗi, đi dạo chơi, chữ viết từ bộ xước thanh hoàng âm xước ngược lại âm sửu lược âm dưới tức duật.

Tỉnh oa ngược lại âm hồ oa sách Thuyết Văn cho rằng: Oa là con ễnh ương, chữ viết từ bộ mãnh thanh oa hoặc là viết chữ oa Bổn Tập viết chữ oa cũng thông dụng.

Phủ chung âm dưới chung dũng thanh can âm cân.

Ôn khiết âm trên ổn hồn âm dưới kiết nói là ôn đó là chân nhuận là sạch sẽ. Nay Bổn Tập viết thấp khiết đó là e rằng: Niên đại xa xưa truyện viết sai có nghĩa lý khác lạ.

Mam chúc ngược lại âm trên mạch ban âm dưới thù dục Nay Bổn Tập viết tinh xúc lại nghĩa rất quái lạ, e rằng truyện viết sai đọc giả nên hiểu nghĩa này.

Huyển nhục âm trên huyền quyến Quảng Nhã cho rằng: Huyền là sáng chói, Bì Thương cho rằng: Dáng mạo tươi sáng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là sáng chói, chữ viết từ bộ hỏa thanh huyền.

Lụy đồng âm trên đúng là chữ luy ngược lại âm lực thủy âm dưới là đồng Thượng Thư Đại Truyện cho rằng: Bốn mắt nháy liên tục. Bì Thương cho rằng: Hạt châu trong mắt, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh đồng. Đán vu ngược lại âm bạt điền sách Khảo Thanh cho rằng: Đản sinh, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh diên.

Bạng cáp ngược lại âm trên bàng cấu ngược lại âm dưới cam hạp sách Lã Thị Xuân Thu cho rằng: Khi ngày trăng chưa tròn thì con bạng là con thềm thừ tức con cóc trên cung trăng. Cáp có ba loại đều sinh dưới biển, thuộc con sò, ngàn tuổi hóa làm con chim. Đời Tần gọi là trang lệ. Con sò trong biển trăm tuổi hóa làm con người cao to vạm vỡ. Lại gọi là phục lụy tức người già có cánh, chỗ hóa thân hai chữ đều từ bộ hủy đều thanh bạng cáp âm bạn đồng với âm trên.

Hấn cấu âm trên hận cận âm dưới cấu hầu nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển thứ nhất.

Thích thảng âm trên đinh lịch âm dưới thang lang sách Bát-nhã cho rằng: Thích lãng, khác thường sách Sử Ký ghi rằng: Có sự kỳ vĩ thích thảng, ung dung thoải mái, sách Thuyết Văn cho rằng: Đều từ bộ nhân đều thanh linh đãng.

Mâm trên mịch bình âm dưới kiêm hiếp Bạch Hổ Thông cho rằng: Được trải qua thời kỳ phân rõ được thì tối tăm sẽ được phân ra, tức là cái vỏ sẽ nứt mầm sinh ra, nơi sân, từ một tháng mặt trời mọc, thì sinh ra lá đến mười sáu ngày đến ngày rụng lá, giống như mặt trăng khuyết rồi lại tròn, thời vua Nghiêu sinh ra trước sân lấy làm cỏ quỷ hiếm. Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ thảo đều thanh mịch giám.

Thớt nhiên âm trên dư lục Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thớt là bỗng nhiên đến rất nhanh, sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh thúc lại cũng viết chữ thúc Bổn Tập viết chữ thảng cũng thông dụng.

Hấp huất ngược lại âm trên hâm ấp sách Thuyết Văn cho rằng: Hấp là mũi cong lại, thu lại chữ viết từ bộ hợp thanh vũ âm dưới động uất Tiết Tông chú giải Tây Kinh Phú rằng: Huất là bỗng nhiên, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ viêm thanh khiếm.

Yểm ái âm trên yểm nghiêm Mao Thi Truyện cho rằng: Yểm là to lớn. Cố Dã Vương cho rằng: Trốn tránh ẩn náu, sách Thuyết Văn cho rằng: Che đậy to lớn có dư thừa lại gọi là lâu bền, chữ viết từ bộ đại đến bộ điện âm điện là âm triển âm dưới suy đại Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ái là mặt trời u ám chưa sáng, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh ái hoặc là viết chữ ái.

Thành viêm ngược lại âm viêm nghiệm nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển Tạp Sự Luật.

Thuấn tức âm trên là thuấn sách Thuyết Văn viết đúng là chữ thuấn gọi là mắt nhắm mở nhiều lần, chữ viết từ bộ mục thanh dần tục thường viết chữ thuấn.

Phỉ nhiên ngược lại âm trên phi vĩ sách Thuyết Văn cho rằng: Phỉ là ánh trăng còn lờ mờ chưa có tròn đầy sáng tỏ, chữ viết từ bộ nguyệt thanh xuất lại cũng có âm phổ mỗi chưa rõ nghĩa. Man hiểu ngược lại âm trên mạc bang Mao Thi Truyện giải thích man là rộng lớn, mênh mang, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Xa xăm. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh man âm dưới di liểu sách Thuyết Văn cho rằng: Mắt nhỏ tức là mắt lé, chữ viết từ bộ mục thanh thiếu.

Yểu mạc ngược lại âm trên y liểu sách Thuyết Văn cho rằng: Chỉ xa xôi, tối tăm, u ám, chữ viết từ bộ mộc thanh viết âm dưới man bác Cố Dã Vương cho rằng: Mạc giống như nhà yên tĩnh, sách Nhĩ Nhã cho rằng:

Sáng sủa thanh sạch, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh mạc.

Mong phi ngược lại âm trên mạc bồng âm dưới từ lý sách Nhĩ Nhã cho rằng: Từ cực tây cho đến thái mong. Xa xôi mù mịt. Quách Phác cho rằng: Tiếng vọng xa xăm mù mịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh mong phi.

Thế cân ngược lại âm cự y sách Khảo Thanh cho rằng: Cân là mong cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh cân âm đồng với âm trên lại cũng viết chữ cân.

Chu tứ âm trên thụ nhu âm dưới là tứ tên của hai dòng sông. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sông chu ở nước Lỗ, phía dưới huyện Tây Nam sách Lễ Ký Tăng Tử Quý Tử hạ cho rằng: Thời nhà Ngô cùng với các việc. Phu (903) tử nơi sông Chu Tứ mà chết, hai chữ đều từ bộ thủy đều thanh chu tứ.

Cộng triệt ngược lại âm trì liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là vết của bánh xe. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xa đến bộ triệt thanh tĩnh Bổn Tập viết từ bộ túc viết thành chữ triệt là sai. Bàn mộc ngược lại âm trên bạn hàn Trịnh Huyền cho rằng: Chiếm cứ, Cố Dã Vương cho rằng: Cuộn khúc uốn khúc. Theo kinh Sơn Hải nói: Bàn mộc là cây to lớn, phía đông bắc, trong vùng hoang dã có cái hang lớn trong hang có châu thổ, trên châu thổ có cây, tức là bàn mộc, lại cũng có tên bàn đào, lại cũng gọi là hộ sách, sách Thuyết Văn viết từ bộ hủy âm phiên là âm phiên âm độ ngược lại âm đường lộ âm tác ngược lại âm tang các.

Đại ngôi ngược lại âm ngô tội Đại ngôi là tên núi ở

Hà Nam huyện Dương Địch. Sách Thuyết Văn cho rằng: Ngôi là núi cao, chữ viết từ bộ phụ thanh quỷ.

Cô xạ âm trên cũng là tên núi. Xem trước đã giải thích đầy đủ rồi trong biện chánh luận.

Cụ tư ngược lại âm tự tư theo chữ cụ tư đều tên núi. Ở Hà Nam huyện Dương Địch.

Sổ chích ngược lại âm chinh thạch sách Thuyết Văn cho rằng: Chích là nhặt lấy. Trần Tống Ngữ cũng viết chữ chích từ bộ thủ thanh thứ.

Tuẩn thế ngược lại âm trên tuần tuấn thần Quỳnh Cho rằng: Vong thần từ vật gọi là tuẩn Ứng Thiệu cho rằng: Vinh dự Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mong cầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạc thanh tuần âm ngạc là âm tàn.

Ôi nhân âm trên ô khôi kinh Sơn Hải nói rằng: Phía bắc hải núi ngôi có nước gọi là ôi Quách Phác cho rằng: Ôi cũng là yêu thương, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh ôi.

Lâm truy ngược lại âm tử sư tên của quận ở đất Tề, Bổn Tập viết từ bộ cân viết thành chữ lữ là sai.

Ngận nhiên ngược lại âm trên ngân cận Lỗ Suy Công Mạt Phu Tử nói: Thiên hạ mong muốn mình già đi sách Khảo Thanh cho rằng: Ngận là thương tổn, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh ngận âm ngận đồng với âm trên.

Thành hám ngược lại âm kham lam sách Khảo Thanh cho rằng: Hám là nhìn. Tự Thư cho rằng: Mong đợi. Văn Tự Điển nói viết từ bộ mục thanh hám cũng viết chữ hám.

Đăng vương âm trên đẳng năng theo Thanh Loại cho rằng: Cái đỉnh không có chân gọi là đăng sách Thuyết Văn cho rằng: Cái đỉnh đồng, chữ viết từ bộ kim thanh đăng lại cũng từ bộ hỏa viết thành chữ đăng tục tự thường hay dùng. Âm đỉnh ngược lại âm đinh nịnh.

Nhi tuất hồ âm giữa là luy duật hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Tuất đó là cuồng, Tự Thư cho rằng: Cương trực, sách Khảo Thanh cho rằng: Ngu muội sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh tuất âm tráng ngược lại âm trác hạn.

Kê trệ ngược lại âm trừ lệ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Trệ là con heo, sách Thuyết Văn cho rằng: Dấu chân của con heo gọi là trệ, chân của con heo cùng với chân của con nai đều đồng, chữ viết từ bộ kệ đến bộ bắc thanh trỉ âm kệ ngược lại âm cư lệ.

Chu mâu âm trên là chu âm dưới mạc hầu sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải cho đến Tây Tần Tấn gọi là con nhện, sách Thuyết Văn viết từ bộ hủy thanh mâu Bổn tập viết chữ yến là chẳng phải âm vụ là âm vũ. Bính kiết ngược lại âm trên binh mảnh đời nhà Hán tên họ của vị thừa tướng.

Điền phân ngược lại âm phò phân tên họ người đời nhà Hán làm thừa tướng.

Đồn ngư âm trên đột luân âm dưới đúng là chữ ngư Vương Bậc cho rằng: Đồn là loài thú nhỏ hạ tiện, sách Phương Ngôn cho rằng: Loài heo con gọi là đồn, sách Thuyết Văn viết đúng chữ đồn là heo con chữ viết từ bộ thoán chữ tượng hình đến nắm giữ bộ nhục mục hợp từ phối hợp bộ nhục sắc viết thành chữ đồn cảnh trụ văn. Bổn Tập viết từ bộ thác viết thành chữ đồn lại cũng viết chữ đồn.

Trù tiêu âm trên bộ giao âm dưới là tiều Cố Dã Vương cho rằng: Chim nhỏ hót, sách Thuyết Văn cho rằng: Dương dương tự đắc, chữ viết từ bộ khẩu thanh tiêu âm hao ngược lại âm hỏa giao.

Sài lãn ngược lại âm trên sĩ hài â Lễ Ký Nguyệt Lịnh cho rằng: Mùa thu các con thú phải cúng tế cho sói. Quảng Nhã cho rằng: Sài là giống chó sói hung dữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc loại chó lang, chân giống chó, chữ viết từ bộ thỉ thanh tài âm dưới tha hàn sách Nguyệt lịnh cho rằng: Lúc Mạnh Xuân các con cá cúng tế con rái cá. Trịnh Tiễn chú giải rằng: Con rái cá ăn trước khi cúng tế. Sách Thuyết Văn cho rằng: Giống như con chó nhỏ ở dưới nước bắt cá ăn, chữ viết từ bộ khuyển thanh lãn âm trĩ ngược lại âm trạch mãi.

Vô ngại ngược lại âm khải ai âm khải ngược lại âm ngũ ai sách Thuyết Văn cho rằng: Ngại là dừng lại, chữ viết từ bộ thạch thanh nghi Bộ tập viết chữ ngại chẳng phải.

Quỳnh củ ngược lại âm âm trên hỏa sính ngược lại âm trên hỏa sính Lưu Triệu cho rằng: Quỳnh là sâu xa mù mịt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cầu vinh dự, từ bầu trời thăm thẳm, người thì ở hang sâu, âm mâm ngược lại âm hỏa liệt âm dưới là cự đồng với âm trên.

Kế âm trên mịch kế Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Kế là có nước nghèo kia vị quốc vương rất giỏi bắn cung, bị quân địch phục kích bắt được giết chết. Sách Thuyết Văn cho rằng: Vua quan đều giỏi bắn cung. Hạ Thiếu Khang bị diệt nước đó cũng mất luôn, chữ viết từ bộ cung thanh can Bổn Tập viết chữ kế tuy thông dụng, nhưng lâu rồi cũng mất đi, âm can là âm khiên âm tróc ngược lại âm sĩ tróc âm hộc ngược lại âm khổ ốc.

Cấu trung ngược lại âm trên câu hầu sách Khảo Thanh cho rằng: Cấu là giương cung ra bắn. Mạnh Tử cho rằng: Cấu là cây cung người ta giương ra để bắn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Giương cung nỏ ra để bắn, chữ viết từ bộ cung thanh xác âm xác ngược lại âm khống giác.

Kỳ bán ngược lại âm bàn mạn sách Khảo Thanh cho rằng: Cơ thể phân nửa là giống đực, Văn Tự Điển nói: chữ viết từ bộ nhục thanh bán.

Sá hồ ngược lại âm trên sửu á Quách Phác chú giải rằng: Sá là khoe khoang. Mao Thi Truyện cho rằng: Dừng nghỉ, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh trạch. Tằng đăng âm trên thương tặng âm dưới chiêm đăng sách Khảo Thanh cho rằng: Đi bộ nên mất đi dáng dĩ thong dong, tức là long đong lận đận. Văn Tự Điển nói hai chữ đều từ bộ túc đều thanh tằng đăng.

Quyên phi ngược lại âm trên nhất duyên sách Nhĩ Thất cho rằng: Trong giếng nhỏ có loài trùng nhỏ màu đỏ e rằng chẳng phải nghĩa này, theo hợp nghĩa là chữ quyên ngược lại âm hứa duyên sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng nhỏ biết bay, còn có nghĩa là vụn vặt, cũng chưa rõ nghĩa.

Nhuyễn động ngược lại âm trên nhi duẫn sách Khảo Thanh rằng: Loại trùng không có chân, sách Thuyết Văn cho rằng: Loài côn trùng bò lúc nhúc chữ viết từ bộ hủy thanh nhuyễn âm nhuyễn là âm duyên.

Hải sấn ngược lại âm sơ cận sách Chu Lễ cho rằng: Chưa thay răng không làm nô bộc được. Trịnh Huyền cho rằng: Bảy tuổi thay bỏ cái răng, chữ viết từ bộ xỉ thanh sất Bộ Tập viết chữ sấn là chẳng phải.

Dĩ cấu ngược lại âm hồ cấu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Cấu giống như là sĩ nhục. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Cấu là mắng nhiếc, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh cấu.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 3

Phiên chứ ngược lại âm chư thứ sách Phương Ngôn cho rằng: Chứ là cất cánh bay. Quách Phác cho rằng: Bay lượn, sách Thuyết Văn cho rằng: Cất cánh bay chữ viết từ bộ giả thanh vũ.

Bỉ lý ngược lại âm lực chỉ sách Khảo Thanh cho rằng: Giống Man Di ở Quảng Châu. Mạnh Tử cho rằng: Ở phương Nam thuộc giống người Man Di sách Thuyết Văn. Mạnh Tử cho rằng: Ở phương Nam thuộc giống người Man Di sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh lý.

Sổ vị ngược lại âm ly trĩ Mao Thi Truyện cho rằng: Vị là đến sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nhìn xem Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thảo thanh vị.

Truy thù âm trên tử sư âm thụ chu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tám lạng làm một truy. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam tử rằng: Mười hai lạng thóc nặng một phân, mười hai phân làm một thù, sách Thanh văn cho rằng: Truy bằng sáu thù, thù trọng nặng phần mười, hai chữ đều từ bộ kim thanh truy thù âm truy đồng với âm trên.

Thông ký ngược lại âm kỹ lợi sách Luận Ngữ cho rằng: Nhà nhiều ngựa hay không cần vận sức lực mà con ngựa vẫn chạy nhanh. Sách Thuyết Văn cho rằng: Con ngựa chạy ngàn dặm. Hệ dương chỗ có tướng tài, chữ viết từ bộ mã thanh ký.

Chi bài ngược lại âm bày mại Cố Dã Vương cho rằng: bài là mỏi mệt yếu kém. Quảng Thất cho rằng: Rất mỏi mệt, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh bị.

Huyện nổi ngược lại âm nô tội Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nổi là đói khát, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là đói khát, chữ viết từ bộ thực thanh ủy. Ký vu ngược lại âm kỳ ký Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ký là đến Tự Thư cho rằng: Đến kịp sách Thuyết Văn cho rằng: Tối kịp nhìn thấy, chữ viết từ bộ đản thanh ký.

Ung thư âm trên ôn cung âm dưới thất dư Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Nóng nhiệt nổi phù lên làm cho mụt nhọt, không thông gọi là ung, sách Thuyết Văn cho rằng: Sưng thũng lâu ngày thành ung, hai chữ đều từ bộ tật, đều thanh ung thư âm phiêu ngược lại âm tất diêu.

Xuân sưu ngược lại âm sở vưu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đi săn mùa xuân là vưu Quách Phác cho rằng: Sưu là khiên bắt lấy là nhận, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh quỷ.

Thao cung ngược lại âm trên thảo cao Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Thao là cất giấu, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái túi đựng kiếm chữ viết từ bộ vi thanh thao âm thao ngược lại âm dực tiểu.

Thụ việt ngược lại âm vu nguyệt sách Thuyết Văn cho rằng: Cái búa lớn. Tư Mã Bưu chú giải rằng: Đời nhà hạ cầm cái búa đem ném cho Bạch Thích Chu. Tay trái cầm búa vàng một trượng, tay phải cầm búa trắng có tua cờ, chữ viết từ bộ qua thanh quyết Bổn Tập viết từ bộ kim viết thành chữ việt cũng thông dụng âm quyết ngược lại âm cư liệt.

Ngoan thích ngược lại âm trên ngô hoàn Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ngoan là vót gọt, sách Thuyết Văn cho rằng: Đục đẽo chữ viết từ bộ đao thanh ngoan âm dưới đinh diệc theo Thanh Loại cho rằng: Thích là chọn lựa, sửa chữa mở ra, xỉa cạy, cạo tóc, Văn Tự Điển nói, chữ viết từ bộ đao thanh dị.

Khư chi ngược lại âm khứ cư sách Khảo Thanh cho rằng: Khư là mở ra, theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Bỏ vứt bỏ. Cao Dụ chú giải sách Lã Thị Xuân Thu rằng: Khư giống như đưa lên giơ cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh khư.

Thạch thước ngược lại âm thiết dược tên của Vệ đại phu, người thời Xuân Thu.

Cốt phóng ngược lại âm trên côn ổn sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của núi vũ phụ, ngọn núi này có rất nhiều lông chim và xác chim chết, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ cốt thanh hệ lại cũng viết chữ cốt Bổn Tập viết chữ cốt là sai lầm.

Hà duệ ngược lại âm dư nghệ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Duệ là nơi biên cương xa xôi, Quảng Thất cho rằng: Con cháu đời sau. Sách Phương Ngôn cho rằng: Là tên chung gọi các bộ tộc Di Dịch ở ven Trung Quốc. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ y âm cảnh là âm nữ hoạt.

Duy chấp ngược lại âm triêm lập Mao Thi Truyện cho rằng: Chấp là trói buộc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trói câu thúc lại. Xưa nay Chánh Tự gọi là câu chấp, chữ viết từ bộ mịch thanh chấp.

Long cổn ngược lại âm cổ bổn Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Trên áo có vẽ thêu rồng. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cổn là áo có thêu hoa văn che đậy, sách Thuyết Văn cho rằng: Vua hưởng lộc của tiên vương, nên thêu rồng cuộn tròn theo áo dưới là cái xiêm có con rồng uốn khúc chữ viết từ bộ y thanh công.

Trất sơ ngược lại âm trên trân sắc sách Khảo Thanh cho rằng: Sách Khảo Thanh cho rằng: Sơ là cái lược sách Thuyết Văn cho rằng: Tên gọi chung lược chải tóc đồ trang điểm của phụ nữ, chữ viết từ bộ mộc thanh trất.

Chi bí ngược lại âm bi mi Cố Dã Vương cho rằng: Bí là dây cương chế ngự chiếc xe ngựa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Dây cương buộc ngựa, chữ viết từ bộ ty thanh bí âm bí cùng với âm trên đều đồng, cũng là trục xe trước đầu ngựa, Bổn Tập viết chữ bí là chẳng phải.

Xuẩn nhuyễn âm trên xuân duẩn âm dưới nhi duẩn nghĩa đã giải thích rồi, trong quyển thứ nhất.

Tẩm dục ngược lại âm trên tử thấm sách Khảo Thanh cho rằng: Tẩm rửa sạch, ngâm nước. Viết đúng từ chữ tẩm âm dưới là dư lục Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Sinh ra, sách Nhĩ Nhã cho rằng: Nuôi dưỡng Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Sinh sản, sách Thuyết Văn viết đúng là chữ dục gọi là nuôi dưỡng dạy dỗ cho khiến cho điều hay, giỏi, từ bộ vân thanh nhục đồng thanh âm.

Dược tự âm trên dương tước Hà Hựu chú giải Công Dương Truyện rằng: Mùa gặt hái mới bắt đầu là lễ cúng tế, sách Thuyết Văn cho rằng: Gọi là cúng tế mùa hạ, chữ viết từ bộ thị thanh chước lại cũng viết chữ dược Bổn Tập viết chữ dược là tên thảo dược.

Bài tẩn ngược lại âm trên bai mai Quảng Nhã cho rằng: Bài là đẩy ra. Tư Mã Bưu cho rằng: Tẫn là vứt bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thủ đều thanh phi tân.

Phương nghê ngược lại âm nghê kế Khổng Tử cho rằng: Nghê là nhìn, giống như nhìn xa, sách Thuyết Văn cho rằng: Nghê là nhìn nghiêng, liếc nhìn chữ viết từ bộ mục thanh nhi.

Khiếu ư ngược lại âm trên hiểu nhiêu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khiếu là tìm kiếm yêu cầu cần phải. Giả Quỳ cho rằng: Yêu cầu Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Đoạt lấy ý của người là đoạt lấy mà thôi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Tuân theo, chữ viết từ bộ xích thanh khiếu Bổn Tập viết chữ khiếu là sai âm xước ngược lại âm sửu diệc âm khiếu là âm điếu.

Lạc trâm ngược lại âm tập lâm Thiên Thương Hiệt cho rằng: Cây trâm cài đầu, sách Thuyết Văn cho rằng: Trên đầu (904) cài đầu, chữ viết từ bộ nhân chữ tượng hình. Bổn Tập chữ viết trâm tục tự thường hay dùng.

My tổn ngược lại âm trên mỹ bi Quảng Nhã cho rằng: My bi Quảng Nhã cho rằng: My là hư hoại, Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nhỏ vụn vặt, nát ruổng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mễ thanh ma.

Phỉ thực âm trên phi vĩ Tư Mã chú giải sách Luận Ngữ rừng: Phỉ là nhỏ mọn ít ỏi, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh phi.

Đại hước ngược lại âm hương ngược Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hước là cùng nhau làm trò hài hước, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Cũng là làm trò vui, chữ viết từ bộ ngôn thanh hước.

Giam mặc ngược lại âm trên cổ hàm sách Thuyết Văn cho rằng: Giam là cái tráo đóng kín, buộc chặt lại, chữ viết từ bộ mịch thanh hàm.

Hải đát âm trên hài ngai âm dưới chu át.

Xung túy ngược lại âm trên truy trung âm dưới tuy túy Quảng Thất cho rằng: Túy là say khước Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tinh túy sách Thuyết Văn cho rằng: Không tạp chữ viết từ bộ mễ thanh tốt.

Hủ xung ngược lại âm trên hủ vu Quách Phác cho rằng: Hủ gọi là nhón gót chân lên mà nhìn, Hán Thư cho rằng: Hư xung là nhìn màu sắc đẹp. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Giương mắt lên nhìn, Tư Mã Bưu chú giải rằng: Nhìn mà không biết gì cả sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là căng mắt ra mà nhìn, chữ viết từ bộ mục thanh hủ.

Chi chu ngược lại âm chi do Mao Thi Truyện cho rằng: Chu là cứu giúp. Tự Thư cho rằng: Trợ giúp, Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cứu giúp cần gấp, tai nạn cho muôn dân. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ bối thanh chu.

Đảng ngôn ngược lại âm trên đang lãng Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đãng là nói thẳng, khéo nói chữ viết từ bộ ngôn thanh đãng.

Biện hạch ngược lại âm xung ách nghĩa đã giải thích đầy đủ rồi trước trong quyển Cao Tăng Truyện.

Khôn đạo ngược lại âm trên khổ côn sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của bộ luật hình, người có tội cạo bỏ tóc, gọi là khôn sách Thuyết Văn cho rằng: Cạo bỏ râu tóc chữ viết từ bộ tiêu thanh khôn âm thế ngược lại âm tha kế âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Giả y ngược lại âm tất diêu giải thích đều rồi trong quyển Căn Bổn Tạp sư.

Viết đê ngược lại âm đê nê tên người xem trước trong Hán Thị họ kim thị.

Ư phục ngược lại âm vi mục lại âm phương lục sách Thuyết Văn cho rằng: Phúc là nhiều lớp chữ viết từ bộ y thanh phúc áo bông.

Tẩy thái ngược lại âm trên tây lễ âm dưới đạt đái sách Khảo Thanh cho rằng: Thái là tẩy rửa, giặt giũ.

Minh linh ngược lại âm trên mịch bình âm dưới lịch đình sách Nhĩ Thất cho rằng: Minh Linh là con sâu nằm trong lá dâu. Quách Phác cho rằng: Con nhện nằm trong lá dâu gọi là tuất nữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ đều từ bộ hủy đều thanh minh linh lại cũng viết chữ linh. Quả loa ngược lại âm trên qua hỏa âm dưới lô quả theo Mao Thi Truyện cho rằng: Cỏ lô, Quách Phác cho rằng: Tổng tên gọi chung của ổ ong tò vò, tục thường gọi là ong đất đúng quá loa từ bộ hủy thanh loa Bổn Tập viết chữ quả loa cũng thông dụng, âm qua ngược lại âm qua loa âm luy là âm lô hòa âm ế ngược lại âm y kế âm ung là âm ông.

Bất thuyên ngược lại âm thủ duyên Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thuyên là sửa đổi lỗi lầm, sách Thuyết Văn cho rằng: Chừa lỗi, chữ viết từ bộ tâm thanh thuyên âm tuấn ngược lại âm thất tuần.

Chi dã ngược lại âm da giã cùng với chữ dã cũng đồng, sách Khảo Thanh cho rằng: Đất ngoài đô thị gọi là mẫu mẫu ngoài gọi là dã chữ dã là chữ cổ.

Can kỳ ngược lại âm trên cát an kinh Sơn Hải nói rằng: Núi Côn lôn có cây can lãng, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là can lãng, chữ viết từ bộ ngọc thanh can văn cổ viết chữ can sách Nhĩ Thất cho rằng: Nét đẹp của phương đông có lam đất bằng, không có hầm hố, có cây ngọc tuần can kỳ. Quách Phác cho rằng: Thuộc ngọc quý, sách Thuyết Văn viết chữ kỳ âm đồng với âm trên. Sáp chu ngược lại âm trên sam hạp xem trước đã giải thích đầy đủ rồi, trong quyển Tạp Sự Luật Bộ Tập viết chữ sáp thất.

Hoàng năng ngược lại âm nải lai sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của con thú, sách Nhĩ Thất cho rằng: Con rùa có ba chân gọi là năng sách Thuyết Văn cho rằng:

Thuộc loại gấu chân giống nai, chữ viết từ bộ nhục thanh dĩ con thú có khả năng kiên trì, cho nên gọi là hiền năng, mà có sức mạnh gọi giống đực là năng kiệt. Bổn Tập viết chữ bi là sai lầm.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 4

Mâu tạo hóa ngược lại âm trên mạc hầu Trịnh Huyền chú giải sách Khảo Công ký rằng: Mâu là đẳng cấp quán bình đều nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Bằng nhau, chữ viết từ bộ nhân thanh mâu âm mâu đồng với âm trên.

Sô hoạn ngược lại âm trên sở vu âm dưới hoang quân Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: Nuôi heo chó gọi là hoạn sách Thuyết Văn cho rằng: Chuồng nuôi heo, chữ viết từ bộ thỉ bộ quyển thanh tĩnh âm quyển ngược lại âm quyền nguyễn.

Phi vật âm trên bì chỉ Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Phi là dụng cụ. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sửa chữa, sách Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ nghiểm là âm nghiêm.

Hoàn nhuyễn âm trên hồ thuyên âm dưới như duẫn xem trước được giải thích đầy đủ rồi trong quyển thứ nhất.

Mê noản âm trên mê kê âm dưới loạn quyến sách Thuyết Văn cho rằng: Mê là hươu con, chữ viết từ bộ lộc thanh nhĩ.

Sát cổ âm trên sắc giác âm dưới là cổ sách Thuyết

Văn cho rằng: Cổ cũng mãnh lưới, chữ viết từ bộ võng thanh cổ.

Manh đãi âm trên mạch canh Mao Thi Truyện cho rằng: Manh là người dân Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: Manh giống như là mù mịt không biết gì. Lưu Triệu chú giải sách Mạnh Tử rằng: Người dân sống ở biên giới vùng đất xa xôi, họ không hiểu biết gì gọi là manh sách Thuyết Văn viết từ bộ vong thanh dân Bổn Tập viết chữ mân riêng rằng sai.

Tề thử ngược lại âm trên tề tổng sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tề là đều nhau, nay người phương nam gọi là dùng dao kéo cắt là tề. Xưa nay Chánh Tự cũng đồng thanh, từ bộ đao thanh tề.

Khô cai ngược lại âm cổ lai sách Khảo Thanh cho rằng: Cọng cỏ sách Phương Ngôn cho rằng: Đông tề gọi rễ cây là cai sách Thuyết Văn cho rằng: Rễ cỏ, chữ viết từ bộ thảo thanh cai.

Thâm tiếu ngược lại âm tiều diệu sách Khảo Thanh cho rằng: Mắng nhiếc, quở trách khéo, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngôn thanh tiếu âm trách là âm trách.

Nhĩ phủ âm trên nhĩ bi Tự Thư cho rằng: Người ở Thanh Châu gọi liềm gặt lúa là nhĩ Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh di.

Khuê khô âm trên quan khuê âm dưới khổ cô Quảng

Thất cho rằng: Khuê là giết, người đồ tể giết mổ súc vật, Cố Dã Vương cho rằng: Khô là phanh ra bụng trống rỗng, sách Thuyết Văn cho rằng: Khuê là đâm vào, khô là phanh ra, moi ra hai chữ đều từ bộ đao đều thanh khuê khô âm khoa ngược lại âm khổ hoa.

Chi đố ngược lại âm đô cố sách Thuyết Văn cho rằng: Trong nước có trùng, chữ viết từ bộ côn thanh đố âm côn là âm côn âm thác là âm thác.

Viêm dược ngược lại âm trên dư chiêm âm dưới là dương chước Lưu Hy cho rằng: Dược là thông lợi, dụng cụ thông lợi, sách Thuyết Văn cho rằng: Sạch sẽ, chữ viết từ bộ thủy thanh dược.

Yên ế ngược lại âm y lệ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cúng tế đất gọi là ế cũng chôn dấu, Quách Phác cho rằng: Chôn dấu nơi thâm u, sách Thuyết Văn cho rằng: Chôn cất nơi vắng vẻ, chữ viết từ bộ thổ thanh hiệp âm hiệp ngược lại âm khưu triếp.

Hiểu hương ngược lại âm hưởng lương sách Lễ Ký cho rằng: Đốt lửa cháy lan tràn trong thôn xóm, Văn Tự Điển nói rằng: Cùng với hương Tự cũng đồng, chữ viết từ bộ thảo thanh hương.

Sưu thủ ngược lại âm trên cổ lưu viết đúng chữ lưu e rằng sai, lấy ý cầu cho hợp, viết chữ sưu này gọi là cầu to tác, lớn, nơi nghĩa là được âm sắc thấu chú xem trước đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển thứ hai.

Tồn mạc âm trên thồ tôn âm dưới mang thổ sách Mục Thiên Tử Truyện cho rằng: Mạc bái lạy mà nhận, Quách Phác cho rằng: Nay người nước hồ lễ Phật đưa tay lên cộng thêm cái đầu gọi là man mạc tức bái lạy, tức đây là, sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh mạc.

Đồn thế ngược lại âm trên đồ đốn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đồn là nhảy, chạy nhảy, Quảng Nhã cho rằng: Ẩn náu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xước âm xước ngược lại âm sửu lược âm đồn ngược lại âm đồ mân.

Kiêu chích ngược lại âm trên khương lược âm dưới chinh thạch trang kiều. Đạo chích là tên của hai người ăn trộm.

Tần phiên âm trên là tần Mao Thi Truyện cho rằng: Tần là loại bèo dưới nước, âm dưới là phiền Mao Thi Truyện cho rằng: Xa vời, trôi dạt. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hai chữ đều từ bộ thảo đều thanh tần phồn âm bá là âm bà.

Chi nhiếp ngược lại âm niệm hiếp Quách Phác cho rằng: Phàm là các vật lấy dùng quá mức độ cho đến phải mỏi mệt, khốn khổ mà không biết đến khi quay trở lại thì đây là chỗ tốt. Nói việc này, là không có đạo lý. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thảo thanh nhĩ.

Dục hàm ngược lại âm hiềm điếm Hoài Nam Tử cho rằng: Đến mùi vị cũng không ngậm lại. Hứa Thúc Trọng cho rằng: Hàm là ngậm lại trong miệng cho chỗ để ngậm thức ăn, Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Gói cất dự trữ thức ăn, giống như con khỉ từng ngậm dấu thức ăn trong miệng, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khẩu thanh kiêm.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 96

-Từ quyển thứ năm đến quyển thứ mười bốn tính ra mười quyển.

ÂM HOẰNG MINH TẬP

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 5

Hổn hào ngược lại âm hiệu giao sách Khảo Thanh cho rằng: Hào là tạp loạn, Tự Thư cho rằng: Dơ đục pha trộn nước bẩn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hào lại cũng chữ hào.

Thất khiếu ngược lại âm khải điếu Tự Thư cho rằng: Lỗ hỏng sách Thuyết Văn cho rằng: Trống rỗng chữ viết từ bộ huyệt thanh khiếu âm khiếu là âm điếu.

Kiên xuể ngược lại âm Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Xuế là cong mịn nhuyễn. Làm mền, sách Thuyết Văn cho rằng: Lông thú mền, chữ viết từ bộ mao. Tha thùy ngược lại âm trên tà đã Quảng Nhã cho rằng: thiêu đốt lửa cháy còn dư lại tro tàn, sách Thuyết Văn cho rằng: Tro than, chữ viết từ bộ hỏa cũng là thanh lại cũng viết chữ tha dứt ngược lại âm tử lật âm tẩn ngược lại âm từ nhẫn âm tao ngược lại âm tử lao Bổn Tập viết chữ hào là chẳng phải.

Khô tích ngược lại âm tinh diệc Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thịt phơi khô. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Vật băm ra nhỏ phơi khô là tích chữ viết từ bộ nhục thanh tích.

Chi nhiệt ngược lại âm nhiệt thiền Lục Tả Công Khoát Minh Truyện giải rằng: Hình phạt tàn khốc thiêu đốt trong lửa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thiêu đốt, lại cũng viết từ chữ nhiên nghĩa đều đồng Tự Thư cho rằng: Khẩn tra lại các sách đều không có chữ này, lại cũng có từ bộ thảo viết thành chữ nhiệt nghĩa chữ này cũng đồng.

Nhi chủ âm chú.

Chất cốc âm trên chân nhật âm dưới công cốc nghĩa đã giải thích Cao Tăng Truyện rồi.

Đại khôi ngược lại âm khô hội sách Trang Tử cho rằng: Đại khôi là tên của gò đất cao chứa khí âm, làm gió. Tư Mã Bưu cho rằng: Đại khôi gọi là bầu trời, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh quỷ.

Nhân kỳ ngược lại âm kỹ nghi cùng với chữ kỳ đồng nghĩa chữ cổ sách Khảo Thanh cho rằng: Giày (905) da có tơ mịn lót bên trong. Ngọc Thiện cho rằng: Chữ viết từ bộ cách thanh kỳ.

Miến tố ngược lại âm trên miên biến Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Miến là dạng mạo suy tư sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh diện.

Dữ thân âm trên dữ chu Tô Lâm giải thích rằng: Dữ giống như là ý đeo ngang theo, chữ viết từ bộ xa thanh cửu âm dưới sơ lận sách Thuyết Văn cho rằng: Sấn là áo quan, chữ viết từ bộ mộc thanh thân.

Thù khích ngược lại âm trên thụ vưu âm dưới hương nghịch Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hiềm khích giống với nhau, Cố Dã Vương cho rằng: Khích giống như khe hở, cũng gọi là oán giận, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ phụ âm khích đồng với âm trên, Bổn Tập viết chữ khích họ của người chẳng phải nghĩa thù hiềm.

Di cảm ngược lại âm kỹ âm sách Khảo Thanh cho rằng: Cảm là chỗ cây nhờ, ý cậy nhờ chỗ nguy hiểm. Sách Thuyết Văn cho rằng: Không an, chữ viết từ bộ tâm thanh cảm.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 6

Thích bác luận âm giữa bang giác sách Khảo Thanh cho rằng: Bác là giữ lấy, phàm tên tổng xưng lột da, Bổn Tập viết chữ bác là tên con thú chẳng phải nghĩa thích bác.

Lô thùy ngược lại âm trụ vi Quảng Thất cho rằng: Thùy gọi là quả chùy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ kim thanh thùy theo chữ lô thùy đó là rèn luyện, tập hợp chữ viết từ bộ kim thanh thùy chữ viết từ bộ truy viết thành chữ trùy nơi nghĩa là được.

Tư cấp ngược lại âm trên tử tư ngược lại âm dưới kim hấp Khổng An Quốc chú giải sách Tự Thư rằng: Tư là không lười biếng sách Thuyết Văn cho rằng: Siêng năng chữ viết từ bộ văn thanh tử lại cũng viết chữ tư cho rằng: Cũng thông.

Vũ nhiên âm trên là vũ sách Khảo Thanh cho rằng: Vũ là làm Phật ý mất lòng. Hà Hựu chú giải sách Luận Ngữ rằng: làm cho người không đạt đến vừa lòng mà thôi, sách Thuyết Văn cho rằng: Yêu tiếc, lại cũng gọi là bất động, chữ viết từ bộ tâm thanh vô.

Đốt dị tai âm trên đô nột sách Thuyết Văn cho rằng: Đốt gọi là mắng chiếc lẫn nhau, chữ viết từ bộ khẩu thanh xuất.

Hiểu khiết âm trên nhiêu liễu Mao Thi Truyện cho rằng: Hiểu là màu trắng, sách Thuyết Văn cho rằng: Thạch ngọc màu trắng chữ viết từ bộ bạch thanh hiểu âm kích là mam diệp âm dưới là kiết.

Uyển biến ngược lại âm trên oan nguyễn Mao Thi Truyện cho rằng: Uyển từ từ đi tới uyển chuyển, dáng vẻ đẹp, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ước hẹn, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh uyển âm dưới liệt chuyển Tự Thư cho rằng: Uyển chuyển thuận theo, sách Thuyết Văn cho rằng ngưỡng mộ, chữ viết từ bộ nữ thanh biến âm biến ngược lại âm liệt chuyên.

Hung tức ngược lại âm bằng bức Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tức là bướng bỉnh ngang ngược không có lòng nhân. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh phúc âm phúc là âm phúc.

Tuy tinh ngược lại âm tuất vinh Mao Thi Truyện cho rằng: Màu đỏ, màu vàng gọi là tinh. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh tân lại cũng viết chữ tinh giải thích đều đồng.

Lê sắc ngược lại âm trên lý chỉ Hà Hựu chú giải sách Luận Ngữ rằng: Lê là tạp loạn văn pha trộn lộn, vằn vện.

Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ ngưu thanh lê âm lê là âm lợi.

Sính công ngược lại âm trên sắc lịnh Mao Thi Truyện cho rằng: Sính là thí cho. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngựa chạy hay, chữ viết từ bộ mã thanh sính âm sính ngược lại âm thất dinh.

Khôi lỗi ngược lại âm trên ô hối Tự Thư cho rằng: Khôi là không biết, người không có trí tuệ. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Chữ viết từ bộ ngạc thanh khôi Bổn Tập viết chữ khôi cũng thông dụng, âm dưới lỗi ôi Khảo Thanh cho rằng: Lỗi là hói đầu, theo Tả Truyện cho rằng: Là người đứng đầu sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh lỗi âm lỗi là âm lôi.

Sảng khải ngược lại âm trên sương lượng sách Thuyết Văn cho rằng: Sảng là trong sáng, chữ viết từ bộ hào đến bộ đại trụ văn viết chữ sảng âm dưới khai hài Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khải là chỗ cao ráo sáng sủa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ cao ráo chữ viết từ bộ thổ thanh khải âm khải là âm khải.

Tiêu tuấn âm trên thiêu tiều Hứa Thúc Trọng cho rằng: Tiêu cũng là tuấn, sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh ra nghĩa cũng đồng, từ bộ phụ thanh tiêu.

Phẩu dịch ngược lại âm trên phổ hậu âm dưới chinh diệc Cố Dã Vương cho rằng: Phẩu là mổ xẻ phá ra, sách Thuyết Văn cho rằng: Phanh ra chữ viết từ bộ đao âm phẩu ngược lại âm luân đậu.

Vũ thuế ngược lại âm thủy nhuế sách Thuyết Văn cho rằng: Con ve lột xác, chữ viết từ bộ hủy thanh thuế âm dưới văn cũng đồng.

Hoành quỳ ngược lại âm quỷ qui sách Thuyết Văn cho rằng: Quỳ là con đường lớn thông ra chín phía giống như trên lưng con rùa, cho nên gọi là quỳ từ bộ cửu thanh thủ lại cũng viết chữ quỳ.

Môn chu âm trên một bôn theo Thanh Loại cho rằng: Môn là sờ mó sách Thuyết Văn: Nắm bóp chặt chữ viết từ bộ thủ thanh môn âm mạc ngược lại âm môn bác.

Hữu bì ngược lại âm tỳ di Giả Quỳ giải thích: Bì giống như thêm vào sách Thuyết Văn: Tăng thêm chữ viết từ bộ thổ thanh tỳ.

Phỉ vi ngược lại âm phù vĩ Mao Thi Truyện cho rằng: Phỉ là văn chương, sách Thuyết Văn: Phân biệt văn chương, chữ viết từ bộ văn thanh phỉ Kinh Dịch giải thích: Người quân tử tự làm cho mình trở nên phong phú hơn, văn chương trau chuốt sáng sủa hơn, ngược lại âm dưới vu quỷ sách Thuyết Văn vu quỷ sách Thuyết Văn: Vĩ là sáng là nhiều, chữ viết từ bộ nhật thanh vĩ.

Vĩ vĩ ngược lại âm vi phĩ đã giải thích đầy đủ rồi, trong quyển Độc Cao Tăng Truyện.

Hào quái ngược lại âm khẩu ngoại Tự Thư, Thiên Thương Hiệt Thuyết Văn đều cho rằng: Vỏ trấu của hạt thóc, chữ viết từ bộ hòa thanh hội Bổn Tập viết chữ quá là sai lầm.

Điểu quát ngược lại âm quan hoạt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quát là mắng chửi quát tháo inh ỏi, Thiên Thương Hiệt giải thích: Quấy rối sách Thuyết Văn: Mắng nhiếc âm thanh lẫn lộn, chữ viết từ bộ nhĩ thanh thiệt Bổn Tập viết chữ quát là rất, âm thiệt là âm hoạt.

Thú cú ngược lại âm hồ cấu Quảng Thất cho rằng: Cú là tiếng chim hót, Cố Dã Vương cho rằng: Tiếng thú kêu, Giả Quỳ cho rằng: Tiếng chim kêu, theo Thanh Loại tiếng gầm rống của hổ báo. Xưa nay Chánh Tự viết chữ cú nghĩa đều đồng, cũng viết chữ hao từ bộ ngưu thanh cú Bổn Tập viết chữ cú cũng thông dụng.

Đề hồ ngược lại âm trên đệ hề âm dưới hộ cô sách Khảo Thanh cho rằng: Đề hồ tức là sữa đặc trong không có nghi. Bổn Tập viết từ bộ thủy viết thành chữ đề là chẳng phải.

Sức hội âm trên thức âm dưới hồi nội Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Giống như sợi tơ màu đỏ chữ viết từ bộ mịch thanh hội.

Mậu chân ngược lại âm trên mâu hầu Cố Dã Vương cho rằng: Mậu giống như giao dịch, sách Nhĩ Thất cho rằng: Là nơi chợ mua bán sách Thuyết Văn cho rằng: Giao dịch tiền bạc chữ viết từ bộ bối thanh mậu âm mậu là âm cổ, âm dưới đúng là chữ chân.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 7

Tàm bội âm dưới bồi muội Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Bội là ngọc, ngọc để đeo ngọc bội, sách Đại Đái Lễ cho rằng: Trên có ngọc bội, có hốt xung, dưới có hai vàng, hai sừng là bảo châu, dùng tơ buộc vào giữa, vua đeo ngọc bội trắng, công hầu ngọc bội đen Đại phu đeo ngọc bội xanh thủy tinh. Thế tử đeo ngọc bội thường, sĩ tử đeo mân, Khổng Tử ngọc bội giống như năm màu, phàm đeo vật trên thân mình đều gọi là ngọc bội sách Thuyết Văn đeo ngọc bội lớn chữ viết từ bộ nhân thanh kỹ bội tức là có bộ cân cân tức là tráp, cũng viết từ bộ ngọc viết thành chữ bội.

Kình tỵ âm trên cạnh nghinh cũng viết chữ kình âm dưới kỳ kỹ sách Trang Tử giải thích kình tỵ là cái nắm tay cong tay lại, người vòng tay thi lễ, sách Thuyết Văn tỵ là bước chân dài, chữ viết từ bộ túc thanh tỵ.

Khoa cưỡng âm trên khoa hoa sách Khảo Thanh cho rằng: Khoa là to lớn, sách Thuyết Văn: Khoa là xa xỉ, phung phí, chữ viết từ bộ đại thanh khoa âm khoa ngược lại âm khẩu quả.

Kiêu chậm ngược lại âm chậm nhâm sách Khảo Thanh cho rằng: Loài chim có độc kinh Sơn Hải nói: Độc hại giống như người đàn bà, loài chim chậm phần nhiều trên núi Quách Phác cho rằng: Lớn như con diều hâu, lông màu tím, cổ dài, mỏ đỏ, thường ăn thịt rắn, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chim chậm cái lông có độc, lấy cái lông vẽ vào rượu uống là chết liền, sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh trầm âm trầm là âm dâm.

Uất-bí âm trên đúng là chữ uất âm dưới bi-mị tiếng Phạm.

Mâu tán âm trên mạc hầu âm dưới thương loạn sách Thanh Loại cho rằng: Mén cây giáo dài đưa ra xa, Quảng Thất nói rằng: Tán gọi là cái mũ trụ đội đi ra trận. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ mâu thanh tán âm dưới văn cũng đồng.

Nghệ phiêu ngược lại âm tất diêu Cố Dã Vương cho rằng: Phiêu gọi là giơ cao lên làm biểu tượng cho biết, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng gọi là biểu tượng, chữ viết từ bộ mộc thanh phiêu Bổn Tập viết chữ phiêu tục tự thường hay dùng, phiêu đồng với âm trên.

Xúc chi âm trên tửu dục Quảng Thất cho rằng: Xúc là bức bách Trịnh Tiễn cho rằng: Thúc dục, dùng tay đè lên, chữ viết từ bộ thủ cũng viết chữ xúc sách Khảo Thanh cho rằng: Xô đẩy bức bách. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủ thanh xúc.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 8

Lưu hiếp ngược lại âm hiểm giáp tên họ người đời Tấn. Hằng Huyền Ký Thất là vị tham tướng quân.

Tăng ái ngược lại âm ai cái sách Khảo Thanh cho rằng: Ái là khí, hơi, mây, nên che mất ánh sáng thành tối tăm. Bổn Tập viết chữ ái e rằng sai lầm Tự Thư viết chữ ái.

Ai tẫn âm trên ô cai Quảng Thất cho rằng: Ai là nóng nhiệt, thiêu đốt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh ai âm dưới từ dẫn viết đúng là chữ tẫn Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Đốt lửa cháy còn dư lại tro than. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh tận.

Mân sổ ngược lại âm trên mật văn sách Chu Lễ nói rằng: Cuối đời Đường, vùng đất người Việt và bảy bộ tộc Mân ở vào thời nhà Chu, tên của một chủng tộc ở Phúc Kiến và một phần của Triết Đông tại Trung Quốc, cũng tên nước một trong mười nước thời Ngũ Đại, cuối đời Đường, vương triều làm tiết độ sứ, triều chết còn là thẩm tri kế nghiệp, được phong là Mân vương. Nay chiếm toàn tỉnh Phúc Kiến trừ phần nhỏ phía Nam. Truyền đến con là Diên Chính, đổi quốc hiệu là Ân Kinh Sơn hải nói: Mân là ở trong biển, sách Thuyết Văn cho rằng: Nam Việt giống rắn, chữ viết từ bộ hủy thanh môn âm dưới tô khẩu.

Hà câu ngược lại âm cẩu hầu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Thất rằng: Dòng sông uốn quanh như móc câu, nước chảy xoáy tròn như là sông Hoàng Hà, cũng là tên của khúc sông Hoàng Hà, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ kim thanh câu Bổn Tập viết chữ hầu âm hầu chẳng phải nghĩa này.

Tra tham ngược lại âm trên sa tra Mao Thi Truyện cho rằng: Tra là trong nước có cỏ cây nổi lên. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh thư. Lại cũng viết chữ sa Bổn Tập viết chữ tra là chẳng phải. Ngược lại âm dưới sở cẩm sách Nhĩ Thất cho rằng: Sông cầm. Quách Phác chú giải rằng: Nay viết chữ xâm tức là tích xưa. Củi trôi trong nước mà cá được chim vào bọng cây trốn, ẩn náu, nhân đây mà bị bắt, sắc Thuyết Văn tích xưa người đốn củi bắt được cá, âm lâm ngược lại âm lực kim.

Cấm cố ngược lại âm cổ hộ sách Thuyết Văn cho rằng: Ló đúc đồng sắt để lắp bít lỗ hỏng, chữ viết từ bộ kim thanh cố.

Hạp xỉ âm trên hồ lạp Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: Hạp là hợp lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu âm hạp đồng với âm trên. Sau có đó đều đồng.

Đãng hoa âm trên đãng lãng Bì Thương cho rằng: Tên loài cỏ là lam đãng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh đãng âm lan là âm lãng âm đãng là âm đãng.

Hoàng mị ngược lại âm hồ hoành sách Thuyết Văn: Sừng của thú giống như trâu có thể uống, hút máu người, chữ viết từ bộ giác thanh hoàng hoặc viết chữ quang cùng với Bổn Tập đều đồng, âm dưới là mị.

Hổn man âm trên hồn khốn Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hổn loạn chữ viết từ bộ thủy thanh hổn âm hổn đồng với âm trên, ngược lại âm dưới man gián.

Hiệp thần âm trên tiêm diệp Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Từ giáp đến quý là hiệp Hán Thi Truyện cho rằng: Cũng thông.

Khoa mạn ngược lại âm trên khoa qua Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Xa xỉ, phung phí, chữ viết từ bộ nữ thanh khoa âm dưới man man sách Khảo Thanh cho rằng: Man là khôn ngoan xảo trá, Tự Thư cho rằng: Viết chữ mạn sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh mạn.

Lương ngược lại âm trên lãng đương Quảng Thất cho rằng: Lương là đá cứng, thanh thạch sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh lương âm dưới cự kích sách Thuyết Văn cho rằng: Loại guốc gỗ, chữ viết từ bộ thi bộ kỹ thanh tĩnh âm khiêu là âm khước.

Tích liệt âm trên sính mịch Quảng Thất cho rằng: Cắt phanh ra sách Thuyết Văn cho rằng: Phá ra chữ viết từ bộ đao thanh tích.

Phong ngưu ngược lại âm trên phúc bồng sách Khảo Thanh cho rằng: Con trâu hoang dã, trên đầu có lông nhụt xuất phát từ trong núi Thục. Kinh Sơn Hải cho rằng: Phong ngưu phần nhiều trên núi. Bì Thương cho rằng: Con trâu hoang dã, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ ngưu thanh phong.

Hung khoáng ngược lại âm qua mảnh sách Thuyết Văn cho rằng: Con chó hung hãn, không thể đến gần được, chữ viết từ bộ khuyển thanh (907) quảng.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 9

Câu quyện ngược lại âm quyền viện Cố Dã Vương cho rằng: Quyện là mỏi mệt, Quảng Thất cho rằng: Rất mỏi mệt, sách Thuyết Văn giải thích cũng là rất mỏi mệt, chữ viết từ bộ nhân thanh quyển Bổn Tập viết chữ quyện e rằng sai.

Để lệ ngược lại âm trên chi lý âm dưới ly nghệ.

Giao ly âm trên là giao âm dưới sĩ ly kinh Sơn Hải nói rằng: Trong ao nước nhỏ hẹp có con thuồng luồng, nằm trong đó, thân giống như cá mà đuôi giống như rắn, có thể bắt chim uyên ương mà ăn. Vì vậy ngược lại với tình huống này, nước nhiều con thuồng luồng mới ở được. Quách Phác cho rằng: Giống như rắn, có bốn chân đầu nhỏ, cổ bé xíu, có sọc trắng, lớn là mười lần sanh con trong vườn đẻ trứng, từ một đến hai đấu, con thuồng luồng con có thể nuốt con người. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thuộc giống rồng, rắn ăn cá, đầy cả ba ngàn sáu trăm con rồng đến làm thống lãnh loại cá mà cũng biết bay, cũng có thể ăn rong trong nước, tức là con giao long. Chữ viết từ bộ thủy thanh giao.

Phong ngạc âm trên phụng dung ngược lại âm dưới ngan các loại phảng phát cỏ (tức liềm lớn) cắt cỏ.

Độn nhẫn âm trên đồn khổn cốt cách ngược lại âm giai ngạch Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Xương khô gọi là cách sách Thuyết Văn cho rằng: Xương của cầm thú gọi là cách, chữ viết từ bộ cốt thanh cách Bổn Tập viết chữ cách âm khách á e rằng sai.

Lương áo ngược lại âm ưu lục sách Thuyết Văn cho rằng: Áo là nóng nhiệt, chữ viết từ bộ hỏa thanh áo.

Thống dương ngược lại âm dương tưởng sách Thuyết Văn cho rằng: Trên da nổi mụt nhỏ rất ngứa, sách Thuyết Văn viết chữ dương nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ hủy thanh dương âm dưới văn đều đồng.

Tổn tẫn ngược lại âm tần mẫn tên họ người.

Tây linh ngược lại âm lịch đinh sách Phương Ngôn cho rằng: Cây rui nhà gọi là linh. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Linh là chuồng nuôi súc vật sách Thuyết Văn cho rằng: Lan can thanh gác dọc gọi là hạm, gác ngang gọi là thuẫn. Chữ viết từ bộ mộc thanh linh âm lữ là âm lữ âm thuẫn là âm thuận.

Thôn độ âm trên thôn tổn âm dưới đãng các.

Mân tợ ngược lại âm trên hối bân Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Mân là thứ đá đẹp, giống như ngọc. Kinh Sơn Hải nói: Đá quý phần nhiều trên núi cao. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh hôn Bổn Tập viết chữ hôn tục tự dùng thông dụng. Âm hôn là âm hối.

Lân ngang âm trên lật chân Quách Phác cho rằng: Con ngựa hay có màu sắc trên lông đậm nhạt, pha trộn lẫn nhau, nay gọi là tóc pha bạc, Tự Thư cho rằng: Con ngựa lông đen pha trắng nhạt. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh lân âm dưới ngô cang sách Sở Từ cho rằng:

Ngựa chạy ngàn dặm, Bì Thương cho rằng: Đầu ngựa lắc lư. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Con ngựa phẫn nộ, chữ viết từ bộ mã thanh ngang âm ngang.

Nữ oa ngược lại âm quả hoa hiệu của hoàng đế cổ.

Đa đồ ngược lại âm thố lỗ sách Nhĩ Thất cho rằng: Đồ là lúa nếp, Trịnh Chúng cho rằng: Lúa mạch sách Thuyết Văn cho rằng: Lúa chín ngã màu vàng, chữ viết từ bộ hòa thanh dư.

Vô ngân ngược lại âm khải căn Khảo Thanh cho rằng: Biến đò. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh ngân âm suy ngược lại âm ngô suy.

Bá thực ngược lại âm trên ba ma âm dưới thời lực Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Bá giống như gieo trồng, sách Thuyết Văn cũng nói: Gieo trồng lại gọi là vải giống, chữ viết từ bộ thủ thanh bá Bổn Tập viết chữ bã là thuộc cái mẹt sàng gạo, chẳng phải nghĩa cùng chữ bá là gieo trồng, vải giống lúa.

Mô mậu ngược lại âm mâu hầu Trịnh Tiễn giải thích sách Lễ Ký rằng: Mậu nhìn lờ mờ không rõ, sách Thuyết Văn cho rằng: Mắt cận thị, chữ viết từ bộ mục thanh vụ âm vụ là âm vũ.

Cũng thư ngược lại âm trên cục ngung âm dưới cưỡng ngư sách Nhĩ Thất cho rằng: So sánh phương Tây con thú, cùng với con châu chấu, con dế, cũng cũng thư, là hư thực mà so sánh là không có thật, loại vật cuốn chiếu tức con sâu bọ, hút chất ngọt trên cây cỏ, tức là có loại cuốn chiếu, thường nằm khoanh trong cỏ mà biết bò đi như các loại côn trùng khác, gọi là sâu đục gốc lúa. Sách Lã Thị Xuân Thu cho rằng: Phương Bắc loài thú tên cũng thư, chân trước của nó giống như con thỏ, chạy thì rất chậm hay té lộn nhào, gọi là cũng cũng, thư hư, cũng giống như con chuột, mà phía sau là thỏ phía trước là cao, không gậm dưới cỏ ngọt, cho nên phải ăn và hút mật cỏ ngọt. Nay ở huyện Nhạn Môn Quảng Võ, Hạ Cốc. Trên núi có con thú này, hình như con thỏ mà to lớn có thể cõng các đồ vật mà đi, đào đất làm hang, gọi là quyết thử, sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là con thú, chữ viết từ bộ hủy thanh cũng cư từ bộ côn thanh cự Bổn Tập viết chữ cự giống như con ngựa chẳng phải con thú này, mất đi ý nghĩa lắm vậy. Âm cự ngược lại âm cư vệ âm cũng đồng với âm trên, âm côn là âm côn âm dưới căn cũng đồng.

Miễu thiệu ngược lại âm tha điêu sách Lễ Ký cho rằng: Miếu thờ tổ tiên đã quá xa gọi là thiêu Trịnh Chúng chú giải rằng: Thiêu là nói vượt qua, ý nói từ quá khứ là chủ của miếu thờ, lấy chiêu mục hợp lại cất giấu có hai miếu thờ bên trong. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thi thanh triệu.

Đàn thiện ngược lại âm trên đường đan ngược lại âm dưới thiền xiển Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đài cao làm bằng đất là đàn, trừ bỏ đất làm đàn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đàn cúng tế, đàn lập nơi hoang dã, hai chữ đều từ bộ thổ đều thanh đàn đơn sau có chuẩn đây.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 10

Sang vị ngược lại âm vi quỷ Thiên Thương Hiệt cho rằng: Là vết thương, sách Thuyết Văn cho rằng: Vết sẹo, từ bộ tật thanh hữu âm thi là âm thí.

Trệ trứu ngược lại âm trưu sưu sách Thuyết Văn cho rằng: Trứu là xây giếng bằng gạch, chữ viết từ bộ ngõa thanh thu âm tích ngược lại âm bi mịch.

Cho oa ngược lại âm ô oa sách Khảo Công Ký cho rằng: Chỗ gọi là tiếng kêu của con ếch. Sách Thuyết Văn cho rằng: Con ễnh ương, chữ viết từ bộ mảnh thanh oa âm mảnh là âm mảnh lại cũng viết chữ oa.

Chu hàng ngược lại âm tước lang Mao Thi Truyện cho rằng: Hàng là thuyền vượt qua sông. Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là thuyền tế độ, thuyền cứu vớt qua sông gọi là hàng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ chu thanh hàng lại cũng viết chữ hàng là âm phiêu.

Da biện ngược lại âm biệt biến sách Khảo Thanh cho rằng: Nắm tay vỗ vỗ, sách Thuyết Văn viết chữ biện là tay úp xuống, chữ viết từ bộ thủ thanh biện âm biện đồng với âm trên. Bổn Tập viết chữ biện cũng thông dụng.

Vô dịch ngược lại âm doanh tích Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dịch là vứt bỏ, sách Thuyết Văn cho rằng: Uể oải, mỏi mệt, lười biếng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Suốt ngày chữ viết từ bộ phộc thanh dịch âm dịch là âm diệc Bổn Tập viết từ chữ dịch là sai, văn dưới đều đồng.

Xuân luân ngược lại âm xuân duẫn Tự Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Xuân là tạp không đồng. Hứa Thúc Trọng cho rằng: Chống trái lại với nhau. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: So le, chữ viết từ bộ túc thanh xuân Hoài Nam Tử viết chữ thuấn âm nghĩa đều đồng.

Quắc cang ngược lại âm cư phách các Tự Thư đều không có chữ này ý gọi là tục tự thường hay dùng.

Chiêu diễn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Khiên là lỗi lầm. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Có lỗi sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng như vậy. Trụ Văn viết chữ khiên viết đúng là chữ khiên nghĩa đều đồng, từ bộ tâm thanh diễn hoặc là viết chữ khiên đều đồng nghĩa.

Chiên hồi âm trên triển liên âm dưới là hồi sách Khảo Thanh cho rằng: Chiên là xoay chuyển, hồi là xoay vòng. Xưa nay Chánh Tự viết chữ chiên nghĩa đều đồng, chữ viết từ bộ xước thanh chiên âm hồi từ bộ xích thanh hồi Bổn Tập viết chữ chiên hồi là sai. Âm xước ngược lại âm sửu lược âm xích là âm sắc.

Tề kỳ âm trên tề hệ Thượng Thư cho rằng: Tề là rơi rớt xuống, sách Phương Ngôn cho rằng: Diệt mất, Quảng Thất cho rằng: Đẩy ra sách Thuyết Văn cho rằng: Bài trừ, bỏ ra, chữ viết từ bộ thư thanh tề.

Từ côn ngược lại âm côn bổn tên họ người. Lương Hoàng Môn Thị Lang.

Vương gián ngược lại âm giam hạn tên họ người.

Liễu vận ngược lại âm trên đúng là chữ liễu âm dưới vất vẫn tên họ người âm vẫn ngược lại âm văn phân.

Liễu trừng âm trừng tên người.

Ly ky âm trên lặc di sách Khảo Thanh cho rằng: Ly là bày biện. Công bố ra cho mọi người biết. Tả Tư Thục Đô Phú Truyện cho rằng: Ly là phô diễn văn chương. Sách Thuyết Văn cho rằng: Thư thái, chữ viết từ bộ thủ thanh ly âm ly đồng với âm trên.

Diệp diệp ngược lại âm điềm diệp Cố Dã Vương cho rằng: Diệp giống như lo buồn, Đông Kinh Phú Truyện cho rằng: Diệp diệp là đầu đen, đời nhà Tần dùng từ này để chỉ dân chúng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa, chữ viết từ bộ tâm thanh diệp âm diệp là âm diệp.

Lục lục ngược lại âm lô dung Bì Thương cho rằng: Lục lục là nhiều đám vụn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ thạch thanh lụy âm lục là âm lục.

Bưu tuyền ngược lại âm trên bi bưu Mao Thi Truyện cho rằng: Nước chảy, Quảng Thất cho rằng: Đồng nghĩa, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủy bộ bưu thanh tĩnh âm bưu ngược lại âm bỉ vưu.

Câu thâm âm trên cú hầu âm dưới thẩm chu sách Chu Dịch Phồn Từ cho rằng: Câu thâm là truyền đạt từ xa. Sách Khảo Thanh cho rằng: Câu là mong cầu, giữ lấy, dẫn dắt, lôi kéo ra. Tự Thư cho rằng: Sâu xa khó mà đo lường được. Nay Bổn Tập viết chữ lục nơi nghĩa có phần quái lạ e rằng sai. Truyện viết nhầm lẫn cần phải sửa đổi lại, chữ viết từ bộ thâm nơi nghĩa là đúng, cũng phải xem xét lại.

Truân truân ngược lại âm chuẩn thuần Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thành khẩn gọi là báo cáo việc thành thật, sách Thuyết Văn cho rằng: Báo cáo cho hiểu biết nhiệt tình, chữ viết từ bộ ngôn thanh truân Bổn Tập viết chữ truân cũng thông dụng, thường hay dùng, âm truân ngược lại âm kỹ thuần.

Chung mộng ngược lại âm mặc băng âm bằng ngược lại âm băng mộng.

Lễ độ ngược lại âm trên lô qua âm dưới đường lạc.

Hà hán ngược lại âm đan đặt tên người, Bổn Tập viết chữ đản là sai lầm.

Ái nhiên ngược lại âm trên ai đại Mao Thi Truyện cho rằng: Là phiền muộn. Trịnh Tiễn cho rằng: Khiến cho người ta phải đau buồn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Phảng phất chữ viết từ bộ nhân thanh ái là hợp lại. Cũng viết chữ ấp là âm ấp.

Ẩu hú ngược lại âm trên vu ngu âm dưới ô cú Cố Dã Vương cho rằng: Là người hầu, phục dịch, ôn hòa theo Hàn Thi truyện cho rằng: Cú là ấm áp. Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Khí hậu ấm áp ôn hòa gọi là hú dùng hình thể gọi là ẩu sách Thuyết Văn viết chữ hú mặt trời mọc ấm áp, chữ viết từ bộ nhật thanh cú ẩu từ bộ nữ thanh khu âm khu là âm khu.

Chi hành ngược lại âm trên kiết dĩ Cố Dã Vương cho rằng: Bầy nai tụ họp có dấu chân giẫm đạp. Lại cũng viết chữ bã gọi là nhón chân dư thừa. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Loài côn trùng đi, chữ viết từ bộ trùng thanh chi.

Quyên phi ngược lại âm trên huyết duyên sách Khảo Thanh cho rằng: Loài côn trùng nhỏ biết bay. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ vũ bộ hoàn thanh tĩnh.

Tú chân ngược lại âm chân nhẫn tên người.

Phục hằng ngược lại âm hằng đặng tên người âm hằng ngược lại âm cổ đăng.

Chất hành ngược lại âm trên chân lật sách Khảo Thanh cho rằng: Tức là người đàn ông lực lưỡng, không lường trước được, cũng gọi là si có bệnh, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ nhân thanh chí.

Ẩm huệ âm dưới huề nhuế Trung hữu chú giải sách Chu Lễ rằng: Ban tặng cho y thực, quần áo, thức ăn gọi là huệ sách Thuyết Văn cho rằng: Huệ là lòng nhân, chữ viết từ bộ tâm âm huệ là âm vệ Bổn Tập viết chữ huệ cũng đồng.

Chẩm đầu ngược lại âm trên châm nẫm Thiên Thương Hiệt cho rằng: Chẩm là đầu cúi xuống. Theo Thanh Loại cho rằng: Giữa có chỗ dựa, sách Khảo

Thanh cho rằng: Phía sau gáy xương đầu, nay Ngọc Thiên, Thuyết Văn gọi là gối kê đầu nằm, chữ viết từ bộ hiệt thanh chẩm theo chữ chẩm tức là nhánh cây làm cái gối kê đầu âm thẩm là âm dâm.

Hoát nhiên âm trên hoan quát Quảng Thất cho rằng: Hoát là rỗng, trống rỗng, Cố Dã Vương cho rằng: Hoát là đạt đến đại độ lượng, lại cũng gọi là khai mở. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ dung thanh hại Bổn Tập viết hoát là chữ viết sai.

Khí nhiên ngược lại âm trên hy ký Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Khí là than thở. Quảng Thất cho rằng: Phiền muộn, sách Thuyết Văn cho rằng: Thở dài buồn bã, chữ viết từ bộ tâm thanh khí âm muộn là âm muộn.

Tương suyển ngược lại âm xuyên luyến Quảng Thất cho rằng: Suyển là chống trái lại với nhau, sách Thuyết Văn cho rằng: Đối nghịch, chữ viết từ bộ tịch thanh khoa âm duy là âm tuy âm khoa là âm khoa.

Huệ cô ngược lại âm trên huệ khuê âm dưới cổ ngô sách Phương Ngôn cho rằng: Loài ve nhỏ lột xác gọi là huệ cô, sách Trang Tử cho rằng: Huệ cô là ve sầu không biết mùa xuân, mùa thu. Xưa nay Chánh Tự (907) đều viết từ bộ hủy đều thanh cổ huệ âm lao là âm đao âm lao là âm lao.

Trọng phân ngược lại âm phù vân Thiên Thương Hiệt cho rằng: Phân là hơi sương mù, sương tuyết mờ mịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ phân nghĩa cũng đồng, chữ viết từ bộ khí thanh phân.

Sĩ túc ngược lại âm trên sư tể Thiên Thương Hiệt cho rằng: Sĩ là giày dép để đi múa, dép cỏ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ túc thanh lệ cũng viết chữ tỷ.

Thiên tảo âm tảo Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Lấy chỉ năm màu xâu ngọc làm đồ trang sức gọi là tảo tên gọi tạp văn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đồ trang sức như thủy tinh, chữ viết từ bộ ngọc thanh tảo âm tảo ngược lại âm tô đáo.

Vọng siểm ngược lại âm siểm liêm sách Thuyết Văn cho rằng: Siêm là dòm ngó, trộm nhìn, chữ viết từ bộ kiến thanh chiêm âm khuy ngược lại âm cáo quy.

Hoàn chiết âm chi chiết Mao Thi Truyện cho rằng: Triết là sáng tỏa. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mặt trời chiếu sáng, cũng gọi là tỏ rõ, rõ ràng chữ viết từ bộ nhật thanh triết.

Tề điêu âm dưới biểu kiêu sách Thuyết Văn cho rằng: Điêu là hàm thiết ngựa, chữ viết từ bộ kim thanh tiêu hoặc là viết chữ điêu âm điêu ngược lại âm bạc giao.---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 11

Để khả âm trên đê lễ Thiên Thương Hiệt cho rằng: Khinh khi, Quảng Thất cho rằng: Hủy nhục, Thanh Loại cho rằng: Mắng nhiếc, sách Thuyết Văn cho rằng: Mắng nhiếc thậm tệ, chữ viết từ bộ ngôn thanh để âm để là âm để.

Chu khải ngược lại âm nghi khải tên người. Ân ký âm ký tên người.

Bác đàm âm trên giang nhạc Khảo Thanh giải thích: Bác là tóm lược. Quảng Thất cho rằng: Sáng tỏ Hán Thư giải thích: Bác là tự nhiên dễ biết. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ xa thanh giao.

Hủy độc ngược lại âm đồng lộc Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Độc là bài báng, chê bai, Quảng Thất cho rằng: Nói lời xấu ác, Quách Phác cho rằng: Mắng nhiếc hủy nhục, oán hận thống khổ, sách Thuyết Văn cho rằng: Oán giận chữ viết từ bộ cạnh thanh độc âm cách là âm cạnh Bổn Tập viết chữ độc tục tự dùng cũng thông dụng. Dưới quyển thứ mười trong đều đồng.

Lý miểu ngược lại âm di phiêu tên người. Nhương khư âm trên nhi dương âm dưới khi ca.

Trâu lộc âm trên kinh khôi âm đúng là chữ lỗ sách Khảo Thanh cho rằng: Trâu Lỗ là tên nước thời cổ Châu

Quốc Lỗ Mục Công đổi lại là trâu, cha của phu tử làm trâu đại phu. Cho nên gọi là như vậy. Bổn Tập viết trâu tục tự dùng cũng thông dụng.

Lâm truy ngược lại âm tử sư tên quận ở nước Tề. Bổn Tập viết truy là chẳng phải.

Phế tưởng ngược lại âm trên phiến miệt sách Thuyết Văn cho rằng: Phế là thoáng qua, tạm thời nhìn thấy, từ bộ mục thanh tê.

Qua chư âm trên qua loa âm quái Quảng Thất cho rằng: Oa là dừng lại. Thanh Loại cho rằng: Có chỗ ngăn ngại, sách Phương Ngôn nói rằng: Nắm giữ, sách Thuyết Văn cho rằng: Cặn bã, trăm đầu mối tơ rối như bông chữ viết từ bộ mịch thanh khuê.

Sàn nhiên âm trên sạn yên Khảo Thanh cho rằng: Sàn là gầy yếu nhan sắc không kém cõi, yếu kém, sách Thuyết Văn cho rằng: Hèn hạ, xấu xa, xuyên qua. Lại gọi là rên xiết, chữ viết từ bộ sàn là âm tiễn.

Khế thống âm trên lược danh tăng.

Hiệt âm trên hiền kiết âm dưới tước lang sách Khảo Thanh cho rằng: Bay lên bay xuống ý nói đối chọi nhau, không phân biệt trên dưới, sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệt là thẳng hàng, chữ viết từ bộ hiệt thanh kiết Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Hàng cổ họng, chữ viết từ bộ hiệt thanh hàng.

Hàn đan âm trên hạn lan âm dưới hằng lan Hán Thư cho rằng: Tên Huyện thuộc nước Triệu. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Huyện Quảng Bình.

Bồ bặc âm trên bộ mạc âm dưới bằng bắc Cố Dã Vương cho rằng: Tay và chân cùng bò lê trên đất gọi là bồ phục. Sách Thuyết Văn cho rằng: Bồ là đi bằng tay, phục là nằm dài hai chữ đều từ bộ bao đều thanh bồ bức âm bao là âm bao âm bức ngược lại âm bôi bức.

Bạo tai âm trên bao báo âm dưới tái tài.

Quan tuyệt âm trên quán hoàn Cố Dã Vương cho rằng: Già mà không vợ gọi là quan Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cưới gã không đúng thời gọi là quan. Thích Danh nói: Buồn bã sầu muộn không thể ngủ được, thường mở mắt, cho nên viết chữ quan từ bộ ngư tức là con cá luôn mở mắt buồn rầu không thể chợp mắt, nhắm mắt, sách Thuyết Văn viết từ bộ ngư bộ hoàn thanh tĩnh Bổn Tập viết chữ quan là sai vậy.

Mạo điệt âm trên mao báo âm dưới điềm kiết Đỗ Dự chú giải sách Xuân Thu rằng: Mạo là xua đuổi, đánh gõ, Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lẫn lộn hay quên sách Nhĩ Thất cho rằng: Điệt là người già, Tôn Đạm cho rằng: Người già nhan sắc như thiết đồng, sách Thuyết Văn cho rằng: Viết chữ mạo là người già chín mươi tuổi, chữ viết từ bộ lão thanh cao điệt là người già tám mươi tuổi, chữ viết từ bộ lão thanh tĩnh lại cũng viết chữ điệt. Yểm tư âm trên khỉ liêm dưới tử tư kinh Sơn Hải nói: Chim chuột đồng ở trong hang trên núi phía Tây nam ba trăm sáu mươi dặm gọi là núi Yểm Tư. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Dưới có ao nước, trong nước có hang sâu, gọi là chỗ để vào. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa hai chữ đều từ bộ sơn đều thanh yểm tư lại cũng viết chữ yểm.

Mong dĩ âm trên là mong âm dưới tợ dĩ giải thích đầy đủ rồi trong quyển thứ hai.

Nhạc trạc ngược lại âm trên nhan giác âm dưới sùng học Quảng Thất cho rằng: Thuộc chim phụng loài chim thần, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa, lại cho rằng thời nhà Chu có loài chim nước rất huy thạnh trên núi cao. Trong dòng sông cũng có loại chim này, loài thủy điểu giống như con vịt mà to lớn hơn, mắt màu đỏ hai chữ đều từ bộ điểu đều thanh ngạc tộc.

Huy độc âm trên là huy âm dưới đồ lộc sách Thuyết Văn cho rằng: Độc là bảng hiệu, chữ viết từ bộ phiến thanh độc.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 12

Lãng phong âm trên là lãng Quảng Thất cho rằng: Đảo Côn Lôn có ba ngọn núi, Lãng Phong, Bàn Đồng, Huyền Bổ. Sách Sở Từ cho rằng: Trông ra Lãng Phong Bàng Đồng, sách Thuyết Văn viết từ bộ môn thanh lãng. Kiểm ngô ngược lại âm trên tiếp diêm Quảng Thất cho rằng: Kiểm là nhiều, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đều nhau, Quách Phác cho rằng: Rất, quá lắm, sách Thuyết Văn cũng đều cho rằng: Đều nhau chữ viết từ bộ nhân đến bộ điếu đến bộ tùng âm nhập ngược lại âm tài nhập âm huyên là âm huyên âm tùng ngược lại âm từ dung.

Vạn khiếu ngược lại âm thi điếu đã giải thích rồi trong quyển thứ năm.

Nộ hao ngược lại âm hiệu dao sách Khảo Thanh cho rằng: Hao la hết lớn tiếng, tiếng vang vọng lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh hổ cũng viết chữ hao Bổn Tập viết chữ hao là sai âm hô ngược lại âm hồ cô.

Phì đột ngược lại âm đồn nột Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đột là đầy đủ sung mãn, sách Phương Ngôn cho rằng: Đầy tràn, sách Thuyết Văn cho rằng: Con trâu con dê mập béo gọi là phì con heo mập béo gọi là đột chữ viết từ bộ nhục thanh đột.

Triệu ngưỡng âm trên triệu điếu Quảng Thất cho rằng: Triệu là nhìn Quách Phác cho rằng: Thị sát, xem xét, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa từ bộ kiến thanh triệu Bổn Tập viết chữ triệu là sai.

Chi triệt âm triền liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là vết của bánh xe lăn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xa bộ triệt tục tự thường hay dùng, văn dưới trong triệt đều đồng âm này.

Hoàng huỳnh chữ trên đúng là chữ kiểm các Tự Thư đều không thấy chữ này e rằng truyện viết sai, chỉ có từ bộ xa viết thành chữ hoàng âm quang chữ gần như tương cận với nghĩa, hoặc là chưa làm rõ nghĩa, lại từ bộ khuê viết thành chữ oa ngược lại âm hồ quả sách Thuyết Văn cho rằng: Nghĩa tươi sáng, cũng gần với nghĩa chưa biết có thông hay không?.

Câu tri ngược lại âm tri lợi Cố Dã Vương cho rằng:

Tri vấp té ngã sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chất.

Bất vỹ ngược lại âm vi quỷ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Vỹ là phải đúng, sách Thuyết Văn cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ thị thanh vỹ.

Khái đế âm trên khai ái Cố Dã Vương cho rằng: Khái là phun ra, hơi đi ngược, tức là hắt hơi chữ viết từ bộ khiếm thanh khái Bổn Tập viết chữ khái ngược lại âm cai ai e rằng sai, âm dưới đinh kế Thiên Thương Hiệt cho rằng: Đế là hắt hơi phun ra từ mũi, sách Thuyết Văn cho rằng: Bất chợt tháo hơi ra, chữ viết từ bộ khẩu thanh đế âm đế ngược lại âm trúc lợi.

Nhược ổi ngược lại âm ôi khôi Hứa Thúc Trọng cho rằng: Ôi là tạp loạn Thiên Thương Hiệt cho rằng: Đốn ngã Quảng Thất cho rằng: Nhiều sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ khuyển thanh ôi.

Bì thầm ngược lại âm trên tỳ di âm dưới thậm vương Trịnh Đại Phu.

Miễn lưu âm trên là miển âm dưới là lưu giải thích đầy đủ rồi trong Cao Tăng Truyện.

Chữ giáp ngược lại âm sam giáp tên người Bổn Tập viết chữ giáp là sai văn dưới đều đồng.

Chiếu chiếu ngược lại âm chi diệu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Chiêu là chói sáng. Quảng Thất cho rằng: Sáng tỏ Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ hỏa thanh chiêu là cũng viết chữ chiếu.

Lũ lũ ngược lại âm lậu đầu Tự Thư cho rằng: Lũ là kính cẩn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ tâm thanh lũ.

Trương xưởng ngược lại âm xương lượng tên người. Sảng hộ ngược lại âm trên sang sảng Tự Thư cho rằng: Sảng là vết thương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ đao thanh sảng Bổn Tập viết chữ thóa kiểm lại các Tự Thư đều không có chữ này, tuy có chữ sảng nơi nghĩa, giống như chưa được thông dụng, cho nên chưa biết xuất phát từ sách nào.

Hào thượng âm trên hiệu cao Cố Dã Vương cho rằng: Hào là tên dòng sông, Trang Tử cùng Huệ Tử cho rằng: Đều trên đầu nguồn hào lương. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hào.

Ky dương hy ký. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Con vật tế còn sống gọi là khí chín gọi là chữ viết từ bộ thực thanh khí âm ung ngược lại âm ư dung.

Liêu chúc ngược lại âm trên liễu điêu âm dưới đúng là chữ chúc Khổng An Quốc sách Thượng Thư rằng: Làm quan gọi là liêu, lại trong Tả Truyện cho rằng: Đại phu, thần sĩ, thần sĩ sớm có làm cái trát. Dự dự thần, đãi đãi thần làm quan liêu. Cố Dã Vương cho rằng: Người làm quan phẩm thứ chín, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ nhân thanh liêu lại cũng viết chữ liêu.

Uế độc ngược lại âm trên vu phế âm dưới đồng lộc Giả Quỳ chú giải rằng: Độc là nhàm chán Thanh Loại cho rằng: Màu đen, Quảng Thất cho rằng: Mênh mông mờ mịt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Nắm cầm dơ uế, chữ viết từ bộ hắc thanh độc.

Lưu liên ngược lại âm liệt triền Cố Dã Vương cho rằng: Khóc đầm đìa nước mắt, nước mắt rơi lã chã, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh liêm.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 13

Hy đa tân ngược lại âm trên sĩ tri (908) họ người. Vương cai ngược lại âm cải ai tên người.

Nhuyễn động ngược lại âm trên nhi duẫn.

Thúc hốt ngược lại âm trên thi lục Bổn Tập viết chữ thúc tục dùng thông dụng.

Khiên trư ngược lại âm trên khởi yên đã giải thích đầy đủ rồi. Bổn Tập viết chữ khiêm chữ cổ âm dưới trư lự.

Hệ phụ ngược lại âm phù vụ Quảng Thất cho rằng: Phụ là con cá diếc, con nhái, sách Chu Dịch cho rằng: Hốc giếng bán nhái, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Con nhái, chữ viết từ bộ như thanh phụ.

Uẩn xúc ngược lại âm trên uất vẫn âm dưới là xúc sách Khảo Thanh cho rằng: Uẩn chứa cất giấu Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Uẩn là bao đựng kiếm, Thiên Thương Hiệt cho rằng: Buộc chặt lại. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa hai chữ đều từ bộ vi đều thanh uẩn chúc âm ôn là âm ôn.

Quá trùy ngược lại âm trên xuyết qua âm dưới khuê luy. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Cái chày đập giả, cái dùi trống, đánh gõ hai chữ đều từ bộ mộc đều thanh qua chùy.

Khiển quyển ngược lại âm trên khiên thiện âm dưới khuyết nguyễn Mao Thi Truyện cho rằng: Khiên quyển là lưu luyến không rời, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện Không muốn ly tán, Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Đồng nghĩa hai chữ đều từ bộ mịch đều thanh di quyển.

Chỉ duyên ngược lại âm trên trù lý Mao Thi Truyện cho rằng: Chỉ là phúc báu, sách Thuyết Văn cho rằng đồng nghĩa chữ viết từ bộ thị thanh chỉ.

Giáp ngu âm trên ô giáp sách Thuyết Văn cho rằng: Giáp là khai mở đóng cửa, chữ viết từ bộ môn thanh giáp.

Sạ ngạc ngược lại âm trên tàng các sách Khảo Thanh cho rằng: Hiệu của nước Tây Nam Di. Lại cũng viết chữ sa âm dưới ngang các gọi là hoa, bàn chân. Bổn Tập cho rằng: Sạ ngạc là cái chuồng nuôi súc vật, nghĩa này chưa rõ lắm.

Cự hoạch ngược lại âm hoàng quách Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: Hoạch là cái đỉnh, lại gọi là cái nồi nấu thịt, sách Thuyết Văn cho rằng: Cái nồi đồng, chữ viết từ bộ kim thanh hoạch ngược lại âm vu phược âm khuê ngược lại âm hồ khuê.

Tam lực ngược lại âm lăng chức sách Thuyết Văn cho rằng: Lực là cây lý chữ viết từ bộ mộc thanh lực cũng chưa rõ nghĩa này.

Lợi chủy ngược lại âm túy tùy sách Khảo Thanh cho rằng: Mỏ chim, sách Thuyết Văn viết từ bộ thử thanh thứ lại cũng viết chữ chủy Bổn Tập viết chữ tử là mắng nhiếc hủy nhục, cũng nghĩa của chữ này, âm tử là âm tử âm thứ ngược lại âm thất tứ.

Sàm thương ngược lại âm sĩ hàm âm dưới tích dưỡng sách Khảo Thanh cho rằng: Đâm ngược phóng lao ngược lại. Xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ mộc đều thanh sàm thương âm sàm đồng với âm trên.

Giảo cẩu ngược lại âm trên giao ảo kinh Sơn Hải nói rằng: Có loài thú hình dạng giống như con chó mặt là con báo, có vằn dện, sừng như con trâu, gọi là giảo âm thanh như con chó sủa, rất hung hãn. Nước Hung Nô có loại chó này, mõm dài thân đen. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Rất giảo hoạt, Quảng Thất cho rằng: rất mạnh mẽ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chó nhỏ chữ viết từ bộ khuyển thanh giao.

Phĩ vĩ ngược lại âm trên phi vĩ âm dưới vi phi đã giải thích rồi trong quyển thứ sáu.

Tất phương ngược lại âm tần mật Tự Lâm cho rằng: Tất là mùi thơm lan tỏa, chữ viết từ bộ thảo thanh tất lại cũng viết chữ tất.

Thước thước ngược lại âm thương chước Cố Dã Vương cho rằng: Làm cho chảy tiêu ra, lò nấu đúc đồng. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Người dân làm lò đúc đồng, không chắc cứng lắm, chữ từ bộ thanh lạc.

Hà chính ngược lại âm kỳ doanh Cố Dã Vương cho rằng: Xa xôi sách Thuyết Văn cho rằng: Đi xa chữ viết từ bộ xước thanh chánh âm xước ngược lại âm sửu lược lại cũng viết chữ chinh.

Xuân khuẩn ngược lại âm trên truất truân sách Trang Tử nói rằng: Có loại cây đại xuân, lấy tám trăm năm làm một mùa xuân, tám trăm tuổi là một mùa thu. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mộc thanh xuân âm dưới quỳ vẫn Quách Phác cho rằng: Khuẩn là nấm đất, giống như cây dù, Trang Tử cho rằng: Sáp sớm nấm đất mọc lên, không biết đến chiều là tàn. Tư Mã Bưu cho rằng: Loại cây nhánh chết yểu thiên âm sinh ra loại cây phân dơ. Thuyết Văn cùng Quách Phác cho rằng: Đồng nghĩa chữ viết từ bộ thảo bộ khuẩn thanh tĩnh âm khuẩn ngược lại âm khuất luân âm điếm ngược lại âm thâm nhậm.

Quýnh mạt ngược lại âm trên cô quỳnh sách Thuyết Văn cho rằng: Quýnh là con ngựa cái, chữ viết từ bộ mã thanh quýnh âm quýnh đồng với âm trên.

Ngu hiệt ngược lại âm nhàn triếp sách Phương Ngôn cho rằng: Từ quan ải cho đến Đông Triệu, Ngụy gọi là trí tuệ là hiệt Quách Phác cho rằng: Tuệ là hiểu rõ sách Thuyết Văn cho rằng: Chất xám kiên cố, chữ viết từ bộ hắc thanh kiết âm triết ngược lại âm ô hiệt.

Ngung ngung ngược lại âm ngu cung Hoài Nam Tử cho rằng: Đám dân đen sống nơi vùng xa xôi hẻo lánh, người không có đức độ, sách Thuyết Văn cho rằng: Nhiều miệng họp làm như ong vỡ tổ, chữ viết từ bộ khẩu thanh ngung.

Liệu tô, âm trên là liễu. Sách Thuyết Văn cho rằng: Liệu là loại rau cay chữ viết từ bộ thảo thanh liệu âm dưới tố hồ sách Nhĩ Thất cho rằng: tô là rau tía tô. Sách Thuyết Văn cho rằng: đồng nghĩa. Chữ viết từ bộ thảo thanh tô âm liêu ngược lại âm lực cứu âm đồng với âm trên. Dực diệu âm trên dực ấp, âm dưới đài chiếu. Mao Thi Truyện cho rằng: dực diệu là lửa ma trơi, đóm lửa lập lòe, tức là con đom đóm. Sách Thuyết Văn cho rằng: đồng nghĩa, chữ viết từ bộ hỏa đều Thanh tập dược. Lại cũng viết chữ dực. Âm nghĩa đều đồng âm lân là âm lận. Cao huy ngược lại âm hủy vi. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hay là cánh chim to lớn. Chữ viết từ bộ vũ Thanh quân.

Tương Kham ngược lại âm chấp Lâm. Đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển Tạp Sự Luật.

Siểm thúc ngược lại âm trên chiêm nghiểm. Sách Khảo Thanh cho rằng: mắt không định. Xưa nay chánh tự cho rằng: chữ viết từ bộ mục thanh viêm âm dưới là thư. Đã giải thích đầy đủ rồi.

Phế nhược, ngược lại âm phổ mịt đã giải thích đầy đủ rồi trong quyển Tạp Sự Luật.

Huyễn mục, ngược lại âm trên huyễn quyến. Vương Dật chú giải rằng: huyễn là nhìn. Cố Dã Vương cho rằng: như ngày nay người ta đưa mắt ra dấu hiệu mật tương với nhau mà hiểu biết gọi là mật ngữ. Sách Thuyết Văn cho rằng: con mắt rũ xuống, chữ viết từ bộ mục thanh huyễn.

Quýnh điện âm trên công huýnh Thiên Thương Hiệt cho rằng: quýnh là sáng tỏ. Sách Thuyết Văn cho rằng: sáng rực, chữ viết từ bộ hỏa. Thanh quýnh, âm quýnh là âm huỳnh, văn dưới là quýnh quýnh âm đều đồng âm này.

Thạch phiêu ngược lại âm tỳ diêu. Sách Nhĩ Thất cho rằng: phàm vật dao động gọi là phiêu, Quách Phác cho rằng: gió dữ dội, gió cuộn từ trên xuống. Sách Thuyết Văn cho rằng: đồng nghĩa; chữ viết từ bộ phong thanh tiêu âm tiêu đồng với âm trên.

Bằng côn âm trên là bằng âm dưới là côn. Theo Trang Tử giải thích bằng côn là con cá hóa thân, cá côn lớn không biết bao nhiêu dặm, bắt lấy vùng vẫy không biết trên mặt chín vạn dặm. Sách Sở Từ cho rằng: cá côn kêu tiếng rất bi thảm. Cố Dã Vương cho rằng: hình trạng như chim hạt, mà lớn hơn. Sách Thuyết Văn cho rằng: hai chữ đều từ bộ điểu cũng đều thanh bằng côn. Lại cũng viết chữ côn.

---------------------------------------

ÂM HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 14

Tuyền ky âm trên tợ duyên, âm dưới là ky. Sách Thượng Thư cho rằng: tuyền ky là hạt ngọc ngang làm cho tròn lại. Khổng An Quốc chú giải rằng: là dụng cụ thiên văn thời xưa, vận chuyển hướng. Sách Thuyết Văn cho rằng: đồng nghĩa. Hai chữ đều từ bộ ngọc thanh tuyền. Bổn tập viết chữ tuyền tục tự thường hay dùng.

Cao tường ngược lại âm trên ngao cao âm dưới tượng dượng. Mao Thi Truyện cho rằng: cao tường, giống như bay lượn. Trịnh Tiễn cho rằng: tiêu dao, tức là liệng lên, liệng xuống. Quách Phác cho rằng: chim bay khắp. Sách Thuyết Văn cho rằng: bay đảo vòng, hai chữ đều từ bộ vũ đều thanh cao dương. Bổn tập viết chữ cao tục tự thường hay dùng.

Độc khí âm trên là độc ngược lại âm dưới khi ký. Sách Khảo Thanh cho rằng: chỗ âm dương sinh ra mùi hôi thối. Sách Thuyết Văn cho rằng: khí mây chữ tượng hình lại cũng viết chữ khí. Bổn tập viết khí văn chữ cổ, văn dưới đều đồng đây.

Nguyên đà ngược lại âm trên nguyễn viên, âm dưới kiền hà. Sách Thuyết Văn cho rằng: nguyên là con ba ba lớn thuộc loại rùa, chữ viết từ bộ mãnh thanh nguyên. Kinh Sơn Hải nói rằng: đà loại bò sát giống cá sấu, xuất từ sông nước. Quách Phác cho rằng: giống như rắn mối mà lớn hơn, lại dài, có vằn vện, da màu sắc như kỳ lân, có thể dùng da con cá sấu để bịt trống. Sách Thuyết Văn cho rằng: loài thủy trùng Quách Phác cho rằng: nghĩa đều đồng, chữ viết từ bộ mãnh thanh đơn. Bổn tập viết chữ nguyên đà tục tự thường hay dùng. Âm qui ngược lại âm bi diệt, âm mãnh ngược lại âm manh cạnh.

Thư hoạch ngược lại âm trên thất dư. Quách Thất cho rằng: thư là loài vượn. Sách Thuyết Văn cho rằng: thuộc giống khỉ, chữ viết từ bộ khuyển thanh thư, âm dưới cư hoạch. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Thất rằng: thuộc giống di hầu loài khỉ khôn lanh, mà to lớn, màu xanh đen, có thể nắm bắt người rất giỏi, nhìn liếc ngó rất hay. Sách Thuyết Văn cho rằng: con khỉ cái, chữ viết từ bộ khuyển thanh cụ, âm hoặc ngược lại âm câu phược, âm cụ ngược lại âm vương cụ âm cụ ngược lại âm vu cụ Hòa-la-tử âm trên là hòa tiếng Phạm.

Ế nhiễm ngược lại âm trên y kế. Mao Thi Truyện cho rằng: trời âm u mà có gió, gọi là ế. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ nhựt thanh ế.

Quy âu ngược lại âm La-hầu. Tự Thư cho rằng: âu là ca hát, vui vẻ, ngâm nga. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: đồng nghĩa. Chữ viết từ bộ tâm thanh âu, hoặc là viết chữ âu lại cũng viết chữ âu âm nghĩa đều đồng.

Hậu đợi ngược lại âm đồ đối. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Đợi là bộ. Trăm người làm một đợi. Sách Thuyết Văn cho rằng: viết chữ đợi từ bộ phụ thanh đợi. Bổn Tập viết chữ đợi nơi nghĩa đều mất đi có phần khác lạ chẳng phải.

Đệ bại ngược lại âm trên đệ nê Quách Phác cho rằng: đệ là giống như lúa ma (loại lúa mọc hoang có hạt nhỏ) mà lại mọc nơi cỏ chỗ dẻo. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo. Thanh đệ âm dưới bày giải. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: cỏ mà lại giống như lúa, xưa nay Chánh Tự cho rằng: đồng nghĩa, chữ viết từ bộ hòa thanh bì.

Bạt hộ âm trên đới mạt, âm dưới hồ cổ. Hán Thư cho rằng: là hống hách ngạo mạn, tung hoành ngang dọc. Tiết Tông cho rằng: dũng kiện, hiên ngang. Chữ bạt đã giải thích rồi. Sách Thuyết Văn cho rằng: hộ là từ bộ ấp thanh hộ.

Cao nhương ngược lại âm tưởng dương. Sách Thuyết Văn cho rằng: con ngựa cái ngước, chữ viết từ bộ mã thanh nhương, văn dưới đều đồng.

Sa nga ngược lại âm trên sa hà, âm dưới ngã ca. Quách Thất cho rằng: núi cao. Vương Dật cho rằng: núi cao chót vót, che phủ lại: xưa nay Chánh Tự đều viết từ bộ Sơn đều thanh sa ngã. Bổn Tập viết chữ sa tục tự thường hay dùng.

Nhiên thần ngược lại âm trên nhiên thiện. Lại cũng âm là hán Thiên Thương Hiệt cho rằng: xông lửa cho khô. Sách Thuyết Văn cho rằng: cũng gọi là khô, ráo, chữ viết từ bộ hỏa, bộ hán. Thanh tỉnh.

Tổ nể ngược lại âm nê lễ. Trinh chúng cho rằng: nể là miếu thờ cha, tổ tiên. Xưa nay chánh tự cho rằng: đồng nghĩa, chữ viết từ bộ thị thanh nhĩ.

Huề trá ngược lại âm trên tri vê. Mao Thi Truyện cho rằng: huề là biểu tượng. Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Quan trọng coi ruộng, chỗ đôn đốc bá tính, cũng là chỗ bờ giếng nước, chỗ nơi gọi là xếp hàng. Sách Thuyết Văn cho rằng: con đường giữa hai bên ruộng; rộng sáu thước. Chữ viết từ bộ điền thanh xuyết, âm dưới tra giá. Sách Lễ Ký cho rằng: Thiên tử cúng tế đại lễ, ban đầu là bát y kỳ, làm lễ cúng tế; là dùng sợi dây gọi năm tháng, tụ họp lại vạn vật mà làm đại lễ cúng tế, người chú trước tiễn, cúng đất đai, cúng trăm thứ giống lúa, đền đáp báo ân, lòng nhân từ, kế đó là miếu từ đường, nghĩa đến hết đời, cúng y vàng, mũ vàng mà cúng tế mới xong, kế đến là người làm ruộng. Trịnh Huyền cho rằng: cúng tế gọi là gởi gắm, phó thác, niên lạp tổ tiên, cầu năm điều phước, nơi lao nhọc của người làm ruộng, làm chỗ nghỉ ngơi, có tám thứ: một là tiên sắc, hai là tư sắc, ba là nông, bốn là biểu huề, năm là miêu hổ, tức mạ non, sáu là ngăn phòng, bảy là thủy chung, tám là côn trùng. Quách Thất cho rằng: cúng tế. Mùa hạ gọi là thanh, cúng cầu phước ân, gọi là gia chúc phúc tốt lành, xung quanh bình an gọi là đại lễ. Đời Tần gọi là Lạp. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ y thanh tích. Bổn Tập viết từ bộ trùng cũng thông dụng.

Cơ chỉ, ngược lại chi nhĩ. Sách Thuyết Văn cho rằng: cơ chỉ là nền tảng căn bản, chữ viết từ bộ thổ thanh chỉ. Bổn Tập viết chữ chích e rằng: sai.

Đam thích ngược lại âm dưỡng cam Lão Quân.

Phiên tận ngược lại âm trên phạt viên. Sách Thuyết Văn cho rằng: phiên là thiêu đốt, chữ viết từ bộ hỏa. Thanh phiên âm dưới tợ tẫn. Trịnh Tiển chú giải Mao Thi Truyện rằng: lửa cháy còn dư lại tro tàn gọi là tẫn. Sách Thuyết Văn viết chữ tẫn cũng đồng nghĩa, chữ viết từ bộ hỏa thanh tân.

QUYỂN 97

-Âm Quảng Hoằng Minh Tập quyển thượng. Từ quyển thứ nhất cho đến hết quyển thứ 12.

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

Chung Nam Sơn Thích Đạo Tuyên soạn.

TỰA

Kiêu chương, ngược lại âm thú diêu. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: kiêu giống như là bạc bẽo. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ thủy thanh nhiêu.

Tình hỗn ngược lại âm dưới hồn bổn. Quảng Nhã cho rằng: hỗn là nước đục. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hỗn loạn, chữ viết từ bộ thủy thanh hỗn âm hỗn ngược lại âm hỗn khổn Bổn Tựa viết từ bộ côn viết thành chữ cổn. Sách Thuyết Văn gọi là nước chảy xiết, chẳng phải nghĩa này.

Toàn thủng, ngược lại âm chung chủng. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: chung là bước chân nối tiếp theo. Sách Thuyết Văn cho rằng: bước chân là nối theo gót chân, lấy đây là truy đuổi theo dấu chân, chữ viết từ bộ túc thanh chung; hoặc là từ bộ chỉ viết thành chữ chung âm cân ngược lại âm cấn ngận.

Hạch thử, ngược lại âm hoành cách sách Thuyết Văn cho rằng: phàm khảo sát sự thật nơi chỗ chật hẹp, che dấu, cần phải tìm ra được sự thật. Chữ viết từ thanh hạch âm ngược lại âm hà giả âm kích là âm kích.

Chi tế ngược lại âm tất duệ. Đỗ Dự chú giải rằng: tế là sáng sủa rực rỡ. Quách Thất cho rằng: che giấu, ẩn náu. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ thảo thanh tế.

Biện bác ngược lại âm bang mạc. Cố Dã Vương cho rằng: bác gọi là không thuần nhất, tức là ngựa vằn. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ mã thanh giao.

Cung giác ngược lại âm giang nhạc. Trịnh Huyền chú giải sách Thượng Thư Đại Truyện rằng: Giác giống như nhìn thấy. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ xa bộ bác thanh tỉnh viết đúng là chữ bác.

Phiêu cử ngược lại âm tất diêu. Sách Khảo Thanh cho rằng: phiêu là giơ cao lên. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ mộc thanh phiên âm phiêu ngược lại âm cũng thanh.

Lượng tư ngược lại âm Lương Thượng. Sách Khảo Thanh, Mao Thi Truyện đều nói: niềm tin. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh lượng.

Ngu khấu ngược lại âm tô hậu. Sách Phương Ngôn cho rằng: khấu là cướp đoạt, tra khảo. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hưu thanh tai.

Tầm dịch, ngược lại âm doanh chích. Sách Phương Ngôn cho rằng: dịch lý. Quách Phác giải: dịch là kéo mối tơ, giải thích chữ viết từ bộ mịch.

Nịnh hạnh, ngược lại âm trên ninh định. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh nhân. Bổn Tập viết chữ nịnh tục dung thông dụng. Ngược lại âm dưới hoàn cảnh. Vương Dật Chú Sở Từ rằng: hạnh là rất may mắn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh hạnh, hoặc là từ bộ nữ, viết thành chữ hạnh âm cân ngược lại âm ngân khẩn. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: ngân giống như là xấu ác.

Bạt tụy ngược lại âm bổ bác. Cố Dã Vương cho rằng: bạt giống như là dẫn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Bạt giống như là nâng lên, cất nhắc, chữ viết từ bộ thủ thanh bạt âm bạt ngược lại âm bàn bát, âm dưới tràn tụy. Sách Chu Dịch cho rằng: Tụy đám đông tu hợp lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ Thảo Thanh tụy.

Mong tuyền, ngược lại âm mộc công. Mao Thi Truyện cho rằng: Mong là mưa phùn. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ thủy thanh mong.

Trịnh ai ngược lại âm ai cải. Tên người.

Trệ biển, ngược lại âm truy nhuế. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: trệ là nối kết lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ mịch thanh xuyết.

Niết truy âm trên niên khiết. Quảng Nhã cho rằng: niết là bùn đất. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: niết là có thể lấy đất nhào nặn nắn nhượm. Sách Thuyết Văn cho rằng: đất đen trong nước gọi là niết. Chữ viết từ bộ thổ thanh nhựt, âm dưới tể sư. Mao Thi Truyện giải thích: truy là tơ lụa màu đen, màu thẫm sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ mịch thanh truy. Bổn tựa viết từ bộ thủy viết thành chữ truy tên dòng sông, xuất phát từ Thái Sơn.

Thao cảnh ngược lại âm tao lão. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: thao gọi là rong rêu dưới nước, có vân vân. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh thao. Thao cũng là thanh, thao cũng gọi là ngọc.

Sủy nghi ngược lại âm sơ suy Cố Dã Vương cho rằng: sủy gọi là đá giá, độ lượng. Sách Thuyết Văn cho rằng: đáng giá chiếu cao, gọi là sủy, chữ viết từ bộ đoan thanh đoan âm đoan là âm đoan.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUY CHÁNH THIÊN QUYỂN 1

Thái tể phi ngược lại âm phi mỹ tên Ngô Thái Tể. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hỷ.

Đại hải ngược lại âm xung ài. Thiên Thương Hiệt cho rằng: kinh há. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh cai.

Chi khư âm khứ ngư. Gọi là gò đất bỏ hoang, cũng viết chữ hư.

Ôi nhân âm ô hồi, kinh Sơn Hải: vùng đất Bắc Hải có nước gọi là ôi nhân. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh ôi.

Thăm lệ ngược lại âm sắc lâm Mao Thi Truyện cho rằng: thâm là ngọc châu báu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thâm thanh tĩnh.

Giam ư ngược lại âm giáp hàm. Sách Thuyết Văn: cái tráp, cái hòm đóng kín lại, chữ viết từ bộ mịch thanh hàm.

Thái âm ngược lại âm tập diêu tên người.

Ôi tẫn ngược lại âm trên ôi hồi. Quảng Nhã cho rằng: ôi giống như nướng, âm dưới tợ tấn. Đỗ Dự Chú Tả Truyện rằng: tẫn là lửa đốt còn dư lại đống tro tàn. Đường Ngự Chế Hiếu Kinh Tựa cho rằng: ôi tẫn là lửa than chưa tàn. Sách Thuyết Văn cho rằng: ôi từ bộ hỏa thanh ôi tẫn viết đúng là chữ tẫn bổn tập viết chữ tẫn tục tự thường hay dùng.

Tiệp chữ ngược lại âm trên đạp tiếp âm dưới dư chú Văn Tự Điển nói: Tiệp chữ là người đàn bà làm quan, đều từ nữ đều thanh tiệp dư âm tiệp ngược lại âm điềm diệp.

Phạm khiếp âm viêm kiếp, tên người.

Tinh thô ngược lại âm tĩnh tô cũng viết chữ thô mượn âm để dùng. Cự nhiên ngược lại âm cự cứ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: cứ giống như sợ hãi. Sách Khảo Thanh cho rằng: viết đúng chữ cứ. Bổn Tập viết chữ cứ. Trong kinh tục dùng chữ theo quen.

Đại để ngược lại âm đinh lễ Quảng Nhã cho rằng: đại để là tóm lược. Lại gọi là nói: tóm lược, Văn Tự Điển nói: hoặc là viết chữ để. Lại từ bộ ngưu viết thành chữ để. Bổn Tập viết từ bộ thủ viết thành chữ để cùng với nghĩa này khác lạ.

Đỉnh trỉ ngược lại âm trên đinh lỉnh. Bổn Tập viết chữ đỉnh tục tự thường dùng âm dưới trì lý. Sách Khảo Thanh cho rằng: trỉ gọi là núi cao đứng riêng một mình. Sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh tự. Lại cũng viết chữ trỉ.

Mao tì, ngược lại âm trên mậu sắc. Ngược lại âm dưới tự nhi. Quảng Nhã cho rằng: tì là lợp nhà bằng tranh. Sách Thuyết Văn: lấy cỏ mao lợp nhà, chữ viết từ bộ thảo thanh thứ.

Hám trạch ngược lại âm hà lam. Tên họ người. Chu khải ngược lại âm nghi khải.

Dục siêu ngược lại âm hương nghịch. Bổn Tập viết chữ hy, tục tư thường hay dùng.

Vương đản ngược lại âm nan hãn. Vương mật ngược lại âm di tất.

Đái quỳ ngược lại âm quỷ truy

Âm ký ngược lại âm ky nghị. Mấy âm trên đều tên họ người.

Thi qui, ngược lại âm thỉ di. Thiên Thương Hiệt cho rằng: thi sách, là thẻ tre. Cố Dã Vương cho rằng: thẻ tre dùng để ghi, bói quẻ, bốn mươi chín lá làm một quẻ. Sách Chu Dịch cho rằng: định trong thiên hạ, tốt xấu, cũng xem mai rùa. Bạch Hổ Thông cho rằng: thi đó là tin. Sách Thuyết Văn cho rằng: thuộc cây sào tre. Mọc một ngàn năm có ba trăm cọng, chữ viết từ bộ thảo thanh thi âm tiết ngược lại âm thời tiết, tiết giống như số, lần. Sách Thuyết Văn cho rằng: chờ đợi.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 2

Kham tề ngược lại âm khổ cam hoặc là viết chữ kham lại cũng viết chữ kham.

Tông hạch ngược lại âm tông tống. Tống Trung chú giải Kinh Thái Huyền rằng: cắt đứt các mối tơ, các đầu mối. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh tông.

Diệu trách ngược lại âm tranh cách. Lưu Hiến chú giải sách Chú Dịch rằng: nách đó là chỗ rất thâm u. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cơ thanh trách âm di ngược lại âm dĩ chi.

Chiên kế âm trên chiến diên. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tên cây có mùi thơm cây chiên-đàn, âm dưới cư lệ. Sách Thuyết Văn cho rằng: kế là vải bố lông ở nước Tây Hồ, chữ viết từ bộ mịch thanh kế âm kế đồng với âm trên. Bổn Tập viết chữ kế cũng thông dụng.

Quái sức âm hồi ngoại. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: quái là hợp lại năm màu sắc. Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: quái là vẽ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh hội. Bổn Tập viết từ bộ quý, viết thành chữ hội. Gọi là mối tơ dệt còn dư lại, chẳng phải nghĩa dư.

Quan nhíp ngược lại âm loan bản. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: quan giống như là xuyên qua. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh quan âm quan ngược lại âm hoàn sản.

Thế tổ đảo ngược lại âm đồ đáo. Tên của vua. Diêu hoằng ngược lại âm ô hoằng tên người.

Tiên hành ngược lại âm tiên tiễn. Sách Thuyết Văn cho rằng: đi chân không mang dép; chân trần, chữ viết từ bộ túc thanh tiễn.

Tảo nhiếp âm tảo tao. Mao Thi Truyện cho rằng: tảo là động. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: gọi là dao động. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh tảo âm tảo là âm tảo.

Yêu nghiệt âm trên yêu kiêu âm dưới ngôn kiệt. Sách Khảo Thanh cho rằng: nghiệt cũng là yêu, tức tai ách. Sách Thuyết Văn cho rằng: loại y phục ca múa vũ, yêu quái thảo mộc khác thường, gọi là yêu. Loài côn trùng cầm thú, châu chấu phá hại mùa màng, khác thường gọi là nghiệt, chữ yêu hoặc là từ bộ y viết thành chữ yêu, chữ nghiệt hoặc từ bộ hủy viết thành chữ nghiệt. Sách Khảo Thanh nói: hoặc từ bộ nữ. Viết thành chữ nghiệt cũng thông dụng.

Khoang đà. Quảng Nhã nói:, Đà là trì hoãn, chậm lại. Đỗ Tự chú giải Tả Truyện rằng: Đà giống như cởi mở ra. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cung thanh đà. Hoặc là viết chữ đà. Cùng với âm đà cũng đồng.

Sàm nhân ngược lại âm sĩ hàm văn tập viết chữ sàm trụ tự thường dùng.

Giam xa ngược lại âm hàm yểm Sách Khảo Khanh cho rằng: Xe chở tù. Sách Thuyết Văn viết, từ sợ xa thanh lam. Bổn tập viết từ bộ mộc viết thành chữ lam. Sách Thuyết Văn cho rằng: cái lồng, cái chuồng nuôi súc vật. Chẳng phải nghĩa xe tù.

Hành sửu âm sở lưu Cố Dã Vương cho rằng: thiếu sưu gọi là tiểu tiện, sau đuôi. Sách Thuyết Văn viết, từ bộ thuỷ thanh sưu. Bổn tập viết chữ sưu trụ tự thường hay dùng, âm tẩu. Ngược lại âm tô tẩu

Ao Ao ngược lại âm trên ngạo cao. Sách Khảo Thanh cho rằng: viết đúng chữ ngao. Mao Thi Truyện cho rằng: tiếng chim nhạn kêu, vừa bay vừa kêu rất bi thương, ao ao đó sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu cũng thanh ao ao bổn tập viết chữ ao tục tự thường hay dùng.

Ải chi âm y nhị. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ải gọi là thắt cổ tự vẫn diết. Sách Thuyết Văn cũng gọi là thắt cổ giết, chữ viết từ bộ mịch thanh ải, chữ chính thể, viết Bổn tập viết chữ ải tục tự thường hay dùng.

Di quyết ngược lại âm quyết huyệt. Sách Vận

Thuyên cho rằng: quyết là nói: lời tử biệt.

Quyết nhiên âm quyến nguyệt Sách Khảo Thanh cho rằng: quyết gọi là nhảy lên. Sách Thuyết Văn viết từ túc thanh quyết hoặc là viết từ bộ tẩu viết thành chữ khuyết. Sở thuyên ngược lại âm tử tuyên. Quảng Nhã cho rằng: Thuyên là cây đục. Sách Thuyết Văn cho rằng: chữ viết từ bộ kim. Thanh Huyên âm thuyên ngược lại âm tuyền duyên từ bộ cung là chỗ bắn ra. Con chim hoặc là chữ thuyên bổn tập viết từ bộ nải viết thành chũ thuyên là chẳng phải.

Vi khám ngược lại âm khổ cam. Quảng Thất cho rằng: khám là nhiều Văn Tự Điển nói rằng: chỗ cất chứa tượng Phật. Chữ viết từ bộ long, nay cũng thanh. Từ bộ hợp viết thành chữ khám đó là chẳng phải.

Suy đống ngược lại âm trên sở truy âm dưới đun nóng. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Rui nhà gọi là suy. Đóng gọi là cái xà nhà. Quách Phác chú giải rằng: cũng gọi là rui nhà, rui nhà ẩn giấu. Sách Chu Dịch cho rằng: Trên dưới ở giữa xà nhà, gọi là che gió mưa. Sách Thuyết Văn: xà nhà thì rất nhiều, chữ viết từ bộ mộc đều thanh suy đong. Âm phù là âm lưu ẩn là âm ân, cẩn ẩn gọi là rường nhà, âm sẩm là lâm cẩm. [910]

Mi doanh, âm trên mỹ si. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: mi gọi là rường nhà. Quách Phác chú giải rằng: sà ngang gác trên cửa, âm dưới diệc chinh. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: doanh là trụ cột. Sách Thuyết Văn đều cho rằng: từ bộ mộc đều thanh mi doanh.

Thiểu ải âm trên thúc tiểu. Sách Khảo Thanh cho rằng: thiểu là ải. Vùng đất nhỏ hẹp trũng và ẩm. Đỗ Dự Chú Tả Truyện rằng: Thiểu dưới thấp, âm dưới ách giới. Cố Dã Vương cho rằng: ải giống như chật hẹp, bức bách. Sách Thuyết Văn: Chữ thiểu từ bộ thủy thanh thu chữ ải từ bộ phụ thanh ải.

Nghiệp thành âm trên nghiêm kiếp. Tên vùng đất ở nước Ngụy.

Sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh nghiệp.

Đạo hy âm hứa y

Tuệ ngung ngược lại ngu cung đều danh tăng.

Ôi lạm âm ô tội. Sách Khảo Thanh cho rằng: việc không đúng mà lạm dụng vào. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh ôi.

Đế cốc âm không cốc. Sách Khảo Thanh cho rằng: hiệu vua thời cổ. Theo Vương Đạo Khuê Đế Ký ghi: đế cốc là Cao Tân Thị Hoàng Đế. Con của Tằng Tôn Kiêu, cháu của Thiếu Hạo, đều là hào kiệt. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cáo bộ học thanh tỉnh.

Võng nhiên âm vô phòng. Bao Hàm chú giải Luận Ngữ rằng: không suy nghĩ nghĩa này thì là bỗng nhiên hoặc là viết chữ võng này. Chu bể âm bỏ sỉ. Xưa người viết kinh tạo ra thẻ tre dùng để tính toán.

Kỳ xí ngược lại âm trên cự cơ. Đỗ Dự chú giải Tả

Truyện rằng: kỳ là cờ biểu tượng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ư thanh kỳ, âm dưới xương chí. Sách Sử Ký ghi: Người nắm cầm cờ xỉ làm biểu tượng. Quảng Nhã cho rằng: Xí là phan. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh thức âm phương là yển âm thức. Ngược lại âm dư tập.

Huề di âm dĩ chi. Tên người.

Kỳ tiêm âm tức liêm, cũng tên người.

Trất tỷ âm trên sắc. Văn Tự Điển nói: trất là cây lược gọi chung cây lược dùng chải tóc, chữ viết từ bộ mộc thanh tiết.

Cự lộc ngược lại âm cự cử. Tên quận, ở Hình Châu. Dư tiềm âm tử liêm. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: giữa Ngô Sở gọi lửa diệt hết là tiềm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa. Thanh tiềm âm tiềm ngược lại âm tiếp niệm.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 3

Minh hạnh âm hoành cảnh. Bì Thương giải thích: minh hạnh là nước dâng lên nhiều, cao. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hạnh tục viết chữ hạnh này.

Nữ oa âm quả hoa. Sách Khảo Thanh cho rằng: xưa đó hiệu của nữ hoàng. Cố Dã Vương cho rằng: Nữ oa. Thân hình là rắn. Sách Thuyết Văn nói: Vị thần là Thánh nữ gọi là oa biến hóa vạn vật. Chữ viết từ bộ nữ thanh oa âm oa là âm khẩu hoa.

Trác lộc ngược lại âm đinh giác. Hán Thư cho rằng: Trác là tên quận ở thượng gốc. Nay có huyện Trác Lộc. Theo Trác Lộc đó là xưa Hoàng đế cùng với nước Si giao chiến với nhau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh trác âm trác ngược lại Lung duyên âm si ngược lại âm xỉ chi.

Nghiên nải, ngược lại âm nghiên kế. Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Nghiên là có ông vua nước nghèo kia giỏi bắn cung. Bì bày tôi của vua là Hàn Túc sát hại, giết chết. Sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ, thanh nghiên âm nghiên là âm kiên. Bổn Tập viết chữ nghiên tục dùng cũng thông.

Khoa phụ ngược lại âm khổ oa. Sách Điền Địa Chí nói: khoa phụ là gọi truy tìm, đuổi theo; người khát nước uống nước sông lớn, chưa đến được con đường, thì khát quá đã chết. Trong Hư Kinh nói: khoa phụ là thây người chết vất bỏ, xương thịt rã trong nước. Sinh ra rừng Đặng Lâm cách một ngàn dặm. Tôn Trác Tử nói: Rừng Đặng Lâm có vườn cây ba vạn tầm. Thẳng lên ngàn dặm bên cạnh nước Âm Sát.

Thành chiên ngược lại âm triển liên. Vương Bậc chú giải sách Chu Dịch rằng: chiên là khó. Sách Khuê Uyển Chu Tòng nói rằng: chiên gọi việc vướng phải khó khăn. Sách Khảo Thanh cho rằng: gọi là chậm chạp không tiến lên phía trước được. Hoặc là viết từ bộ xước viết thành chữ chiên.

Nhục thâu âm nhu xúc. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nhục thâu ở phương Tây là vị thần. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh nhục viết chữ thâu tục tự thường hay dùng.

Hoạn âm trên là hoạn. Trịnh Huyền chú giải sách

Chu Lễ rằng: hoạn là nuôi chó, heo gọi là hoạn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thỉ thanh quyến âm quyến là âm quyến.

Lâm đào âm thảo đao. Hán Thư cho rằng: tên huyện Lâm Thao. Ở quận Lũng Tây. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh đào. Bổn Tập viết chữ đào tục tự thường hay dùng.

Chung cung, ngược lại âm cự cung. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: mộc gọi là cung. Quách Phác chú giải rằng: cây chùi đánh trống, đánh chuông. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký cùng với Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nghĩa cũng đồng. Sách Thuyết Văn: cây làm giá chuông, trống có trang sức, khắc hình mãnh thú, chữ viết từ bộ hổ thanh vị cũng tượng hình dưới chân, âm hổ ngược lại âm hổ cô, âm phụ là âm vũ. Bổn Tập viết từ bộ khưu viết chữ gọi là hư tự văn chữ cổ.

Oa quốc âm ô ba. Quách Phác chú giải Kinh Sơn Hải rằng: Oa quốc là nước ở miền nhiệt đới, phương Đông trong biển lớn: Dùng người nữ làm tục; không có thợ kim, lấy chu xa màu đỏ bôi lên mình. Sách Thuyết Văn cũng nói: nước trong biển lớn chữ viết từ bộ nhân thanh nuy.

Hải thần âm thuật luân. Mao Thi Truyện cho rằng: Thần là bến, bờ sông Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trên bến bờ bằng phẳng, mà dưới nước sâu đó gọi là thần. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cũng là bến nước chữ viết từ bộ thủy thanh thần.

Kỳ chủng âm trên khí chỉ âm dưới chung dũng. Kinh Sơn Hải nói rằng: Có một nước người đi nhón gót chân, bàn chân có hai ngón đều to lớn. Quách Phác chú giải rằng: Người của nước này đi gót chân không chấm đất. Sách Thuyết Văn đều cho rằng: Chữ viết từ bộ trúc thanh chi trọng cân cân là âm căn.

Thốt một âm thôn một. Sách Khảo Thanh nói: Là dáng mạo ngang ngược bạo tàn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh tốt.

Bối vi âm phỉ muội. Cố Dã Vương cho rằng: Bối cũng là vi; là chống đối, phản tặc. Sách Thuyết Văn hoặc là viết từ bộ nguyện viết thành chữ bối.

Tiết hà âm tiên liệt. Mao Thi Truyện cho rằng: Tiết là trừ bỏ đi. Quảng Nhã cho rằng: Tẩy rửa. Sách Thuyết Văn: viết từ bộ thủy thanh tiết viết đúng tiết âm diệp.

Triều chước âm thường chước. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Trong giếng nước một là không có, một có nước gọi là kế chước. Quách Phác chú giải Kinh Sơn Hải rằng: Giếng nước mùa hạ thì có nước; mùa đông thì không có nước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh chước âm kế ngược lại âm cư lệ.

Chi khỏa, âm hồ quả. Sách Phương Ngôn cho rằng: vật quá nhiều. Tề Tống ban giao với Sở, Ngụy: Giám sát gọi khỏa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ đa thanh quả, viết đúng chữ quả khỏa.

Hoàn duy âm quan đoản Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: hoàn giống như là um tùm, sum suê, chữ viết từ bộ trúc thanh hoàn, âm hoàn là âm hoàn hoặc là trong. Bổn Tập viết từ bộ trúc miên viết thành chữ hoàn không có chữ này.

Đông nổi âm nô tội. Sách Quốc Ngữ cho rằng: Vua già ơn tuệ, cho Sứ thần là không để cho đói lạnh. Sách Thuyết Văn: Đói, chữ viết từ bộ thực thanh nổi.

Đạo chích âm chi thạch. Tên người thời xưa. Trang kiêu âm cương lược.

Khi quỉ, âm quy hủy. Sách Khảo Thanh cho rằng: Quỷ là dối trá. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh quy. Bổn Tập viết từ chữ quỉ tục dùng thông dụng.

Bất thí âm thi chí Văn Tự Điển nói: Thí là từ quá nhiều, viết từ bộ khẩu thanh đế.

Kiềm đầu âm cự liêm. Sách Sử Ký nói: Tần Thỉ Hoàng trong hai mươi sáu năm làm vua, gọi dân là kiềm đầu, tức là bọn dân đen. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hắc thanh kim.

Nhương khư chi quốc âm trên hoại dương, âm dưới khư ca. Tiếng Phạm tên nước Tây Vực.

Canh mễ âm cách hoành Văn Tự Điển nói: Giống lúa lùn, chữ viết từ bộ hòa thanh hàng âm hàng ngược lại âm khang lãng.

Thê nô âm nộ đô. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nô là vợ con tên gọi chung sách Thuyết Văn viết từ bộ tử thanh nô hoặc là viết chữ nô.

Du lạc âm canh chu. Sách Nhĩ Thất cho rằng: Du cũng là lạc, vui vẻ sảng khoái. Thư thái tâm hồn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh du.

Hoàng hiệt âm hiền kiết. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Xưa người tạo ra sách viết chữ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hiệt thanh kiết.

Phương sách âm sơ cách. Sách Thuyết Văn: Mệnh lệnh của vua, chư hầu đều nhận nơi giống như phải lễ vật dâng lên vua một dài, một ngắn trong có hai bện đan vào, giống như sớ tâu vua, hoặc là viết chữ sách, văn chữ cổ.

Trệ du âm trên trúc nhuế. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Trệ là nối kết lại với nhau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ xuyết thanh mịch âm xuyết ngược lại âm chu liệt âm dưới là do.

Doanh chính âm dịch chính. Sách Khảo Thanh cho rằng: Vua Tần họ Doanh. Thỉ Hoàng chính là tên. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ bộ luy thanh tĩnh.

Hiệp thư ngược lại âm hiềm giáp. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hiệp là giống như cất giấu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh giáp âm giáp là âm giáp.

Cấp hấp âm trên cư lập âm dưới hấp kim hai chữ đều là tên người.

Tuẫn húc âm trên tuất tuần âm dưới vu ngọc tên người.

Hào loạn âm trên hiệu giao. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hào là tạp. Quảng Nhã cho rằng: Cũng gọi là loạn; hoặc biết chữ hào.

Tạ phỉ, ngược lại âm phi vĩ. Tên người.

Sưu tấn âm sưu vẫn. Văn Tự Điển nói: Sưu là mong cầu; chữ viết từ bộ thủ thanh sưu âm sưu ngược lại âm tô tẩu âm sưu ngược lại âm trắc cưu.

Tổ hằng ngược lại âm cư đăng. Tên người.

Tương nhương âm tức lương. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tương gọi là tơ lụa màu mỡ gà, chữ viết từ bộ mịch

Tấn thân âm trên tân tín. Sách Chu Lễ cho rằng: Tấn là đeo viên ngọc lớn. Trịnh Huyền chú giải rằng: hai sợi dây hai đầu, nay gọi là đeo kiếm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tấn đúng là chữ tấn, âm dưới là thân. Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: thân là đai lớn. Trịnh Huyền chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: gọi là tự thân giao ước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh thân.

Phiêu bảng âm bác lang. Sách Khuê Uyển Chu Tòng nói rằng: là mái chèo, chữ viết từ bộ mộc.

Phú hải ngược lại âm ha cải. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: hải là thịt băm làm tương. Sách Thuyết Văn viết từ bộ dậu thanh hữu âm hữu là âm hữu. Nghê lộc sàng âm trên nghê kế. Sách Lễ Ký cho rằng: Nghê là nhìn mà giống như nhìn xa. Văn Tự Điển nói: Mắt nhìn chăm chú chữ viết từ bộ mục thanh nghê.

Quân hà, âm trên cư quân. Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Quân là con hươu. Sách Thuyết

Văn viết từ bộ lộc bộ khuân thanh tĩnh âm dưới cách hà. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hà là con hươu đực. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lộc thanh hà.

[911] Tham ngự âm trên luyến hàm. Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn chú giải rằng: Xe ngựa ở hai bên gọi là tham. Sách Thuyết Văn cho rằng: xe giá vua đi, âm dưới ngư cứ, Cố Dã Vương cho rằng: Ngự gọi là chỉ huy sai khiến con ngựa. Sách Thuyết Văn: Viết hai chữ đều từ bộ mã đều thanh tham hựu.

Lục ký âm trên song chúc. Mục Thiên Tử Truyện nói: Chu Mục Vương đặt tên tuấn mã là Lục Nhĩ, âm dưới ky nghị. Sách Thuyết Văn nói: Ký gọi là con ngựa chạy ngàn dặm, đến chỗ tôn tướng quân chữ viết từ bộ mã đều thanh ký lục, âm lục là âm lộc.

Nghiên thần, ngược lại âm ngư kiên Bổn Tập viết chữ nghiêm tục tự thường hay dùng.

Bá dương ngược lại âm bổ ba tên huyện ở Dự Chương.

Trí quỷ âm quý vị. Sách Thuyết Văn: Là biếu tặng dâng thức ăn, từ bộ thực thanh quý âm hướng là âm thương lượng.

Phúng tặng âm trên phong phúng. Cốc Lương Truyện nói: Biếu tặng người chết gọi là phúng. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phúng là tặng vật cho tang lễ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh xướng.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 4

Hoàn tịch âm hoạt quan. Cố Dã Vương cho rằng: Hoàn giống như thêm vào, cho đầy đủ vuông tròn. Sách Thuyết Văn: Cỏ có thể làm chiếu, chữ viết từ bộ thảo thanh hoàn âm hoàn là âm hoàn lại viết chữ hoàn.

Thảo lũ âm câu ngộ Thiên Thương Hiệt cho rằng: Lũ tức là lý là giày dép. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lũ tóm lược chữ lũ thanh lũ tục viết chữ lũ là sai.

Tước hỏa âm tương tước. Lã Bất Vi giải thích: Tước giống như nổi lửa lên, đốt lửa lên. Sách Thuyết Văn: Tức thiêu đốt cỏ khô, lửa cháy lan tràn. Chữ viết từ bộ hỏa thanh tước, chữ tước viết đúng từ bộ suyển đến bô hưu. Bổn Tập viết chữ tước tục tự thường dùng âm hoán ngược lại âm cô hoàn.

Sa-môn y bát ngược lại âm báng mạt cùng với chữ bát đồng một chữ.

Danh ngã âm danh bình. Khảo Thanh: Danh là tên gọi.

Cúc nghiệt âm trên cung cúc âm dưới ngôn kiệt. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Rượu nồng phải làm bằng lúa mạch mới thành. Sách Thuyết Văn nói: Nghiệt là mạch nha, chữ viết từ bộ mễ thanh nghiệt. Bổn Tập viết từ bộ mạch viết thành chữ nghiệt là chẳng phải.

Châm đế, âm trên chấp thâm. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng:

Châm là khuyên giải, răn dạy: Một loại văn thể, viết để răn dạy, ngăn ngừa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh hàm.

Xác hồ âm trên khổ giác sách Chu Dịch cho rằng: xác hồ là vật cứng chắc không thể nhổ lên được. Sách Thuyết Văn cho rằng: cứng chắc chữ viết từ bộ mạch thanh sát âm xác đồng với âm trên.

Chấp dĩ âm trương lập. Mao Thi Truyện nói: Chấp là giữ lấy đầu mối dây. Sách Thuyết Văn nói: buộc câu thúc lại, chữ viết từ bộ mịch, thanh chấp. Bổn Tập viết chữ chấp tục tự thường dùng.

Bá thượng âm trên bá mạ. Khảo Thanh cho rằng: Cầu danh, viết đúng chữ bá, từ bộ cách đến bộ nguyệt âm cách là âm cách. Trong Bổn Tập viết chữ bá tục tự thường dùng.

Lưu thủy văn cổ viết chữ Lưu.

Liên tiêu âm biểu kiêu. Sách Thuyết Văn viết chữ tiêu tức là hàm ngựa, chữ viết từ bộ kim âm tiêu âm bạc giao.

Khảm tĩnh âm kham cảm. Bì Thương giải thích: khảm là hầm, hố sâu, hoặc là viết từ bộ khiếm viết thành chữ khảm.

Du phương, âm trên canh chu, âm dưới tích phương. Tranh sinh ngụ ngôn, chưa rõ nghĩa này.

Cự hữu âm cự lữ. Khảo Thanh cho rằng: Cự là chưa, há, sao. Nếu, xưa nay chánh tự viết từ bộ ngôn thanh cự. Tổng tụy, âm tụ túy. Sách Thuyết Văn tụy là tụ nhóm lại, hợp lại.

Chữ viết từ bộ thảo thanh tốt.

Vũ khiết, âm tiên liệt. Khiết tên của vị Đại thần đời vua Thuấn. Sách Thuyết Văn nói: Con của Cao Tân Thị. Trước thời nhà An, chữ viết từ bộ nhân thanh khiết.

Thuyên đế âm trên thuyên, âm dưới đệ để. Sách Trang Tử nói: Được cá quên nơm, được thỏ quên dấu chân. Cố Dã Vương cho rằng: Thuyên là cái nơm bắt cá. Đế dụng cụ giăng bắt thỏ. Xưa nay Chánh Tự viết chữ thuyên từ bộ trúc thanh toàn, chữ đế từ bộ trúc thanh đế hoặc là viết chữ đế.

Xúc át, âm trên tử lục, âm dưới an cát. Mạnh Tử nói: Giơ cao khỏi đầu đá móc phía sau gọi là xúc át, gọi là bảo cho biết. Sách Thuyết Văn nói: Sống mũi, hoặc là viết từ bộ tỵ viết thành chữ át, hoặc là viết chữ át.

Giả y âm chi dã. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Giả y là y màu đỏ. Sách Khảo Thanh cũng nói: Màu sắc đỏ. Sách Thuyết Văn nói: Đất đỏ, từ bộ xích thanh giả.

Lỵ nhĩ âm ly chỉ. Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Ly là người ở vùng đất nhỏ hẹp nơi biên giới hạ tiện nơi đô thị, hoặc từ bộ ấp viết thành chữ dã.

Xuất quỳnh ngược lại âm huyết sính. Lưu Triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Quỳnh là sâu xa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân bộ quỳnh trong bộ huyệt giữa âm đảng ngược lại âm đảng liệt.

Đôn sử, ngược lại âm đô môn. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đôn hậu, viết đúng chữ đôn sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh đôn âm tuân ngược lại âm thời xuân. Bổn Tập viết chữ đôn tục tự thường hay dùng. Bổn Tập chữ sử tục tự thường hay dùng.

Tường tì âm trên tương dương, âm dưới tự nhi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh thứ. Bổn Tập viết chữ tường tục dùng thông dụng.

Kiêm gia âm trên là kiêm âm dưới. Cách Hà. Sách Thuyết Văn cho rằng: Kiêm gia là giống lau sậy. Chưa trổ bông, đó là kiêm, nếu trổ bông rồi dịch, gia gọi là cây lau, đều từ bộ thảo đều thanh kiêm hà.

Thân thí âm sơ cân. Bổn Tập viết từ bộ bối viết thành chữ sấn là sai cân ngược lại củ sấn.

Thuyên hoành âm thuyên. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Thất rằng: Pháp luật chỗ gọi là thương lượng, khinh trọng. Quảng Nhã cho rằng: thuyên là dụng cụ gọi là thuyên. Sách Thuyết Văn cũng gọi hoành, từ bộ kim thanh toàn.

Tủng ư ngược lại âm lật dũng. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tủng là cao.

Tông miệt âm trên tổng công âm dưới miên kiết. Tên người ở thời xuân thu.

Phái lưu âm phổ mại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ phái gọi là dòng nước chảy phân rẽ ra làm ngã khác. Chữ viết từ bộ phản đến bộ thủy. Bổn Tập viết bộ thủy viết thành chữ phái tục dùng thông dụng.

Quái tham ngược lại âm khổ quái tên người. Hàng long ngược lại âm khang lãng.

Thu tiễn ngược lại âm tiên điển. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Săn bắn mùa thu gọi là tiễn. Quách Phác chú giải rằng: Thuận tay sát khí. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh nhĩ âm nhĩ là âm tĩ.

Cưỡng bảo âm trên thệ lượng, âm dưới bổ đạo. Sách Hoài Nam Tử cho rằng: Thành Vương lúc còn ấu thơ ở trong cái đãy bọc lại. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cưỡng là cái áo bọc trẻ em rồi vác cõng trên lưng, cưỡng là cái chăn bọc trẻ em đều từ bộ y đều thanh bảo cưỡng. Bổn Tập viết từ bộ mịch viết thành chữ cưỡng bảo là chẳng phải.

Cẳn từ ngược lại âm cận cân. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Cận giống như nói: qua loa, thoáng qua, chẳng qua. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh cận âm cận là âm cẳn hoặc là viết chữ cẳn. Bộ hoạch âm chú quách. Sách Thuyết Văn cho rằng: Là loài côn trùng co thẳng, tức loại sâu đo, chữ viết từ bộ hủy thanh hoạch âm hoạch ngược lại âm ất lao.

Ế đương âm dưới là đương. Trong Bổn Tập viết chữ thường là sai. Theo chữ ế đương đó là trong hang dưới đất có con nhện, giăng tơ, lưới nhện. Ở trong hang dưới đất thường đóng cửa, cho nên gọi là ế đương, sau lưng có chiếu sáng mà ở thì tối tăm u ám, không có ánh sáng, vua La-sát chết vì tham ăn nhiều chúng đoạn tuệ mạng cho nên gọi là giác ế đương. Công thêm lang sói trong lòng nhiều tham dục, cho nên gọi là thấy lang sói biết phía trước nguy hiểm mất mạng, biết xúc tham tình đuổi theo không ngơi nghỉ, nên phải giữ gìn giới cấm là vậy.

Hoảng yên âm vu vãng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hoảng là tâm thần không an, mất tâm trí, chữ viết từ bộ tâm thanh huynh.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 5

Nhiếp long, âm chiêm thiệp. Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nhiếp giống như là phục, nhiếp phục, kinh sợ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh nhiếp âm nhiếp ngược lại âm ni triếp.

Lục lục âm lung cốc. Bì Thương cho rằng: Lục lục giống như nhiều đá vụn, tức là bận rộn, tất bật. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh lộc.

Chiêu nhiên ngược lại âm đình liễu. Sách Khảo Thanh nói: Chiêu là xa xôi. Văn Tự Điển nói: chữ viết từ bộ xước thanh chiêu. Bổn Tập viết từ bộ thảo viết thành chữ chiêu là sai.

Hòa thượng âm hạo cao. Trang Tử cùng với Tuệ Tử đi dạo trên cầu Hạo Lương. Cố Dã Vương nói: Hạo là tên dòng sông. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hào, ở quận Chung Ly.

Nghiểm duẫn âm trên hiếp kiểm, âm dưới duật duẫn. Sách Khảo Thanh cho rằng: Thời Đường, Ngô gọi là bộ tộc Huân Duẫn ở phía Bắc.

Chúc Châu gọi bộ tộc Hiểm Duẫn. Thời nhà Hán gọi là Hung Nô, đều là hung ác, giống như loài mãnh thú dữ dằn. Văn Tự Điển nói: Tên gọi bộ tộc Bắc Địch, chữ viết đều từ bộ khuyển đều thanh hiểm duẫn, chữ hiểm hoặc từ bộ nghiêm viết thành chữ nghiểm, âm huân là âm huân, âm chúc là âm dung chúc.

Tiêm điển, âm tiếp liêm. Mao Thi Truyện cho rằng: Tiêm là giết hết, diệt sạch. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạt thanh tiêm, âm ngạc ngược lại âm ngũ, âm tiêm ngược lại âm tức liêm Bổn Tập viết chữ tiêm tục tự thường dùng.

Huyên du âm trên huyên nguyệt. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Huyên gọi là cây rui nhà. Còn gọi là cây lữ có thể nấu nước uống được. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh hoãn.

Hy kiểm âm sắc tri tên người.

Nhu hoãn, âm trên nô cao, âm dưới việt nguyên. Mao Thi Truyện nói: Nhu cũng là hoãn. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hoãn giống như con khỉ, mà to lớn hơn, cánh tay nó dài lại tiện nắm bắt. Sách Thuyết Văn đều từ bộ khuyển đều thanh nhu hoãn.

Vi cáp âm cam hạp. Sách Lễ Ký cho rằng: Mùa thu nước dâng lên, là có con sò. Sách Thuyết Văn cho rằng: Con sò có ba loại đều sanh trong biển lớn, con sò trong biển đó, một trăm năm biến thành con chim yến, chỗ hóa thân. Lại cũng gọi là con hàu, khi quá già lông cánh mọc chỗ hóa thân như vậy. Con hàu có một ngàn năm biến làm con chim thi, cũng từ chỗ hóa thân, chữ viết từ bộ trùng thanh lạp. Bổn Tập cho rằng: Con chim trĩ hóa làm con sò, dùng lý, dùng sự là sai vậy.

Vi thằn, ngược lại âm thần nhẫn. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: thần là con sò lớn. Sách Đại Đới Lễ nói: Mùa hạ chính là chim trĩ nhỏ, vào trong biển là con sò. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh thần. Bổn Tập cho rằng: Con chim yến đi vào trong biển lớn là sai.

Mô nhi ngược lại âm mộc hồ. Theo Thanh Loại cho rằng: Mô là khuôn phép, phép tắc. Bì Thương cho rằng: Giống như là nắm giữ đè xuống. Sách Thuyết Văn cho rằng: Mực thước, quy củ, chữ viết từ bộ thủ thanh mạc hoặc là viết chữ mô.

Hình tháo, âm tao đáo. Sách Ích Pháp cho rằng: tốt đẹp. Biến động dân gọi là thao; Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh thao âm thao ngược lại âm tao đáo. Bổn Tập viết chữ thao tục tự thường hay dùng.

Khát sở âm khô đối. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Khát là tham. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Khát là tham muốn, ưa thích, mến chuộng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm. Thanh thanh hạt âm hạt ngược lại âm hàn cát, âm tiện ngược lại âm hàn cát, âm tiện ngược lại âm diên chiến.

Biến mẫu âm bổ điền âm dưới mạc hậu. Sách Trang

Tử nói rằng: Biền là ngón tay trỏ. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ mã thanh biền, chữ mẫu từ bộ thủ thanh vô

Trù trương âm trửu lưu. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: trù trương; à nói: cuồng ngông, nói: láo, nói: dối, không có tướng khinh khi, hoặc là huyễn hóa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh trù. Bổn Tập viết từ bộ xa viết thành chữ trù. Trù này là xe đi xa, chẳng phải nghĩa này âm huyễn là âm hoạn.

Nhung mạch ngược lại âm manh bách. Sách Chu Lễ nói: Người ở bộ tộc làm thợ dệt. Trịnh Chúng chú giải rằng: ở phương Bắc gọi là mạch. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trỉ thanh bách. Sách Khảo Thanh cho rằng: hoặc là viết chữ mạch này. Bổn Tập viết chữ âm bách chẳng phải nghĩa này.

Cấp nhiên âm tô hạn Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Cấp cấp là mau chóng, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh cập.

Kiêu trậm âm trên hiểu kiêu sách Thuyết Văn giải thích là con chim bất hiếu đến mùa hè bắt lấy cắt đầu treo trên cây, âm trách ngược lại âm trúc ách bộ mộc trong bộ điểu âm dưới trầm cấm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Chậm là chim có bộ lông rất độc lấy lông chim vẽ vào rượu uống là chết liền. Sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh chậm âm chậm ngược lại âm dư chậm (912)

Đạo quái âm công ngoại Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Quái là ở Huyện Vinh Dương Mật phía Đông Bắc có nước gọi là quái. Thuộc bộ tộc ác người. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh quái

Phẩu kích âm lung cấu Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Phẩu là cây gậy lớn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu.

Quyệt quái ngược lại âm quyến luyệt Trịnh Huyền chú giải Mao Thi Truyện rằng: Quyệt là can gián, một cách xảo trá, ca nịnh dựa vào sự chống trái không nói: thẳng, sách Thuyết Văn lừa dối khinh khi trời đất gọi là quyệt. Chữ viết từ bộ ngôn thanh quyết âm quyết ngược lại âm duy quyết.

Tối nhĩ âm thôi nội Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tối là nhỏ bé. Sách Thuyết Văn: Nhỏ bé chữ viết từ bộ thảo thanh tối âm tối ngược lại âm tử hội Bổn tập viết từ bộ thủ viết thành chữ tối âm trắc lưu gọi là cọng cỏ ma, cọng dây gai, chẳng phải nghĩa của bổn tập.

Ác súc âm trên ư giác âm trên thông tróc Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: là người ngu muội hẹp hòi. Sách Khảo Thanh cho rằng: áo nhỏ hẹp. Xưa nay chánh tự cho rằng: chữ ác từ bộ nhân thanh ác sách Khảo Thanh hoặc là viết chữ ác Bổn tập viết từ bộ xỉ viết thành chữ ác tự thư không có chữ này. Văn Tự Điển nói: ác là cấp bách, hối thúc từ bộ xỉ thanh túc hoặc là viết chữ súc.

Địch đê âm định hề sách Lễ Ký nói: người ở năm phương hướng tới nên ngôn ngữ không thông, ưa thích không đồng. Đạt tới ham muốn này, phương Tây gọi là địch đê. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cách thanh thị.

Nạp chí ngược lại âm chỉ nhị Văn Tự Điển nói: Chí là lễ vật đưa đến lúc lần đầu gặp mặt, chữ viết từ bộ bối thanh chấp Bổn tập viết chữ chí tục dùng thông dụng.

Khiếm phục âm kiêm điếm Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Khiếm là hận không đầy đủ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Không no, chữ viết từ bộ khiếm thanh kiệt Bổn tập viết từ bộ khẩu viết thành chữ khiêm gọi là ngậm thức ăn trong miệng, chẳng phải nghĩa này. Thu tiển âm tức tiện xem trước quyển thứ tư đã giải thích đầy đủ rồi.

Mê noãn âm mê Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Mê là con nai con. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lộc thanh nhĩ âm nhĩ là âm di chỉ âm mê ngược lại âm mỹ bi Bất liệu âm lực chiếu Mao Thi Truyện cho rằng: Đốt lửa đồng ruộng làm cháy lan. Sách Thuyết Văn cho rằng: phóng hỏa. Chữ viết từ bộ hỏa thanh liệu âm liệu đồng với âm trên. Bổn tập viết chữ liệu tục tự thường hay dùng.

Hàm vinh âm vinh mạng sách Thuyết Văn cho rằng: nồng rượu, uống rượu nồng lên mau say. Chữ viết từ bộ dậu bộ vinh thanh tĩnh âm cú âm vu cú hoặc là viết từ bộ hung âm viết thành chữ hú.

Khuê khô âm trên khuyết khuê Quảng Nhã cho rằng: Khuê là người chuyên giết mổ sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh khuê âm khoa ngược lại âm khuê qua.

Thông khái ngược lại âm ngư cái cùng với chữ ngại đều đồng.

Hoặc có từ bộ cai viết thành chữ ngại đó là chẳng phải.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 6

Ty đồ ngược lại âm đồ di Cố Dã Vương cho rằng: Ty đó gọi là người hạ tiện lao dịch chẻ củi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiêm thanh ty hoặc là viết từ bộ nhân viết thành chữ ty âm nghiểm là âm nghiêm

Đệ lương âm trên đồ hề Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Giống như là lúa mà mọc lan dưới đất. Cỏ dại mọc um tùm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh đệ âm đệ ngược lại âm thể kè Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: loại bông cỏ hoặc là viết chữ tiết.

Thích Phật kinh quyển thứ năm.

Hữu khích âm hương nghịch Cố Dã Vương cho rằng: Có oán cừu ác cảm với nhau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ bộ khích cũng là thanh. Bổn tập viết chữ hy đời tân phong cho đất ấp chẳng phải nghĩa khích.

Vương quy ngược lại âm khuy quỹ tên của đạo sĩ.

Vương bảo nhân ngược lại âm bổ đạo hoặc là viết bảo địa danh ở Giao Đông.

Phục ly ngược lại âm lý tri

Danh đảo ngược lại âm đào đáo Thời Nhà Ngụy Tên Thế Tổ Dực kiềm ngược lại âm kiện ngôn cũng tên người.

Ái cầu âm cự lưu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Cầu là mời thỉnh nhiều lần. Sách Thuyết Văn cho rằng: Lấy tiền của đút lót để tránh tội. Lấy tiền của đút lót cảm tạ chữ viết từ bộ bối thanh cầu.

Mỵ lam ngược lại âm cô ngủ

Hãn thành âm hàn đán Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngăn phòng phòng ngự. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh hãn hoặc là viết chữ hãn

Phi thực âm phù vĩ Mã Dung chú giải sách Luận Ngữ rằng: Phi là cọng cỏ mỏng manh, yếu ớt. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh phi.

Tử huân âm ủy vân hậu chu tên Hoàng Đế

Khô trước âm trang lược Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trước là chém, Quảng Nhã cho rằng: Đoạn lìa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ đạo bộ tích thanh tĩnh

Vận tuấn âm thất luân tên người.

Huân du âm trên huấn vân âm dưới dậu dui Sách Thuyết Văn nói: huân là cỏ thơm. Du là cỏ hôi đều từ bộ thảo đều thanh huân du viết đúng từ bộ triệt viết thành chữ huân

Ương chưởng âm trên ương ngưỡng. Mao Thi Truyện cho rằng: Ương giống như dây da. Chưởng giống như roi quất. Sách Thuyết Văn viết từ bộ cách thanh ương Bổn tập viết từ bộ nhựt viết thành chữ ương âm ư lang gọi là ánh mặt trời lờ mờ không sáng tỏ chẳng phải nghĩa chữ ương

Vương hoằng âm hoằng tên người

Cang tức âm băng bức Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tức là bướng bỉnh rất ngang ngạnh. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh phục âm phục là âm phục

Đảo di ngược lại âm đao lão Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đảo di trong biển Nam Hải ở Dương Châu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh điểu.

Viết đê âm đinh hề Hán Thư nói rằng: Có vàng trong đá gọi là đê.

Không đồng Âm độc công sách Nhĩ Nhã nói: Bắc Đới, Bắc Cực có núi tên không đồng xưa nay chánh tự viết từ bộ sơn thanh đồng.

Biên ải âm tiên miện Quảng Nhã nói: biên là hẹp. Sách Sở Từ Trí Tiển Nói: biện là có thể, sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh biện bổn tập viết từ bộ khuyển viết thành chữ biện là sai.

Nỡ đắc để âm trên nộ đô âm dưới chi nhĩ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Gọi là đá nhuyễn để mài dao. Nổ đá dùng làm mũi tên, đầu nhọn có sơn màu đỏ. Văn Tự Điển nói: Đều từ bộ thạch đều thanh để nô âm thị là âm thị bổn tập viết chữ để tục dùng thông dụng.

Chấp chí ngược lại âm châm nhập Bổn tập viết chữ chấp là sai. Ngô nguyện âm nguyên quyến tên người.

Đê hà âm trên để lễ Quảng Thất cho rằng: để là hủy nhục. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn trách mắng gọi là trách móc lẫn nhau. Sách Thuyết Văn nói: Đê cũng là trách mắng. Đều từ bộ để đều thanh khả âm để cùng với âm trên đồng bổn tập viết chữ hổ tục dùng thông dụng.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 7

Hội thuẫn ngược lại âm thần chuẩn sách Thuyết Văn giải thích thuẫn là chỗ chống đỡ che thân và mắt. Chữ tượng hình.

Ấp ương ngược lại âm âm cấp sách Khảo Khanh cho rằng: Ấp là hận. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Ấp gọi là không thư thả, thoải mái. Sách Thuyết Văn cho rằng: Không an. Chữ viết từ bộ tâm thanh ấp âm dưới ương ngưỡng Quảng Nhã cho rằng: ương là cưỡng lại, bực bội. Sách Thuyết Văn cho rằng: Không phục tùng, chữ viết từ bộ tâm thanh ương âm đối ngược lại âm đại nội đối là oán hận.

Tiễn thực ngược lại âm tiền tiễn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiễn giống như nhiều lần. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh tồn

Đế giáp âm trên đê đế Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đế là áo lớn mặc làm lễ cúng tế. Âm dưới hàm giáp Bạch Hổ Thông cho rằng: Ba năm một giáp năm năm một đế. Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ y đều thanh đế hạp

Chước tế âm dương chước sách Nhĩ Thất cho rằng: Cúng tế mùa hạ gọi là chước Trịnh Huyền chú giải rằng: Gọi là rau tươi có thể nấu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh chước Bổn tập viết từ bộ hòa viết thành chữ chước là chẳng phải.

Thiêu nhiên âm thúc tiểu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thiêu gọi là trong lòng biến động. Văn Tự Điển nói: Thiếu nhiên là không vui. Chữ viết từ bộ tâm thanh thu.

Y bát âm bát.

Sài vũ âm trên là sài sách Thuyết Văn nói: Thuộc loại sói chữ viết từ bộ trĩ thanh tài Bổ tập viết từ bộ khuyển viết thành chữ phụ là chẳng phải âm dưới là vũ bổn là chữ hổ nay viết chữ vũ đó là trách đi húy miếu.

Trương thỉ âm thi để sách Thuyết Văn cho rằng: Buông dây cung.

Chữ viết từ bộ cung.

Phạm trấn âm ni lân tên người.

Lịch đế vương âm linh đích sách Thuyết Văn cho rằng: Lịch là giẫm lên cán nghiền nát. Chữ viết từ bộ xa thanh lạc.

Quải an âm trên oa họa hoặc là viết từ bộ mịch viết thành chữ quải âm dưới phù xiên hoặc là viết từ bộ câm viết thành chữ phiên.

Kích thác âm thang lạc Trịnh Dĩ chú giải sách Chu Lễ rằng: Thác gọi là ngăn ngừa ban đêm có chỗ đánh gõ. Sách Chu Dịch cho rằng: Đánh gõ nhiều lớp cửa. Chờ đợi bạo khách. Tức kẻ trộm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh thác Bổn tập viết chữ trách cũng thông dụng.

Côn trùng âm trên cớt hơn âm dưới trực trung sách Thuyết Văn cho rằng: Tên gọi chung loài côn trùng. Chữ viết từ hai bộ tùng.

Chung lũ âm cú nhủ sách Nhĩ Nhã nói: Lũ là nghèo. Sách Thuyết Văn viết từ miên thanh lũ âm miên là âm miên.

Vong khiêu âm cư lược Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam rằng: Khiêu là giày dép cỏ. Sách Thuyết

Văn viết từ bộ lý thanh kiều. Đàn sanh âm đa hàn Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đàn là hết tận.

Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngạc thanh đàn âm ngạc âm ngũ viễn Bổn tập viết chữ đàn này tục dùng thông dụng. Cảo kiết âm trên cao lão âm dưới gian bát Ứng Thiệu chú giải Hán Thư rằng: kiết gọi gốc rơm rạ cũng gọi là cảo rơm rạ gặt hái xong còn lại gốc rơm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh cảo Bỏ đi võ lúa còn lại hạt gạo để cúng tế trời, gọi là kiết chữ viết đều từ bộ hòa đều thanh cao kiết chữ kiết từ bộ giai viết thành chữ kiết.

Hà sát âm gia ca Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Hà giống như phiền muộn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh khả.

(913) Háo loạn âm trên là hào xem trước đã giải thích rồi.

Nô tàn âm thang lãng sách Thuyết Văn kho chứa cất vàng bạc vải vóc. Chữ viết từ bộ cân thanh nô âm dưới tạc lãng.

Kiêm khoáng âm trên giáp hiềm âm dưới khô hoặc sách Thuyết Văn nói: Kiêm là lụa dày mà thưa, khoáng lụa mịn. Chữ viết đều từ bộ mịch đều thanh kiêm quảng.

Dương để âm trên dương hướng hiệu của Túy Đế. Sách Ích Pháp nói: Nghịch thiên, ngược nhân gọi là dương.

Uyển luyến âm trên uyển viển âm dưới loan quyến Mao Thi Truyện nói: Uyển luyến là kém xinh đẹp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh uyển luyến hoặc viết chữ luyến.

Quan lũ âm trên quản hoàn Bạch Hổ Thông cho rằng: Tên gọi chung của Quan văn biện miển. Âm dưới câu vu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Thuộc giày cỏ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ lý thanh lũ.

Trưng khắc âm hằng đức sách Thuyết Văn khắc gọi có tội trước pháp luật khắc dấu vào. Chữ viết từ bộ đao thanh khắc từ bộ lực viết thành chữ khắc là sai.

Tu hạch âm hoành cách xem trước quyển thứ nhứt đã giải thích rồi.

Tiếp tuần âm tiềm diệp Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Thấm ướt đẫm gọi là tiếp Văn Tự Điển nói: Từ bộ thủy thanh giáp.

Tú vũ âm vu củ

Tiết trách âm sĩ trách đều tên người.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 8

Sô âm trắc ngưu Quảng Nhã nói: Quan coi ngựa. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh sô âm sô âm trắc vu.

Ải cao ngược lại âm y tặng Đỗ Dự chú giải Tả Truyện: Ải gọi là tự vẫn, dùng dây thắt cổ chết. Chữ viết từ bộ mịch thanh ải.

Siểm hầu ngược lại âm siểm nghiệm Trịnh Chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Gọi là trộm nhìn. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Siểm là dòm ngó, hầu hạ chữ viết từ bộ kiến thanh diêm.

Lẫm lệ âm lâm thậm Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Lẫm là lo sợ nguy hiểm. Xưa nay chánh tự viết từ bộ tâm thanh lẫm âm lâm ngược lại âm duật cẩm.

Tuần tuần âm tuần Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Có thứ tự trước sau. Hoặc là viết chữ tuần.

Vĩ vĩ ngược lại âm bàng phi sách Khảo Khanh cho rằng: Vĩ vĩ là tốt đẹp. Bổn tập viết chữ vĩ trục tư thường dùng.

Hà dị âm di lợi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dị là đã thối lui. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tĩnh thanh dĩ chữ chánh thể. Bổn tập viết chữ dị tục tự thường dùng. Âm cũng ngược lại âm câu dõng.

Thai xác âm khô giác sách Khảo Khanh cho rằng: Võ trứng trống không.

Lạc linh âm trên lan các âm dưới lịch đinh sách Sở Từ cho rằng: Giống nấm mọc trong rừng mang đen như phân lợn, chỉ có thảo mọc. Sách Khảo Khanh cho rằng: Lịnh gọi là cá cỏ rụng. Sách Thuyết Văn nói: Cỏ gọi là linh mộc gọi là lạc hoặc là viết chữ linh.

Quỳnh kỳ âm hỏa sính sách Thuyết Văn cho rằng: Xa xôi. Chữ nghĩa trước đã giải thích rồi.

Độc phù âm triếp phu Mao Thi Truyện nói: Phù là con le le (tức vịt trời) thủy điểu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh phù âm phù là thu.

Thác dược âm trên thang lạc âm dưới dương chước Ngự Chú Lão Kinh nói: thác giống như cái túi. Dược là ống tiêu. Sách Thuyết Văn nói: chữ thác từ thác thanh thạch chữ dược từ bộ trúc thanh dược âm bị ngược lại bài mại âm tốn âm bộ bổn.

Lý thương âm khổ hướng.

Hiểm hy ngược lại âm hỷ nghi Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hiểm hy giống như nguy hiểm. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ sơn thanh hy Bổn tập viết chữ hy là sai.

Đại xuân âm truất luân Trang Tử nói: Cây đại xuân là tám trăm năm là một mùa xuân, tám trăm năm là một mùa thu. Xưa nay chánh tự viết từ bộ mộc thanh xuân.

Vũ âm thức nhuế sách Thuyết Văn: Nhuyến gọi là rắn mối, con ve chờ lột vỏ, lột da. Chữ viết từ bộ trùng thanh thuế.

Ban dũng âm dung chủng Tây Vức Truyện nói: Thời hậu Hán Vua An Đế Tây Vực làm phản loạn kéo dài nhiều năm. Trong đó ban dũng làm trưởng sử Tây Vực. Thảo định các nước Bổn tập viết từ bộ khuyển viết thành chữ dũng đó là sai.

Tổng luận âm tái tài Quảng Nhã cho rằng: tổng là động. Tự Thư cho rằng: Chấn an. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh tổng Bổn tập viết chữ tổng tục tự thường dùng.

Tiến chỉ âm nghi lý Mao Thi Truyện cho rằng: Phúc. Tả Truyện nói: lộc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thị thanh chỉ.

Cụ tì âm tự tư theo chữ cụ tì là tên núi. Ở huyện Dương dịch là âm địch là âm trạch.

Vu hích âm hình kích sách Thuyết Văn nói: Có thể bàn việc với thần linh. Người nam gọi là hích ở với người nữ gọi là vu chữ viết từ bộ vu thanh kiến.

Quang quang âm cô hoàng Văn Tự Điển nói: quang quang là nước chảy xiết, chảy cuồn cuộn, chữ viết từ bộ thủy thanh quan.

Bộ trật âm trần lật hoặc là viết chữ trật xưa nay chữ trật Bổn tập viết chữ trật là sai.

Cơn nghi âm trên cớt hồn sách Thuyết Văn tên gọi chung loài côn trùng. Viết đúng chữ côn âm dưới nghi ỷ hoặc là viết chữ khỉ viết thành chữ khỉ.

Tước huỳnh âm trên tương dược trước quyển thư tư đã giải thích xong rồi. Ngược lại âm hồi vinh sách Nhĩ Thất cho rằng: Huỳnh là đóm lửa, tức con đom đóm chiếu sáng. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ trùng tóm lược thanh quỳnh.

Vị húc âm vu ngọc Mao Thi Truyện nói: Húc gọi là mặt trời mới mọc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhựt thanh cửu.

Doanh bác âm diệc thành theo chữ doanh bác đó là địa danh. Ở nước Triệu. Bổn tập viết chữ doanh tục tự thường hay dùng.

Thiểu nhiên âm thúc tiểu xem trước quyển thứ 7 đã giải thích rồi.

Ký dục âm cơ nghị sách Thuyết Văn: Ký là mong mỏi, trông ngóng chữ viết từ bộ kiến thanh ky.

Các các âm lang các Lão Kinh nói: Các các giống như đá vậy.

Sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh các.

Tín hải âm cải ai sách Khảo Thanh nói: Hải là kỳ lạ. Gọi là việc của nước kỳ lạ khác thường. Sách Thuyết Văn nói: Người rất kỳ lạ. Chữ viết từ bộ nhân thanh cai.--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 9

Ưng chiên âm trên ức lịnh hoặc là viết chữ ưng âm dưới chiết nhiên Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chiên là thuộc diều hâu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh chiên âm chiên là âm thu.

Manh ba âm phổ giá Quảng Nhã nói: Ba là khăn lau. Sách Thuyết Văn nói: Cũng là khăn lau chữ viết từ bộ cân thanh ba.

Khô mạng âm khổ cô Thiên Thương Hiệt cho rằng: Khô giống như là người đồ tể giết hại mổ xẻ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ đao thanh khoa âm khoa ngược lại âm khưu vu.

Cách lệ âm trên bình ách sách Thuyết Văn nói: Cách là ngăn che chướng ngại. Chữ viết từ bộ phụ thanh cách sách Khảo Thanh cho rằng: Viết đúng là chữ cách.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 10

Phốc tán âm phổ giác Vương Dật chú giải Lão Kinh cho rằng: Phốc là chân thật, chất phác. Hoặc là viết từ bộ bốc viết thành chữ phốc Bổn tập viết chữ tán tục dùng thông dụng.

Bí trách âm từ cách Lưu Hiến chú giải sách Chu Dịch rằng: Trách đó là thâm thuyết, rất mực sâu thẳm.

Sách Thuyết Văn: Viết từ bộ di thanh trách.

Bối lũ âm bổ hậu âm dưới lâu cú Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bồi lũ là đóng đất nhỏ. Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ thổ đều thanh phẩu lũ âm phẩu âm thổ cẩu. Long quật âm quần vật sách Thuyết Văn giải thích núi cao mà ngắn chữ viết từ bộ sơn thanh quật hoặc là viết chữ quật.

Trách lịch âm trên thanh trách âm dưới linh đích Cố Dã Vương nói: Trách Lịch gọi đất dốc. Quảng Nhã cho rằng: Trách gọi là nước cạn thấy đá. Sách Thuyết Văn cho rằng: lịch là đá nhỏ. Chữ viết từ bộ thạch đều thanh trách lạc âm để là âm đệ Bổn tập viết chữ lịch gọi là tiếng đá va vào nhau, chẳng phải nghĩa này.

Bột giải âm trên bổ một âm dưới giai mại sách Thuyết Văn nói: Bột giải là tên Biển Đông. Chữ viết đều từ bộ thủy đều thanh bột giải

Hoằng trứng âm ô hoằng Quảng Nhã cho rằng: Hoằng là nước sâu. Sách Thuyết Văn nói: Ao nước to lớn mà sâu. Chữ viết từ bộ thủy thanh.

Lý tập ngược lại âm tầm lập Cố Dã Vương nói: Thói quen gọi là tích tập hoặc là viết chữ tập đều thông dụng.

Manh tục âm mạch canh Lưu Hy chú giải sách Mạnh Tử rằng: Vùng đất nơi biên giới xa. Gọi là mạnh sách Thuyết Văn nói: Người dân không hiểu biết như người mù. Chữ viết từ bộ vong thanh dân bổn tập viết chữ manh tục dùng thông dụng.

Cữ thố âm thô lộ Trịnh Chúng chú giải sách Lễ Ký rằng: Thố giống như thí cho. Hoặc là viết từ bộ thủ viết thành chữ thố lại viết chữ thố.

Nại tửu ngược lại âm nải đại Cố Dã Vương nói: Nại là cơ thể nhẫn nại, chờ đợi, chịu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhi thanh thốn.

Phú sào âm sừ giao Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn giải thích chim khách làm tổ. Sách Thuyết Văn: Chim làm tổ trên cây. Chữ viết từ bộ mộc tượng hình. Bổn tập viết từ bộ thủ viết thành chữ sào ngược lại âm trách giao chẳng phải nghĩa tổ chim. Chữ đúng thể là chữ sào.

Nhương tai âm nhược dương sách Phương Ngôn nói: Trừ bỏ, chữ viết từ bộ thủ thanh nhương Bổn tập viết từ bộ hòa viết thành chữ nhương là sai vậy.

Mộ lạn âm lân nhẫn họ người theo thời Lục Quốc. Tướng Nước Triệu Hà Lan Tương Như Trước Nhà Hán, Tư Mã Trường Hương. Có mộ lạn người có chí đức. Cho nên cũng tên Thương Như.

Quan phục ngược lại âm hoạt ngoan Quách Phác chú giải Nhĩ Thất rằng: Quan gọi là càng dễ dàng hơn. Sách Phương Ngôn gọi: Là chuyển từ từ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ xước thanh quan

Hào càng âm hiệu giao Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn nói rằng: Phàm chẳng thóc mà ăn được gọi là hào tức là thịt băm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh hào Bổn tập viết chữ hào tục tự thường dùng.

Tri mãn âm chỉ di Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tri là bình đựng rượu. Sách Thuyết Văn nói: Bình chứa rượu. Chỗ gọi là rót ra để uống. Giống như hình người bộ ma trong bộ hán. Âm dưới là hoàn âm hoàn là âm hoàn.

Mê noãn âm mễ kê xem trước quyển thứ năm đã giải thích đầy đủ rồi. Sách Khảo Thanh hoặc là viết chữ me. Cận xưng âm cần cân xem trước quyển thứ tư đã giải thích rồi.

Khí quý âm quý quý sách Thuyết Văn nói: Tâm kinh động, giựt mình kinh sợ từ bộ tâm thanh quý hoặc cũng viết chữ quy.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 11

Mặc địch ngược lại âm đình đích tên người.

Vũ đực âm dư thức sách Thuyết Văn nói: Đực là cất cánh bay.

Chữ viết từ bộ vũ thanh lập hoặc là viết chữ vực Hầu thị âm cẩu hầu tên huyện ở Hà Nam. Tác dung âm tàng tác họ người.

Trĩ lập âm trì lý Quảng Nhã nói: Trĩ là dừng lại. Hoặc là viết từ bộ chỉ viết thành chữ chỉ.

Oa ca âm ư oa Thiên Thương Hiệt nói: Oa là ca hát, ngâm vịnh.

Hoặc viết từ bộ khiếm viết thành chữ oa âm âu âm ô hầu.

Bao hy âm trên bao mao âm dưới hy Thuyết Văn Đình Truyện nói: Bao là vua Hy Thị trong thiên hạ, tức là Vua thứ ba. Bao từ bộ nghiểm thanh bao hy từ bộ hề thanh nghị hoặc là viết chữ hy.

Thâm độc âm trên sở cẩm âm dưới đồng lộc Lục Cơ Hán Tổ Công Thần Công Truyện nói: Vũ trụ mờ mịt mênh mông trên có thâm dưới là độc Lý Thiện chú giải rằng: Nói: thường loạn. Thâm gọi là không trong sạch, đọc là khinh nhờn, tiết giống như kêu mạng khinh khi, âm tiết âm dư liệt.

Ba chấn âm chân nhẫn Bổn Tập viết từ bộ thần viết thành chữ chấn là sai.

Thức lữ âm thăng lực Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Người hiền tỏ lòng cung kính khoan dung, tàn nhẫn, bất nghĩa, chỗ biếm xuống thối lui là vũ vương thức. Lưu Hạng lấy lễ mà chiêu đãi người hiền. Sách Khảo thanh nói: Họ viên, sách Thuyết Văn viết từ bộ công thanh dực bộ tập viết chữ thức gọi là cây đòn ngang trước xe, chẳng phải nghĩa này.

Quái thị âm hồ quái Văn Tự Điển nói: Quái là buộc treo lên, từ bộ mịch thanh quái.

Tư phó âm phó Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Phó là đến, hoặc là viết chữ phó lại cũng viết chữ phó cũng viết chữ phó đều thông dụng.

Bàn tuyền ngược lại âm bạt mạn địa danh. Sách Điềm Địa Chí nói: và Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Bàn Tuyền huyện Quảng Ninh Trác. Hoặc là chữ bàn Tự Thư không định, không thẩm chấp vậy.

Chước đại âm dương nhược Cố Dã Vương nói: Chước tức là buộc mũi tên vào cây cung bắn đi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịnh thanh kích âm chước ngược lại âm dương chước.

Hung thủy âm hung khủng Cố Dã Vương nói: Hung là sóng nước ầm ầm, chữ viết từ bộ thủy thanh hung.

Hôn điếm âm điểm niệm chú giải, sách Thượng Thư rằng: Điếm là chìm đắm, sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh chấp Bổn Tập viết chữ điểm dùng thông dụng.

Thái kỹ âm khi kỹ Mao Thi Truyện nói: Nói: lời nhẹ nhàng như lựa chọn, nhặt rau cỏ. Lại gọi là văn chương, thái hoặc là viết chữ thái Bổn Tập viết từ bộ tỵ viết thành chữ khỉ chữ sai.

Khiên vị âm khiết kiên khiên là chỗ dòng nước đổ vào đầm, xuất phát từ huyện Khiên, Tây bắc chảy vào sông Vị chữ viết từ bộ thủy thanh nghiên Bổn Tập viết chữ khiêm tục dùng thông dụng.

Trạc toán âm sĩ giác Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Tiết hàn lạnh thấm ướt người bắn cung, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh túc.

Đệ y ngược lại âm đệ hề sách Thuyết Văn: Lụa dày chữ viết từ bộ mịch thanh đệ.

Đồng cung âm động đông Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đồng là loại cây ép lấy nước an táng, người chết dưới đất, cũng là cây đồng. Bổn Tập viết từ bộ ấp viết thành chữ đồng Tự Thư nói: Không có chữ đồng này.

Vật hoạt âm mân duật.

Bàng bạc âm trên bổ mãn âm dưới bàn bác bàn bạc là đá to lớn rộng.

Xích án âm á nhuận sách Trang Tử nói: Tận cùng phương Bắc có loài chim gọi là đại bàng, cánh nó rũ che cả bầu trời, rẽ mây trên chín vạn dặm. Gọi là xích án, chuyện tức cười trong dân gian. Ta nhảy không qua một thước, dưới cánh chim bay là đà, đây gọi là chim bay đến, mà kia gọi là đích xác, truyện Xuân Thu vận chuyển một đấu. Lại cũng gọi là mấy vì sao bay tản mát là chim án thường kêu vào buổi sáng giống như gà gáy sáng, chữ xích hoặc là viết chữ thiên.

Tỉnh oa ngược lại âm điểu oa sách Thuyết Văn nói: Oa tức là ễnh ương hoặc từ bộ mảnh viết thành chữ oa chữ tượng hình, âm mãnh âm manh cảnh.

Bao qua ngược lại âm bao bao Hà án chú giải sách Luận Ngữ rằng: Bao là trái bầu, sách Thuyết Văn viết từ bộ khoa đến bao. Lấy chữ này có thể nói: bao gồm các vật, bao cũng là thanh, âm khô là âm khưu vu.

Cự thuật âm cự ngự trước đã giải thích rồi.

Ngọc diệp ngược lại âm điềm hiếp sách Thuyết Văn nói: diệp tức là thư từ chữ viết từ bộ tĩnh thanh diệp âm diệp đồng với âm trên. Bổ tập viết từ bộ ngôn viết thành chữ diệp Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Điệp là thẻ tre, chẳng phải ngọc diệp.

Tinh vụ ngược lại âm vô phó Cố Dã Vương cho rằng: Vụ là ngựa chạy nhanh, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh vụ âm vụ là âm vũ.

Ung nhân ngược lại âm ung cung Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ung đó gọi là xắt thịt nấu hầm cho chín, chữ viết từ bộ thực thanh ung.

--------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 12

Vu khuất âm vu vu sách Thuyết Văn nói: Vu cũng là khuất tức là ngoằn ngoèo, quanh co, vòng vèo, chữ viết từ bộ mịch thanh vu.

Đôn sử âm độn côn sách Nhĩ Nhã nói: Đôn hậu, Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: To lớn hoặc là viết chữ đôn.

Chước tủy ngược lại âm trang lược Quảng Thất cho rằng: Trác là chém chặt, sách Thuyết Văn viết từ bộ cân thanh tích.

Báng tập ngược lại âm phổ hoàng Khổng An Quốc chú giải sách Thương Thư rằng: Bốn phương cầu một bên, sách Thuyết Văn viết từ bộ thượng thanh phương Bổn Tập viết từ bộ nhân viết thành chữ phưởng vãng gọi là nghĩa phưởng phất, chẳng phải nghĩa bổn tập, âm Phật ngược lại âm phù vật.

Loa lũ ngược lại âm lực qua Cố Dã Vương nói rằng: Loa lũ giống như là uốn khúc, ngoằn ngoèo, sách Thuyết Văn viết từ bộ kiến thanh loa sách Khảo Thanh nói: Viết đúng chữ loa này âm loa.

Luyến quái âm trên loan miễn Cố Dã Vương cho rằng: Gọi là xắt thịt làm tương, cắt thịt làm từng miếng, sách Thuyết Văn nói: Cũng cắt thịt thành miếng mỏng, chữ viết từ bộ nhục thanh luyến âm luyến ngược lại âm luyến viên âm thì ngược lại âm trắc kỹ âm dưới cốt ngoại sách Thuyết Văn cho rằng: Băm thịt nhỏ, chữ viết từ bộ nhục thanh hội.

Tử lao âm trên tức lữ Khảo Thanh nói: Tử là rượu ngon, trong sạch Mao Thi Truyện nói: Có rượu ngon cho ta. Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh tư Bổn Tập viết chữ tư sách Khảo Thanh nói: Tức có chữ này,

Ngọc Thiên nói: Là không có chữ này, âm dưới lao nhẫn Thế Bổn nói: Hy địch là rượu biến ra năm mùi vị. Tống Trung chú giải rằng: Hy dịch người thời nhà Vũ, sách Thuyết Văn viết từ bộ dậu thanh lao.

Điền dã ngược lại âm dịch giả Mao Thi Truyện nói: Ngoại biên giới gọi là dã Bổn Tập viết chữ dã chữ cổ.

Song truy âm sóc giang sách Thuyết Văn: Hai con chim mái, chữ viết từ bộ chuy bộ hựu nắm cầm, Bổn Tập viết từ bộ phản viết thành chữ song tục dùng thông dụng. Âm dưới tùy túy Mao Thi Truyện nói: Tùy là giống lúa mạ tốt, sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh tụy.

Đàn kỹ ngược lại âm đa an xem trước quyển thứ bảy đã giải thích rồi.

Phanh thằng âm trên bách manh sách Khảo Thanh nói: Phanh nối kết sợi dây. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh biện âm dưới thực dăng Tống Trung Thương Sĩ chú giải. Thế Bổn cho rằng: Thằng là chỗ lấy mực thẳng, mực thước, sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh dăng Bổn Tập viết chữ thằng tục tự thường hay dùng.

Tiên thác ngược lại âm tất miên Cố Dã Vương nói: Tiên là dùng roi da đánh người tội, sách Thuyết Văn viết từ bộ cách thanh tiện âm dưới nan đạt Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Thác là đánh bằng roi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh đạt Bổn Tập viết từ bộ cách viết thành chữ thác là chẳng phải.

Đệ toán ngược lại âm toát noãn.

Lang châu âm lãng sách Thuyết Văn nói: quận ba có huyện ở giữa tên lãng theo nay tức là Lãng Châu.

Tửu khuê âm hộ khuê Thiên thương Hiệt nói: Ăn thịt băm nhuyễn, sách Thuyết Văn: Thịt làm tương, hoặc viết từ bộ nhục viết thành chữ khuê.

Càng cư âm cự ngư Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Cư là thịt phơi khô. Sách Thuyết Văn nói: Ở phương Bắc gọi là thịt chim, âm tích là âm tích gọi là cư chữ viết từ bộ lận viết thành chữ lận Tự Thư nói: không có chữ này.

Nghiên xú âm khiết kiên Quảng Nhã cho rằng: Nghiên là dáng mạo tốt đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh nghiên âm nghiên là âm kiên.

Tảng cốc âm công lộc sách Thuyết Văn viết từ bộ hòa thanh xóc âm xác ngược lại âm khổ giác Bổn Tập viết chữ cốc tục dùng thông dụng.

Cư trữ âm cử ngư Quảng Nhã cho rằng: Cư là ngồi một chỗ bán hàng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ bối thanh cư.

Kíp-đa âm cự triếp xứ Tây Vực tên tiếng Phạm của vị tăng. Bổn Tập viết chữ kíp là chẳng phải.

Trương bạn âm phổ bán tên người.

Phất tĩnh âm tinh tĩnh sách Lễ Ký cho rằng: Tĩnh giống như quán sát, sách Thuyết Văn viết từ bộ mi bộ tĩnh thanh tĩnh, viết chữ tĩnh văn chữ cổ. Bổn Tập viết từ bộ tâm viết thành chữ tinh Tự Thư nói: Không có chữ này.

Trường hôn ngược lại âm hôn cổn Quảng Nhã cho rằng: Hôn là mê muội ngu si, Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Người không biết gì hết, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hôn.

Nghê hưởng ngược lại âm nghê kích Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Nghê là loài thủy điểu. Mạnh Tử nói: Loài chim ác, là nghê là vậy. Lưu Hy chú giải rằng: Nghê gọi là vịt trời, tức con le le, thiên nga, tiếng kêu rất lớn, hoặc là viết chữ nghê âm dưới hương ngưỡng hoặc từ bộ ngôn viết thành chữ hưởng lại viết chữ hưởng viết đúng từ bộ âm viết thành chữ hưởng Bổn Tập viết từ bộ hướng viết thành chữ hưởng là chẳng phải.

Ương vưu ngược lại âm vưu cứu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Vưu là bệnh, sách Thuyết Văn viết từ bộ tật thanh vưu hoặc là viết chữ vưu Bổn Tập viết chữ vưu tục dùng thông dụng.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 98

-Âm Quảng Hoằng Tập Âm quyển trung. Từ quyển thứ mười ba cho đến hết quyển thứ (915) hai mươi ba. Tất cả quyển mười một.

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 13

Nhu đẳng âm nhu trửu.

Vân túy âm tình túy sách Chu Dịch nói rằng: Túy đó là tụ hợp lại, sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh túy. Chủng trinh âm tri doanh Thiên Thương Hiệt cho rằng: Trinh là tốt lành, sách Thuyết Văn nói: Điềm kiết tường, chữ viết từ bộ thị thanh trinh.

Oa thủy ngược lại âm quả hòa sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của dòng sông.

Huân chúc âm trên hứa vân âm dưới chung chúc sách Khảo Thanh cho rằng: Tên riêng của bọn hung nợ, xem trước đã giải thích rồi.

Thái sử đảm ngược lại âm đức cam tên người.

Nô dữ ký túc âm trên nợ hồ Cố Dã Dương nói: Trong sáu loại ngựa, nô là con ngựa tồi, thấp kém âm dưới ky nghị sách Thuyết Văn nói: Ký là con ngựa chạy ngàn dặm, chữ viết từ bộ mã đều thanh ký nô.

Cam tiệp âm trên cam ám sách Thuyết Văn nói: Màu xanh đậm mà pha màu đỏ vào, thành cam, chữ viết từ bộ mịch thanh cam âm dưới tiềm diệp sách Thuyết Văn nói: Lông mi mắt, hoặc là viết từ bộ hiệp viết thành chữ tiệp Thích Danh viết chữ tiệp.

Mong kỳ trong tập Tào Thực chú giải: Trên mặt của Khổng Tử buông xa xăm. Mong kỳ, kiểm lại các Tự Thư không có chữ này, chưa rõ âm nghĩa.

Đoạn âm Tào Thực chú giải Bổn Truyện rằng: Chu Công giống như đoạn âm Tự Thư nói: cũng không có chữ này.

Mảnh thủ ngược lại âm túc du Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Thú là người con gái đẹp, sách Thuyết Văn viết từ bộ nữ thanh thủ.

Long liêm tên họ người, chưa rõ âm này.

Cẩu cứ hồ tôn âm cứ là âm cư ngược âm dưới tồn côn sách Thuyết Văn nói: Cứ cũng là tôn tức là ngồi xổm, theo hai chữ hỗ tương với nhau mà giải thích, đều từ bộ túc đều thanh cư tôn.

Kim điếu ngược lại âm điểu liễu Hán Thư giải thích rằng: Lông chồn màu vàng, gần giống như con ve lột xác vỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ trĩ thanh chiêu âm trĩ ngược lại âm trực lý.

Tiều dã âm tật yêu Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tiều là củi, sách Thuyết Văn viết thành bộ mộc thanh tiêu Bổn Tập viết viết từ bộ thảo viết thành chữ tiều là chẳng phải.

Huệ đối âm huề khuê Quảng Nhã giải thích rằng: Huệ là cỏ màu xanh trổ hoa màu tím. Kinh Sơn Hải nói: Núi Thiên Đế có hai loại hoa này, dưới có nhiều hoa huệ. Quách Phác giải thích: Huệ là loài cỏ thơm, Văn Tự Điển nói: Chữ viết từ bộ thảo thanh huệ.

Khái xỉ âm kham hạp sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh hạp âm hạp ngược lại âm hồ lạp từ bộ đại đến bộ đầu bộ mãnh đến bộ khứ viết thành chữ khái đó là sai.

Phất linh ngược lại âm lịch đinh Thiên Thương Hiệt cho rằng: Linh là lắng tai nghe. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhĩ thanh lịnh.

Án lung ngược lại âm ấp kim sách Thuyết Văn nói: Chữ ám là không thể nói: chữ viết từ bộ tật thanh ám.

Vựng khuy âm vân huấn sách Thuyết Văn nói: Vựng gọi là quầng sáng quanh mặt trăng: mặt trời. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhật thanh quân.

Khi quyết âm trên cơ nghi âm dưới quyến nguyệt Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Khỉ quyết là dao điêu khắc, chạm trổ, sách Thuyết Văn nói: Mũi dao cong dùng cho điêu khắc, đều từ bộ đao đều thanh quyết ky hoặc là viết từ bộ quật viết thành chữ quyết.

Tiên ốc âm trên tô điển Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Tức là kim loại có ánh sáng lấp lánh, âm dưới ô cốc Mao Thi Truyện nói: Ốc là vàng mạ bạc, loại bạch kim, đều từ bộ kim đều thanh tiển ốc đồng với âm trên.

Hộ độc âm hồ cổ sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của dòng sông, kinh Sơn Hải nói rằng: Núi Dương Hư đến sông Huyền Lộ. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thủy thanh hộ.

Lan trứu âm lãn đan theo thời nay gọi là lan can hàng rào, Bổn Tập viết từ bộ mộc viết thành chữ lan sách Khảo Thanh nói: Lan tên cây, chẳng phải nghĩa này, âm dưới trắc cứu sách Thuyết Văn nói: Trứu là gạch ngói xây giếng chữ viết từ bộ ngõa thanh thu âm bích là âm bình lịch Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Bích gọi là gạch chưa nung.

Cơ cứ âm trên ký nghi âm dưới cư ngự sách Trang Tử nói: Ngồi trên cái mẹt vuông, cái chậu, cái trống Cố Dã Vương nói: Gọi là ngồi kiểu vẻ kiêu ngạo, sách Lễ Ký nói: Không được ngồi trên cái mẹt. Trịnh Huyền nói: Gọi là không cung kính, sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh kỳ Bổn tập viết từ bộ trúc viết thành chữ cơ là chẳng phải.

Biển tức âm trên biến miên âm dưới là phúc sách Thuyết Văn nói: Biển bức tức là con dơi, nằm bằng hai cánh, đều từ bộ trùng đều thanh biển tức.

Cơ nhậm âm nhậm ấm sách Khảo Thanh nói: Cái máy dệt tơ lụa Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Dệt sợi thành tơ lụa, dệt vải bố gai, sách Thuyết Văn nói: Sợi chỉ trên cái máy dệt, chữ nhậm hoặc là viết chữ nhậm.

Giảng địa âm giang hạng sách Khảo Thanh cho rằng: Giang gọi là cày ruộng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ lỗi thanh giảng âm lỗi là âm lôi chữ giảng từ bộ ngôn thanh tĩnh.

Thuật tâm âm xuân luật Cố Dã Vương nói: Phục giống như buồn rầu lo lắng, đau thương, sầu khổ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh thuật.

Ly châu âm lý tri sách Trang Tử nói: Phàm hạt châu giá trị ngàn vàng, tức trong chín tầng sâu thẳm nơi miệng con rồng, ngậm trong họng, nếu muốn được hạt châu này, phải đợi con rồng ngủ, nếu như con rồng tỉnh giấc ngủ là không thể được, sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh ly.

Tam tập ngược lại âm tầm lập sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ba núi kề cập bên nhau. Quách Phác nói: Tập cũng là áo nhiều lớp.

Nhu viện âm trên nô đao âm dưới viên Mao Thi Truyện nói rằng: Nhu cũng là viên, thuộc giống khỉ, vượn Quách Phác giải thích kinh Sơn Hải rằng: Giống như loài khỉ, mà cánh tay nó dài tiện việc nắm bắt. Có màu lông vàng và đen, khỉ lông vàng đó tiếng nó kêu rất lớn. Có vẽ áo não sầu khổ, sách Thuyết Văn đều từ bộ khuyển đều thanh nhu viện.

Nghệ dã âm ngư duệ xưa nay Chánh Tự cho rằng: Nghệ là giống cây, trồng cây trồng hoa, chữ viết từ bộ thảo thanh chấp.

Đạo âu âm ô hầu sách Thuyết Văn nói: Âu ca, hát ca hoặc là viết từ bộ ngôn viết thành chữ âu hoặc từ bô khẩu viết thành chữ âu.

Thềm đăng âm đắc hằng Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Đăng là dụng cụ che mưa. Sử Ký Âm Nghĩa nói rằng: Đăng là cái nón có tay cầm, nay gọi là cây dù, sách Khảo Thanh nói: Bện trúc làm cây dù, sách Thuyết Văn nói: Đăng là cây dù, chữ viết là từ bộ trúc thanh đăng.

Địa phái âm phi phệ sách Quốc Ngữ nói: Lấy đất làm bực thềm đi lên Giả Quỳ giải thích rằng: Mạch máu quan hệ giữa bệnh và nhịp đập của mạch, hoặc là viết chữ phái lại viết chữ phái Bổn Tập viết từ bộ nhục viết thành chữ phái là không có chữ này.

Đố mộc âm đô cố sách Thuyết Văn trong cây có con mọt ăn, từ bộ cân bộ thác thanh tĩnh âm thác âm tha các Đàm Trưởng hoặc viết chữ đố giống như sâu mọt trong cây, chữ tượng hình.

Phân thử âm phù phân Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Con chuột đi trên lưng con trâu. Sách Thuyết Văn nói: trăm lao nhọc chỗ hóa thân từ bộ thử thanh phân.

Tệ chim âm để chiêm sách Nhĩ Nhã cho rằng: Áo che phía trước gọi là chiêm Quách Phác giải thích: Tức nay người ta nói: áo che tới đầu gối. Sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh chiêm.

Chi lục âm long xúc theo chữ lục đó là tên loại sách. Đạo gia tam đồng lục.

Biến tri âm trên thất miên âm dưới tỳ di sách Phương Ngôn nói: Biên cũng là ty Cố Dã Vương nói: Như nay là Biên tướng quân, sách Thuyết Văn nói: Biên từ bộ nhân đến thanh biến ty từ bộ y thanh ty âm biên ngược lại âm biên điển Bổn tập viết từ bộ mịch viết thành chữ biên gọi là dệt xâu các thẻ tre, chẳng phải nghĩa này.

Tuyền ky âm tùy duyên âm kỹ nghi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tuyền là viên ngọc đẹp, ky là ngọc ngang, chính là dụng cụ thiên văn thời xưa. Vận chuyển xoay hướng, sách Thuyết Văn đều viết từ bộ ngọc đều thanh tuyền ky âm tuyền ngược lại âm duyệt tuế Bột tập viết chữ diên Khảo Thanh cho rằng: thuộc đá chẳng phải nghĩa này.

Sàn nhiên âm tử tiên Vi Thiện chú giải sách Sử Ký rằng: Sàn là thận trọng, nhân nghĩa, sách Thuyết Văn cũng nói rằng: Cẩn thận hoặc viết từ ba bộ tử viết thành chữ sàn.

Kình nghị âm trên cực nghinh sách Chu Lễ nói rằng: Kình là một hình phạt ngày xưa, khắc vào mặt lấy mực bôi lên, sách Khảo Thanh nói: Như nay người ta ấn vào, đóng dấu, sách Thuyết Văn nói: Khắc mực lên mặt, từ bộ hắc thanh kinh sách Khảo Thanh hoặc viết chữ kình Bổn tập viết từ bộ đao viết thành chữ lượt âm lượng lượt giống như đoạt lấy, chẳng phải nghĩa này, âm dưới ngư ký Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nghi gọi là xẻo mũi, sách Thuyết Văn nói: Khoét mũi, hoặc là viết từ bộ nghiệt viết thành chữ nghị âm khiết.

Kiêu túc âm liều yêu Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Kiêu là giơ lên. Bộ tập viết từ bộ mịch viết thành chữ kiêu ngược lại âm ký yêu sách Khảo Thanh cho rằng: Gọi là tơ mịn chưa rõ nghĩa này.

Tư ngạn âm ngôn kiện Tả Truyện nói: Đời Chu có lời nói: được lưu truyền Khảo Thanh nói: Truyện cổ ngữ, truyền lời nói: của ngàn xưa. Sách Thuyết Văn nói: Truyền lời nói:, lưu truyền chữ viết từ bộ ngôn thanh ngạn từ bộ văn thanh hán âm văn là âm văn âm hán là âm hán Bổn tập viết từ bộ khẩu viết thành chữ ngạn là chẳng phải, ngạn từ bộ lập viết thành chữ ngạn tục dùng thông dụng.

Khi vũ âm trên mị bi âm dưới vũ phu kinh Sơn Hải nói: Núi Động Đình có nhiều loại rau này. Quách Phác chú giải rằng: Loại cỏ thơm, giống như con rắn nằm trên giường, lại gọi là sông Ly Giang cỏ này vốn gọi là cung giống mạ nạn. Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ thảo đều thanh mị vô.

Phẩu ích âm trên phổ khẩu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phẩu là phá ra, phanh ra, Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phân trong ra là phẩu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Phẩu cũng là tích sách Thuyết Văn nói: Tích là phanh ra từ bộ đao thanh phẩu âm phẩu ngược lại âm thổ khẩu âm dưới tinh trách Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Phân tích Thanh Loại nói rằng: Tích là mổ xẻ, tách ra, sách Thuyết Văn nói: Phá cây ra, tức bổ cây ra, từ bộ mộc thanh cân hoặc là viết chữ tích.

Đại nạo ngược lại âm nữ giảo Thế Bổn cho rằng: Đại nao là quấy rối, nhiễu loạn. Tống Trung chú giải sách Lã Thị Xuân Thu rằng: Đại nạo là Thái Sư Hoàng Đế.

Ao đường ngược lại âm ô giao sách Trang Tử nói: Nơi thung lũng trũng thấp. Cố Dã Vương nói: Ao là không bằng phẳng. Xưa nay Chánh Tự viết từ bộ thổ thanh ao.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 14

Đệ tú âm trên đệ nê âm dưới do tửu trước đã giải thích rồi.

Sãng khải âm khai cải sách Khảo Thanh nói rằng: Sãng khải là nơi đất cao khô ráo. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sãng là sáng sủa, khải là khô ráo. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh khải.

Chẩn tuất âm chân nhẫn Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chẩn là thầm giúp đỡ, kẻ giàu có cứu giúp người khốn khổ, sách Thuyết Văn cũng nói: Người giàu có từ bộ bối thanh thần.

Thẩn cảm ngược lại âm thi nhẫn Mao Thi Truyện cho rằng: Thẩn, huống nữa là, sách Thuyết Văn hoặc viết từ bộ cung viết thành chữ thẩn.

Bát trá ngược lại âm tra trá Quảng Nhã nói: Trá là cúng tế, mùa hạ gọi là cúng tế sạch sẽ, nhà Ân gọi là thêm phúc bình an. Nhà Chu gọi là lạp, lễ cuối năm. Sách Lễ Ký cho rằng: Thiên Tử cúng đại lễ. Đại trá, bát y, đó cứu giúp thần dân nghèo. Ban đầu là trá, một năm mười hai tháng, mà tụ hợp vạn vật để mà nuôi dưỡng, cho ăn. Xưa nay Chánh Tự cho rằng: Bát trá đó tác tức sợi dây lớn, tức cúng tế cuối năm, từ bộ thị thanh tích Bổn tập viết trá cũng thông dụng.

Quyệt cuồng âm quyến huyệt Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: quyệt là dối trá. Sách Phương Ngôn cho rằng: từ quan ải mà đến Đông Tây hoặc gọi là dối trá, là quyệt sách Thuyết Văn nói: quyền biến dối trá. Mạnh Hương cho rằng: lừa dối khinh khi thiên hạ gọi là quyệt, chữ viết từ bộ ngôn thanh duật âm duật ngược lại duật.

Thư chi âm vong dư sách Trang Tử nói: loài khỉ cùng với loài vượn giao nhau. Quảng Nhã cho rằng: thư là loài khỉ, sách Thuyết Văn nói: thư thuộc loài vượn chữ viết từ bộ khuyển thanh thư.

Bề bất âm phi bế sách Nhĩ Nhã cho rằng: phê là phối hợp. Sách Thuyết Văn nói: từ bộ nữ thanh bề. Âm bề ngược lại âm bổ tề Bổn tập viết từ bộ côn viết thành chữ bề chẳng phải.

Đán phi âm đàn đạt Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Đăn là mê hoặc Trụ Vương. Trụ Vương tin dùng. Sách Khảo Thanh nói: vợ vua Trụ, chữ viết từ bộ nữ.

Lý sừ ngược lại âm giả chủ Quảng Nhã cho rằng: Sừ là căng ra. Cố Dã Vương cho rằng: Thư thả, sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thủ thanh lự Bổn tập viết chữ sừ tục tự thường hay dùng.

Bà bà ngược lại âm bổ hà sách Khảo Thanh cho rằng: Bà là bà cụ tóc trắng phau. Sách Thuyết Văn cho rằng: Người già tóc trắng chữ viết từ bộ bạch thanh bà (916)

Hà điều âm trên hà cố Cố Dã Vương cho rằng: Hà là cõng vác nhận gánh vác trách nhiệm. Âm dưới điều liễu Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Điều là dụng cụ cắt cỏ. Sách Thuyết Văn nói: Đều từ bộ thảo đều thanh hà điều.

Điều đăng âm trên lơi liễu âm dưới đăng rang Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điều là cây trúc nhỏ, đăng là cây trúc lớn. Trừ ra chỗ có nước còn thì mọc cùng khắp. Sách Thuyết Văn đăng có thể làm gậy. Điều là cây trúc nhỏ có thể làm mũi tên, đều từ bộ trúc đều thanh thúc đăng sách Khảo Thanh cho rằng: điều viết đúng là chữ điều.

Lam di âm xướng lễ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Di là cỏ thơm. Sách Khảo Thanh cho rằng: Giống như lan. Lại còn gọi là hiêu sách Thuyết Văn nói: Nước Sở gọi là ly. Tấn gọi là hương ngược âm hương yêu âm di là âm di.

Chi khuých ngược âm khuynh dịch Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Khuých gọi là đến nơi tự ẩn giấu thâm sâu vắng vẻ không có người. Bì Thương cho rằng: Yên tĩnh sách Thuyết Văn nói: Từ bộ môn âm khuynh là âm quynh dịch Bổn tập viết từ bộ cụ viết thành chữ khuých là sai.

Mao tường âm tương dương xưa nay chánh tự giải thích tường là người phụ nữ làm quan. Chữ viết từ bộ nữ thanh tường Bổn tập viết chữ tường tục dùng thông dụng. Âm tường đồng với âm trên.

Nhai sài âm trên nhai giải âm dưới sài giới Quảng Nhã cho rằng: Nhai là chia cắt, phân tán, nứt ra. Cố Dã Vương nói rằng: Gọi là phẫn nộ, giận dữ. Sách Sử Ký nói: Gọi oán hận tất phải oán thù. Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ mục đều thanh nhai thử Bổn tập viết từ bộ sài viết thành chữ nhai là sai.

Như gian hưởng ngược lại âm gian nhạn sách Nhĩ Nhã nói rằng: Sơn hợp với thủy gọi là gian âm dưới hương lượng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điềm kiết hung báo trước ứng thành tiếng. Bổn tập viết từ bộ sơn viết thành chữ gian là sai tự thư nói: đều không có chữ này.

Trọng nhĩ âm trắc kỹ sách Nhĩ Nhã nói: Thêu thùa, may vá. Quách Phác chú giải rằng: Thêu vào áo. Quảng Nhã nói: Xỏ chỉ may bên trong, nạp chỉ vào. Sách Thuyết Văn nói: Sợi chỉ xâu vào kim thêu. Hoặc là viết tự bộ trĩ đến bộ trĩ bộ hoa thanh tĩnh âm hoa âm sĩ giác âm trật là âm dật Bổn tập viết từ bộ nhĩ viết thành chữ nhĩ là viết sai.

Nhứt cù ngược lại âm cục câu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cù là gầy ốm yếu đuối. Quách Phác chú giải rằng: Người nước Tề gọi gầy ốm là sưu, sách Thuyết Văn cho rằng: Chỗ thiếu thịt từ bộ nhục thanh cụ âm tích ngược lại âm tình diệc hoặc là viết chữ cụ Bổn tập viết từ bộ tật viết thành chữ cụ là sai

Hoa đà âm đạt hà xưa người tên Thiệu Khải.

Thân ẩu âm trên thất chân Cố Dã Vương nói rằng: Thân đó thẳng ra không có cong lại được. Bì Thương cho rằng: Từ từ khai mở ra chuỗi ra. Quảng Nhã cho rằng: Thẳng ra, âm dưới vu vũ sách Khảo Thanh cho rằng: cong lại. Sách Thuyết Văn đều từ bộ nhân đều thanh thân ẩu bổn tập viết chữ thân cũng thông dụng. Từ bộ tật viết thành chữ âu là sai. Đều không có chữ này.-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 15

Sĩ long âm trì nhĩ sách Khảo Thanh cho rằng: Cởi áo ra. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Buông thả áo. Sách Thuyết Văn cho rằng: Cởi áo từ bộ sĩ thanh sĩ là âm kỳ. Sĩ hạt âm thúc tể sách Thuyết Văn cho rằng: Sĩ là giày dép; hoặc là viết chữ sĩ hoặc là viết chữ sĩ là giày da. Bổn tập viết từ bộ thảo viết bộ trúc viết thành chữ sĩ đó đều chẳng phải.

Tình quý ngược lại âm quý lý sách Khảo Thanh cho rằng: Trong lòng kinh động. Sách Thuyết Văn nói: Trong lòng rung động. Từ bộ tâm thanh quý hoặc từ bộ tật viết thành chữ quý.

Lệ phù ngược lại âm phù vị Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Phù là ánh sáng. Hạo hạo như mặt trời, chiếu sáng.

Úy hữu âm vẫn vật sách Khảo Thanh cho rằng: cây cỏ chằng chịt.

Văn Tự Điển nói: sum suê, từ bộ thảo thanh úy.

Thiên giai âm giới hài Mao Thi Truyện nói: Giai là ở xa nghe tiếng hòa nhạc vọng lạ. Lại gọi là giai giống như tiếng khua leng keng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu cũng là thanh giai.

Trĩ thao âm trên chỉ trĩ cũng viết chữ để trước đã giải thích rồi. Bổn tập viết chữ để tục dùng thông dụng âm dưới thảo táo Cố Dã Vương cho rằng: nắm giữ ý chí bền chắc gọi là tháo sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh táo âm thao ngược lại âm tiên đáo.

Uy nhuy âm trên ủy quy âm dưới nhuy lũy sách Thuyết Văn nói: uy là loài thảo mộc. Hoa là sum xuê, là nhụy của hoa. Chữ viết đều từ bộ thảo thanh uy nhuy âm nhuy ngược lại âm nữ lũy bổn tập viết chữ nhụy Ngọc Thiện nói: không có chữ này.

Mân dao âm trên mật sân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: mân đá giống như ngọc vậy, hoặc là viết từ bộ mãn Bổn tập viết từ bộ mục viết thành chữ miên là sai. Âm dưới diệu chiếu Mao Thi Truyện nói: dao là ngọc đẹp. Sách Thuyết Văn nói: Đá đẹp. Bổn tập viết từ bộ mật viết thành chữ dao âm trắc giảo sách viết sai.

Phiêu miểu âm trên phiêu miểu sách Thuyết Văn nói: phiêu là tơ lụa màu xanh nhạc. Âm dưới diệu tiểu Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Nhìn xa một bên mắt nhắm lại. Tức là chột mắt. Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Miểu là cao. Sách Thuyết Văn nói: chữ viết từ bộ mục thanh thiếu

Bàn vu âm trên bán quan Vương Dật chú giải sách Chu Dịch rằng: Bàn là xếp đá trên núi. Thanh Loại cho rằng: Loại lớn sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh bàn âm dưới du vu

Vị trung âm ly chí Mao Thi Truyện cho rằng: Vị là đến. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh vị

Ương úy âm a lang tự thư ương là không sáng tỏ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thực thanh ương

Hiệt ngoan âm trên hiền kiết âm dưới hàng lăng Thanh Loại giải thích hiệt ngoan là bay lên, bay xuống. Mao Thi Truyện: Bay lên gọi hiệt bay xuống gọi là ngoan ý nói: đối chọi nhau. Hiệt hoặc là viết chữ ngoan hoặc là viết chữ ngoan đều thông dụng.

Đầu hãn âm hàn đản hiệu Bồ-tát.

Tích vẫn âm vân mãn sách Nhĩ Thất cho rằng: Vẫn là rơi rụng xuống. Sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh vận Bổn tập viết chữ vẩn tục dùng thông dụng.

Cao ngung âm ngộ câu.

Nhứt quý âm đạt quý Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ rằng: Quý là cái sọt đựng đất. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh quý Bổn tập viết từ bộ thảo viết thành chữ quý cũng thông dụng.

Phòng lung âm lộc đông Thiên Thương Hiệt nói: Lung là hàng rào. Quảng Nhã cho rằng: Hàng rào cửa sổ trong nhà. Sách Thuyết Văn gọi là cửa sổ phòng nhà. Chữ viết từ bộ mộc thanh long Bổn tập viết chữ lung gọi là nhà cao chẳng phải nghĩa này.

Luân tư âm tức dư sách Vận Lược cho rằng: Tư là chìm đắm. Văn Tự Điển nói: Từ bộ thủy thanh tư Bổn tập viết chữ tư tục dùng thông dụng.

Lý nục âm an lục Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Trong lòng cảm thấy xấu hổ gọi là nục Sách Thuyết Văn cũng gọi là xấu hổ. Từ bộ tâm thanh nhi.

Mậu huyện âm mâu hầu Hán Thư cho rằng: Tên huyện hội khể.

Sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh mậu.

Cơ chích âm chinh diệc sách Vận Lược nói: Chích cũng là cơ tức là căn bản, nền móng.

Cao mai âm khô hoại tên người.

Phu tải âm phó vu Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký: Phu là mu bàn chân trên, hoặc là viết chữ phụ.

Ao cũ âm ô giao sách Khảo Thanh nói: Ao là nắm lôi kéo.

Duy sở ngược lại âm sơ cử Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Người nước Sở gọi đá kê chân cột là sở sách Thuyết Văn viết từ bộ thạch thanh sở âm tuân ngược lại âm tư tuấn lại cũng viết chữ tuân.

Phong quý ngược lại âm phụng khách sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của loại rau đá Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giữa Đời Đông Tống gọi dây bó lan là phong cũng là củ cải. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh phong.

Quyết lộ âm quyến luyệt Cố Dã Vương nói: Là dòng nước chảy xiết. Sách Thuyết Văn nói: Chữ viết từ bộ thủy thanh duật âm duật là âm cự duật.

Ngọc đế âm đê dĩnh sách Khảo Thanh cho rằng: Đế và cuống của trái cây và cuống lá, chỗ kết bối với nhau. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh đối.

Bát diên âm diễn chiên sách Hán Thư Âm Nghĩa nói: diên là đất ngoài biên giới nhỏ hẹp. Xưa nay chánh tự cho rằng: vùng ven. Từ bộ thổ thanh diên.

Triển nhi âm nữ triển Tư Mã Bưu chú giải sách Trang Tử rằng: Triển là giẫm đạp lên. Xưa nay chánh tự cho rằng: từ bộ túc thanh triển.

Mạc điệt âm điền kiết Quảng Nhã cho rằng: Điệt là cắn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh du.

Để ngọc âm chi để sách Khảo Thanh nói: Để là ném, quăng ra xa.

Sách Thuyết Văn nói: đánh. Từ bộ thủ thanh để.

Đông đôn âm thổ đôn sách sở từ nói rằng: Đôn là mặt trời mới mọc ở phương Đông. Vương Dật chú giải rằng: Mặt trời mới vừa mọc. Hình tròn và đầy đặn, dày, to lớn, hoặc từ bộ đôn viết thành chữ đồn

Tây yểm âm yểm kiêm Trịnh Huyền chú giải sách

Lễ Ký rằng: Yểm giống như che dấu, ẩn náu kín, hoặc là viết chữ yểm lại viết chữ yểm đều đồng thông dụng.

Quái nhục âm nhu chúc sách Khảo Thanh cho rằng: Nhục là màu sắc đậm. Sách Thuyết Văn gọi là nhiều màu sắc trang sức, từ bộ mịch thanh nhục.

Đê kỵ âm đệ nê Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Đê là màu sắc nguyên đậm. Sách Thuyết Văn gọi là màu trắng, đỏ, vàng, trơn cợn. Chữ viết từ bộ mịch thanh thị âm nguyên là thuyên tuyển âm dưới là kỵ Bổn tập viết chữ kỵ này tục tự thường hay dùng.

Thư trá âm thất dư Hán Thư nói rằng: Xe binh mã chạy nhanh, cũng thường lừa bịp, dối trá. Thiên Thương Hiệt nói: Thư là hầu hạ gọi là hầu cận gần gũi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khuyển thanh thư.

Hạp tử âm khẩu hạp sách Sở Từ nói rằng: Âm thầm chết trong dòng nước. Vương Dật chú giải rằng: Hạp giống như chìm trong nước. Xưa nay chánh tự viết từ nộ thủy thanh hạp chữ hạp viết đúng từ bộ đại tới bộ khứ viết thành chữ hạp tục tự thường dùng.

Tây yểm âm yểm kiểm Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Yểm là tên núi yểm tự; dưới có hào có nước; bên trong có hào sâu. Là chỗ đi vào hoặc là viết chữ tư yểm.

Chiêm nguy ngược lại âm dư kiêm sách Khảo Thanh cho rằng: Đến bên vách núi; sách Sở Từ cho rằng: thân cheo leo nguy hiểm sắp chết. Vương Dật chú giải rằng: Cũng nguy hiểm chữ viết từ bộ phụ thanh chiêm Bổn tập viết chữ diêm này tục dùng thông dụng. Đã lưu hành lâu rồi, không thể sửa đổi nên nay lại thông dụng.

Thiêu thiện âm trên thiêu điêu âm dưới thiền xiển Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quét đất làm trừ bụi đất gọi là thiện sách Khảo Thanh cho rằng: Thiền là trừ bụi làm chỗ cúng tế sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh thiền.

Ai nhiên âm ai đại sách Lễ Ký nói rằng: Đi vào trong nhà tất nhiên nhìn thấy vị trí nơi người ngồi. Sách Thuyết Văn nói rằng: Phảng phất chữ viết từ bộ nhân thanh ái.

Đề xí âm trên đệ nê tập trước đã giải thích rồi. Chữ viết từ bộ xích viết thành chữ đề âm trì nhĩ sách Thuyết Văn nói: Là hành lễ. E rằng: chẳng phải nghĩa này âm dưới xương chí Quảng Nhã cho rằng: Xí là phan, lọng cờ xí. Sách Thuyết Văn viết từ bộ câu

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 16

Xi vãng âm xỉ chỉ sách Thuyết Văn nói: Xi là cười chế diễu. Chữ viết từ bộ khẩu thanh xi Bổn tập viết từ bộ trùng viết thành chữ xi là sai tự thư nói: không có chữ này. (917)

Cố tiệp âm tiềm diệp tên người.

Thiêm vu âm diệp chiêm Văn Tự Tập Lược nói: Trước và sau nhà có mái hiên rủ xuống. Hoặc là viết chữ thiêm lại cũng có từ bộ trúc viết thành chữ thiềm.

Nữu dương âm nữ cửu sách Vận Âm Tập Lược nói: Tên cây nữu. Chuẩn Tập Văn nói: Nữu dương tức là từ dưới đất mọc lên cây đồng. Sách Thuyết Văn cho rằng: Tên đất địa danh. Chữ nữu từ bộ ấp viết thành chữ nữu chưa rõ nghĩa chữ này.

Tiêu nhĩ âm phiêu diêu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cuồng phong gió bão, từ dưới xoáy lên trên sách Thi Tử nói: Bao phong đồi tiểu. Gió cuốn dữ dội. Sách Thuyết Văn nói: Gió thổi ống đồng lửa cháy phừng phừng. Chữ viết từ bộ phong thanh tiêu sách Nhĩ Nhã nói: Cũng viết chữ tiêu này.

Dược tiêu âm lôi diệu sách Phương Ngôn nói rằng: Bao kiếm. Quan Đông gọi là bao đựng kiếm là tiêu Quan Tây gọi bao đựng kiếm là đệ Cố Dã Vương nói: Chỗ chứa đựng cất dấu đao kiếm. Sách Khảo Thanh cho rằng: Bao đựng đao kiếm; hoặc viết từ bộ vi viết thành chữ tiêu hoặc viết từ bộ đao viết thành chữ tiêu đều thông dụng, âm bệ âm bích danh âm minh là âm minh tinh.

Phân hương âm duật mãn tên người.

Sùng manh âm mạch manh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Manh là cái mè đóng trên rui nhà để móc ngói. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngã đến bộ manh thanh tĩnh âm manh ngược lại bách manh.

Điểu kỳ âm cật để sách Phương Ngôn cho rằng: Kỳ là dáng đi vùn vụt, đi nhanh. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh ký.

Khiên xiêm âm trên khương ngôn sách Khảo Thanh cho rằng: Khiên là vén áo lên, âm dưới đê chiêm Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Xiêm cái mui xe, màn trên xe. Bì Thương cho rằng: Viết chữ xiêm Thanh Loại viết chữ chiêm đều thông dụng.

Kỳ lộ âm trên cự ky Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Kỳ là thuộc về ngọc. Âm dưới lô đố Vương

Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Lưu ly thuộc ngọc đẹp.

Sách Thuyết Văn đều viết từ bộ ngọc đều thanh kỳ lộ hoặc là viết chữ kỳ.

Chân tường âm y chân Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chân là rơi xuống, chìm đắm. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh chân Bổn tập viết từ bộ phụ viết thanh chữ chân là sai.

Ngạn nghiển âm ngôn yển Mao Thi Truyện chú giải rằng: Núi nhỏ nằm trên núi lớn. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Núi hình như liên kết hai quả núi nằm cạnh nhau. Xưa nay chánh tự viết từ bộ sơn thanh nghiên.

Du vịnh âm vinh mệnh sách Khảo Thanh cho rằng: Lục là nước có màu sắc trong. Nước trong. Bổn tập viết từ bộ thảo viết thành chữ lục là sai tự thư không có chữ này.

Chiên hương âm chiến diên sách Khảo Thanh nói: Tên cây chiên đàn có mùi thơm. Bổn tập viết chữ chiên âm sách lại nữa bổn tập khác viết chữ nham âm là nam đều chẳng phải nghĩa cây có mùi thơm.

Trụ hãn âm trên chu chú âm dưới hư hạn Hán Thư Âm Nghĩa giải thích cái nơm bắt cá. Sách Thuyết Văn viết từ bộ võng thanh can võng là chữ cổ.

Đình tất âm tân mật Mao Thi Truyện nói: Tất là đè xuống; giăng lưới bắt, tất hoặc là viết chữ tất Bổn tập viết từ bộ túc viết thành chữ tất Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Tất là ngăn cấm đường; chẳng phải nghĩa giăng lưới.

Long oa âm ô qua sách Thuyết Văn nói: Oa là nghiêm xuống, xấu xa, lười biếng. Chữ viết từ bộ luyệt thanh qua hoặc là viết chữ oa Bổn tập viết chữ du âm du chú chẳng phải nghĩa này.

U ly âm sĩ ly sách Thuyết Văn nói: Ly là thư thả, thoải mái, hoặc là viết chữ cầm

Thành nhân âm nhứt chân Mao Thi Truyện nói: Nhân là góc thành. Sách Thuyết Văn nói: Góc thành có nhiều lớp cửa, chữ viết từ bộ môn thanh nhân.

Đồng vân âm độc đông Quảng Nhã nói: Đồng là mây màu đỏ, sách Thuyết Văn viết từ bộ chu đến bộ sam vẽ tượng hình sắc mây.

Hoài sĩ âm sự sử Mao Thi Truyện nói: Sĩ là bến nước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh sĩ.

Ai ái âm ai đại Quảng Nhã nói: ái ái là sum sê rậm rạp. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngôn thanh cát Bổn tập viết từ bộ ngôn đến bộ ái viết thành chữ ái là sai.

Vô vô âm vô bổ Mao Thi Truyện nói: Vô vô là xinh đẹp. Hàn Thi Truyện hoặc là viết chữ mưu.

Tập huệ âm thật lập theo Tả Truyện nói: Thúc tôn tuy ở tranh vách đất nhưng cũng giữ được khí khái. Văn Tự Điển nói: Tập là cỏ mao lợp nhà, thêm vào cho dày. Chữ viết từ bộ thảo thanh tập Bổn tập viết từ bộ thảo tục dùng thông dụng.

Kiều manh âm trên là kiều sách Nhĩ Nhã nói: Núi nhọn mà cao gọi là kiêu Quách Phác chú giải rằng: Núi cao nguy hiểm. Thích Danh giải thích giống như cây cầu. Xưa nay chánh tự viết từ bộ sơn thanh kiều Bổn tập viết chữ kiều tục dùng thông dụng, lại cũng viết chữ kiều âm dưới mạch canh quyển đầu đã giải thích rồi.

Bồng thác âm thang lạc Mao Thi Truyện nói: Tháng mười lá của cây cối rơi xuống. Theo Truyện nói: Thiền lạc, rơi rụng, lại nói: như rơm rạ Trịnh Tiễn nói: Như lá cau theo gió rơi rụng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh phác.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 17

Cộng đổ âm đo lỗ Quảng Nhã nói: Đổ là nhìn. Sách Thuyết Văn nói: Nhìn thấy, văn cổ viết chữ đổ.

Chấp đĩnh âm dương đĩnh sách Lễ Ký nói rằng: vua cầm cái hốt vuông vào trong thiên hạ. Trịnh Huyền chú giải rằng: Đây là cái hốt. Sách Thuyết Văn: Ngọc khuê lớn ba trượng. Chữ viết từ bộ ngọc thanh đĩnh âm đĩnh ngược lại âm thích định.

Ngân uyển Âm ô quan hoặc là viết chữ uyển Thanh Loại lại viết chữ uyển.

Tặng hiện âm yêu điển Văn Tự Điển nói: Giống như con sò mà nhỏ hơn hoặc là viết chữ hiển âm yêu hiện.

Thiết áp âm thao giáp Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Áp là tổn hại. Sách Thuyết Văn nói: Hủ hoại, từ bộ thổ thanh áp Bổn tập viết từ bộ huyệt viết thành chữ áp sách Thuyết Văn nói: Nghĩa đâm vào huyệt mạch. Chẳng phải nghĩa trấn áp.

Tịnh thao âm thảo đao danh tăng.

Bàn khuất âm bạt hàn Cố Dã Vương nói: Bàn là uyển chuyển, quanh co vòng vèo, uốn khúc. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh bàn âm bạt ngược lại âm bổ mạt.

Phú chiêu âm chiếu diệu Quảng Thất giải chiếu sáng. Thiên Thương Hiệt nói: Đèn thắp sáng. Hoặc là viết chữ chiếu.

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 18

Thư xuân thảo âm trên dật dữ Thiên Thương Hiệt giải thích thư là bú mớm, nhai. Theo Thanh Loại hoặc là viết từ bộ xỉ viết thành chữ thư âm tiểu ngược lại âm tiều tiếu.

Kháp tĩnh âm trên là kháp Quảng Thất nói: Kháp là cái hầm. Sách Thuyết Văn nói: kháp là giếng nhỏ, từ bộ nhân ở trong bộ cữu chữ tượng hình. Bổn tập viết từ bộ phu viết thành chữ kháp nghĩa là từ trên cao mà rơi xuống chẳng phải nghĩa của cái giếng. Âm dưới tình tính sách Thuyết Văn nói: Tĩnh cũng là cái hầm từ bộ huyệt thanh tĩnh sách Khảo Thanh viết chữ tĩnh Bổn tập viết từ bộ huyệt viết thành chữ tĩnh tục dùng thông dụng âm tàn là âm tàn.

Giám năng âm giáp sám Quảng Thất giải thích giám là chiếu soi. Sách Khảo Thanh nói: Ban đêm lấy ánh trăng: chiếu soi liền thấy đáy nước. Sách Thuyết Văn nói: Giám là các chỗ ánh sáng mặt nước có trăng: soi. Chữ viết từ bộ kim thanh giám âm lam là âm công lãm Bổn tập viết chữ lam cũng thông dụng. Khảo Thanh hoặc là viết chữ giám.

Trình thô âm thố thô Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thô là còn to lớn, chữ mượn âm viết đúng chữ thô tục thường viết chữ thô.

Dị triệt âm triền liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là vết bánh xe, sách Thuyết Văn viết từ bộ xa đến bộ thanh tĩnh Bổn tập viết từ bộ túc viết thành chữ triệt là sai.

Tạo tất âm trên thảo táo âm dưới tân tật Hiếu kinh nói: nuôi dưỡng song thân phải quỳ dưới gối. Sách Thuyết Văn viết chữ tất từ bộ ấp thanh tất âm tất là âm thất Bổn tập viết chữ tất là không thành chữ.

Kiêu trở âm trên cự kiêu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Kiêu là núi cao. Âm dưới trắc lữ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Thất rằng: trở là nguy hiểm khó khăn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh thử Bổn tập viết từ bộ sơn viết thành chữ thư là sai.

Mặc dĩ âm mi bắc Cố Dã Vương nói: mặc là không nói:. Xưa nay chánh tự viết từ bộ khẩu thanh mặc

Tãn tư âm tức lữ tên người. Chích quả âm hoa ngõa. Liên hoàn âm trên liệt chiên Quảng Thất nói: liên tục tiếp nối. Sách Thuyết Văn nói: liên cũng là liên hoặc là viết chữ liên âm hoạn quan Trịnh Chúng chú giải sách Chu Dịch rằng: hoàn là xoay vòng tròn. Sách Thuyết Văn nói: vòng ngọc. Từ bộ ngọc thanh hoàn âm viên âm cự vinh.

Diễm tháo âm viêm chiêm Hán Thư nói rằng: diễm là đẹp đẽ sáng chói phía trước. Cố Dã Vương nói: diễm giống như đẹp đẽ muôn màu sắc rực rỡ. Văn Tự Điển nói: từ bộ thủ thanh diêm.

Canh ký âm trên cánh hạnh âm dưới cai ngại Tiết Tông chú giải Đông Kinh Phú Truyện rằng: canh ký giống như không liên tục mật thiết với nhau. Sách Thuyết Văn đều từ bộ mộc đều thanh canh ký âm cai là âm cư ai âm tiệm là âm tư liêm.

La cốc âm hồng cốc Thích Danh giải thích cốc là loại tơ sợi. Sách Thuyết Văn cho rằng: viết từ bộ mịch âm xác ngược lại âm khổ giác.

Châu khải âm ngại ký Vương mông âm mộc đông. Vương mật âm di tất ba đều tên người.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 19

Luân vụ âm vô phó Quảng Thất giải thích vụ là ngựa chạy mau.

Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh vụ âm vụ là âm vũ.

Xuân vĩ âm vi quỹ sách Khảo Thanh cho rằng: tên loại cá, đến tháng trọng xuân. Tự chết trong hang, rồng đến cửa hang mà ăn thịt. Sách Chu Lễ nói: loại cá này đến mùa xuân là hiến cho vua. Quách Phác chú giải Kim Sơn Hải rằng: loài cá vĩ tức là cá chiên, giống như con lươn dài sáu đến bảy thước. Lại chú giải sách Nhĩ Thất rằng: con lươn to lớn, cái miệng dưới hàm không vảy, da thịt màu vàng, lớn đó Bao Hàm chú giải sách Luận Ngữ Trượng. Ở Giang Đông gọi là cá vàng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngư thanh hữu âm diêm ngược lại âm triết liên.

Khải thế âm dương chế Văn Tự Tập Lược nói rằng: Thế thuộc mái chèo. Xưa nay chánh tự viết từ bộ thủ thanh thế âm thế là âm thế. Đồng tiêu âm bỉ kiêu Văn Tự Tập Lược nói: dây cương buộc ngựa.

Sách Thuyết Văn cũng nói: Thiết hàm ngựa từ bộ kim thanh tiêu âm tiêu ngược lại âm bạc giao Bổn tập viết từ bộ mã viết thành chữ tiêu âm lộc gọi là con ngựa hoang dã, chẳng phải nghĩa này.

Phân vẫn âm trên phẫn văn âm dưới uất vân Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Vẫn phân là nhiều tràn đầy. Tả Tư Thục Đô Phú Truyện nói: Uất phân vẫn là lấy cái tinh tủy nhỏ nhất. Trương Tiễn chú giải rằng: Mùi thơm lan tràn. Xưa nay chánh tự đều từ bộ thảo đều thanh phân vẫn.

Chiêu tích âm chi triết Mao Thi Truyện nói: Tích là sáng rõ ràng.

Hoặc là viết chữ triết.

Thật mỏi âm mỏi Nhĩ Thất giải thích mỏi là bệnh. Xưa nay chánh tự viết từ bộ tật thanh mỏi.

Tảng mã âm phú lãng sách Khảo Thanh nói rằng: Là nay người ta gọi là kẻ mối lái ở chợ, dân cò mồi. Sách Lã Thị Xuân Thu nói: Cây hà cam thời Tấn Quốc gọi ngựa hay. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mã thanh thu âm thư âm tức dư.

Truy kỳ âm trắc cơ Mao Thi Truyện nói: Truy là màu sắc đen. Sách Thuyết Văn nói: áo trắng nhuộm màu đen, từ bộ mịch thanh truy Bổn tập viết từ bộ thủy viết thành chữ truy là tên của dòng sông ở đất Tề đã giải thích rồi, âm dưới đều đồng.

Trùng nhuyễn âm duyệt thuế xưa nay chánh tự nói rằng: nhuyễn là nhỏ bé, phàm cọng cỏ mới bắt đầu mọc gọi là nhuyễn là mầm mới bắt nhô lên nhọn nhọn, chữ viết từ bộ thảo thanh nhuyễn âm nhuyễn âm duyên hoạt.

Chiêm hào âm hạo cao trước đã giải thích rồi.

Ky hoàng âm hồ quang Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Nửa viên ngọc gọi là hoàng giống như mùa đông đóng cửa dấu kín, trên thành không có việc gì chỉ thấy có nửa bầu trời. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh hoàng 918.

Chung võng âm xúc chung Quách Phác chú giải rằng: Chung là nay người ta gọi là phên xe. Hàn Thi Truyện nói rằng: Dưới lên trùm lên xe gọi là chung sách Thuyết Văn viết từ bộ võng thanh chung.

Vô triền âm triệt liên Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Triền giống như là đạp, giẫm lên. Lại chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chỗ chân giẫm đạp lên. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh triền.

Viện tây âm việt nguyên Mao Thi Truyện nói: Viện là dựa theo, nơi chốn sách Thuyết Văn nói: Viện là nơi chốn, chỗ ở của kẻ sĩ, người giao dịch gọi là viện; hoặc là viết từ bộ thụ đến bộ cam viết thành chữ viện âm viện ngược lại âm bình viên.

Di tại âm dị chi Thiên Thương Hiệt nói: Di là dời đổi, di chuyển. Sách Thuyết Văn nói: Chuyển đổi đi nơi khác. Hoặc là viết từ bộ hòa viết thành chữ di nghĩa cũng đồng.

Ủng trữu âm chu thủ thế bổn thiếu khang viết chữ cơ trữu Tống Trung giải thích thiếu khang sau đời nhà Hạ tổ tiên con cháu, tức là Đỗ Khàn, chết lâu rồi Cố Dã Vương cho rằng: Chỗ quét trừ dơ uế, phân dơ. Sách Thuyết Văn từ bộ hưu tức tay nắm cầm, khăn, chổi, lau quét bên trong cửa.

Dũ nhục âm trên du chủ Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn cho rằng: Du là lợi ích. Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Vượt trội hơn. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ tâm thanh du âm dưới nhu chúc sách Khảo Thanh giải thích tơ lụa màu sắc đậm. Sách Thuyết Văn trang sức nhiều màu sắc từ bộ mịch thanh nhục.

Túy dung âm tuy túy Cố Dã Vương cho rằng: Túy là trong sáng, là hòa dịu hiện ra nét mặt, nét mặt tươi sáng nhuận trạch. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh túy. Hình sơn âm kính kinh âm kính ngược lại âm hình đĩnh.

Chiếm nhiếp âm chiêm diệp Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Nhiếp là phục. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nhiếp giống như khiếp sợ. Nhĩ Nhã nói: lo sợ, hoặc là viết chữ nhiếp lại cũng viết chữ chiếp. Lâu lâu âm sắc hầu sách Thuyết Văn lâu là kính cẩn từ bộ tâm thanh lũ Bổn tập viết chữ lâu tục tự thường hay dùng.

Yết điểu âm đốc nghiệt Cố Dã Vương giải thích yết là cảm nắng, trúng nắng; lo buồn sầu muộn muốn chết đi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhựt thanh yết

Luân y âm ư nghi Mao Thi Truyện nói rằng: Y là từng đợt sóng lăn tăn, gợn sóng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh y.

Tựu liệt âm liệt trệ sách Khảo Thanh cho rằng: Đường lộ phía trước xe giá sạch sẽ. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ngăn che, loạng choạng, xiêu vẹo. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tẩu thanh liệt.

Khải kích âm hề lễ sách Khảo Thanh cho rằng: Khải là mộc bài vật làm tin để đi qua cửa quan, bến cảng ngày xưa. Giống như chiếc kích, có cờ hiệu viết chữ trên, người sứ cầm để làm tin vi thiệu chú giải Hán Thư rằng: Khải cũng là kích, sách Thuyết Văn gọi là truyền tin, từ bộ mộc bộ khải thanh tĩnh.

Luân phất âm phân vật Thiên Thương Hiệt cho rằng: Phất là chậm rãi, thong thả, cũng là dây thao buộc ấn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh bạc âm bạc ngược lại âm bổ mạt.

Thực bảo âm bảo đạo sách Hán Thư nói: Làm cái lọng có cắm lông chim có năm màu sắc. Cố Dã Vương nói: Các lông chim tụ hợp lại có năm màu sắc gọi là bảo Văn Tự Điển nói: Cũng là cái lọng cắm lông chim. Hoặc là viết chữ bảo.

Mô bái âm mục bộ Quách Phác chú giải sách mục Thiên Tử Truyện rằng: Nay người nước Hồ lễ bái giơ tay lên đầu xưng Nam mô rồi lạy. Đó vậy sách Thuyết Văn viết từ bộ nhục thanh mạc.

Quan khiết âm trên loan bản Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Quan là xâu kết lại. Âm dưới khiên kiết Lưu Triệu chú giải Cốc Lương Truyện rằng: Khiết là đánh. Sách Thuyết Văn nói: khiết là cầm nắm tay treo lên. Từ bộ thủ thanh khiết Bổn tập viết chữ khế tục dùng thông dụng. Âm khiết ngược lại âm khang hiệt.

Ngung ngung âm ngọc cung Hoài Nam Tử nói: Mọi người không thể không hướng theo kính ngưỡng cái đức. Sách Thuyết Văn âm thanh hưởng ứng hòa theo. Từ bộ khẩu thanh ngung âm ngung là âm ngụ.

Ung nhân âm ủng hung Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Uy đó là ăn sáng lo chiều, thức ăn đã nấu chín. Chữ viết từ bộ thực thanh ung.

Vĩ thủy âm vị quỹ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sông Vĩ Thủy xuất phát từ huyện Lộc phía Đông nam đến bình nhân đĩnh. Hán Thư nói rằng: xuất phát từ Dương Thành phía Đông nam. Cố Dã Vương nói: Sóng trịnh thủy. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh hữu Bổn tập viết chữ vĩ tên con cá.

Mạnh tưu âm tần hầu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tháng giêng gọi là tưu sách Thuyết Văn viết từ bộ phụ thanh tụ Bổn tập viết chữ tưu tục dùng thông dụng.

Hành bội âm hạch canh Cố Dã Vương cho rằng: Hành là ngọc bội trên ngang lớn đeo trên. Sách Đại Đái Lễ nói: Ngọc bội trên có hai ngọc bội dưới có hai ngọc bội ngang màu vàng. Sách Thuyết Văn nói: Chỗ gọi là tiết hành chỉ từ bộ ngọc đến bộ hành.

Phiếm phiếm âm phục phong theo Tả Truyện nói: Tốt đẹp thay! Ung dung tự tại. Đỗ Dự chú giải rằng: Phiếm phiếm là ung dung tự tại. Hoặc là viết chữ phiếm này cũng thông dụng.

Tương phiêu âm trên tây dương Thích Danh giải thích rằng: Tương là lụa thô, vật thô màu sắc, sanh màu mỡ gà. Sách Khảo Thanh cho rằng: Màu vàng lợt, âm dưới phiêu miễu sách Thuyết Văn cho rằng: phiêu là lụa trắng xanh, đều từ bộ mịch đều thanh tương phiêu âm phiêu là âm tất tiêu.

Mạng cổn âm côn bổn Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cổn là áo màu đen huyền mà vẽ có vân. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cổn là áo có thêu hoa văn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ y thanh công âm phất ngược lại âm bổ vật âm dưới đồng.

Văn huy âm hủy vi sách Nhĩ Nhã cho rằng: Dựa theo sông lạc ở Nam Lạc có nhiều chim trĩ lông nó năm màu, đều trang bị thành chương mục. Sách Thuyết Văn viết từ bộ vũ thanh huy

Hà kiêm âm lực chiêm Cố Dã Vương cho rằng: Vua nắm chính sách có thái bình thì có sông hà kiêm. Biển di có điềm tốt lành. Sách Thuyết Văn nói: có nước bạc, chữ viết từ bộ thủy bộ liêm thanh tĩnh.

Nhược di âm dực chi Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn chú giải rằng: Ngọt như cam mật. Sách Thuyết Văn nói: Gạo nấu thành mạch nha. Từ bộ thực thanh di âm dịch âm tịch vinh âm nghiệt âm ngôn yết.

Ngọc cao âm cảo ao sách Trang Tử nói: Có khắc vào nước chỗ này là động cơ, sau đó là lớp trước nhẹ nhàng như lấy gươm khắc vào nước, như nước chảy. Nhẹ nhàng gọi là cao sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh cao cao từ bộ phong bộ bạch âm khiết âm kiên tiết Bì Thương nói: khiết cao là chỗ cấp nước. Bổn tập viết chữ cao chẳng phải nghĩa này.

Tợ minh âm minh bích sách Thuyết Văn nói: Minh là kiêu mạng xem thường từ bộ tâm thanh minh phàm từ bộ nhứt viết thành minh cũng thông dụng. Bổn tập viết chữ minh là sai.

Lõi các âm trên lõi tội âm dưới lang các Quách Phác chú giải Kim Sơn Hải rằng: Lõi các là đá lớn sách Thuyết Văn nói: Lõi là nhiều đá, hoặc là viết từ ba bộ thạch âm các từ bộ thạch.

Chi thâm âm xi lâm Mao Thi Truyện nói: Thâm là ngọc báu hoặc là viết từ bộ ngọc viết thành chữ thâm.

Thọ thần âm thần nhẫn Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Buổi sớm dùng thịt tế lễ trong tông miếu. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện lấy thịt nhiều tế lễ thần là cái mâm đựng thịt tế thần. Công Dương Truyện nói: Ngày sinh mặt trời lên nóng nhiệt gọi là phan sách Thuyết Văn viết từ bộ thị là âm phiền.

Yểm tì âm thử tư sách Nguyệt Lịnh nói: Yểm là chôn hài cốt, còn thịt thối rữa, thịt còn dính lại xương dư lại. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Tì là thịt xương người chết. Tì từ bộ cốt viết thành chữ tì lại viết chữ tì âm cách là âm cách Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Xương khô gọi là cách.

Lung tũng âm trên lục chung âm dưới tài khổng Bì Thương giải thích lung tũng là núi cao. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Lung tũng là núi cao, có từng lớp mây bủa vây. Sách Thuyết Văn: Đều từ bộ sơn thanh lung âm ông ngược lại âm ông chung.

Huyền hiệu âm hư kiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Tên của vì sao. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Huyền diệu hư không trống rỗng. Quách Phác chú giải rằng: Sao huyền hư ở đúng hướng bắc. Phương bắc màu sắc đen nói: giống như sao hư, chỉ ý. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh liệu.

Tiệt tiết âm trên tiền tiết âm dưới nghiên kiết Mao Thi Truyện nói: Đều từ bộ sơn đều thanh tiệt tiết tiệt hoặc là viết chữ tiệt hoặc là viết nghiệt Bổn tập viết chữ tiệt tục tức viết chữ này là chẳng phải.

Hoa suy âm sở quy sách Nhĩ Nhã nói: Rui nhà gọi là suy Quách Phác chú giải rằng: tức là rui nhà. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh suy.

Uyển thùy âm miễn viện xưa nay chánh tự giải thích uyển là rồng uốn khúc, chữ viết từ bộ trùng thanh uyển. Nhiêu lưu âm lưu trụ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Tông miếu gọi là lưu. Quách Phác cho rằng: Nhà lớn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nghiễm thanh lưu âm tông là âm vong sách Khảo Thanh cho rằng: Trụ cột nhà lớn. Bổn tập viết chữ lưu.

Khám đối âm trên đàm cảm âm dưới đồ đối Văn Tự Tập Lược nói: Khãm là màu đen, gọi là mây đen vây phủ. Sách Thuyết Văn: Kham từ bộ hắc thanh kham đối từ bộ vũ.

Thứ phi âm thử lợi Phục Kiền giải thích Hán Thư rằng: Thời nhà Chu người ta vượt qua sông bằng thuyền, dưới vác chiếc thuyền là vị tướng, che phủ bay vào nước giết hết loài thủy tặc. Bởi vậy nên phong làm quan là người có tài và sức lực. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh thứ.

Lân lân âm lực trần Mao Thi Truyện nói: Lân lân là tiếng nhiều chiếc xe hợp vọng lại. Xưa nay chánh tự viết từ bộ xa thanh lân.

Cổ thối âm thôi túy Quách Phác chú giải sách

Thượng Lâm Phú rằng: Thối là nước sâu. Văn Tự Điển nói: Từ bộ thủy thanh túy.

Yêu ma âm trên đạp nhiêu âm dưới ma bã sách Khảo Thanh cho rằng: Yêu ma là chút xíu nhỏ nhít. Hán Thư cho rằng: Tẩy rửa lâu rồi, yêu ma là không kịp đếm chữ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Yêu là nhỏ giống như đứa con tượng hình bắt đầu sinh ra, chữ viết từ bộ yêu thanh ma.

Kỳ thang âm thác lang Trịnh Huyền chú giải sách Thượng Thư Đại Truyện cho rằng: Thang là cái phèn la đánh vào nghe tiếng rất lớn. Bì Thương cho rằng: đánh nghe tiếng lớn, sách Thuyết Văn cũng cho rằng: Tiếng lớn. Hoặc là viết từ bộ chú âm chú là âm chú viết thành chữ chú lại từ bộ cổ viết thành chữ thang Tự Lâm hoặc là viết chữ thăng âm vận đều đồng.

Trụ tất âm tân mật sách Thuyết Văn cho rằng: Viết đúng hoặc từ bộ túc viết thành chữ tất tự thư hoặc là viết chữ tất.

Hy dương âm hư nghi Mao Thi Truyện cho rằng: Hy là quang minh sáng suốt. Hoặc là viết chữ hỷ lại cũng viết chữ hy Bổn tập viết chữ hy đều thông dụng.

Duyên phu âm phó câu Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Phu là mu bàn chân trên. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh phu.

Tiện quyên âm trên tỳ miên âm dưới nhứt duyên Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Tiện quyên là người con gái xinh đẹp. Xưa nay chánh tự viết từ bộ nữ thanh quyên âm quyên là âm nhứt huyền.

Kiết ngoạn âm trên hiền kiết âm dưới hàng lãng Mao Thi Truyện cho rằng: Chim bay lên gọi là kiết bay xuống gọi là ngoạn hoặc từ bộ hiệt viết thành chữ kiết ngoạn bổn tập viết từ bộ điểu viết thành chữ kiết ngoạn đều chẳng phải.

Đức mạn âm trên là chữ đức văn chữ cổ âm dưới đê băn Mao Thi Truyện nói: Mạn là kéo dài ra sách Thuyết Văn cho rằng: Mạn là dẫn ra từ bộ hựu thanh mạo âm mạo ngược lại âm mạo báo.

Ái đãi âm trên ai hợi âm dưới hoa nải Bì Thương cho rằng: Ái đãi là lúc mây che không sáng tỏ. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Mặt trời, mặt trăng: bị che khuất nên không sáng. Xưa nay chánh tự đều từ bộ vân đều thanh ái đãi Bổn tập viết từ bộ hắc viết thành chữ ái đãi là sai.

Trinh diễm âm viêm diêm trước quyển thứ mười tám đã giải thích rồi.

Mân ngọc âm mân bân Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng:

Mân là đá giống như ngọc vậy. Bổn chữ từ bộ dân là tránh đi húy miếu. Cho nên đổi lại từ bộ thị viết thành chữ mân hoặc là viết chữ mân (919).

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 20

Phỉ phẫn âm trên phi vĩ âm dưới phù phân Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ rằng: Trong lòng giận dữ bất bình; căm giận mà không nói ra. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm đều thanh phi phẫn âm phân ngược lại âm phù văn.

Tây tiệm âm tiếp viêm chữ mượn âm. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Từ từ thấm vào. Đây là nói ngoại ngũ phục đều cùng với vua đó là thanh giáo mà triều kiến vua. Không được trể.

Như tì âm tỷ tì Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Tì thuộc giống hổ loại mãnh thú. Sách Thuyết Văn cũng nói: thuộc giống báo từ bộ trĩ thanh tỳ âm tỳ đồng với âm trên. Bổn tập viết từ bộ khuyển viết thành chữ tỳ tục dùng thông dụng.

Thu dược âm dương chước Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Dược giống như ống tiêu, ống sáo có ba lỗ. Lại chú giải rằng: Văn Vương Thế Tử, vũ múa có cầm loại ống sáo cắm lông chim. Đó chỗ gọi là thổi sáo vũ múa. Văn Vương thế tử mùa thu, đông học thổi kèn, sáo. Làm thơ vịnh. Tay trái cầm ống sáo, tay phải cầm lông chim dài. Văn Tự Điển nói: Từ bộ phẩm tượng hình như ống sáo có ba lỗ. Viết thành chữ dược hòa điệu với tiếng sáo, lấy luân lý âm điệu. Sách Thượng Thư nói: Bát âm khắc hài không có tương truyền. Luân tức là nghĩa này. Bổn tập viết từ bộ thảo viết thành chữ dược Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Chẳng phải nghĩa yến mạch.

Tháo bị âm trên thảo đao sách Thuyết Văn nói: nắm cầm, giữ lấy âm dưới phổ bị sách Văn Tự Tập Lược cho rằng: Thanh kiếm mà giống như dao sách Thuyết Văn kiếm mà giống như dao dựng trong bao, từ bộ kim thanh bì.

Đông thí âm di sách Vận Anh nói: Mặt trời mọc. Đông thí là tên huyện. Xưa nay chánh tự viết từ bộ nhựt thanh thí bổn tập viết từ bộ mục viết thành chữ thí là rất sai. Không thành chữ.

Thị ngọc âm chi thi sách Thuyết Văn cầm nắm đánh gõ. Từ bộ thủ.

Phụng quan âm quan uyển sách Đại Đái Lễ cho rằng: Vua Ngu Thuấn lấy đức trời dung hòa cùng Vua Nghiêu, Tây Vương Mẫu hiến tặng ngọc trắng cho hai vua. Xưa nay chánh tự cho rằng: Lấy ngọc làm ống sáo. Đời nhà Hán lịnh cho Văn Dương học đạo nơi Vua Thuấn từ, dưới được loại nhạc đó là sáo ngọc của vua. Cho nên thần dân hòa với nghi phụng hoang. Chữ viết từ bộ ngọc thanh quan.

Bàn xuế âm bạc mạn âm dưới xương thuế. Vu bột ngược lại âm phân vật.

Nghị hiệt ngược lại âm điền kiết Mao Thi Truyện cho rằng: Nghị điệt là đụm kiến, tức ổ kiến, sách Phương Ngôn cho rằng: Người nước Sở đất phương Nam gọi là kiến làm ổ có hang, hang kiến ở. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh chí.

Phồn tỏa âm hòa quả sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm là vật nhiều nẩy sinh, sinh sôi nảy nở nhiều gọi là phồn, nước Tề, Sở, Ngụy gọi là tỏa hoặc là viết chữ tỏa.

Khác yết âm trên ư giới Quảng Thương cho rằng: Khác là tiếng thâm u âm dưới yến kiến sách Thuyết Văn đều từ bộ khẩu đều thanh hạt nhận.

Chiêm bặc âm trên chiêm âm dưới phổ bắc tây vực tên của mùi thơm.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 21

Ký câu âm trên lý tri âm dưới cự ngu

Ly ngưu ngược lại âm uyển bao kinh Sơn Hải nói: Núi Phiên Hầu có con thú hình trạng giống như con trâu mà bốn chân có mọc công gọi là ly ngưu. Sách Thuyết Văn nói: ở nước Tây Nam Di có loại trâu lông dài, từ bộ ngưu thanh ly âm ly Bổn tập từ bộ mao viết thành chữ mao là sai

Tiêu mại âm mạch bái tên người.

Nghiêm hạch âm trên khiết kiên bổn tập viết chữ nghiêm tục dùng thông dụng, âm dưới hoành cách trước quyển thứ nhứt đã giải thích rồi.

Đẩu tiêu âm thất tiêu sách Khảo Thanh cho rằng: Tên sao, tức sao thứ năm, sáu và bảy trong đuôi của chòm sao bắc đẩu. Sách Thuyết Văn cũng là sao đuôi bắc đẩu. Từ bộ mộc thanh dưới.

Hiệp bát âm kiêm giáp Hà Hưu Chú Công Dương Truyện rằng: Hiệp là ôm ấp, chứa cất. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh giáp.

Phân hương ngược lại âm phù văn.

Quán chúc ngược lại âm dung nhục Khảo Thanh cho rằng: Nhìn chăm chú, nhiều con mắt nhìn chăm chăm vào từ bộ mục.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 22

Bính minh âm binh ảnh Quảng Nhã cho rằng: Bính cũng là minh. Thanh Loại hoặc là từ bộ hỏa viết chữ bính tức là sáng rõ từ bộ cảnh viết chữ minh âm cảnh ngược lại âm cư vĩnh.

Đệ tập âm trên đệ lễ sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đê là thay thế. Quách Phác chú giải cho rằng: Thay đổi lẫn nhau, hoặc là viết chữ đê tục viết chữ đệ.

Ẩm hiệt không có âm ngận thanh nhập sách Thuyết Văn cho rằng: Hiệt giống như là cắn. Từ bộ xỉ thanh ngật.

Vị toàn âm đoan loạn Thiên Thương Hiệt cho rằng: Toàn là cái dùi. Sách Thuyết Văn cái dùi nhỏ đập dã âm trúy ngược lại âm trì truy Cốt cách âm canh ngạch Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Xương khô gọi là cách sách Thuyết Văn viết từ bộ cốt thanh cách sách Thuyết Văn viết từ bộ khách viết thành chữ cách âm khách á âm dưới đồng nhưng chẳng phải.

Tôn tẩu âm trên côn ổn vũ phụ hoặc là viết chữ cổn Bổn tập từ bộ giác viết thành chữ huyền là sai âm dưới tô tẩu cha Vua Thuấn hoặc là quen viết từ bộ tẩu Bổn tập viết quýnh là sai.

Tiêm nhuế âm tiếp diêm Quảng Nhã giải thích tiêm cũng là nhuế hoặc là quen viết chữ tiêm chẳng phải. Bổn tập viết chữ tai âm tai là sai lầm quá lắm.

Vinh minh âm dinh đinh Quảng Nhã cho rằng: Chà xát, mài. Cố Dã Vương nói: Gọi là lau chùi châu ngọc khiến cho phát sáng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ kim thanh quỳnh.

Hạp tử âm khâm Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Hạp giống như chìm xuống, che xuống. Văn Tự Điển nói: Từ bộ thủy thanh cái hạp từ bộ đại đến bộ huyết Bổn tập viết từ bộ khứ viết thành chữ hạp tục dùng thông dụng.

Sương hải âm sở trang xưa nay chánh tự cho rằng: Người nước sở gọi người phụ nữ chết chồng gọi là sương từ bộ nữ thanh sương

Tất sàn âm tuyển Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Sàn là nhìn thấy gầy yếu. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân thanh sàn âm sàn ngược lại âm sĩ quyến Bổn tập viết từ bộ hán viết thành chữ sàn là sai. Âm hán là âm hán.

Cảnh tử âm canh ngạch tên ngục

Dư tiềm âm tiềm liêm Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Giữa nửa Ngô, Sở gọi diệt hết lửa là tiềm xưa nay chánh tự viết từ bộ hỏa thanh tiềm âm tiềm là âm tiếp niệm Bổn tập viết chữ tiềm tục dùng thông dụng.

Tương thiên âm thiết chiến Bì Thương cho rằng: Thiên là lửa cháy rực. Văn Tự Điển nói: Từ bộ hỏa thanh phiên hoặc là từ bộ nhân viết thành chữ thiên.

Ôi tẩm âm tợ tấn Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Lửa củi cháy hết còn dư lại tro tàn. Bổn tập viết chữ tẩm tục dùng thông dụng..

Xả triệt Âm triền liệt. Đỗ Dự Chú Tả Truyện rằng: Triệt là bỏ đi Trịnh Huyền chú giải sách Nghi Lễ rằng: Trừ bỏ hoặc là từ bợ xích viết thành chữ triệt.

Quỹ chú âm trù lục Hán Thư âm nghĩa rằng: xúc là dấu chân, hoặc từ bộ thục viết thành chữ xúc.

Trường diễm âm diêm chiêm. Sách Thuyết Văn cho rằng: Lữa cháy lan, diễm là lửa cháy rực, sách Khảo Thanh cho rằng: Viết chữ viêm.

Phỉ phỉ âm phỉ phi Sách Thuyết Văn giải thích văn chương trau chuốt, rực rỡ, sáng sủa. Từ bộ văn thanh phi. Loa lũ âm lỗ qua Cố Dã Vương nói: Loa lũ giống như uốn khúc uyển chuyển. Sách Thuyết Văn viết từ bộ kiến thanh loa âm loa đồng với âm trên.

Quân chích âm trên quân vận âm dưới chinh thạch sách Phương Ngôn cho rằng: Quân chích đều là lấy giữ lấy, sách Thuyết Văn đều là nhặt lấy, chữ quân hoặc là viết chích hoặc là viết chữ chích.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 23

Oa long âm ô oa sách Thuyết Văn cho rằng: Tà dại, xấu xa; hoặc là viết chữ loa

Lâm nghiễm âm ngôn kiến trước đã giải thích rồi.

Vi tốc âm tố lộc Văn Tự Điển nói: Tên gọi chung rau cải từ bộ thảo thanh tốc âm tốc âm sở lục.

Vi sởi âm trên ô hối âm dưới lỗi tội sách Khảo Thanh cho rằng: Núi. Bổn tập viết từ bộ hoài đến sợ lụy viết thành chữ hối lụy Ngọc Thiện nói: không có chữ này.

Phu tiêu âm thất tiếu lời thương cho rằng: Tiếu là núi nhỏ mà cao chót vót, hoặc từ sợ phụ viết thành chữ tiếu. Huyền triệt âm triền liệt Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Triệt là vết bánh xe. Xưa nay chánh tự viết từ bộ xa bộ triệt thanh tĩnh bổn tập viết từ bộ túc viết thành chữ triệt là không có chữ này.

Bức ức âm trên bằng bức âm dưới bằng cựu Cố Dã Vương cho rằng: Bức ức giống như tràn đầy. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Bức ức là đầy hơi. Ngọc Thiện cho rằng: bức hoặc là từ bộ tâm viết thành chữ bức sách Thuyết Văn nói: chữ ức viết đúng từ bộ ất viết thành chữ ức sách Khảo Thanh hoặc từ bộ cốt viết thành chữ ức bổn tập viết chữ ức tục dùng thông dụng.

Yểu dĩ âm dĩ hiểu hoặc là viết chữ yểu.

Phương Huyến ngược lại âm huyết luyện Tư Mã Bưu chú giải sách Luận Ngữ rằng: Huyến là loa văn rực rỡ. Sách Thuyết Văn hoặc từ bộ luyến viết thành chữ luyến.

Từ hoạch âm hoành mạch Quảng Nhã cho rằng: hoạch là âm huệ, sách Khảo Thanh cho rằng: hiểu rõ, sách Thuyết Văn viết từ bộ tận viết thành chữ hoạch là sai.

Lan tôn âm tổn tôn xưa nay Chánh Tự cho rằng: Tôn là loại cỏ thơm. Từ bộ thảo thanh tôn.

Nịch thị âm minh đích Nhĩ Nhã cho rằng: Nịch là lo lắng, suy nghĩ Văn Tự Điển nói: Hoặc là viết chữ nịch.

Tố lai âm tô cố sách Phương Ngôn cho rằng: Tố là đi ngược dòng nước. Sách Thuyết Văn cũng là chữ tố sách Nhĩ Nhã nói: Nước chảy ngược ngược dòng trở lên gọi là tố.

Đổ vi âm vi quý Quảng Nhã nói rằng: Vi là chủng loại, cùng loại lại với nhau. Sách Thuyết Văn từ bộ bộ vi thanh tĩnh âm đệ là âm đệ văn chữ cổ. Nay viết chữ vị này vậy.

Lan uyển âm miễn viễn sách sở từ cho rằng: Chính uyển là lan từ đơn vị đo xuống đất của Trung Quốc ngày xưa. Vương Dật chú giải rằng: Mười hai mẫu là một uyển. Sách Thuyết Văn hoặc là ba mươi mẫu là một uyển. Từ bộ điền thanh uyển bổn tập viết từ bộ nhựt viết thành chữ uyển là viết sai.

Diên lâu âm duyệt duyên Mao Thi Truyện Trịnh Tiễn cho rằng: Loại diều hâu. Xưa nay chánh tự viết từ bộ điểu thanh dực bổn tập viết chữ diên tục dùng thông dụng.

Khu hâm âm trên khúc câu âm dưới khắp kim Quảng Nhã và Thượng Lâm Phú Truyện khu hâm đều là núi cao hiểm trở, nghiên xưa nay chánh tự đều cho rằng: khu hâm đều là thế núi cao hiểm trở đều từ bộ sơn đều thạnh khu hâm.

Đới ngung âm ngu hung.

Hà phệ âm thời duệ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Phệ là bến (920) nước, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh phệ.

Vương hao âm hiếu giao tên người.

Phiên dịch kinh Sa-môn Tuệ Lâm soạn.

QUYỂN 99

Quảng Hoằng Minh Tập Âm quyển hạ từ quyển hai mươi bốn cho đến hết quyển ba mươi.

QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 24

Sạ thải âm đài đái Quảng Nhã cho rằng: thải là tẩy rửa. Khảo Thanh cho rằng: trừ bỏ. Sách Thuyết Văn nói: Cũng là tẩy rửa. Chữ viết từ bộ thủy thanh thái âm giãn là âm gian âm đào là âm đào âm giãn là âm gián.

Sơ tốc âm tố lộc Văn Tự Điển nói: Tốc là loại tên chung gọi rau cải chữ viết từ bộ thảo thanh tốc âm tốc ngược lại âm sở giác.

Xúc át âm an cát Thiên Thương Hiệt cho rằng: Trên mũi. Sách Thuyết Văn cho rằng: sống mũi, từ bộ an thanh hiệt hoặc là viết từ bộ tỵ viết thành chữ át.

Vi kình âm kịch nghinh trước đã giải thích rồi.

Tố hòa âm bộ cố Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tố giống như hướng theo. Quảng Nhã kinh hoặc là viết từ bộ xước viết thành chữ tố.

Phỉ nhiên âm phù vĩ bổn tập viết từ bộ tâm viết thành chữ phỉ tự thư không có chữ này.

Thuyên tạm âm tầm cảm Khảo Thanh cho rằng: Bản gỗ khắc chữ để in. Sách Thuyết Văn cho rằng: Bản hiệu, Văn Tự Điển nói: Bản gỗ khắc chữ từ bộ mộc thanh tàm Bổn tập viết từ bộ tiệm viết thành chữ tiệm là sai.

Điểm mặc âm trên thiên hiển sách Phương Ngôn nói: Điển là xấu hổ. Giữa Hình Dương Thanh gọi xấu hổ, hổ thẹn là điển âm dưới man bắc Cố Dã Vương nói: Mặc là không nói im lặng. Sách Thuyết Văn hoặc là viết chữ mặc Bổn tập viết từ bộ tâm viết thành chữ mặc là sai.

Hung phó âm phù vụ Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Là báo tin đến.

Sang vị âm vị tiện Thiên Thương Hiệt cho rằng: Sang là vết thương, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ bộ tật thanh hữu Bổn tập viết chữ vi tục dùng thông dụng.

Thanh lại âm lai đái sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy trên bãi cát. Từ bộ thủy thanh lại.

Uông uất âm ác lãng Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Ương là hơi sương lờ mờ. Sách Khảo Thanh cho rằng: Ngô Việt gọi là bụi trần nổi lên mù mịt là ương sách Thuyết Văn viết từ bộ thổ thanh ương

Ương lưu âm a huân Văn Tự Điển nói: Là nước chảy, rộng lớn mênh mông, từ thủy thanh ương.

Tán ngột âm trên tồ loan âm dưới ngô cốt âm ngột Văn Tự Điển nói: Tán ngột là núi cao nguy hiểm. Chữ viết đều từ bộ sơn thanh tán ngột.

Ẩn lân âm trên ân cẩn âm dưới lân chân. Sách Khảo Thanh nói: Ẩn là đất cao lân là núi cao, bổn tập viết chữ ẩn tục dùng thông dụng.

Ẩn chẩn âm chân nhẩn Lã Diên Tề chú giải Tả Tú Ngô Phú Đô Phú Truyện rằng: Ẩn chẩn là nhiều tiền của, từ bộ bối Bổn tập viết từ bộ nhục viết thành chữ chẩn âm thận là chẳng phải.

Hung dũng âm hung cũng. Sách Thuyết Văn nói: lung cũng là dũng Là sóng nước cuồn cuộn, từ bộ thủy thanh hung Bổn tập viết chữ hung là chẳng phải.

Tao độc âm tao táo.

Lưu tả âm lưu cứu. Sách Khảo Thanh cho rằng: Nước chảy. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh lưu Bổn tập viết chữ lưu tục dùng thông dụng.

Canh cấp âm trên canh hạnh Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Canh cấp là dây gàu múc nước. Sách Phương Ngôn nói: Từ quan ải mà đến Đông Chu, giữa Lạc, Hàn, Ngụy gọi dây lớn là canh Sách Thuyết Văn viết từ bộ mịch thanh canh âm dưới kim hâm Văn Tự Điển nói: Hấp là dẫn nước vào từ bộ thủy thanh cập Bổn tập viết từ bộ mịch viết thành chữ cập là nghĩa giai cấp.

Thứ tự, thần bậc chẳng phải nghĩa múc nước, dẫn nước.

Quán thấu âm trên quan uyển sách Thuyết Văn nói: Rửa tay từ bộ cửu bộ thủy đến bộ mảnh bổn tập viết từ bộ thủy viết thành chữ quán là sai. Âm dưới thúc cứu Văn Tự Điển nói: Trong miệng nước sạch lại ngậm nước trong miệng, từ bộ thủy thanh thấu âm thấu là âm sóc.

Bình di âm dĩ chi Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Rót nước vào chậu. Sách Thuyết Văn nói: Giống như cái thìa, trong có cáng đường để rót nước chữ viết từ bộ phương thanh phương là âm phương.

Phong lự âm trên phúc phong sách Thuyết Văn nói: Loại cây có lá dày nhánh yếu hay đong đưa, hoặc là từ bộ lâm viết thành chữ phong Quách Phác chú giải Kinh Sơn Hải rằng: Tức nay người ta gọi là cây phong hương âm dưới Lữ Trư sách Khảo Thanh nói: Trên cây chữ lự. Sách Nhĩ Nhã nói: cây chữ lự, Quách Phác chú giải rằng: Nay ở Giang Đông gọi cây đĩnh là lự giống như dây cát, mà thô to lớn. Văn Tự Điển nói: Từ bộ mộc thanh lự Bổn tập viết từ bộ hư là sai âm truy ngược lại âm luật truy truy cũng là lự.

Tấn lịch âm trân tư nghi Mao Thi Truyện nói: Thuộc cây y tử. Hàn Thi Truyện nói: Tử thật ra là cây đồng da nói: gọi là ỷ Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: tức là cây thu có thể ăn được, từ bộ mộc hoặc là viết chữ đồng âm dưới linh đích hoặc là viết lạc.

Cơ bạch đới âm trên cự cưu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Cơ là cây mai. Quách Phác chú giải rằng: giống cây mai tử, giống như đầu ngón tay, màu đỏ lại giống như cây nại có thể ăn được, chữ viết từ bộ mộc âm dưới đê kế sách Khảo Thanh cho rằng: đào, lý gọi là đối Văn Tự Điển nói: từ bộ thảo thanh đối.

Túc bổn tôn âm trên sở dực sách Khảo Thanh nói: Túc là cây trong rừng. Sách Thuyết Văn nói: Cây dài mà có nước từ bộ mộc thanh tiểu âm giữa bộn bổn âm dưới tôn tổn Cố Dã Vương nói: Bổn tôn là loại cây mới mọc nhu nhú lên. Sách Thuyết Văn nói: Cỏ tươi tốt sum sê đều từ bộ thảo đều thanh bổn tôn âm thư âm phù dung.

Khuyển lộ âm huyền khuyển Văn Tự Điển nói: Phương pháp lộ ra chiếu sáng từ bộ thủy thanh huyền Bổn tập từ bộ bối viết thành chữ huyễn. Tự thư đều gọi là giữ lấy danh. Chẳng phải nghĩa huyễn lộ.

Kháng kinh âm trên khang lãng Quảng Nhã cho rằng: Kháng là chống cự lại. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Giơ cao, sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh khang âm dưới hạnh canh Thiên Thương Hiệt gốc cỏ gọi là canh sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh canh âm canh là âm kinh.

Vũ khấu âm khẩu hậu Văn Tự Điển nói: Chim non trong trứng mới sinh ra, từ bộ điểu thanh xác ngược lại âm khổ giác.

Kê vụ âm mông bóc Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Vụ là con vịt hoang dã, tức con le le vịt trời, Văn Tự Điển nói: Viết từ bộ điểu thanh vụ âm vụ là âm vũ.

Minh thiền âm thời nhiên sách Nguyệt Linh nói: Tháng trong hè con ve bắt đầu kêu tiếng nghe trong sáng. Ứng Thiệu chú giải Hán Thư rằng: Chỗ ở con ve trên cao, thức ăn sạch sẽ, con mắt dưới nách. Sách Thuyết Văn nói: dùng một bên để kêu. Từ bộ trùng thanh đơn Bổn tập từ bộ huyền viết thành chữ huyền âm huyễn sách Khảo Thanh nói: huyền là loại côn trùng có một trăm cái chân, chẳng phải nghĩa minh thiền tức ve kêu.

Phi ngô âm ngũ cô sách Nhĩ Nhã cho rằng: Ngô là con chuột, xem trước đã giải thích rồi.

Tao tán âm trên tảo tao âm dưới tàn đản Bì Thương cho rằng: Tao tán là tiếng kêu la. Quảng Nhã cùng với Bì Thương đồng nghĩa. Xưa nay chánh tự hoặc là viết nghiễm Bổn tập từ bộ tán viết thành chữ tán ngược lại âm tán đản chẳng phải bổn nghĩa.

Tiêu lượng âm liễu dục Văn Tự Điển nói: viết chữ mậu là tiếng gió từ bộ phong thanh mậu Bổn tập viết chữ mậu tục dùng thông dụng âm dưới lương tướng. Bổn tập viết từ bộ khẩu viết thành chữ lượng là sai.

Tả quyến âm quyết nguyện Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Quyến là nhìn. Mao Thi Truyện cho rằng: Quyến là quay lại nhìn chăm chú, sách Thuyết Văn viết từ bộ mục quyển Bổn tập từ bộ mục viết thành chữ quyến là sai.

Hữu đệ âm đê đế Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: đệ là liếc nhìn, nhìn nghiêng, hé mắt nhìn, liếc nghiêng. Xưa nay chánh tự viết từ bộ mục thanh đệ.

Chiêm tỉ âm thâm diệp sách Trương Yến chú giải sách Sử Ký rằng: Chân mang giày dép. Sách Thuyết Văn viết từ bộ túc thanh chiêm âm dưới sư tử hoặc là viết chữ tì đều thông dụng.

Khu y âm khẩu câu Quảng Nhã cho rằng: khu là vén lên. Cố Dã Vương cho rằng: gọi là lấy tay vén áo lên phía trước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủ thanh khu âm kiên ngược lại âm khi ngôn.

Khuẩn tạ âm trên lục vẫn âm dưới tịch dạ Văn Tự Tập Lược nói: Trên nhà có cái đài. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mộc thanh tạ.

Nhĩ tinh tủy âm nhi chí Thiên Thương Hiệt cho rằng: Nhĩ là dâng thức ăn. Sách Thuyết Văn viết bộ thực thanh nhĩ Bổn tập viết từ bộ thủ viết thành chữ thủ là sai.

Trùng tích âm trên đại công lại âm chỉ dung đều thông dụng Mao Thi Truyện cho rằng: Nước hội tụ. Trịnh Tiễn chú giải rằng: Nước trên cao chảy xuống, từ sông nhỏ chảy vào sông lớn, từ bộ thủy đến bộ chủng chữ hội ý.

Bồn dũng âm phổ muộn Thiên Thương Hiệt cho rằng: Bồn là giọt nước bắn lên. Xưa nay chánh tự viết bộ thủy thanh bồn. Bổn tập viết từ bộ bôn viết thành chữ bồn là không có chữ này.

Ương yết âm ư huân Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ương là to lớn vĩ đại. Sách Thuyết Văn từ bộ thủy thanh ương.

Đàm loan âm trên đản la âm dưới loạn quan Kinh Sơn Hải nói: Núi vân vũ có loại tên loan gốc vàng, nhánh đỏ lá xanh. Sách Thuyết Văn nói: Cây loan giống như cây lan, từ bộ mộc thanh loan âm loan là âm loan.

Tiêu tất âm bỉ lực Quảng Nhã nói: Tất là gió lớn. Sách Thuyết Văn từ bộ phong thanh tất.

Khu chẩn âm chi chẩn Trịnh Huyền chú giải sách Chi Lễ rằng: Thửa ruộng có lối đi. Mười phu hai oán, con đường nhỏ hẹp. Sách Thuyết Văn: Bên bờ ruộng có cái giếng, thành bờ ruộng, từ bộ điền thanh chân âm chân là âm chẩn Bổn tập viết từ bộ chẩn tục dùng thông dụng âm tán là âm tán.

Phì du âm du chu sách Thuyết Văn nói: du cũng là phì béo phì mập. Từ bộ nhục thanh du.

Đông thậm âm thời nẳm Mao Thi Truyện cho rằng: Thậm là lá dâu thật hoặc là viết chữ thậm.

Sương xuyết âm truy quát Quách Phác chú giải sách

Nhĩ Nhã rằng: Xuyết là loại chim lớn như bồ câu, giống như chim trĩ, chân như chuột, không có ngón sau, đuôi vểnh lên, chim bay từng đàn. Sống ở phương Bắc, vùng sa mạc. Sách Thuyết Văn từ bộ điểu thanh xuyết âm xuyết là trúc liệt.

Đoản hạt âm trên đoan quản âm dưới hàn cát Hứa Thúc Trọng chú giải Hoài Nam Tử rằng: Người nước Sở gọi áo bào ngắn là hạt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Áo ngắn. Từ bộ thỉ thanh đậu hạt từ bộ y thanh hạt Bổn tập viết từ bộ mộc viết thành chữ đoản âm đậu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: đậu là dụng cụ đựng đồ lễ, chẳng phải nghĩa bổn tập.

Uyển tướng âm trên miễn viễn Bản Thảo giải thích rằng: nấm đỏ. Lại cũng gọi là nấm xanh. Sách Thuyết Văn thảo dược. Âm dưới trước dương sách Thuyết Văn nói: tưởng là loại nấm cô đều từ bộ thảo đều thanh uyển tưởng âm cô là âm cô.

Quản hoài âm trên nhuận nhau âm dưới cổ hoại Theo Tả Thị Truyện nói: Tuy có dạy quan ma nhưng không bỏ ống. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Quản là loại cỏ mao. Thanh Loại nói rằng: Hoại là loại cỏ trong giữa là dây lớn, sách Thuyết Văn đều từ bộ thảo thanh quan hoại hoại âm khổ quái Bổn tập viết chữ hoại cũng thông dụng.

Huyên nô âm trên vu viên âm dưới nô giao Mao Thi Truyện cho rằng: Tiếng ồn ào huyên náo. Sách Khảo Thanh cho rằng: Tiếng ồn, sách Thuyết Văn cho rằng: Từ bộ khẩu thanh âm lao âm sửu giao.

Thành luân âm thành chính Quảng Nhã cho rằng:

Thành là nhiều hoặc là viết chữ thạnh hai chữ đều đồng nghĩa.

Tưởng du âm tưởng dương Mao Thi Truyện nói rằng: tương là thùng lớn chứa trong xe. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trúc thanh tương? Văn Tự Điển nói: (921) hoặc là cũng từ bộ thảo viết thành chữ tương âm dưới du chủ Giã Quý chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Là nhà lớn bên cạnh có nhà nhỏ. Kho lớn gọi là dũ dũ tức kho chứa, là lúa thóc cất giữ gieo trồng, sách Thuyết Văn nói: Kho không có nhà gọi là dũ từ bộ nghiễm thanh du.

Ôn cược âm trên ô cốt Quảng Nhã giải thích ôn là cười. Bì Thương cho rằng: Cười lớn âm dưới cưỡng khước sách Khảo Thanh cho rằng: Cược là cười to tiếng, không tự vượt lên. Sách Thuyết Văn đều từ bộ khẩu đều thanh ôn cự âm ôn là âm ôn.

Mẩn miển âm uật tẫn âm dưới mi biện sách Khảo Thanh cho rằng: Mẫn miễn là cố sức, gắng sức. Sách Thuyết Văn miển từ bộ nhân thanh miển mãn hoặc từ bộ võng viết thành chữ mẫn.

Cực cải âm khi ký cực là số nhiều, âm sổ là âm tố sách Khảo Thanh cho rằng: Chữ cải đứng từ bộ phược viết thành chữ cải.

Võng lũ âm câu ngộ Thiên Thương Hiệt: Lũ là giày xấu, thô sơ.

Bổn tập viết chữ lũ tục dùng thông dụng.

Lu lưu ly âm sĩ ly sách Thuyết Văn nắm bắt và thả ra, từ bộ thủ thanh ly âm lưu là âm lưu chữ chánh thể.

Bổn tập viết chữ lưu tục dùng thông dụng.

Cự công ân cự ngư tên người

Nhi vịnh âm vinh mệnh sách Thuyết Văn cũng viết chữ vịnh

Từ oanh âm ách hoành Mao Thi Truyện cho rằng: Chim oanh tiếng hót trong trẻo, loại chim có văn chương, Văn Tự Điển nói: Từ bộ điểu đến bộ quỳnh thanh tĩnh.

Tệ giới âm trên tất duệ âm dưới giai giới Quảng Nhã cho rằng: Giới là quần cắt ngang gối sách, Khảo Thanh cho rằng: Là cái quần đùi, sách Thuyết Văn cho rằng: Giới là quần đùi, cũng là cắt ngang gối, từ bộ y thanh giới âm đản âm thang lạc.

-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 25

Chiêm đổ âm đô lỡ cùng với chữ đổ là đồng.

Lưu đồn ngược lại đột đến cùng với chữ đồn đều đồng.

Du hiên âm dậu chu Mao Thi Truyện cho rằng: Du là xe nhẹ, xe nhỏ. Sách Thuyết Văn viết từ bộ xa thanh tù.

Chương hoàng âm dưỡng dương sách Khảo Thanh cho rằng: Chương hoàng là lo lắng, sợ hãi.

Trâm phất âm trên tập sâm sách Vận Tập cho rằng: Trâm là cái trâm, cái đầu, hoặc là viết chữ trâm xưa viết chữ trâm. Bổn tập viết chữ trâm sách Thuyết Văn cho rằng: Tục dùng thông dụng. Âm dưới phân vật Thiên

Thương Hiệt cho rằng: Phất là dây thao buộc ngang lưng hoặc là viết nhu.

Thần ỷ âm trên thận nhân sách Khảo Thanh cho rằng: Cung nhỏ màu tím gọi là tử thần chỗ vua ở. Sách Thuyết Văn từ bộ miên thanh thần âm dưới y khải sách Nhĩ Nhã cho rằng: Giữa cửa sổ có bức màn che gọi là bình phong. Quách Phác chú giải rằng: Cửa sổ phía Đông và phía Tây. Sách Thuyết Văn viết từ bộ hô thanh âm dũ ngược lại âm do liễu.

Sam thế âm trên là sam âm dưới đê kế Văn Tự Điển nói: Thế là bới cỏ, trừ cỏ, nhổ cỏ. Từ bộ thảo thanh thế. Mạc bái âm trên mãn bác xem trước quyển thứ mười chín đã giải thích rồi.

Huyền mạc âm mang bác Mạc tiếng vọng lại từ xa từ bộ xước thanh mạc Bổn tập viết từ bộ tâm viết thành chữ khẩn chẳng phải âm man ngược lại âm mộc bang.

Tệ biện âm tất duệ. Sách khác Thanh cho rằng: không có tiên. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: vẽ công chim trĩ gắn trên đầu. Chỗ gọi là hoa trùng. Sách Thuyết Văn viết từ bộ điểu thanh tệ âm tệ ngược lại âm tỳ duệ.

Ngạn tông âm tộc tông danh tăng.

Trường nhị âm y nhị sách Khảo Thanh cho rằng: Nhị là chắp tay làm lễ. Sách Thuyết Văn tay giơ lên lạy xuống từ bộ thủ thanh nhị.

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 26

Ngung ngung âm vương cung xem trước quyển thứ mười chín đã giải thích rồi.

Tiêu loại âm thất tiều sách Khảo Công Ký nói rằng:

Tiêu là bé nhỏ. Văn Tự Điển nói: Từ bộ khẩu thanh tiếu. Tàm y âm tạp hàm sách Chu Lễ nói rằng: Người thợ dệt kéo tơ tằm từ trong kén ra. Tháng trọng xuân, kêu gọi các thợ dệt từ trong đến ngoài. Các mệnh phụ bắt đầu dệt vải tơ lụa, nghề nuôi tằm dệt vải từ phía Bắc. Sách Thuyết Văn nói: con tằm nhã tơ, từ bộ côn âm côn là âm con âm tàm ngược lại âm thiên cảm Bổn tập viết từ bộ thiên viết thành chữ tàm là sai. Âm dưới đồng.

Dược kiển âm trên dương dưới sách Thuyết Văn nói: dược là nấu canh rau từ trong xuất ra nêu, hoặc từ bộ cách viết thành chữ dược âm kịch Bổn tập từ bộ hỏa viết thành chữ dược cũng thông dụng âm dưới kiên hiển sách Thuyết Văn: Tàm y là áo thô áo dệt bằng tơ tằm. Từ bộ mịch đến bộ trùng đến bộ tiết giống con bướm có hai cái sừng. Tương đương giống nhau. Âm tiết là âm miên Bổn tập viết chữ kiển tục dùng thông dụng.

Thuyên bỉ âm thù duyên Mao Thi Truyện cho rằng: Thuyên là mau chóng. Sách Nhĩ Nhã nói: Thần tốc nhanh như chớp. Sách Thuyết Văn từ bộ xước thanh Bổn tập từ bộ khiếm viết thành chữ thuyên âm đồng với âm trên. Sách Thuyết Văn gọi là trong miệng dẫn hơi ra. Chưa thẩm định thật nghĩa.

Phốc đế âm trên phổ bốc Cố Dã Vương cho rằng: Phốc là đánh, đập giã. Âm dưới để lệ theo Thanh Loại nói: đế là tổn hại sách Thuyết Văn đều từ bỏ thủ đều thanh phộc đế âm phộc đồng với âm trên.

Sanh thuyên âm trên sở canh âm dưới tuyệt duyên

Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Bò, heo, dê gọi là sanh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: thuần một màu lông gọi là hy Thể Nguyên cho rằng: thuyên là thuần sắc một màu Trịnh Chúng chú giải sách Chu Lễ rằng: Thuyên là thuần một màu, sách Thuyết Văn đều từ bộ ngưu đều thanh sanh toàn.

Huyết liêu âm liễu điêu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Nơi trú đóng quân mùi tanh máu thịt, ăn uống no say. Sách Thuyết Văn hoặc viết chữ liêu.

Chước tế âm dương chước sách Nhĩ Nhã cho rằng: mùa hạ cúng tế gọi là chước Quách Phác chú giải rằng: rau cải tươi có thể nấu, hoặc là viết chữ chước Bổn tập từ bộ trúc viết thành chữ dược là ống sáo chữ dược là chẳng phải nghĩa này.

Mại thiền âm thiền triển sách Khảo Thanh cho rằng: Tên con cá. Kinh Sơn Hải nói rằng: Loại cá trơn không có vảy. Quách Phác chú giải rằng: Thiền là loại cá giống như rắn tức là con lươn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngư thanh thiền.

Bố thiết âm phổ bổ Tự Thư cho rằng: bày ra, Cố Dã Vương cho rằng: Trải ra thoải mái, hoặc là viết chữ phu.

Tư phù âm tương tà Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: tư giống như là che trùm. Sách Khảo Thanh cho rằng: tư là giăng lưới bắt thỏ. Sách Thuyết Văn hoặc viết Tỳ Thương âm dưới phù lưu Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Lấy lưới giăng bắt thú, sách Thuyết Văn cũng nói: giăng lưới bắt thỏ. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký cổ tức là lưới.

Tức thư âm trên tăng lực âm dưới tử dư. Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Tức thư là tên gọi ngô công, tức con rít. Sách Thuyết Văn đều từ bộ trùng đều thanh tức thư

Cam đế âm Tỳ Thương thái sách Khảo Thanh cho rằng: Đế là con rắn. Sách Đường Vận cũng nói: Là con rắn hoặc là viết chữ hái.

Sài khuyển âm sàng giai Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Sài là con sói, chân giống như con chó. Sách Thuyết Văn nói: Thuộc sói lang. Từ bộ trĩ thanh tài âm trĩ âm trì nhĩ bổn tập viết từ bộ khuyển viết thành phụ là không có chữ này tức là sai.

Dã cam âm cát hàm Quách Phác cho rằng: Còn xạ can có thể duyên theo cây chuyền cành. Quảng Chí cho rằng: Nó hái trái nơi rất nguy hiểm cây cao bổn tập viết từ bộ khuyển viết thành chữ cam là sai.

Thị dương âm dinh chích sách Khảo Thanh cho rằng: Dương là bệnh nổi trên da, viết đúng từ bộ tật bổn tập viết chữ dương tục Tỳ Thương thường hay dùng.

Thị lưu âm liểu chu Quảng Nhã cho rằng: Lưu là bệnh. Cố Dã Vương cho rằng: Sung thũng kết nhưng tán ra nước, sách Thuyết Văn cũng là sung thũng; từ bộ tật thanh lưu Bổn tập viết chữ lưu tục dùng thông dụng.

Thị lâu âm lẩu đậu Quách Phác chú giải Kinh Sơn rằng: Lậu là bệnh ung thư, sách Thuyết Văn cho rằng: Bứu cổ, từ bộ tật thanh lũ bổn tập viết chữ lũ tục dùng thông dụng.

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 27

Loa tri âm trên lực hòa âm dưới trực ly sách Chu Lễ cho rằng: Lấy trứng con kiến làm tế lễ. Người nhận làm loại rượu tế lễ. Trịnh Dung chú giải rằng: Tri là trứng con kiến. Sách Thuyết Văn viết từ bộ trùng thanh tri âm đệ là âm để.

Hào lương âm hồ cao tên sông trước đã giải thích rồi.

Cỏ nịch âm minh đích Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nịch giống như lo đối khác, hoặc là viết chữ nịch

Túy dung âm tư quý trước đã giải thích rồi. Giãn vi âm gian nhãn tên người.

Tây bưu âm hữu cứu sách Nhĩ Nhã cho rằng: Bưu là qua đi. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: là chỗ con đường đi qua, như là cái trạm. Quảng Nhã cho rằng: Trạm để truyền công văn tức bưu điện ngày nay. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ấp thanh thùy Bổn tập viết chữ bưu là sai.

Hoàng tuế âm trên ô hoàng âm dưới uy vệ Cố Dã Vương cho rằng: Hoàng tế giống như nước xối xả, ào ào. Quảng Nhã cho rằng: Xối nước ào ào, hoặc là viết chữ tuế âm đà ngược lại âm đạt hà.

Vũ nhiên âm vô bổ Hà Yến chú giải sách Luận Ngữ rằng: Vũ nhiên là làm phật ý không vừa lòng. Sách Thuyết Văn từ bộ tâm thanh vô.

Nhân tình âm tình tĩnh Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Trinh khiết sạch sẽ. Sách Thuyết Văn cho rằng: Trang sức sạch sẽ hoặc viết từ bộ lập viết thành chữ tình.

Lưỡng dật âm trần lật hoặc là viết chữ trật lại viết chữ dật bổn tập viết chữ dật là sai.

Khuê bộ âm khuy quý sách Lễ Ký cho rằng: Người quân tử đi nửa bước cũng không dám quên, sách Phương Ngôn cho rằng: Nửa bước là một khuê Cố Dã Vương cho rằng: Là nhấc chân lên một bước, hai bước. Là bộ, đi bộ. Sách Khảo Thanh cho rằng: viết chữ khuể bổn tập viết chữ khuể cũng thông dụng.

Lẫm lệ âm trên lâm cẩm âm lâm kế Bì Thương cho rằng: Lẫm cũng là lệ chuyển qua tương đối giải thích. Sách Thuyết Văn cho rằng: Chữ lẫm từ bộ tâm thanh lẫm chữ lệ hoặc là viết chữ lệ.

Nguyệt nhĩ âm dưới như chí Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Nhĩ là xẻo tai. Văn Tự Điển nói: từ bộ đao thanh nhĩ.

Cổ giai âm trên là cố Bổn tập viết chữ du là sai. Âm dưới giới hài nói: giai là cứng chắc, kiên cố, sách cho rằng: Cửu giang gọi là thiết thiết tức là giai từ bộ kim thanh giai.

Núng hoa âm nữ lung sách Khảo Thanh cho rằng: Chùm hoa.

Khác viết âm khô đới Tả Truyện cho rằng: Khác chơi xuân mà buồn bã. Đỗ Dự chú giải rằng: khác là tham vọng, Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Khác là gấp vội, nóng nảy. Sách Thuyết Văn viết từ bộ tâm thanh hạt.

Kiêu hách âm trên hy kiêu Cố Dã Vương cho rằng: Cao là hơi nóng nhiệt. Sách Thuyết Văn cho rằng: Hà hơi ra tức là la hét, ồm õi, ầm ĩ, âm dưới hư ách sách Thuyết Văn cho rằng: Hai chữ xích Bổn tập viết chữ hách là sai.

Ấn ấn âm tái lai Quảng Nhã cho rằng: Ấn là rung động, xưa nay chánh tự cho rằng: Ấn là đè lên, bấm, ngất, mau chóng. Từ bộ thủ thanh Tỳ Thương sách Khảo Thanh viết đúng là chữ ấn Bổn tập viết chữ ấn tục dùng thông dụng.

Phối ngẫu âm trên phi bế âm dưới ngư cẩu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Cũng là phối ngẫu, tác hợp lương duyên, tức là chuyển chữ để giải thích. Tức là vợ người hôn phối từ bộ nữ thanh phối âm phế ngược lại âm bổ lệ âm phi là âm phì.

Cao trụy âm truy loại sách Thuyết Văn nói: trụy là oán giận, từ bộ tâm thanh đối hoặc là từ bộ ngôn viết thành chữ truy.

Hàn tư âm tứ tư Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: Từ là băng chảy ra thành nước. Sách Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy đóng băng. Từ bộ băng thanh Tỳ Thương Bổn tập viết từ bộ thủy viết thành chữ Tỳ Thương tên của dòng sông ở Bắc Hải.

Tài nghiệm âm trên tại lại Cố Dã Vương cho rằng: Tài giống như gần một bên, hoặc là viết chữ tài bổn tập viết chữ tài là sai, hoặc là viết chữ tài tục dùng thông dụng (922).

Tư hồ âm hồ cố Quảng Nhã cho rằng: Hồ là xinh đẹp, hoặc là viết chữ cố từ bộ hồ viết thành chữ hồ tục dùng thông dụng.

Đệ nhân âm đế kế Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Đệ là liếc nhìn. Chữ nghĩa trước đã giải thích rồi.

Quỳnh uyển âm miễn nguyên trước đã giải thích rồi. Diễm Châu âm thiệp nhiêm địa danh nước Việt.

Từ tiêu âm biểu kiêu sách Thuyết Văn nói: Thiết hàm ngựa. Từ bộ kim thanh tiêu âm tiêu là âm tuyệt giao Bổn tập viết từ bộ mã viết thành chữ tiêu âm lộc tức là con ngựa hoang dã chẳng phải nghĩa này.

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 28

Đồ liệu âm trên độc nô sách Nhĩ Nhã cho rằng: Đề loại rau đắng, âm dưới liễu điểu Mao Thi Truyện nói: Liệu là loại rau mọc trong nước, sách Thuyết Văn nói: Là loại rau có vị cay, đều từ bộ thảo Đều thanh tư mậu âm liệu âm lưu cứu.

Khiếm phúc âm kiêm điếm lưu triệu chú giải cốc lương truyện rằng: kiêm là ăn không no, từ bộ khiếm thanh liêm Bổn tập viết từ bộ khẩu viết thành chữ khiếm gọi là bên mé miệng. Có chỗ ngậm lại, chẳng phải nghĩa khiếm phúc.

Trường thắng âm thực nhưng Thiên Thương Hiệt cho rằng: bờ ruộng. Bì Thương cho rằng: bức tường thấp, hoặc là từ bộ điền viết thành chữ bạn lại viết chữ đóa.

Nang du âm du chủ Cố Dã Vương cho rằng: du là nhỏ, nhẹ, sách Thuyết Văn cho rằng: bệnh từ từ thuyên giảm hoặc cũng viết chữ dũ

Thanh đê âm đệ hề Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: đê là lụa nguyên màu sắc. Sách Thuyết Văn cho rằng: màu đỏ màu vàng, từ bộ mịch thanh đê âm nguyên ngược lại âm luyên quyến.

Hướng vũ âm vu vũ tên người.

Yêu não âm trên Tự Lâm tảo Văn Tự Tập Lược nói rằng: trong lòng buồn bực áo não uất kết, yêu hoặc là viết chữ áo Bổn tập từ bộ thổ viết thành chữ yểu là chẳng phải chữ não hoặc là viết chữ não Bổn tập viết từ ba bộ chữ viết thành chữ não là sai.

Vô ngại âm ngư cái phàm kinh văn viết chữ ngại hoặc là viết chữ ngại Bổn tập từ bộ hơi viết thành chữ ngại là sai.

Túng kim âm sở song Tử Hư Phú Truyện cho rằng: Túng kim là cái trống. Bì Thương cho rằng: Túng giống như là đánh trống, hoặc từ bộ thư viết thành chữ túng.

Sâm quay âm sâm cẩm Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nay viết chữ sâm đó là nhiều cây củi trong nước được có cá, khi tiết hàn lạnh vào bên trong là bắt cá. Sách Thuyết Văn từ bộ mộc thanh sâm.

Tiêu trá âm thích á Cố Dã Vương cho rằng: Trá giống như là hét. Sách Thuyết Văn viết từ bộ khẩu thanh trá âm trách ngược lại âm trúc cách.

Đăng nhi âm như chi sách Khảo Thanh cho rằng: Nhi là sông phía Đông, địa danh, Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: nhi là sông ở phía Đông nam, quanh co, ngoằn ngoèo, từ bộ phụ hoặc là từ bộ thủy.

Liệu nga âm ngã ca Mao Thi Truyện cho rằng: Liệu là cây cỏ ngãi. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Nay người gọi nga là cỏ ngãi. Sách Thuyết Văn từ bộ thảo thanh ngã.

Thuyển nghiệp âm từ chuẩn Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tuyển chỗ gọi là treo cái chuông lên ngang gọi tuyển trang sức thuộc vảy rồng, bản to lớn là dẹp, hoặc là từ bộ mộc viết thành bao Bổn tập viết bao là sai.

Ngu thùy âm thùy duy Quách Phác chú giải Kim Sơn Hải rằng: Thùy là người thợ khéo léo.

Bao trần âm trên bao bao sách Vận Anh cho rằng: Đốt lửa nướng vật hoặc là viết chữ bao âm dưới áo cao Bổn tập giải thích rằng: Thiêu nướng vật nay hoặc là ráng, nướng, chiên. Cũng viết chữ tiêu văn cổ viết từ bộ điểu viết thành tiểu chưa rõ nghĩa chữ này.

Phất ngạo âm ao cáo Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Ngạo gọi là không cung kính. Khảo Thanh, Nhĩ Thất cho Rằng: viết chữ ngạo cũng viết chữ ngạo Bổn tập viết từ bộ tâm viết thành chữ ngạo là sai.

Giới phẩm âm giai giới Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Giới là thuộc rồng, ba ba sống dưới nước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ nhân đến bộ nhân Bổn tập từ bộ ngư viết thành chữ giới tên của loài cá, chẳng phải nghĩa giới phẩm.

Chủng vị âm vi quý sách Chu Dịch nói: Vị là xấp cùng chủng loại, trước đã giải thích rồi.

Tiềm phu âm trên từ hạp sách Trang Tử nói rằng: Loài côn trùng cắn hút máu ngoài da, ban đêm không ngủ. Bì Thương cho rằng: cắn. Sách Thuyết Văn cho rằng: cắn hút, giống như con đĩa. Hoặc là Khảo Thanh nói: viết chữ táp.

Võng vức âm vi bức sách Nhĩ Nhã cho rằng: Lưới đánh bắt cá dài chín thước. Quách Phác chú giải tức nay người Thanh Loại trăm lưới võng đánh bắt cá. Sách Thuyết Văn từ bộ võng thanh hoặc.

Chúng tỏa âm hòa quả sách Phương Ngôn cho rằng: Phàm vật quá nhiều gọi là tỏa xem trước đã giải thích rồi.

Khiêm khiêm ngược lại âm khiêm điếm sách Khảo Thanh cho rằng: Khiêm là không vừa lòng. Sách Thuyết Văn từ bộ tâm thanh kiêm.

Khuých kỳ âm khuynh dịch Bì Thương cho rằng: Khuých là yên tĩnh từ bộ cựu âm cụ là âm cựu dịch trước đã giải thích rồi.

Ứng phó âm phu vụ cùng với chữ phó cũng đồng.

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 29

Đồ quắc âm quáng hoạch Mao Thi Truyện cho rằng: Quắc là thu hoạch được, bắt được không phục đó là giết, mà cắt tai trái mang về gọi là quắc hoặc từ bộ quốc viết thành chữ quốc lại từ bộ nhĩ viết thành chữ quắc xưa nay chánh tự văn cổ viết chữ hoắc.

Tru hổ âm vâm chu chữ dữ ý, gọi là trong hang rồng người Thanh Loại bắt ra con báo chó, hoặc con hổ, vật khác. Thường gọi là tru xuất công ngưu đó là biến hóa như thần phải xem kỹ mới thật là con hổ, đó là nói: không hiểu là người. Sách Thuyết Văn từ bộ trĩ thanh khu âm trĩ là âm trĩ.

Trục lô âm trên trùng lục sách Phương Ngôn cho rằng: Phía sau thuyền gọi là trục. Trục là cái bánh lái rẽ nước, giữ cho thuyền đi. Quách Phác chú giải rằng: Nay ở Giang Đông gọi là bánh lái là trục sách Thuyết Văn từ bộ chu bộ do thanh tĩnh âm đà ngược lại âm tha khả. Âm dưới hổ đô Lý Phỉ chú giải Hán Thư rằng: Là phía đầu thuyền là trước mũi thuyền. Sách Thuyết Văn là đầu thuyền, từ bộ chu thanh lô.

Nhập háp âm tham hạp. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hai chiếc thuyền sánh đôi, Văn Tự Tập Lược nói: Hai chiếc thuyền lớn. Bổn tập viết chữ hấp tục dùng thông dụng.

Thành sảnh âm sanh canh Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: sảnh là lầm lỗi. Sách Thuyết Văn viết từ bộ mục thanh sanh.

Thao nhũ âm thảo cao Thiên Thương Hiệt cho rằng: thao là vui vẻ. Sách Thuyết Văn nói: Vui vẻ, từ bộ tâm thanh thao âm thao đồng với âm trên.

Chân tâm âm nhứt lân Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Chân là bít lấp kín. Hoặc là viết chữ chân.

Bột khởi âm bồn một Quảng Nhã cho rằng: Bột là hương thơm. Bì Thương cho rằng: Mùi thơm lớn lan tỏa. Sách Thuyết Văn từ bộ hương thanh bột âm bột đồng với âm trên, chữ bột từ bộ thị bộ lựu đến bộ tử âm là âm phất.

Uyển miễn âm trên miễn viễn âm dưới vô phản sách Khảo Thanh cho rằng: uyển miễn là người phụ nữ dịu dàng, hòa thuận. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Miễn là xinh đẹp đáng yêu. Sách Thuyết Văn cho rằng: uyển là hòa thuận, đều từ bộ nữ. Bổn tập viết từ bộ nhựt viết thành chữ uyển là không có bộ chữ này miễn là mặt trời chiều tối, chưa rõ nghĩa sâu xa này.

Chích thật âm chinh thạch sách Hoài Nam Tử nói rằng: Chim bay có hàng mà bay. Thú thật có chân mà chạy, Hứa Thúc Trọng chú giải rằng: Chích là chạy mau. Lại gọi là đi hoặc là viết chữ chích Bổn tập từ bộ thứ viết thành chữ chích là sai.

Linh bình âm trên linh đình âm dưới thất tinh tự thư giải thích hinh bình là đi không vững, đều từ bộ lập Bổn tập từ bộ tức viết thành chữ hinh cũng thông viết chữ tinh là sai.

Nhĩ ảo âm trên nịch ải sách Khảo Thanh cho rằng: Núm nhũ của bà lão. Âm dưới ô hạo Văn Dĩnh chú giải Hán Thư rằng: ở U Châu và Hán Trung đều gọi bà lão là ảo sách Thuyết Văn cho rằng: Bà già người phụ nữ già là ảo. Đều từ bộ nữ đều thanh nhũ ảo âm ôn âm ảo là âm ô cũ liêu hồi huy hồi trước đã giải thích rồi.

Tiêu minh âm trên tử tiêu âm dưới mịch bình sách liệt tử nói rằng: Thời nhà An, Thang hỏi đời nhà Hạ cách gọi là phàm vật có chân nhỏ bé gọi là nạp, gọi tiều minh ở Giang Bộ gọi là ấu trùng biết bay; ở trong ổ giống như tò vò; ấu trùng qua lại bất giác, loại vô tri. Từ bộ trùng âm ma âm ma bá ma gọi là nhỏ bé, âm cách âm căng ức.

Côn bằng âm trên cốt hồn âm dưới phổ bổ sách Trang Tử nói: Sông Bắc Minh có loại cá tên Côn hóa làm con chim, chim này gọi là bằng trên lưng có đôi cánh đi không biết mấy ngàn dặm. Tư Mã Bưu chú giải rằng: Côn là cá lớn. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngư thanh côn bổn tập viết từ bộ trùng viết thành chữ côn là sai bằng từ bộ điểu thanh bằng.

Thăng cổ âm hồ cổ Mao Thi Truyện cho rằng: Núi không có cỏ gọi lô Hàn Thi Truyện cho rằng: Núi có cây không có cỏ gọi là cô sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh cổ.

Nguy khuyết âm ngụy quý sách Hoài Nam Tử cho rằng: ở nước Ngụy mà lòng ngó mong ra cửa. Sách Chu Lễ cho rằng: Gọi là cửa trời giống như cao vời vợi, gọi là cao to lớn, từ bộ ủy thanh quỹ Bổn tập từ bộ mã viết thành ngụy âm quý thống tự cho rằng: Con ngựa màu đen nhạt, chẳng phải nghĩa nguy khuyết.

Liệt liệt âm liên triết theo Thanh Loại cho rằng: Liệt là gió mạnh, sách Thuyết Văn từ bộ phong thanh liệt.

Cô sô âm sĩ du Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã. Con chim mới nở ra mà có thể tự ăn được đó gọi là sô sách Thuyết Văn hoặc là từ bộ duy viết thành chữ sô Bổn tập viết chữ sô tục dùng thông dụng.

Kim chi âm cập kim Bì Thương cho rằng: Nắm bắt, cầm nắm. Sách Thuyết Văn vội vã nắm áo phía trước hoặc là viết từ bộ phộc viết thành chữ chi lại viết từ bộ cấm viết thành chữ cấm.

Khôi thông âm ngô ôi tên họ người âm ôi ngược lại âm ô tội.

Trùng điểu âm trục long âm dưới điểu liễu nghĩa là trùng cùng với điểu là hai chữ, gom lại liên kết viết chữ trùng điểu là người sai quá xa. Lầm quá mức.

Thắng sính âm trên thù đăng sách Khảo Thanh cho rằng: Siêu vượt qua, viết đúng là chữ thắng bổn tập viết chữ thắng tục dùng thông dụng. Âm dưới thánh lĩnh bổn tập từ bộ ương viết thành chữ ương là sai âm thính ngược lại âm đính trịnh.

Trinh hiên âm hiên yển Cố Dã Vương cho rằng: Nay gọi là tấm vải căng trên mui xe là hiên. Thích Danh cho rằng: Mui xe. Chỗ gọi là che nóng nhiệt ngăn ánh nắng nóng. Từ bộ câu thanh hiên bổn tập viết chữ mạn là viết sai.

Hạp hạp âm khâm hạp sách Thuyết Văn nói: Tiếng va chạm với nhau. Từ bộ thạnh thanh hạp âm hạp là âm hợp hạp từ bộ đại đến bộ huyết nay Tục Thông Dụng viết chữ hạp Bổn tập viết từ bộ cái viết thành chữ hạp là sai.

Hiểm tiếu âm trên hy kiểm chữ chỉ ý nguy hiểm núi gập ghềnh không bằng phẳng. Sách Khảo Thanh nói: Núi cao nguy hiểm. Xưa nay chánh tự viết từ bộ sơn thanh kiểm âm kiểm ngược lại âm tiếp diêm âm nghiễm âm khi nghiêm âm dưới thiêu tiều theo Thanh Loại cho rằng: núi cao, hoặc từ bộ phụ viết thành chữ tiếu.

Sàm tuyệt âm sàng hàm sách Khảo Thanh cho rằng: Sàm là núi non chập chùng cao nguy hiểm, hoặc là viết chữ tàm lại viết chữ tàm bổn tập viết chữ sàm tục dùng thông dụng.

Nhựt nhựt âm vân mật sách Thuyết Văn nói: Gió lớn từ bộ phong thanh nhựt.

Trân nhưng âm trên trất cân Mao Thi Truyện cho rằng: là cỏ mọc sum suê, lan tràn, tươi tốt, Quảng Nhã cho rằng: Sum suê tươi tốt. Văn Tự Điển nói: từ bộ thảo thanh chân âm dưới nhưng chứng sách Khảo Thanh cho rằng: Cỏ dày đặc không có cắt bỏ sách Thuyết Văn nói: Cỏ dày đặc, từ bộ thảo thanh nhưng hoặc là viết chữ nhưng tóm lược.

Vu dĩ âm trên ẩu Vương Chú Sở Từ Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: vu là uốn khúc cong queo. Sách Thuyết Văn nói: Cong lại từ bộ mịch thanh Vương Chú Sở Từ âm dưới tử kiết Trương Tiễn chú giải Lục Đô Phú Truyện rằng: Núi non khúc khuỷu, ngoằn ngoèo gọi là dĩ sách Thuyết Văn viết từ bộ sơn thanh dĩ. (923).

Phù khánh âm trên phù vưu sách Thượng Thư cho rằng: Nước mắt chảy thành sông. Khổng An Quốc chú giải rằng: Trong nước thấy có đá, có thể là đá mài. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thủy thanh phù Bổn tập từ bộ thủ viết thành chữ phù âm phổ cấu Hàn Thi Truyện cho rằng: Phù là tụ lại, chẳng phải nghĩa phù khánh.

Thổ lưu âm lưu cứu Bổn tập viết chữ lưu tục dùng thông dụng.

Liên ỷ âm trên liệt triền Mao Thi Truyện cho rằng: Dòng sông nước sạch gọi là liên ỷ. Theo Truyện nói rằng: Gió làm gợn sóng; nước thành lăn tăn gọi là liên âm dưới là y nghi Mao Thi Truyện nói: Xưa sóng này sóng từng đợt xô vào bờ. Sách Thuyết Văn nói: liên ỷ là sóng nước, đều từ bộ thủy đều thanh liên y.

Phu thạch âm bổ vô Quách Phác chú giải Kim Sơn Hải rằng: Đá giống ngọc. Nay cát lâu năm ở huyện Lâm Hồ xuất ra đất trắng, màu sắc xanh, tổng gọi mà nói: Không thể hiểu được, Cố Dã Vương nói: Tức là đá giống như ngọc hoặc là sắc óng ánh. Sách Thuyết Văn viết từ bộ ngọc thanh phu.

Thần chất âm chân dật Hàn Không Bá chú giải sách Chu Dịch rằng: Chất giống như thể, Tống Trung chú giải Kinh Thái Huyền rằng: Chất là cơ thể thân mình. Sách Thuyết Văn từ bộ bối thanh cân âm cân là âm ngân Bổn tập từ bộ túc viết thành chữ chất là sai.

Chiêu nghiêu âm trên đồ liễu âm dưới nghịch tiêu sách Khảo Thanh cho rằng: chiêu nghiêu đều là núi đứng cao sừng sững riêng một mình. Quách Phác chú giải sách Phương Ngôn rằng: Nghiêu là núi cao nguy hiểm. Sách Khảo Thanh cho rằng: Hoặc là viết chữ chiêu nghiêu âm nghịch là âm hích kích.

Lũy nguy âm trên lỗi ôi âm dưới khải ôi sách Khảo Thanh cho rằng: Lỡi nguy là núi cao, hoặc là viết chữ lỡi xưa nay chánh tự viết chữ nguy từ bộ sơn thanh nguy hoặc là viết chữ nguy.

Lung túng âm trên lung dung âm dưới thông tổng Bì Thương cho rằng: Lung túng là núi cao. Chữ nghĩa trước đã giải thích rồi.

Xưởng hoảng âm trên xương dưỡng Thiên Thương Hiệt cho rằng: Xưởng là cao rộng lớn hiểm hách. Sách Thuyết Văn cho rằng: Đất hoang dã nổi cao lên có thể ở xa trông thấy. Sách Thuyết Văn từ bộ phộc thanh thượng âm dưới hoàng quảng sách Khảo Thanh cho rằng: Hoảng là đất hoang dã vùng đất trống rỗng, cùng với chữ trong bổn tập đồng. Văn Tự Điển nói: trông ra xa hoặc là viết chữ hoang.

Nghiêu ngột âm ngô cốt chữ chỉ rằng: Ngột là núi trọc. Xưa nay chánh tự viết từ bộ sơn thanh ngột viết chữ ngột cũng thông dụng.

Thị triền âm triệt liên Bổn tập từ bộ môn viết thành chữ triền là sai lầm.

Trừng đình âm địch đinh, Bì Thương cho rằng: Nước dừng lại, Tự Thư cho rằng: Nước được lóng trong. Văn Tự Điển nói: Từ bộ thủy thanh đình

Kiêu trữ âm hy kiêu Cố Dã Vương cho rằng: Kiêu là hơi ra nóng nhiệt. Sách Thuyết Văn nói: Hơi xuất, nói: ồn ào, huyên náo. Chữ nghĩa trước đã giải thích rồi.

Bạch nhàn tình âm điểm giàn sách Khảo Thanh cho rằng: Bạch nhàn là tên con chim, giống như chim trĩ, màu trắng, có chấm đen nhỏ, đầu màu đỏ có lông xanh. Như sợi tơ, dưới bụng. Miến Đường Vân giải thích đuôi dài năm đến sáu thước. Văn Tự Điển nói: Từ bộ điểu thanh nhàn âm dưới hồ điểu Thiên Thương Hiệt cho rằng: Trinh là sáng từ ba bộ bạch

Khê kỳ âm tỵ nghi Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kỳ là đất nghìn dặm bốn phía quanh kinh thành, địa giới. Sách Thuyết Văn từ bộ thỏ thanh cân.

Hoàng phúc âm phi bức sách Khảo Thanh cho rằng: Tên loại cỏ. Bì Thương cho rằng: Phúc cỏ loại dây leo mọc có thể ăn được. Xưa nay chánh tự viết từ bộ thảo thanh bức.

Hồng mai âm mai thực Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Mai thật giống như cây dâu mọc Giang Tân, màu xanh biếc. Thiên Thương Hiệt nói: Có thể ăn được Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Dây tiêu. Âm tiêu ngược lại âm bì biểu Mai con giống như cỏ um tùm mà cọng lớn hơn màu đỏ, chua, ngọt có thể ăn được. Sách Thuyết Văn nói: Mã mai, hoặc là viết chữ mai.

Anh úc âm trên y trinh âm dưới ư lực Mao Thi Truyện cho rằng: Anh úc là tên loại cỏ. Sách Khảo Thanh cho rằng: Giống như củ cải mà nhỏ, hạt đen. Sách Thuyết Văn đều từ bộ thảo đều thanh anh úc âm úc đồng với âm trên.

Thanh hài âm giới hài sách Nhĩ Nhã cho rằng: Hài là gốc rễ, sách Phương Ngôn cho rằng: Đông Tề gọi gốc rễ là hài sách Thuyết Văn nói: Gốc cỏ từ bộ thảo Thanh hài

Thuần dẫn âm thường thiên bổn tập tự bộ khẩu viết thành chữ dẫn âm thi nhẫn sách Lễ Ký cho rằng: Cười mà không dẫn đến ra tiếng. Chẳng phải nghĩa chữ thuần.

Trù triết âm trên bộ giao âm dưới kiệt tiết Cố Dã Vương cho rằng: Tiếng chim hót líu lo, ríu rít. Sách Khảo Thanh cho rằng: Trù triết là tiếng chim trù hoặc là viết chữ trù triết hoặc là viết chữ đều thông dụng.

Quảng vũ âm vô bổ sách Thuyết Văn nói: Nhà dưới quanh nhà lớn. Từ bộ nghiễm thanh vô âm nghiễm âm nghiêm nhiễm.

Liệt thị trụ Quách Phác chú giải rằng: Thị là đi. Sách Thuyết Văn từ bộ xích thanh thị âm xích ngược lại âm đỉnh xích.

Đản phi âm cư đặng Mao Thi Truyện: Đản là dời đổi. Bổn tập từ bộ mịch viết thành chữ đăn văn chữ cổ.

Trừng đối âm trực chứng Bì Thương giải thích từng là nhìn thẳng, sách Thuyết Văn từ bộ mục thanh đăng.

Sảng khái âm khai cải Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Sảng là trong sáng, sáng sủa, khải là khô ráo. Sách Thuyết Văn nói: cao ráo, thoáng mát, chữ biến thể. Trước đã giải thích rồi.

Sản tham âm xác giản Quảng Nhã cho rằng: Sản là vót nhọn, lột. Thanh Loại cho rằng: Sản là san bằng, tiêu diệt. Sách Thuyết Văn từ bộ đao thanh tàn ầm tàn là âm tán.

Quang dược âm dương chước chữ chỉ rằng: Dược là ánh điện chớp. Sách Thuyết Văn cũng nói: Là ánh điện, chớp sáng từ bộ kiểm viết thành chữ dược là không có chữ này, sách viết sai.

Trình nhi âm tình tĩnh cùng với chữ tình đồng xem trước đã giải thích rồi.

Hoàn xuyến âm xuyên quyến sách Khảo Thanh cho rằng: Lấy ngọc vàng làm vòng đeo nơi cánh tay. Bổn tập từ bộ ngọc viết thành chữ xuyến là sai.

Linh phinh âm trên là linh âm dưới thất đinh hoặc là từ bộ viết thành linh phinh là cô đơn lặng lẽ. Xem trước đã giải thích rồi.

Thanh ủy âm nhụy duy Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Ủy là trên mũ trang sức có thắt vải buộc. Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Yếm dải anh đào. Sách Thuyết Văn gọi là buộc vải lụa trên mũ màu xanh tím. Từ bộ mịch thanh ủy

Tái dương âm dược chương Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Trên mặt ngựa là có đeo đồ khắc chạm. Buộc trên trán con ngựa, làm trang sức khi chuyển động Mao Thi Truyện, Trịnh Tiễn chú giải rằng Trên đầu ngựa gọi là dương hoặc là viết chữ dương.

Thần biệt âm biến duyết sách Khảo Thanh cho rằng: Biệt là thẩm định xét xem thiện ác, tốt xấu. Bì Thương cho rằng: Biệt là phân ra, chọn lựa chủng loại, xuất ra có dời đổi, cũng là nghĩa phân biệt cũng đồng, hoặc là viết chữ biệt đều thông dụng.

Li di âm trên li chỉ âm dưới di nhĩ chữ chi rằng: li di là thấp kém, mà dài, sách Nhĩ Nhã cho rằng: li di, khu đất, đống cát. Quách Phác chú giải là một bên đi nhanh quanh co vòng vèo từ bộ xước viết thành chữ li di âm bán âm bổ mang.

Bệ trĩ âm trên là bỉ âm dưới trì chỉ sách Khảo Thanh cho rằng: Giống thú dũng mãnh. Đất gập ghềnh. Từ bộ trĩ âm bã âm phả ba.

Khổn tằng âm trên khuy vân âm dưới tắc lăng Vương Dật Chú Sở Từ rằng: Khổn tằng là núi có đá gập ghềnh lởm chởm. Sách Thuyết Văn nói: Từ bộ thạch thanh khổn tằng âm thôi âm tồ hồi âm ngôi âm ngô hồi âm thủ âm tử dư âm ngung âm vương câu.

Quỹ ách âm trên uy quỹ âm dưới nguy quỹ Bì Thương cho rằng: Khổn tằng là đá núi quanh co chập chùng. Sách Thuyết Văn đều từ bộ thạch đều thanh quỹ nguy âm chỉ âm hương âm khuất Bổn tập từ bộ ngôn viết thành chữ khuất là âm khuất sách Chu Dịch nói: Là co duỗi, chữ nguy âm quĩ Hứa Thúc Trọng chú giải sách Hoài Nam Tử rằng: Ngụy là dối trá đều chẳng phải nghĩa khổn tằng. Khuất nguy. Đều chưa rõ nghĩa thâm áo của chữ này.

Bản tri âm trên phát vãng gọi là hiểm trở gập ghềnh.

Âm dưới trĩ tri Mao Thi Truyện cho rằng: Gò đất nổi lên trong nước, sách Thuyết Văn dốc núi hoặc từ bộ phụ viết thành phản tri từ bộ thổ thanh thị âm để là âm đế Bổn tập từ bộ tê viết thành chữ đế là bớt son của thiên tử, chẳng phải nghĩa của chữ tri phản.

Tiệt tiết âm trên tiền tiết âm dưới nghiên kiết Mao Thi Truyện nói: tiệt tiết là núi cao hiểm trở. Sách Thuyết Văn nói: Chữ triệt từ bộ sơn thanh tiệt chữ tiết hoặc là viết chữ tiết lại viết chữ khối từ bộ triệt.

Hoằng trừng âm ô hoằng Quảng Nhã nói rằng: Hoằng là nước sâu. Sách Thuyết Văn cũng nói: Là nước sâu mà to lớn, từ bộ thủy thanh hoằng.

Nhuyễn thạch âm nhu duyến Kinh Sơn Hải nói: Núi phù trư phần nhiều là nhuyễn thạch. Quách Phác chú giải rằng: Núi nhạn môn ở giữa có nhuyễn thạch trắng như băng tuyết, phân nữa là có màu đỏ. Sách Thuyết Văn: đá giống như ngọc, hoặc là từ bộ ngọc viết thành chữ nhuyễn.

Ly bạch âm chỉ tri Trương Tiễn chú giải Thục Đô Phú Truyện rằng: Ly là phát ra. Sách Thuyết Văn nói: Là thư thả, giản ra, nghiêng một bên. Xem trước đã giải thích rồi. Bổn tập viết chữ ly tục dùng thông dụng.

Vân đang âm trên vận quân âm dưới đăng tức Tả Thái Trung Ngô Đô Phú Truyện nói: Tre trúc tức là lồ ô, tre trúc. Sách Khảo Thanh đều cho rằng: Tên của tre trúc. Văn Tự Điển nói: Đều từ bộ trúc đều thanh viên đang âm lâm là âm âm ư là âm ư.

Đích lịch âm trên đinh lịch âm dưới linh đích sách

Thuyết Văn nói: Đích lịch là châu ngọc có màu sắc sáng chói, hoặc từ bộ ngọc viết thành chữ đích lịch.

Thùy thông âm thông đông sách Phương Ngôn cho rằng: Người nước Tề vật mềm mại khác thường gọi là tiểu chi. Tức là cành lá nhỏ là thông hoặc là viết từ bộ trúc viết thành chữ thông.

Đĩnh ninh âm trên đinh lĩnh âm dưới minh định sách Khảo Thanh cho rằng: ninh là nước ứ bùn. Quảng Nhã cho rằng: Nước sạch. Sách Thuyết Văn nói: Nước trong suốt, từ bộ tủy thanh ninh chữ đĩnh hoặc là viết chữ đĩnh.

Độc dung âm trên đồng lộc âm dưới thúc dung sách Khảo Thanh nói: Tên của loài chim. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Chim cứu thư. Sách Phương Ngôn nói: Giữa Tống, Ngụy, Sở gọi là chim độc dung, hoặc là định giáp, âm hạt là âm khác âm thư là âm thư Quách Phác chú giải rằng: giống như chim trĩ có năm màu sắc. Đến mùa đông là không có lông, lõa hình đỏ ối, ban đêm thì kêu. Bổn tập viết chữ độc tục quan soạn chữ.

Âu hương âm điểu câu sách Nam Việt Chí nói: Giang âu một tên của loài chim biển. Thiên Thương Hiệt nói: Lớn như chim bồ câu. Sách Thuyết Văn nói chim hải âu là loài thủy điểu, lại có tên nữa là con le le, cũng là chim ê. Từ bộ điểu thanh âu âm hiệu ngược lại âm di kiêu.

Tích đệ âm trên tinh dịch âm dưới thể đệ sách Phương Ngôn cho rằng: loài chim hoang dã nhỏ mà lặn trong nước. Sách Ngoại Nam Sở gọi là tích đệ. Loại chim này lớn đó là chim cốt đế. Quách Phác Chú Thích Kinh Nhĩ Nhã: Cao có thể huỳnh đao. Sách Thuyết Văn đều từ bộ điểu đều thanh tích đệ âm đệ đồng với trên.

Bổn tập viết chữ đệ tục dùng thông dụng.

Hạo quảng âm hiệu lão sách Thuyết Văn nói: Hạo là tiên khí bầu trời bao la. Từ bộ nhựt đến bộ phân bộ hạo là âm công lão chữ từ bộ đại đến bộ bát viết thành chữ phân từ bộ nhựt đến bộ đó tục dùng thông dụng. Bổn tập hoặc là viết chữ cụ hoặc là viết chữ mạc hoặc là viết diển, đều sai.

Hạnh lăng âm trên là hạnh Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: Hạnh là rau hạnh, mọc trong nước um tùm lá tròn, cọng thẳng, dài ngắn tùy theo nước sâu cạn. Người Giang Đông thường ăn gọi là rau hạnh, hoặc là viết chữ hạnh âm dưới lực dưng Quách Phác chú thích Kinh Nhĩ Nhã rằng: Lăng nay người ta gọi là loại cây ấu sống trong nước. Sách Thuyết Văn viết từ bộ thảo thanh lăng âm kỵ ngược lại âm kỳ ky.

Hàm lạm âm trên hàm cảm âm dưới đàm cảm sách Nhĩ Nhã cho rằng: hoa sen, hoa này. Khi nở ra rồi là dung chứa hạt bên trong. Từ bộ thảo thanh hàm hoặc là viết chữ hàm âm hàm là âm giáp khảm âm lạm từ bộ thảo thanh viêm hoặc là viết chữ lạm Bổn tập viết chữ hàm không thành chữ. (920)

Duật ngột âm trên luân ngột âm dưới ngô cốt sách Khảo Thanh cho rằng: Duật ngột là đá lớn. Hoặc từ bộ sơn viết thành chữ duật ngột.

Hội đà âm trên đồ hồi sách Thuyết Văn giải thích: Trên cao rơi xuống thấp, hoặc là từ bộ tâm viết thành chữ hội âm dưới đường hà Giả Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ: Núi cao gọi là đà sách Thuyết Văn từ bộ phụ thanh đà Bổn tập viết chữ đà tục tự thường hay dùng.

Sam thiếu âm trên phỉ hàm âm dưới tốc da sách Khảo Thanh nói: tóc rũ xuống đều từ bộ tiêu âm tiêu ngược lại âm tất diêu.

Tập diệu âm trên tầm lập âm dưới diêu chiếu sách Thuyết Văn tập diệu là sáng rực, từ bộ hỏa

Thiên hoàng âm hoảng quang Theo Tả Truyện nói: Hoàng là nước dâng đầy tràn. Lại cũng gọi là cỏ khô héo quỷ thần làm cho cỏ héo úa, sách Thuyết Văn từ bộ thủy thanh hoang.

Đãng lãng âm thang lãng xưa nay chánh tự cho rằng: Đãng là mờ mờ không sáng tỏ, từ bộ nhựt thanh đãng.

Hương tất âm tần mật Bì Thương cho rằng: Tất là hương thơm tràn ngập. Sách Thuyết Văn từ bộ hương thanh tất.

Kích kích âm dương chước sách Thuyết Văn nói:

Kích kích là nước chảy óng ánh, sáng lấp lánh.

Chi bát âm bàn mạt

Phiền chích âm trên ngã phiên Mao Thi Truyện nói rằng: nhỏ như sợi lông gọi là bao âm bao ngược lại âm bổ giao thân lửa gọi là phiền hầm lửa cháy gọi là chích sách Thuyết Văn viết từ bộ hỏa thanh phiên.

Cân phiên âm ngư cận sách Thuyết Văn: Cân là mỉm cười từ bộ khẩu thanh cân.

Phẩu lũ âm trên phổ khẩu âm dưới lũ tẩu hoặc là từ bộ thổ viết thành chữ phẩu lũ.

Điêu tường âm trên điểu liễu Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Điêu là vẽ khắc. Sách Thuyết Văn từ bộ sam thanh điều Bổn tập từ bộ điểu viết thành chữ điêu là sai âm dưới tương dương Bổn tập từ bộ thổ viết thành chữ tường tục dùng thông dụng.

Lộc tộc âm trên lung đốc âm dưới thông lộc sách Khảo Thanh cho rằng: lộc tộc là đá lởm chởm không có bằng phẳng. Bổn tập viết từ bộ thảo viết thành chữ tộc là con tằm tụ hội lại. Chưa rõ nghĩa chữ này, về lý e rằng: quái lạ sai lầm.

Khí triếp âm triêm diệp sách Thuyết Văn nói: Sợ sệt mất hơi mà nói: không ra lời, từ bộ ngôn bộ cong thanh tĩnh âm triếp ngược lại âm đàm hạp trước cũng giải thích rồi.

Xúc tích âm trên thu lục âm dưới trinh diệc Mã Bưu chú giải Luận Ngữ: Xúc tích là cung kính. Quảng Nhã cho rằng: Xúc tích là sợ sệt cung kính, xúc hoặc là viết chữ xúc sách Thuyết Văn từ bộ túc thanh tích Bổn tập viết chữ xúc là tụ lại chẳng phải nghĩa xúc tích.

Giang hoàn âm qua địa danh cũng là tên người.

Kiết cốt âm côn ngột Quảng Nhã nói: Kiết cốt là buộc chặt không mở ra được. Sách Thuyết Văn nói: Cốt cũng là kiết. Hoặc là từ bộ tâm viết thành chữ cốt.

Thảm thiếp âm thố cảm sách Thuyết Văn nói: thảm là đau đớn, lo âu, từ bộ tâm.

Ngoại đà âm đồ hà sách Phương Ngôn nói: đà là hủy hoại. Bổn tập từ bộ nhân viết thành chữ tha chưa rõ nghĩa.

Nội bì âm bì mỹ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Bì cũng là hủy hoại, từ bộ thổ.

Huất phúng âm vu vật Tiết Tông chú giải Tây Kinh

Phú Truyện: Khuất là bỗng nhiên chợt đến. Sách Thuyết Văn từ bộ khiếm thanh diêm Bổn tập từ bộ ấp viết thành chữ huất ngược lại âm đàn cam địa danh chẳng phải nghĩa bỗng nhiên.

Đế cao âm đế kế Lưu Quỳ chú giải Ngô Đô Phú rằng: Trông mong đi đến, lo lắng tuyệt vọng. Sách Thuyết Văn nói: Là bỏ đi từ bộ xước thanh đối.

Vẫn hy âm hân ký Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Hy là đau buồn, sầu bi, bi thương. Thiên

Thương Hiệt chú giải. Tiếng than khóc lớn. Sách Thuyết Văn từ bộ khiếm thanh hy

Tố âm âm tô cố Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Tố là giống như là hướng theo từ bộ nhân.

Mạch văn âm manh nghiệt sách Thuyết Văn nói: Mạch là nhìn nghiền từ bộ kiến thanh phải âm phái ngược lại âm phổ bái Bổn tập từ bộ vĩnh viết thành chữ thị tục dùng thông dụng.

Bảo tân âm bổ đạo Hán Thư cho rằng: Cái đầu người Thanh Loại bù xù tóc rối. Sách Thuyết Văn từ bộ thảo bảo cũng là thanh.

Hôn cố âm cô ngộ sách Thuyết Văn nói: Cố là bệnh lâu ngày.

Chánh thể viết chữ cố.

Hữu đạn âm đản can Khảo Thanh nói: là hết tận.

Cự đôn âm nhuận độn sách Nhĩ Nhã nói: Con trâu cao bảy thước gọi là đôn Mao Thi Truyện nói: con trâu lông vàng, đen, cũng gọi là đôn sách Thuyết Văn từ bộ ngưu

Tối nhĩ âm thôi ngoại sách Thuyết Văn nói: tối là nhỏ nhứt. Từ bộ thảo thanh tối Bổn tập từ bộ thủ viết thành chữ toát là sai lầm.

Cạnh khải âm độc đóng vận tập và tự thư đều cho rằng: cạnh là khải. Tức là cạnh tranh, tiếng gõ hoặc là viết chữ cổ.

Tróc huyền âm hiệt kiên văn tự tân lược nói: Huyền là dương cung ra bắn. Bổn tập từ bộ cách viết thành chữ huyền là sai.

Vọng thị âm thị chi văn chữ thời cổ. Bổn tập từ bộ trung viết thành chữ thị là sai.

Tối thuận âm túc dũng Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: gọi là lôi kéo hàm ngựa cho chạy mau, sách Thuyết Văn từ bộ mã thanh tốc.

Kiêu bí âm bí mi bổn tập viết chữ bí là không thành chữ xem dưới đồng.

Y khu âm trên ỷ nghi âm dưới khúc câu

Nghê ngữ âm nghe kế theo Thanh Loại cho rằng: không ngữ quên mà nói: sách Thuyết Văn nói ngủ mà nói, nói trong mơ. Từ bộ tâm tóm lược thanh nghiệt âm nghiệt ngược lại âm nghiên kiết Bổn tập viết từ bộ khẩu viết thành chữ nghệ là sai.

Bi hiệp âm tiềm diệp Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ rằng: hiệp là từ giáp đến quý là hiệp. Mao Thi Truyện nói: đạt tới. Sách Nhĩ Nhã thông suốt từ bộ thủy.

Tháp đà âm trên đàm hạp sách Thuyết Văn tháp là nước tràn ra ngoài từ bộ thủy thanh đạp Bổn tập viết chữ đạp là sai. Âm dưới đồ há sách Khảo Thanh cho rằng: mưa dầm dề, nước nhiều. Bổn tập viết chữ đà là không thành chữ.

Gian hưởng âm gian án gọi là giả danh hiệu của tướng quân.

Sản tích âm xác hạm Quảng Nhã cho rằng: sản là tước đoạt, bóc lột. Thanh Loại nói: san bằng, tiêu diệt. Hoặc là từ bộ kim viết thành chữ sản Bổn tập viết chữ sản là sai.

Liệt trần âm liên triệt Cố Dã Vương nói rằng: liệt giống như xếp hàng cho có thứ tự. Bổn tập viết chữ liệt âm lệ chẳng phải nghĩa trần liệt.

Tuấn sân âm di chất sách Thuyết Văn nói: con ngựa chạy mau, từ bộ mã thanh thất.

Đồ đĩnh âm độc đô sách Khảo Thanh nói: tên núi, hoặc là viết chữ đồ dùng nghĩa giả trá. Bổn tập viết từ bộ kim viết thành chữ đồ là không có chữ này.

Y điệt âm bì bí Mao Thi Truyện nói: không say mà phẫn nộ, giận dữ gọi là bỉ sách Thuyết Văn viết đúng từ bỉ từ ba bộ khuyển ba bộ mục hai bộ mục là mạo là ba bộ mục là ích âm quyến là âm quyến.

Gian khích âm hương nghịch sách Thuyết Văn từ bộ phụ thanh khích Bổn tập từ bộ lận viết thành chữ lân nghĩa địa danh, chẳng phải nghĩa gian khích.

Sách nghi âm sở cách sách Lễ Ký cho rằng: xe của vua tướng theo hộ giá thì phải cầm hớt đứng bên con ngựa. Trước xe Cố Dã Vương cho rằng: sách là roi ngựa, từ bộ trúc.

Khoát tốt âm hồ đoạt và sách Phương Ngôn nói: khoát là gian dối giảo hoạt. Sách Thuyết Văn: Bẽn lẽn xấu hổ, từ bộ nữ bộ hoạt thanh tĩnh sách Khảo Thanh nói rằng: viết đúng chữ khoát âm hồ quát âm thiển âm thiên hiển thiển là không biết xấu hổ.

Phiêu tiêu âm phiêu diêu Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: gió lớn từ dưới xoáy lên. Hoặc từ bộ phong viết thành chữ tiêu Bổn tập viết từ bộ hỏa viết thành chữ diêm âm diễm chẳng phải nghĩa này.

Tư thư âm trên thất tư Quảng Nhã cho rằng: tư thư là khó Cố Dã Vương cho rằng: gọi là ý ngại. Bồi hồi chùn bước, chẳng thể tiến lên. Sách Khảo Thanh viết đúng chữ thư Quảng Nhã từ bộ mục viết thành chữ duy sách vận tập viết chữ thư còn trong bổn tập đồng chữ.

Bằng vĩnh âm trên bĩ băng sách Nhĩ Nhã cho rằng: dựa vào men theo bãi cát ven sông mà đi. Sách Thuyết Văn nói: là không có thuyền bè để qua sông cũng là chữ bằng âm dưới vinh mệnh Quách Phác chú giải sách Nhĩ Nhã rằng: vĩnh là chìm dưới đáy nước mà đi. Sách Thuyết Văn từ bộ thủy thanh vĩnh.

Trở sĩ âm sừ tữ sách Nhĩ Nhã cho rằng: là bến nước. Quách Phác chú giải rằng: bên bến nước, bến sông. Sách Thuyết Văn từ bộ thủy thanh sĩ.

Vi phụ âm vũ phu sách Khảo Thanh gọi là buộc bè trúc thả xuống nước nổi lên. Văn Tự Điển nói: phù là bè trúc. Từ bộ thủy thanh phù hoặc là viết chữ phù. Bổn tập viết từ bộ phụ viết thành chữ phụ là sai. Bao tháp âm đàm hạp sách Thuyết Văn nói: tháp là giẫm đạp lên.

Từ bộ túc thanh tháp âm tháp âm tham hạp Bổn tập từ bộ hấp viết thành chữ tháp tự thư nói: không có chữ này.

Hề thủy âm khê kế sách Thuyết Văn nói: hề là nhìn. Từ bộ mục thanh hề.

Tư tư âm tử từ Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: tư tư là không biết mỏi mệt. Sách Thuyết Văn từ bộ phộc thanh tử trong bổn tập hoặc viết chữ kính là chẳng phải.

Tiêm la âm tức diêm Mao Thi Truyện nói: tiêm tiêm tức nhỏ bé. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: tiêm là sợi dây nhỏ bé, cùng với chữ tiêm là đồng.-------------------------------------

ÂM QUẢNG HOẰNG MINH TẬP QUYỂN 30

Trạo đà âm trên trạch giáo Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng: trạo là mái chèo. Sách Phương Ngôn nói: Cập cũng gọi là trạo cùng là mái chèo, hoặc là viết chữ trạo âm dưới đạt khả Thích Danh nói: đuôi thuyền gọi là đà tức là bánh lái thuyền. Sách Khảo Thanh nối tiết cũng là đà chuyển nhau mà giải thích. Sách Thuyết Văn viết chữ đà Bổn tập viết chữ đà tục dùng thông dụng.

Khế minh đảo âm trên khê kế Cố Dã Vương cho rằng: phàm là khế ước buộc chặt lại với nhau gọi là khế Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: khế là từ cần phải giao ước với nhau làm tin. Sách Thuyết Văn từ bộ đại thanh khế âm khế là âm khẩu bát Bổn tập từ bộ thủ viết thành chữ khế là sai.

Lạt tâm âm là đạt hoặc là viết chữ lạt.

Minh cầm âm cập kim Bổn tập viết chữ cầm là sai.

Khích dũ âm hương nghịch Bổn tập viết chữ lân là địa danh chẳng phải nghĩa dũ khích.

Thần bí âm bỉ mi bổn tập viết bí là tục dùng chẳng phải là sai. Khái song huyền: Khái phiên thiết chữ hải và ai. Vương Dật Chú Sở Từ nói khái là cười. Người nước Sở gọi cười là khái hoặc viết là khái.

Điều điều: phiên thiết chữ dịch và chữ điêu.

Quỳ quỳ: phiên thiết chữ ngộ và chữ ổi. Thuyết Văn nói là dáng cao từ bộ phụ và chữ quỷ (?+?).

Phiếu miết: Phiếu phiên thiết chữ phiêu và chữ diễu, chữ miết phiên thiết chữ thiên và chữ diệt. Vương Dật Chú Sở Từ nói: phiếu nghĩa là nhìn sao chổi sáng, miết là liếc nhìn. Thuyết Văn nói phiếu là màu xanh đỏ từ bộ mịch và chữ tiêu, miết nghĩa là mới nhìn từ bộ mục và tê?, tiêu gần âm túc và tiêu.

Nhiễm độn: gần âm thùy và âm luân thành độn, cũng là chữ độn.

Côn ngạc: trên âm côn, dưới phiên thiết chữ ngang và chữ các tập việt tục từ là ngạc.

Ỷ minh phiên: Ỷ phiên thiết chữ ỷ và chữ nghi và. Trịnh Chú Nhĩ Nhã nói: ỷ là gỗ dùng để đóng bàn ghế, Thuyết Văn từ bộ mộc và chữ kỳ.

Uyển luyến: uyển trên gồm âm uyển và viễn, dưới phiên thiết chữ luyện và viễn. Tập viết chữ luyện là sai.

Tịnh độ: gồm âm khiền và âm kiên tập viết tục tự. Mộ thái: Mộ phiên thiết bộ mục và chữ hồ.

Tranh vanh: Tranh phiên thiết chữ tra và chữ tranh. Manh phiên thiết chữ hoạch và chữ mạnh. Tập viết chữ doanh viết thành là sai.

Thừa điêu: Điêu phiên thiết chữ đình và chữ liêu. Mao Thi Truyện nói điêu là con ve. Thuyết Văn từ bộ trùng và chữ chu.

Luy nguy: Luy gồm âm luy và ủy hoặc viết là luy.

Tiêu tinh: Tiêu phiên thiết chữ tất và chữ tiêu, Cố Dã Vương nói tiêu là bề ngoài. Thuyết Văn từ bộ mộc và chữ tiêu

Quyển hoa: Quyển phiên thiết chữ quyết và chữ uyển. Khảo Thanh nói quyển là thâu lại hoặc viết là quyển.

Tiêu tụy: Tụy phiên thiết chữ tồi và toái.

Văn ly: Ly phiên thiết chữ lý và chữ tri. Khảo Thanh nói: ngựa ngàn dặm. Thuyết Văn từ bộ mã và chữ lệ.

Phì phì: phiên thuyết chữ phương và chữ vĩ. Khổng Chú Thượng Thư nói: phì là sáng tỏ. Thuyết Văn từ bộ nguyệt và chữ xuất.

Gian thế: âm thế, hoặc có tập bổn viết chữ thùy và chữ kiểm. Các sách không có chữ này. Viết là thế lại với bổn vận không đồng, chưa rõ thuật ấy.

Quế cương: gồm âm lao và âm tác. Vương Dật Chú Sở Từ nói: là cái rui mè. Thuyết Văn nói là cái kèo, từ bộ mộc và chữ đăng, liêu âm liêu.

Đảm vị: Đảm phiên thiết chữ đàm và cảm. Khảo Thanh nói: hoa chưa nở, nói nghĩa chữ đảm quyển hai mươi chín trước giải thích rồi tập viết chữ cũng thông.

Khi đài: Đài phiên thuyết chữ đài và nải. Lưu Triệu Chú Cốc Lương Truyện nói: đài nghĩa là khinh phụ nhau. Thuyết Văn nói đài là nghi, từ bộ mịch và chữ đài. Thư đãi: gồm âm () và cải. Quách Chú Nhĩ Nhã nói đài là mụt măng. Thuyết Văn từ bộ trúc và chữ đãi.

Thu bội: Bội phiên thiết chữ bội và chữ mỗi và. Cổ Dã Vương nói: bội là tên của xâu ngọc, một trăm thù là một quán, năm quán là một bội, hoặc viết là bội.

Long Úc: Lục phiên thiết chữ ư và chữ lục.

Mao Thi Truyện nói: chỗ nước vốn quanh gọi là úc. Thuyết Văn từ bộ thủy và chữ áo, áo cũng là tiếng.

Điêu thúc: thúc phiên thiết chữ tử và chữ lục.

Quảng Nhã nói thúc là rất. Thuyết Văn từ bộ thủ thành chữ thúc. Đề mạn: Đề gồm âm đệ và âm hề. Trước đã giải thích rồi.

Hoài tự: Từ phiên thiết chữ từ và chữ dữ Khảo Thanh nói tự là bến sông.

Thải nhi: Nhi gồm âm nhi và chí. Cổ Dã Vương nói là loại bông để trang sức. Thuyết Văn từ bộ mao và chữ thủ.

Trầm mội: mội gồm âm vũ và âm bối. Thi Truyện nói một là bệnh, chánh viết là. Tập viết là tục tự.

Kim bê: Bê gồm âm bề và mê.

Xâm xâm: Xâm gồm âm xâm và âm lâm. Thuyết Văn nói: lang ngựa đi nhanh. Thuyết Văn từ bộ mã và chữ xâm tỉnh thanh.

Táo thân: Táo gồm âm tao và âm lão. Cố Dã Vương nói táo giống như tẩy cho sạch. Thuyết Văn từ bộ thủy và chữ táo. Táo gồm âm tô và âm đáo.

Sơn oanh: Oanh gồm âm ách và âm canh. Mao Thi Truyện nói: oanh là có văn chương. Khảo Thanh nói dáng văn hay.

Lưu lương: trên gồm âm liễu và âm chu, dưới âm lương và âm chướng. Tập từ bộ thủy viết thành lượng là sai.

Minh phu: Phu phiên thiết chữ phù và chữ mưu. Khảo Thanh nói phu là cái dùi đánh trống, tập từ chữ phu viết thành, Mã Chú Luận ngữ nói: phu là trúc cây, gọi chẳng phải nghĩa đánh trống.

La điểu bang: trên âm la, kê âm điểu. Mao Thi nói: cây điểu cùng dây nữ la bám vào cây thông cây bách, Thuyết Văn nói điểu là loài cỏ ký sinh, từ bộ thảo và chữ điểu. Dưới gồm âm bồ và âm khoáng, Thuyết Văn nói là nương tựa. Từ bộ xích và chữ bàng. Tập viết có bộ thảo thanh chữ bàng là sai.

Truy hiên: Truy phiên thiết chữ chỉ và chữ kỳ. Thuyết Văn từ bộ sa và ung, ung cũng thành tiếng. Tập viết chữ không thành chữ, sai.

Hạ Thiên: Thiên phiên thiết chữ thiết là chữ tiên. Thuyết Văn nói thiên là tiến đến, từ bộ xước và chữ thiên.

Tân Tự: Tân phiên thiết chữ tiệc và chữ trăn. Khảo Thanh nói tên một nước.

Thứ phi: Thứ phiên thiết chữ thừ và chữ lợi, tên một vị quan có tài lực thời Hán, chữ nghĩa đã giải thích ở trước rồi.

Khí lưu: khí phiên thiết chữ khi và chữ ký. Khảo Thanh nói là thường, là nắm lại. Tập viết chữ là chữ hàm cách lãng, lãng gồm âm lãng và âm yến, Mao Thi Truyện nói lãng là sáng, cũng viết chữ lãng, đều thông.

Dao độn: độn gồm âm đề và âm độn. Thuyết Văn nói noi theo đổi dời hoặc viết là tuân hoặc viết là toại,?. Tập từ chữ trục, viết là viết sai.

Pháp quất: gồm âm uất và vân. Tên vị Tăng. Táp ly: Táp phiên âm chữ tô và chữ hợp.

Mân hải: Mân phiên thiết chữ mật và chữ bân. Kinh Sơn Hải nói: Mân ở trong biển phía tây, bắc có núi. Thuyết Văn nói là đông nam nước Việt từ là trùng và bộ môn.

Biếm thạch: biếm gồm âm pháp và âm luôn. Thương Hiệt Thiên nói: đâm chết. Thuyết Văn nói lấy đá chích bệnh, chính là viết là.

Tiêu sam: trên âm tiểu và âm điều gộp lại. Dưới phiên thiết chữ san và lâm. Thuyết Văn nói tiêu sam là dáng cây dài từ bộ mộc, chữ túc sâm đều là tiếng. Tập từ chữ tiêu viết thành tiêu là sai.

Liêu tịch: Liêu phiên thiết chữ liễu và chữ điều. Tập từ bộ thủy viết thành là sai.

Phiên kinh Sa-môn Tuệ Lâm

QUYỂN 100

- Âm pháp hiển truyện-một quyển.-Tuệ Siêu truyện-ba quyển.

- Vô hành Pháp sư thư-một quyển.

- Khải luận-hai quyển.

- Chi quán môn luận-hai quyển.

- An lạc tập-hai quyển.

- Bảo Phật nghĩa luận-một quyển.

- Bảo Vương luận-ba quyển.

- Kim Quyết luận-một quyển.

- Tỳ-kheo Ni truyện-một quyển.

- Quán Tâm luận-một quyển.

- Quần Nghi luận-bảy quyển.

- Thập Nhị luận-một quyển.

- Dục Tương Pháp-một quyển.

- Tội phước yếu hành-một quyển.

- Thọ dụng tam thủy-một quyển.

- Phóng sanh nghi-một quyển.

PHÁP HIỂN TRUYỆN

Khái luật tạng: khái phiên thiết chữ khai và chữ ái. Trịnh Tiên thì nói khái là than thở, chánh tự cổ kim từ bộ tâm và chữ ký.

Tuệ ngôi: ngôi phiên thiết của chữ ngoại và chữ ổi là tên của vị Tăng.

Nậu Đàn quốc: Nậu phiên thiết chữ nông và chữ ốc, chữ đan phiên thiết của chữ đản và chữ đan. Tiển Ty nói là tên người.

Trương dịch: dịch phiên thiết chữ doanh và chữ ích. Trương Dịch Sa nói là tên quận ở đất Hán. Thuyết Văn từ bộ thủ và chữ dạ.

Đôn hoàng: Đôn phiên thiết chữ đồ và chữ hồn, dưới là âm hoàng Hán Thư nói Đôn Hoàng là tên một quận. Niên hiệu đầu của Vũ Đế Hậu Phân Chức Cửu Tuyền đặt ở Đỗ Lâm gọi là Cổ Qua Châu, viết thành chữ đôn hoàng này là sai.

Khi khu: Khi phiên thiết chữ khởi và chữ nghi. Khu phiên thiết chữ khúc và chữ ngu, đã giải thích trong quyển thứ nhất Cầu Pháp Truyện. Trong truyện này từ bộ túc viết thành khi khu là sai.

Thô dữ: Thô phiên thiết chữ thả và chữ lỗ. Cố Dã Vương nói: thô là sơ lược. Thuyết Văn từ bộ mễ và chữ thả.

Chiên hạt: Chiên phiên thiết chữ chiến và chữ nhiên và. Thuyết Văn từ bộ mao và chữ chiên. Truyện viết chữ chiên cũng thông. Hàn phiên thiết chữ hàn và chữ hạt. Mao Thi Truyện nói: hạt là áo bằng lông, dệt bằng lông cừu, từ bộ y và chữ hạt âm đồng trên.

Yên di quốc: Yên phiên thiết chữ yết và kiền, Tây Vức ký trước đã nói.

Thóa hồ: Thóa phiên thiết chữ thổ và chữ ngọa, dưới âm hồ. Thuyết Văn nói hồ là ái bình ở chợ Côn ngô, hình từ chữ. Nay viết là hồ.

Tạc thạch: Tạc phiên thiết chữ tàng và chữ lặc, quyển trước đã giải thích rõ.

Thê giả: Thê phiên thiết chữ thể và chữ đê. Khảo Thanh nói: Thê là cái thang có thể leo lên, chánh tự cổ kim từ bộ mộc và đệ. Truyện Văn từ bộ túc viết thành thê là sai.

Huyền Căng: Căng phiên thiết chữ cổ và hằng. Thuyết Văn nói căng là sợi dây lớn từ bộ mịch và chữ hằng. Truyện viết chữ căng âm hoàn là sai, cũng sách viết bỏ đi bộ tâm.

Sái y: Sái phiên thiết chữ sắc và chữ giải. Khảo Thanh nói phơi khô gọi là sai. Thuyết Văn từ bộ nhật và chữ lệ.

Mậu cáp: Mậu phiên thiết chữ mâu và hầu. Cố Dã Vương nói: mậu giống như giao dịch. Nhĩ Nhã nói: mậu là cái chợ. Thuyết Văn nói trao đổi hàng hóa, từ bộ bối và chữ mão. Truyện viết tục tự (mậu)

Kế nị sắc ca vương: kế phiên thiết chữ cư và chữ lệ.

Chữ nị phiên thiết chữ ni và chữ lợi Phạn ngữ tên vị vua. Viên trâm: trên âm viên, chữ trâm gồm âm tri và chữ lâm. Thương Kiệt Thiên nói: trâm là búa chặt. Quách Chú Nhĩ Nhã nói: là chất để chặt cây, chánh tự cổ kim từ bộ mộc và chữ thậm, cũng là chữ trâm?.

Xảo đồng bạt: xảo phiên thiết chữ xảo và chữ giảo. Thuyết Văn nói xảo là đánh gõ từ bộ phộc và chữ cao. Bạt phiên thiết chữ bàn và chữ bát. Khảo Thanh nói tên một nhạc khí hình giống như con trùng nhỏ, lưng có mũi, dùng miệng đánh vào nhau để hòa nhạc.

Cấm chiến: câm phiên thiết chữ cấm và chữ cẩm. Vương Dật Chú Sở Từ nói: đóng miệng lại là cấm. Thuyết Văn từ bộ khẩu và chữ cất cũng viết là chữ cấm này.

Đồng vu: Vu phiên thiết chữ vũ và chữ cụ. Hà Lâm Chú Công Dương nói vu là cái bình. Tiếng địa phương nói là cái chén không đế. Thuyết Văn nói là bình nước từ bộ mãnh và, truyện viết tục tự là vu.

Phích lịch: Phích phiên thiết chữ sất và thi. Lịch phiên thiết chữ linh và chữ đích. Truyện viết là phích lịch có bộ tục bên cạnh là sai?.

Ủy nhiên: Ủy phiên thiết chữ ủy và vật. Thương Hiệt Thiên nói: Ủy nghĩa là tả cỏ cây rậm rạp tươi tốt. Quảng Định nói là che lấp, chánh tự cổ kim từ chữ thảo và chữ úy.

Chiên-giá-ma-na: Chiên phiên thiết chữ chi và chữ nhiên, chữ kế là chữ giá. Đây Phạn ngữ nói là nữ ngoại đạo.

Phích liệt: Phích phiên thiết chữ sất và chữ thị, dưới âm liệt.

Nhiêu Cố: Nhiêu phiên thiết chữ nải và chữ điểu. Thuyết Văn nói phần nhiều là nhiêu. Lại Nhất nói: hý lộng quấy nhau từ bộ nữ và chữ nghiêu.

La-bạt-tư-bà-mê: Chữ bạt phiên thiết chữ bàn và chữ mạt. Phạn ngữ nói tên một người Bà-la-môn.

Thừa lô: chữ lô phiên thiết chữ lộc và chữ hồ. Thuyết Văn nói lô là các đấu trên cột đội, từ bộ mộc và chữ lô. Đấu là âm đương và âm cẩu hợp lại.

Nhị sất: sất phiên thiết chữ tân và chữ mật. Nhĩ Nhã nói sất nghĩa là hợp. Hoài Nam Tử nói: số một năm trong năm âm, lấy năm nhân tám, năm nhân tám bằng bốn mươi. Cho nên gọi sất là trượng mà định. Định là lượng hai tay của người trung bình. Thuyết Văn nói sất là trượng từ bộ hệ và chữ bát.

Tàn bả: tàn phiên thiết chữ tài và chữ an. Bả phiên thiết chữ ba và chữ ngã. Cố Dã Vương nói: Bả là kiểng chân. Thuyết Văn nói đi không ngay là bả, từ bộ túc và bộ bì.

Bác sơn: phiên thiết từ chữ bôn và chữ sanh.

Hiểm hy: Hiểm phiên thiết chữ chẩm và chữ nghiễm. Cố Dã Vương nói hiểm cũng như trở. Cổ Chú Quốc ngữ nói: hiểm là nguy, tiếng địa phương nói hiểm là cao. Thuyết Văn nói là trở ngại khó khăn là hiểm, từ bộ phụ và chữ thiêm, truyện viết là hiêm có bộ sơn. Hy phiên thiết chữ hỷ và chữ kỳ. Vương Dật Chú Sở Từ nói: hiểm hy là cao nguy hiểm, chánh tự cổ kim từ bộ sơn và chữ hý.

Nhũ mi: My phiên thiết chữ mỹ và chữ bi, nghĩa là lấy sữa bò nấu đặc lại, đặc như sữa dê, tục viết chữ +? thì chẳng phải điển ngữ.

Thiên hiến cát thảo: hiến phiên thiết chữ hiên và chữ kiến. Trịnh Tiên Thi nói: hiến là dâng là tiến đến. Trịnh Chú Chu Lô nói: người xưa dâng vật cho vua và tôn trưởng nên gọi là hiến. Thuyết Văn từ bộ khuyển, âm là âm kiến. Truyện viết chữ nhũ có bộ thủ là sai. Nay không lấy văn dưới. Cổ Khách nói hiến là miến, cũng chuẩn đây giải thích không nói ra nữa.

Siêu mật: Siêu phiên thiết chữ xương và chữ chiểu, chữ chánh thể từ chữ thiểu viết tục tự.

Nhất cúc: cúc phiên thiết chữ cưu là chữ lục. Quảng Định nói: cúc là trữ chứa. Thuyết Văn nói: hai tay người xóc ra từ bộ thủ và tỉnh thanh, âm đồng trên. Thanh loại nói là chữ cúc cổ văn viết chữ cữu nghĩa đều đồng. Toát gồm âm thương và loát. Đối cữu: đối phiên thiết chữ đồi và hối dưới âm cựu (cư). Cố Dã Thương nói: đối là cái cối dùng giả gạo. Thuyết Văn từ bộ thạch và chữ chuy. Chữ cữu cũng là chữ thung.

Ngày xưa, đào đất làm cối, về sau đẽo cây hoặc đá làm hình tượng điểm giữa.

Bách Anh gồm chữ ách, chữ canh lại cũng viết là anh (cái bình).

Chân mộc, trên chữ sĩ và chữ trăn. Lại Khảo Thanh nói cỏ cây rậm rạp.

Câu lân: trên âm câu, dưới chữ túc ly. Phạn ngữ dịch xưa là câu luân.

Câu Diệm di: ở giữa chữ dụng chữ thiêm, ở dưới chữ mật, chữ ty.

Lại là Phạn ngữ.

Đạt sấn: trên là chữ đạt chét. Dưới chữ sơ và chữ cận hợp lại thành.

Thê đặng: trên chữ thể và chữ đê, trước đã giải thích, dưới chữ đăng, đặng. Truyện viết chữ đăng bộ túc chữ tục dùng.

Thiêu nhãn: trên là chữ thiếu và chữ điêu, từ tay và. Bạch tiết: áo lót trắng, chữ điềm và chữ hiệp lại chính hợp làm thành chữ chiên (niệm). Nay truyện bổn hết buộc làm âm châm lập lại sai. Rõ ràng ví dụ hợp là nệm trắng phải từ áo làm thành. Đối với chữ () cũng mất nay nên viết chữ chiên là đúng.

Mông tích: bày của. Thuyết Văn nói: tích tục từ chữ và chữ trách hợp. Truyện từ chữ thảo làm tục tự là tụ.

Nhi sa: vòng bánh xe: trên chữ nhĩ và chữ hợp lại. Thích Danh gọi là xe có cái quan (áo quan liệm) gọi là nhi. Thuyết Văn nói xe tang, từ chữ xa và chữ nhi mà thành. Truyện viết chữ là chữ sai.

Quân tù: âm tù Phạn ngữ nói là bình đồng.

Lê hoắc: trên gồm chữ và chữ (hề), dưới gồm chữ hoang và chữ quách. Quách Chú Nhĩ Nhã nói: hoắc là lá đậu nhỏ. Khảo Khanh nói hoắc là mầm đậu. Chánh tự xưa nay nói là chữ thục là đậu. Từ chữ và chữ hoắc.

Lý nghi: gồm chữ ngư (cá) và chữ ly lại tên người.

*******

HUỆ SIÊU VÃNG NGŨ THIÊN TRÚC QUỐC TRUYỆN

QUYỂN THƯỢNG

Các miết gồm chữ miên và chữ miết. Lại nói Côn lôn tên xưa. Nước Lâm Ấp lâm so với trong các nước Côn Luân, nước này lớn nhất cũng kính tin Tam Bảo nhất.

Bát đế: trên âm bát.

Cát lạt độ: chữ giữa gồm chữ lang và chữ cát hợp thành chữ lạt nói lên sự phồn vinh tốt tươi.

Bình lưu: bèo trôi âm bình, chiếc thuyền trôi xa giống như bèo cỏ nổi trên nước theo gió đi không cố định.

Thế tu: râu tóc. Trên gồm chữ thể và chữ kế hợp lại, dưới gồm chữ tương và chữ du thành chữ tu. Lại Man Di phương nam trang sức mỗi người mỗi khác, hoặc tóc hoặc cắt râu, hoặc văn thân, hoặc vắt tóc xuyên qua tai, chân buổi sáng rọi vào trong lụa. Ví dụ đều như thế, chữ này hoặc từ chữ đệ làm thành chữ thế. Hoặc từ bộ dao làm thành chữ thế. Nay truyện văn từ bộ tiêu (tá) viết thành thế tu là đúng.

Sao lược: cướp bóc. Trên gồm chữ sơ và chữ giác hợp lại, dưới là chữ lược. Hai chữ đều mượn dùng chẳng phải bổn tự.

Truân ách: gian truân khổ ách. Trên gồm chữ truy và chữ luân hợp thành. Vận thuyên nói là truân tắc (gian truân bế tắc), Chu Dịch nói là khó. Truyện văn từ bộ xước thành chữ truân là chữ truân chiên. Dưới là chữ ách chính thể, từ bộ hộ và chữ bộ.

Hồi lộ: trở lại đường. Gồm chữ huỳnh và chữ đồi.

Quảng Nhã nói đi xa về. Từ bộ và chữ hồi chữ giống cảnh xa.?: Phiên phiên: bay vùn vụt, âm thiên. Phiên phiên như chim bay từng hàng.

Yểu yểu: mờ mịt, gồm chữ yêu và chữ gộp lại.

Vận huyên nói: yểu yêu (mờ mịt) không gian bao la, cũng là sâu thẳm.

Quải tịch: quảy gậy. Sách xưa, Vận thuyên nói quải huyền (treo).

Lại đất ngô là âm quái, huấn thích chữ độc đồng, hoặc là chữ quải. Phán trường lộ.

Trông đường xa, gồm chữ phiền và chữ mạn. Lại tự thư nói trông thấy sai tà. Thuyết Văn nói: thỏ nói mắt đẹp, chữ phán gồm bộ mục (con mắt và chữ phân).? Liêu loạn: trên âm liêu, dưới âm loạn.

Sơn pha: núi sàng. Trên âm phạ và âm. Khảo Thanh nói chiếu sáng, cũng như chữ và âm bạch. Từ chữ và chữ, truyện văn từ bộ sơn thành chữ pha là sai, cũng là chữ và chữ.

Không động: mê muội. Trên âm khổ và âm cống hợp thành, dưới âm độc và âm cống hợp thành. Khảo Thanh nói dáng vẻ không thích tình, hoặc từ bộ thủ thành chữ khống tuấn (nắm giữ) tâm nhanh chóng.

Nha nộn: âm nô và chữ độn. Khảo Thanh nói nhỏ yếu hoặc là chữ phệ.

Sâm sai: Trên chữ sở và chữ, dưới chữ tắc và âm truy. Hoặc trước sau trái phải.? Du kỳ: Trên âm du dưới âm kỳ. Hoặc nói kỳ du ở nơi linh thần, thánh hiền xin nguyện cầu phước.

Kháp như: Trên âm kháng và giáp nghĩa là tương tợ.

Cổn giới: Âm côn và âm ổn thành chữ cổn. Vận Thuyên nói: tay vận chuyển làm cho xuống tóc. Hoặc từ tay làm chữ, lấy tay chuyển hoặc làm chữ. Khảo Thanh nói như xe chuyển lúa.

Khi khu: Đường núi gập ghềnh. Trên âm khởi và dưới âm khúc và ngu. Trong truyện Hiển Pháp trước đã giải thích, đồng thời từ chữ sơn.

Thương sáo: Cái cọc nhọn. Trên âm thất và dương, dưới âm sương và tróc là cái mâu dài.

Chương lộc: Con nai. Trên âm chương, con nai không sừng. Hoặc gọi là tiêu lộc con nai. Chữ còn có âm bào, hoặc gọi là kỷ lộc âm kỷ đều là một loại nai.? Đại muội: Con đồi mồi. Trên âm đại hoặc viết là (đại), dưới âm muội. Khảo Thanh nói: loài rùa, mai nói có văn, và cái gầm hoặc là sắc vàng sáng tịnh không có văn lý.

Quy: con ba ba. Trên âm quy mai nó to nhất trong các loài trùng, loại này rất nhiều như Nhĩ Nhã nói dưới gồm âm bân và diệt là loại nhỏ trong loại rùa, loài rùa hình tròn mà dưới bụng không có mai, bính bồn nước đổ, gồm âm chữ bách và mãnh. Vận thuyên nói bính là rơi tan.

Ngực nhiên: Trên âm nghi và cức lại như hình dáng vách núi cao dựng đứng.

Bột giải: vũng bể. Trên gồm âm bồn và âm một (? và), dưới âm giai và âm mãi (? và), biển lớn sủi bọt.

Hoặc nói tên của loài ba ba lớn.

Bồn khung thương: Trên âm phổ muộn, lại sóng lớn vọt lên khung thương, chỉ cho bầu trời hư không.

Chỉ thoán: trên là chữ tẩu chánh thể, gồm âm yểu và chỉ, dưới âm thương và âm loạn. Con chuột chạy vào hang là thoán.

Ngoan ngao: Con ba ba lớn. Trên âm nguyên, con ba ba lớn sống lâu thì có thần có thể hại người, cũng có thể mê hoặc người. Dưới âm đà là loại trùng sống ở nước, hình giống giữ cung, bốn chân có đuôi thân dài 5, 6 thước, da nó có thể làm trống đều có vảy hình vuông như lá cờ.

Da tử tương: Trên là âm dã tên trái cây ở phương nam, hình như là ngọn chuối làm chiếu được, vỏ nó có sợi để buộc thuyền ghe, ngâm nước mà không nát. Lại chắc thuyền lớn tận dụng nó, quả này lớn như cái chén có gai nhọn rất chắc trong trái đó màu trắng ngọt như mật, phương Nam gọi là quả thượng vị.

Mộc sách: Chữ sách dưới âm sách và chữ phiên, chỗ hoang dã người đến ở, cây thẳng như tường vách nên gọi là mộc sách, chữ sách từ bộ và chữ sách. Chữ âm đồng trên như lược giản.

Can lan: trên âm can dưới âm lan, chỗ để cột trụ tròn cây ngang phòng hộ cầm thú nên gọi là can lan.

Chùy đầu: Trên âm giai là thứ to lớn nên gọi là chùy. Áp bạc: Trên âm áp dưới âm bạch. Thuyền lớn trong biển.

Phao đả: Chữ phao gồm âm phổ và âm bao, lấy vật ném xa. Dưới gồm chữ đắc và chữ. Vận Anh nói là chữ thóa (ném).

Tuấn hoạt: Trên âm duẫn và âm nhuận, lại vách núi đứng, dưới gồm âm hoàn và âm quát nghĩa là không rít

(trơn).

Quát địa: Chữ quát gồm trên âm quan và âm hoạt là tiếng quát la, từ bộ nhĩ và chữ thiệt.

--------------------------------

QUYỂN TRUNG

Lõa hình quốc: Chữ lõa gồm âm lỗ và âm quả. Lại thân thể trần truồng không có áo gọi là lõa, hoặc từ bộ nhân thành chữ lõa, cũng là bộ thân thành chữ lõa. Nay tránh tục húy nên dùng âm và âm ngõa thế.

Trách ca quốc: Chữ trên gồm âm trương và cách, chữ dưới là âm ca nói lên sự phồn vinh.

Phệ sài: Chữ sài gồm ấm sở và giới trái.

Trượng bạt: Chữ bạt gồm âm bàn và âm mạt? Rồi có bộ thủ bên. Hất hồ: chữ hất gồm âm hương và ất.

Tiển túc: Dậm chân. Tiển gồm âm tiên và điển.

Hột lô: hột gồm âm hồ và cốt. Lại chữ lỗ đàn thiệt hô.

Tự bạc: gồm âm bàng và âm mạc hợp lại, cùng với chữ phác âm đồng với âm mạc, âm mang và âm bạc lại chữ mang gồm âm mã và âm bang.

Phần lũng: Cái mã. Trên là âm phù và âm văn, chữ dưới gồm âm lực và âm trũng.

Thủ cúc: Tay lấy, chữ cúc gồm âm cung và âm lục.

Ba-la-niệt-tư: chữ niệt gồm âm ninh và âm hiệt hợp cũng là Phạn ngữ. Trong văn từ bộ nhật viết thành chữ niệt là sai.

A-nhung-ca: âm ca Phạn ngữ, đây nói là vua Vô-ưu.

Sáp đầu: Cắm đầu. Chữ sáp gồm âm sở và âm hạp. Từ chữ và chữ là chữ hội ý.

Đồi hủy: suy đồi hủy hoại. Chữ đồi trên âm đồ và âm lôi hợp lại là chữ tồi hoại (hủy nát).

Mểu niểu: Nước mênh mông (hoặc âm diểu).

Miểu (diểu): Gồm âm di và âm niểu, là nước sông lớn. Nhất thảm: Cái nệm, chữ thảm gồm âm tha và âm cảm.

Mao liệt: Áo lông. Chữ hiệt gồm âm hàn (lạnh) và âm tiệt (cắt) hợp thành.

Thổ qua: Nồi đất. Chữ qua gồm âm cổ và âm hòa hợp lại. Thổ là cái vạc.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Ba-kỳ-tư: Ba gồm âm ba và âm cá là tiếng người Hồ. Mao ngưu: Mao gồm âm mão và âm bao hợp, là một loại trâu đuôi rất dài. Truyện viết thành chữ miêu (mèo) là sai.

Nhã khiết kể sắt: Con rận rệp. Trên âm nghiên và âm kiết hợp, kỷ âm, Sắt âm. Truyện văn tục tự tương truyền viết thành chữ thì không thành chữ.

Khao kháp: Đất sỏi đá.

Chữ khao gồm âm xảo và âm giao?. Chữ kháp gồm âm kham và âm hợp, nghĩa là đất xấu núi hiểm trở có nhiều đá.

Tác liêm: Hầu việc, chữ liêm gồm âm (), và âm niệp hợp. Nói rằng theo chữ việc theo người để làm.

Thư tha: Dùng tay để mài (xoa). Chữ tha gồm âm thương và âm ha hợp. Hoặc từ bộ thủ viết thành chữ tha, hai tay mài xoa vào nhau. Trong truyện dùng bộ túc viết thành chữ tha là chữ tha đà thì sai.

Ủy ngũ dạ xoa (năm dạ xoa đói): ủy gồm âm ủy và âm ngụy, tiếng đồng với chữ ủy và thực ghép lại.

Dật niệp: Chữ niệp gồm âm niệm và âm hiệp hợp thành, là tay nắm góc áo gọi là niệp.

Phao thân: Nhào thân. Chữ phao gồm âm và âm bao là nhào mình vào ao nước.

Ái đãi: mây kéo đen kịt. Chữ ái gồm âm ai và âm cải hợp lại. Chữ đãi gồm âm đài và âm nải hợp lại. Nghĩa là mây kéo đến muốn mưa, mây giăng phủ dày đặc.

Tạ cụ: gồm âm vân và âm uất là tiếng người Hồ, hoặc có người nói nước Tạ Việt thuộc cõi thổ nhân la.

Thiên uế: Chữ chiên gồm âm thiên và âm nhiên hợp, nghĩa là con dê hôi thối.

Chiên trang: Mặc bằng đồ bện lông.

Chữ chiên gồm âm chương và âm nhiên, chữ dưới là âm trang nghĩa là lấy lông làm thành áo.

Thi trợ (đũa, thìa): Chữ thi gồm âm thời âm Phạn âm trủy, chữ trợ gồm âm trừ và âm lự. Lại chánh tự xưa nay từ bộ trúc từ chữ trợ là lược. Trong truyện văn từ chữ trợ viết thành chữ trợ là sai chẳng phải chữ thánh tục.

Hồ miệt: Chữ miệt gồm âm miên và âm miết, là tiếng người Hồ.

Bá miệt: Trên âm ba và âm cá là tên đất. Tiểu ngực: Cao chót vót.

Chữ tiểu: gồm âm thiên và âm tiếu, chữ ngực gồm âm nghi và âm cức hợp, nghĩa là núi cao hiểm trở.

Phách địa liệt: Xé ra, tách ra. Chữ trên là âm bách. Bộc bố: Trên âm bộc dòng nước chảy.

Di trinh: Chữ di là âm di tên người, tiết độ sứ ở An tây.

Trương mạc lượng: Gồm âm đương và âm lãng, nói là tên người. Ca-sư-khất-lê: Khất gồm âm khuyên và âm ất, tiếng người Hồ.

Đời Đường nói trách nhậm.

Tề ni: chữ trai gồm âm tê và âm tế. Chữ ni gồm âm nê và âm để tên thuốc. Nói rễ cây a ngụy giống thuốc này nhưng hôi như mùi tỏi, sắc thành thuốc a ngụy.

Tấn sa: Trên gồm âm nạo và âm giao, thạch dược màu trắng, mà vàng dùng giống như bạch phàn (dùng làm thuốc) mà mềm.

Khắc tiệp: Tin thắng trận. Tiệp dưới âm tiềm và âm diệp. Minh uẩn: Uẩn gồm âm uy và âm phấn. Tên của vị tăng.

Tánh khúc: Chữ khúc gồm âm khung và âm lục là họ Khương.

Thiệu Từ Minh, âm thiệu cũng tên người.

*******

KINH CHÂU SA MÔN VÔ HÀNH TỪ TRUNG THIÊN PHỤ THƯ VỚI CÁC ĐẠI ĐỨC ĐƯỜNG QUỐC VÔ HÀNH PHÁP SƯ THƯ

Thúc kinh: chớp nhoáng. Chữ thúc gồm âm thăng và âm lục. Khảo Thanh nói thúc bỗng sáng lên.

Tập huấn nói: Bất giác sáng tối đổi dời mau chóng đi qua. Kiều anh: Kiềm gồm âm kỳ và âm diêu, chữ anh từ bộ thảo.

Giải lạm: Chữ giải gồm âm giai và âm ngãi hợp. Thanh tự như âm cổ chẳng phải dưới âm lạm và âm dạm là dây buộc thuyền, từ bộ mịch chữ hình thành.

Tuẩn mạng: Tuẩn gồm âm tuân và âm tuấn. Vận Thuyên nói mất thân theo vật gọi là tuẩn.

Bảo tự: đảo quý. Tự gồm âm tự và âm dữ, trên Thanh tự trong biển châu và thanh.

Lưỡng triệt: Triệt gồm âm triền và âm liệt hợp lại. Vận Anh nói: bánh xe đi còn vết tích. Thuyết Văn nói: từ xa và chữ triệt tỉnh lược thạnh.

Linh vũ: Vận Anh nói: lông chim từ bộ vũ và chữ lịnh.

Huyền tiên: gió dữ mạnh. Tiên gồm âm tiêu và âm diêu. Khảo Thanh nói: gió mạnh từ dưới mà lên từ bộ phong và chữ tiêu.

Thương minh: Trên âm thương, tên riêng ở Đông hải. Minh tức là tên Bắc hải, cũng có Nam hải.

*******

KHẢI LUẬN

Tiểu Chiêu Đề soạn, Tuệ Lâm âm.

TỰA

Tăng Duệ: duệ gồm âm duy và âm nhuế, tên vị Tăng. Thiện hạch: hạch gồm âm hành và âm cách. Hán thư nói: việc nghiêm xét. Thuyết Văn nói: việc khảo hạch từ tiếng á và tiếng kêu, âm hộ cổ. Luận văn từ một chữ lưỡng thành chữ là sai.

Tinh dâu: xem tinh tế tường tận.

Dâm gồm âm dủ và âm châu hợp. Đỗ Chú Tả Truyện nói dâu là đọc (xem) duyệt, tự thư là cầu, thinh loại là chữ tác (cầu), Thuyết Văn từ bộ thủ và chữ tẩu, luận văn viết tục tự (tẩu) là sai.

Ý điển: tốt đẹp. Ý gồm âm ỷ và âm khí thành. Nhĩ Nhã nói ý là tốt đẹp. Ích Pháp nói: tuân theo nhưng tốt đẹp gọi là ý. Thân hòa trong chỗ ở gọi là ý.

Mao thi: huyện nói là đại (lớn). Thuyết Văn từ chữ nhất và chữ tứ.

Luận văn từ chữ tứ viết thành chữ ý là cổ văn vậy.

Uyên hải: biển sâu thẳm. Uyên trên âm huệ và âm quyên. Mao Thi nói: biển sâu thẳm. Thuyết Văn trở về biển, bộ thủy tượng hình bộ thủy ở trong bờ phải trái (hai bên bờ). Xưa dùng chữ khốn hoặc tỉnh lược chữ thủy và chữ uyên. Luận văn dùng chữ uyên là sai lầm.

Ổi sanh: sống cho qua ngày. Ổi gồm âm và âm hối hợp thành. Hứa Thuận Chú Hoài Nam Tử nói ổi là phàm, cũng như Thương Hiệt Thiên nói đôn (trì tuệ), Quảng Nhã nói là chúng nhiều, Thuyết Văn nói tiếng chó sủa từ tiếng khuyển và tiếng úy.

Phát ký: ký gồm âm kỳ và âm khí. Khổng Chú Thượng Thư nói kỳ là cho cùng với, Đỗ Chú Tả Truyện nói là đến, Nhĩ Nhã nói là đến cập, Thuyết Văn nói rất thấy, từ chữ thả và chữ ký.

Ngạn văn: ngạn phiên thuyết chữ ngôn và chữ biến. Khảo Thanh nói ngạn là lời truyện cổ, Tả Truyện nói ngạn là có điều đó, Thuyết Văn nói huyền rằng từ bộ ngôn và chữ ngạn.

Sở quỷ: quỷ phiên thuyết chữ quy và chữ quỷ và. Mao Thi nói không phóng túng theo gọi là quỷ, Vận Thuyên nói: quỷ là dối trá, Quảng Nhã nói là khinh khi, Thuyết Văn nói là trách từ bộ ngôn và chữ nguy, Thanh Nhất Bổn nói: lời nói nhiều đầu mối gọi là quỷ, nói hai chữ cũng chưa biết gì.

Sĩ lai: sĩ gồm âm sự và âm chỉ. Nhĩ Nhã nói sĩ là đợi, Thuyết Văn từ bộ nhân và chữ hỷ.

Khánh Phật: Khánh phiên thuyết chữ khinh và chữ kinh. Mao Thi nói khánh nghĩa là không thể không nên, Thuyết Văn nói cái đồ trống rỗng, từ bộ phửu và chữ khánh và.

Hàn độc: hàn phiên âm hàn và cán. Mao Thi nói: từ hàn, văn hàn, tháo hàn, hàn mặc, lấy văn này đẹp như con gà; Trịnh Tiên nói: phát cất lên như chim bay gọi là hàn. Trong đó chỉ cho bậc hào kiệt. Văn tự điển thuyết nói là lông con gà lớn từ bộ vũ và chữ hành.

------------------------------------

QUYỂN THƯỢNG

Âu hòa: Âu phiên thuyết chữ ô và chữ hầu. Phạn ngữ, Trung Hoa dịch là trí.

Điệt thiên: điệt phiên thuyết chữ điền và chữ kiết. Đỗ Chú Tả truyện nói điệt nghĩa là lại nữa, tiếng địa phương nói là thay thế, Thuyết Văn từ bộ xước và chữ thất.

Y thánh: y phiên thuyết chữ ư và chữ ký. Khổng Chú Luận ngữ nói y nghĩa là than hận, văn tự diễn thuyết nói là bệnh thương xót, từ bộ khẩu và chữ ý, Thương Hiệt Thiên nói từ bộ ngôn viết thành y huấn đồng.

Ngạc nhiên: ngạc phiên thuyết chữ ngũ và chữ các. Tự Thư nói ngạc là lo sợ, Thuyết Văn nói ngạc là nói thẳng, từ bộ tâm và chữ ngạc, luận văn viết tục tứ ngạc thông dụng.

Linh lưu: linh phiên thuyết chữ lịch và chữ đinh. Thương Hiệt Thiên nói: linh nghĩa là nghe, văn tự điển thuyết huấn đồng tự bộ nhĩ và chữ linh.

Tri chu: tri gồm âm trỉ và âm tri, chu gồm âm trụ và âm trụ. Bát Nhã nói là tri chu là do dự. Chính viết là trù trừ, văn tự điển thuyết nói là luẩn quẩn đều từ bộ túc chữ tri, chữ giai. Chữ chu luận văn viết là trù là ngụy.

Đãi phi: đãi gồm âm đài và âm cải. Trịnh Tiên Mao Chi nói: đãi là gần, Trịnh Chú Lễ ký nói mấy, bao nhiêu. Thuyết Văn nói là nguy từ bộ ngạt và chữ đài.

Địch trừ: địch phiên thuyết chữ định và chữ lịch. Khổng Chú Thượng Thư nói: địch là tẩy trừ. Thuyết Văn nói là gột rửa, từ bộ thủy và chữ điều.

Hư hoát: hoát phiên thuyết chữ hô và chữ quát. Hán thư nói Y Cao Tổ gọi là hoát, Cổ Dã Vương nói hoát là đạt đến lượng lớn, văn tự điển thuyết nói là hanh thông, từ bộ cốc và chữ hại.

Thao quang: thao phiên thuyết chữ thảo và chữ đao. Thương Hiệt Thiên nói thao là ác của bản xứ, Thuyết Văn nói là áo xiêm từ bộ vi và thao.

Hổn nhi: hổn phiên thuyết chữ hồ và chữ cổn. Quách Chú Nhĩ Nhã nói hổn nghĩa là dáng nước đổ, Quảng Ngải nói là to lớn, văn tự điển thuyết nói dáng vẻ không phân biệt, từ bộ thủy và chữ quân.

Minh du: du gồm âm du và âm chu. Mao Thi Truyện nói du nghĩa là du nghĩa là càng, hơn. Thuyết Văn nói là độ lượng, từ bộ túc và chữ du, hoặc viết chữ du có bộ xước huân đồng.

Tệ sái: sái gồm âm trắc và âm giới. Mao Thi Truyện nói: sái nghĩa là bệnh, văn tự điển thuyết từ bộ nạch và chữ tế.

Xí hoài: xí phiên thuyết chữ cật và dĩ. Mao Thi Truyện nói như người đến gọi là xí, Tư Mã Bưu Chú Trang Tử nói: xí là mong, Thuyết Văn nói là cất gót mà mong từ bộ nhân và chữ chỉ, hoặc viết là xí.

Tuân tuân: gồm âm tuân và quân và. Không Chú Thượng Thư nói tuân nghĩa là tin. Vương Túc Chú Luân ngữ nói tuân là dãy ôn hòa cung lánh. Quảng Nhã nói là kinh, văn tự điển thuyết nói là đều, từ bộ tâm và chữ tuần hoặc âm tuân.

Thanh tuấn: tuấn gồm âm tôn và âm tuấn. Hứa Thúc Trọng Chú Hoài Nam Tử nói: tài năng hơn cả ngàn người gọi là tuấn. Chánh tự cổ kim từ bộ nhân và chữ tuân, gồm âm toàn và sung thành chữ tuấn. Luận văn từ chữ nải, viết thanh tuấn là sai.

Sảm kỳ: sảm gồm âm sam và âm giảm. Trịnh Chú Lễ Ký nói: Sảm là nghĩa cắt chặt, Thương Hiệt Thiên nói: sảm nghĩa là hơi, một chút; Thuyết Văn nói là chạy, từ bộ thủ và chữ trạm, hoặc viết là tiệm.

Duy miến: miến gồm âm miên và âm duỗi. Cổ chú quốc ngữ nói: miến là tỏ dáng suy nghĩ, Thuyết Văn từ bộ mịch và chữ diện.

Vô dạng: dạng gồm âm dương và âm lương. Nhĩ Nhã nói dạng nghĩa là lo, Thuyết Văn từ bộ tâm và bộ dương. Trí khái: khái gồm âm khai và âm ái. Hoài Nam Tử nói khảng khái, không được giận dữ, là than. Văn tự điển thuyết nói là oán hận từ bộ tâm và chữ ký, hoặc viết là khái hoặc viết khái.

Thành tiệm: tiệm gồm âm thiêm và âm yếm, tả truyện nói tiệm nghĩa là phòng cửa mà giữ, Chu Thư nói ao không có ngòi mà giữ. Thư Nhất nói là hào trong thành, Thuyết Văn nói là các gờ từ bộ thổ và chữ trạm. Gồm âm ngữ và ngật hung ấp.

Trên gồm âm vong và âm phông?+?. Nhĩ Nhã nói hung nghĩa là không, văn tự tập lược nói là vu khống cũng viết là, Thuyết Văn viết, văn viết là. Dưới gồm âm ư và cấp. Đại Tải Lễ nói suốt đời giữ áy náy này. Vương Chú Sở Từ nói lo là ấp. Thuyết Văn nói không được lui từ bộ tâm và chữ ấp.

Tỉnh táo: táo phiên thuyết chữ tao và đáo. Ích Pháp nói thích biến động dân gọi là táo. Cổ chú quốc ngữ nói là quấy nhiễu. Luận ngữ nói chữa kịp mà nói gọi là táo, văn tự điển thuyết nói là động, từ bộ túc và chữ táo.

------------------------------------

QUYỂN HẠ

Diễu mang: diễu gồm âm di và âm miễu. Văn tự điển thuyết nói diễu là bao la, chánh tự cổ kim diễu là tràn, từ bộ thủy và chữ diễu. Dưới gồm âm mang và âm bảng. Vương Chú Sở Từ nói mang là bằng phẳng. Hoài Nam Tử nói mờ mịt là mang, con sông nguyên rộng lớn không biết cửa của nó. Cố Dã Vương nói là tả dáng rộng lớn. Văn tự điển thuyết thấm khắp là mang từ bộ thủy và chữ mãng.

Khuếch nhiên: khuếch gồm âm khổ và quách. Trịnh Chú Lễ ký nói khuếch nhiên là dáng vẻ quấy động tâm. Quảng Nhã nói là rỗng không, Thuyết Văn từ bộ nghiễm và chữ quách.

Hoảng hốt: hoảng gồm âm hô và âm quảng. Hốt gồm âm hôn và âm cốt. Lão Tử nói là vật đối với đạo duy hoảng duy hốt. Vương Chú Sở Từ nói dáng thất ý. Văn tự điển thuyết nói dáng hôn loạn đều từ bộ tâm và chữ hoang.

Yểu minh: yểu gồm âm yêu và kiểu. Quách Chú Mao Thi nói yểu là u tịch vắng lặng, Thuyết Văn nói là sâu xa từ bộ huyệt và chữ ấu. Luận văn viết chữ âu là sai.

Dưới gồm âm mạc và âm bình hợp thành tiếng minh. Mao Thi Truyện nói minh cũng là sâu xa. Quách Chú Nhĩ Nhã nói người ấu trĩ gọi là minh (mờ mịt), văn tự điển thuyết nói là tối tăm trăng ngày mười sáu mới khuyết, từ chữ nhật, chữ lục bộ quynh.

Ưởng ưởng: gồm âm vương và âm lượng thành ưởng. Thương Hiệt Nhiên nói ưởng là oán hận. Sử ký nói ý này ưởng ưởng là không phục. Quảng Nhã nói là cưỡng bách. Thuyết Văn từ tiếng tăm và ương.

Hoạch nhiên: trên âm hoa và âm mạch hợp thành hoạch. Mạnh Tử nói bình hư vẽ quét thêm, Thuyết Văn nói dùng cái thùy và dao là hoạch từ chữ lực và chữ họa viên (kéo) âm tuyên.

Ủy đăng: trên âm uy và âm vuất hợp thành ủy. Thương Hiệt Nhiên nói ủy là cỏ cây xanh tốt. Chư dịch nói văn này là ủy. Cố Dã Vương nói lăn nhăn. Văn tự điển thuyết nói là xanh tốt (mậu) từ chữ thảo và ủy. Vuất gồm âm vân và uất.

Khiếu thể: trên gồm âm các và âm điếu. Quách Chú Lễ ký nói khiếu là cái lỗ. Thuyết Văn nói là cái hang, từ bộ huyệt và chữ yếu.

Đề bang: gồm âm bách và âm manh hợp thành bang. Quảng Nhã nói bang là đánh. Hán thư nói chữ mục (con mắt) bảng (cái bảng) bách (trăm) mắt đánh cỏ trăm. Thanh loại nói là si (đánh), Thuyết Văn nói là yểm (bưng che) từ bộ thủ và chữ bàng.

Khế thất giác: trên gồm âm khi và âm kế hợp thành kế. Mao Thi Truyện nói khế là nghỉ ngơi, văn tự điển thuyết nghĩa đồng, từ bộ tâm viết là khế huấn dùng đồng. Thần ký: âm cơ và âm trí thành tiếng hý, hý là không xứng đáng lực ấy mà xứng đức ấy, Thuyết Văn nói ngựa chạy ngàn dặm từ tiếng mã và tiếng ký.

Huyền xa; âm xuy và âm chu hợp thành xu. Chu Dịch nói là then cửa. Vi Phát Hàn Khang Bà nói then chốt (xu) chủ chế động. Quảng Nhã nói là gốc, văn tự nói cánh cửa là xư từ tiếng mộc và khu.

Chất cốc: gông cùm. Gồm âm chân và âm nhật thành tiếng chất. Âm công và ốc thành tiếng cốc Trịnh Chú Chu lễ nói nơi tay gọi là chất nơi chơn gọi là cốc. Văn tự điển thuyết nói chất là tay bị trói, cốc là chân bị trói, từ tiếng mộc, chí, cào.

Thai sác: gồm âm khổ và âm giác. Tự thư nói chim mới đẻ. Thuyết Văn nói là trứng từ tiếng noãn và tiếng cốc (lúc).

Bất nạo: gồm âm nao và âm giao thành tiếng của nạo. Tả truyện nói anh nao là nhiễu loạn đồng minh với ta. Quảng Nhã nói là loạn, thanh loại nói là quấy (giảo), Thuyết Văn nói là nhiễu (quấy nhiễu) từ tiếng thư và nghiêu hợp lại.

Quyên quái: trên âm cổ và âm huyệt gộp thành quyệt. Quách Chú luận ngữ nói quyệt là dối trá. Tiếng địa phương nói tự quan hệ mà phương đông nói dối trá là quyệt. Thuyết Văn nói quyền là quyệt. Lương Ích nói: dối trá thiên hạ là quyệt, từ tiếng ngôn và duật.

Bất cai: cai gồm âm cải và củ hợp thành. Cổ chú quốc ngữ nói cai là đầy đủ. Quảng Nhã nói là cáo mách, phương ngôn nói là hàm (đều khắp cả), văn tự điển thuyết nói đều (giai) từ chữ ngôn và chữ hợi.

Phảng phất: tên gồm âm phương và âm ang. Dưới gồm âm phương và âm vật. Hán thư nói ngấm ngầm với phảng phất tương tợ. Tây Kinh Vũ nói: phảng phất giống như chữ miệt (tinh vi), văn tự điển thuyết nói nghe thấy không rõ ràng, từ tiếng tiêu, phương và phất.

Điềm đạm: gồm âm điệp và âm kiêm thành điềm. Khổng Chú Thượng Thư nói: điềm là an ổn, văn tự điển thuyết nói là tĩnh, từ tiếp tâm, điềm, tĩnh (?).

Mạc Khuy: Khuy gồm âm mạc và âm quy: Thuyết Văn nói khuy là thấy ít. Từ tiếng huyệt (hang) và quy (quy tắc) hoặc viết chữ khuyết đồng.

Nhân tập: tập gồm âm toản và âm lập. Mao Thi Truyện nói tập là tụ, Tự Lâm Phàm nói thu cất vật là tập Thuyết Văn từ tiếng qua và.

Dung trị: âm dã, Thuyết Văn nói trị cho kim loại và lửa nung cho chảy gọi là trị từ tiếng băng và đài.

Nang quát: trên gồm âm nặc và âm đang gộp thành nang. Mao Thi Truyện nói: lớn gọi là nang. Tự thư nói sâu gọi là nang, thuyết và từ chữ nang chữ tương tỉnh lược, nang mượn âm tương, âm tương.

Uông tai: Uông gồm âm ô và âm quang hợp lại. Đỗ Chú Tả Truyện nói: uông là trí (cái ao), Vương Chú Sở Từ nói: biển lớn rộng vô cùng. Hán thư nói là ao rộng vạn khoảnh. Thuyết Văn biển sâu rộng từ tiếng thủy và vương. Dưới là âm tai, Vận Thuyên nói là trợ tự, Thuyết Văn nói là gián từ tiếng khẩu và. Âm đồng với tục viết.

*******

CHỈ QUÁN MÔN LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Trí nghĩ: Nghĩ gần âm ngư và âm khải. Nhĩ Nhã nói nghi là yên tĩnh, Thanh loại nói là nhàn rỗi. Tự Thư nói dáng vẻ đẹp. Thuyết Văn nói dáng vẻ đoan trang từ tiếng hiệt và khải. Tạo luận nói tên của thiên sư.

Tật đố: Đố gồm âm đô và âm cố tạo thành. Thuyết Văn nói vợ ghen chồng, gọi là danh lợi khởi. Như chuẩn theo đây nên biết từ bộ nữ từ bộ hộ là chữ hình thanh cũng có từ bộ hậu từ bộ thạch là sai.

Do tạ: tạ gồm âm tình và dạ từ tiếng thảo và ta.

Thuyết dị hành na: nói dễ làm khó, dị là âm di và thi, hành âm hạnh và âm canh.

Giai thê: trên âm giai. Khảo Thanh nói lên bậc cấp thềm, Thuyết Văn nói thềm từ chữ phụ và giai. Dưới là thể và. Cổ chú quốc ngữ nói thê là giai (thềm), Thuyết Văn huấn đồng, Cổ Quỳ nói chữ hình thanh.

Tri xúc: xúc gồm âm xung và chúc hợp thành xúc. Trong chỉ quán chữ tục là. Văn dưới lại có đều chuẩn đây biết.

Trao hối (điệu hối): gồm âm điều và diệu hợp thành tiếng điệu. Khảo Thanh nói điệu là động lay. Thuyết Văn nói là diêu (lay), cũng từ bộ thủ. Trong chỉ quán từ bộ tâm viết thành chữ điệu là sai, sách viết tả người là lầm.

Hí hước: trên âm hy và nghĩa. Nhĩ Định nói hý cũng là hước. Khảo Thanh nói là lộng (hý lộng). Thuyết Văn từ tiếng qua và hước. Hước âm nghĩa dưới âm hương và âm ngược, Quách Chú Nhĩ Nhã nói tướng điệu là hý, Thuyết Văn nói hước là hý, từ bộ ngôn và chữ ngược, Thuyết Văn nói chữ ngược trên từ bộ hổ dưới chữ ngưỡng và chữ qua, viết do từ người mất chữ thông tục. Tao động: Tao gồm âm tảo và tao. Khảo Thanh nói là man động (lay động) hoặc từ chữ mã viết than nghĩa cũng thông. Thuyết Văn là quát từ bộ thủ và chữ tao. Tao âm tảo từ chữ đất thành chữ tao, cổ văn chữ trảo. Quát gồm âm quan và âm hoạt.

Nhị xuyễn: gồm âm xuyên và âm nhuyễn hợp thành xuyễn. Nghi lễ nói nhuyễn là mềm, Hàn Thư nói binh kết thấy trâu là xuyễn. Thuyết Văn nói thở nhanh từ chữ khẩu đoan.

Tuyên lưu: gồm âm tường và âm duyên hoặc viết chữ đều tục tự. Thuyết Văn nói chính khi viết chữ người không biết rõ liền cho là chữ thứ. Các Nho lạm nhau tùy ý đua nhau viết không đồng. Thúc Triết viết là tuyên, Cổ Nghi viết là di, Sử Dịch Đại Trác viết là, từ hai bộ thủy cổ nhất không nhập thời dùng, Thuyết Văn viết là thứ từ bộ thủy từ bộ khiếm, tập huấn nói tuyên là nước giải trong miệng. Nay y vào thuyết văn, ngoài ra đều không lấy.

Phiền táo: táo gồm âm tao và âm đáo hợp lại chữ thường dùng. Cổ Chú Quốc Ngữ nói: táo là quấy, Trịnh Chú Luận ngữ nói không an tĩnh, Cố Dã Vương nói táo là động, Thuyết Văn thì từ bộ thủ và chữ tảo âm tang và đáo.

Toản hỏa: gồm âm tổ và đoan hợp thành tiếng toản, hỏa là toại (bó đuốc), Thế Bổn nói: toại là người dân khoan cây ra lửa từ bộ kim và chữ tán. Trong chỉ quán từ bộ thủ viết thành chữ toản là sai.

Trừu lượng: gồm âm trụ và âm lưu, chữ lượng từ chữ đồng (đứa trẻ).

Đối trị: trên chữ đối chính từ âm trang, học. Từ bộ thổ từ bộ thủ, nay tục từ bộ chí là sai dưới âm trì.

Đặng mông: trên gồm âm đăng và đặng tạc thành, dưới âm điệp và bằng lại là chữ khứ thanh. Khảo Thanh nói đăng mông là tinh thần không sáng sủa, đều từ bộ chỉ quá từ bộ mục vất là sai. Bằng âm bắc và chữ mông.-----------------------------------

QUYỂN HẠ

Thị thuấn: trên gồm âm thủy và âm nhuận gộp thành thuấn. Thuyết Văn nói mắt động cũng viết là diễn. Trong chỉ quán từ chữ tuần thành chữ tuần là chữ huyền tục dùng từ chữ tuân là sai.

Ủy đà: trên gồm âm ủy và đoàn. Tự Kính nói: cỏ cây tàn tạ hoặc từ bộ ngạt viết là cũng đồng. Dưới gồm âm đa và khả, Vận Thuyên nói: cỏ cây khô héo, chỉ quán nói ủy đà e sai mất đi ý kinh.

Tinh mỵ: gồm âm my và âm ký hợp thành. Khảo Thanh nói quỷ thần là quái. Thuyết Văn nói vật già là tinh, từ bộ sam và quỷ, hoặc từ chữ vị viết thành chữ mỵ, hoặc từ chữ vật viết thành mỵ đều là tục tự. Nay trong chỉ quán từ bộ nữ viết thành mỵ là sai, mỵ là duyệt (vui) là mỹ, là ái. Như vậy chẳng phải nghĩa của kinh.

Đồi dịch: gồm âm đô và hồi hợp thành tiếng đồi. Dưới gồm âm thính và diệc. Thuyết Văn nói chữ đồi chính viết là bộ phụ tượng hình, trong chỉ quán từ bộ thổ viết thành là sai. Chữ dịch từ bộ tâm và chữ dị, đồi là tên loài quỷ ác, không tìm nghĩa chữ.

Hổ hủy: gồm âm hô và âm cổ hợp thành hổ. Thuyết Văn nói là thú ở núi rừng từ chân hổ giống chân người. Cho nên dưới từ bộ nhân, âm dưới giống như Thuyết Văn nói là loài thú. Hình tượng như con ngựa hoang màu xanh, với cầm thú ở núi giống nhau, chỉ quán từ bộ khuyển viết thành là sai.

Thố chủ: chữ trên gồm âm thổ và âm cố hợp. Thuyết Văn nói tên loài thú hình dáng ngồi xổm. Chữ thố và thô giống nhau cho nên từ sau chữ thô tỉnh lược bộ phiệt, hình tượng cái đuôi của nó. Dưới âm chủ Thuyết Văn nói thuộc loài nai một sừng mặt lớn, từ chữ lộc và chữ chủ. Phiệt âm gồm âm thiên và miệt.

Xà (thà) mãng: gồm âm thời và âm giá hợp hành thà. Dưới âm mạc và âm bảng hợp lại là loài lớn nhất trong loài rắn gọi là mãng.

Long đà: gồm âm đường và âm hà thành đà. Thuyết Văn nói loài sống dưới nước, Trường Văn Hứa nói là có rắn thằn lằn mà lớn từ bộ mãnh và chữ đan âm quách từ chữ lý. Từ chữ đan là sai. Trong chỉ quán dưới từ bộ quy (rùa) là sai.

Hầu cù: trên gồm âm hầu dưới âm quỷ và âm cự. Thuyết Văn nói con vượn mẹ, Thiện Cố Miện nói con cù hay bắt người. Hầu là con khỉ vượn tục gọi là hồ tôn.

Thú tinh mỵ: trên gồm âm thú và âm chú hợp thành thú, cũng nhầm dùng chữ thú (cầm thú) và chữ thủ là đúng.

Thặng thực kỳ nhơn (thừa thức ăn người này): văn dưới lại nói thặng là vợ chồng, thặng gồm âm thừa và âm chứng, tục thế gian nói là từ lời giữa sở dĩnh. Nói thừa là như thế, ý nói há có thể tiện như thế là ý này, bởi vậy đại sư hương âm sở nói là lời.

Khô tích: trên gồm âm khổ và âm cô thành tiếng khô. Lại dưới gầm âm tinh và âm diệc. Hà Chú Công Dương Truyện nói tích là bệnh. Người Tề nói từ bộ chữ phòng là chữ hình thanh.

Ế tắc: gồm âm yên và âm kết thành tiếng ế. Khảo Thanh nói: hơi thì mắc nghẹt nơi cổ thức ăn không xuống. Dưới gồm âm tăng và âm tắc hợp lại, Thuyết Văn nói tắc là lấp. Từ bộ cũng âm cũng từ bộ miên âm miên. Từ (tiển) từ bộ thổ miên giống như các nhà mở cửa dụ bằng âm tiển.

*******

AN LẠC TẬP

QUYỂN THƯỢNG

Liêu giản: trên gồm liễu và âm điêu. Khảo Thanh nói: liêu là dặm, thông tục văn viết là liêu vơ lấy. Thời nay phần nhiều dùng chữ liêu.

Thuyết thanh nói liêu là chọn lực, từ bộ thủ và chữ liêu. Chữ liêu tuy là chính thể vì liên can đến xưa khó dùng trong tập từ bộ mễ và bộ cân viết thành thì sai.

Dưới gồm âm gian và âm nhân. Khảo Thanh nói giản là chọn lựa, Thuyết Văn nói phân biệt là giản. Từ chữ giản từ bộ chữ bát, bát là phân biệt. Tục dùng hoặc từ bộ thủ từ chữ giản thành chữ giản là sai. Trong tập viết là giản là chẳng phải nghĩa, văn dưới chuẩn theo đây nên biết.

Biện chư: trên gồm âm biệt và âm miễn. Trịnh Chú lễ ký nói biện là khảo hỏi để được định ổn, Thuyết Văn nói luận là trị, từ bộ ngôn và chữ biện. Biện gồm âm biến và âm miễn, trong tập dùng chữ biện chẳng phải ở đây dùng.

Toản thấp mộc: toản gồm âm tổ và âm toan hợp lại, Luận ngữ nói toản (khoan) tức là đồ lấy lửa. Hán thư nói toản (cái khoan) loại có mũi nhọn, Thuyết Văn nói vật để (xuyên) xâu qua từ bộ kim và chữ tán, bổn tập từ bộ mộc viết thành chữ toản là sai.

Chữ dưới gồm âm thi và âm nhập hợp thành, Cố Dã Vương nói là thấm nhuần. Khảo Thanh nói thấm ướt, Thuyết Văn nói tối tăm là chữ thấp, mỗi mỗi che đậy, che đất mà có nước gọi là thấp từ chỗ thấp tĩnh lược, trong tập viết chữ thấp là sai.

Tích càn tân (chặt củi khô): trên gồm âm tinh và âm diệc. Khổng Chú Thượng thư nói tích là phân tách. Thanh Loại viết là chữ phách. Thuyết Văn nói chặt cây từ bộ mộc và bộ cân. Trong tập từ bộ thủ và bộ phiến tục tự là sai.

Phỏng tiền: trên ám phỏng và âm ưởng. Khảo Thanh nói phỏng là bắt chước. Công Dương Truyện cũng y theo, Thuyết Văn nói từ bộ nhân viết thành tương tợ từ bộ nhân và chữ phóng Lưu Văn viết là.

Bình nhiên: trên gồm âm binh và mãnh, Quảng Nhã nói bính là sáng sủa, Thuyết Văn từ bộ nhật và chữ bính hoặc viết thành cũng đồng.

Sâu nguyên: trên gồm âm sấu và âm châu hợp thành. Trong Khải luận trước giải thích rõ rồi.

Thiên cục: gồm âm cọng và âm ngục hợp thành tiếng cục. Quảng Nhã nói cục là phần, Nhĩ Nhã nói cục là phân. Đại Tải Lễ chư hầu đều lấy chữ cục này là vị trí. Mao Thi Truyện nói cục là cong, tả truyện nói các ty là cục, Trịnh Chú lễ ký nói là bộ phận, Thuyết Văn thì nói cục là thúc giục từ bộ khẩu và bộ thi dưới lại có bộ bao là chữ tượng hình.

Mậu đắc: trên gồm âm mâu và âm hầu. Nhĩ Nhã nói mậu là chợ, là mua. Cố Dã Vương nói mậu như buôn bán ở chợ chánh tự cổ kim từ bộ bối và á. Âm mặc trong tập viết là ngoa.

Thúc nhĩ: trên gồm âm thư và âm dục, Vương Miễn Chú Sở Từ nói: thức là nhanh bỗng như điện chớp. Quảng Định nói thúc là ánh sáng. Thương Hiệt Thiên nói là chợt, chánh tự cổ kim nói đến đi nhanh chóng, từ bộ hỏa và chữ du hoặc từ bộ khuyển viết thành đều đúng. Chậm điểu: trên gồm âm trầm và âm thầm hợp thành tiếng chậm (trậm). Khảo Thanh nói là loài chim độc dữ. Quách Chú Nhĩ Nhã nói lớn như chim tiểu điêu màu tím xanh, cổ dài đỏ thường ăn rắn tục gọi là chim ở sôn. Đỗ Chú tả truyện nói lông nó có độc. Chánh tự cổ làm từ bộ điểu và chữ. Âm dâm bổn tập từ chữ tây viết là sai.

Khả Tô: gồm âm tố và âm thô hợp thành tiếng tô.

Khảo Thanh nói tô là ngộ (tỏ ngộ), Khổng Chú Thượng

Thư nói là thở, Tịnh Chú Lễ nói thở lại gọi là tô, Thanh Loại nói tô là sống lại, chánh tự cổ làm từ bộ hòa và bộ ngư, tập viết thành chữ tô, Đại Chu Triều nói chữ ngụy là sai.

Trì sính: trích gồm âm trình và âm dĩnh, Thuyết Văn nói chạy thẳng, chữ hình thành gồm âm sất, đinh, trong tập viết viết là nhầm.

Sấu chưởng: gồm âm tẩu và âm trứu hợp thành tiếng sấu. Tập huấn nói sấu là rửa, rửa cũng là chữ chưởng, Thuyết Văn từ bộ thủy và chữ sắc, âm đồng.

----------------------------------

QUYỂN HẠ

Hiểm kính. Gồm âm hy và âm kiểm gộp thành tiếng hiểm. Cố Dã Vương nói hiểm như trở ngại. Cổ Chú quốc ngữ nói là nguy, tiếng địa phương nói là cao chánh tự cổ kim nói là nạn từ bộ phụ và chữ thiên. Âm phụ, tập từ bộ sơn viết là sai.

Dưới gồm âm kinh và âm định. Quảng Nhã nói kính là tà, kính là qua, kính là dấu vết, không tuân theo con đường lớn mặc quanh co mà đi gọi là kính. Cố Dã Vương nói là con đường tắt nhỏ. Thuyết Văn nói đường bộ từ bộ xích và.

Dụng ngại: dưới gồm âm ngũ và âm hội hợp thành ngại. Quách Chú Nhĩ Định nói là vật rắn chắc. Khảo Thanh nói là dụng cụ xay lúa. Bổn thế nói công thâu lúc đầu viết là ngại, Thuyết Văn viết là ma, từ bộ thạch và chữ khởi.

Sử vũ: trên gồm âm sư và âm xí hợp thành sử. Thương Hiệt Thiên nói sử là nhanh, văn tự điển thuyết nói ngựa chạy nhanh từ bộ mã và chữ sử.

Kim tràng tràng phan vàng: gồm âm trạc và âm giang từ bộ cân mà không từ bộ tâm.

Nhương thử: gồm âm nhưỡng và âm chương hợp thành nhương. Quách Chú Chu Lễ nói biến dịch là nhương, Quảng Nhã nói là tạ lỗi, Thuyết Văn từ bộ kỳ và chữ tương, trong tập viết bộ thử làm thành chữ nhương là sai chẳng phải nghĩa này. Kỳ là âm kỳ.

Như hướng: gồm âm thương và âm xướng thành hướng. Quảng Nhã nói hướng nghĩa là tặng làm quà, Thuyết Văn viết chữ hương từ bộ thực và chữ hướng, âm hướng cức lạt.

Trên âm cạnh và âm ngực hợp thành cức. Quảng Định nói cức là kim, Đỗ Chú Tả truyện nói cức là cái kích như chánh tự cổ kim nói cây gai nhỏ sống rậm rạp xanh tươi đều từ chữ thúc. Tập bổn từ bộ thảo viết thành chữ cức là sai.

Dưới gồm âm thư và âm tứ. Quảng Nhã nói cây kim gọi là thích, từ bộ đao và chữ cầu. Tập bổn viết thành thích là sai.

Phích lịch: gồm âm phiến và âm bích hợp thành khích, dưới gồm âm linh và âm đích trước đã giải thích rồi.

Độc thú: trên là chữ độc chính, dưới gồm chữ thu và chữ chú gộp thành, Thuyết Văn từ bộ khuyên và, tập viết là thú đông lạp là sai nghĩa này.

Cao tường: trên gồm âm ngạo và âm cao. Dưới gồm âm tượng và âm dương hợp lại, Trịnh Tiên Mao Chi nói: cao tường là tiêu diêu. Hàn Thi nói là ngao du, Thuyết Văn từ bộ vũ,, dương đều là tiếng.

Hôn mạo: dưới gồm âm mao và âm báo hợp thành mạo. Lễ ký nói già tám mươi, chín mươi tuổi gọi là mạo. Đỗ Chú tả truyện nói là loạn, chánh tự cổ kim từ bộ lão và mao.

Huỳnh huỳnh: gồm âm quỳ và âm doanh. Khảo Thanh nói huỳnh là cô đơn. Khổng Chú Thượng Thư nói là đơn chiếc. Mao Thi Truyện nói không nơi nương tựa, Thuyết Văn từ chữ và tỉnh thanh, tập viết tục tự.

Tung tung: gồm âm thương và âm hồng, bi thương công nói: là vội vàng, Thanh Loại nói là nhanh, âm chung tập huấn nói tung tung là tâm động.

Cổ kim chánh tự nói chính tung là lần lượt thay đổi từ bộ tâm và chữ công, âm cự ngự cự là vội vàng.

*******

CỔ PHÁP NGHĨA LUẬN

Trù Thiền sư soạn-Tuệ Lâm âm.

Cổ tục: cổ gồm âm công và ngọ, Khảo Thanh nói không có mắt gọi là cổ, giải thích chữ cổ là hai ngã, miên miên như vậy, cổ gồm bộ bì (da) và con mắt lấy tên để gọi, Thuyết Văn nói mắt nhưng có màng, như chữ cổ (trống) từ bộ mục tiếng cổ.

Thâm tịnh: tịnh gồm âm tịnh và âm dĩnh, Trịnh Chú Chu Lễ nói xuyên đất làm hào để bắt thú. Lễ ký nói đuổi theo mà trong các hầm được hố bẫy, Quảng Nhã nói là cái hầm, cổ văn viết là huỳnh, Thuyết Văn nói là cái hố từ bộ phụ và chữ tịnh.

Thiêm nhật: thiêm gồm âm thiếp và âm iêm. Quách Chú Phương ngôn nói thiêm là đồng, Quảng Định nói là nhiều, Thuyết Văn nói là đều từ âm tẩm, và âm nghi âm tùng.

Đệ vi: đệ gồm âm đề và âm lễ hợp thành, Nhĩ Nhã nói để là thay đổi, chánh tự cổ kim nói lại đổi dời từ bộ xước và (ty) hoặc viết theo cổ văn đệ. Ty gồm âm tỷ và âm ty, luận văn viết chữ tục dùng không thành chữ.

Niêm ngoại: niêm âm niếp và âm liêm. Khảo Thanh nói niêm là vật gì có chất dính gọi là niêm. Thương Hiệt Thiên nói: là hợp Thuyết Văn nói dính nhau từ bộ thử và chữ chiêm, luận viết chữ niêm tục tự thông.

Chi ly: gồm âm lặc và âm tri thành ly, Quảng Định nói là ly là dính, chánh tự cổ kim nói vật có mũ cây dính có thể bắt chim là mũ cây, từ bộ thử và chữ ly. Luận văn viết là ly tục tự ngoa lược vẫn hỷ.

Vẫn gồm âm vân và âm quẫn. Khảo Thanh nói vẫn là tự vận, văn tự điển thuyết nói là chết tự bộ ngạt và chữ viên hoặc viết là vẫn. Luận văn viết vẫn đúng nghĩa này. Võng man: man gồm âm mạt và âm bàn hợp thành, cang mạt là mười ngón tay của Như Lai giữa có màng liền nhau như chân của con ngoan chúa nhưng có màu sắc dẹp giống như lưới nên gọi là cang man.

*******

NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

Minh hựu: hựu gồm âm hưu hợp thành, Thuyết Văn nói dùng mũi để ngửi gọi là hựu, từ bộ tị (mũi) và chữ xú (hôi).

Chuy thù: chuy gồm âm chỉ và âm sư, thù gồm âm thù, theo các kinh Tôn Tử Cửu Chương nói, phàm một cân bắt đầu từ lúa, mười cân là một lũy, mười lũy là một thù, mười thù là một chuy, chuy tức là phân.

Âm phần hỏi: bốn phân là một lạng, mười sáu lạng là một cân, ba mươi cân là một quân, bốn quân là một thạch, tức là một trăm hai mươi cân, chỉ lấy các tự thử nói là chuy mà có ba sự khác biệt. Theo thông nghĩa phong tục nói: thù là sáu truy, hai truy là một chùy, hai chùy là một lạng. Tính thế nói thì nửa lạng gọi là chuy, một phân gọi là truy, hai mươi bốn thù là một lạng, chỉ một sách này riêng khác đối với các điển các tự thư, phần nhiều đồng một thuyết chỉ theo tự, lâm tự, thống tự, uyển tự cảnh vận, tập vận, lược vận, phổ vận, anh văn tự tập lược, văn tự điển thuyết, chánh tự cổ kim, và theo các kinh cửu chương Thuyết Văn mười ba nhà đều đồng dùng sáu thù làm một chuy, tức bốn chuy thành hai lạng. Trịnh Huyền Chú lễ ký nói lấy tám lạng làm một chuy.

Tập huấn vận thuyên so với Trịnh nói tám lạng chưa rõ, nghĩa này từ đâu ra, cho nên ghi ra các nhà dị đồng, lấy bỏ mặc tùy ý. Nay lại chỉ y theo cửu chương để tính, và lấy nhiều thuyết lấy sáu thù làm một chuy định vậy. Phong tục thông nghĩa và cho Trịnh Huyền chưa rõ lý do đó, chớ lường người xưa yếu chỉ tối tăm.

Mạn tràng: tràng gồm âm học và âm giang, căn cứ theo mạn tràng nghĩa là khinh khi không cung kính, ngạo mạn phóng dật, nước ta (Trung Quốc) tự cao giống như cờ phan dụ cho vì lợi.

Lăng tằng: lăng gồm âm lặc và âm hằng ghép lại, tằng gồm âm tặc và âm hằng với dáng vẻ nêu cao.

Khang khoái: khang (khương) gồm âm kháng và âm cương. Thanh Loại nói khang là hú, chánh tự cổ kim từ bộ mễ và chữ khang, dưới gồm âm khẩu và âm ngoại hợp lại. Tự thủ nói: con hưu gọi là khang, Thuyết Văn cũng nói là khang, từ bộ hóa và chữ hội. Luận văn viết chữ tục dùng là sai.

Ly thử: ly gồm âm lý và âm tri, Quách Chú Nhĩ Nhã nói ly là lo buồn. Khảo Thanh nói là bị, gặp. Chánh tự cổ kim nói suy nghĩ sầu thảm, từ bộ võng và chữ duy. Luận văn từ chữ tứ viết tục tự chi xứng.

Xứng gồm âm xương và âm chứng, văn dưới đồng.

Bế nữ: Bế gồm âm bề và âm mê. Quảng Nhã nói: bế là gần my mắt. Lưu Hy Chú Ích Pháp nói: lấy sắc sự nhân, Thuyết Văn nói bế là suy nghĩ yêu thương từ bộ nữ và chữ tích.

Bế gồm âm bế và âm mê, mê âm mê bế.

Điên quyết: đạp lên. Quyết gồm âm câu và âm nguyệt hợp thành (?+?).

Phu chất: phu gồm âm phủ và âm vu (?+?). Công Dương Truyện nói bất nhẫn gọi là phu chất. Lại nói tội chém cổ, lễ ký chư hầu nói là ban là phu chất, nhưng từ chữ sát. Chánh tự cổ kim nói băm chặt từ bộ kim và chữ phù (?+?) tỏa gồm âm thất và âm tòa.

Khô trường: khô gồm âm khổ và âm hồ. Cố Dã Vương nói: khô là ruột rỗng không, Thương Hiệt Thiên nói là mổ, Thuyết Văn nói là gỡ xé, từ bộ đao và chữ khoa âm khưu và âm vu, dịch âm thính và âm đích.

Trở cơ: gồm âm tồ và âm sở gộp thành trở. Phương ngôn nói trở cũng là cơ, Tự Thư nói trở là kỷ là thịt, văn tự điển thuyết nói là bình chứa đầy.

Linh Phật: ……. vật, từ chữ ban và bộ nhục, lại chữ thả, chữ linh gồm âm lịch và âm đinh tạo thành, Thương Hiệt Thiên nói linh là nghe, Thuyết Văn nói đồng từ bộ nhĩ và chữ linh.

Oán cừu: oán gồm âm cựu và âm vưu hợp thành. Khổng Chú Thượng Thư nói cừu cũng là oán, Thuyết Văn nói là báo thù từ bộ nhân và chữ cửu.

Trục khối: khối gồm âm khôi và âm hội hợp thành. Khảo Thanh nói là đống đất, Trịnh Chu Lễ ký nói là ụ đất, Thuyết Văn từ bộ thổ và chữ quỷ hoặc viết chữ do.--------------------------------------

QUYỂN TRUNG

Khư hữu lậu: khư gồm âm khư và âm ngư. Khảo Thanh nói khư là bỏ đi, văn tự điển thuyết nói là chém chặt gọi là khư, từ bộ y và chữ khứ.

Bất huyên: huyên gồm âm huyền và âm quyên hợp thành. Vương Dật Chú Sở Trì nói huyên là dáng vẻ nhìn, văn tự điển thuyết nói đương lúc chim ngựa ăn là bất huyên, từ bộ mục và chữ tuân.

Chi bỉ: chi gồm âm chi và âm thị. Khảo Thanh nói chi là lớn, nổi tiếng. Thuyết Văn nói là núi từ bộ thủy và chữ thị hoặc viết là chi có bộ thổ, bên cạnh cũng đồng.

Xâm xâm: gồm âm thất và âm lâm hợp lại. Mao Thi nói là chợt, Thuyết Văn nói là dùng ngựa đi nhanh từ bộ mã và chữ, âm thượng đều đồng.

Mộc hoạn: hoạn gồm âm hoàn và âm quán, Khảo

Thanh nói là tin cậy.

Tích tán: tích gồm âm tịnh và phích, Đỗ Chú Tả Truyện nói tích nghĩa là lý, Hàn Thi nói là bỏ đi, văn tự điển thuyết nói là hình pháp, từ bộ hộ từ bộ tân từ bộ khẩu chữ hội ý.

Đồi niến: đồi gồm âm đội và âm lôi. Khảo Thanh nói đồi là tà, Hàn Thi nói đồi là để lại từ bộ phụ và chữ quý. Luận văn viết là đồi là sai chẳng phải nghĩa này.

Triều tùy: tùy gồm âm tùy và âm thúy, Mạnh Tử nói cuộc sống sinh ra được sáng suốt gọi là húy. Cố Dã Vương nói là dáng nhuần nhã, văn tự điển thuyết nói từ bộ mục và chữ tốt.

--------------------------------------

QUYỂN HẠ

Dĩ phu: phu âm phù, Cố Dã Vương nói phu là cái chùy đánh trống, Thuyết Văn nói là cái gậy đánh trống từ bộ mộc và chữ bao. Luận văn viết là chữ phu tức sai với nghĩa này.

Uyển hữu: hữu gồm âm vứu và cứu. Khảo Thanh nói hữu nghĩa là vườn, Trịnh Chú Chu lễ nói là vườn ngày nay, Thuyết Văn nói uyển hữu nơi có tường thấp từ bộ vi và chữ hữu.

Cốt cốt: gồm âm quỷ và âm cốt hợp lại, Khảo Thanh nói cốt cốt nghĩa là dùng sức không nghi, văn tự điển thuyết nói là xuyên qua từ bộ thủ và chữ cốt.

Nghịch tiết: dưới gồm âm tiên và tiết là cây nhỏ từ bộ mộc và chữ khế.

Át-ca: trên gồm âm an và át là Phạn ngữ.

Sính cức: trên gồm âm sách và lãnh, Hàn Thi nói: sính là bày lễ.

Đỗ Chú Tả Truyện nói là chạy, chạy nhanh, Quang Định nói chạy vội, Thuyết Văn nói là bôn tẩu, từ bộ mã và chữ sính âm tứ và âm đinh. Luận văn viết sinh là sai. Chi tiếu: gồm âm tiều và hiểu. Khảo Thanh nói tiếu là cười, Thượng Thư nói là trách, Thương Hiệt Thiên nói là quở trách văn tự điển thuyết từ lự ngôn và chữ tiếu.

*******

KIM PHI QUYẾT MÔ LUẬN

Tham trách: gồm âm tuyến và âm nam, văn tự điển thuyết nói: tham là lấy xa, Khảo Thanh nói tham là thi. Dưới gồm âm tranh và trách, Khảo Thanh nói trách là thâm sâu, rất nghèo. Kinh dịch nói: thánh nhơn có cái cao xa để nhìn thấy thiên hạ, trách trách là tối tăm sâu thẳm từ và chữ trách.

Kỵ thanh: gồm âm kiểm và âm vị thành kỵ, được phải là chữ thì sai.

Hoảng nhiên: gồm âm huống và âm vãng hợp thành hoảng. Khảo Thanh nói là hoảng là hốt hoảng, hồn thất thủ là cuồng. Lão Tử nói: làm vật duy hoảng duy hốt. Sở Từ nói: gió đến là hoảng, Vương Dật nói hoảng là thất ý, Thuyết Văn nói dáng vẻ cuồng.

Bác bì: bác gồm âm bang và âm mạc. Văn tự điển thuyết nói là mổ xẻ là cắt. Dịch nói: núi gần kề ở chỗ đất xấu gọi là bác, từ bộ lực và chữ lục.

Tích cốt: trên gồm âm tiên và âm địch. Văn tự điển thuyết nói là chặt cây. Thi nói tích là củi làm thế nào không phải cái rìu thì không được. Lại phân tách là tích từ bộ mộc và bộ cân từ bộ phiến và chữ thược viết thành chữ tích là sai.

Oan thân: Trên phiên thiết âm oản và âm hoàn. Văn tự điển thuyết nói oan là khoét lột bỏ, từ bộ lực và chữ oan.

Mậu huông: phiên thiết âm mậu và hầu. Văn tự điển thuyết nói mậu là trao đổi hàng của, chánh viết là mậu, Thi nói lấy tiền mua tơ từ bộ bối và chữ mão, Thanh Luận viết là mậu thông tục.

Hãm nha: phiên thiết âm hàm và âm. Khảo Thanh nói hãm là cái hang, là vỡ lỡ, chánh viết chữ hãm, luận viết chữ hãm thông lực.

Trường ly: ly phiên thiết chữ lệ và chữ tri. Thi nói: dân không thể không có lúa gạo, riêng tôi đối với chữ ly chánh viết là ly, cổ viết từ bộ võng.

Linh tập: tập phiên thiết chữ xâm và chữ tập, chánh văn viết là tập, tập là tua lụa, trách nói duật cầu nguyên thánh cho đây là chữ lục (góp), bộ lực và chữ tập. Ninh Bang Gia Thi nói: là sâu xa; Văn Vương nói: vui vẻ cung lánh chí từ bộ mịch.

Tăng chước: phiên thiết từ chữ tử và chữ đăng thành tăng. Chu Lễ nói tăng là mũi tên dùng để bắn. Trịnh

Huyền Chú nói: thắt kết lại gọi là chước, mũi tên gọi là tăng, tăng là cao. Khảo Công Ký nói tăng là cung tên sử dụng, gồm bộ thỉ và bộ vũ gọi là tăng. Luận viết là sai.

Chước: phiên thiết chữ chi và chữ lược nghĩa là sinh nhiều sợi tơ, chước chánh viết là chước, hoặc viết là chữ chước này.

Tài phân: tài phiên thiết chữ tại và chữ tai. Khảo Thanh nói là tạm thời, chánh viết là tài. Luận viết này thông lục.

*******

TỲ KHEO NI TRUYỆN TỰA

Chi trù: trù phiên thiết của chữ trường và lưu, Vận Anh nói trù là bốn.

Mộ ký: trên chữ mộ dưới từ bộ tâm, ký âm ký. Khảo

Thanh nói là con ngựa giỏi, Thuyết Văn nói ngựa chạy ngàn dặm từ bộ mã và chữ dị, chữ ký từ chữ bắc.

Di quyết: di phiên thiết chữ dĩ và chi. Di là để lại, cũng là quyết.

Di là để lại cho con cháu.

Thiền liên: thiền phiên thiết chữ thiện và chữ nhiên. Liên phiên thiết của chữ liệt và chữ triền là liên tục, không đoạn tuyệt.

Ngoa vặn: ngoa phiên thiết của chữ ngũ và qua, dưới là âm vấn, ngoa là sai lầm, vặn là loạn từ bộ mịch và chữ văn.

Nhạc tù: nhạc phiên thiết của chữ nha và chữ giác, ngọn núi cao Ngũ Nhạc. Dưới phiên thiết chữ tù và chữ lý. Tập huấn nói: các ngọn núi đứng độc lập.

Tuấn ký: tuấn phiên thiết của chữ sấu và quận. Khảo Thanh nói là cầu. Chữ hình thanh.

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 1

Hồng nghê: chữ trên âm hồng, dưới phiên thiết chữ nghệ và chữ kê. Vận Thuyên nói: hồng nghê là cái cầu vồng.

Đông hoan: hoan phiên thiết chữ cai và chữ ngại. Khảo Thanh nói: khái là tiết đốt, cũng là mưu lược từ bộ mộc.

Oản phát: oản phiên thiết chữ loan và chữ hoãn. Vận Anh nói: là ràng buộc, Khảo Thanh nói là kết buộc, Thuyết Văn từ bộ mịch và chữ quan. Hoãn phiên thiết chữ quan và chữ hoạn chữ thượng thanh.

Cức khai: cức phiên thiết chữ căng và chữ lực là tục tự, chánh thể viết là, Khảo Thanh nói tự đi vội, Vận Anh nói: là kính từ bộ cũng và chữ câu.

Ô sào: chữ sào phiên thiết chữ sài (củi) và bộ hào là tổ chim. Gọi là sào chữ tượng hình, ở trong truyện viết chữ thì không thành chữ này. Khiêm chí: phiên thiết chữ khiêm và chữ tất. Trịnh Chú Lễ ký nói: khiêm nghĩa là chán. Mạnh Tử nói: không ân hận với lòng. Lưu Hy nói: là vui từ bộ tâm và chữ kiêm.

Triêm nho: triêm phiên thiết chữ tri và chữ liêm. Dưới âm nho.

Khảo Thanh nói triêm nho nghĩa là thấm ướt.

Chẩn cấp: chẩn phiên thiết chữ chi và chữ nhẫn. Nhĩ Định nói chẩn nghĩa là giàu có, Thuyết Văn từ bộ bối và chữ thìn.

Khanh thương: khanh phiên thiết chữ khách và chữ canh, thương phiên thiết chữ thất và chữ dương. Lễ ký ghi: Tử Hạ nói: nghĩa là tiếng cây đánh vào chuông trống là chữ hình thanh.

Vương thấm: thấm phiên thiết chữ thậm và chữ lâm là tên người.

------------------------------------

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 2

Huyền tảo: âm tảo. Vận Anh nói: văn hay là tảo từ bộ thảo.

Tuệ quỳnh: quỳnh phiên thiết chữ quý và chữ doanh là thứ ngọc đẹp. Thuyết Văn nói ngọc đỏ cũng từ bộ ngọc.

Mạnh ngải: ngải phiên thiết chữ nghi và chữ khởi. Khảo Thanh nói ngải là yên tĩnh cũng là kính cẩn từ bộ hiệt và chữ khởi.

Hạp chúng: trên âm hợp nghĩa là đóng.

Suyến y: suyến phiên thiết chữ sĩ và chữ quyến. Bì Thương nói: duyên thuộc vào nhau, giải thích là màu xanh, đỏ, từ bộ y và chữ tốn.

Vĩ vĩ: âm vĩ. Khảo Thanh nói: là tốt đẹp, là gắng, là tiến từ chữ văn, chữ dậu từ chữ thoán tỉnh lược, chữ chuyển chú.

Luy loại: luy phiên thiết chữ lực và chữ truy nghĩa là yếu, dưới âm loại. Khảo Thanh nói: là nhiều bệnh, hết sức từ bộ tâm là chữ bị bị là âm.

Âu dương: âu phiên thiết chữ ẩu (nôn) và chữ hầu là một tên quan phu đạt.

Hơ hy: trên âm hư dưới âm hy. Vận Anh nói thương xót mà khóc. Huề nhất: huề phiên thiết chữ huệ và khuê nghĩa là lấy nhận.

Hải phục: hải phiên âm thiết chữ hài và chữ giới nghĩa là ngựa sợ, dưới chữ phục từ bộ chu và chữ, âm đều đồng ở trên.

Hài mê: hài phiên thiết chữ hạch và chữ giai.

Lục hướng thượng sớ nói: cung cấp loài cá này làm lương thực hoặc viết là khê là cá khô.

Bất khuy: khuy phiên thiết chữ khuyển và chữ quy. Tập huấn nói: ở trong cửa liếc nhìn.

Quan tảng: tảng phiên thiết chữ tang và chữ lang.

Khảo Thanh nói: là cái trán, văn tự tập lược nói trên mặt từ chữ tang.

Xác nhiên: xác phiên thiết chữ khang và chữ nhạc. Khảo Thanh nói: là kiên cố, bền chắc; cổ kim chánh tự nói là không từ bộ thạch và tỉnh, lược, suy thành âm giác hoặc từ bộ cao viết xác.

------------------------------------

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 3

Ngôn hước: hước phiên thiết chữ hương và chữ ước. Nhĩ Nhã nói là vui cười.

Đăng chúc: chúc phiên thiết chung và chữ nhục, từ bộ hỏa và chữ thuộc trong văn từ chữ thuộc viết thành chữ chúc là sai.

Khẩu hào tích trệ: khẩu phiên thiết chữ phổ và khẩu. Chữ hào phiên thiết chữ hồ.

Sơ lệ: phiên thiết thát đát. Vận Thuyên nói là bóc lúa gạo ra, từ bộ mễ và chữ lê.

Đế cấu: đế phiên thiết chữ đỉnh và chữ kế, dưới gồm âm câu và hậu.

Niết bất truy: niết phiên thiết chữ niên là chữ kiết, tuy phiên thiết chữ chi và chữ sư.

Ma bất lân: trên là âm ma từ bộ thạch, dưới âm lực và trận. Khổng Chú luận ngữ nói lân nghĩa là mỏng, vật trắng nhuộm vào đó mà không đen, cho nên gọi là niết bất truy.

Uân ái: uân phiên thiết chữ uất và chữ vân. Ai phiên thiết chữ ai và chữ cái tả dáng vẻ mây mù như khói.

Cao tổ dục: trên âm dục tên người, Vận Thuyên nói dũ là thơ bé từ chữ mẫu và.

------------------------------------

TỲ KHEO NI TRUYỆN QUYỂN 4

Phấn đại đại âm đại. Vận Anh nói: đại nghĩa là người nữ màu xanh, có thể vẽ my mắt, hoặc màu đen.

Hãn thùy: hãn phiên thiết chữ hàn và ngạn nghĩa là ngủ nghỉ. Siêm thị: siêm phiên thiết chữ sắc và chữ diễm. Khảo Thanh nói: lén chờ, nhìn lén, chữ hội ý.

Diệp tống: trên phiên thiết chữ yêm và chữ tiếp, sau nghĩa là diệp. Dưới phiên thiết chữ tổng là người nước Thục là khứ thanh, gọi (cái bách) cũng tục tự, chánh thể từ bộ mễ từ viết thành chữ tống. Người nước Sở vào ngày 05 tháng 05 năm thường làm bánh.

Uyên trách: trên phiên thiết chữ nhuế và duyên. Vận Thuyên nói uyên là sâu, dưới phiên thiết chữ sài (củi) và cách. Vận Anh nói: thâm thúy khó biết, từ chữ và chữ trách.

Bất hiệu: phiên thiết chữ hào và chữ giáo, Vận Anh nói hiệu nghĩa là dạy.

Vu thừa: trên âm vu dưới âm thừa. Vu thừa là tên ngọn núi nhỏ ở Càn châu. Trong quyển thứ tư Cao tăng truyện trước đã nói đủ, cũng là tên huyện. Trong huyện viết từ bộ sơn nghĩa là vu thừa là sai, chẳng phải tục tự.

*******

QUÁN TÂM LUẬN

Đại Thông Thần Trí trước tác, Huệ Lâm âm

Quyên lưu: quyên phiên thiết chữ quyết và duyên. Cố Dã Vương nói: quyên là dòng nước nhỏ. Thuyết Uyển nói: quyên là dòng nước không ngưng trệ, sẽ thành sông đều từ bộ thủy.

Ba đào: đào phiên thiết chữ đào và chữ lao. Thương Hiệt Nhiên nói: đào là sóng lớn, Hứa Thúc Trạng Chú Hoài Nam Tử nói nước triều vọt lên, vật khởi đổi dời là đào từ bộ thủy và chữ thọ.

Thiên tinh: thiên phiên thiết chữ thương và chữ nhiên, Vận Anh nói mùi hôi của con dê. Tinh gồm âm tinh và âm ngư. Tinh nghĩa là cỏ xấu, kiến tập huấn hoặc viết là chữ tinh.

Khang phu: khang phiên thiết chữ khả và chữ lang. Tự thư nói: là vỏ lúa dưới là âm phô. Tập huấn nói là xay lúa làm sạch bỏ đi vụn vặt, phu là vỏ trấu.

Chú tả: trên gồm âm châu và trỉ. Khảo Thanh nói nấu chảy ra gọi là tả, Cố Dã Vương nói: đồng chảy ra làm vật khí gọi là chú.

Tẩu sậu: trên chữ tẩu chánh thể. Dưới âm sầu và sậu. Khảo Thanh nói là nhóm tụ. Tập huấn nói ngựa đi nhanh bước nhỏ từ bộ mã và chữ tụ.

Họa lục: trên phiên thiết chữ hoa và mạ, mượn âm dùng, bổn âm hoạch (được) tự bộ duật. Duật là bút, từ bộ điền từ nhất nhất giới, chữ hội ý. Dưới gồm âm lông và chúc, màu rực rỡ, phát xuất từ bộ thạch, chữ hình thanh.

*******

-QUẦN NGHI LUẬN-khuyết bổn vị âm.

*******

THẬP NGHI LUẬN

Vũ cách: trên chữ vũ, chữ tượng hình. Dưới âm hành và âm cách hợp. Nhĩ Định nói vũ vốn gọi là cách (lông cánh chim). Thuyết Văn nói linh gốc của chữ vũ: từ bộ vũ và chữ cách.

Bàng trường: trướng bụng.

Trên phiên thiết chữ phát và bang, dưới phiên thiết chữ trương và lượng.

Lạn hoại: phiên thiết chữ lang và đản thành lạn từ bộ hỏa. Dưới âm hoài và quái, tự phá gọi là hoại.

*******

CỤ LỤC TÂY QUỐC DỤC TƯỢNG NGHI QUỶ

Tuệ Lâm tập và âm.

Đồng lạp thâu thạch: đồng thì có đồng cỏ, đồng trắng, lạp thì âm lạp tức bạch lạp, chiếc chì gọi là thâu, thâu ân thâu, đá thổi vàng đều là khi đầy.

Lỏa khánh: trên phiên thiết chữ lỡ và chữ hòa, loa biển thổi làm pháp âm cúng dường. Khánh gồm âm khinh và âm kính là một loại chuông hoặc đồng hoặc đá, thủ thanh.

Ổn thủ: gồm âm ôn và khốn, đầu chìm chết nước.

Kiều chỉ: gồm âm kỳ và diệu hợp thành kiều, đầu dứng lên.

Điềm thùy: trên gồm âm định và yêm là ngọt. Dưới âm thuyên và tuế từ bộ nguyệt và chữ nguy.

Khỏa thể: khỏa phiên thiết chữ hoa và ngỏa. Thân thể lộ trần truồng.

Tiểu phược: thược phiên thiết chữ thường và chữ chước là chén có kháp.

Chi trù: trù âm trù.

*******

THUYẾT TỘI YẾU HÀNH PHÁP

Niết bán: niết phiên thiết chữ nha và chữ kiết nghĩa là cắn cạn. Từ bộ xỉ (răng) và chữ. Gồm âm xan và âm bát.

Khánh khái: khánh phiên thiết chữ khinh và chữ dĩnh. Dưới gồm âm khai và ác. Vận Anh nói tiếng trong họng khí thông.

Ác trủy ca: Phạn ngữ trong văn tự hiểu. Trủy âm trủy. Đặc-khi-noa-ca-tha là âm khi.

Thoát tỷ: gồm âm sư và chỉ, nghĩa là guốc dép. Đồng tao: trên âm đồng dưới âm tao.

Thất khới: gồm âm khổ và âm ngoại.

Chuyên bản: trên âm chuyên dưới âm ban và giản. Thọ dụng tam thủy yếu pháp.

Lự lộc: trên âm lự dưới âm lộc.

Sanh thược: sanh phiên thiết của chữ sở và canh. Khảo Thanh nói là một cái vạc tục làm bằng kim loại. Dưới phiên thiết chữ thường và chữ dược là tục tự. Cổ văn chánh tự viết đơn viết chữ là hình tượng.

Phụ đảm: trên phiên thiết chữ phù và chữ vũ. Dưới phiên thiết âm đam và âm lạm từ bộ thủ.

Bộ mạng phóng sanh pháp.

Côn trùng: trên âm côn dưới âm trục và âm dung.

Trong kinh viết tục tự là sai.

Đồng nữu: gồm âm ni và âm trữu.

Đài hệ: trên âm đài lấy tay nâng vật lên, dưới âm hề và âm kế, có thể nâng lên từ bộ mịch từ bộ phiệt).

Thiết hoàn: âm hoàn.

------------------------------

TRÙNG HIỆU NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA TỰA

Nhất thiết kinh âm nghĩa một trăm quyển, do Pháp sư Tuệ Lâm đời Đường soạn. Tục âm nghĩa mười quyển do Pháp sư Hy Lân kinh đô nước Yên soạn. Hai quyển cương yếu cổ huấn thích âm. Kinh Phạn thu thập biên chép chứa đựng sự phong phú rộng lớn, biện về chánh thanh xét tự thể. Đại để tuân theo Kinh sư đời Hán Ngụy để lại. Nhưng một bên lấy các tự thư trước đời Đường, thu thập những diệu nghĩa tinh hoa sáng sủa thay, sáng sủa thay. Có người xa có thể xem. Lâm Thư gồm cả bốn nhà âm huấn: Huyền Ưng, Tuệ Uyển, Khuy Cơ, Vân Công. Lại đích thân thừa sự Tam Tạng Bất Không chỉ định Phạn văn âm nghĩa trên thông với đời Tần, gần với Tùy, Đường cho đến địa lý, nhân văn phương ngôn ở Tây Độ cũng đều không nhiều. Xưa bao quát có lý sự vô ngại, tin vào điều không đẹp mà chẳng đầy đủ. Sư Hy Lân soạn một quyển Bẩm Lâm Công Già Pháp, thu nhặt chọn lựa những tinh hoa, chồng chất những thứ xấu xa. Tìm tòi những điều sâu xa, xiển dương những điều vi diệu, nối liền với những điều tốt đẹp trước đây. Kinh nói: khéo có thể phân biệt các pháp tướng. Đối với đệ nhất nghĩa mà không lay động. Như hai sư có thể đúng với điều này vậy, cho đến những tinh thai, phương này cựu điển rất nhiều, có thể phụ bổ những điều đã mất tán như dẫn thuyết văn, cách hy tự v.v… đều bổn nay không có, đủ để trưng cầu những sự thiếu sót của sách. Dẫn các nhà kinh chú đời Hán về sau như các sách: Thượng Hiệt Thiên, Thông Tục Văn Bi, Thương Quảng, Thương Tự, Lâm Tự, Thống Tự, Chỉ Tự Điển, Tự Thư, Thanh Loại,

Vận Lược, Toàn Vận, Vận Thuyên, Vận Anh và Khuê Uyển Châu Tòng, Chánh tự cổ kim, Văn tự tập lược, văn tự diễn thuyết, khai nguyên văn tự âm nghĩa. Nay sách này mất lâu rồi, chịu những tư liệu để bổ khuyết. Ngoài ra có điều căn cứ để chứng minh nay sách mất hết, rất khó mà tìm tòi. Tuy có khoảng một, hai sách tục lộn xộn. Người sáng suốt tự có thể phân biệt chọn lựa.

Đầu cốt yếu không hại sở trường ấy. Sau khi lâm thư thành công vào năm thứ năm niên hiệu Đại Trung (Đường Tuyên Tông) nhà Tần chuẩn theo nhập Tạng. Sách của sư Hy Lân thì được phổ biến khắp nơi. Bấy giờ gặp thời Lý, trải qua sự đốt phá tan hoang ở Trung Độ văn bị mất hết. Ở Cao Ly sai người đến phương Bắc tìm được. Đầu đời Tống lại khắc vào Tạng. Do đó, lại truyền đến Nhật Bổn. Trước năm một trăm chín mươi nước này có Luật sư Nhẫn Trưng, phát nguyện trùng san, y theo sớ sao Ly Tạng Duyên Sơn Lạc Đông viết. Ly Tạng này tức là in vào năm thứ hai Thiên Thuận, Tạng Minh chùa Hải Ấn văn phần nhiều ghi sai. Gần nguyên văn Tạng bổn hoằng giác vẫn y vào Ly Tạng. Đặc biệt dùng bổn của ngài Hy Lâm để tham cứu. Tinh xá Nhật Bổn trùng ấn Đại Tạng, tiền căn cứ bổn hoằng giáo làm cách thức, một bộ âm nghĩa xưa có sáu loại. Lại chú thích in ấn rút gọn thường gặp chỗ khúc mắc. Người thợ khắc chữ cũng khổ cực về sự hỗn tạp này không thể nào đảm nhiệm được. Tông Công và tôi suy tính, hai quyển sách Lâm Lân đặc biệt lấy bản của sư Nhẫn Trưng khắc bản, chia làm hai tầng, rút gọn để in trên đá. Lớn nhỏ như bản ngày nay, dùng số của kinh Tạng đầy đủ. Ngoài ra, bốn loại không có đơn bản có thể được, thì bỏ qua một bên, Hải Sơn Tiên Quá Tùng Thư có huyền ứng âm nghĩa. Đều là tòng khắc không làm bản riêng khác.

Tôi tuy lấy Lâm Thư để chuyên trợ. Nhưng hai quyển sách Huyền Ứng, Tuệ Uyển thật bao quát khắp. Khả Hồng âm nghĩa ba mươi quyển, âm đầy đủ mà âm sở Tống Xử Quán Đại Tạng âm ba mươi quyển, đơn giản nhất trong đơn giản. Bất đắc dĩ lấy đây bỏ kia chỉ là bổn của sư Nhẫn Trùng viết khắc sai rất nhiều. Nếu không sửa thì khó thích dụng. Tuy nay hạn chế về thời gian cũng mãi để tận lực tùy phận. Bấy giờ vào tháng mùa thu năm Nhâm Tý, cùng với đồng nhân đính hiệu lại bổn của Nhẫn Trưng. Lấy hai quyển Hy Lân, Tuệ Lâm Ly Tạng, trong tạng hoằng giáo, và Tạ Huyền Ứng, Tống

Nguyên Minh Tạng huyên ứng thư Ly Tạng Tuệ Uyển Thư. Tống Nguyên Minh Tạng Tuệ Uyển Thư, Huyền Ứng Thư Tuệ Uyển Thư về Ly tạng khả hồng âm nghĩa. Hải Sơn Tiên Quán Quyền Ưng Thư, Thủ Sơn các và Ao Nhã Đường Tuệ Uyển Thư, cùng kinh chú Thuyết Văn v.v… đối chiếu qua lại. Thường đến chỗ ngoa ngụy đảo lộn phải tham cứu các bản, chiết trung nghĩa cổ, bổ khuyết theo ưu, nghi những chỗ thiếu từng có trong một trang giấy sửa đính đến mấy mươi chữ. Bởi vậy đời Đường viết kinh phần nhiều dùng thể hàng; dần dần truyền sao đổi dời e rằng sai lầm. Lại sự truy tố của bốn nước. Mấy trăm năm nay ít có người tham xét, cho nên như thế sư Kính Thư ở Nhật Bản trước đây từng có công tác hiệu đính chỗ sai. Nhưng đặc biệt tự làm sách. Nay không có bản ấy. Nước ta nhà cổ huấn hiện có Tiên sinh Vương Tiểu Tiều ở đất Mãn, có Huyền Ưng Thư dẫn Thuyết Văn hiệu dị năm quyển.

Tuệ Lâm Thư dẫn Thuyết Văn hiệu dị mười hai quyển, đều có thể lấy sách này phụ. Tôi lúc rảnh hiệu đính ghi chép cũng có điều ghi ký sớ bài được mất, giải thích rõ ràng Tang đan duyên ký. Nay hiệu đính chưa kịp được một nửa, số hiệu đính rồi cũng còn chưa xét lại, mà thời gian xuất bản kinh in ấn để mong người đọc mua. Số chưa hiệu đính đôi lúc rảnh tiếp tục cho hoàn thành. Xưa đoạn Kim Đàn chú Thuyết Văn dài tự viện vân đài hiệu đính các kinh chú sớ, chỉ được sách của Huyền Ưng, Tuệ Uyển, còn phần nhiều bổ khuyết sai ngụy. Nếu lại được hai quyển sách này hiệu đính biên chép lại. Sự tinh mất ấy lại phải đâu như cố không chỉ có bổ ích cho Phạn điển văn nghĩa mà thôi. Tuy nhiên, thế đế, chơn đế đồng quy về pháp môn bất nhị.

Văn trì, nghĩa tù chỉ rõ đích xác trong một. Nhân vì bảo lấy tay chỉ mặt trăng, đâu vào biển mà đếm cát. Người xem sách này quả có thể lìa biên tình dung tánh tướng. Văn tự nào có thể nói lại văn tự nào không thể nói ư! Đời có người đồng chí hướng giúp tôi không theo kịp. Nay rũ lòng chỉ dạy.

Kiếm ấp lê dưỡng chánh tựa ở hiệu kinh đường tinh xá Tần Bà Thượng hải.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sự Vựng][Mục lục tổng quát]