Bốn mươi lăm năm hoằng pháp của Ðức Phật
Bình Anson
Năm đầu tiên (528 TCN)
Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức
Phật đến ngụ tại khu vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức
Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đấy, Ngài giảng
bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ năm anh em đạo sĩ
Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).
Năm thứ 2-4 (527-525 TCN)
Ngụ tại thành Vương-xá (Rajagaha), kinh đô của xứ Ma-kiệt-đà (Magadha).
Ngài cảm hóa vua Bình-sa (Bimbisara). Vua cúng dường khu rừng Trúc Lâm
(Veluvana), ngoài cửa Bắc của thành Vương-xá, làm nơi trú ngụ của Ðức Phật và
chư Tăng. Ngài thường đến núi Linh Thứu (Gijjhakuta) để giảng đạo.Trong thời
gian nầy, Ngài hóa độ Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, y sĩ Kỳ-bạt (Jivaka) và trưởng
giả Tu-đạt Cấp Cô Độc (Sudatta Anathapindika). Y sĩ Kỳ-bạt cúng dường khu vườn
xoài làm tinh xá, và trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường tinh xá Kỳ Viên
(Jetavana). Ngài trở về thăm phụ vương Tịnh Phạn (Suddhodana), và nhận hoàng tử
La-hầu-la (Rahula) vào hàng sa di.
Năm thứ 5 (524 TCN)
Ngụ tại Vệ-xá-li (Vesali), thủ đô của xứ Licchavi, và tại thành Vương-xá. Tại
thành Vệ-xá-li, Đức Phật cứu độ dân chúng đang bị nạn hạn hán và bệnh dịch tả
hoành hành. Vua Tịnh Phạn qua đời trong năm này. Ðức Phật thành lập giáo đoàn Tỳ
khưu ni theo lời thỉnh cầu của bà di mẫu Maha Pajapati Gotami (Kiều-đàm-di).
Năm thứ 6 (523 TCN)
Ngụ tại đồi Mankula, thành Kiều-thượng-di (Kosambi), xứ Vamsa, Ngài thu phục
và giáo hóa các người ngoại đạo.
Năm thứ 7 (522 TCN)
Theo Chú giải bộ Pháp Tụ và Chú giải kinh Pháp Cú (kệ 181), trong mùa hạ
năm này, Đức Phật trú tại cõi trời Ðao-lợi (Tavatimsa). Ngài dạy Thắng Pháp
(Abhidhamma) cho chư thiên và mẫu hậu Ma-da (Maha Maya). Mỗi ngày, Ngài trở về
cõi người, tại thành Sankassa, tóm tắt lại cho tôn giả Xá-lợi-phất để tôn giả
khai triển và giảng rộng ra cho hàng đệ tử.
Năm thứ 8 (521 TCN)
Ngụ tại rừng Bhesakala, núi Cá Sấu (Sumsumaragiri), xứ Vamsa, Ngài giảng
pháp cho bộ tộc Bhagga.
Năm thứ 9 (520 TCN)
Ngụ tại thành Kiều-thượng-di. Nhân khi bị bà thứ hậu Magandhiya của vua
Udena oán ghét và bêu xấu, Ðức Phật dạy tôn giả A-nan (Ananda) về hạnh kham nhẫn.
Năm thứ 10 (519 TCN)
Ngụ tại rừng Parileyya gần thành Kiều-thượng-di. Không khuyên giải được các
xung đột và tranh cãi giữa hai nhóm tu sĩ, Ðức Phật bỏ vào rừng sống độc cư
trong suốt 3 tháng hạ, và hóa độ được một voi chúa và một chú khỉ. Hai con thú
nầy đã giúp đỡ Ngài trong các công việc hằng ngày.
Năm thứ 11 (518 TCN)
Ngụ tại làng Ekanala, phía nam thành Vương-xá, Ngài hóa độ vị điền chủ
Kasibharadvaja.
Năm thứ 12 (517 TCN)
Ngụ tại Veranja, phía nam thành Xá-vệ, Ðức Phật dạy tôn giả Xá-lợi-phất rằng
Ngài sẽ thiết chế giới luật vì có hoen ố phát sinh trong hàng Tăng chúng. Nếu
không như thế, Giáo Pháp sẽ không tồn tại lâu dài.
Năm thứ 13 (516 TCN)
Ngụ tại núi đá Caliya.
Năm thứ 14 (515 TCN)
Ngụ tại tinh xá Kỳ-viên, thành Xá-vệ (Savatthi). Tôn giả La-hầu-la tròn 20
tuổi và thọ Cụ túc giới, trở thành một vị Tỳ khưu. Đức Phật hóa độ bà Tỳ-xá-khư
(Visakha), về sau là vị nữ thí chủ bậc nhất trong hàng đệ tử cư sĩ.
Năm thứ 15 (514 TCN)
Ngụ tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) của bộ tộc Thích-ca. Vua Thiện
Giác (Suppabhuddha), cha của công chúa Da-du-đà-la (Yosodhara), băng hà.
Năm thứ 16 (513 TCN)
Ngụ tại vùng Alavi, phía bắc thành Ba-na-lại. Ngài hàng phục quỷ ăn thịt
người Alavaka, sau đó, quỷ xin quy y Tam Bảo và nguyện hộ trì Chánh Pháp.
Năm thứ 17 (512 TCN)
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá.
Năm thứ 18 và 19 (511-510 TCN)
Ngụ tại núi đá Caliya.
Năm thứ 20 (509 TCN)
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá. Vào một buổi sáng, trên đường đi
khất thực, Ngài hóa độ tướng cướp Vô Não (Angulimala). Ðức Phật bị ngoại đạo vu
cáo là đã mưu sát bà Sundari.
Năm thứ 21 (508 TCN)
Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá. Tôn giả A-nan chính thức nhận lời
làm thị giả hầu cận Ðức Phật.
Năm thứ 22-44 (507-485 TCN)
Trong thời gian 23 năm này, Đức Phật thường ngụ tại tinh xá Kỳ-viên. Ngài
cũng đến ngụ tại tinh xá Ðông viên (Pubbarama), phía đông thành Xá-vệ, do bà Tỳ-xá-khư
cúng dường. Hai vị đại trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên lần lượt tịch diệt
vào năm 485 TCN.
Năm thứ 45 (484 TCN)
Ngụ tại làng Beluva, phía nam thành Vệ-xá-li, Ngài trải qua một cơn bệnh nặng.
Sau khi bình phục, vào buổi trưa ngày rằm tháng Magha (tháng Giêng âm lịch), tại
điện thờ Capala, Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt sau 3 tháng. Đức Phật tiếp tục du
hành qua các làng khác và nhập diệt tại làng Kusinara của bộ tộc Malla, vào đêm
trăng rằm tháng Vesakha (tương đương với tháng Tư âm lịch).
*
Ghi chú:
1) TCN: Trước Công Nguyên (Tây Lịch)
2) Tham khảo:
- Ðức Phật và Phật Pháp (The Buddha and his
Teachings), Hòa thượng Narada, Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1970.
- Ðức Phật Lịch sử (The Historical Buddha), H.W. Schumann, Trần Phương Lan dịch
Việt, 1997.
- Tuần báo Giác Ngộ, số 67, ngày 12-07-1997.
-ooOoo-
[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 15-08-2007