NGHI THỨC TỤNG NIỆM (Phật Giáo Nguyên Thủy)

Tỳ kheo Giác Đẳng biên soạn

MỤC LỤC

Chương I-Các Khóa Lễ Thường Tụng

I.1 Khoá Lễ Ðại Chúng

I.2 Khoá Lễ Cầu an

I.3 Khoá Lễ Sám Hối

I.4 Khoá Lễ Cầu siêu

Chương II-Kinh Văn

1. Kinh Hạnh Phúc - MaṅgA-lasutta

2. Kinh Từ Bi - Karaṇīyamettasutta

3. Kinh Châu Báu - Ratanasutta

4. Kinh Bồ Ðề Phần - Bodhipakkhiyadhamma

5. Kinh Vô Úy - Abhayaparittagāthā

6. Kinh Chuyển Pháp Luân - Dhammacakkappavattanasutta

7. Kinh Thắng Hạnh - Jayaparitta

8. Kinh Phật Lực - BuddhajayamaṅgA-lagāṭhā

9. Kinh Ðáo Bỉ Ngạn - Dasapāramī

10. Kinh Vô Ngã Tướng - AnattA-lakkhaṇasutta

11. Năm Pháp Quán - Pañca Abhiṇhapaccavekkhaṇa

12. Kinh Quán Niệm

13. Kinh Duyên Sinh - Paṭiccasamuppāda

14. Kinh suy niệm về nghiệp

15. Kinh Vạn Pháp Tổng Trì - Dhammasaṅginī

16. Kệ Tỉnh Thức

17. Kinh Chúc Nguyện

18. Kinh Hồi Hướng Vong Linh

19. Kinh Huân Tập Công Ðức

20. Kệ Phật Sử

21. Kệ Chiêm Bái Xá Lợi

22. Sám Nguyện

23. Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu

24. Kệ Sám Hối Phụ Mẫu - Mātāpitupaṇāmagāthā.

25. Kệ Tụng Ba Pháp Ấn

26. Kinh Ghi Ri Ma Nan Đa - Girimānandasutta

27. Kinh Tứ Niệm Xứ - Satipaṭṭhānasutta

28. Kinh Lễ Bái Sáu Phương - Siṅgalovadasutta

29. Lễ Hồng Danh - Àṭānāṭiyaparittaṃ

30. Qui sám

31. Từ bi nguyện

32. Hồi hướng công đức

33. Hồi Hướng Chư Thiên

34. Phổ nguyện

Chương III-Nghi Thức Các Ðại Lễ

III.1 Nghi Thức Ðại Lễ Thánh Hội

III.2 Nghi Thức Đại Lễ Tam Hợp

III. 3 Nghi Thức Đại Lễ Báo Hiếu

III.4 Nghi Thức Đại Lễ Tăng Y

Chương IV-Các Nghi Thức Thường Dùng

IV.1 Nghi Thức Qui Y

IV.2 Nghi Thức Thọ Tam Qui Ngũ Giới

IV.3 Nghi Thức Bát Quan Trai Giới

IV.4 Nghi Thức An Vị Phật

IV.5 Nghi Thức Thỉnh Pháp Sư

IV.6 Nghi thức Trai Tăng

IV.7 Nghi Thức Hôn Lễ

IV.8 Nghi Thức Cầu Thọ

Chương V-Khóa Lễ Anh ngữ

Chương VI-Phần Phụ Lục

Phụ lục 1-Cách phát âm Phạn ngữ Pāli

Phụ lục 2-Các ngày lễ và ngày giới

Phụ lục 3-Xuất xứ, Ý nghĩa và cách dùng các kinh văn

Phụ lục 4-Nghi thức và Thờ phượng


Chương I-Các Khóa Lễ Thường Tụng

I.1 Khoá Lễ Ðại Chúng

Hướng dẫn

Ðây là khoá lễ căn bản tụng đọc trong các trường hợp công cộng cũng có thể dùng làm nghi thức nhật hành trong thời khoá hằng ngày. Nội dung kinh văn gồm các Phật ngôn đề cập phương cách sống lành mạnh, an lạc cũng như sự tu dưỡng tâm linh.

Khoá Lễ Ðại Chúng

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ chúng con thân tâm thường lạc, đạo hạnh tinh chuyên, tâm bồ đề viên đắc. Ðồng nguyện hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân và thân nhân quá vãng được thọ hưởng phước lành, dứt trừ vọng chấp, vượt thoát trầm luân, viên thành đạo quả.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.

Pūjemi dhammaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.

Pūjemi saṅghaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn
Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc
Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền
Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Hạnh Phúc

Như vầy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá
Của trưởng giả Cấp Cô Ðộc
Gần thành Xá Vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu
Sáng tỏa Kỳ Viên
Ðến nơi Phật ngự
Ðảnh lễ Thế Tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng

Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng
Thế Tôn tùy lời hỏi
Rồi giảng giải như vầy

Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Cúng dường bậc tôn đức
Là phúc lành cao thượng

Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng

Ða văn nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng

Hiếu thuận bậc sanh thành
Chăm sóc vợ và con
Sống bằng nghề lương thiện
Là phúc lành cao thượng

Bố thí hành đúng Pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Hành vi không lổi lầm
Là phúc lành cao thượng

Xả ly tâm niệm ác
Tự chế không say sưa
Tinh cần trong thiện pháp
Là phúc lành cao thượng

Biết cung kính khiêm nhường
Tri túc và tri ân
Ðúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng

Nhẫn nhục tánh thuần hoá
Thường yết kiến sa môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng

Thiền định sống phạm hạnh
Thấy được lý thánh đế
Chứng ngộ quả niết bàn
Là phúc lành cao thượng

Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng (lạy)

Kinh Từ Bi

Hiền nhân cầu an lạc
Nên huân tu pháp lành
Có nghị lực chơn chất
Ngay thẳng và nhu thuận
Hiền hoà không kiêu mạn
Sống dễ dàng tri túc
Thanh đạm không rộn ràng
Lục căn luôn trong sáng
Trí tuệ càng hiển minh
Tự trọng không quyến niệm
Không làm việc ác nhỏ
Mà bậc trí hiền chê
Nguyện thái bình an lạc
Nguyện tất cả sanh linh
Tràn đầy muôn hạnh phúc

Với muôn loài chúng sanh
Không phân phàm hay thánh
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao hay dài ngắn
Tế thô không đồng đẳng
Hữu hình hoặc vô hình
Ðã sanh hoặc chưa sanh
Gần xa không kể xiết
Nguyện tất cả sanh linh
Tràn đầy muôn hạnh phúc

Ðừng làm hại lẫn nhau
Chớ khinh rẻ người nào
Ở bất cứ nơi đâu
Ðừng vì niệm sân si
Hoặc hiềm hận trong lòng
Mà mong người đau khổ
Hãy mở rộng tình thương
Hy sinh như từ mẫu
Suốt đời lo che chở
Ðứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Ðến tất cả sanh linh
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận căm thù

Khi đi đứng ngồi nằm
Bao giờ còn tỉnh thức
An trú chánh niệm nầy
Phạm hạnh chính là đây
Ai từ bỏ kiến chấp
Khéo nghiêm trì giới hạnh
Thành tựu được chánh trí
Không ái nhiễm dục trần
Không còn thai sanh nữa (lạy)

Kinh Suy Niệm Về Nghiệp

Tất cả chúng sanh là chủ nhân của nghiệp cũng là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc, là điểm tựa cho vạn loài. Chính nghiệp phân chia sự dị biệt cao thấp trong đời.

Chính mình làm việc ác nên khiến mình uế trược. Chính mình làm việc lành nên khiến mình thanh tịnh. Thanh tịnh hay uế trược đều do mình, không ai có thể khiến người khác tịnh thanh hay uế trược.

Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm bất thiện thì đau khổ sẽ theo mình như bánh xe theo chân con vật kéo.

Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm hiền thiện thì hạnh phúc sẽ theo mình như bóng không rời hình.

Khi ác nghiệp chưa trổ quả thì người ác chưa thấy là ác. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người ác mới thấy là ác. Khi thiện nghiệp chưa trổ quả thì người thiện chưa thấy là thiện. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người thiện mới thấy là thiện.

Không phải do dòng dõi thọ sanh mà một người cao quí hay thấp hèn. Chính hành vi tạo tác khiến người thấp hèn hay cao quí. Mỗi chúng sanh là kết tinh của những gì đã tạo và sẽ là kết quả những gì đang tạo. Quá khứ, hiện tại, tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện.

Ðời nầy đau khổ, đời sau cũng đau khổ. Người tạo nghiệp bất thiện đau khổ cả hai đời. Xét ác nghiệp đã làm khiến lòng sầu khổ, sanh vào khổ cảnh nỗi khổ nhiều hơn. Kiếp nầy an lạc, kiếp sau cũng an lạc. Người tạo nghiệp lành hai đời an lạc. Xét việc thiện đã làm tự tâm hoan hỷ, sanh vào lạc cảnh hạnh phúc nhiều hơn. (lạy)

Kinh Thắng Hạnh

Ðấng Ðại Bi cứu khổ
Vì lợi ích chúng sanh
Huân tu ba la mật
Chứng vô thượng chánh giác
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Nhờ chiến thắng Ma Vương
Trên bồ đoàn bất bại
Ðịa cầu liên hoa đỉnh
Khiến dòng họ Thích Ca
Tăng trưởng niềm hoan hỷ
Nguyện chiến thắng vẻ vang
Nguyện khải hoàn như vậy

Khi nghiệp thân khẩu ý
Hiền thiện và thanh tịnh
Chính là ngày cát tường
Là giờ phút hanh thông
Là thời khắc hưng vượng
Cúng dường bậc phạm hạnh
Là tế tự nhiệm mầu

Khi nghiệp thân khẩu ý
Chân chánh và sung mãn
Thì bổn nguyện thịnh đạt
Ai ba nghiệp thanh tịnh
Ðược vô lượng an lạc

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

I.2 Khoá Lễ Cầu an

Hướng dẫn

Ðây là khoá lễ cầu nguyện an lành và phước báu. Dùng trong các dịp hỷ sự như tân gia, an vị Phật, khai trương... Cũng được dùng để giải trừ tai ách, bệnh tật. Nội dung khoá lễ gồm các bài kinh xưng tán uy đức Tam Bảo, gia trì nguyện lực, sung mãn phúc lành.

Khoá Lễ cầu an

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Chúng con thành tâm cúng dường Tam Bảo, thiết lễ cầu an cho.... bản thân và gia đình tai ách tiêu trừ, thân tâm an lạc, vạn sự cát tường, sở cầu như ý.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ...
Pūjemi saṅghaṃ...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn
Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc
Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền
Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Châu Báu

Dẫn nhập

Tôn Giả A Nan Ða
Với từ tâm vô lượng
Trì tụng Kinh Châu Báu
Suốt trọn cả đêm dài
Ba vòng thành Vê Sa Li
Niệm tất cả ân đức
Của Như Lai đại lực
Là mười ba la mật
Mười thượng ba la mật
Mười thắng ba la mật
Năm pháp đại thí xả
Ba hạnh nguyện độ sanh

Trong kiếp chót giáng trần
Xuất gia tầm giải thoát
Khổ hạnh nghiệm đạo mầu
Chiến thắng đại ma quân
Ðạt nhất thiết chủng trí
Chứng chín pháp siêu phàm
Chư thiên khắp các cõi
Mười muôn triệu thế giới
Ðều vui mừng lãnh hội

Kinh Châu Báu uy lực
Tiêu trừ mọi tai ương
Ðói khát và bệnh tật
Cùng phi nhơn quấy nhiễu
Trong thành Vê Sa Li
Thảy đều được tan biến
Chúng đệ tử nhất tâm
Trì tụng Kinh Châu Báu (lạy)

Chánh kinh

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên

Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Trước tám pháp thế gian
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc (lạy)

Kinh Phật Lực

Ma Vương biến ngàn tay
Cầm khí giới đủ loại
Cỡi voi Mê Khá Lá
Cùng vô số binh ma
Vang rền như sấm động
Quyết chiếm đoạt bồ đoàn
Phật cảm thắng ma vương
Bằng hạnh lành bố thí
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Dạ xoa A La Vá Ká
Hung bạo hơn Ma Vương
Kiêu căng và tự phụ
Suốt đêm trổ thần lực
Quyết chiến cùng Thế Tôn
Phật cảm thắng dạ xoa
Bằng uy đức nhẫn nại
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Voi Na La Ghi Ri
Bị phục rượu uống say
Nộ khí như lửa rừng
Như sấm sét chấn động
Như xa luân bảo khí
Phật điều phục voi cuồng
Bằng từ tâm vô lượng
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Ăng Gu Li Ma Lá
Cuồng tín và tinh nhuệ
Giết người chặt ngón tay
Kết làm tràng đeo cổ
Cầm gươm toan giết Phật
Ðường xa ba do tuần
Phật độ kẻ bạo tàn
Bằng thần thông mầu nhiệm
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Nàng mỹ nữ Chin Cha
Giả dạng như thai phụ
Vu cáo đức Trọn Lành
Giữa đạo tràng thính chúng
Ðức Phật cảm thắng nàng
Bằng an nhiên chánh định
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Du sĩ Sách Cha Ka
Vốn lợi khẩu kiêu mạn
Giương cao cờ kiến chấp
Với tâm tư si ám
Phật độ kẻ lầm mê
Bằng hào quang trí tuệ
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Nanh Ðô Bá Nanh Ðá
Rồng chúa đại thần lực
Chấp định kiến sai lầm
Dùng thần thông thị uy
Vây Phật và thánh chúng
Ðức Ðiều Ngự huấn thị
Tôn giả Mục Kiền Liên
Biến thành đại long vương
Chế ngự rồng chúa dữ
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Ðại phạm thiên Bá Ká
Có pháp lực cao cường
Hào quang sáng vô lượng
Lòng kiêu mạn tà kiến
Tự phụ đức thuần tịnh
Phật cảm hoá phạm thiên
Bằng nhất thiết chủng trí
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Người hiền trí tinh cần
Ngày đêm thường trì niệm
Tám cảm thắng nhiệm mầu
Tiêu trừ mọi khổ chướng
Chứng an lạc giải thoát. (lạy)

Kinh Vô Úy

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

I.3 Khoá Lễ Sám Hối

Hướng dẫn

Ðây là khoá lễ nhằm sám hối ba nghiệp bất thiện từ hành động, lời nói và ý nghĩ. Theo truyền thống, khoá lễ nầy được tụng đọc vào hai ngày sóc vọng. Kinh sám nguyện là nội dung chính của khoá lễ đề cập mười bất thiện nghiệp.

Khoá Lễ Sám Hối

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ chúng con thân tâm thường lạc, đạo hạnh tinh chuyên, tâm bồ đề viên đắc. Ðồng nguyện hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân và thân nhân quá vãng được thọ hưởng phước lành, dứt trừ vọng chấp, vượt thoát trầm luân, viên thành đạo quả.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ...
Pūjemi saṅghaṃ...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn
Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc
Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền
Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Chuyển Pháp Luân

Như vầy tôi nghe

Một thời Thế Tôn ngự tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy:

Nầy các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà bậc xuất gia phải tránh: một là lợi dưỡng vốn hạ liệt, tục luỵ, phàm phu, không thánh thiện, không lợi lạc; hai là khổ hạnh cũng không thánh thiện, không lợi lạc lại khổ đau.

Từ bỏ hai cực đoan nầy, Như Lai thực hành Trung Ðạo chứng đạt pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Nầy các Tỳ kheo, Trung Ðạo đó là gì?

Chính là thánh đạo tám chi phần: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là thánh đạo được Như Lai liễu ngộ vơí pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về sự khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, ghét phải gần là khổ, thương phải xa là khổ, muốn không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về nhân sanh khổ: khát ái dẫn đến tái sanh, cùng với hỷ và tham, tầm cầu dục lạc đó đây. Chính là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về diệt khổ: yểm ly đọan diệt các dục, chấm dứt hệ luỵ, không còn dư y, hoàn toàn giải thoát mọi thằng thúc.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về con đường dẫn đến diệt khổ: chính là thánh đạo tám chi phần tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

"Ðây là sự thật về khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế cần được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế đã được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðây là sự thật về nhân sanh khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế cần được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế đã được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðây là sự thật về diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế cần được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế đã được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðây là sự thật về con đường diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế cần được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế đã được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Nầy các Tỳ kheo, cho đến khi nào bốn diệu đế nầy chưa được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển thì Như Lai không tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nầy các Tỳ kheo, chính khi bốn diệu đế nầy được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển nên Như Lai tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Và nhận thức nầy khởi lên trong Như Lai: sự giải thoát của ta không lay chuyển. Ðây là kiếp chót, không còn luân hồi nữa.

Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi pháp thoại nầy được tuyên thuyết, Tôn giả Kon Ðan Nha khởi sanh pháp nhãn thanh tịnh vô cấu hiểu rằng: phàm vật gì do nhân tập khởi tất cả pháp ấy đều bị hoại diệt.

Khi đức Phật chuyển Pháp luân nầy thì chư thiên trên địa cầu reo mừng: Pháp luân vi diệu! Những điều nầy chưa bao giờ được giảng dạy bởi bất cứ ai dù là sa môn, bà la môn, chư thiên, ma vương, phạm thiên nay được Thế Tôn tuyên thuyết tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si.

Ðược nghe vậy chư thiên cõi tứ thiên vương, đạo lợi, dạ ma, đấu suất, hoá lạc, tha hoá tự tại cùng các cõi phạm thiên đồng thanh vui mừng.

Trong phút chốc cả mười ngàn thế giới chấn động. Một hào quang vô lượng vượt xa hào quang của chư thiên chiếu diệu cùng khắp thế giới. Ngay khi ấy đức Phật lên tiếng: Kon Ðan Nha đã liễu ngộ, Kon Ðan Nha đã liễu ngộ. Từ ấy Tôn giả Kon Ðan Nha được gọi là An Nha Kon Ðan Nha. (lạy)

Sám Nguyện

Cúi đầu kính lễ
Ba ngôi Tam Bảo
Vô thượng tôn Phật
Vi diệu Chánh Pháp
Thánh đức Tăng Già

Ðệ tử bao đời sanh tử trầm luân
Bởi không thông lẽ thật
Khổ tập diệt đạo
Chẳng hiểu đường ngay
Tam học bát chánh
Nên từ lâu lầm lạc
Vô minh bao phủ
Ái dục buộc ràng
Sở hành bất thiện
Ba nghiệp tội dày
Nhân quả oan khiên
Sát sinh hại vật
Trộm cắp tà dâm
Nói sai sự thật
Ác ý rẽ chia
Buông lung phiếm luận
Tham lam sân ác
Tà kiến chấp sai
Lắm lúc si mê ngu dại
Mạn khinh Tam Bảo
Chẳng tin nghiệp báo
Lẫn lộn chánh tà
Giao du bạn ác gần xa
Sống vong ơn tự mãn
Xem thường thầy tổ
Bất kính sa môn
Không màng đại nghĩa
Quên nỗi khổ tha nhân
Chẳng nghĩ tình đồng loại
Nhiều lần vô tâm bất hiếu
Không nhớ công sinh dưỡng
Phụ rẫy mẹ cha
Hỗn hào phạm thượng
Bao kiếp phóng túng loạn tâm
Say đắm dục trần
Sáu căn buông thả
Không tin đạo cả
Thiếu chí tu hành
Rơi vào sa đọa
Nay nhờ Pháp Phật soi đường
Tự biết bao điều lầm lỗi
Thành tâm sám hối
Chân thật dọn lòng
Quyết tìm về nẻo sáng
Làm lành bỏ dữ
Thanh lọc tâm ý
Thương vật thương người
Dưỡng tánh từ bi
Tu đức hỉ xả
Nguyện hiếu kính mẹ cha
Học làm con thảo
Trọn đời gìn lòng ngay thẳng
Suốt kiếp hướng Tam Bảo tựa nương
Ngưỡng mong Phật đức cao vời
Từ bi chứng giám
Cho đệ tử chúng con
Tác thành sở nguyện
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Hồng Danh

Nhất tâm đảnh lễ
Nam mô đại trí Dīpaṅkaro Phật
Nam mô đại hùng Taṇhaṃkaro Phật
Nam mô đại uy Medhaṅkaro Phật
Nam mô cứu thế Saraṇaṅkaro Phật
Nam mô vô thượng sư Koṇḍañño Phật
Nam mô thượng nhân Maṅgalo Phật
Nam mô thường hoan hỷ Sumano Phật
Nam mô thường an lạc Revato Phật
Nam mô viên đức Sobhito Phật
Nam mô siêu nhân Anomadassī Phật
Nam mô phổ quang Padumo Phật
Nam mô điều ngự Nārado Phật
Nam mô đại đạo sư Padumuttaro Phật
Nam mô vô tỷ Sumedho Phật
Nam mô vô thượng tôn Sujāto Phật
Nam mô vô thượng sĩ Piyadassī Phật
Nam mô đại bi Atthadassī Phật
Nam mô vô lượng quang Dhammadassī Phật
Nam mô lưỡng túc tôn Siddhattho Phật
Nam mô vô thượng trí Tisso Phật
Nam mô vô thượng giác Pusso Phật
Nam mô đại lực Vipassī Phật
Nam mô thiên nhân sư Sikhī Phật
Nam mô đại từ Vessabhū Phật
Nam mô cứu khổ Kakusandho Phật
Nam mô vô nhiễm Konāgamano Phật
Nam mô đại hạnh Kassapo Phật
Nam mô Thích tử đại giác Gotamo Phật (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

I.4 Khoá Lễ Cầu siêu

Hướng dẫn

Ðây là khoá lễ tụng cho người quá vãng. Sử dụng trong các trường hợp cầu siêu, tang lễ, giỗ kỵ... Nội dung kinh văn có mục đích soi sáng nội tâm thấu rõ chân tướng vạn pháp, hồi hướng phước lành cho chư vị hương linh, khuyến tấn tu tập cho thân nhân hiện tiền.

Khoá Lễ cầu siêu

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ chúng con thân tâm thường lạc, đạo hạnh tinh chuyên, tâm bồ đề viên đắc. Ðồng nguyện hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân và thân nhân quá vãng được thọ hưởng phước lành, dứt trừ vọng chấp, vượt thoát trầm luân, viên thành đạo quả.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn
Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc
Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền
Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Vô Ngã Tướng

Như vầy tôi nghe

Một thời Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả, gần thành Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy:

Này các Tỳ kheo, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là vô ngã, không phải là của ta. Này các Tỳ kheo, nếu các uẩn thật là của ta, thì chúng không bị đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. Này các Tỳ kheo, các uẩn thật là vô ngã nên hằng bị đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia.

Này các Tỳ kheo, các ngươi cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là thường hay vô thường?

Bạch đức Thế Tôn, các uẩn là vô thường.

Vật chi vô thường, vật ấy là khổ hay vui?

Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.

Vật chi vô thường là khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng?

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

Này các Tỳ kheo, cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển,vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi. Các ngươi nên nhận thức chân lý ấy bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vầy: đó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta.

Này các Tỳ kheo, bậc thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, liền sanh tâm nhàm chán đối với sắc, đối với thọ, đối với tưởng, đối với hành, đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa.

Ðức Phật thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi đức Phật giảng dạy kinh này, thì tâm của năm thầy Tỳ kheo được giải thoát các vi tế phiền não không còn chấp thủ nữa. (lạy)

Kinh Hồi Hướng Vong Linh

Duyên khởi

Vua Bim Bi Sa Ra
Nằm mộng thấy thân nhân
Bị khổ quả đói lạnh
Ðến bạch hỏi Thế Tôn
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn
Chỉ dạy cách tạo phước
Hồi hướng các vong linh
Thoát ly mọi khổ ách

Chánh kinh

Các thân nhân quá vãng
Thường đến nhà quyến thuộc
Ðứng ngoài vách tựa cửa
Ngã đường hay cổng thành
Trông chờ hưởng phước thí
Nhưng vì kém phước duyên
Hương linh bị quên lảng

Những ai tạo phước lành
Do công đức bố thí
Nên phát nguyện bằng lời
I đăng vô nhá tí năng hô tú
Sú khí ta hon tú nha tá dô
Nguyện thân nhân quá vãng
Thượng hưởng công đức nầy
Ðược thọ sanh lạc cảnh

Những thân nhân quá vãng
Vân tập các đạo tràng
Nhận được phước hồi hướng
Thường thốt lời cảm kích
Mong ân nhân của mình
Ðược trường thọ phúc lạc
Người đã tạo công đức
Chắc chắn được quả lành

Chúng sanh trong cảnh khổ
Hằng mong đợi phước báu
Do thân nhân hồi hướng
Bởi trong những cõi ấy
Không có các sinh kế
Trồng trọt hoặc chăn nuôi
Bán buôn hay trao đổi
Như nước trên gò cao
Chảy xuống vùng đất thấp
Phước lành đã hồi hướng
Có diệu năng cứu khổ
Như trăm sông tuôn chảy
Cùng hướng về đại dương
Nguyện công đức đã tạo
Thấu đến chư hương linh
Khi người nhớ ân trước
Do tình nghĩa thân bằng
Do tương duyên quyến thuộc
Hãy cúng dường trai Tăng
Hồi hướng phước đã tạo
Sự khổ sầu thương cảm
Trước tử biệt sanh ly
Không có lợi ích gì
Cho thân nhân quá vãng
Cách trai Tăng hợp đạo
Gọi Ðắc Khi Na Ða Ná(Dakkhinādāna)
Cúng dường vô phân biệt
Ðến đại chúng Tăng Già
Bậc phạm hạnh giới đức
Bậc vô thượng phước điền
Ðược vô lượng công đức
Là thắng duyên tế độ
Hương linh trong cảnh khổ
Do thiện sự đã làm
Do hồi hướng đã nguyện
Do Tăng lực đã cầu
Xin tựu thành phúc quả (lạy)

Kệ Tỉnh Thức

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự
Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên
Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên
Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy
Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy
Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương
Ðã bao đời dâu bể tang thương
Xương trắng trải phủ đầy đại địa
Dù một kiếp trọn vui không dễ
Những phù du hưng phế đổi thay
Tuổi thanh xuân gẫm có bao ngày
Già đau chết hỏi ai tránh khỏi
Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi
Những nhục vinh kết nối liền nhau
Khi qua rồi còn lại niềm đau
Gió đời thổi phàm tâm xao động
Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng
Tình thân nhân bằng hữu phu thê
Thương phải xa ghét phải gần kề
Ai trọn kiếp không điều ngang trái
Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải
Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây
Vật ở đời tay lại qua tay
Buông tất cả khi tàn hơi thở
Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở
Bao tị hiềm cùng chuyện can qua
Lắm đổi dời trong mỗi sát na
Hạnh phúc đó não phiền cũng đó
Người trí hiểu căn nguyên thống khổ
Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh
Ngược dòng mê chánh đạo thực hành
Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử
Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh
Nương Pháp mầu đại hạnh đại duyên
Nương Tăng Già vô thượng phước điền
Nguyện uy đức cao dầy tiếp độ

Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Hương Linh Qui Y

Hương linh qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Hương linh qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Hương linh qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai hương linh qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba hương linh qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Kinh Chúc Nguyện

Nguyện phước lành sung mãn
Hồi hướng các thân nhân
Như muôn sông ra biển
Xin tất cả nguyện lành
Ðược kíp thời viên đắc

Xin ý thiện tâm thành
Thường trong sáng chiếu diệu
Như trăng tỏ ngày rằm
Như ma ni ngọc báu

Cầu uy đức Phật Bảo
Cầu uy đức Pháp Bảo
Cầu uy đức Tăng Bảo
Cầu chư thiên gia hộ
Tất cả điều phúc lành
Luôn tựu thành như nguyện (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

I.5 Kinh Lễ Tam Bảo

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ chúng con thân tâm thường lạc, đạo hạnh tinh chuyên, tâm bồ đề viên đắc. Ðồng nguyện hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân và thân nhân quá vãng được thọ hưởng phước lành, dứt trừ vọng chấp, vượt thoát trầm luân, viên thành đạo quả.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Lễ Tam Bảo Giản Lược

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh

Kính lễ

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Thỉnh Chư Thiên

Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì

-ooOoo-

Chương II-Kinh Văn

Nói một cách thuần lý thì tất cả kinh văn có tác dụng định tâm tịnh trí, vun bồi phúc đức, tăng trưởng tín tâm. Thế nên phần lớn các bài kinh đều có thể sử dụng trong mọi nghi thức nhật hành, cầu an, cầu siêu tuỳ theo duyên sự. Trong phần nầy sự xếp đặt dựa theo các bài kinh chứ không theo khoá lễ. Người tụng có thể mở đầu bằng kinh lễ Tam Bảo hay lễ Tam Bảo giản lược tùy theo thời giờ. Tiếp theo là tụng các kinh văn thích hợp. Sau hết là phần hoàn kinh gồm niệm lòng từ, hồi hướng, phục nguyện áp dụng cho tất cả thời khoá. Ðặc điểm của chương nầy là phần kinh Phạn ngữ Pali đối chiếu và có nhiều kinh văn không có trong chương I.

Lễ Chánh Giác Tông

Sambuddhagāthā
Sambuddhe aṭṭhavīsañca Dvādasañca sahassake
pañcasatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ tesaṃ
dhammañca saṅghañca ādarena namāmihaṃ
Namakārānubhāvena hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyāpi vinassantu asesato

Ðệ tử thành kính đảnh lễ hai mươi tám vị Chánh Biến Tri, mười hai ngàn vị Chánh Biến Tri, và năm trăm ngàn vị Chánh Biến Tri. Ðệ tử thành kính đảnh lễ Pháp Bảo và Tăng BảoḌo nhờ oai lực Tam Bảo xin những khổ đau bất hạnh thảy đều diệt tận.

Sambuddhe pañcapaññāsañca cA-tuvīsatisahassake
dasasatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ
Tesaṃ dhammañca saṅghañca ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyāpi vinassantu asesato

Ðệ tử thành kính đảnh lễ năm mươi lăm vị Chánh Biến Tri, hai mươi bốn ngàn vị Chánh Biến Tri và một triệu vị Chánh Biến Tri. Ðệ tử thành kính đảnh lễ Pháp Bảo và Tăng Bảo. Do nhờ oai lực Tam Bảo xin những khổ đau bất hạnh thảy điều diệt tận.

Sambuddhe navuttarasate aṭṭhacattāḷīsasahassake
Vīsatisatasahassāni namāmi sirasā ahaṃ
Tesaṃ dhammañca saṅghañca ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyāpi vinassantu asesato

Ðệ tử thành kính đảnh lễ một trăm lẻ chín vị Chánh Biến Tri, bốn mươi tám ngàn vị Chánh Biến Tri và hai triệu vị Chánh Biến Tri. Ðệ tử thành kính đảnh lễ Pháp Bảo và Tăng Bảo. Do nhờ oai lực Tam Bảo xin những khổ đau bất hạnh thảy đều diệt tận.

1. Kinh Hạnh Phúc - MaṅgA-lasutta

Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ
bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane
anāṭhapiṇḍikassa ārāme. Atha kho
aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā
abhikkantavaṇṇā kev
A-lakappaṃ
jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā
tenupasaṅkami upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā
devatā bhagavantaṃ gāṭhāya
ajjhabhāsi

Như vầy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá
Của trưởng giả Cấp Cô Ðộc
Gần thành Xá Vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu
Sáng tỏa Kỳ Viên
Ðến nơi Phật ngự
Ðảnh lễ Thế Tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng

Bahū devā manussā ca
Maṅgalāni acintayuṃ
Ākaṅkhamānā sotthānaṃ
Brūhi maṅg
A-lamuttamaṃ

Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng
Thế Tôn tùy lời hỏi
Rồi giảng giải như vầy

Asevanā ca bālānaṃ
Paṇḍitānañca sevanā
Pūjā ca pūjanīyānaṃ
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Cúng dường bậc tôn đức
Là phúc lành cao thượng

Paṭirūpadesavāso ca
Pubbe ca katapuññatā
Attasammāpaṇidhi ca
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng

Bāhusaccañ ca sippañca
Vinayo ca susikkhito
Subhāsitā ca yā vācā
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Ða văn nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng

Mātāpitu upaṭṭhānaṃ
Puttadārassa saṅgaho
Anākulā ca kammantā
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Hiếu thuận bậc sanh thành
Chăm sóc vợ và con
Sống bằng nghề lương thiện
Là phúc lành cao thượng

Dānañca dhammacariyā ca
Ñātakānañca saṅgaho
Anavajjāni kammāni
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Bố thí hành đúng Pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Hành vi không lỗi lầm
Là phúc lành cao thượng

Āratī viratī pāpā
Majjapānā ca saññamo
Appamādo ca dhammesu
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Xả ly tâm niệm ác
Tự chế không say sưa
Tinh cần trong thiện pháp
Là phúc lành cao thượng

Gāravo ca nivāto ca
Santuṭṭhī ca kataññutā
Kālena dhammassavanaṃ
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Biết cung kính khiêm nhường
Tri túc và tri ân
Ðúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng

Khantī ca sovacassatā
Samaṇānañca dassanaṃ
Kālena dhammasākacchā
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Nhẫn nhục tánh thuần hoá
Thường yết kiến sa môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng

Tapo ca brahmacariyañca
Ariyasaccānadassanaṃ
Nibbānasacchikiriyā ca
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Thiền định sống phạm hạnh
Thấy được lý thánh đế
Chứng ngộ quả niết bàn
Là phúc lành cao thượng

Phuṭṭhassa lokadhammehi
Cittaṃ yassa na kampati
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ
Etaṃ maṅg
A-lamuttamaṃ

Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Etādisāni katvāna
Sabbatthamaparājitā
Sabbattha sotthiṃ gacchanti
Tantesaṃ maṅg
A-lamuttamanti

Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng

2. Kinh Từ Bi - Karaṇīyamettasutta

Karaṇīyamatthakusalena
Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca suhujū ca
Suvaco cassa mudu anatimānī

Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nipako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho

Na ca khuddaṃ samācare kiñci
Yena viññū pare upavadeyyuṃ
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā


Hiền nhân cầu an lạc
Nên huân tu pháp lành
Có nghị lực chơn chất
Ngay thẳng và nhu thuận
Hiền hoà không kiêu mạn
Sống dễ dàng tri túc
Thanh đạm không rộn ràng
Lục căn luôn trong sáng
Trí tuệ càng hiển minh
Tự trọng không quyến niệm
Không làm việc ác nhỏ
Mà bậc trí hiền chê
Nguyện thái bình an lạc
Nguyện tất cả sanh linh
Tràn đầy muôn hạnh phúc

Ye keci pāṇabhūtatthi
Tasā vā ṭhāvarā vā anavasesā
Dīghā vā ye
Ma-hantā vā
Majjhimā rassakānukathullā


Diṭṭhā vā ye ca aḍḍitthā
Ye ca dūre vasanti avidūre
Bhūtā vā sambhavesī vā
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā

Với muôn loài chúng sanh
Không phân phàm hay thánh
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao hay dài ngắn
Tế thô không đồng đẳng
Hữu hình hoặc vô hình
Ðã sanh hoặc chưa sanh
Gần xa không kể xiết
Nguyện tất cả sanh linh
Tràn đầy muôn hạnh phúc

Na paro paraṃ nikubbetha
Nātimaññetha katthaci naṃ kiñci
Byārosanā paṭighasaññā
Nāññamaññassa dukkhamiccheyya

Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
āyusā ekaputtamanurakkhe
Evampi sabbabhūtesu
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ

Mettañ ca sabbalokasmiṃ
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ
Uddhaṃ adho ca tiriyañca
Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ


Ðừng làm hại lẫn nhau
Chớ khinh rẻ người nào
Ở bất cứ nơi đâu
Ðừng vì niệm sân si
Hoặc hiềm hận trong lòng
Mà mong người đau khổ
Hãy mở rộng tình thương
Hy sinh như từ mẫu
Suốt đời lo che chở
Ðứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Ðến tất cả sanh linh
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận căm thù

Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā
Sayāno vā yāvatassa vigatamiddho
Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya
Brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu

Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā
Dassanena sampanno
Kāmesu vineyya gedhaṃ
Na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti

Khi đi đứng ngồi nằm
Bao giờ còn tỉnh thức
An trú chánh niệm nầy
Phạm hạnh chính là đây
Ai từ bỏ kiến chấp
Khéo nghiêm trì giới hạnh
Thành tựu được chánh trí
Không ái nhiễm dục trần
Không còn thai sanh nữa

3. Kinh Châu Báu - Ratanasutta

Dẫn nhập

Paṇidhānato paṭṭhāya tathāgatassa dasa
Pāramiyo dasa upapāramiyo dasa
Paramatthapāramiyo pañca mahāpariccāge
Tisso cariyā pacchimabbhave gabbhā
Vakkantiṃ jātiṃ abhinikkha
Ma-naṃ
Padhānacariyaṃ bodhipallaṅke māravija-
Yaṃ sabbaññutaññāṇappaṭivedhaṃ nava
Lokuttaradhammeti sabbe pime buddhaguṇe
āvajjitvā vesāliyā tīsu pākārantaresu
Tiyāmarattiṃ parittaṃ karonto āyasmā
ānandatthero viya kāruññacittaṃ
Upaṭṭhapetvā koṭisatasahassesu cakkavāḷesu devatā
yassānampatiggaṇhanti yañca Vesāliyaṃpure rogā
manussadubbhikkha sambhūtantividhaṃ bhayaṃ
khippamantaradhāpesi parittantaṃ bhaṇāma he

Tôn Giả A Nan Ða
Với từ tâm vô lượng
Trì tụng Kinh Châu Báu
Suốt trọn cả đêm dài
Ba vòng thành Vê Sa Li
Niệm tất cả ân đức
Của Như Lai đại lực
Là mười ba la mật
Mười thượng ba la mật
Mười thắng ba la mật
Năm pháp đại thí xả
Ba hạnh nguyện độ sanh

Trong kiếp chót giáng trần
Xuất gia tầm giải thoát
Khổ hạnh nghiệm đạo mầu
Chiến thắng đại ma quân
Ðạt nhất thiết chủng trí
Chứng chín pháp siêu phàm
Chư thiên khắp các cõi
Mười muôn triệu thế giới
Ðều vui mừng lãnh hội

Kinh Châu Báu uy lực
Tiêu trừ mọi tai ương
Ðói khát và bệnh tật
Cùng phi nhơn quấy nhiễu
Trong thành Vê Sa Li
Thảy đều được tan biến
Chúng đệ tử nhất tâm
Trì tụng Kinh Châu Báu

Chánh kinh

Yānīdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāniva antalikkhe
Sabbe va bhūtā sumanā bhavantu
Athopi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ
Tasmā hi bhūtāni sāmetha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Mong khởi lòng hoan hỷ
Thành kính nghe lời nầy
Rồi với tâm bi mẫn
Năng hộ trì nhơn loại
Vốn đêm ngày hồi hướng
Phước lành đến chư thiên

Yaṅkiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi tathāgatena
Idampi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.

Những vật quí trong đời
Chốn nầy hay nơi khác
Cả châu báu cõi trời
Không gì sánh bằng được
Với Như Lai Thiện Thệ
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
yadajjhagā sakyamunī samāhito
Na tena dhammena samatthi kiñci
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Pháp bất tử tối thượng
Ly dục diệt phiền não
Phật Thích Ca Mâu Ni
Chứng pháp ấy trong thiền
Không gì sánh bằng được
Pháp thiền vi diệu ấy
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yaṃ buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
samādhimānantarikaññamāhu
samādhinā tena samo na vijjati
idaṃ pi dhamme ratanaṃ paṇītam
etena saccena suvatthi hotu

Con đường thanh lọc tâm
Là tu tập thiền định
Chứng hiện tại lạc trú
Ðức Phật hằng ngợi khen
Không gì so sánh được
Do vậy chính Chánh Pháp
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasaṭṭhā
cattāri etāni yugāni honti
te dakkhiṇeyyā sugatassa sāvakā
etesu dinnāni
Ma-happhalāni
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Thánh tám vị bốn đôi
Là những bậc ứng cúng
Ðệ tử đấng Thiện Thệ
Ðược trí giả tán thán
Cúng dường đến các ngài
Hưởng vô lượng công đức
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye suppayuttā Ma-nasā daḷhena
nikkāmino gotamasāsanamhi
te pattipattā amataṃ vigayha
laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc tu hành thiểu dục
Với ý chí kiên trì
Khéo chơn chánh phụng hành
Lời dạy đức Ðiều Ngự
Chứng đạt quả giải thoát
Thể nhập đạo bất tử
Lạc trú quả tịch tịnh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yathindakhīlo paṭhaviṃ sito siyā
c
A-tubbhi vātebhi asampakampiyo
tathūpamaṃ suppurisaṃ vadāmi
yo ariyasaccāni aveccapassati
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ví như cột trụ đá
Khéo chôn chặt xuống đất
Dầu bốn hướng cuồng phong
Cũng không thể lay động
Ta nói bậc chân nhân
Liễu ngộ tứ thánh đế
Cũng tự tại bất động
Trước tám pháp thế gian
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ye ariyasaccāni vibhāvayanti
gambhīrapaññena sudesitāni
kiñcāpi te honti bhusappamattā
na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyanti
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Chứng tri lý thánh đế
Ðược đức Gô Ta Ma
Khéo thuyết giảng tường tận
Các ngài dù phóng dật
Thì cũng không bao giờ
Tái sanh kiếp thứ tám
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Sahāvassa dassanasampadāya
tayassu dhammā jahitā bhavanti
sakkāyadiṭṭhi vicikicchitañca
sīlabbataṃ vāpi yadatthi kiñci
catūhapāyehi ca vippamutto
cha cābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhờ chứng đạt chánh trí
Ðọan trừ ba kiết sử
Thân kiến và hoài nghi
Luôn cả giới cấm thủ
Thoát khỏi bốn đọa xứ
Bậc nhập lưu không tạo
Sáu bất thiện trọng nghiệp
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Kiñcāpi so kammaṃ karoti
pāpakaṃ kāyena vācāyuda cetasā vā
abhabbo so tassa paṭicchadāya
abhabbatā diṭṭhapadassa vuttā
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ paṇtītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Bậc thánh tu đà huờn
Dù vô tâm phạm lỗi
Bằng thân lời hay ý
Cũng không hề che dấu
Ðược xứng danh hiền thánh
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Vanappagumbe yathā phussitagge
gimhānamāse paṭhamasmiṃ gimhe
tathūpamaṃ dhammavaraṃ adesayi
nibbānagāmiṃ paramaṃ hitāya
idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Thế Tôn thuyết giảng
Pháp đưa đến niết bàn
Tịnh lạc và thù thắng
Lợi ích chúng hữu tình
Ví như mưa đầu hạ
Khiến ngàn cây đâm chồi
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Varo varaññū varado varāharo
anuttaro dhammavaraṃ adesayi
Idaṃ pi buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Ðức Phật bậc vô thượng
Liễu thông pháp vô thượng
Ban bố pháp vô thượng
Chuyển đạt pháp vô thượng
Tuyên thuyết pháp vô thượng
Do vậy chính đức Phật
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Khīṇaṃ purāṇaṃ navaṃ natthi-sambhavaṃ
virattacittāyatike bhavasmiṃ
te khīṇabījā aviruḷhichandā
nibbanti dhīrā yathāyampadīpo
idaṃ pi saṅghe ratanaṃ panītaṃ
etena saccena suvatthi hotu

Nhân quá khứ đã đoạn
Mầm tương lai không gieo
Với tâm không ái chấp
Trong sanh hữu đời sau
Bởi tham muốn đã đọan
Các chủng tử không còn
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc trí chứng niết bàn
Do vậy chính Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
buddhaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Ðức Phật bậc như lai
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yānīdha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikhe
tathāgataṃ devamanussapùjitaṃ
dhammaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Chánh Pháp đạo như chân
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Yanītha bhūtāni samāgatāni
bhummāni vā yāniva antalikkhe
tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ
saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu

Chúng thiên nhân các cõi
Dù thiên tiên địa tiên
Ðã vân tập nơi đây
Hãy chí thành đảnh lễ
Tăng Chúng bậc như đức
Ðược chư thiên nhân loại
Ðảnh lễ và cúng dường
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

4. Kinh Bồ Ðề Phần - Bodhipakkhiyadhamma

Cattāro satipaṭṭhānā
kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ
vedanānupassanāsatipaṭṭhānaṃ
cittānupassanāsatipaṭṭhānaṃ
dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Tứ niệm xứ tức bốn pháp quán niệm đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp niệm gồm có:
Niệm thân tức minh sát về thân
Niệm thọ tức minh sát cảm thọ
Niệm tâm tức minh sát trạng thái nội tâm
Niệm pháp tức minh sát sự tương quan các pháp.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Cattāro sammappadhānā
uppannānaṃ pāpakānaṃ
dhammānaṃ pahānāya vāyāmo
anuppannānaṃ pāpakānaṃ
dhammānaṃ anuppādāya vāyāmo
anuppannānaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ
uppādāya vāyāmo uppannānaṃ kusalānaṃ
dhammānaṃ bhiyyobhāvāya vāyāmo
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Tứ chánh cần tức bốn nỗ lực quan yếu đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp ấy gồm có:
Thận chánh cần tức sự cố gắng ngăn ngừa ác pháp không cho sanh khởi.
Trừ chánh cần tức sự cố gắng đoạn trừ ác pháp đã sanh khởi.
Tu chánh cần tức sự cố gắng làm sanh khởi thiện pháp chưa có.
Bảo chánh cần tức sự cố gắng nuôi dưỡng thiện pháp đã có.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Cattāro iddhipādā
chandiddhipādo cittiddhipādo
viriyiddhipādo vīmaṅsiddhipādo
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Tứ thần túc tức bốn pháp có hiệu năng thành tựu thiền định và chánh trí đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bốn pháp có hiệu năng gồm có:
Dục thần túc tức hiệu năng của ý muốn
Cần thần túc tức hiệu năng của nỗ lực
Tâm thần túc tức hiệu năng của tâm thuần hoá
Thẩm thần túc tức hiệu năng của trí phân biệt.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Pañcindriyāni saddhindriyaṃ
viriyindriyaṃ satindriyaṃ
samādhindriyaṃ paññindriyaṃ
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Ngũ căn tức năm nền tảng của sự tu chứng đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Năm nền tảng gồm có:
Tín căn tức căn bản đức tin
Tấn căn tức căn bản tinh cần
Niệm căn tức căn bản tỉnh thức
Ðịnh căn tức căn bản chuyên nhất
Huệ căn tức căn bản trí tuệ
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Pañca balāni saddhāBa-laṃ viriyaBa-laṃ
sati
Ba-laṃ samādhiBa-laṃ paññāBa-laṃ
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Ngũ lực tức năm sức mạnh của sự tu chứng đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Năm sức mạnh gồm có:
Tín lực tức sức mạnh của đức tin
Tấn lực tức sức mạnh của sự tinh cần
Niệm lực tức sức mạnh của sự tỉnh thức
Ðịnh lực tức sức mạnh của sự chuyên nhất
Huệ lực tức sức mạnh của trí tuệ
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Satta bojjhaṅgā satisambojjhaṅgo dhamma-
vicayasambojjhaṅgo viriyasambojjhaṅgo
pītisambojjhaṅgo passadhisambojjhaṅgo
samādhisambojjhaṅgo upekkhāsambojjhaṅgo
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā

Thất giác chi tức bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Bảy yếu tố gồm có:
Niệm giác chi tức yếu tố minh sát
Trạch pháp giác chi tức yếu tố phân biệt
Cần giác chi tức yếu tố tinh tấn
Hỷ giác chi tức yếu tố an lạc
Tịnh giác chi tức yếu tố lắng đọng
Ðịnh giác chi tức yếu tố chuyên nhất
Xả giác chi tức yếu tố quân bình.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

Aṭṭha maggaṅgāni
sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā
sammākammanto sammāājīvo
sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi
muninā sammadakkhātā
bhāvitā bahulīkatā
saṃvattanti abhiññāya
nibbānāya ca bodhiyā
Etena saccavajjena
sotthi te hotu sabbadā


Bát chánh đạo tức con đường chánh tám chi phần đã được đấng Thập Lực khéo tu tập, khéo chứng đắc, khéo tuyên thuyết. Tám chi phần gồm có:
Chánh kiến tức sự thấy biết xác thực
Chánh tư duy tức suy nghĩ chân chánh
Chánh ngữ tức lời nói hiền thiện
Chánh nghiệp tức hành vi vô tội
Chánh mạng tức sự nuôi mạng hợp đạo
Chánh tinh tấn tức sự nỗ lực chánh đáng
Chánh niệm tức sự quán sát tỉnh thức
Chánh định tức sự định tâm đúng phương pháp.
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.

5. Kinh Vô Úy - Abhayaparittagāthā

Yandunnimittaṃ avamaṅgA-lañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
buddhānubhāvena vināsamentu
Yandunnimittaṃ avamaṅg
A-lañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
dhammānubhāvena vināsamentu
Yandunnimittaṃ avamaṅg
A-lañca
yo cāmanāpo sakuṇassa saddo
pāpaggaho dussupinaṃ akantaṃ
saṅghānubhāvena vināsamentu

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến

Dukkhappattā ca niddukkhā
bhayappattā ca nibbhayā
sokappattā ca nissokā
hontu sabbepi pāṇino
ettāvatā ca amhehi
sambhataṃ puññasampadaṃ
sabbe devānumodantu
sabbasampattisiddhiyā
dānaṃ dadantu saddhāya
sīlaṃ rakkhantu sabbadā
bhāvanābhiratā hontu
gacchantu devatāgatā

Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền

Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ

Sabbe buddhā Ba-lappattā
paccekānañca yaṃ
Ba-laṃ
arahantānañca tejena
rakkhaṃ bandhāmi sabbaso


Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh

6. Kinh Chuyển Pháp Luân - Dhammacakkappavattanasutta

Evaṃ me sutaṃ
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ
viharati isipatane migadāye. Tatra kho
bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi

Như vầy tôi nghe

Một thời Thế Tôn ngự tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy:


Dveme bhikkhave antā pabbajitena na
sevitabbā. Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhalli kānuyogo
hīno gammo poṭhujjaniko anariyo anatthasañhito.
Yo cāyaṃ attakilamathānu yogo dukkho anariyo
anatthasañhito. Ete te bhikkhave ubho
ante anupagamma majjhimāpaṭipadā tathāgatena
abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya
abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati

Nầy các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà bậc xuất gia phải tránh: một là lợi dưỡng vốn hạ liệt, tục luỵ, phàm phu, không thánh thiện, không lợi lạc; hai là khổ hạnh cũng không thánh thiện, không lợi lạc lại khổ đau.

Từ bỏ hai cực đoan nầy, Như Lai thực hành Trung Ðạo chứng đạt pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Katamā ca sā bhikkhave majjhimā paṭipadā
tathāgatena abhisambuddhā, cakkhukaraṇī
ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya
nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo. Seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo
sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā paṭipadā tathāgatena
abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati

Nầy các Tỳ kheo, Trung Ðạo đó là gì?
Chính là thánh đạo tám chi phần: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là thánh đạo được Như Lai liễu ngộ với pháp nhãn, tuệ giác, tịnh trí, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhaṃ ariyasaccaṃ:
jātipi dukkhā jarāpi dukkhā maraṇampi dukkhaṃ
sokaparidevadukkhado
Ma-nassupāyāsāpi dukkhā
appiyehi sampayogo dukkho piyehi vippayogo dukkho
yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ saṅkhittena
pañcupādānakkhandhā dukkhā. Idaṃ kho pana
bhikkhave dukkhasamudayo ariyasaccaṃ yāyaṃ taṇhāponobbhavikā nandirāgasahagatā tatratatrāb
hi-nandinī.
Seyyathīdaṃ: kāmataṇhā bhavataṇhā vibhavataṇhā.
Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhanirodho ariyasaccaṃ yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo
paṭinissaggo mutti anālayo. Idaṃ kho panabhikkhave
dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ ayameva
ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo seyyathīdaṃ: sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo
sammāvācā sammākammanto sammāājīvo
sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.


Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về sự khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, ghét phải gần là khổ, thương phải xa là khổ, muốn không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về nhân sanh khổ: khát ái dẫn đến tái sanh, cùng với hỷ và tham, tầm cầu dục lạc đó đây. Chính là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về diệt khổ: yểm ly đọan diệt các dục, chấm dứt hệ luỵ, không còn dư y, hoàn toàn giải thoát mọi thằng thúc.

Nầy các Tỳ kheo, đây là diệu đế về con đường dẫn đến diệt khổ: chính là thánh đạo tám chi phần tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Idaṃ dukkhaṃ ariyasaccanti me bhikkhave
pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi
ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko
udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ
pariññeyyanti me bhikkhave pubbe ananussutesu
dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā
udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho
panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātanti me
bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi
āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế cần được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Khổ đế đã được lãnh hội" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhasamudayo ariyasaccanti me bhikkhave
pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi
ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko
udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo
ariyasaccaṃ pahātabbanti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhuṃ
udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayo
ariyasaccaṃ pahīnanti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ
udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về nhân sanh khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế cần được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Tập đế đã được đoạn diệt" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhanirodho ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesucakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ
udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi
Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ
sacchikātabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu
dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho
panidaṃ dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikatanti
me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu
cakkhuṃudapādi ñāṇam udapādi paññā udapādi
vijjā udapādi āloko udapādi.

"Ðây là sự thật về diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế cần được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Diệt đế đã được chứng ngộ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi
ñāṇaṃ udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko
udapādi. Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhagāminī
paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitanti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi ñāṇaṃ
udapādi paññā udapādi vijjā udapādi āloko udapādi

"Ðây là sự thật về con đường diệt khổ" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế cần được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

"Ðạo đế đã được tu tập" là điều mà Như Lai chưa từng được nghe nay khởi lên với sự thấy, biết, hiểu, xác chứng và thấu triệt.

Yāvakīvañca me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evanti parivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ
ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvāhaṃ
bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake
sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya
anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho
paccāññāsiṃ yato ca kho me bhikkhave imesu
catūsu ariyasaccesu evanti parivattaṃ dvādasākāraṃ
yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi
athāhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake
sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho
paccāññāsiṃ ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi
akuppā me vimutti ayamantimā jāti natthidāni
punabbhavoti

Nầy các Tỳ kheo, cho đến khi nào bốn diệu đế nầy chưa được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển thì Như Lai không tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nầy các Tỳ kheo, chính khi bốn diệu đế nầy được Như Lai hoàn toàn giác ngộ với ba luân, mười hai chuyển nên Như Lai tự nhận cùng thiên giới, ma vương giới, phạm thiên giới, hội chúng sa môn, bà la môn, chư thiên và nhân loại rằng ta đã chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Và nhận thức nầy khởi lên trong Như Lai: sự giải thoát của ta không lay chuyển. Ðây là kiếp chót, không còn luân hồi nữa.

Idamavoca bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū
bhagavato bhāsitaṃ ab
hi-nanduṃ imasmiñca pana
veyyākaraṇasmiṃ bhañña-māne āyasmato koṇḍaññassa virajaṃ vītam
A-laṃ dhammacakkhuṃ udapādi
yaṅkiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ
nirodhadhammanti.

Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi pháp thoại nầy được tuyên thuyết, Tôn giả Kon Ðan Nha khởi sanh pháp nhãn thanh tịnh vô cấu hiểu rằng: phàm vật gì do nhân tập khởi tất cả pháp ấy đều bị hoại diệt.

Pavattite ca bhagavatā dhammacakke bhummā devā
saddamanussāvesuṃ etambhagavatā bārāṇasiyaṃ
isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ
pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena
vā devena vā mārena vā brāhmuṇā vā kenaci vā
lokasminti bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātummahārājikā devā saddamanussāvesuṃ cātummahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tāvatiṃsā devā saddamanussāvesuṃ tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā
yāmā devā saddamanussāvesuṃ yāmānaṃ devānaṃ
saddaṃ sutvā tusitā devā saddamanussāvesuṃ
tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā nimmānaratī devā
saddamanussāvesuṃ nimmānaratīnaṃ devānaṃ
saddaṃ sutvā paranimmitavasavattī devā
saddamanussāvesuṃ paranimmitavasavattīnaṃ
devānaṃ saddaṃ sutvā brahmakāyikā devā
saddamanussāvesuṃ etambhagavatā bārāṇasiyaṃ
isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ
pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brāhmaṇena
vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā
lokasminti.

Khi đức Phật chuyển Pháp luân nầy thì chư thiên trên địa cầu reo mừng: Pháp luân vi diệu! Những điều nầy chưa bao giờ được giảng dạy bởi bất cứ ai dù là sa môn, bà la môn, chư thiên, ma vương, phạm thiên nay được Thế Tôn tuyên thuyết tại Lộc Uyển, ở I Si Pa Ta Na gần Ba Ra Na Si. Ðược nghe vậy chư thiên cõi tứ thiên vương, đạo lợi, dạ ma, đấu suất, hoá lạc, tha hoá tự tại cùng các cõi phạm thiên đồng thanh vui mừng.

Itiha tena khaṇena tena muhuttena yāva brahmalokā
saddo abbhuggachi. Ayañca dasasahassī lokadhātu
saṅkampi sampakampi sampavedhi. Appamāṇo ca
olāro obhāso loke pāturahosi atikkammeva devānaṃ
devānubhāvaṃ. Atha kho bhagavā udānaṃ udānesi
Aññāsi vata bho koṇḍañño Aññāsi vata bho
koṇḍaññotiItihidaṃ āyasmato koṇḍaññassa
aññākoṇḍañño tveva nāmaṃ ahosīti.

Trong phút chốc cả mười ngàn thế giới chấn động. Một hào quang vô lượng vượt xa hào quang của chư thiên chiếu diệu cùng khắp thế giới.

Ngay khi ấy đức Phật lên tiếng: Kon Ðan Nha đã liễu ngộ, Kon Ðan Nha đã liễu ngộ. Từ ấy Tôn giả Kon Ðan Nha được gọi là An Nha Kon Ðan Nha.

7. Kinh Thắng Hạnh - Jayaparitta

Mahākāruṇiko nātho
hitāya sabbapāṇinaṃ
pūretvā pāramī sabbā
patto sambodhimuttamaṃ
etena saccavajjena
hotu me jayamaṅg
A-laṃ

Ðấng Ðại Bi cứu khổ
Vì lợi ích chúng sanh
Huân tu ba la mật
Chứng vô thượng chánh giác
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Jayanto bodhiyā mūle
sakyānaṃ nandivaḍḍhano
evaṃ tvaṃ vijayo hohi
jayassu jayamaṅgale

Aparājitapallaṅke
sīse paṭhavipokkhare
abhiseke sabbabuddhānaṃ
aggappatto pamodati.

Nhờ chiến thắng Ma Vương
Trên bồ đoàn bất bại
Ðịa cầu liên hoa đỉnh
Khiến dòng họ Thích Ca
Tăng trưởng niềm hoan hỷ
Nguyện chiến thắng vẻ vang
Nguyện khải hoàn như vậy

Sunakkhattaṃ sumaṅgA-laṃ
supabhātaṃ suhutthitaṃ
sukhaṇo sumuhutto ca
suyiṭṭhaṃ brahmacārīsu.

Khi nghiệp thân khẩu ý
Hiền thiện và thanh tịnh
Chính là ngày cát tường
Là giờ phút hanh thông
Là thời khắc hưng vượng
Cúng dường bậc phạm hạnh
Là tế tự nhiệm mầu

Padakkhiṇaṃ kāyakammaṃ
vācākammaṃ padakkhiṇaṃ
padakkhiṇaṃ manokammaṃ
paṇidhī te padakkhiṇā
padakkhiṇāni katvāṇa
labhantatthe padakkhiṇe.

Khi nghiệp thân khẩu ý
Chân chánh và sung mãn
Thì bổn nguyện thịnh đạt
Ai ba nghiệp thanh tịnh
Ðược vô lượng an lạc

Te atthA-laddhā sukhitā
viruḷhā buddhasāsane
arogā sukhitā hotha
saha sabbehi ñātibhi

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành

8. Kinh Phật Lực - BuddhajayamaṅgA-lagāṭhā

Bāhuṃ sahassamabhinimmitasāvudhantaṃ
grīmekh
A-laṃ uditaghorasasenamāraṃ
dānādidhammavidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Ma Vương biến ngàn tay
Cầm khí giới đủ loại
Cỡi voi Mê Khá Lá
Cùng vô số binh ma
Vang rền như sấm động
Quyết chiếm đoạt bồ đoàn
Phật cảm thắng ma vương
Bằng ba la mật hạnh
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Mārātirekamabhiyujjhitasabbarattiṃ
ghorampanāḷavakamakkhamathaddha
yakkhaṃ khantīsudantavidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Dạ xoa A La Vá Ká
Hung bạo hơn Ma Vương
Kiêu căng và tự phụ
Suốt đêm trổ thần lực
Quyết chiến cùng Thế Tôn
Phật cảm thắng dạ xoa
Bằng uy đức nhẫn nại
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Nālāgiriṃ gajavaraṃ atimattabhūtaṃ
dāvaggicakkamasanīva sudāruṇantaṃ
mettambusekavidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Voi Na La Ghi Ri
Bị phục rượu uống say
Nộ khí như lửa rừng
Như sấm sét chấn động
Như xa luân bảo khí
Phật điều phục voi cuồng
Bằng từ tâm vô lượng
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Ukkhittakhaggamatihatthasudāruṇantaṃ
dhāvantiyojanapaṭhaṅgulimālavantaṃ
iddhībhisaṅk
ha-tamano jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Ăng Gu Li Ma Lá
Cuồng tín và tinh nhuệ
Giết người chặt ngón tay
Kết làm tràng đeo cổ
Cầm gươm toan giết Phật
Ðường xa ba do tuần
Phật độ kẻ hiếu sát
Bằng thần thông nhiệm mầu
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Katvāna kaṭṭhamudaraṃ iva gabbhinīyā
ciñcāya duṭṭhavacanaṃ janakāyamajjhe
santena somavidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Nàng mỹ nữ Chin Cha
Giả dạng như thai phụ
Vu cáo đức Trọn Lành
Giữa đạo tràng thính chúng
Ðức Phật cảm thắng nàng
Bằng an nhiên chánh định
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Saccaṃ vihāya matisaccakavādaketuṃ
vādābhiropita
Ma-naṃ atiandhabhūtaṃ
paññāpadīpajalito jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Du sĩ Sách Cha Ka
Vốn lợi khẩu kiêu mạn
Giương cao cờ kiến chấp
Với tâm tư si ám
Phật độ kẻ lầm mê
Bằng hào quang trí tuệ
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Nandopanandabhujagaṃ vibudhaṃ
mahiddhiṃ puttena thera bhujagena damāpayanto
iddhūpadesavidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Nanh Ðô Bá Nanh Ðá
Rồng chúa đại thần lực
Chấp định kiến sai lầm
Dùng thần thông thị uy
Vây Phật và thánh chúng
Ðức Ðiều Ngự huấn thị
Tôn giả Mục Kiền Liên
Biến thành đại long vương
Chế ngự rồng chúa dữ
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Duggāhadiṭṭhibhujagena sudaṭṭhahatthaṃ
brahmaṃ visuddhijutimiddhiba kābhidhānaṃ
ñāṇāgadena vidhinā jitavā munindo
tantejasā bhav
A-tu te jayamaṅgalāni

Ðại phạm thiên Bá Ká
Có pháp lực cao cường
Hào quang sáng vô lượng
Lòng kiêu mạn tà kiến
Tự phụ đức thuần tịnh
Phật cảm hoá phạm thiên
Bằng nhất thiết chủng trí
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc

Etāpi buddhajayamaṅgalāṭṭhagāṭhā
yo vācano dinadine sarate matandī
hitvānanekavividhāni cupaddavāni
mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyya naro sapañño

Người hiền trí tinh cần
Ngày đêm thường trì niệm
Tám cảm thắng nhiệm mầu
Tiêu trừ mọi khổ chướng
Chứng an lạc giải thoát

-ooOoo-

9. Kinh Ðáo Bỉ Ngạn - Dasapāramī

Itipi so bhagavā dānaparāmī sampanno
Itipi so bhagavā dānaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā dānaparamatthapāramī sampanno

Ðường tu bố thí đứng đầu
Vị tha là tánh vô cầu là tâm
Không vì thương ghét sơ thân
Bàn tay ban bố nào phân biệt gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā sīlapāramī sampanno
Itipi so bhagavā sīlaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā sīlaparamatthapāramī sampanno

Thiện nhân giới hạnh nghiêm trì
Nói làm suy nghĩ luôn khi giữ gìn
Nuôi ý lực dưỡng tâm lành
Cắt dây kiết phược phá thành mê si
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā nekkhammapāramī sampanno
Itipi so bhagavā nekkhammaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā nekkhammaparamatthapāramī sampanno

Xuất gia vốn hạnh ly trần
Quyết ra nhà lửa bỏ thân luân hồi
Lợi danh quyến thuộc xa rời
Ðộc cư thanh tịnh sống đời xả ly
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā paññāpāramī sampanno
Itipi so bhagavā paññāupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā paññāparamatthapāramī sampanno

Ðèn tâm trí tuệ sáng ngời
Bởi vô lượng kiếp vun bồi huệ căn
Phân minh thiện ác giả chân
Ðiều hay chuộng học bạn lành tương tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā viriyapāramī sampanno
Itipi so bhagavā viriyaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā viriyaparamatthapāramī sampanno

Chính do nghị lực tinh cần
Vượt qua bể ái chứng thân đại hùng
Kiên trì giữa cuộc lao lung
Càng nhiều chướng nghịch thêm công tu trì
Hy sinh ngoại vật, tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā khantīpāramī sampanno
Itipi so bhagavā khantīupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā khantīparamatthapāramī sampanno

Ðức tu nhẫn nại vạn năng
Nuốt điều cay đắng nuôi phần tinh anh
Chông gai khéo tạo tâm thành
Xưa nay nguyện lớn hành trình gian nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā saccapāramī sampanno.
Itipi so bhagavā saccaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā saccaparamatthapāramī sampanno

Thiện hiền chân thật không ngoa
Quí gìn lẽ thật như là bảo châu
Chân tâm ấy đạo nhiệm mầu
Nói làm nhất quán cho dù hiểm nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā adhiṭṭhānapāramī sampanno
Itipi so bhagavā adhiṭṭhānaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā adhiṭṭhānaparamatthapāramī sampanno.

Bởi do chí nguyện dẫn đường
Biết nơi cứu cánh mà nương lối về
Bờ kia là đạo bồ đề
Tự lòng đã quyết bến mê phải lìa
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā mettāpāramī sampanno
Itipi so bhagavā mettāupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā mettāparamatthapāramī sampanno

Hạnh lành từ ái bao la
Chúng sanh bốn loại chan hoà tình thương
Lòng như cam lộ suối nguồn
Rải ban phúc lạc lệ tuôn quản gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā upekkhāpāramī sampanno
Itipi so bhagavā upekkhāupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā upekkhāparamatthapārami sampanno

An nhiên hành xả giữa đời
Khen chê đặng thất khổ vui thường tình
Ðiều tâm giữ ý quân bình
Trong cơn bão loạn biết gìn chánh tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Itipi so bhagavā dasapāramī sampanno
Itipi so bhagavā dasaupapāramī sampanno
Itipi so bhagavā dasaparamatthapāramī sampanno

Từ trong bể khổ cuộc đời
Ðại hùng lập nguyện cứu người cứu thân
Ba la mật hạnh vẹn toàn
Dám quên mạng sống quyết tâm thực hành
Nhờ ân Thiện Thệ Cha Lành
Muôn loài vượt thoát tử sanh luân hồi

10. Kinh Vô Ngã Tướng - AnattA-lakkhaṇasutta

Evaṃ me sutaṃ ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye
Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi:

Như vầy tôi nghe
Một thời Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả, gần thành Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy:

Rūpaṃ bhikkhave anattā rūpañca hidaṃ bhikkhave
attā abhavissa. Nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya labbhetha ca rūpe evaṃ me rūpaṃ hotu evaṃ me
rūpaṃ mā ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave rūpaṃ
anattā tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati naca labbhati rūpe, evaṃ me rūpaṃ hotu evaṃ me rūpaṃ mā
ahosīti. Vedanā anattā vedanā ca hidaṃ bhikkhave
attā abhavissa nayidaṃ vedanā ābādhāya saṃvatteyya
labbhetha ca vedanāya, evaṃ me vedanā hotu evaṃ me vedanā mā ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave vedanā
anattā, tasmā vedanā ābādhāya saṃvattati na ca
labbhati vedanāya evaṃ me vedanā hotu evaṃ me
vedanā mā ahosīti. Saññā anattā saññā ca hidaṃ
bhikkhave attā abhavissa nayidaṃ saññā ābādhāya
saṃvatteyya labbhetha ca saññāya evaṃ me saññā
hotu evaṃ me saññā mā ahosīti. Yasmā ca kho
bhikkhave saññā anattā, tasmā saññā ābādhāya
saṃvattati na ca labbhati saññāya evaṃme saññā hotu evaṃ me saññā mā ahosīti. Saṅkhārā anattā saṅkhārā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissaṃsu nayidaṃ
saṅkhārā ābādhāya saṃvatteyyuṃ labbhetha ca
saṅkhāresu
evaṃ me saṅkhārā hontu evaṃ me saṅkhārā mā
ahesunti. Yasmā ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā
tasmā saṅkhārā ābādhāya saṃvattanti na ca labbhati
saṅkhāresu evaṃ me saṅkhārā hontu evaṃ me
saṅkhārā mā ahesunti. Viññāṇaṃ anattā viññāṇañca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa nayidaṃ viññāṇaṃ
ābādhāya saṃvatteyya labbhetha ca viññāṇe evaṃ me
viññāṇaṃ hotu evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosīti.
Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṃ anattā tasmā
vinñāṇaṃ ābādhāya saṃvattati na ca labbhati vinñāṇe evaṃ me vinñāṇaṃ hotu evaṃ me vinñāṇaṃ mā ahosīti

Này các Tỳ kheo, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là vô ngã, không phải là của ta. Này các Tỳ kheo, nếu các uẩn thật là của ta, thì chúng không bị đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. Này các Tỳ kheo, các uẩn thật là vô ngã nên hằng bị đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia.

Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave rūpaṃ niccaṃ vā
aniccaṃ vāti? Aniccaṃ bhante. Yampanāniccaṃ
dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti. Dukkhaṃ bhante
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ
kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama
esohamasmi eso me attāti. No hetaṃ bhante
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave
vedanā niccā vā aniccā vāti? Aniccaṃ bhante
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti
Dukkhaṃ bhante. Yampanāniccaṃ dukkhaṃ
vipariṇāmadhammaṃ kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama esohamasmi eso me attāti
No hetaṃ bhante
Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave saññā niccā vā aniccā
vāti? Aniccaṃ bhante. Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā
taṃ sukhaṃ vāti. Dukkhaṃ bhante. Yampanāniccaṃ
dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama esohamasmi eso me attāti. No
hetaṃ bhante. Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave saṇkhārā
niccā vā aniccā vāti? Aniccaṃ bhante. Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vāti. Dukkhaṃ bhante.
Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma dhammaṃ
kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ etaṃ mama
esohamasmi eso me attāti. No hetaṃ bhante. Taṃ kiṃ maññatha bhikkhave viññānaṃ niccaṃ vā aniccaṃ
vāti? Aniccaṃ bhante. Yampanāniccaṃ dukkhaṃ vā
taṃ sukhaṃ vāti. Dukkhaṃ bhante. Yampanāniccaṃ
dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ kallaṃ nu taṃ
samanupassituṃ etaṃ mama esohamasmi eso me attāti. No hetaṃ bhante.


Này các Tỳ kheo, các ngươi cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là thường hay vô thường?
Bạch đức Thế Tôn, các uẩn là vô thường.
Vật chi vô thường, vật ấy là khổ hay vui?
Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ.
Vật chi vô thường là khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng?
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

Tasmātiha bhikkhave yaṅkiñci rūpaṃ
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā
vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā
yandūre santike vā sabbaṃ rūpaṃ netaṃ mama
nesohamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.

Yā kāci vedanā atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā
paṇītaṃ vā yandūre santike vā sabbā vedanā netaṃ
mama nesohamasmi na meso attāti evametaṃ
yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Yā kāci
saññā atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃvā bahiddhāvā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā
yandūre santike vā sabbā saññā netaṃ mama
nesohamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ
ammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Ye keci saṅkhārā
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā
oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā
yandūre santike vā sabbe saṅkhārā netaṃ mama
nesohamasmi na meso attāti evametaṃ yathābhūtaṃ
sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Yaṅ kiñci viññāṇam
atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā
oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā
yandūre santike vā sabbaṃ viññāṇam
netaṃ mama nesohamasmi na meso attāti
evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya
daṭṭhabbaṃ.


Này các Tỳ kheo, cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển,vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi. Các ngươi nên nhận thức chân lý ấy bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vầy: đó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta.

Evaṃ passaṃ bhikkhave sutvā ariyasāvako rūpasmiṃpi nibbindati vedanāyapi nibbindati saññāyapi nibbindati
saṅkhāresupi nibbindati vinñāṇasmimpi nibbindati
nibbindaṃ virajjati virāgā vimuccati vimuttasmiṃ
vimuttamīti. ñāṇaṃ hoti khīṇā jāti vusitaṃ
brahmacariyaṃ kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānātīti.

Này các Tỳ kheo, bậc thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, liền sanh tâm nhàm chán đối với sắc, đối với thọ, đối với tưởng, đối với hành, đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa.

Idamavoca bhagavā. Attamanā pañcavaggiyā bhikkhū
bhagavato bhāsitaṃ ab
hi-nanduṃ imasmiñca pana
veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne pañcavaggiyānaṃ
bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti.

Ðức Phật thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi đức Phật giảng dạy kinh này, thì tâm của năm thầy Tỳ kheo được giải thoát các vi tế phiền não không còn chấp thủ nữa.

11. Năm Pháp Quán - Pañca Abhiṇhapaccavekkhaṇa

Jarādhammomhi jaraṃ anatīto
Byādhidhammomhi byādhiṃ anatīto
Maraṇadhammomhi maraṇaṃ anatīto
Sabbehi me piyehi manāpehi
nānābhavo vinābhāvo
Kammasakomhi kammadāyādo kammayoni
Kammabandhu kammapaṭisaraṇo
Yaṃ kammaṃ karissāmi kaḷyāṇaṃ vā
Pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.

Phật xưa rằng kiếp nhân sinh
Lắm điều khổ lụy chẳng dành riêng ai
Xuân xanh rồi cũng tàn phai
Thời hoa mộng tựa sương mai đầu cành
Tấm thân tứ đại hiệp thành
ốm đau tật bệnh thường tình xưa nay
Dù cho thọ mạng ngắn dài
Cổ kim nào kẻ thoát tay tử thần
Người thân ly biệt người thân
Trăm năm bao lượt khó ngăn lệ nhoà
Mỗi người riêng nghiệp thiểu đa
Rừng mê bể khổ phải qua một mình
Tử sinh nối tiếp tử sinh
Trầm luân khởi tự vô minh cội nguồn
Trí nhân hiểu lẽ vô thường
Tinh cần tu tập thẳng đường vô sanh.

12. Kinh Quán Niệm

Nagãmadhammo nigamassa dhammo
na cãpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sadevakassa
eseva dhammo yadidaṃ aniccatã

Tự tánh vô thường
Sanh diệt biến đổi
Phổ cập pháp giới
Không phân xóm làng
Gia tộc quốc độ
Ba cõi nhân thiên

Nagãmadhammo nigamassa dhammo
na cãpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sadevakassa
eseva dhammo yadidañca dukkhatã

Tự tánh khổ não
Sầu hận ưu bi
Phổ cập pháp giới
Không phân xóm làng
Gia tộc quốc độ
Ba cõi nhân thiên

Nagãmadhammo nigamassa dhammo
na cãpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sadevakassa
eseva dhammo yadidaṃ anattatã

Tự tánh vô ngã
vô chủ vô quyền
Phổ cập pháp giới
Không phân xóm làng
Gia tộc quốc độ
Ba cõi nhân thiên

Sabbe sattā marissanti
maraṇantaṃ hi jīvitaṃ
yathãkammaṃ gamissanti
puññapāpaphalūpagā
nirayaṃ pāpakammantā
puññakammā ca sugatiṃ
tasmā kareyya kaḷyānaṃ
nicayaṃ samparāyikaṃ
puññāni paralokasmiṃ
patiṭṭhā honti pāṇinaṃ

Tất cả chúng hữu tình
Phải vĩnh biệt cõi đời
Vì mạng sống vạn loại
Chung cuộc là sự chết
Ra đi với nghiệp quả
Làm thiện sanh cõi vui
Làm ác sanh khổ cảnh
Người trí năng làm thiện
Vì phúc đức tùy thân
Chính là nơi nương nhờ
Ðời này và đời sau

Upanīyati jīvitamappamāyuṃ
Jarūpanītassa na santi tāṇā
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno
Puññāni kariyātha sukhāvahāni

Sự sống thật ngắn ngủi
Ðưa dần đến tử vong
Không ai làm khác được
Người lãnh hội điều nầy
Năng làm các việc thiện
Vì công đức đã tạo
Là cội nguồn hạnh phúc

Aniccã vata saṅkhãrã
uppãdavayadhammino
uppajjitvã nirujjhanti
tesaṃ vūpasamo sukho

Pháp hành vốn vô thường
Sanh diệt là tự tánh
Có sanh hẳn phải diệt
Tịch tịnh là an lạc

Sabbe saṅkhārā aniccãti
yadã paññāya passati
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā

Các hành đều vô thường
Quán chiếu bằng trí tuệ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy là đường thanh tịnh

Sabbe saṅkhārā dukkhãti
yadã paññāya passati
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā

Các hành đều khổ não
Quán chiếu bằng trí tuệ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy là đường thanh tịnh

Sabbe dhammā anattāti
yadã paññāya passati
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā

Các pháp đều vô ngã
Quán chiếu bằng trí tuệ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy là đường thanh tịnh.

13. Kinh Duyên Sinh - Paṭiccasamuppāda

Avijjāpaccayā saṅkhārā
Saṇkhārapaccayā viññāṇaṃ
Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ
Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ
Saḷāyatanapaccayā phasso
Phassapaccayā vedanā
vedanāpaccayā taṇhā
Taṇhāpaccayā upādānaṃ
Upādānapaccayā bhavo
Bhavapaccayā jāti
Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ


Bởi không tường diệu đế
Hữu tình tạo nghiệp duyên
Chính vô minh nguồn cội
Là nhân tạo nên hành

Từ hành vi thiện ác
Gieo chủng thức tái sanh
Như vậy chính do hành
Kiết sanh thức tập khởi

Thức chủng tử đầu đời
Tạo hiện hữu thân tâm
Bởi do ý nghĩa nầy
Gọi thức duyên danh sắc

Vật chất và tâm thức
Biến hiện sáu giác quan
Như vậy do danh sắc
Lục nhập được hiện thành

Sáu giác quan năng động
Tiếp xúc sáu cảnh trần
Như vậy do lục nhập
Hiện tượng xúc khởi sanh

Sáu căn gặp sáu cảnh
Khổ lạc xả phát sanh
Như vậy do duyên xúc
Cảm thọ được tạo thành

Khổ lạc ưu hỷ xả
Nhân sanh mọi chấp trước
Phật dạy chính cảm thọ
Duyên tạo nên ái dục

Tham muốn nên dính mắc
Dục lạc cột mê tâm
Nên gọi nhân ái dục
Là duyên sanh chấp thủ

Khi tâm trần hệ lụy
Biến hiện muôn sở hành
Như vậy do duyên thủ
Tác động hữu khởi sanh

Có tạo tác có quả
Có chủng tử luân hồi
Như vậy do duyên hữu
Sanh quả được hiện thành

Có thân hẳn phải già
Có sanh ắt có diệt
Chính do ý nghĩa nầy
Gọi sanh duyên lão tử

Cũng chính do duyên sanh
Sầu bi khổ ưu não
Toàn bộ khổ uẩn nầy
Ðược hiện thành tập khởi

SokaparidevadukkhadoMa-nassupāyāsā saṃbhavanti
Evame tassa kav
A-lassa dukkhakkhandhassa
samudayo hoti

Avijjāya tveva asesa virāganirodhā sankhāranirodho
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodho nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho saḷāyatananirodhā
phassanirodho phassanirodhā
vedanānirodho vedanānirodhā
taṇhānirodho taṇhānirodhā
upādānanirodho upādānanirodhā
bhavanirodho bhavanirodhā
jātinirodho jātinirodhā jarāmaranaṃ
sokaparidevadukkhado
Ma-nassupāyāsā nirujjhanti
evametassa kev
A-lassa dukkhakkhandhassa
nirodho hoti.

Không vô minh không hành
Không hành thời không thức
Không thức không danh sắc
Không danh sắc không lục nhập
Không lục nhập không xúc
Không xúc không cảm thọ
Không cảm thọ không ái
Không ái dục không thủ
Không chấp thủ không hữu
Không hữu thời không sanh
Không sanh không lão tử
Sầu bi khổ ưu não
Toàn bộ khổ uẩn nầy
Không hình thành tập khởi

14. Kinh suy niệm về nghiệp

Kammassakā sattā kammadāyādā
kammayonī kammabandhū
kammapaṭisaraṇā kammaṃ
satte vibhajati yadidaṃ hīnappaṇītatāyāti.

Tất cả chúng sanh là chủ nhân của nghiệp cũng là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc, là điểm tựa cho vạn loài. Chính nghiệp phân chia sự dị biệt cao thấp trong đời.

Attanā va kataṃ pāpaṃ
Attanā saṅkilissati
attanā akataṃ pāpaṃ
attanā va visujjhati
suddhi asuddhi paccattaṃ
nāñño aññaṃ visodhaye

Chính mình làm việc ác nên khiến mình uế trược. Chính mình làm việc lành nên khiến mình thanh tịnh. Thanh tịnh hay uế trược đều do mình, không ai có thể khiến người khác tịnh thanh hay uế trược.

Manopubbaṅgamā dhammā
Manoseṭṭhā manomayā
Ma-nasā ce paduṭṭhena
Bhāsati vā karoti vā
Tato naṃ dukkhamanveti
Cakkaṃ va vahato padaṃ

Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm bất thiện thì đau khổ sẽ theo mình như bánh xe theo chân con vật kéo.

Manopubbaṅgamā dhammā
Manoseṭṭhā manomayā
Ma-nasā ce pasannena
Bhāsati vā karoti vā
Tato naṃ sukhamanveti
Chāyā va anupāyinī

Tâm dẫn đầu các pháp. Chính tâm chủ trì tạo tác các nghiệp. Nếu người nói năng hay hành động với tâm hiền thiện thì hạnh phúc sẽ theo mình như bóng không rời hình.

Pāpo pi passati bhadraṃ
yāva pāpaṃ na paccati
yadā ca paccatī pāpaṃ
atho pāpo pāpāni passati
bhadro pi passati pāpaṃ
yāva bhadraṃ na paccati
yadā ca paccatī bhadraṃ
atho bhadro bhadrāni passati

Khi ác nghiệp chưa trổ quả thì người ác chưa thấy là ác. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người ác mới thấy là ác. Khi thiện nghiệp chưa trổ quả thì người thiện chưa thấy là thiện. Ðến khi quả nghiệp kết thành bấy giờ người thiện mới thấy là thiện.

Na jaccā vasalo hoti
Na jaccā hoti brāhmano
Kammunā vasalo hoti
Kammunā hoti brāhmano

Không phải do dòng dõi thọ sanh mà một người cao quí hay thấp hèn. Chính hành vi tạo tác khiến người thấp hèn hay cao quí. Mỗi chúng sanh là kết tinh của những gì đã tạo và sẽ là kết quả những gì đang tạo. Quá khứ, hiện tại, tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện.

Idha socati pecca socati
Pāpakārī ubhayattha socati
So socati so vihaññati
Disvā kammakiliṭṭhamattano
Idha modati pecca modati
Katapuñño ubhayattha modati
So modati so pamodati
Disvā kammavisuddhimattano

Ðời nầy đau khổ, đời sau cũng đau khổ. Người tạo nghiệp bất thiện đau khổ cả hai đời. Xét ác nghiệp đã làm khiến lòng sầu khổ, sanh vào khổ cảnh nỗi khổ nhiều hơn. Kiếp nầy an lạc, kiếp sau cũng an lạc. Người tạo nghiệp lành hai đời an lạc. Xét việc thiện đã làm tự tâm hoan hỷ, sanh vào lạc cảnh hạnh phúc nhiều hơn.

15. Kinh Vạn Pháp Tổng Trì - Dhammasaṅginī

Dẫn nhập

Xưa Phật dạy Thắng Pháp
Về bản thể chân đế
Nhờ nghe Vi Diệu Tạng
Phật Mẫu chứng thánh quả
Nay đệ tử chúng con
Trì tụng Ma Ti Ka
Nguyện uy đức vô cùng
Ðộ chúng sanh thoát khổ

Chánh kinh

Bản thể pháp gồm bốn
Tâm, tánh, sắc, niết bàn
Phân biệt theo chức năng
Ðồng dị tuỳ thể loại

Kusalā dhammā akusalā dhammā abyākatā dhammā

Có thiện, có bất thiện
Có không thiện không ác
Người trí thông lẽ đạo
Không rơi vào biên kiến

Sukhāya vedanāya sampayuttā dhammā
Dukkhāya vedanāya sampayuttā dhammā
Adukkhamasukhāya vedanāya sampayuttā dhammā

Có pháp tương ưng khổ
Có pháp tương ưng lạc
Có phi khổ phi lạc
Ở đời có cả ba

Vipākā dhammā vipākadhammadhammā
nevavipākanavipākadhammadhammā

Có pháp vốn là nhân
Có pháp vốn là quả
Có pháp không nhân quả
Vượt quan kiến thường tình

Upādinnupādāniyā dhammā anupādinnupādāniyā
dhammā anupādinnānupādāniyā dhammā

Do chấp thủ mà sanh
Lại sanh ra chấp thủ
Không thủ sanh sanh thủ
Không thủ không sanh thủ

Saṅkiliṭṭhasaṅkilesikā dhammā
asaṅkiliṭṭhasaṅkilesikā dhammā
asaṅkiliṭṭhāsaṅkilesikā dhammā

Có pháp là phiền não
Lại sanh ra não phiền
Phi phiền sanh phiền não
Có tâm cảnh vô phiền

Savitakkasavicārā dhammā avitakkavicāramattā
dhammā avitakkāvicārā dhammā

Pháp có tầm có tứ
Pháp có tứ không tầm
Có pháp không tầm tứ
Cùng hiện hữu ở đời

Pītisahagatā dhammā sukhasahagatā dhammā
upekkhāsahagatā dhammā

Pháp đi chung với hỷ
Pháp đi chung với lạc
Pháp đi chung với xả
Hành giả cần quán sát

Dassanena pahātabbā dhammā
bhāvanāya pahātabbā dhammā
nevadassanena na bhāvanāya pahātabbā dhammā

Pháp nhờ thấy mà diệt
Pháp nhờ tu mà diệt
Có pháp ngoài cả hai
Bậc chân nhân biết rõ

Dassanena pahātabbahetukā dhammā
bhāvanāya pahātabbahetukā dhammā
nevadassanena na bhāvanāya
pahātabbahetukā dhammā

Có gốc rễ kiết sử
Ðoạn diệt bởi sơ đạo
Hay bởi ba đạo cao
Không kiết sử không đoạn

Ācayagāmino dhammā
apacayagāmino dhammā
nevācayagāmino nāppacayagāmino dhammā

Có pháp nhân sanh tử
Có pháp nhân giải thoát
Có pháp không luân hồi
Cũng không hướng niết bàn

Sekkhā dhammā asekkhā dhammā
nevasekkhānāsekkhā dhammā

Có pháp thuộc hữu học
Có pháp thuộc vô học
Có pháp phi hữu học
Cũng không thuộc vô học

Parittā dhammā Ma-haggatā dhammā
appamāṇā dhammā

Có pháp vốn cục bộ
Có pháp thuộc đáo đại
Có pháp không hạn cuộc
Do giới vức mà phân

Parittārammaṇā dhammā
Ma-haggatārammaṇādhammā
appamāṇārammaṇā dhammā

Pháp biết cảnh tầm thường
Pháp biết cảnh rộng lớn
Pháp biết cảnh vô lượng
Tâm cảnh vốn tương ưng

Hīnā dhammā majjhimā dhammā paṇītā dhammā

Có pháp vốn hạ liệt
Có pháp thuộc trung bình
Có pháp tánh thù thắng
Chức năng có sai biệt

Micchattaniyatā dhammā sammattaniyatā dhammā
aniyatā dhammā

Pháp cố định thuộc tà
Pháp cố định thuộc chánh
Cũng có pháp bất định
Ðược trí giả nói đến

Maggārammaṇā dhammā maggahetukā dhammā
maggādhipatino dhammā

Pháp lấy đạo làm cảnh
Pháp lấy đạo làm nhân
Pháp lấy đạo làm trưởng
Ba phạm trù đối tác

Uppannā dhammā anuppannā dhammā
uppādino dhammā

Có pháp vốn đã sanh
Có pháp chưa sanh khởi
Có pháp sắp sanh khởi
Tác động hẳn không đồng

Atītā dhammā anāgatā dhammā
paccuppannā dhammā

Có pháp thuộc quá khứ
Có pháp thuộc vị lai
Có pháp thuộc hiện tại
Tam thế đồng thể tánh

Atītārammaṇā dhammā
anāgatārammaṇā dhammā
paccuppannārammaṇā dhammā

Có pháp biết quá khứ
Có pháp biết vị lai
Có pháp biết hiện tại
Cả ba được ghi nhận

Ajjhattā dhammā bahiddhā dhammā
ajjhattabahiddhā dhammā

Có pháp thuộc nội giới
Có pháp thuộc ngoại giới
Có pháp gồm cả hai
Chủ thể lẫn khách thể

Ajjhattārammaṇā dhammā
bahiddhārammaṇā dhammā
ajjhattabahiddhārammaṇā dhammā

Có pháp biết nội giới
Có pháp biết ngoại giới
Có pháp biết cả hai
Bên trong lẫn bên ngoài

Sanidassanasappaṭighā dhammā
anidassanasappaṭighā dhammā
anidassanāppaṭighā dhammā

Pháp thấy và tiếp xúc
Pháp tiếp xúc không thấy
Pháp không thấy không xúc
Cùng là cảnh nhưng khác

Bāvīsatītikamātikā dhammasaṅgaṇīpakaraṇaṃ
nāma samattaṃ

Do thể tài mà nói
Do chức năng mà phân
Do góc cạnh mà nhìn
Nên sanh ra đồng dị

Hetupaccayo ārammaṇapaccayo
adhipatipaccayo anantarapaccayo
samantarapaccayo sahajātapaccayo
aññamaññapaccayo nissayapaccayo
upanissayapaccayo purejātapaccayo
pacchājātapaccayo āsevanapaccayo
kammapaccayo vipākapaccayo
āhārapaccayo indriyapaccayo
jhānapaccayo maggapaccayo
sampayuttapaccayo vippayuttapaccayo
atthipaccayo natthipaccayo
vigatapaccayo avigatapaccayo


Trợ bằng cách làm gốc
Nên gọi là nhân duyên
Làm đối tượng tác động
Nên gọi là cảnh duyên
Trợ bằng thế chủ lực
Do vậy gọi trưởng duyên
Giúp bằng cách liên tục
Ấy là vô gián duyên
Cùng hiện hữu xúc tác
Ðược gọi đồng sanh duyên
Vì liên đới mà giúp
Chính là hỗ tương duyên
Chỗ nương cho pháp khác
Nên gọi y chỉ duyên
Thường gần nên ảnh hưởng
Gọi thường thân y duyên
Trợ bằng cách sanh trước
Chính là tiền sanh duyên
Sanh sau lại chi phối
Ấy là hậu sanh duyên
Trợ bằng cách thuần thục
Gọi là tập hành duyên
Do chủ tâm tạo tác
Ðó chính là nghiệp duyên
Trợ bằng cách thành tựu
Ðó gọi là quả duyên
Trợ bằng cách bồi dưỡng
Ðó gọi là thực duyên
Trợ bằng cách chủ trì
Ðó gọi là quyền duyên
Trợ bằng cách nung nấu
Ðược gọi là thiền duyên
Trợ bằng thế dẫn nhập
Nên gọi là đạo duyên
Trợ bằng cách thuận hợp
Nên gọi tương ưng duyên
Trợ bằng cách bất đồng
Là bất tương ưng duyên
Trợ bằng cách có mặt
Gọi là hiện hữu duyên
Trợ bằng cách vắng mặt
Chính là vô hữu duyên
Trợ bằng cách tách biệt
Ðược gọi là ly duyên
Trợ bằng cách không rời
Ðược gọi bất ly duyên

Ai thấy được vạn pháp
Vốn có riêng tự tánh
Không biên kiến chấp thủ
Thắng trí vượt luân hồi

Nguyện chánh pháp thâm sâu
Ðược quảng diễn tinh tường
Nguyện muôn loài lợi lạc
Thoát trầm luân khổ hải

16. Kệ Tỉnh Thức

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự
Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên
Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên
Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy
Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy
Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương
Ðã bao đời dâu bể tang thương
Xương trắng trải phủ đầy đại địa
Dù một kiếp trọn vui không dễ
Những phù du hưng phế đổi thay
Tuổi thanh xuân gẫm có bao ngày
Già đau chết hỏi ai tránh khỏi
Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi
Những nhục vinh kết nối liền nhau
Khi qua rồi còn lại niềm đau
Gió đời thổi phàm tâm xao động
Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng
Tình thân nhân bằng hữu phu thê
Thương phải xa ghét phải gần kề
Ai trọn kiếp không điều ngang trái
Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải
Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây
Vật ở đời tay lại qua tay
Buông tất cả khi tàn hơi thở
Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở
Bao tị hiềm cùng chuyện can qua
Lắm đổi dời trong mỗi sát na
Hạnh phúc đó não phiền cũng đó

Người trí hiểu căn nguyên thống khổ
Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh
Ngược dòng mê chánh đạo thực hành
Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử

Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh
Nương Pháp mầu đại hạnh đại duyên
Nương Tăng Già vô thượng phước điền
Nguyện uy đức cao dầy phổ độ

Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo

17. Kinh Chúc Nguyện

Yathā vārivahā pūrā
Paripūrenti sāgaraṃ
Evameva ito dinnaṃ
Petānaṃ upakappati
Icchitaṃ patthitaṃ tumhaṃ
Khippameva samijjh
A-tu
Sabbe pūrentu saṅkappā
Cando paṇṇaraso yathā
Maṇi jotiraso yathā

Bhav
A-tu sabbamaṅgA-laṃ
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbabuddhānubhāvena
Sadā sotthī bhavantu te
Bhav
A-tu sabbamaṅgA-laṃ
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbadhammānubhāvena
Sadā sotthī bhavantu te
Bhav
A-tu sabbamaṅgA-laṃ
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbasanghānubhāvena
Sadā sotthī bhavantu te

Nguyện phước lành sung mãn
Hồi hướng chư hương linh
Như muôn sông ra biển
Xin tất cả nguyện lành
Ðược kíp thời viên đắc
Xin ý thiện tâm thành
Thường trong sáng chiếu diệu
Như trăng tỏ ngày rằm
Như ma ni ngọc báu

Cầu uy đức Phật Bảo
Cầu uy đức Pháp Bảo
Cầu uy đức Tăng Bảo
Cầu chư thiên gia hộ
Tất cả điều phúc lành
Luôn tựu thành như nguyện (lạy)

18. Kinh Hồi Hướng Vong Linh

[Duyên khởi]

Vua Bim Bi Sa Ra
Nằm mộng thấy thân nhân
Bị khổ quả đói lạnh
Ðến bạch hỏi Thế Tôn
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn
Chỉ dạy cách tạo phước
Hồi hướng các vong linh
Thoát ly mọi khổ ách

[Chánh kinh]

Tirokuḍḍesu tiṭṭhanti
Sandhisiṅghāṭakesu ca
Dvārabāhāsu tiṭṭhanti
Àgantvāna sakaṃ gharaṃ
Pahūte annapānamhi
Khajjabhojje upaṭṭhite
Na tesaṃ koci sarati
Sattānaṃ kammapaccayā

Các thân nhân quá vãng
Thường đến nhà quyến thuộc
Ðứng ngoài vách tựa cửa
Ngã đường hay cổng thành
Trông chờ hưởng phước thí
Nhưng vì kém phước duyên
Hương linh bị quên lảng

Evaṃ dadanti ñātīnaṃ
Ye honti anukampakā
Suciṃ paṇītaṃ kālena
Kappiyaṃ pānabhojanaṃ
Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu
Sukhitā hontu ñātayo

Những ai với tình thương
Muốn thân nhân quá vãng
Hưởng những đồ tế phẩm
Thanh tịnh và thượng vị
Nên phát nguyện bằng lời:
Mong quyến thuộc an vui
với phước lành sung mãn

Te ca tattha samāgantvā
Ñātipetā samāgatā
Pahūte annapānamhi
Sakkaccaṃ anumodare
Ciraṃ jīvantu no ñātī
Yesaṃ hetu labhāmase
Amhākaṃ ca katā pūjā
Dāyakā ca anipphalā.
Na hi tattha kasī atthi
Gorakkhettha na vijjati
Vāṇijjā tādisī natthi
Hiraññena kayākayaṃ
Ito dinnena yāpenti
Petā kālakatā tahiṃ

Những thân nhân quá vãng
Vân tập các đạo tràng
Nhận được phước hồi hướng
Thường thốt lời cảm kích
Mong ân nhân của mình
Ðược trường thọ phúc lạc
Người đã tạo công đức
Chắc chắn được quả lành

Chúng sanh trong cảnh khổ
Hằng mong đợi phước báu
Do thân nhân hồi hướng
Bởi trong những cõi ấy
Không có các sinh kế
Trồng trọt hoặc chăn nuôi
Bán buôn hay trao đổi

Uṇṇate udakaṃ vuṭṭhaṃ
Yathā ninnaṃ pavattati
Evameva ito dinnaṃ
Petānaṃ upakappati
Yathā vārivahā pūrā
Paripūrenti sāgaraṃ
Evameva ito dinnaṃ
Petānaṃ upakappati


Như nước trên gò cao
Chảy xuống vùng đất thấp
Phước lành đã hồi hướng
Có diệu năng cứu khổ
Như trăm sông tuôn chảy
Ðều hướng về đại dương
Nguyện công đức đã tạo
Thấu đến chư hương linh

Adāsi me akāsi me
Ñātimittā sakhā ca me
Petānaṃ dakkhiṇaṃ dajjā
Pubbe katamanussaraṃ
Na hi ruṇṇaṃ vā soko vā
yā vaññā paridevanā
Na taṃ petānamatthāya
Evaṃ tiṭṭhanti ñātayo

Khi người nhớ ân trước
Do tình nghĩa thân bằng
Do tương duyên quyến thuộc
Hãy cúng dường trai Tăng
Hồi hướng phước đã tạo

Sự khổ sầu thương cảm
Trước tử biệt sanh ly
Không có lợi ích gì
Cho thân nhân quá vãng

Ayaṃ kho dakkhiṇā dinnā
Saṅghamhi suppatiṭṭhitā
Dīgharattaṃ hitāyassa
ṭhānaso upakappati.
So ñātidhammo ca ayaṃ nidassito
Petānapūjā ca katā uḷārā
Ba-lañca bhikkhūnamanuppadinnaṃ
Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappakaṃ


Cách trai Tăng hợp đạo
Gọi Ðắc Khi Na Ða Ná(Dakkhinādāna)
Cúng dường vô phân biệt
Ðến đại chúng Tăng Già
Bậc phạm hạnh giới đức
Bậc vô thượng phước điền
Ðược vô lượng công đức
Là thắng duyên tế độ
Hương linh trong cảnh khổ

Do thiện sự đã làm
Do hồi hướng đã nguyện
Do Tăng lực đã cầu
Xin tựu thành phúc quả.

19. Kinh Huân Tập Công Ðức

Nidhikaṇḍasuttaṃ
Nidhiṃ nidheti puriso
Gambhīre udakantike
Atthe kicce samuppanne
Atthāya me bhavissati.
Rājato vā duruttassa
Corato pīḷitassa vā
Iṇassa vā pamokkhāya
Dubbhikkhe āpadāsu vā
Etadatthāya lokasmiṃ
Nidhi nāma nidhīyati.
Tāvassunihito santo
Gambhīre udakantike
Na sabbo sabbadā yeva
Tassa taṃ upakappati.


Người chôn giấu tài sản
Nơi hang sâu mực nước
Dụng tâm lúc hữu sự
Bị phép nước luật vua
Hay gặp phải cường hào
Ðem chuộc thân giữ mạng
Hoặc trang trải nợ nần
Hoặc phòng cơn đói kém
Sự cất giấu như vậy
Là thường tình thế gian
Vị tất đã an toàn

Nidhi vā ṭhānā cavati
Saññā vāssa vimuyhati
Nāgā vā apanāmenti
Yakkhā vāpi haranti naṃ
Appiyā vāpi dāyādā
Uddharanti apassato
Yadā puññakkhayo hoti
Sabbametaṃ vinassati


Dù chôn sâu giấu kín
Có khi bị thất thoát
Vì tài chủ lãng quên
Hay long chủng dời đổi
Dạ xoa đoạt mang đi
Hay bị kẻ thừa tự
Sanh lòng tham đánh cắp
Hoặc hết phước làm chủ
Tài sản tự biến mất

Yassa dānena sīlena
Saññamena damena ca
Nidhī sunihito hoti
Itthiyā purisassa vā
Cetiyamhi ca saṅghe vā
puggale atithīsu vā
Mātari pitari vāpi
Atho jeṭṭhamhi bhātari
Eso nidhi sunihito
Ajeyyo anugāmiko
Pahāya gamanīyesu
Etaṃ ādāya gacchati

Ai bố thí trì giới
Phòng hộ và tự chế
Gọi cất giữ tài sản
Bảo đảm và an toàn
Ai cúng dường đền tháp
Năng phụng dưỡng mẹ cha
Hậu đãi bậc huynh trưởng
Hay khách khứa láng giềng
Khéo cất giữ như vậy
Không ai chiếm đoạt được

Asādhāraṇamaññesaṃ
Acoraharaṇo nidhi
Kayirātha dhīro puññāni
Yo nidhi anugāmiko

Esa devamanussānaṃ
Sabbakāmadado nidhi
Yaṃ yaṃ devābhipatthenti
Sabbametena labbhati.


Khi mạng sống chấm dứt
Bao của tiền bỏ lại
Chỉ mang theo phước đức
Phước là tài sản thật
Không thể bị chiếm đoạt
Bậc trí tạo phúc nghiệp
Thứ tài sản đáng quí
Khiến trời người các cõi
Ðược mãn nguyện hài lòng

Suvaṇṇatā susaratā
Susaṇṭhānaṃ surūpatā
Àdhipaccaṃ parivāro
sabbametena labbhati

Padesarajjaṃ issariyaṃ
cakkavattisukhaṃ piyaṃ
Devarajjampi dibbesu
Sabbametena labbhati.


Người màu da tươi sáng
Giọng nói đẹp lòng người
Dung mạo nhìn dễ mến
Có phong cách đoan trang
Người quyền quí cao sang
Bậc vương triều tôn chủ
Bậc chuyển luân thánh chúa
Bậc thiên vương cõi trời
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Mānusikā ca sampatti
Devaloke ca yā rati
Yā ca nibbāṇasampatti
Sabbametena labbhati

Những hạnh phúc trần gian
Cùng thiên lạc cõi trời
Quả niết bàn vô thượng
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Mittasampadamāgamma
Yoniso ce payuñjato
Vijjāvimuttivasībhāvo
Sabbametena labbhati


Người có được bạn lành
Ðầy đủ chánh tư niệm
Ðạt chánh trí giải thoát
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Paṭisambhidā vimokkhā ca
Yā ca sāvakapāramī
Paccekabodhi buddhabhūmi
Sabbametana labbhati


Bốn tuệ giác phân tích
Của thánh đệ tử Phật
Hay độc giác toàn giác
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Evaṃ Ma-hatthikā esā
Yadidaṃ puññasampadā
Tasmā dhīrā pasaṃsanti
Paṇḍitā katapuñññataṃ

Bởi lợi lạc to lớn
Của phước hạnh đã làm
Nên thiện nhân hiền trí
Tán thán và khuyến khích
Sự cất giấu tài sản
Bằng tích lũy phước lành

-ooOoo-

20. Kệ Phật Sử


Kính lạy Phật toàn tri diệu giác
Ðấng đại hùng giải thoát tử sanh
Ðại bi đại trí trọn lành
Trời người qui ngưỡng tứ sanh nương nhờ

Kính lạy Pháp cam lồ thánh thủy
Ðạo thậm thâm diệu lý hiển minh
Lương phương cứu khổ hữu tình
Ba tòa tạng báu thánh kinh lưu truyền

Kính lạy Tăng phước điền cao cả
Thừa Như Lai hoằng hoá đạo mầu
Ðức thanh tịnh hạnh vô cầu
Rạng ngời tam học nêu cao gương lành

Ưu đàm hoa thiện sanh một thuở
Vạn năm sau còn tỏa linh hương
Công đức kết tụ kim cương
Trải vô lượng kiếp tìm đường độ sanh

Ba la mật nở tình bồ tát
Quyết đạt thành diệu giác biến tri
Hùng tâm đại nguyện nan nghì
Biển trần quyết vượt ngại gì ra khơi

Kiếp áp chót cung trời Ðâu suất
Xét nhân lành gia tộc thời gian
Thấy Trung Ấn Ðộ lạc bang
Hoàng triều Thích chủng nghĩa nhân rạng ngời

Mạn đà la hoa trời khoe sắc
Chim tần già dìu dặt ca thanh
Ngài từ thiên giới giáng trần
Vào lòng Phật mẫu viên thành nguyện xưa

Ðức Ma Da cùng vua Tịnh Phạn
Vốn ưu phiền hiếm muộn đã lâu
Miếu cao đền tháp nguyện cầu
Sanh con nối dõi mai sau thoả lòng

Chợt một hôm cung son hiển mộng
Khắp hoàng môn hương lộng ngạt ngào
Mây lành toả sắc năm màu
Ðại linh bạch tượng nhập vào thánh thai

Ðiện cửu trùng rèm ngai thấp thoáng
Quan khâm thiên đoán mộng được vời
Hoàng nam rồi sẽ ra đời
Anh khôi tú lệ con trời dám đương

Biết điềm lành Phạn vương hoan hỉ
Ðức Ma Da trăm vị kiêng khem
Giới điều nết hạnh nhu hiền
Ðêm ngày trai tịnh đợi duyên mãn bồn

Lum Bi Ni tâm hồn thư thới
Dạo gót mây tay với long hoa
Tinh linh trời đất hiện ra
Ngôi sao vô tỉ Sĩ Ðạt Ta giáng phàm

Tứ thiên vương quan tâm hầu hạ
Ðại long vương phún nhả mưa sương
Chư tiên hoa rắc cúng dường
Ba cõi rúng động thanh dương chói lòa

Bảy bước đi liên tòa kết nụ
Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn
Như Lai vô thượng chí tôn
Thân nầy kiếp chót không còn trầm luân

Khắp ba cõi chúng sanh hoan lạc
Chín tầng không thiên nhạc reo vang
Mở ra trang sử huy hoàng
Ngàn năm in dấu bước chân Ðại Từ

A Si Ta ẩn tu non thẳm
Chợt động tâm chiêu cảm nguyên nhân
Vội dùng thần lực vượt ngàn
Xin gặp thánh ấu long nhan bái mừng

Trước quý thể nghiêm cung phủ phục
Chợt hoàng nhi đặt gót lên đầu
Ðại tiên biết chuyện cơ mầu
Khóc cười rồi lại kính tâu sự tình

Khóc là khóc thương mình bạc phận
Chẳng được nghe giáo huấn của Ngài
Mai sau chứng quả Như Lai
Tôn sư vô thượng bốn loài hàm ân

Cười là cười duyên phần sanh chúng
Triệu năm kia vốn chẳng có hai
Muôn loài thoát khổ được vui
Thấm nhuần chánh pháp trời người hân hoan

Ðức Ma Da viên toàn phước báu
Bảy ngày sau đâu suất hóa sanh
Giờ đây nụ điểm đầu cành
Nhờ tay kế mẫu viên thành thắng hoa

Thương thái tử âu lo hậu vận
Tịnh Phạn Vương lòng chẳng được an
Sợ con từ bỏ ngai vàng
Sợ mai bóng xế bẽ bàng thâm cung

Tuổi vừa lớn hình dung tuấn tú
Mọi vinh hoa phú quý bày ra
Nằm ngồi lầu ngọc sàng ngà
Ðến đi nhung lụa gấm hoa sẵn dành

Vườn ngự uyển sắc lành tú mậu
Màu cung môn tinh đẩu quang minh
Cung nga thế nữ diễm tình
Vũ ca dìu dặt cung nghinh tứ bề

Lầu tránh nóng tuyết lê nở rộ
Ðình thanh lương trăng gió dạt dào
Sớm chiều hải vị sơn hào
Lầu son gác tía thiên lao giữ gìn

Mười sáu tuổi kén tìm mỹ nữ
Nàng Da Du hàm tiếu sắc hương
Xuân xanh phơi phới cung đường
Còn giăng tơ đỏ mà giương cánh thần

Từ nết hạnh tánh tâm vô lượng
Ðến tài hoa thiên hướng khôn nghì
Nói năng văn vẻ khiêm uy
Học hành tư cách khác gì phượng long

Vui cung cấm thong dong ngày tháng
Tuổi thanh xuân trong sáng hồn nhiên
Bốn mùa nhạc trổi tiên thiên
Ngày đêm hoan lạc vô phiền vô ưu

Bình minh nọ chợt tâu vương phụ
Ra hoàng môn ngự giá dạo chơi
Vua cha dù chấp thuận lời
Lệnh truyền già bệnh kíp thời tránh xa

Chốn đô thành trầm hoa bái vọng
Khắp đế kinh lồng lộng nhạc trời
Nam thanh nữ tú vui cười
Nhà nhà phú túc người người lạc hoan

Lòng Thái Tử rộn ràng sung sướng
Cảnh thanh bình ví tưởng thiên cung
Mỉm cười xa giá thong dong
Muôn dân hạnh phúc dám mong thế này

Chợt cụ già răng lay tóc bạc
Chân run run ngơ ngác bên đường
Lưng còng má hóp trơ xương
Thân hình tiều tụy mà thương não lòng

Bước vân du cửa đông bỏ lại
Qua cửa nam gặp phải bệnh nhân
Phong cùi lở loét thương tâm
Tanh hôi ruồi nhặng trên thân bám đầy

Lòng ngao ngán cửa tây xa giá
Gặp tử thi xác rã thịt tan
Bọ dòi nhung nhúc mủ vàng
Ác cầm cắn xé âm vang thảm sầu

Quá xúc cảm nghiêng đầu gạt lệ
Gẫm nhân hoàn chịu lẽ điêu linh
Ngắn thay một kiếp phù sinh
Sanh già đau chết khổ hình phải mang

Bước hồi cung miên man suy nghĩ
Ðời thế ư khổ lụy mà thôi
Bánh xe sinh tử quay hoài
Mù tăm vô định cõi người nào an

Ra cửa bắc lòng đang chán nản
Gặp sa môn thanh thản thoát trần
Ðắp y mang bát nghiêm trang
Từ hoà nét mặt nhàn vân gót hài

Xe dừng lại chắp tay tham vấn
Hỏi căn nguyên ăn bận khác thường
Lý do độc bộ du phương
Bánh cơm bố thí bên đường là sao

Thầy khất sĩ khẽ chào khiêm tốn
Nhìn vương tôn nhu thuận đáp rằng
Xả ly ấy hạnh bần tăng
Cơm mười phương góp tín tâm mọi nhà

Lẽ sống chết bệnh già chi phối
Bận lòng chi muôn mối buộc ràng
Ðây đường thoát tục tịnh an
Tự thân giải thoát thế gian nương nhờ

Như hết bệnh mắt mờ được sáng
Lẽ suốt thông trí rạng như gương
Bấy lâu ngủ giấc mộng trường
Nay bình minh hiện con đường thênh thang

Hăm chín tuổi cung vàng bỏ lại
Lìa thê nhi luyến ái bên lòng
Ðêm cùng Sa Nặc ruổi dong
Vó câu Kiền Trắc băng sông vượt ngàn

A Nô Ma trường giang dừng bước
Cởi cẩm bào khoác chiếc y vàng
Gươm thiêng đoạn xả tóc xanh
Nhờ người tín bộc tấu trình phụ vương

Giữa rừng già tuyết sương mưa nắng
Ăn trái chua củ đắng qua ngày
Bạn cùng trăng gió cỏ cây
Cội tùng vách đá chọn thay cung vàng

Quyết tầm ra con đàng chân lý
Vấn chân sư ẩn sĩ đã nhiều
Nẻo vào giác ngộ cao siêu
Vẫn còn mù mịt lắm điều nghi nan

Rừng khổ hạnh sáu năm gian khổ
Sống yểm ly nhịn thở nhịn ăn
Hình hài tiều tuỵ khô cằn
Một hôm ngã quỵ lúc đang kinh hành

Vừa tỉnh lại gặp nàng tín nữ
Su Cha Ta cơm sữa cúng dường
Lắng nghe sinh lực hồi lần
Nhận ra minh mẫn tinh thần xiết bao

Ðàn Ðế thích ngàn cao lay tỉnh
Xé mây xanh tuyệt đỉnh vang ngân
Chợt đâu một phiếm tơ chùng
Chợt đâu cao vút đứt tung giữa vời

Thiên tôn chủ ngỏ lời nhắc nhở
Ðời tu hành giống tợ đàn kia
Quá căng dây sẽ đứt lìa
Quá dùn vô dụng chẳng vừa âm giai

Hai cực đoan kéo dài lầm lạc
Cũng chỉ là bất cập rỗng không
Ðắm say lợi dưỡng giấc nồng
Cực hình khổ hạnh nghịch dòng thánh lưu

Gẫm đến đây đèn mờ chợt sáng
Nhìn trời cao quang đãng lạ thường
Từ nay trung đạo là đường
Ðịnh tâm thiền tuệ vầng dương giữa lòng

Bát khất thực thả sông trôi ngược
Chỉ dòng xanh nguyện ước nan nghì
Tịnh thiền dưới cội bồ đề
Quyết thành chánh giác lời thề trăng sao

Ðêm hôm ấy đi vào tịch mặc
Trú khinh an phỉ lạc nhất tâm
Ðoạn lìa tham dục hôn trầm
Lắng yên sân hại phóng tâm chẳng còn

Nhớ quá khứ tiền thân nhiều kiếp
Từng thời gian chi tiết đủ đầy
Từ cõi kia đến nơi đây
Tuệ minh túc mạng chứng ngay canh đầu

Thấy sanh tử hiểu sâu duyên trước
Do nhân chi có được quả nầy
Hữu vi năng sở liền tay
Tử sanh thắng trí canh hai đắc thành

Rõ chân tướng ngọn ngành vạn pháp
Ðoạn vô minh ái chấp kiết thằng
Chính đây đạo cả vĩnh hằng
Từ nay lậu tận vẹn toàn nguyện xưa

Thành Phật quả sao mai vừa mọc
Bậc đại hùng chánh giác tôn nghiêm
Ma vương sợ hãi ưu phiền
Ðịa cầu chuyển động chư thiên lạy mừng

Bảy tuần lễ hưởng an quả vị
Quán đạo mầu ngự trị pháp lâu
Thấy đời ngụp lặn trần lao
Biết ai hiểu được thâm sâu đạo lành

Ðức Nghiêm Tôn phân vân do dự
Pháp vô sanh bất tử nhiệm mầu
Chúng sanh chẳng đủ trí sâu
Khó thông lẽ đạo khó cầu huyền thâm

Ðại phạm thiên Sa Ham Ba Tí
Nơi phạm cung cảm ý Thế Tôn
Kinh lo mối đạo vong tồn
Thời gian tay duỗi thần thông hiện kề

Bạch Thế Tôn trần mê thống khổ
Ðã trầm luân sinh tử quá lâu
Ngưỡng mong Ngài chuyển pháp mầu
Mắt người ít bụi được hầu thánh kinh

Như hoa sen đẹp xinh mùa hạ
Ðóa vươn cao đóa lả mặt hồ
Ðóa còn tận đáy bùn nhơ
Chúng sanh căn trí tỏ mờ khác nhau

Pháp vô thượng khổ cầu chi dễ
Thương chúng sanh khác thể nghiêm từ
Mong Ngài ngự giá vân du
Vì đời chuyển pháp thiên thu hằng còn

Phật im lặng thuận lòng hứa khả
Vầng hào quang bát nhã lung linh
Nhắm vườn Lộc Giả đăng trình
Khai duyên giải thoát xiển minh Phật thừa

Tình khổ hạnh thuở xưa còn đó
Nhóm Kiều Trần liễu ngộ đạo mầu
Pháp luân Phật chuyển lần đầu
Thuyết minh tứ đế thâm sâu đạo lành

Ðây là khổ đây nhân sanh khổ
Ðây tịch nhiên diệt khổ niết bàn
Ðây đường bát chánh tịnh an
Móng nền giáo pháp vẹn toàn từ đây

Rồi từ đó Như Lai hoá đạo
Bước chân thiêng lưu dấu mọi miền
Khi Trúc Lâm lúc Kỳ Viên
Thị thành cũng đến lâm tuyền cũng qua

Hàng đệ tử dưới toà bốn chúng
Vào Phật môn Thích chủng đồng nhiên
Xá Lợi Phất Mục Kiền Liên
Như Lai trưởng tử nối truyền Pháp Vương

Cất tiếng gọi hoằng dương đạo cả
Hãy ra đi mỗi ngã một người
Vì lòng thương tưởng cho đời
Xiển minh chánh đạo ba thời toàn chân

Hồi cố hương đáp ân sanh dưỡng
Cả hoàng triều qui ngưỡng Phật Ðà
Hàng hàng lớp lớp xuất gia
Cùng dòng Thích tử chung nhà tình thương

Ðạo giải thoát không phân nam nữ
Cửa vô sanh chẳng lựa nghèo giàu
Lệ cùng mặn máu cùng màu
Muôn sông rồi cũng chảy vào đại dương

Việc giáo hóa lắm đường nghịch thuận
Chuyện ghét thương vốn hẳn sự thường
Quang minh ánh đạo vĩnh hằng
Như nhiên thường tịnh bụi trần nào vương

Mỗi rạng đông Phật dùng thiên nhãn
Tìm độ người viên mãn duyên lành
Sáng ra khất thực trì bình
Buổi chiều thuyết pháp độ sanh hằng ngày

Vào buổi tối Như Lai huấn thị
Hàng xuất gia y chỉ tịnh tu
Canh khuya thiên chúng đến hầu
Phật ban pháp nhũ nhiệm mầu khai tâm

Thương chúng sanh mê lầm khổ nạn
Bốn lăm năm chẳng quản gian truân
Thôn lân thành thị xa gần
Nơi nơi nhuần gội hồng ân Ðại Từ

Gióng trống pháp người mơ chợt tỉnh
Uy pháp vương đại định ma quân
Chư thiên nhân loại hân hoan
Vị nguồn thánh thủy phiền toan nhạt mầu

Mắt lắm bụi rửa lâu cũng sáng
Người nghiệp dầy cũng đặng giảm khinh
Chúng sanh dù lắm mê tình
Nhờ nghe Chánh Pháp cũng thành thiện nhân

Khi tuổi thọ bát tuần gần mãn
Ðức Thế Tôn nhiếp quán tín duyên
Thâm sâu diệu pháp giáo truyền
Nhân thiên lãnh hội tinh chuyên thực hành

Nay bốn chúng hiểu rành nghĩa lý
Khéo thực hành y chỉ pháp môn
Khéo tuyên thuyết pháp chánh chơn
Khéo dùng biện giải đả thông dị đồng

Ðã đến thời Thế Tôn xả thọ
Ðại sự nầy công bố chúng Tăng
Tháng tư trăng sáng ngày rằm
Như Lai diệt độ tại thành Ma La

Bữa cơm cuối Chun Ða dâng cúng
Phật lại cùng Tăng chúng ra đi
Bụi đường in dấu đại bi
Nghĩ cho hậu tấn xá gì đường xa

Ku Si Na Ra phồn hoa xuân sắc
Rừng sa la nở ngát thanh hương
Có người hiến cúng y vàng
A Nan hầu mặc mà lòng ngạc nhiên

Màu da Phật khiến y chợt tối
Ánh linh quang sáng chói lạ thường
Thế Tôn bi mẫn nói rằng
Màu da đổi sắc hai lần mà thôi

Một vào lúc Như Lai đại ngộ
Hai là khi diệt độ mãn phần
Ðêm nay thời khắc đã gần
Như Lai đại bát niết bàn vô sanh

Ngài A Nan khóc than bi lụy
Bậc Thượng Nhân vô tỉ còn đâu
Vầng dương vụt tắt trên đầu
Trời cao sụp đổ địa cầu chuyển rung

Khẽ an ủi vô cùng bi mẫn
Ðức Thế Tôn khuyến tấn mọi người
Tử sinh định luật cõi đời
Có khi vui khổ có thời hợp tan

Pháp và luật khuôn vàng chân lý
Chính là thầy y chỉ từ nay
Nghĩa văn giảng dạy đủ đầy
Tứ phần giải thoát đoạn dây kiết thằng

Trong Tăng chúng ai cần thỉnh giáo
Những tồn nghi lý đạo trong lòng
Nêu ra để được đả thông
Hay nhờ bạch hỏi Thế Tôn chỉ bày

Ðã đến lúc Như Lai diệt độ
Mong các thầy sáng tỏ tuệ tu
Ba lần cất giọng bi từ
Chúng Tăng im lặng tựa như tịnh thiền

Giây phút cuối Ngài khuyên đệ tử
Phải liễu tri đại sự tử sanh
Ngày đêm tu niệm tinh cần
Hữu vi tự tánh vô thường xưa nay

Song long thọ tàng lay hương quyện
Nhìn về tây đầu hướng bắc phương
Uy nghi tư thế sư vương
Liên thiền xuất nhập Thế Tôn niết bàn

Theo thể thức chuyển luân đại đế
Lễ trà tỳ thánh thể Phật Ðà
Hư không từng đợt thiên hoa
Âm vang kinh nguyện lệ nhòa bi thương

Lửa tam muội tự nhiên phát cháy
Xá lợi châu từ đấy bảo lưu
Tháp tôn nghiêm ngưỡng vọng cầu
Pháp thân bất diệt ngàn sau rạng ngời

Ðại Trượng Phu một đời giáo hạnh
Ðức Thượng Tôn hiển thánh ai bì
Vầng trăng viên mãn trí bi
Xuất phàm một thuở sử ghi bối vàng

Chúng đệ tử bốn hàng hữu học
Ðốt tâm hương tụng đọc đời Ngài
Lời xưa vọng đến hôm nay
Nguyện noi theo gót Như Lai trọn lành

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

21. Kệ Chiêm Bái Xá Lợi

Trước Xá Lợi ân lành cao cả
Trên bửu đài rạng toả linh vân
Ðèn hoa tinh khiết hương trầm
Ðê đầu chiêm bái pháp thân Cha Lành
Ðức Thích Tôn viên thành Phật quả
Bốn lăm năm hoằng hóa đạo mầu
Nắng mưa hạ lạp dãi dầu
Từ bi quảng đại sá đâu dặm trình
Thương ba cõi hữu tình khổ nạn
Ngàn năm sau còn cảm hồng ân
Nghiêm tôn Thượng Sĩ xuất trần
Ðàm hoa ái truất diệu âm thường còn
Xét huyễn thể hơi mòn sức kiệt
Lẽ hoại thành sinh diệt tự nhiên
Ðạo vàng tương tục giáo truyền
Thánh nhơn bốn quả nhân thiên đã nhiều
Bậc hữu học giới điều nghiêm cẩn
Hàng tại gia sung mãn tín tâm
Ngàn sau dòng pháp chuyển luân
Tam Bảo trụ thế viên âm bảo tồn
Vườn sa la Từ Tôn viên tịch
Ngọc Xá lợi di tích thế gian
Bảy đoạn xương lớn rỡ ràng
Xương trán răng nhọn thêm phần xương vai
Lửa tam muội hỏa đài tự cháy
Không hoại tan quả thấy nhiệm mầu
Uy linh Xá lợi đủ màu
Chia ra ba cỡ khác nhau cân lường
Chừng năm cân lớn bằng hạt đậu
Ánh chiếu ngời huỳnh ngọc kim cương
Cỡ hai đồng dạng lạ thường
Lớn bằng hạt thóc ước chừng sáu cân
Pha lê sắc trong ngần tôn quí
Dẫu đem so phỉ thúy nào bằng
Cỡ ba hột cải trắng ngần
Tựa như ngọc điệp năm cân đong lường
Kể từ đó bốn phương pháp hội
Tháp bảo đăng khắp cõi Diêm phù
Thánh tích tôn trí bốn châu
Chư thiên nhân loại ngưỡng cầu cung nghinh
Cõi Phạm đế nghiêm minh sùng bái
Chúa long cung quỳ lạy dâng hương
Trân châu mã não thiết đường
Kim ngân châu báu diệu trần hà sa
Ánh đạo cả bảo tòa bất diệt
Ðèn vô dư mật độ chiếu soi
Công vua A Dục rạng ngời
Hằng muôn tôn tháp vạn đời di lưu

Ngọc Xá lợi nhiệm mầu pháp tánh
Xương Phật Ðà hiển thánh uy linh
Xót thương khổ hải hữu tình
Hóa thuyền cứu độ chúng sinh quay về
Gieo hạt giống bồ đề ưu việt
Quả mai sau thanh khiết trần tâm
Tuệ tri thấy rõ mê lầm
Ba đào sóng lặng tham sân xả lìa
Hương tịnh giới ta bà nghi ngút
Trầm tín tu thơm ngát mười phương
Chúng con chiêm bái cúng dường
Trăng sao phạm hạnh tứ vương chứng hầu
Thờ Xá lợi ngưỡng cầu công đức
Xin vô ngôn chân thực hiển bày
Pháp thân Từ Phụ Như Lai
Hộ trì đệ tử đủ đầy phúc duyên

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

22. Sám Nguyện

Cúi đầu kính lễ
Ba ngôi Tam Bảo
Vô thượng tôn Phật
Vi diệu Chánh Pháp
Thánh đức Tăng Già
Ðệ tử bao đời sanh tử trầm luân
Bởi không thông lẽ thật
Khổ tập diệt đạo
Chẳng hiểu đường ngay
Tam học bát chánh
Nên từ lâu lầm lạc
Vô minh bao phủ
Ái dục buộc ràng
Sở hành bất thiện
Ba nghiệp tội dày
Nhân quả oan khiên
Sát sinh hại vật
Trộm đạo tà dâm
Nói sai sự thật
Hiểm độc rẽ chia
Buông lung phiếm luận
Tham lam sân ác
Tà kiến chấp sai
Lắm lúc si mê ngu dại
Mạn khinh Tam Bảo
Chẳng tin nghiệp báo
Lẫn lộn chánh tà
Giao du bạn ác gần xa
Sống vong ơn tự mãn
Xem thường thầy tổ
Bất kính sa môn
Không màng đại nghĩa
Quên nỗi khổ tha nhân
Chẳng nghĩ tình đồng loại
Nhiều lần vô tâm bất hiếu
Không nhớ công sinh dưỡng
Phụ rẫy mẹ cha
Hỗn hào phạm thượng
Bao kiếp phóng túng loạn tâm
Say đắm dục trần
Sáu căn buông thả
Không tin đạo cả
Thiếu chí tu hành
Rơi vào sa đọa
Nay nhờ pháp Phật soi đường
Tự biết bao điều lầm lỗi
Thành tâm sám hối
Chân thật dọn lòng
Quyết tìm về nẻo sáng
Làm lành bỏ dữ
Thanh lọc tâm ý
Thương vật thương người
Dưỡng tánh từ bi
Tu đức hỉ xả
Nguyện hiếu kính mẹ cha
Học làm con thảo
Trọn đời gìn lòng ngay thẳng
Suốt kiếp hướng Tam Bảo tựa nương
Ngưỡng mong Phật đức cao vời
Từ bi chứng giám
Cho đệ tử chúng con
Tác thành sở nguyện

Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo

23. Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu


Lạy cha mẹ nguồn ân cao cả
Dẫu muôn thân vạn thuở khôn đền
Từ ấu thơ lầm lỗi gây nên
Nay khôn lớn chưa tròn hiếu tử
Ân nghĩa nặng thịt xương huyết nhũ
Công sâu dày chín tháng cưu mang
Dưỡng bào nhi ăn uống kiêng khem
Lúc đi đứng nằm ngồi giữ ý
Nỗi thống khổ làm sao kể xiết
Tự chống chèo vượt cạn qua sông
Trào lệ vui tiếng khóc bên lòng
Yêu con trẻ nâng như trứng mỏng

Lạy cha mẹ nghĩa sâu vô tận
Suối cam lồ tắm mát đời con
Lắm âu lo bất trắc không sờn
Bao dơ uế nhọc nhằn cam chịu
Nuốt mặn đắng chua cay tủi hận
Ôi suốt đời vất vã lo toan
Mới cảm đau ương yếu se mình
Ðã hớt hải cầu Trời khấn Phật
Tình mẹ cha thấm dòng sữa mật
Nuôi đời con đến lúc nên người
Buổi khó khăn khô nhạt cầm hơi
Miếng ngon ngọt dành phần con trẻ
Năm canh đêm thức chừng con ngủ
Sáu khắc ngày tần tảo ngược xuôi
Ðủ áo cơm nở mặt với đời
Cho ăn học đua đòi sĩ diện

Lạy cha mẹ ơn thiêng hiển hiện
Suối bi từ vô lượng nhân gian
Nhiều khi con hư hỏng hoang đàng
Lắm lúc lại hỗn hào tai ngược
Quay mặt đi dao bào cắt ruột
Ðánh con đau lòng lại thêm đau
Ôi thâm ân giáo dưỡng sâu mầu
Ðèn sách sáng lòng con chưa đủ sáng
Nay nhờ Phật tâm minh trí rạng
Ðuốc thiên lương hiếu đạo soi đường
Mẹ cha là sen báu ngát hương
Là thanh nhạc chim trời Ðao lợi
Là bảy báu phúc lành cao vợi
Là trăng sao sáng đẹp tuyệt vời
Là suối tình muôn thuở về xuôi
Là biển rộng thái sơn cao ngất

Mong báo đáp ân tày trời đất
Nguyện cúc cung hết dạ sớm hôm
Khi ốm đau tận tụy thuốc thầy
Lúc hữu sự ân cần công của
Giữ hòa khí cháu con thuận thảo
Gìn gia phong hợp đạo nghĩa nhân
Giúp mẹ cha bố thí cúng dường
Tu tín giới tham thiền niệm Phật

Lạy cha mẹ bậc thầy trước nhất
Là tiên nhân từ ái trong nhà
Con nghiêm cung phủ phục thiết tha
Mọi lầm lỡ thành tâm sám hối
Từ tấm bé muôn lầm vạn lỗi
Ðến khi con khôn lớn nên người
Chuyện nghĩa ân thù tạc với đời
Việc hiếu đạo chừng như bổn phận
Có ai sống không niềm ân hận
Ai chưa thương biết quí tình thương
Ðời phù du muôn vạn nẻo đường
Con dong ruổi thung huyên luống tuổi
Nhờ Phật dạy biết điều lầm lỗi
Ðã tri ân xin nguyện báo ân
Dẫu cho con làm được muôn phần
Chưa đáp đủ ân cha nghĩa mẹ

Xin minh chứng tấc lòng con trẻ
Sống chánh chơn y pháp phụng hành
Con hôm nay hội đủ duyên phần
Hiếu và đạo tinh cần tu tập
Vầng nhật nguyệt tam thiên toả khắp
Vẹt vô minh hôn ám bao đời
Cầu cho sanh loại muôn nơi
Thọ trì hiếu hạnh rạng ngời nhân luân

24. Kệ Sám Hối Phụ Mẫu - Mātāpitupaṇāmagāthā.

Yadājāto ca yo vāhaṃ
Dukkhaṃ mãtãpitūhime
Anubhūtaṃ navaṇṇituṃ
Hatthaṃ pagayha vandito
Dosaṃ khamathameyeva
Tumhe dethābhayampi ca
Ruditassevame tumhe
Sugītamuppagettha ve
Nipajjāpetha maṃ amhaṃ
Malamuttampi sakala
Hatthena te gahetvā va
Dhovitthāpi ca sabbaso
Tumhe anāgate kāle
Amma kāruṇṇike have
Puttadhītuttamā tāta
Buddhāyeva bhaveyyātha

Cúi đầu kính lạy mẹ cha
Ngưỡng mong mở lượng hải hà bao dung
Tội con bất hiếu muôn ngàn
Ấu thơ cho đến thành nhân vẫn còn
Một đời tần tảo lo toan
Gian truân bao độ lòng son chẳng sờn
Bút nào tả hết yêu thương
Lời nào nói đủ đoạn trường gian lao
Tóc xanh cho đến bạc màu
Vì con tất cả nghĩ đâu phần mình
Phật xưa rằng đấng sanh thành
Là trời Phạm đế đức lành bao la
Thiện thần ngự trị trong nhà
Cổ nhân thánh đức chói loà ngàn sau
Bậc thầy tiên khởi thanh cao
Dạy con từng bước đi vào lớn khôn
Dù hai vai cõng song đường
Trăm năm chưa đủ đáp ơn sâu dày
Con từ thơ dại đến nay
Xét ra lỗi đạo lầm sai lắm điều
Những mong mình được nuông chiều
Biết đâu cha mẹ bao nhiêu ưu phiền
Lời răn của đấng từ nghiêm
Ít khi tạc dạ trọn niềm kính tin
Ấm no chỉ biết phần mình
Mẹ cha mòn mỏi chút tình đợi mong
Tình cha nghĩa mẹ biển đông
Tình con đáp lại giọt sương đầu cành
Nhớ công giáo dưỡng sanh thành
Sáu thời cung dưỡng ba canh phụng thờ
Từ nay cho đến trọn đời
Sống theo hiếu đạo nương nhờ Phật ân

Ngưỡng cầu minh chứng lòng con
Nghiêng mình kính lễ sắt son một niềm

Cầu cha mẹ trọn phước duyên
Nghiêng mình kính lễ vô biên nguyện cầu

Nguyện đem hiếu đạo làm đầu
Nghiêng mình kính lễ ân sâu đáp đền

25. Kệ Tụng Ba Pháp Ấn


Biển trần khổ sóng bồng lai láng
Kiếp phù sanh gẫm ngán biết bao
Tử sanh chìm đắm ba đào
Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly
Cõi giả tạm ích gì sự thế
Uổng tâm tư tìm kế miên trường
Trần hoàn vạn vật vô thường
Khổ sầu vô định muôn đường chông gai
Do nghiệp báo lưu lai từ trước
Thân tâm nầy có được do duyên
Sát na kế tục nhau liền
Diệt sanh sanh diệt triền miên không ngừng
Người hay thú đồng chung số phận
Hễ có thân ngũ uẩn không bền
Chịu điều biến đổi đảo điên
Sanh già đau chết có yên lúc nào
Thể vật chất không sao giữ nổi
Sức vô thường phá mỗi sát na
Chủ quyền nào phải của ta
ốm đau khó tránh tuổi già khó ngăn
Dây ái dục trói trăn từ phút
Vấy ưu phiền chẳng chút nào nguôi
Ở đời ai mãi an vui
Suy mòn vì nhuốm nặng mùi trần ai
Chừng thân chết toả hơi hôi hám
Người chung quanh chẳng dám lại gần
Cho dù những kẻ chí thân
Cũng nhờm xác chết ngại ngần tránh xa
Chọn một chốn rừng già thanh vắng
Ðem thây thi an táng cho xong
Ðịa táng hỏa táng chẳng đồng
Tùy duyên tùy tục vẫn không khác gì
Ðưa xác chết người đi thương tiếc
Kẻ thân nhân ly biệt khóc than
Hình hài mấy khúc rã tan
Cửa nhà bỏ lại họ hàng cách xa
Khổ tử biệt thiết tha nung nấu
Lìa lợi danh của báu tình yêu
Kiếp người khi đã hoại tiêu
Còn gì đáng kể ít nhiều ngoại thân
Cuộc trăm năm xoay vần ngày tháng
Buổi chia lìa ngao ngán bi thương
Chúng sanh trong cõi vô thường
Nên vun cội phước tìm đường vô sanh
Bỏ việc ác nhân lành gieo giống
Kết quả vui kiếp sống về sau
Mở lòng xả kỷ thanh cao
Giới tu thiền tập khá mau thực hành
Kẻ vụng tu điêu linh thối đọa
Tự sa vào ác đạo trầm mê
Trăm ngàn kiếp sống não nề
Khổ theo sau khổ quả về với nhân
Tu dưỡng ý khẩu thân trong sạch
Thẳng trên đường thanh bạch mà đi
Dầu cho sanh tử đến kỳ
Phút giây liễu ngộ thoát ly khổ sầu
Lẽ chân thật phải cầu liễu đạt
Khổ cõi đời số cát sông Hằng
Tám điều khổ não chi bằng
Ðây lần lượt giải ngọn ngành như sau
Ôi khổ lụy sanh vào cõi thế
Luật tuần hoàn nào kể chi ai
Thân ta bất luận gái trai
Cũng đều mắc phải đọa đày khổ sanh
Khi nghiệp đến pháp hành cấu tạo
Thác sanh vào lòng mẹ thành phôi
Nguyên tố vi tế ban đầu
Vốn là chất lỏng như dầu màu trong
Giọt dầu vấy chót lông con thú
Ta cầm lên rảy đủ bảy lần
Chỉ còn chút ít dư phần
Ấy như nguyên chất khởi thân con người
Bảy ngày đầu còn tươi trong vắt
Rồi lần lần biến sắc đổi màu
Ðến tuần thứ bảy về sau
Biến thành một chất trông vào đáng ghê
Sắc đỏ dợt mỡ pha lẫn máu
Bởi pháp hành cứ tạo thêm ra
Ðúng vào tuần lễ thứ ba
Hóa thành chất đặc như là thịt dư
Trong bụng mẹ an cư một chỗ
Miếng thịt thừa tội khổ xiết chi
Tuy hình hài kết thế ni
Nhưng còn mềm mại như chì nấu tan
Tưởng tượng đến trăm ngàn ghê sợ
Phôi thai giờ tương tợ trứng gà
Nhưng còn non yếu chưa già
Tuần tự thay đổi bảy ngày thứ tư
Bảy ngày nữa từ từ biến hóa
Bắt đầu chia tất cả năm nhành
Toàn thân chưa hẳn hình thành
Nhưng trông có dạng đầu mình chân tay
Bào thai phát triển hoài không dứt
Tuần thứ năm thất nhựt vừa qua
Nhỏ to hình dáng dần dà
Băm lăm ngày đủ đã ra hình hài
Ngoài ba tháng thành thai cứng cáp
Thai loài người nào khác thú đâu
Cũng đều khổ não âu sầu
ở trong bụng mẹ co đầu rút chân
Ðủ mười tháng vẹn toàn thân thể
Gần kỳ sanh lòng mẹ chẳng vui
Lo âu dạ luống bùi ngùi
Sợ bao bất trắc trong hồi khai hoa
Mãn toan tính đắn đo cân nhắc
Biển mênh mông chưa chắc được qua
Quẩn quanh công chuyện trong nhà
Dể duôi cũng chẳng đi xa bấy giờ
Kịp đến lúc ngồi chờ hoa nở
Quyến thuộc vầy kẻ đỡ người nâng
Chịu điều đau khổ từng cơn
Dầu kiên gan mấy cũng sờn nỗi đau
Phận làm mẹ khỏi sao tránh thoát
Nỗi đớn đau bão tạt vào thai
Khai hoa khi đã đến ngày
Theo đường kinh huyết ra ngoài sản môn
May được lúc lâm bồn yên ổn
Cả mẹ con khoẻ mạnh vuông tròn
Ấy nhờ hồng phúc nhà còn
Từ bao kiếp trước gieo trồng thiện căn
Nếu phước báu không hơn nghiệp ác
Khi sanh ra chịu các khó khăn
Dẫu còn sống sót nữa chăng
Dật dờ dường phải đôi lần đứt hơi
Ví nhân ác đến hồi trả quả
Chúng sanh nầy thảm họa chết non
Chết ngộp hoặc chết mỏi mòn
Chết ngoài bụng mẹ hoặc còn trong thai
Ngán ngẫm kiếp sanh lai tất tưởi
Từ thác sanh đến buổi lọt lòng
Mạng căn khương thới hoặc không
Nhưng đều phải chịu trong vòng trần lao
Quán khổ sanh xôn xao tấc dạ
Xét kiếp người buồn bã u sầu
Thế nhưng hết khổ đặng đâu
Có thân còn phải lo âu khổ già
Sự khổ già thân ta phải chịu
Dầu gái trai tiều tụy như nhau
Ðổi thay chẳng trước thì sau
Suy mòn từ lúc tốn hao từ giờ
Buổi niên thiếu ngây thơ đầy đặn
Sắc xinh tươi đủ vẹn mười phân
Dung nghi đẹp đẽ tốt lành
Dương dương đắc ý tuổi xanh thường tình
Ðộ trẻ trung vóc mình tráng kiện
Hằng phô bày thể diện đáng yêu
Thế gian ai cũng ưa chiều
Gái trai đều có tự kiêu thuở nầy
Mê muội tưởng đẹp hoài không giảm
Quá lạc lầm quý mến thân ta
Sắm đồ trang sức xa hoa
Ðiểm tô cho đặng đẹp ra tuyệt trần
Dùng kính lược dự phần chải gỡ
Giồi phấn son rạng rỡ thêm duyên
Chẳng vừa sở tạo tự nhiên
Thật ra cùng tánh khác hình mà thôi
Thân bất tịnh mọi người chẳng khác
Túi đựng đầy những vật nhớp nhơ
Lại còn biến đổi dường mơ
Chậm mau rồi cũng có giờ tiêu tan
Hữu tình đến vội vàng tuổi hạc
Mái tóc xanh trắng bạc như bông
Dầu cho cạn trí hết lòng
Cản ngăn tận sức vẫn không được nào
Tay chân thảy mòn hao gầy yếu
Dần dần còn xương chịu lấy da
Ôi thời tráng kiện đã qua
Xuân xanh nhường chỗ tuổi già đến thay
Mắt sáng tỏ những ngày rực rỡ
Thời lão niên đã trở nên lờ
Trông xa các vật tờ mờ
Nhãn quan suy kém có chờ cho đâu
Ðồng thời phát khổ sầu tai điếc
Lắng tai nghe chẳng thiệt tiếng tăm
Nghe lầm ắt nói lại lầm
Nhĩ quan đã hẳn âm thầm hoại tiêu
Cuộc biến đổi rất nhiều cơ sở
Ðây trưng ra mấy cớ thật gần
Như răng phải rụng lần lần
Ðó là triệu chứng tấm thân đã già
Tham luyến sống cũng là phải chết
Thân hữu tình chưa hết bao lâu
Thế nên sanh tử ải đầu
Trí nhân lấy đó làm câu răn mình
Cũng có kẻ quá tin sức khỏe
Tâm trẻ con thân thể đã già
Có ai kêu thử ông bà
Dầu không oán giận cũng là không vui
Nghe tiếng gọi ngậm ngùi không dĩ
Trái lại kêu bằng chị hay anh
Ngỡ mình còn độ xuân xanh
Ðẹp lòng toại ý thân tình kết giao
Ðã có thân tránh sao tiêu hoại
Vốn nhớp nhơ mà lại không bền
Khổ già đeo đuổi một bên
Khổ đau liên tiếp cho thêm não nề
Ôi thảm não nhắc về bệnh khổ
Khi cơn đau phát lộ đến ta
Do nhiều bệnh chứng hà sa
Toàn thân rũ riệt rên la từng hồi
Bao tật bệnh kể thôi không xiết
Bệnh ho lao bệnh kiết ung thư
Có thân thì phải hoại hư
Sang hèn ngu trí cũng như trẻ già
Bệnh cùi hủi thúi tha nhầy nhụa
Bệnh ngoài da ăn túa châu thân
Nhức đầu sổ mũi rút gân
Phù thũng sưng khắp tay chân mặt mày
Khi thấp khớp thiên thời gió rét
Lúc đau răng mũi nghẹt trái ban
Yếu tim sưng phổi đau gan
Những bệnh hư thiệt nhiệt hàn cũng lo
Vài đơn cử nghiệm cho ra lẽ
Dầu bệnh cơ nặng nhẹ khác nhau
Nhưng khi đã phải vướng đau
Khổ thân chẳng biết tả sao cho cùng
Thấy bệnh hoạn cảm thương thân thể
Cũng toan lo tìm kế giải sầu
Khổ đau càng thấm càng lâu
Rồi đến khổ chết bắt đầu nối theo
Khi khổ chết đã gieo mầm dữ
Thân chúng sanh mất sự thăng bằng
Trẻ già đều phải hãi hùng
Phút giây mệnh hệ thì lòng hay quên
Cơn hấp hối run lên không dứt
Khắp thân mình thịt giật gân thun
Có khi chuyển động vẫy vùng
Ruột gan dao cắt vô cùng đớn đau
Ngày tận số lâu mau phải tới
Khi thức thần lìa khỏi xác thân
Của trần trả lại cõi trần
Thi hài mục rã ai cần nữa đâu
Quyến thuộc dẫu khổ sầu than tiếc
Người chết rồi còn biết là chi
Thân kia đã gọi thây thi
Ôi thời oanh liệt đã đi qua rồi
Khi đã chết không nhờ của cải
Cùng vợ chồng con cái mẹ cha
Anh em quyến thuộc gần xa
Khó trông nương tựa cõi ma một mình
Thậm chí đến đồng trinh cắc bạc
Ðể trong môi người thác theo lề
Cũng không đem được dựa kề
Của trần bỏ lại ra về tay không
Quỉ vô thường vô song quyền thế
Giết chúng sanh bất kể gái trai
Giết người chẳng sót một ai
Dầu chư thiên cũng bị tay vày vò
Ðang vui sống làm cho tiêu diệt
Sát sanh linh chẳng biết xót than
Chỉ trừ cảnh giới niết bàn
Vô thường chẳng dám tìm đàng đến đây
Bởi chưng ở cảnh nầy tịch tịnh
Ðầy yên vui chẳng dính bụi trần
Phước báu to lớn vô ngần
Chẳng hư chẳng hoại pháp thân diệu thường
Niệm tưởng chết sanh lòng áo não
Muốn khỏi thì rán tạo phước duyên
Cố công trì giới tham thiền
Nhân sanh quả phúc về miền an vui
Chớ hờ hững dể ngươi sự ác
Ðừng để cho lầm lạc càng tăng
Bền lòng vun tưới thiện căn
Nghiệp theo chẳng kịp khi thăng niết bàn
Nếu do dự muộn màng sanh hại
Cũng đừng nên ỷ lại vào ai
Buddho một tiếng chỉ bày
Ðịnh tâm tỉnh trí khỏi sai lạc đường
Ta nên nhớ vô thường khổ não
Ðừng đợi cho nghiệp báo đến nơi
Ðọa đày vừa lúc tắt hơi
Bốn đường ác đạo lâu đời khó ra
Sự khổ chết nguyên là nghiệp dữ
Luật luân hồi tử tử sanh sanh
Nhiều đời quả báo sẵn dành
Chính ta tạo tác đã thành từ lâu
Vô minh đã gieo sâu nhân ác
Nhân đến hồi kết các quả sầu
Do câu thiện ác đáo đầu
Mình làm mình chịu ai cầu được ai
Vì lầm lạc giữ hoài tâm ác
Biết bao lần giết thác sanh linh
Nhẫn tâm không chút niệm tình
Tu nhân tích đức phần mình không lo
Vật có chủ không cho cũng cắp
Vợ con người mê hoặc tà dâm
Tính toan mưu kế âm thầm
Chẳng kiêng luật pháp tối tăm làm liều
Nói dối cũng một điều ác dữ
Lòng dối gian miệng cứ nói bừa
Có người uống rượu say sưa
Dầu ai khuyên nhắc không chừa thói quen
Cõi hiện tại nhúm nhen ngũ nghiệp
Tánh xấu xa chẳng kịp đổi thay
Chết rồi phải bị đọa đày
Sa vào địa ngục khổ hoài chẳng ngưng
Các tội ác theo từng mỗi bước
Bóng với hình cái trước cái sau
Nhân nào quả nấy liền nhau
Mình gây mình chịu ai nào giúp ta
Bị quỉ sứ hành hà đánh đập
Kéo lôi bừa bằm dập chẳng thương
Lửa hừng thiêu đốt thịt xương
Sống đi chết lại luôn luôn không ngừng
Sự thống khổ bởi chưng ác báo
Bất kỳ ai đã tạo phải mang
Cảnh nầy ác quả đã tan
Sanh làm ngạ quỉ đôi phần nhẹ hơn
Giống ngạ quỉ toàn thân ghê tởm
Ðói khát luôn hôm sớm quẩn quanh
Ăn ròng mủ máu hôi tanh
Hết kiếp ngạ quỉ tái sanh lên đời
Loài thú vật trên bờ dưới nước
Lớn nhỏ vì từ trước dể duôi
Ðành cam số phận hẩm hiu
Lắm khi bị giết để nuôi mạng người
Bắt giết hại thẳng tay chẳng tiếc
Thảm sát do trả nghiệp kiếp xưa
Khổ hành tả mấy cho vừa
Ðã là quả báo có chừa chi ai
Cũng có kẻ đầu thai thần quỉ
A tu la ngạ quỉ khác chi
Cũng đều đói khát thường khi
Chịu không biết mấy tăng kỳ kiếp lâu
Kiếp quá khứ gây bao tội khổ
Nghiệp quả này chẳng bỏ sót ai
Chúng sanh khắp hết bốn loài
Thấp hóa không hạn noãn thai chẳng trừ
Nhân ác đã gieo từ vô thỉ
Quả xấu kia trực chỉ theo mình
Làm cho tất cả chúng sanh
Mỗi đời phải chịu khổ hình như trên
Cõi giả tạm dường tên thắm thoát
Kiếp nầy qua kiếp khác đến thay
Rồi trong những kiếp vị lai
Cũng là hệ lụy nạn tai dẫy đầy
Sự khổ não bao vây liền sát
Khiến chúng sanh lầm lạc thêm hoài
Vì chưa thoát khỏi trần ai
Trùng trùng khổ ải biết ngày nào ra
Giờ ta hãy xét qua hiện tại
Chẳng khổ nào sánh lại khổ ăn
Vì chưng đói khát khó khăn
Muốn cho no đủ nên hằng phải lo
Nghèo sạch đất giàu to cũng thế
Nhọc ưu tư bất kể ngày đêm
Có rồi lại muốn có thêm
Bằng người chưa có cũng tìm cho ra
Nếu biếng nhác ở nhà thong thả
Ăn không lo lở cả núi sông
Mối ăn nặng gánh bên lòng
Mãi nuôi mạng sống dày công liệu lường
Già chí trẻ vẫn thường lam lụng
Việc sinh nhai phải dụng tấm thân
Lao lung thể xác tinh thần
Khó khăn cũng chịu nhọc nhằn cũng cam
Bệnh đói khát hằng làm vất vả
Thuốc dầu hay chẳng đả tật nầy
Nếu không ăn uống ốm gầy
Càng lâu ắt phải bỏ thây cõi trần
Ăn hay gấp mấy lần diệu dược
Có ăn rồi bệnh được giảm thuyên
Chúng sanh dù biếng cũng siêng
Không sao tránh khỏi phải quyền sanh nhai
Có kẻ rán cấy cày đào cuốc
Luống chuyên cần rẫy bái ruộng nương
Kẻ thì làm mướn bán buôn
Biết bao khổ cực luôn luôn một đời
Người giàu có thảnh thơi đôi chút
Bởi từ xưa quả phúc vun trồng
Cõi trần hái trái ngọt ngon
Khỏe thân nhưng vẫn phải còn khổ tâm
Những khổ não đã lần lượt giải
Vắn tắt đây đại khái tám điều
Chúng ta lấy đó gương nêu
Trẻ già cũng phải chịu điều khổ lao
Thấu lẽ khổ ta mau thức tỉnh
Rán nghiêm trì giới định tu thân
Ðộ mình cùng độ tha nhân
Vô minh đoạn tận niết bàn chứng tri

26. Kinh Ghi Ri Ma Nan Đa - Girimānandasutta

Evaṃ me sutaṃ.

Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāṭhapiṇḍikassa ārāme.

Tena kho pana samayena āyasmā girimānando ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno.

Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca āyasmā bhante girimānando ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno sādhu bhante bhagavā yenāyasmā girimānando tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyāti.

Như vầy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá
Của trưởng giả Cấp Cô Ðộc
Gần thành Xá Vệ
Lúc ấy thầy Tỳ kheo
Ghi Ri Ma Nan Ða
Thọ bệnh trầm kha
Vật vã đau đớn
Thị giả A Nan Ða
Ðộng lòng trắc ẩn
Vào nơi Phật ngự
Ðảnh lễ Thế Tôn
Ngồi xuống một bên
Bạch đức Thế Tôn
Thầy Ghi Ri Ma Nan Ða
Thọ bệnh trầm kha
Vật vã đau đớn
Xin đức Thế Tôn
Dủ lòng bi mẫn
Quang lâm thăm viếng

Sace kho tvaṃ ānanda girimānandassa bhikkhuno upasaṅkamitvā dasa saññā bhāseyyāsi ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati yaṃ girimānandassa bhikkhuno dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippassambheyya

Katamā dasa aniccasaññā anattasaññā asubhasaññā ādīnavasaññā pahānasaññā virāgasaññā nirodhasaññāsabbaloke anabhiratasaññā

Sabbasaṅkhāresu aniccasaññā ānāpānassati.

Lúc ấy Phật dạy
Nầy A Nan Ða
Hãy thay Như Lai
Ðến chỗ Tỳ kheo
Ghi Ri Ma Nan Ða
Truyền dạy cho thầy
Mười pháp quán tưởng
Giảng giải tận tường
Minh bạch thông suốt
Bệnh nhân được nghe
Chú tâm lãnh hội
Bệnh tình trầm kha
Có thể thuyên giảm

Nầy A Nan Ða
Hãy lắng nghe kỹ
Mười pháp quán tưởng
Gồm những pháp nào?
Quán tưởng vô thường
Quán tưởng vô ngã
Quán tưởng bất tịnh
Quán tưởng hệ lụy
Quán tưởng đọan tận
Quán tưởng ly dục
Quán tưởng tịch tịnh
Quán tưởng vô trước
Quán tưởng yểm ly
Quán niệm hơi thở

Katamā cānanda aniccasaññā?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā itipaṭisañcikkhati rūpaṃ aniccaṃ vedanā aniccā saññā aniccā saṅkhārā aniccā vinñāṇaṃ aniccanti

Iti imesu pañcasu upādānakkhandhesu aniccānupassī viharati

Ayaṃ vuccatānanda aniccasaññā

Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Sắc uẩn vô thường
Thọ tưởng hành thức
Cũng hằng biến hoại
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm vô thường
Với năm thủ uẩn
Như Lai gọi là
Quán tưởng vô thường

Katamā cānanda anattasaññā?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā itipaṭisañcikkhati cakkhuṃ anattā rūpā anattā sotaṃ anattā saddā anattā, ghānaṃ anattā gandhā anattā jivhā anattā rasā anattā kāyo anattā phoṭṭhabbā anattā mano anattā dhammā anattāti.

Iti imesu chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu anattānupassī viharati ayaṃ vuccatānanda anattasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Từ mắt tai mũi
Ðến lưỡi thân ý
Chúng là vô ngã
Từ sắc thanh hương
Ðến vị xúc pháp
Thảy đều vô ngã
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm vô ngã
Sáu căn sáu cảnh
Như Lai gọi là
Quán tưởng vô ngã

Katamā cānanda asubhasaññā?

Idhānanda bhikkhu imameva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūrannāṇappakarassa asucino paccavekkhati atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ nahārū aṭṭhī atthiṃiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā muttanti.

Iti imasmiṃ kāye asubhānupassī viharati ayaṃ vuccatānanda asubhasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Từ chân trở lên
Từ đầu trở xuống
Bì da bao bọc
Chứa vật không sạch
Tính chất khác nhau
Hình dạng sai biệt
Tóc, lông, móng, răng,
Da, thịt, gân, xương,
Tủy, thận, tim, gan,
Cơ hoành, lá lách,
Phổi, ruột già, ruột non,
Vật thực chưa tiêu,
Phân, mật, đàm, mủ,
Máu, mồ hôi, mỡ,
Nước mắt, dầu da,
Nước miếng, nước mũi,
Nước nhớt, nước tiểu
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm bất tịnh
Ðối với thân nầy
Như Lai gọi là
Quán tưởng bất tịnh

Katamā cānanda ādīnavasaññā?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā itipaṭisañcikkhati bahudukkho kho ayaṃ kāyo bahu ādīnavoti.

Iti imasmiṃ kāye vividhā ābādhā uppajjanti.

Seyyathīdaṃ cakkhurogo sotarogo ghānarogo jivhārogokāyarogo sīsarogo kaṇṇarogo mukharogo dantarogo kāso sāso pināso ḍaho jaro kucchirogo mucchā pakkhandikā sulā visūcikā kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāro dandu kaṇḍu kacchu rakhasā vitacchikā lohitaṃ pittaṃ madhumeho aṃsā piḷakā bhagaṇḍalā pittasamuṭṭhānā ābādhā semhasamuṭṭhānā ābādhā vātasamuṭṭhānā ābādhā sannipātakā ābādhā

utupariṇāmajā ābādhā visamaparihārajā ābādhā opakkamikā ābādhā kammavipākajā ābādhā sītaṃ uṇhaṃ jighacchā pipāsā uccāro passāvoti.

Iti imasṃiṃ kāye ādīnavānupassī viharati.

Ayaṃ vuccatānanda ādīnavasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Nơi thân thể ta
Nguyên nhân tội khổ
Ðầy dẫy hệ lụy
Nhiều tật nhiều bệnh
Bệnh mắt, bệnh tai,
Bệnh mũi, bệnh lưỡi,
Bệnh thân, bệnh đầu,
Bệnh ngoài vành tai,
Bệnh răng, bệnh ho,
Bệnh xuyễn, sổ mũi,
Bệnh sốt, bệnh già,
Ðau bụng, cảm mạo,
Thổ huyết, bệnh ruột,
Thổ tả, bệnh cùi,
Ung nhọt, ghẻ lở,
Bệnh lao, trúng gió,
Bệnh sảy, bệnh ngứa,
Ban trái, huyết đảm,
Tiểu đường, bệnh trĩ,
Mụt nhọt, ung loét,
Bệnh sanh do mật,
Bệnh sanh do đàm,
Niêm dịch, gió máy,
Bệnh do dịch vị,
Bệnh do thời tiết,
Bệnh do lao lực,
Bệnh do trùng hợp,
Bệnh do nghiệp sanh
Cùng sự lạnh nóng
Ðói khát hằng ngày
Ðại tiện, tiểu tiện
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm nguy hại
Ðối với thân nầy
Như Lai gọi là
Quán tưởng hệ lụy

Katamā cānanda pahānasaññā?

Idhānanda bhikkhu uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodetibyantīkaroti anabhāvaṃ gameti uppannaṃ byāpādavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.

Uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.

Uppannuppanne pāpake akusale dhamme nādhivāseti pajahati vinodeti byantīkaroti anabhāvaṃ gameti ayaṃ vuccatānanda pahānasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Làm cho tiêu tan
Hết mọi tà niệm
Là dục tư duy
Là hận tư duy
Là hại tư duy
Ðã sanh trong lòng
Tẩy sạch chấm dứt
Ngăn ngừa mầm mống
Tương lai sanh khởi
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm dứt bỏ
Ðối với tà niệm
Như Lai gọi là
Quán tưởng đoạn tận

Katamā cānanda virāgasaññā?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā itipaṭisañcikkhati etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nibbānanti ayaṃ vuccatānanda virāgasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Tội khổ ái dục
Duyên sanh phiền não
Phải biết ly dục
Niết bàn tịch tịnh
An ổn tối thượng
Tịnh chỉ các hành
Không còn sanh y
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm xả bỏ
Ðối với ái dục
Như Lai gọi là
Quán tưởng ly dục

Katamā cānanda nirodhasaññā?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo nirodho nibbānanti ayaṃ vuccatānanda nirodhasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Niết bàn tịch tịnh
Chấm dứt hữu vi
Diệt các sở hành
Ðoạn tuyệt ái dục
Dứt bỏ phiền não
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm tịch nhiên
Ðối với niết bàn
Như Lai gọi là
Quán tưởng tịch tịnh

Katamā cānanda sabbaloke anabhiratasaññā ?

Idhānanda bhikkhu ye loke upāyupādānā cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayā te pajahanto viramati na upādiyanto ayaṃ vuccatānanda sabbaloke anabhiratasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Kiến chấp mông lung
Chủ quan biên kiến
Phương tiện thành kiến
Cần phải viễn ly
Chẳng nên chấp thủ
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm từ bỏ
Ðối với kiến chấp
Như Lai gọi là
Quán tưởng vô trước

Katamā cānanda sabbasaṅkhāresu aniccasaññā?

Idhānanda bhikkhu sabbasaṅkhārehi aṭṭiyati harāyati jigucchati ayaṃ vuccatānanda sabbasaṅkhāresu aniccasaññā.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Hằng nên quán tưởng
Tất cả các hành
Ðáng nhàm đáng chán
Ðáng sợ đáng thẹn
Nầy A Nan Ða
Như vậy vị ấy
Quán niệm nhàm chán
Ðối với các hành
Như Lai gọi là
Quán tưởng yểm ly

Katamā cānanda ānāpānassati?

Idhānanda bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā nisīdati pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā so sato vā assasati sato passasati dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasāmītipajānāti dīghaṃ vā passasanto dīghaṃ passasāmīti pajānāti rassaṃ vā assasanto rassaṃ assasissāmīti pajānāti rassaṃ vā passasanto rassaṃ passasāmīti pajānāti.

Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati.

Passambhayaṃ kāyasaṅkhārāṃ assasissāmītisikkhati passambhayaṃ kāyasaṅkhārāṃ passasissāmīti sikkhati.

Pītipaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati pītipaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati

Sukhapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati sukhapaṭi saṃvedī passasissāmīti sikkhati

Cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati

Passambhayaṃ cittasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.

Cittapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati cittapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati

Abhippamodayaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati abhippamodayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati

Samādahaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati samādahaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati

Vimocayaṃ cittaṃ assasissāmīti sikkhati vimocayaṃ cittaṃ passasissāmīti sikkhati

Aniccānupassī assasissāmīti sikkhati aniccānupassī passasissāmīti sikkhati

Virāgānupassī assasissāmīti sikkhati virāgānupassī passasissāmīti sikkhati

Nirodhānupassī assasissāmīti sikkhati nirodhānupassī passasissāmīti sikkhati

Paṭinissaggānupassī assasissāmīti sikkhati paṭinissaggānupassī passasissāmīti sikkhati ayaṃ vuccatānanda ānāpānassati.


Nầy A Nan Ða
Phàm thầy Tỳ kheo
Sống trong Phật Pháp
Ngụ ở trong rừng
Nhà trống cội cây
Kiết già khép mắt
Thân hình ngay thẳng
Tâm ý chánh chơn
Tu tập thiền định
Thở vô biết rõ
Thở ra biết rõ
Hơi thở vắn dài
Vô ra biết rõ
Cảm giác toàn thân
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Cảm giác toàn thân
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
An tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
An tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
An tịnh thân hành
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
An tịnh thân hành
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Cảm giác hỷ thọ
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Cảm giác hỷ thọ
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Cảm giác lạc thọ
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Cảm giác lạc thọ
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Cảm giác tâm hành
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Cảm giác tâm hành
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
An tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
An tịnh tâm hành
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Cảm giác nội tâm
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Cảm giác nội tâm
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Với tâm hân hoan
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Với tâm hân hoan
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Với tâm định tĩnh
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Với tâm định tĩnh
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Với tâm giải thoát
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Với tâm giải thoát
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Quán tưởng vô thường
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Quán tưởng vô thường
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Quán tưởng ly tham
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Quán tưởng ly tham
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Quán tưởng đoạn diệt
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Quán tưởng đoạn diệt
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Quán tưởng từ bỏ
Tôi sẽ thở vô
Vị ấy thực tập
Quán tưởng từ bỏ
Tôi sẽ thở ra
Vị ấy thực tập
Nầy A Nan Ða
Như vậy gọi là
Quán niệm hơi thở

Sace kho tvaṃ ānanda girimānandassa bhikkhuno upasaṅkamitvā imā dasa saññā bhāseyyāsi ṭhānaṃ kho panetaṃ vijjati yaṃ girimānandassa bhikkhuno imā dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippassambheyyāti.


Nầy A Nan Ða
Hãy đến thăm viếng
Ghi Ri Ma Nan Ða
Giảng giải cặn kẽ
Minh bạch thông suốt
Mười pháp quán tưởng
Bệnh nhân nghe được
Chú tâm lãnh hội
Bệnh dẫu trầm kha
Vật vã đau đớn
Lập tức thuyên giảm

Athakho āyasmā ānando bhagavato santike imā dasa saññā uggahetvā yenāyasmā girimānando tenupasaṅkami upasaṅkamitvā āyasmato girimānandassa imā dasa saññā abhāsi.

Athakho āyasmato girimānandassa imā dasa saññā sutvā so ābādho ṭhānaso paṭippassambhi vuṭṭhahi cāyasmā girimānando tamhā ābādhā tathāpahīno ca panāyasmato girimānandassa so ābādho ahosīti


Tôn giả A Nan Ða
Ghi nhớ nằm lòng
Mười pháp quán tưởng
Thế Tôn vừa dạy
Giảng giải cho Thầy
Ghi Ri Ma Nan Ða
Cặn kẽ tường tận
Minh bạch thông suót
Người bệnh trầm kha
Chú tâm lắng nghe
Lập tức thuyên giảm

Bởi duyên khởi ấy
Mười phép quán tưởng
Do đức Thế Tôn
Vì lòng bi mẫn
Dạy cho người bệnh
Luôn được chư Tăng
Các hàng tại gia
Thành tâm tụng đọc
Quán tưởng nhiếp niệm
Hằng được an vui
Hằng được dứt khổ
Chúng sanh hữu tình
Khắp thảy trời người
Vô biên lợi lạc.

-ooOoo-

27. Kinh Tứ Niệm Xứ - Satipaṭṭhānasutta

Evaṃ me sutaṃ: ekaṃ samayaṃ bhagavā kurūsu
viharati kammāsadhammaṃ nāma kurūnaṃ nigamo
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: bhikkhavoti
Bhadanteti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ
Bhagavā etadavoca:

Như vầy tôi nghe,

Một thời Ðức Thế Tôn ngự giữa dân chúng xứ Ku Ru tại đô thị Kam Ma Sa Ðam Ma. Tại đấy đức Phật dạy các Tỳ kheo:

Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya
dukkhado
Ma-nassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa
adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya yadidaṃ
cattāro satipaṭṭhānā

Nầy các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất dẫn đến thanh tịnh, vượt khỏi sầu não, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn. Ðó là bốn niệm xứ.

Katame cattāro? Idha bhikkhave bhikkhu kāye
kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya
loke abhijjhādo
Ma-nassaṃ. Vedanāsu vedanānupassī
viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke
abhijjhādo
Ma-nassaṃ. Citte cittānupassī viharati
ātāpī sampajānosatimā vineyya loke
abhijjhādo
Ma-nassaṃ. Dhammesu dhammānupassī
viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya
lokeabhijjhādo
Ma-nassaṃ

Bốn niệm xứ ấy là gì? Nầy các Tỳ kheo, người tu tập lấy thân quán thân với tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm khắc phục ham muốn âu lo. Người tu tập lấy thọ quán thọ với tinh tấn, tỉnh giác; chánh niệm khắc phục ham muốn âu lo. Người tu tập lấy tâm quán tâm với tinh tấn, tỉnh giác; chánh niệm khắc phục ham muốn âu lo. Người tu tập lấy pháp quán pháp với tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm khắc phục ham muốn âu lo.

Kathañca bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī
viharati?

Idha bhikkhave bhikkhu araññagato vā
rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā nisīdati
pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya
parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. So sato vā assasati
sato passasati. Dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ
assasāmīti pajānāti. Dīghaṃ vā passasanto dīghaṃ
passasāmīti pajānāti. Rassaṃ vā assasanto rassaṃ
assasāmīti pajānāti. Rassaṃ vā passasanto rassaṃ
passasāmīti pajānāti. Sabbakāyapaṭisaṃvedī
assasissāmīti sikkhati. Sabbakāyapaṭisaṃvedī
passasissāmīti sikkhati. Passambhayaṃ
kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati.
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti
sikkhati.

Seyyathāpi bhikkhave dakkho bhamakāro vā
bhamakārantevāsī vā dīghaṃ vā añchanto dīghaṃ
añchāmīti pajānāti, rassaṃ vā añchanto rassaṃ
añchāmīti pajānāti, evameva kho bhikkhave bhikkhu
dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasāmīti pajānāti
Dīghaṃ vā passasanto dīghaṃ passasāmīti pajānāti
Rassaṃ vā assasanto rassaṃ assasāmīti pajānāti
Rassaṃ vā passasanto rassaṃ passasāmīti pajānāti
Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati.
Sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmīti sikkhati
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti
sikkhati. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassasati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito
ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi
bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.


[Quán thân-niệm hơi thở]

Nầy các Tỳ kheo, thế nào là quán thân trên thân? người tu tập đi vào rừng vắng, hay dưới cội cây hoặc nơi nhà trống, ngồi kiết già với lưng thẳng hướng sự chú ý ngay trước mặt. Vị ấy thở ra, thở vào với sự tỉnh thức.

Khi thở vô dài vị ấy sáng suốt nhận biết: đang thở vô dài; khi thở ra dài vị ấy sáng suốt nhận biết: đang thở ra dài. Khi thở vô ngắn vị ấy sáng suốt nhận biết: đang thở vô ngắn; khi thở ra ngắn vị ấy sáng suốt nhận biết: đang thở ra ngắn.

Vị ấy thực tập: cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô; vị ấy thực tập: cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra; vị ấy thực tập: an tịnh toàn thân tôi sẽ thở ra; vị ấy thực tập: an tịnh toàn thân tôi sẽ thở vô; vị ấy thực tập: an tịnh toàn thân tôi sẽ thở ra; vị ấy thực tập: an tịnh toàn thân tôi sẽ thở vô.

Cũng như người thợ tiện thành thạo khi quay dài hay ngắn đều biết rõ, người tu tập cũng vậy.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu gacchanto vā
gacchāmīti pajānāti. ṭhito vā ṭhitomhīti pajānāti
Nisinno vā nisinnomhīti pajānāti. Sayāno vā sayānomhīti pajānātiYathā yathā vā panassa kāyo paṇihito hoti
tathā tathā naṃ pajānāti. Iti ajjhattaṃ vā kāye
kāyānupassī viharati. Bahiddhā vā kāye kāyānupassī
viharati Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Samudayavayadham-mānupassī vā kāyasmiṃ viharatiAtthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya
Anissito ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati.
Evampibhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.


[Quán thân-đại oai nghi]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập khi đi, sáng suốt ghi nhận: đang đi; khi đứng, sáng suốt ghi nhận: đang đứng; khi ngồi, sáng suốt ghi nhận: đang ngồi; khi nằm, sáng suốt ghi nhận: đang nằm. Thân thể trong tư thế ra sao biết rõ như thế.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu abhikkante
paṭikkante sampajānakārī hoti. Àlokite vilokite
sampajānakārī hoti
Sammiñjite pasārite sampajānakārī hoti.
Saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī hoti
Asite pīte khāyite sāyite sampajānakārī hoti
Uccārapassāvakamme sampajānakārī hoti
Gate ṭhite nisinne sutte jāgarite bhāsite tuṇhībhāve
sampajānakārī hoti. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

[Quán thân-tiểu oai nghi]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm;
khi co tay duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mặc y kép hay thượng y hoặc khi mang bát, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm;
khi đi, đứng, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu imameva kāyaṃ
uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhati:
atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco
maṃsaṃ nahārū aṭṭhī aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ
yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ
antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ
pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghāṇikā
lasikā muttanti.

Seyyathāpi bhikkhave ubhatomukhā mūtoḷī pūrā nānāvihitassa dhaññassa seyyathīdaṃ: sālīnaṃ vīhīnaṃ
muggānaṃ māsānaṃ tilānaṃ taṇḍulānaṃ, tamenaṃ
cakkhumā puriso muñcitvā paccavekkheyya: ime sālī
ime vīhī ime muggā ime māsā ime tilā ime taṇḍulāti
evameva kho bhikkhave bhikkhu imameva kāyaṃ
uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhati:
atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco
maṃsaṃ nahārū aṭṭhī aṭṭhimiñjaṃ vakkaṃ hadayaṃ
yakanaṃ kilomakaṃ pīhakaṃ papphāsaṃ antaṃ
antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo
lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā muttanti iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati.
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya
Anissito ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampibhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

[Quán thân-quán thể trược]

Lại nữa, này các Tỳ kheo, người tu tập quán sát thân nầy từ bàn chân đến ngọn tóc. Toàn thân bao bọc bởi da, chứa đầy những vật bất tịnh khác nhau. Trong thân nầy gồm: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu. Nầy các Tỳ kheo ví như một người có mắt mở ra bao đựng các thứ hột có thể phân biệt rõ: đây là gạo, đây là lúa, đây là đậu, đây là mè". Tương tự như vậy, người tu tập quán sát thân nầy chứa đựng những thứ bất tịnh khác nhau.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu imameva kāyaṃ
yathāṭhitaṃ yathāpaṇihi taṃ dhātuso paccavekkhati:
atthi imasmiṃ kāye paṭhavīdhātu āpodhātu tejodhātu
vāyodhātūti seyyathāpi bhikkhave dakkho goghātako
vā goghātakantevāsī vā gāviṃ vadhitvā
cātummahāpathe bilaso paṭivibhajitvā nisinno assa
evameva kho bhikkhave bhikkhu imameva kāyaṃ
yathāṭhitaṃ yathāpaṇihitaṃ dhātuso paccavekkhati
atthi imasmiṃ kāye paṭhavīdhātu āpodhātu tejodhātu vāyodhātūti. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharat
Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

[Quán thân-quán tứ đại]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán sát về vị trí và sự sắp đặt của tứ đại. Vị ấy chánh niệm: trong thân nầy có địa đại, thủy đại, hoả đại và phong đại. Như một người đồ tể rành nghề có thể phân một con bò thành từng phần riêng biệt, người tu tập có thể nhận rõ vị trí của tứ đại trong thân nầy.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu seyyathāpi
passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ ekāhamataṃ vā dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā uddhumātakaṃ
vinīlakaṃ vipubbakajātaṃ, so imameva kāyaṃ
upasaṃharati: ayampi kho kāyo evaṃ dhammo evaṃ
bhāvī evaṃ anatītoti. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassīviharati bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī
viharati. Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ
viharati. Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Samudayavayadham mānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

[Quán thân-quán tử thi]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập nhìn thấy một tử thi quăng bỏ trong bãi tha ma một ngày, hai ngày, ba ngày trong trạng thái căng phồng, biến thành màu xanh đen, nát thối. Vị ấy quán: thân nầy tự tánh là vậy, bản chất là vậy, không thể vượt ngoài tánh chất ấy.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu seyyathāpi
passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ kākehi vā
khajjamānaṃ kulalehi vā khajjamānaṃ gijjhehi
vā khajjamānaṃ supāṇehi vā khajjamānaṃ sigālehi
vā khajjamānaṃ vividhehi vā pāṇakajātehi
khajjamānaṃ, so imameva kāyaṃ upasaṃharati: ayampi kho kāyo evaṃ dhammo evaṃ bhāvī evaṃ anatītoti
Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati Bahiddhā vākāye kāyānupassī viharati. Ajjhattabahiddhā vā kāye
kāyānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vā
kāyasmiṃ viharati. Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati. Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati. Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā
hoti yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito
ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi
bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.


[Quán thân-quán tử thi bị hủy thể]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập nhìn thấy một tử thi quăng bỏ trong bãi tha ma bị các loài cầm thú quạ, diều hâu, kên kên, chó, giả can hay côn trùng đục khoét để ăn. Vị ấy quán: thân nầy tự tánh là vậy, bản chất là vậy, không thể vượt ngoài tánh chất ấy.

Như vậy vị ấy quán thân bằng nội thân hay ngoại thân hoặc cả hai. Vị ấy quán tánh sanh khởi trên thân, quán tánh hoại diệt trên thân hoặc cả hai tánh sanh diệt trên thân. Vị ấy quán niệm sự hiện hữu của thân với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy không ỷ lại, chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Nầy các Tỳ kheo, như vậy là người tu tập lấy thân quán thân.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu seyyathāpi
passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ
aṭṭhikasaṅkhalikaṃ samaṃsalohitaṃ
nahārusambandhaṃ, so imameva kāyaṃ
upasaṃharati: ayampi kho kāyo evaṃ dhammo
evambhāvī etaṃ anatītoti.
Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati. Bahiddhā
vā kāye kāyānupassī viharati. Ajjhattabahiddhā vā
kāye kāyānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati. Vayadhammānupassī vā
kāyasmiṃ viharati. Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati. Atthi kāyoti vā panassa sati
paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya
patissatimattāya. Anissito ca viharati. Na ca kiñci loke
upādiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāye
kāyānupassī viharati.

[Quán thân-quán hài cốt]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập nhìn thấy một tử thi quăng bỏ trong bãi tha ma chỉ còn là một bộ xương với chút ít máu thịt còn sót lại với các sợi gân còn kết nối. Hoặc một bộ xương không còn thịt còn chút máu được các sợi gân kết nối. Hoặc một bộ xương không còn máu thịt, không còn các sợi gân kết nối. Hoặc rải rác từng phần xương tay, xương chân, xương ống, xương đùi, xương mông, xương sống, sọ đầu. Vị ấy quán: thân nầy tự tánh là vậy, bản chất là vậy, không thể vượt ngoài tánh chất ấy.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu seyyathāpi
passeyya sarīraṃ sīvathikāya chaḍḍitaṃ aṭṭhikāni
setāni saṅkhavaṇṇupanibhāni, so imameva kāyaṃ
upasaṃharati ayampi kho kāyo evaṃ dhammo evaṃ
bhāvī evaṃ anatītoti. Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassīviharati. Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati.
Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati
Samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati Atthi kāyoti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

[Quán thân-quán hài cốt mục rã]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập nhìn thấy một tử thi quăng bỏ trong bãi tha ma chỉ toàn xương trắng màu vỏ ốc... Hoặc đã biến dạng theo thời gian vài ba năm... Hoặc mục nát thành bột... Vị ấy quán: thân nầy tự tánh là vậy, bản chất là vậy, không thể vượt ngoài tánh chất ấy.

Như vậy vị ấy quán thân bằng nội thân hay ngoại thân hoặc cả hai. Vị ấy quán tánh sanh khởi trên thân, quán tánh hoại diệt trên thân hoặc cả hai tánh sanh diệt trên thân. Vị ấy quán niệm sự hiện hữu của thân với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy không ỷ lại, chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Nầy các Tỳ kheo, như vậy là người tu tập lấy thân quán thân.

Kathañca bhikkhave bhikkhu vedanāsu
vedanānupassī viharati?

Idha bhikkhave bhikkhu sukhaṃ vedanaṃ vediyamānosukhaṃ vedanaṃ vediyāmīti pajānāti. Dukkhaṃ
vedanaṃ vediyamāno dukkhaṃ vedanaṃ vediyāmīti
pajānāti. Adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vediyamāno
adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vediyāmīti pajānāti.
Sāmisaṃ vā sukhaṃ vedanaṃ vediyamāno sāmisaṃ
sukhaṃ vedanaṃ vediyāmīāti pajānāti. Nirāmisaṃ vā
sukhaṃ vedanaṃ vediyamāno nirāmisaṃ sukhaṃ
vedanaṃ vediyāmīti pajānāti. Sāmisaṃ vā dukkhaṃ
vedanaṃ vediyamāno sāmisaṃ dukkhaṃ vedanaṃ
vediyāmīti pajānāti. Nirāmisaṃ vā dukkhaṃ vedanaṃvediyamāno nirāmisaṃ dukkhaṃ vedanaṃ vediyāmīti
pajānāti. Sāmisaṃ vā adukkhamasukhaṃ vedanaṃ
vediyamāno sāmīsaṃ adukkhamasukhaṃ vedanaṃ
vediyāmīti pajānāti. Nirāmisaṃ vā adukkhamasukhaṃ
vedanaṃ vediyamāno nirāmisaṃ adukkhamasukhaṃ
vedanaṃ vediyāmīti pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā vedanāsu vedanānupassī viharati.
Bahiddhā vā vedanāsu vedanānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā vedanāsu vedanānupassī viharati.
Samudayadhammānupassī vā vedanāsu viharati.
Vayadhammānupassī vā vedanāsu viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā vedanāsu viharati
Atthi vedanāti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu vedanāsu vedanānupassī viharati.


[Quán thọ]

Nầy các Tỳ kheo, thế nào là quán thọ trên thọ?
Nầy các Tỳ kheo, người tu tập khi cảm thọ lạc, sáng suốt biết rõ: cảm thọ lạc; khi cảm thọ khổ, sáng suốt biết rõ: cảm thọ khổ; khi cảm thọ không lạc không khổ, sáng suốt biết rõ: cảm thọ không lạc không khổ.

Khi cảm thọ lạc thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ lạc thuộc vật chất; Khi cảm thọ lạc không thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ lạc không thuộc vật chất.
Khi cảm thọ khổ thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ khổ thuộc vật chất; Khi cảm thọ khổ không thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ khổ không thuộc vật chất.
Khi cảm thọ không lạc không khổ thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ không lạc không khổ thuộc vật chất; khi cảm thọ không lạc không khổ không thuộc vật chất, sáng suốt biết rõ: cảm thọ không lạc không khổ không thuộc vật chất.

Như vậy vị ấy quán thọ bằng nội thọ hay ngoại thọ hoặc cả hai. Vị ấy quán tánh sanh khởi trên thọ, quán tánh hoại diệt trên thọ hoặc cả hai tánh sanh diệt trên thọ. Vị ấy quán niệm sự hiện hữu của thọ với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy không ỷ lại, chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Nầy các Tỳ kheo, như vậy là người tu tập lấy thọ quán thọ.

Kathañca bhikkhave bhikkhu citte cittānupassī
viharati? Idha bhikkhave bhikkhu sarāgaṃ vā cittaṃ
sarāgaṃ cittanti pajānāti. Vītarāgaṃ vā cittaṃ
vītarāgaṃ cittanti pajānāti. Sadosaṃ vā cittaṃ
sadosaṃ cittanti pajānāti. Vītadosaṃ vā cittaṃ
vītadosaṃ cittanti pajānāti samohaṃ vā cittaṃ
samohaṃ cittanti pajānāti. Vītamohaṃ vā cittaṃ
vītamohaṃ cittanti pajānāti. Saṅkhittaṃ vā cittaṃ
saṅkhittaṃ cittanti pajānāti. Vikkhittaṃ vā cittaṃ
vikkhittaṃ cittanti pajānāti.
Ma-haggataṃ vā cittaṃ
Ma-haggataṃ cittanti pajānāti. AMa-haggataṃ vā cittaṃ
a
Ma-haggataṃ cittanti pajānāti. Sauttaraṃ vā cittaṃ
sauttaraṃ cittanti pajānāti. Anuttaraṃ vā cittaṃ
anuttaraṃ cittanti pajānāti. Samāhitaṃ vā cittaṃ
samāhitaṃ cittanti pajānāti. Asamāhitaṃ vā cittaṃ
asamāhitaṃ cittanti pajānāti. Vimuttaṃ vācittaṃ
vimuttaṃ cittanti pajānāti. Avimuttaṃ vā cittaṃ
avimuttaṃ cittanti pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā citte cittānupassī viharati. Bahiddhā
vā citte cittānupassī viharati. Ajjhattabahiddhā vā citte cittānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vā
cittasmiṃ viharati. Vayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati samudayavayadhammānupassī vā cittasmiṃ
viharati. Atthi cittanti vā panassa sati paccupaṭṭhitā
hoti yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito
ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evaṃ kho
bhikkhave bhikkhu citte cittānupassī viharati.


[Quán tâm]

Nầy các Tỳ kheo, thế nào là quán tâm trên tâm?

Nầy các Tỳ kheo, người tu tập khi ham muốn, biết rõ: tâm ham muốn.
Khi sân hận, biết rõ: tâm sân hận.
Khi si mê, biết rõ: tâm si mê.
Khi tâm thâu nhiếp, biết rõ: tâm thâu nhiếp.
Khi tâm tán loạn, biết rõ: tâm tán loạn.
Khi tâm quảng đại, biết rõ: tâm quảng đại.
Khi tâm hạn hẹp, biết rõ: tâm hạn hẹp.
Khi tâm cao thượng, biết rõ: tâm cao thượng.
Khi tâm tập chú, biết rõ: tâm tập chú.
Khi tâm không định, biết rõ: tâm không định.
Khi tâm giải thoát, biết rõ: tâm giải thoát.
Khi tâm ràng buộc, biết rõ: tâm ràng buộc.

Như vậy vị ấy quán tâm bằng nội tâm hay ngoại tâm hoặc cả hai. Vị ấy quán tánh sanh khởi trên tâm, quán tánh hoại diệt trên tâm hoặc cả hai tánh sanh diệt trên tâm. Vị ấy quán niệm sự hiện hữu của tâm với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy không ỷ lại, chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Nầy các Tỳ kheo, như vậy là người tu tập lấy tâm quán tâm.

Kathañca bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati?

Idha bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati pañcasu nīvaraṇesu. Kathañca bhikkhave
bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati
pañcasu nīvaraṇesu?

Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ
kāmacchandaṃ atthi me ajjhattaṃ kāmacchandoti
pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ kāmacchandaṃ
natthi me ajjhattaṃ kāmacchandoti pajānāti. Yathā ca anuppannassa kāmacchandassa uppādo hoti, tañca
pajānāti. Yathā ca uppannassa kāmacchandassa
pahānaṃ hoti, tañca pajānāti. Yathā ca pahīnassa
kāmacchandassa āyatiṃ anuppādo hoti, tañca
pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ atthi me ajjhattaṃ
byāpādoti pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ
natthi me ajjhattaṃ byāpādoti pajānāti. Yathā ca
anuppannassa byāpādassa uppādo hoti, tañca pajānātiYathā ca uppannassa byāpādassa pahānaṃ hoti, tañcapajānāti. Yathā ca pahīnassa byāpādassa āyatiṃ
anuppādo hoti, tañca pajānāti Santaṃ vā ajjhattaṃ
thīnamiddhaṃ atthi me ajjhattaṃ thīnamiddhanti
pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ thīnamiddhaṃ
natthi me ajjhattaṃ thīnamiddhanti, pajānāti. Yathā cānuppannassa thīnamiddhassa uppādo hoti, tañca
pajānāti. Yathā ca uppannassa thīnamiddhassa
pahānaṃ hoti, tañca pajānāti. Yathā ca pahīnassa
thīnamiddhassa āyatiṃ anuppādo hoti, tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ uddhaccakukkuccaṃ atthi me
ajjhattaṃ uddhaccakukkuccanti pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ uddhaccakukkuccaṃ natthi me ajjhattaṃ
uddhaccakukkuccanti pajānāti. Yathā ca
anuppannassa uddhaccakukkuccassa uppādo hoti
tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
uddhaccakukkuccassa pahānaṃ hoti tañca pajānāti.
Yathā ca pahīnassa uddhaccakukkuccassa āyatiṃ
anuppādo hoti, tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ vicikicchaṃ atthi me ajjhattaṃ
vicikicchāti pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ
vicikicchaṃ natthi me ajjhattaṃ vicikicchāti pajānāti.
Yathā ca anuppannāya vicikicchāya uppādo hoti, tañca
pajānāti. Yathā ca uppannāya vicikicchāya pahānaṃ
hoti, tañca pajānāti. Yathā ca pahīnāya vicikicchāya
āyatiṃ anuppādo hoti, tañca pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā dhammesu dhammānupassī
viharati. Samudayadhammānupassī vā dhammesu
viharati. Vayadhammānupassī vādhammesu viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā dhammesu viharati.
Atthi dhammāti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati
pañcasu nīvaraṇesu.

[Quán pháp-quán năm pháp ngăn ngại]

Nầy các Tỳ kheo, thế nào là quán pháp trên pháp?

Nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán pháp qua năm ngăn ngại. Nầy các Tỳ kheo, khi người tu tập tâm có ham muốn, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm có ham muốn; tâm không có ham muốn, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm không có ham muốn.
Với sự ham muốn vốn không có nay sanh khởi, vị ấy biết rõ.
Với sự ham muốn đã sanh khởi nay đoạn diệt, vị ấy biết rõ.
Với sự ham muốn đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ.

Khi tâm có sân hận, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm có sân hận; tâm không có sân hận, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm không có sân hận.
Với sự sân hận vốn không có nay sanh khởi, vị ấy biết rõ.
Với sự sân hận đã sanh khởi nay đoạn diệt, vị ấy biết rõ.
Với sự sân hận đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ.

Khi tâm có hôn trầm thụy miên, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm có hôn trầm thụy miên; tâm không có hôn trầm thụy miên, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm không có hôn trầm thụy miên.
Với sự hôn trầm thụy miên vốn không có nay sanh khởi, vị ấy biết rõ.
Với sự hôn trầm thụy miên đã sanh khởi nay đoạn diệt, vị ấy biết rõ.
Với sự hôn trầm thụy miên đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ.

Khi tâm có loạn động, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm có loạn động; tâm không có loạn động, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm không có loạn động.
Với sự loạn động vốn không có nay sanh khởi, vị ấy biết rõ.
Với sự loạn động đã sanh khởi nay đoạn diệt, vị ấy biết rõ.
Với sự loạn động đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ.

Khi tâm có nghi hoặc, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm có nghi hoặc; tâm không có nghi hoặc, vị ấy sáng suốt biết rõ: nội tâm không có nghi hoặc.
Với sự nghi hoặc vốn không có nay sanh khởi, vị ấy biết rõ.
Với sự nghi hoặc đã sanh khởi nay đoạn diệt, vị ấy biết rõ.
Với sự nghi hoặc đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ. Như vậy vị ấy tu tập quán pháp qua năm triền cái.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati pañcasu
upādānakkhandhesu. Kathañca bhikkhave bhikkhu
dhammesu dhammānupassī viharati pañcasu
upādānakkhandhesu?

Idha bhikkhave bhikkhu " iti rūpaṃ, iti rūpassa
samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo. Iti vedanā, iti
vedanāya samudayo, iti vedanāya atthaṅgamo. Iti
saññā, iti saññāya samudayo, iti saññāya atthaṅgamo. Iti saṅkhārā, iti saṅkhārānaṃ samudayo, iti
saṅkhārānaṃ atthaṅgamo. Iti viññāṇaṃ iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamoti.

Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānu passī viharati. Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.

Ajjhattabahiddhā vā dhammesu dhammānupassī
viharati. Samudayadhammānu passī vā dhammesu
viharati. Vayadhammānupassī vā dhammesu viharati.
Samudayavayadhammānupassī vā dhammesu viharati.Atthi dhammāti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati na ca kiñci loke upādiyati. Evaṃ kho
bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati pañcasu upādānakkhandhesu.

[Quán pháp-quán năm thủ uẩn]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán pháp qua năm thủ uẩn. Vị ấy quán sát: đây là sắc, đây là tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc; đây là thọ, đây là tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của thọ; đây là tưởng, đây là tập khởi của tưởng, đây là sự đoạn diệt của tưởng; đây là hành, đây là tập khởi của hành, đây là sự đoạn diệt của hành; đây là thức, đây là tập khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức. Như vậy vị ấy tu tập quán pháp qua năm thủ uẩn.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati chasu ajjhattikabāhiresu
āyatanesu. Kathañca bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati chasu ajjhattikabāhiresu
āyatanesu?

Idha bhikkhave bhikkhu cakkhuñca pajānāti. Rūpe ca pajānāti. Yañca tadubhayaṃ paṭicca uppajjati
saṃyojanaṃ tañca pajānāti. Yathā ca anuppannassa
saṃyojanassa uppādo hoti tañca pajānāti. Yathā ca
uppannassa saṃyojanassa pahānaṃ hoti tañca pajānāti. Yathā ca pahīnassa saṃyojanassa āyatiṃ anuppādo
hoti tañca pajānāti. Sotañca pajānāti. Sadde ca
pajānāti yañca tadubhayaṃ paṭicca uppajjati
saṃyojanaṃ tañca pajānāti. Yathā ca anuppannassa
saṃyojanassa uppādo hoti tañca pajānāti. Yathā ca
uppannassa saṃyojanassa pahānaṃ hoti tañca
pajānāti. Yathā ca pahīnassa saṃyojanassa āyatiṃ
anuppādo hoti tañca pajānāti. Ghāṇañca pajānāti.
Gandhe ca pajānāti yañca tadubhayaṃ paṭicca
uppajjati saṃyojanaṃ tañca pajānāti. Yathā ca
anuppannassa saṃyojanassa
uppādo hoti tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
saṃyojanassa pahānaṃ hoti tañca pajānāti. Yathā ca
pahīnassa saṃyojanassa āyatiṃ anuppādo hoti tañca
pajānāti. Jivhañca pajānāti. Rase ca pajānāti yañca
tadubhayaṃ paṭicca uppajjati saṃyojanaṃ tañca
pajānāti. Yathā ca anuppannassa saṃyojanassa
uppādo hoti tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
saṃyojanassa pahānaṃ hoti tañca pajānāti. Yathā ca
pahīnassa saṃyojanassa āyatiṃ anuppādo hoti
tañca pajānāti. Kāyañca pajānāti. Phoṭṭhabbeca
pajānāti yañca tadubhayaṃ paṭicca uppajjati
saṃyojanaṃ tañca pajānāti Yathā ca anuppannassa
saṃyojanassa uppādo hoti, tañca pajānāti. Yathā ca
uppannassa saṃyojanassa pahānaṃ hoti tañca
pajānāti. Yathā ca pahīnassa saṃyojanassa āyatiṃ
anuppādo hoti tañca pajānāti.
Ma-nañca pajānāti.
Dhamme ca pajānāti yañca tadubhayaṃ paṭicca
uppajjati saṃyojanaṃ tañca pajānāti. Yathā ca
anuppannassa saṃyojanassa uppādo hoti tañca
pajānāti. Yathā ca uppannassa saṃyojanassa pahānaṃhoti tañca pajānāti Yathā ca pahīnassa saṃyojanassa
āyatiṃ anuppādo hoti tañca pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā dhammesu dhammānupassī
viharati. Samudayadhammānupassī vā dhammesu
viharati. Vayadhammānupassī vā dhammesu viharati. Samudayavayadham mānupassī vā dhammesu viharatiAtthi dhammāti vā panassa sati paccupaṭṭhitā
hoti yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito
ca viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evaṃ kho
bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati chasu ajjhattikabāhiresu āyatanesu.


[Quán pháp-quán sáu xứ]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán pháp qua sáu nội và ngoại xứ. Vị ấy sáng suốt biết rõ: do duyên hai thành tố mắt và cảnh sắc, kiết sử sanh khởi.
Do duyên hai thành tố tai và âm thanh, kiết sử sanh khởi.
Do duyên hai thành tố mũi và mùi hương, kiết sử sanh khởi.
Do duyên hai thành tố lưỡi và các vị, kiết sử sanh khởi.
Do duyên hai thành tố thân và cảnh xúc, kiết sử sanh khởi.
Do duyên hai thành tố ý và cảnh pháp, kiết sử sanh khởi.

Với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy sáng suốt biết rõ.
Với kiết sử đã sanh nay đoạn diệt, vị ấy sáng suốt biết rõ.
Với kiết sử đã đoạn diệt tương lai không sanh khởi, vị ấy sáng suốt biết rõ.
Như vậy là người tu tập quán pháp qua sáu nội và ngoại xứ.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati sattasubojjhaṅgesu.
Kathañca bhikkhave bhikkhu dhammesu
dhammānupassī viharati sattasu bojjhaṅgesu?

Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ
satisambojjhaṅgaṃ atthi me ajjhattaṃ
satisambojjhaṅgoti pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ satisambojjhaṅgaṃ natthi me ajjhattaṃ
satisambojjhaṅgoti pajānāti. Yathā ca anuppannassa
satisambojjhaṅgassa uppādo hoti tañca pajānāti. Yathāca uppannassa satisambojjhaṅgassa bhāvanāpāripūrī hoti tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ dhammavicayasambojjhaṅgaṃ
atthi me ajjhattaṃ dhammavicayasambojjhaṅgoti
pajānāti. Asantaṃ vā ajjhattaṃ
dhammavicayasambojjhaṅgaṃ natthi me ajjhattaṃ
dhammavicayasambojjhaṅgoti pajānāti. Yathā ca
anuppannassa dhammavicayasambojjhaṅgassa uppādohoti tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
dhammavicayasambojjhaṅgassa bhāvanāpāripūrī hoti
tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ viriyasambojjhaṅgaṃ atthi me
ajjhattaṃ viriyasambojjhaṅgoti pajānāti. Asantaṃ vā
ajjhattaṃ viriyasambojjhaṅgaṃ natthi me ajjhattaṃ
viriyasambojjhaṅgoti pajānāti. Yathā ca anuppannassa viriyasambojjhaṅgassa uppādo hoti, tañca pajānāti.
Yathā ca uppannassa viriyasambojjhaṅgassa
bhāvanāpāripūri hoti tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ pītisambojjhaṅgaṃ atthi me
ajjhattaṃ pītisambojjhaṅgoti pajānāti. Asantaṃ vā
ajjhattaṃ pītisambojjhaṅgaṃ natthi me ajjhattaṃ
pītisambojjhaṅgoti pajānāti. Yathā ca anuppannassa
pītisambojjhaṅgassa uppādo hoti tañca pajānāti.
Yathā ca uppannassa pītisambojjhaṅgassa
bhāvanāpāripūrī hoti tañca pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ passaddhisambojjhaṅgaṃ atthi
me ajjhattaṃ passaddhisambojjhaṅgoti pajānāti.
Asantaṃ vā ajjhattaṃ passaddhisambojjhaṅgaṃ natthi me ajjhattaṃ passaddhisambojjhaṅgoti pajānāti. Yathāca anuppannassa passaddhisambojjhaṅgassa uppādo hoti tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
passaddhisambojjhaṅgassa bhāvanāpāripūrī hoti tañcapajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ samādhisambojjhaṅgaṃ atthi me ajjhattaṃ samādhisambojjhaṅgoti pajānāti. Asantaṃ
vā ajjhattaṃ samādhisambojjhaṅgaṃ natthi me
ajjhattaṃ samādhisambojjhaṅgoti pajānāti.
Yathā ca anuppannassa samādhisambojjhaṅgassa
uppādo hoti, tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
samādhisambojjhaṅgassa bhāvanāpāripūrī hoti tañca
pajānāti.

Santaṃ vā ajjhattaṃ upekkhāsambojjhaṅgaṃ atthi me ajjhattaṃ upekkhāsambojjhaṅgoti pajānāti. Asantaṃ
vā ajjhattaṃ upekkhāsambojjhaṅgaṃ natthi me
ajjhattaṃ upekkhāsambojjhaṅgoti pajānāti. Yathā ca
anuppannassa upekkhāsambojjhaṅgassa uppādo hoti
tañca pajānāti. Yathā ca uppannassa
upekkhāsambojjhaṅgassa bhāvanāpāripūri hoti tañca pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhā vā dhammesu dhammānupassī
viharati. Samudayadhammānupassī vā dhammesu
viharati. Vayadhammānupassī vā dhammesu
viharati. Samudayavayadhammānupassī
vā dhammesu viharati. Atthi dhammāti vā
panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva
ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi kho
bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati sattasu bojjhaṅgesu.

[Quán pháp-quán bảy giác chi]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán pháp qua bảy giác chi.
Này các Tỳ kheo, khi tâm có niệm giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có niệm giác chi; khi tâm có trạch pháp giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có trạch pháp giác chi; khi tâm có tinh tấn giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có tinh tấn giác chi; khi tâm có hỷ giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có hỷ giác chi; khi tâm có tịnh giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có tịnh giác chi; khi tâm có định giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có định giác chi; khi tâm có xả giác chi vị ấy biết rõ: nội tâm có xả giác chi.
Với các giác chi vốn không có nay sanh khởi, vị ấy sáng suốt biết rõ.
Với các giác chi đã sanh nay được viên thành, vị ấy sáng suốt biết rõ.
Như vậy là người tu tập quán pháp qua bảy giác chi.

Puna ca paraṃ bhikkhave bhikkhu
dhammesu dhammānupassī viharati
catūsu ariyasaccesu. Kathañca bhikkhave
bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati catūsu ariyasaccesu?

Idha bhikkhave bhikkhu idaṃ dukkhanti
yathābhūtaṃ pajānāti. Ayaṃ
dukkhasamudayoti yathābhūtaṃ pajānāti.
Ayaṃ dukkhanirodhoti yathābhūtaṃ
pajānāti. Ayaṃ dukkhanirodhagāminī
paṭipadā ti yathābhūtaṃ pajānāti.

Iti ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.
Ajjhattabahiddhāvā dhammesu dhammānupassī
viharati. Samudayadhammānupassī vā dhammesu
viharati vayadhammānupassī vādhammesu viharati.
Samudayavaya dhammānupassī vā dhammesu viharati
Atthi dhammāti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti
yāvadeva ñāṇamattāya patissatimattāya. Anissito ca
viharati. Na ca kiñci loke upādiyati. Evampi kho
bhikkhave bhikkhu dhammesu dhammānupassī
viharati catūsu ariyasaccesu.

[Quán pháp-quán bốn thánh đế]

Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, người tu tập quán pháp qua bốn thánh đế.
Nầy các Tỳ kheo, người tu tập sáng suốt biết rõ đây là khổ; sáng suốt biết rõ đây là nhân sanh khổ; sáng suốt biết rõ đây là sự chấm dứt khổ; sáng suốt biết rõ đây là con đường dẫn đến diệt khổ.

Như vậy vị ấy quán pháp bằng pháp. Vị ấy quán tánh sanh khởi trên pháp, quán tánh hoại diệt trên pháp hoặc cả hai tánh sanh diệt trên pháp. Vị ấy quán niệm sự hiện hữu của pháp với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Vị ấy không ỷ lại, chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Nầy các Tỳ kheo, như vậy là người tu tập lấy pháp quán pháp.

Yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ
bhāveyya satta vassāni, tassa dvinnaṃ phalānaṃ
aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme
aññā, sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu
bhikkhave satta vassāni, yo hi koci bhikkhave ime
cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya chabbassāni tassadvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ
diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā.
Tiṭṭhantu bhikkhave chabbassāni, yo hi ko ci
bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya
pañcavassāni tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ
ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme aññā, sati vā
upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave
pañcavassāni, yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro
satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya cattāri vassāni tassa
dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ:
diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā.
Tiṭṭhantu bhikkhave cattāri vassāni, yo hi koci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya tīṇi vassānitassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ
pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese
anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave tīṇi vassāni yo hi ko
ci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya
dve vassāni tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ
ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme aññā, sati vā
upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave dve vassāni yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro satipaṭṭhāne
evaṃ bhāveyya ekaṃ vassaṃ tassa dvinnaṃ phalānaṃaññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme
aññā, sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭh
A-tu bhikkhave ekaṃ vassaṃ, yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro
satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya satta māsāni, tassa
dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ
diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā.
Tiṭṭhantu bhikkhave satta māsāni, yo hi ko ci
bhikkhave ime cattāro sati satipaṭṭhāne evaṃ
bhāveyya cha māsāni tassa dvinnaṃ phalānaṃ
aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme
aññā sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave
cha māsāni, yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro sati satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya pañca māsāni tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva
dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu
bhikkhave pañca māsāni, yo hi ko ci bhikkhave ime
cattāro sati satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya cattāri
māsāni tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ
pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme aññā, sati vā
upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave cattāri
māsāni, yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro sati
satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya tīṇi māsāni tassa dvinnaṃ
phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃdiṭṭheva
dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭhantu bhikkhave tīṇi māsāni, yo hi ko ci bhikkhave ime
cattāro sati satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya dve māsāni
tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ
pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme aññā sati vā upādiseseanāgāmitā Tiṭṭhantu bhikkhave dve māsāni, yo hi ko
ci bhikkhave ime cattāro sati satipaṭṭhāne
evaṃ bhāveyya māsaṃ tassa dvinnaṃ phalānaṃ
aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ diṭṭheva dhamme
aññā sati vā upādisese anāgāmitā. Tiṭṭh
A-tu bhikkhave māsaṃ, yo hi ko ci bhikkhave ime cattāro sati
satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyyāa addhamāsaṃ tassa
dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ pāṭikaṅkhaṃ
diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā
tiṭṭh
A-tu bhikkhave addhamāso, yo hi ko ci bhikkhave
ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāveyya sattāhaṃ
tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ ph
A-laṃ
pāṭikaṅkhaṃ: diṭṭheva dhamme aññā, sati vā
upādisese anāgāmitā.

Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya
dukkhado
Ma-nassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa
adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya yadidaṃ
cattāro satipaṭṭhānāti, iti yantaṃ vuttaṃ idametaṃ
paṭicca vuttanti.

[Quả chứng]

Nầy các Tỳ kheo, người nào tu tập bốn niệm xứ trong bảy năm như vậy có thể chứng một trong hai quả ngay trong đời hiện tại: một là vô lậu chánh trí nếu không thì quả bất hoàn. Nầy các Tỳ kheo, không nhất thiết phải tu tập đến bảy năm, một người có thể chứng quả trong thời gian tu tập bốn niệm xứ trong sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, một năm hoặc bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng, nửa tháng thậm chí bảy ngày có thể chứng đắc một trong hai quả vô lậu chánh trí hoặc quả bất hoàn.

Nầy các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất dẫn đến thanh tịnh, vượt khỏi sầu não, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn. Ðó là quán niệm bốn lãnh vực.

Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato
bhāsitaṃ ab
hi-nandunti.

Ðức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ lời Ngài.

28. Kinh Lễ Bái Sáu Phương - Siṅgalovadasutta

Evaṃ me sutaṃ:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane
k
A-landakanivāpe. Tena kho pana samayena sigālako
gahapatiputto kālasseva vuṭṭhāya rājagahā
nikkhamitvā allavattho allakeso pañjaliko puthuddisā
namassati, puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ
pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ
uparimaṃ disaṃ.

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā
pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.
Addasā kho bhagavā sigālakaṃ gahapatiputtaṃ
kālasseva vuṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavatthaṃ
allakesaṃ pañjalikaṃ puthuddisā namassantaṃ,
puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ
disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ
disaṃ. Disvāna sigālakaṃ gahapatiputtaṃ etadavoca: kinnu kho tvaṃ gahapatiputta kālasseva vuṭṭhāya
rājagahā nikkhamitvā allavattho allakeso pañjaliko
puthuddisā namassasi, puratthimaṃ disaṃ
dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ
heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disanti?.

Pitā maṃ bhante kālaṃ karonto evaṃ avaca: chaddisā tāta namasseyyāsīti. So kho ahaṃ bhante pituvacanaṃsakkaronto garukaronto mānento pūjento kālasseva
vuṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavattho allakeso
pañjaliko puthuddisā namassāmi puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ
heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disanti. Na kho
gahapatiputta ariyassa vinaye evaṃ chaddisā
namassitabbāti.

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Thế Tôn trú tại chùa Trúc Lâm gần thành Vương Xá. Vào buổi sáng Ngài đắp y mang bát đi khất thực. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn trông thấy thanh niên Sin Ga La lễ bái sáu phương đông nam tây bắc trên dưới, Ngài hỏi tại sao làm thế. Sin Ga La trả lời: Khi thân phụ lâm chung nhắn nhủ phải thường lễ bái sáu phương. Ðức Thế Tôn dạy rằng: Cách thức lễ bái sáu phương trong đạo lý thánh hiền không giống như vậy.

"Yathākathaṃ pana bhante ariyassa vinaye chaddisā
namassitabbā? Sādhu me bhante bhagavā tathā
dhammaṃ desetu yathā ariyassa vinaye chaddisā
namassitabbāti. Tenahi gahapatiputta suṇāhi,
sādhukaṃ
Ma-nasi karohi, bhāsissāmīti Evaṃ bhanteti
kho sigālo gahapatiputto bhagavato paccassosi.
Bhagavā etadavoca:
Kathañca gahapatiputta ariyasāvako
chaddisā paṭicchādī hoti? Chayimā gahapatiputta disā
veditabbā: puratthimā disā mātāpitaro veditabbā.
Dakkhiṇā disā ācariyā veditabbā. Pacchimā disā
puttadārā veditabbā. Uttarā disā mittāmaccā veditabbāHeṭṭhimā disā dāsakammakarā veditabbā.
Uparimā disā samaṇabrāhmaṇā veditabbā.


Thanh niên Sin Ga La thỉnh cầu đức Phật giảng dạy đạo lý ấy. Ðức Phật dạy rằng:
Nầy gia chủ, phương đông được hiểu là cha mẹ
Phương nam được hiểu là thầy tổ
Phương tây được hiểu là người hôn phối
Phương bắc được hiểu là bạn bè
Phương dưới được hiểu là người giúp việc
Phương trên được hiểu là sa môn

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
puttena puratthimā disā mātāpitaro
paccupaṭṭhātabbā: bhato nesaṃ
bharissāmi, kiccaṃ nesaṃ karissāmi,
kulavaṃsaṃ ṭhapessāmi, dāyajjaṃ
paṭipajjāmi, atha vā pana petānaṃ
kālakatānaṃ dakkhiṇaṃ anuppadassāmīti.
Imehi kho gahapatiputta pañ
Ca-hi ṭhānehi
puttena puratthimā disā mātāpitaro
paccupaṭṭhitā pañ
Ca-hi ṭhānehi puttaṃ
anukampanti: pāpā nivārenti, kaḷyāṇe
nivesenti, sippaṃ sikkhāpenti, patirūpena
dārena saṃyojenti, samaye dāyajjaṃ
niyyādenti. Imehi kho gahapatiputta
pañ
Ca-hi ṭhānehi puttena puratthimā disā
mātāpitaro paccupaṭṭhitā imehi pañ
Ca-hi
ṭhānehi puttaṃ anukampanti. Evamassa
esā puratthimā disā paṭicchannā hoti
khemā appaṭibhayā.

Nầy gia chủ, đối với phương đông tức cha mẹ, người con nên làm năm việc:
Một là phụng dưỡng cha mẹ
Hai là làm công việc thay cha mẹ
Ba là gìn giữ gia phong
Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế
Năm là tạo phước hồi hướng

Ðáp lại, đối với con, cha mẹ nên làm năm việc:
Một là ngăn con không làm điều ác
Hai là dạy con làm việc lành
Ba là hướng dẫn nghề nghiệp
Bốn là tác thành gia thất
Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp

Ðó là cách lễ bái phương đông tức đạo nghĩa cha mẹ con cái. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
antevāsinā dakkhiṇā disā ācariyā
paccupaṭṭhātabbā: uṭṭhānena,
upaṭṭhānena, sussūsāya, pāricariyāya,
sakkaccaṃ sippapaṭiggahaṇena. Imehi
kho gahapatiputta pañ
Ca-hi ṭhānehi
antevāsinā dakkhiṇā disā ācariyā
paccupaṭṭhitā, pañ
Ca-hi ṭhānehi antevāsiṃ
anukampanti:
suvinītaṃ vinenti, suggahitaṃ gāhāpenti
sabbasippasutaṃ samakkhāyino bhavanti
mittāmaccesu paṭivedenti, disāsu parittānaṃ
karonti. Imehi kho gahapatiputta
pañ
Ca-hi ṭhānehi antevāsinā dakkhiṇā disā
ācariyā paccupaṭṭhitā, imehi pañ
Ca-hi
ṭhānehi antevāsiṃ anukampanti.
Evamassa esā dakkhiṇā disā
paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Nầy gia chủ, đối với phương nam tức thầy tổ, người học trò nên làm năm việc:
Một là giữ lòng kính trọng
Hai là quan tâm săn sóc
Ba là chăm chỉ học hành
Bốn là đáp ứng khi cần
Năm là hấp thụ những gì được truyền dạy

Ðáp lại, đối với trò, thầy nên làm năm việc:
Một là dạy trò những chuyên môn của mình
Hai là dùng phương pháp dễ hiểu
Ba là không giấu nghề
Bốn là giới thiệu tiến thân
Năm là bố trí an toàn cho trò
Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa thầy trò. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
sāmikena pacchimā disā bhariyā
paccupaṭṭhātabbā: sammānanāya,
avimānanāya, anaticariyāya,
issariyavossaggena,
A-laṅkārānuppadānena.
Imehi kho gahapatiputta pañ
Ca-hi ṭhānehi
sāmikena pacchimā disā bhariyā
paccupaṭṭhitā, pañ
Ca-hi ṭhānehi sāmikaṃ
anukampati: susaṃvihitakammantā ca hoti
susaṃgahitaparijanā ca, anaticārinī ca,
sambhataṃ anurakkhati, dakkhā ca hoti
an
A-lasā sabbakiccesu. Imehi kho
gahapatiputta pañ
Ca-hi ṭhānehi sāmikena
pacchimā disā bhariyā paccupaṭṭhitā
imehi pañ
Ca-hi ṭhānehi sāmikaṃ
anukampati. Evamassa esā pacchimā disā
paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Nầy gia chủ, đối với phương tây tức người hôn phối thì người chồng nên làm năm việc:
Một là đối xử hoà ái
Hai là không bạc đãi khinh khi
Ba là một dạ thủy chung
Bốn là giao quyền nội chính
Năm là tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ

Ðáp lại, đối với chồng, người vợ nên làm năm việc:
Một là quán xuyến công việc gia đình
Hai là cư xử với hai họ một cách đồng đều
Ba là một lòng tiết hạnh
Bốn là gìn giữ tài sản
Năm là cần mẫn trong bổn phận.
Ðó là cách lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
kulaputtena uttarā disā mittāmaccā
paccupaṭṭhātabbā: dānena, peyyavajjena
atthacariyāya, samānattatāya,
avisaṃ vādanatāya. Imehi kho gahapatiputtapañ
Ca-hi
ṭhānehi kulaputtena uttarā disā
mittāmaccā paccupaṭṭhitā pañ
Ca-hi
ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti:
pamattaṃ rakkhanti, pamattassa
sāpateyyaṃ rakkhanti, bhītassa saraṇaṃ
honti, āpadāsu na vijahanti, aparapajā
cassa paṭipūjenti. Imehi kho gahapatiputta
pañ
Ca-hi ṭhānehi kulaputtena uttarā disā
mittāmaccā paccupaṭṭhitā imehi pañ
Ca-hi
ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti.
Evamassa esā uttarā disā paṭicchannā
hoti khemā appaṭibhayā.

Nầy gia chủ, đối với phương bắc tức bạn bè nên làm năm việc:
Một là rộng rãi
Hai là nhã nhặn
Ba là quan tâm lợi ích của bạn
Bốn là đồng cam cộng khổ
Năm là thành thật

Ðáp lại, đối với một bạn tốt, nên làm năm việc:
Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ
Hai là giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã
Ba là làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ
Bốn là không bỏ bạn lúc nguy biến
Năm là cư xử tốt với người thân của bạn
Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa bạn bè. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
ayirakena heṭṭhimā disā dāsakammakarā
paccupaṭṭhātabbā: yathā
Ba-laṃ
kammantasaṃvidhānena,
bhattavettanānuppadānena,
gilānupaṭṭhānena, acchariyānaṃ
rasānaṃ saṃvibhāgena, samaye
vossaggena. Imehi kho gahapatiputta
pañ
Ca-hi ṭhānehi ayirakena heṭṭhimā disā
dāsakammakarā paccupaṭṭhitā pañ
Ca-hi
ṭhānehi ayirakaṃ anukampanti.
Pubbuṭṭhāyino ca honti, pacchānipātino
ca dinnādāyino ca, sukatakammakarā ca
kittivaṇṇaharā ca. Imehi kho gahapatiputta pañ
Ca-hi
ṭhānehi ayirakena heṭṭhimā disā
dāsakammakarā paccupaṭṭhitā imehi
pañ
Ca-hi ṭhānehi ayirakaṃ anukampanti.
Evamassa esā heṭṭhimā disā paṭicchannā
hoti khemā appaṭibhayā.

Nầy gia chủ, đối với phương dưới tức người giúp việc thì người chủ nên làm năm việc:
Một là không giao việc quá sức
Hai là trả thù lao tương xứng
Ba là chăm sóc khi đau yếu
Bốn là chia sớt món ngon vật lạ
Năm là không bắt làm việc quá giờ

Ðáp lại, đối với chủ, người giúp việc nên làm năm việc:
Một là thức trước chủ
Hai là ngủ sau chủ
Ba là không lấy những thứ không cho
Bốn là siêng năng làm việc
Năm là giữ tiếng tốt cho chủ
Ðó là cách lễ bái phương dưới tức đạo nghĩa chủ tớ. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

PañCa-hi kho gahapatiputta ṭhānehi
kulaputtena uparimā disā
samaṇabrāhmaṇā paccupaṭṭhātabbā:
mettena kāyakammena, mettena
vacīkammena, mettena manokammena
anāvaṭadvāratāya, āmisānuppadānena.
Imehi kho gahapatiputta pañ
Ca-hi ṭhānehi
kulaputtena uparimā disā samaṇabrāhmaṇā
paccupaṭṭhitā chahi ṭhānehi
kulaputtaṃ anukampanti. Pāpā nivārenti
kalyāṇe nivesenti, kalyāṇena
Ma-nasā
anukampanti, assutaṃ sāventi, sutaṃ
pariyodapenti, saggassa maggaṃ ācikkhanti.Imehi kho gahapatiputta chahi ṭhānehi
kulaputtena uparimā disā
samaṇabrāhmaṇā paccupaṭṭhitā imehi
chabhi ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti
Evamassa esā uparimā disā paṭicchannā
hoti khemā appaṭibhayāti.

Nầy gia chủ, đối với phương trên tức sa môn thì người cư sĩ nên làm năm việc:
Một là cử chỉ thân thiện
Hai là lời nói thân thiện
Ba là tư tưởng thân thiện
Bốn là luôn mở rộng cửa đón tiếp
Năm là cúng dường tứ sự

Ðáp lại, đối với cư sĩ, sa môn nên làm năm việc:
Một là hướng dẫn cư sĩ xa điều ác
Hai là hướng dẫn cư sĩ làm việc lành
Ba là luôn cư xử với tâm từ ái
Bốn là giảng giải đạo lý tường tận
Năm là chỉ đường an vui đời sau
Ðó là cách lễ bái phương nam tức đạo nghĩa tăng tục. Làm như vậy được an lạc không gì lo lắng.

Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato
athāparaṃ etadavoca satthā:
Evaṃ vutte sigālako gahapatiputto
bhagavantaṃ etadavoca: abhikkantaṃ
bhante, abhikkantaṃ bhante. Seyyathāpi
bhante nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya,
paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā
maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā
telapajjotaṃ dhāreyya cakkhumanto
rūpāni dakkhintīti, evamevaṃ bhagavatā
anekapariyāyena dhammo pakāsito
Esāhaṃ bhante bhagavantaṃ saraṇaṃ
gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṅghañca
Upāsakaṃ maṃ bhagavā dhāretu
ajjataggepāṇupetaṃ saraṇaṃ gatanti.

Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, thanh niên Sin Ga La bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn, Chánh Pháp được giảng dạy như người lật lên những gì bị úp xuống, phơi bày những gì bị che phủ, chỉ đường cho người lạc lối, đem ánh sáng vào chỗ tối. Con xin qui y Phật, con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng. Xin Ngài nhận biết cho con là đệ tử từ nay cho đến trọn đời.

29. Lễ Hồng Danh - Àṭānāṭiyaparittaṃ

Namo me sabbabuddhānaṃ
Uppannānaṃ mahesinaṃ
Taṇhaṅkaro mahāvīro
Medhaṅkaro mahāyaso
Saraṇaṅkaro lokahito
Dìpaṅkaro jutindharo
Koṇdañño janapāmokkho
Maṅgalo purisāsabho
Sumano sumano dhīro
Revato rativaḍḍhano
Sobhito guṇasampanno
Anomadassī januttamo
Padumo lokapajjoto
Nārado varasārathī
Padumuttaro sattasāro
Sumedho appaṭipuggalo
Sujāto sabbalokaggo
Piyadassī narāsabho
Atthadassī kāruṇiko
Dhammadassī tamonudo
Siddhattho asamo loke
Tisso ca vadataṃ varo
Pusso ca varado buddho
Vipassī ca anūpamo
Sikhì sabbahito satthā
Vessabhū sukhadāyako
Kakusandho sattavāho
Konāgamano raṇañjaho
Kassapo sirisampanno
Gotamo sakyapuṅgavo


Nhất tâm đảnh lễ:
Nam mô đại trí Dìpaṅkaro Phật
Nam mô đại hùng Taṇhaṃkaro Phật
Nam mô đại uy Medhaṅkaro Phật
Nam mô cứu thế Saraṇaṅkaro Phật
Nam mô vô thượng sư Koṇdañño Phật
Nam mô thượng nhân Maṅgalo Phật
Nam mô thường hoan hỷ Sumano Phật
Nam mô thường an lạc Revato Phật
Nam mô viên đức Sobhito Phật
Nam mô siêu nhân Anomadassī Phật
Nam mô phổ quang Padumo Phật
Nam mô điều ngự Nārado Phật
Nam mô đại đạo sư Padumuttaro Phật
Nam mô vô tỷ Sumedho Phật
Nam mô vô thượng tôn Sujāto Phật
Nam mô vô thượng sĩ Piyadassī Phật
Nam mô đại bi Atthadassī Phật
Nam mô vô lượng quang Dhammadassī Phật
Nam mô lưỡng túc tôn Siddhattho Phật
Nam mô vô thượng trí Tisso Phật
Nam mô vô thượng giác Pusso Phật
Nam mô đại lực Vipassì Phật
Nam mô thiên nhân sư Sikhì Phật
Nam mô đại từ Vessabhū Phật
Nam mô cứu khổ Kakusandho Phật
Nam mô vô nhiễm Konāgamano Phật
Nam mô đại hạnh Kassapo Phật
Nam mô Thích tử đại giác Gotamo Phật

30. Qui sám

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung

31. Từ bi nguyện

Sabbadisāsu mettāpharanaṃ
Sabbe sattā averā hontu
sukhitā hontu niddukkhā hontu
abyāpajjhā hontu anīghā hontu
dīghāyukā hontu arogā hontu
sampattīhi sammijjhantu sukhī
attānaṃ pariharantu dukkhappattā
ca niddukkhā bhayappattā ca
nibbhayā sokappattā ca nissokā
hontu sabbepi pāṇino.

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu khổ não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn

32. Hồi hướng công đức

Yaṅkiñci kuSa-lakammaṃ
kattabbaṃ kiriyaṃ mama
kāyena vācā
Ma-nasā
tidase sugataṃ kataṃ
ye sattā saññino atthi
ye ca sattā asaññino
kataṃ puññaph
A-laṃ mayhaṃ
sabbe bhāgī bhavantu te
ye taṃ kataṃ suviditaṃ
dinnaṃ puññaph
A-laṃ mayā
ye ca tattha na jānanti
devā gantvā nivedayuṃ
sabbe lokamhi ye sattā
jīvantāhārahetukā
manuññaṃ bhojanaṃ sabbe
labhantu mama cetasāti.

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu

33. Hồi Hướng Chư Thiên

Ākāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
devā nāgā mahiddhikā
puññaṃ no anumodantu
ciraṃ rakkhantu sāsanaṃ
ākāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
devā nāgā mahiddhikā
puññaṃ no anumodantu
ciraṃ rakkhantu raṭṭhake
ākāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
devā nāgā mahiddhikā
puññaṃ no anumodantu
ciraṃ rakkhantu ñātayo
ākāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
devā nāgā mahiddhikā
puññaṃ no anumodantu
ciraṃ rakkhantu pāṇino
ākāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
devā nāgā mahiddhikā
puññaṃ no anumodantu
ciraṃ rakkhantu no sadā


Phước lành từ thiện hạnh
Nguyện hồi hướng chư thiên
Bậc thiện thần hộ pháp
Nhiều oai đức thần lực
Ngự khắp cả trần hoàn
Hư không giới thiên giới
Xin các ngài tùy hỷ
Công đức đã thể hiện
Rồi hộ trì Phật pháp
Mãi soi sáng nhân thiên
Quốc độ hưởng thái bình
Muôn người sống lạc nghiệp
Mẹ cha và thầy tổ
Quyến thuộc cùng chúng sanh
Ðược hạnh phúc dài lâu
Thiểu bệnh dứt khổ sầu
Ngày ngày vui tu tập
Tinh tiến trong đạo mầu
Nhất tâm cầu giác ngộ

34. Phổ nguyện

[Ðại chúng cùng tụng]

Idaṃ vata me dānaṃ
Āsavakkhayāvahaṃ hotu
Buddho'āhaṃ bodhayissāmi
Mutto'āhaṃ mocaye pare
Tiṇṇo'āhaṃ tārayissāmi
Saṃsār'ogha
Ma-habbhayā

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác

-ooOoo-

Chương III-Nghi Thức Các Ðại Lễ

Chương nầy gồm nghi thức dùng cho bốn đại lễ hằng năm là: Ngày Phật Bảo, Ngày Pháp Bảo, Ngày Tăng Bảo, và Ngày Phụ Mẫu.

Ngày Phật Bảo (Vesakhapūjā) nhằm rằm tháng Tư âm lịch. Kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là: đản sinh, thành đạo và viên tịch vì vậy còn được gọi là Ðại Lễ Tam Hợp.

Ngày Pháp Bảo (Maghapūjā) nhằm Rằm tháng Giêng âm lịch. Kỷ niệm ngày Ðức Phật thuyết kinh Giải Thoát Giáo (Ovadāpatimokkha) về tôn chỉ của Giáo Pháp và tinh thần hoằng pháp. Cũng ngày Rằm tháng Giêng, Ðức Phật xác định nền tảng của Giáo Pháp đã thiết lập vững vàng và Ngài sẽ viên tịch.

Ngày Tăng Bảo (Kathi-na) còn gọi là đại lễ Tăng Y. Là ngày lễ do chính đức Phật chế định duy trì luật nghi của Tăng Già và tinh thần hộ đạo của người cư sĩ.

Ngày Cha Mẹ. Cũng gọi là đại lễ Vu Lan Báo Hiếu tổ chức vào Rằm tháng Bảy âm lịch. Ðại lễ mang ý nghĩa ghi nhớ thâm ân sinh dưỡng và cầu phước cho cha mẹ hiện tiền cũng như quá vãng. Ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa ngày lễ cũng là ngày cầu siêu độ cho người quá vãng nên cũng được gọi là ngày Xá Tội Vong Nhân.

III.1 Nghi Thức Ðại Lễ Thánh Hội

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Hôm nay đại lễ Thánh Hội ngày Ðức Từ Phụ thuyết kinh Giải Thoát Giáo cũng là ngày Thế Tôn xác định đạo tròn duyên mãn thị tịch niết bàn. Ðệ tử chúng con nhất tâm thiết lễ cúng dường. Nguyện cầu Chánh Pháp trường tồn, tứ chúng hưng thịnh, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc. Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kệ Tụng Thánh Hội

Nay tháng Giêng trăng tròn âm lịch
Tiết nguyên tiêu sự tích còn ghi
Hào quang rạng ánh từ bi
Tăng già thắng hội nan nghì nhân duyên
Cả hội chúng thánh hiền cụ túc
Nghìn hai trăm năm chục Tỳ khưu
Thiện Lai nhập đạo tối ưu
Viên thông tứ quả gương lưu cõi đời
Tự vân tập không lời mời thỉnh
Chốn đạo tràng thanh tịnh Trúc Viên
Hướng về hội chúng trang nghiêm
Phật ban giáo chỉ thiêng liêng bảo tồn
Hỡi Tăng chúng Thế Tôn quá khứ
Hội Thánh Tăng đầy đủ ba lần
Tháng Giêng bố tát ngày rằm
Biệt Giải Thoát Giáo pháp âm lưu truyền
Nay ta chỉ một phiên thánh hội
Bởi nhân duyên tùy mỗi thời kỳ
Vì rằng tuổi thọ hiện thời
Ngắn hơn những kiếp loài người thịnh hưng
Hỡi Tăng chúng lắng lòng nghe rõ
Thầy Tỳ khưu sùng mộ Như Lai
Là người chơn chánh triển khai
Tam học diệu pháp Như Lai giáo truyền
Các điều ác cần chuyên dứt bỏ
Những hạnh lành gắng cố trau giồi
Giữ tâm thanh tịnh trọn đời
Ấy lời chư Phật ba thời dạy khuyên
Pháp nhẫn nại thắng duyên tối thượng
Quả niết bàn lạc tịnh tối ưu
Xuất gia không hận không thù
Giữ lòng từ ái cho dù hiểm nguy
Không phỉ báng không gây thương tổn
Giữ mình theo giới bổn thọ trì
Uống ăn tiết độ quán tri
Ðộc cư thiền định chuyên trì công phu
Nhẫn nại pháp tối ưu căn bản
Khiến hạnh lành giới định đặc thù
Diệu năng nhẫn nại đoạn trừ
Căn nguyên lầm lỗi cho dù tế thô
Mọi tranh chấp hơn thua phải quấy
Dùng nhẫn kham hoá giải chấp tranh
Nhẫn nại trang phục tuyệt trần
Của hàng trí giả đạo căn kiên cường
Pháp nhẫn nại là nguồn cội phúc
Là bạn hiền tài lộc uy danh
Tự tha lợi lạc phúc lành
Trời người quí kính thác sinh cõi trời
Cuối sanh tử chứng ngôi bất tử
Liễu niết bàn bất khứ bất lai
Ðúng là ngưỡng mộ Như Lai
Cúng dường chư Phật cách này tối ưu

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Kinh Vô Úy

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến

Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền

Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ

Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

III.2 Nghi Thức Đại Lễ Tam Hợp

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Hôm nay đại lễ Tam Hợp ngày Từ Phụ đản sinh, chứng thành chánh giác, viên tịch niết bàn. Ðệ tử chúng con nhất tâm thiết lễ cúng dường. Nguyện cầu Chánh Pháp trường tồn, tứ chúng hưng thịnh, thế giới hoà bình, chúng sinh an lạc. Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kệ Tụng Ðại Lễ Tam Hợp

Nay đại lễ Tháng Tư Tam Hợp
Ngày Ðản sinh Thành đạo Niết bàn
Nhớ ân sâu Thiện Thệ cha lành
Noi gương sáng thực hành bi trí
Lạy Phật Tổ toàn tri diệu giác
Lạy Pháp mầu chân thật quang minh
Lạy Tăng Già vô lượng hồng ân
Ban phúc lạc cam lồ tịnh thủy
Chúng con vốn duyên lành chưa đủ
Sanh sau thời Phật trụ thế gian
Nhưng còn đây ánh đạo huy hoàng
Theo Pháp Phật vượt qua bể khổ
Nhớ nguyện xưa viên thành thập độ
Ðâu Xuất Ðà giáng hạ trần gian
Ca Tỳ La nhạc trổi cung vàng
Trung Ấn Ðộ mây ngời năm sắc
Vì chúng sanh nương tâm gá vật
Bởi nguyện dày Bồ Tát giáng sanh
Ðức Ma Da ứng triệu mộng lành
Voi báu trắng sáu ngà khôi vĩ
Rặng núi ngọc sắc màu diễm lệ
Toả thiên hương ngào ngạt tầng không
Phiến kim cương bao phủ mây hồng
Cát tường mộng cát tường phúc mệnh
Lum Bi Ni tinh ba hiển hiện
Ba mươi hai biểu tướng trượng phu
Cùng tám mươi quí cách đặc thù
Bảy bước đi mang lời khải thị
Ôi hãn hữu đoá hoa vạn kỷ
Ðủ dung nghi cốt cách phi phàm
Trải bao đời quyết cứu trần gian
Bậc Ðại Giác từ ân xuất hiện
Thương chúng sanh mê tình hụp lặn
Mãi ngược xuôi ái lụy khổ cầu
Mãi nịch trầm thương hải bể dâu
Biết đâu thật biết đâu huyễn vọng
Hăm chín tuổi đời đầy hoa mộng
Bỏ ngai vàng đế nghiệp thê nhi
Sáu năm tu khổ hạnh nan nghì
Rừng thanh vắng chọn thay điện ngọc
Rồi trung đạo dốc lòng tận lực
Cội bồ đề viên đắc tam minh
Hàng phục ma đoạn tận tử sinh
Nhất thiết trí viên thành đại nguyện
Rừng Lộc Giả pháp luân vận chuyển
Ðộ năm thầy Thích tử đầu tiên
Bốn lăm năm hoằng hoá khắp miền
Cứu ức triệu hữu tình thoát khổ
Ðạo vô biên từ nay rạng tỏ
Tuổi tám mươi mãn thọ tròn duyên
Rừng sa la thị tịch niết bàn
Thương tứ chúng ban lời di giáo
Ðời giả tạm hữu vi mộng ảo
Tinh tấn tu liễu đạo chân thường
Ba cõi qui về thế giới ngát hương
Vô ưu nở sái mùa cúng Phật
Ngọc Xá lợi di lưu ân đức
Pháp Bảo đăng nhật nguyệt sáng soi
Gương lành xưa muôn thuở rạng ngời
Hồng ân lớn trời người nhuần gội
Lạy Thế Tôn Cha Lành ba cõi
Dủ từ bi phổ hoá chúng con
Dứt si mê lạc lối lầm đường
Thôi vị kỷ mở lòng từ ái
Chúng con nguyện vượt qua khổ hải
Tam học tu y giáo phụng hành
Thanh tịnh tâm bỏ ác làm lành
Sống phụng sự báo ân Tam Bảo.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Kinh Thắng Hạnh

Ðấng Ðại Bi cứu khổ
Vì lợi ích chúng sanh
Huân tu ba la mật
Chứng vô thượng chánh giác
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ðã chiến thắng Ma Vương
Trên bồ đoàn bất bại
Ðịa cầu liên hoa đỉnh
Nơi chư Phật đăng quang
Khiến dòng họ Thích Ca
Tăng trưởng niềm hoan hỷ
Nguyện chiến thắng vẻ vang
Nguyện khải hoàn như vậy

Khi nghiệp thân khẩu ý
Chân chánh và thanh tịnh
Chính là ngày cát tường
Là giờ phút hanh thông
Là thời khắc hưng vượng
Cúng dường bậc phạm hạnh
Là tế tự nhiệm mầu

Ai nói làm suy nghĩ
Sáng suốt và thuần thiện
Thì bổn nguyện viên thành
Ðược vô lượng an lạc

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

III. 3 Nghi Thức Đại Lễ Báo Hiếu

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Hôm nay đại lễ Báo Hiếu, chúng con tấc dạ chí thành nhớ nghĩa thâm ân, tự biết lỗi nghì chưa tròn hiếu đạo. Thành tâm thiết lễ báo ân, sám hối phụ mẫu. Ngưỡng mong Phật đức cao dày từ bi gia hộ song đường phước trí trang nghiêm, thân tâm tịnh lạc, đạo quả chứng thành.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu

Lạy cha mẹ nguồn ân cao cả
Dẫu muôn thân vạn thuở khôn đền
Từ ấu thơ lầm lỗi gây nên
Nay khôn lớn chưa tròn hiếu tử
Ân nghĩa nặng thịt xương huyết nhũ
Công sâu dày chín tháng cưu mang
Dưỡng bào nhi ăn uống kiêng khem
Lúc đi đứng nằm ngồi giữ ý
Nỗi thống khổ làm sao kể xiết
Tự chống chèo vượt cạn qua sông
Trào lệ vui tiếng khóc bên lòng
Yêu con trẻ nâng như trứng mỏng

Lạy cha mẹ nghĩa sâu vô tận
Suối cam lồ tắm mát đời con
Lắm âu lo bất trắc không sờn
Bao dơ uế nhọc nhằn cam chịu
Nuốt mặn đắng chua cay tủi hận
Ôi suốt đời vất vã lo toan
Mới cảm đau ương yếu se mình
Ðã hớt hải cầu Trời khấn Phật
Tình mẹ cha thấm dòng sữa mật
Nuôi đời con đến lúc nên người
Buổi khó khăn khô nhạt cầm hơi
Miếng ngon ngọt dành phần con trẻ
Năm canh đêm thức chừng con ngủ
Sáu khắc ngày tần tảo ngược xuôi
Ðủ áo cơm nở mặt với đời
Cho ăn học đua đòi sĩ diện

Lạy cha mẹ ơn thiêng hiển hiện
Suối bi từ vô lượng nhân gian
Nhiều khi con hư hỏng hoang đàng
Lắm lúc lại hỗn hào tai ngược
Quay mặt đi dao bào cắt ruột
Ðánh con đau lòng lại thêm đau
Ôi thâm ân giáo dưỡng sâu mầu
Ðèn sách sáng lòng con chưa đủ sáng
Nay nhờ Phật tâm minh trí rạng
Ðuốc thiên lương hiếu đạo soi đường
Mẹ cha là sen báu ngát hương
Là thanh nhạc chim trời Ðao lợi
Là bảy báu phúc lành cao vợi
Là trăng sao sáng đẹp tuyệt vời
Là suối tình muôn thuở về xuôi
Là biển rộng thái sơn cao ngất

Mong báo đáp ân tày trời đất
Nguyện cúc cung hết dạ sớm hôm
Khi ốm đau tận tụy thuốc thầy
Lúc hữu sự ân cần công của
Giữ hòa khí cháu con thuận thảo
Gìn gia phong hợp đạo nghĩa nhân
Giúp mẹ cha bố thí cúng dường
Tu tín giới tham thiền niệm Phật

Lạy cha mẹ bậc thầy trước nhất
Là tiên nhân từ ái trong nhà
Con nghiêm cung phủ phục thiết tha
Mọi lầm lỡ thành tâm sám hối
Từ tấm bé muôn lầm vạn lỗi
Ðến khi con khôn lớn nên người
Chuyện nghĩa ân thù tạc với đời
Việc hiếu đạo chừng như bổn phận
Có ai sống không niềm ân hận
Ai chưa thương biết quí tình thương
Ðời phù du muôn vạn nẻo đường
Con dong ruổi thung huyên luống tuổi
Nhờ Phật dạy biết điều lầm lỗi
Ðã tri ân xin nguyện báo ân
Dẫu cho con làm được muôn phần
Chưa đáp đủ ân cha nghĩa mẹ

Xin minh chứng tấc lòng con trẻ
Sống chánh chơn y pháp phụng hành
Con hôm nay hội đủ duyên phần
Hiếu và đạo tinh cần tu tập
Vầng nhật nguyệt tam thiên toả khắp
Vẹt vô minh hôn ám bao đời
Cầu cho sanh loại muôn nơi
Thọ trì hiếu hạnh rạng ngời nhân luân (lạy)

Kệ Sám Hối Phụ Mẫu

Cúi đầu kính lạy mẹ cha
Ngưỡng mong mở lượng hải hà bao dung
Tội con bất hiếu muôn phần
Ấu thơ cho đến thành nhân vẫn còn
Một đời tần tảo lo toan
Gian truân bao độ vì con chẳng sờn
Bút nào tả hết yêu thương
Lời nào nói đủ đoạn trường gian lao
Tóc xanh cho đến bạc màu
Vì con tất cả nghĩ đâu phần mình
Phật xưa rằng đấng sanh thành
Là trời Phạm đế đức lành bao la
Thiện thần ngự trị trong nhà
Cổ nhân thánh đức chói loà ngàn sau
Bậc thầy tiên khởi thanh cao
Dạy con từng bước đi vào lớn khôn
Dù hai vai cõng song đường
Trăm năm chưa đủ đáp ơn sâu dày
Con từ thơ dại đến nay
Xét ra lỗi đạo lầm sai lắm điều
Những mong mình được nuông chiều
Biết đâu cha mẹ bao nhiêu ưu phiền
Bao lời răn của từ nghiêm
Ít khi tạc dạ trọn niềm kính tin
Ấm no chỉ biết phần mình
Mẹ cha mòn mỏi chút tình đợi mong
Tình cha nghĩa mẹ biển đông
Tình con đáp lại giọt sương đầu cành
Nhớ công giáo dưỡng sanh thành
Sáu thời cung dưỡng ba canh phụng thờ
Khắc ghi tâm khảm từng giờ
Sống theo hiếu đạo nương nhờ Phật ân

Ngưỡng cầu minh chứng lòng con
Nghiêng mình kính lễ sắt son một niềm(lạy)

Cầu cha mẹ trọn phước duyên
Nghiêng mình kính lễ vô biên nguyện cầu (lạy)

Nguyện đem hiếu đạo làm đầu
Nghiêng mình kính lễ ân sâu đáp đền (lạy)

Kinh Hồi Hướng Vong Linh

Duyên khởi

Vua Pa Sê Na Ði
Nằm mộng thấy thân nhân
Bị khổ quả đói lạnh
Ðến bạch hỏi Thế Tôn
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn
Chỉ dạy cách tạo phước
Hồi hướng các vong linh
Thoát ly mọi khổ ách

Chánh kinh

Các hương linh quá vãng
Thường đến nhà thân nhân
Ðứng ngoài vách tựa cửa
Ngã đường hay cổng thành
Trông chờ hưởng phước thí
Nhưng vì kém phước duyên
Hương linh bị quên lãng

Thân nhân tạo phước lành
Do công đức bố thí
Nên phát nguyện bằng lời:
Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu
Sukhitā hontu ñātayo
Nguyện thân nhân quá vãng
Thượng hưởng công đức nầy
Ðược thọ sanh lạc cảnh

Những thân nhân quá vãng
Vân tập các đạo tràng
Nhận được phước hồi hướng
Thường thốt lời cảm kích
Mong ân nhân của mình
Ðược trường thọ phúc lạc
Người đã tạo công đức
Chắc chắn được quả lành

Trong cõi khổ ngạ quỷ
Không có các sinh kế
Trồng trọt hoặc chăn nuôi
Bán buôn hay trao đổi
Chúng sanh cảnh giới nầy
Hằng mong đợi phước báu
Do thân nhân hồi hướng

Như nước trên gò cao
Chảy xuống vùng đất thấp
Phước lành đã hồi hướng
Có diệu năng cứu khổ
Như trăm sông tuôn chảy
Cùng hướng về đại dương
Nguyện công đức đã tạo
Thấu đến chư hương linh

Khi người nhớ ân trước
Do tình nghĩa thân bằng
Do tương duyên quyến thuộc
Hãy cúng dường trai Tăng
Hồi hướng phước đã tạo

Sự khổ sầu thương cảm
Trước tử biệt sanh ly
Không có lợi ích gì
Cho thân nhân quá vãng

Cách trai Tăng hợp đạo
Gọi Ðắc khí na đa ná(Dakkhinādāna)
Cúng dường vô phân biệt
Ðến đại chúng Tăng Già
Bậc phạm hạnh giới đức
Bậc vô thượng phước điền
Ðược vô lượng công đức
Là thắng duyên tế độ
Hương linh trong cảnh khổ

Do thiện sự đã làm
Do hồi hướng đã nguyện
Do Tăng lực đã cầu
Xin tựu thành phúc quả (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phát nguyện

Nguyện phước lành đã tạo
Thành tựu vô lậu duyên
Nguyện cho con giác ngộ
Ðể giác ngộ nhân quần
Nguyện cho con giải thoát
Ðể giải thoát tha nhân
Nguyện con cùng chúng sanh
Vượt khổ hải trầm luân (lạy).

-ooOoo-

III.4 Nghi Thức Đại Lễ Tăng Y

Kệ Nhiễu Phật Ðại Lễ Tăng Y

Tăng y truyền thống ngàn xưa
Ca sa biểu tượng ngọn cờ thánh nhân
Sắc màu của bậc ly trần
Phước điền y bát hàm ân muôn loài
Tâm thành nhiễu Phật hôm nay
Giới nghi hợp đạo đúng thời tròn duyên
Ba đời chư Phật giáo truyền
Tăng Già nhiêu ích nhơn thiên phúc lành
Quả sanh trường thọ đẹp xinh
Kiện khang mẫn tiệp tinh thần thảnh thơi
Mai sau Thiện Thệ ra đời
Thiện lai tăng tướng một lời Phật ban
Chúng con nay đủ duyên phần
Ca sa lễ phẩm cúng dâng chí thành
Ba thời tác ý tịnh thanh
Tăng Già cụ túc viên thành thắng duyên
Phước lành hồi hướng chư thiên
Cầu xin hoan hỉ khắp miền gần xa
Hộ trì mưa thuận gió hòa
Thịnh hưng giáo pháp âu ca cõi đời
Nguyện nhờ Tăng đức cao vời
Mẹ cha trường thọ sáu thời bình yên
Phú cường quốc độ mọi miền
Âm siêu dương thới thiện duyên vun bồi
Nguyện trong những kiếp luân hồi
Biết phân thiện ác dưỡng nuôi căn lành
Lìa tử sanh chứng vô sanh
Giác tha tự giác hồng ân báo đền

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già. Hôm nay đại lễ Tăng Y, chúng con vâng lời Phật dạy tiếp nối truyền thống, hưng thịnh Tăng Già thành tâm tổ chức cúng dường. Nguyện tạo duyên lành, thân cận thiện hữu, sống theo Chánh Pháp, giác ngộ đạo mầu. Ngưỡng mong Phật đức cao dày, Tăng đức vô lượng từ bi gia hộ toàn thể tín chủ cùng gia quyến thọ mạng lâu dài, dung sắc thù thắng, thân tâm thường lạc, trí huệ sung mãn.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Ðáo Bỉ Ngạn

Ðường tu bố thí đứng đầu
Vị tha là tánh vô cầu là tâm
Không vì thương ghét sơ thân
Bàn tay ban bố nào phân biệt gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Thiện nhân giới hạnh nghiêm trì
Nói làm suy nghĩ luôn khi giữ gìn
Nuôi ý lực dưỡng tâm lành
Cắt dây kiết phược phá thành mê si
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Xuất gia vốn hạnh ly trần
Quyết ra nhà lửa bỏ thân luân hồi
Lợi danh quyến thuộc xa rời
Ðộc cư thanh tịnh sống đời xả ly
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Ðèn tâm trí tuệ sáng ngời
Bởi vô lượng kiếp vun bồi huệ căn
Phân minh thiện ác giả chân
Ðiều hay chuộng học bạn lành tương tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Chính do nghị lực tinh cần
Vượt qua bể ái chứng thân đại hùng
Kiên trì giữa cuộc lao lung
Càng nhiều chướng nghịch thêm công tu trì
Hy sinh ngoại vật, tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Ðức tu nhẫn nại vạn năng
Nuốt điều cay đắng nuôi phần tinh anh
Chông gai khéo tạo tâm thành
Xưa nay nguyện lớn hành trình gian nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Thiện hiền chân thật không ngoa
Quí gìn lẽ thật như là bảo châu
Chân tâm ấy đạo nhiệm mầu
Nói làm nhất quán cho dù hiểm nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Bởi do chí nguyện dẫn đường
Biết nơi cứu cánh mà nương lối về
Bờ kia là đạo bồ đề
Tự lòng đã quyết bến mê phải lìa
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Hạnh lành từ ái bao la
Chúng sanh bốn loại chan hoà tình thương
Lòng như cam lộ suối nguồn
Rải ban phúc lạc lệ tuôn quản gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

An nhiên hành xả giữa đời
Khen chê đặng thất khổ vui thường tình
Ðiều tâm giữ ý quân bình
Trong cơn bão loạn biết gìn chánh tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Từ trong bể khổ cuộc đời
Ðại hùng lập nguyện cứu người cứu thân
Ba la mật hạnh vẹn toàn
Dám quên mạng sống quyết tâm thực hành
Nhờ ân Thiện Thệ Cha Lành
Muôn loài vượt thoát tử sanh luân hồi (lạy)

Kinh Huân Tập Công Đức

Người chôn giấu tài sản
Nơi hang sâu mực nước
Dụng tâm lúc hữu sự
Bị phép nước luật vua
Hay gặp phải cường hào
Ðem chuộc thân giữ mạng
Hoặc trang trải nợ nần
Hoặc phòng cơn đói kém
Sự cất giấu như vậy
Là thường tình thế gian
Vị tất đã an toàn

Dù chôn sâu giấu kín
Có khi bị thất thoát
Vì tài chủ lãng quên
Hay long chủng dời đổi
Dạ xoa đoạt mang đi
Hay bị kẻ thừa tự
Sanh lòng tham đánh cắp
Hoặc hết phước làm chủ
Tài sản tự biến mất

Ai bố thí trì giới
Phòng hộ và tự chế
Gọi cất giữ tài sản
Bảo đảm và an toàn
Ai cúng dường đền tháp
Năng phụng dưỡng mẹ cha
Hậu đãi bậc huynh trưởng
Hay khách khứa láng giềng
Khéo cất giữ như vậy
Không ai chiếm đoạt được

Khi mạng sống chấm dứt
Bao của tiền bỏ lại
Chỉ mang theo phước đức
Phước là tài sản thật
Không thể bị chiếm đoạt
Bậc trí tạo phúc nghiệp
Thứ tài sản đáng quí
Khiến trời người các cõi
Ðược mãn nguyện hài lòng

Người màu da tươi sáng
Giọng nói đẹp lòng người
Dung mạo nhìn dễ mến
Có phong cách đoan trang
Người quyền quí cao sang
Bậc vương triều tôn chủ
Bậc chuyển luân thánh chúa
Bậc thiên vương cõi trời
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Những hạnh phúc trần gian
Cùng thiên lạc cõi trời
Quả niết bàn vô thượng
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Người có được bạn lành
Thuần thục trong thiền định
Ðạt chánh trí giải thoát
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Bốn tuệ giác phân tích
Của thánh đệ tử Phật
Hay độc giác toàn giác
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Bởi lợi lạc to lớn
Của phước hạnh đã làm
Nên thiện nhân hiền trí
Tán thán và khuyến khích
Sự cất giấu tài sản
Bằng tích lũy phước lành (lạy)

Kinh Chúc Nguyện

Nguyện phước lành sung mãn
Hồi hướng chư hương linh
Như muôn sông ra biển
Xin tất cả nguyện lành
Ðược kíp thời viên đắc
Xin ý thiện tâm thành
Thường trong sáng sung mãn
Như trăng tỏ ngày rằm
Như ma ni ngọc báu

Cầu uy đức Phật Bảo
Cầu uy đức Pháp Bảo
Cầu uy đức Tăng Bảo
Cầu chư thiên gia hộ
Tất cả điều phúc lành
Luôn tựu thành như nguyện (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phát nguyện

Nguyện phước lành đã tạo
Thành tựu vô lậu duyên
Nguyện cho con giác ngộ
Ðể giác ngộ nhân quần
Nguyện cho con giải thoát
Ðể giải thoát tha nhân
Nguyện con cùng chúng sanh
Vượt trầm luân khổ hải

-ooOoo-

Chương IV-Các Nghi Thức Thường Dùng

Nếu kinh văn mang tinh thần uyên nguyên trung thành với lời Phật dạy thì các nghi thức là những ước định tùy duyên, tùy thời. Những sắp xếp trong các khoá lễ mang tính cách hướng dẫn tiêu biểu. Dựa theo khuôn khổ có sẵn người sử dụng có thể thêm các kinh văn thích hợp tùy hoàn cảnh.

IV.1 Nghi Thức Qui Y

Chư Tăng giải thích ý nghĩa qui y.Giới tử lễ Tam Bảo ba lạy rồi đọc theo lời hướng dẫn

Xưng tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Ðệ tử thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, đấng Chánh Biến Tri. (ba lần /lạy)

Sám hối bất thiện nghiệp

Accayo maṃ bhante accagamā yathā bālaṃ
yathāmuḷhaṃ yathā aku
Sa-laṃ yo'haṃ
[yā'haṃ] bhante kāyena vā vācāya vā
Ma-nasāvā buddhassa vā dhammassa vā saṅghassa vā agāravaṃ akāsiṃ tassa me bhantesaṅgho accayaṃ
accayato paṭiggaṇhātu āyatiṃ saṃvarāya.

Ngưỡng bạch chư tôn đức Tăng Già,vì thiểu trí vô minh, không thông nhân quả, kiêu mạn chấp sai, sợ rằng con đã xúc phạm đến Phật, Pháp, Tăng. Nay trước Tam Bảo thành tâm sám hối. Ngưỡng mong chư tôn đức Tăng Già lượng thứ những tội lỗi ấy cho con để được tinh tiến tu tập từ nay về sau. (lạy)

Chư Tăng bày tỏ lời hoan hỷ: Sādhu, Lành thay

Giới tử đọc tiếp lời tác bạch xin qui y:

Esāhaṃ bhante taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ
gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca
upāsakaṃ / upāsikaṃ maṃ saṅgho
dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ
gataṃ.

Ngưỡng bạch chư tôn đức Tăng Già, con cầu xin qui y Phật, con cầu xin qui y Pháp, con cầu xin qui y Tăng. Kính mong quý Ngài chứng minh cho con thành cận sự nam / cận sự nữ qui y Tam Bảo kể từ ngày nay cho đến trọn đời. (lạy)

Chư Tăng bày tỏ lời hoan hỷ: Sādhu lành thay

Tiếp theo là nghi thức thọ tam qui ngũ giới

Tam qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử nguyện qui y Phật
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Pháp
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Tăng

Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Phật
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Pháp
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Tăng

Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Phật
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Pháp
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Tăng (lạy)

Ngũ giới

Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi

Ðệ tử nguyện giữ giới không sát sanh

Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không trộm cắp

Kāmesumicchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không tà dâm

Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không nói dối

Surāmerayamajjappāmādaṭṭhānā veramaṇī
sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không uống rượu và các chất say (lạy)

Upāsakaṃ / upāsikaṃ maṃ saṅgho dhāretu
ajjatagge paṇupetaṃ saraṇaṅgataṃ.

Ngưỡng bạch chư tôn đức Tăng Già, kính mong quý Ngài nhận biết cho con là cận sự nam / cận sự nữ đã qui y Tam Bảo kể từ ngày nay cho đến trọn đời. (lạy)

Tiếp theo là phần truyền thọ Tam qui ngũ giới, chư tăng chúc phúc, rồi tất cả người hiện diện tụng bài Chúc Người Mới Qui Y

Chúc Người Mới Qui Y

Lành thay qui ngưỡng Phật Ðà
Lành thay nương Pháp sâu xa diệu huyền
Lành thay y chỉ thánh hiền
Tăng già vô thượng phước điền mười phương
Từ nay chánh pháp soi đường
Bạn hiền bốn chúng đồng nương Cha Lành
Nguyện cầu Tam Bảo chứng minh
Cho người thiện tín tâm thành tiến tu
Trăm năm lạc chốn mê đồ
Không bằng một phút thấy bờ vô sanh
Chúc người thiện hạnh chuyên cần
Chúc người giới luật sạch trong giữa đời
Chúc người thiền tịnh chẳng dời
Chúc người Phật pháp lời lời ghi tâm
Chư thiên độ kẻ chí thành
Một đời giữ đạo vẹn toàn thắng duyên

Sàdhu sàdhu lành thay, lành thay

-ooOoo-

IV.2 Nghi Thức Thọ Tam Qui Ngũ Giới

Xưng tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Ðệ tử thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, đấng Chánh Biến Tri. (ba lần /lạy)

Lời tác bạch xin thọ qui giới

[Giới tử đọc]

Ukāsa ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
pañcasīlāni yācāmi.
Dutiyampi ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
pañcasīlāni yācāmi.
Tatiyampi ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
pañcasīlāni yācāmi.

Ngưỡng bạch chư tôn đức, con xin thọ trì tam qui và ngũ giới. Lần thứ hai con xin thọ trì tam qui và ngũ giới. Lần thứ ba con xin thọ trì tam qui và ngũ giới. Kính mong quý Ngài lân mẫn trao truyền qui giới cho con. (lạy)

Giới tử lập lại lời trao truyền của chư Tăng dưới đây

Tam qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử nguyện qui y Phật
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Pháp
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Tăng

Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Phật
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Pháp
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Tăng

Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Phật
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Pháp
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Tăng (lạy)

Ngũ giới

Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi

Ðệ tử nguyện giữ giới không sát sanh

Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không trộm cắp

Kāmesumicchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không tà dâm

Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không nói dối

Surāmerayamajjappāmādaṭṭhānā veramaṇī
sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không uống rượu và các chất say (lạy)

Chư Tăng khuyến tấn:

Imāni pañca sikkhāpadāni
sādhukaṃ katvā appamādena
niccakālaṃ sammā rakkhitabbaṃ

Chư Phật tử đã thọ tam qui và ngũ giới hãy chơn chánh nghiêm trì cho được thanh tịnh đến trọn đời chẳng nên dể duôi.

Giới tử:

Āma bhante
Con xin thành kính phụng hành.

Chư Tăng:

Sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā
sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhaye.

Người giữ giới hằng được phú túc, mạng chung thọ sanh lạc cảnh, là thắng duyên chứng đắc niết bàn. Do vậy hành giả nên dốc lòng trì giới đừng để bợn nhơ.

Giới tử:

Sādhu Lành thay! (lạy)

Giới tử tụng:

Qui sám

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Chư Tăng phúc chúc. Giới tử hồi hướng:

Hồi hướng công đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

-ooOoo-

IV.3 Nghi Thức Bát Quan Trai Giới

Chư Tăng giải thích ý nghĩa bát quan trai. Giới tử lễ Tam Bảo ba lạy rồi đọc:

Lời tác bạch xin thọ qui giới

Ukāsa ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi
Dutiyampi ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi
Tatiyampi ahaṃ bhante tisaraṇenasaha
aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi

Ngưỡng bạch chư tôn đức Tăng Già, con xin thọ trì tam qui và bát quan trai giới. Lần thứ hai con xin thọ trì tam qui và bát quan trai giới. Lần thứ ba con xin thọ trì tam qui và bát quan trai giới. Kính mong quý Ngài lân mẫn trao truyền qui giới cho con. (lạy)

Giới tử lập lại lời trao truyền của chư Tăng dưới đây

Xưng tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Ðệ tử thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, đấng Chánh Biến Tri. (ba lần /lạy)

Tam qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử nguyện qui y Phật
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Pháp
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Ðệ tử nguyện qui y Tăng

Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Phật
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Pháp
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Tăng

Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Phật
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Pháp
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Tăng (lạy)

Bát Quan Trai Giới

Pānātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi

Ðệ tử nguyện giữ giới không sát sanh

Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không trộm cắp

Abrahmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không dâm dục

Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không nói dối

Surāmerayamajjappāmādaṭṭhānā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không uống rượu và các chất say

Vikālabhojaṇā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không ăn phi thời

Naccagītavāditavisūkadassanamālā gandha-
vilepanadhāranamandanavibhūsanaṭṭhānā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không ca vũ nhạc kịch, trang điểm và trang sức.

Uccāsayanā mahāsayanā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi
Ðệ tử nguyện giữ giới không nằm ngồi chỗ cao sang (lạy)

Giới tử đọc:

Imaṃ aṭṭhaṅgasamannāgataṃ buddhappaññattaṃ
uposathaṃ imañca rattiṃ imañca divasaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sammā rakkhitabbaṃ

Con nguyện tinh tấn nghiêm trì bát quan trai giới mà đức Phật đã giáo truyền trọn ngày nay và đêm nay. Nguyện vun bồi căn lành giải thoát trong ngày vị lai. (lạy)

Chư Tăng khuyến tấn:

Imāni aṭṭha sikkhāpadāni uposathasīlavasena imañca rattiṃ imañca divasaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sammā rakkhitabbaṃ

Chư Phật tử đã thọ tam qui và bát quan trai giới hãy chơn chánh nghiêm trì trọn ngày nay và đêm nay chẳng nên dể duôi(lạy)

Giới tử:

Āma bhante
Con xin thành kính phụng hành.

Chư Tăng:

Sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhaye.

Người giữ giới hằng được phú túc, mạng chung thọ sanh lạc cảnh, là thắng duyên chứng đắc niết bàn. Do vậy hành giả nên dốc lòng trì giới tịnh thanh.

Giới tử: Sādhu lành thay! (lạy)

Giới tử tụng:

Qui sám

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Chư Tăng phúc chúc. Giới tử hồi hướng:

Hồi hướng công đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

-ooOoo-

IV.4 Nghi Thức An Vị Phật

Dâng Hương

[Chủ lễ xướng]

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành
Cầu cho pháp giới chúng sanh
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư
Liên hoa nở khắp biển từ
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Hôm nay Phật tử... pháp danh... cảm niệm Phật đức sâu dày một lòng tịnh tín cung thỉnh tôn tượng, thiết lễ an vị. Ngưỡng cầu hồng ân Từ Phụ Thế Tôn gia hộ tín chủ Phật tử đạo tâm kiên cố, phước trí tăng trưởng, gia đạo an hoà, sở cầu như nguyện.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Dâng Hoa

[Ðại chúng cùng tụng]

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Pūjemi dhammaṃ
...
Pūjemi saṅghaṃ
...

Dâng hoa cúng dường Phật
Bậc thương xót muôn loài
Dâng hoa cúng dường Pháp
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ
Dâng hoa cúng dường Tăng
Ruộng phước không gì bằng
Hoa tươi đẹp sẽ tàn
Thân giả hợp sẽ tan
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy)

Lễ Tam Thế Tam Bảo

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Thỉnh Chư Thiên

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng
Càn thát bà long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy)

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato
sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Tam Qui

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi
Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi

Ðệ tử qui y Phật đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự bi trí vẹn toàn

Ðệ tử qui y Pháp đạo chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc

Ðệ tử qui y Tăng bậc hoằng trì Chánh Pháp vô thượng phước điền

Lần thứ hai đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo

Lần thứ ba đệ tử qui y Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Lễ Phật Bảo

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Pháp Bảo

Bát thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Tăng Bảo

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở tương lai vô lượng thánh hiền
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Lễ Phật Tích

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà
Bồ đề khắp cõi ta bà
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy)

Kinh Thắng Hạnh

Ðấng Ðại Bi cứu khổ
Vì lợi ích chúng sanh
Huân tu ba la mật
Chứng vô thượng chánh giác
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Nhờ chiến thắng Ma Vương
Trên bồ đoàn bất bại
Ðịa cầu liên hoa đỉnh
Khiến dòng họ Thích Ca
Tăng trưởng niềm hoan hỷ
Nguyện chiến thắng vẻ vang
Nguyện khải hoàn như vậy

Khi nghiệp thân khẩu ý
Hiền thiện và thanh tịnh
Chính là ngày cát tường
Là giờ phút hanh thông
Là thời khắc hưng vượng
Cúng dường bậc phạm hạnh
Là tế tự nhiệm mầu

Khi nghiệp thân khẩu ý
Chân chánh và sung mãn
Thì bổn nguyện thịnh đạt
Ai ba nghiệp thanh tịnh
Ðược vô lượng an lạc

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành

Chư Tăng làm phép sái tịnh chú nguyện

Sái tịnh

Sabbe buddhā Ba-lappattā
paccekānañca yaṃ
Ba-laṃ
arahantānañca tejena
rakkhaṃ bandhāmi sabbaso

Kinh Ðáo Bỉ Ngạn

(Ðại chúng cùng tụng)

Ðường tu bố thí đứng đầu
Vị tha là tánh vô cầu là tâm
Không vì thương ghét sơ thân
Bàn tay ban bố nào phân biệt gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Thiện nhân giới hạnh nghiêm trì
Nói làm suy nghĩ luôn khi giữ gìn
Nuôi ý lực dưỡng tâm lành
Cắt dây kiết phược phá thành mê si
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Xuất gia vốn hạnh ly trần
Quyết ra nhà lửa bỏ thân luân hồi
Lợi danh quyến thuộc xa rời
Ðộc cư thanh tịnh sống đời xả ly
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Ðèn tâm trí tuệ sáng ngời
Bởi vô lượng kiếp vun bồi huệ căn
Phân minh thiện ác giả chân
Ðiều hay chuộng học bạn lành tương tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Chính do nghị lực tinh cần
Vượt qua bể ái chứng thân đại hùng
Kiên trì giữa cuộc lao lung
Càng nhiều chướng nghịch thêm công tu trì
Hy sinh ngoại vật, tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Ðức tu nhẫn nại vạn năng
Nuốt điều cay đắng nuôi phần tinh anh
Chông gai khéo tạo tâm thành
Xưa nay nguyện lớn hành trình gian nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Thiện hiền chân thật không ngoa
Quí gìn lẽ thật như là bảo châu
Chân tâm ấy đạo nhiệm mầu
Nói làm nhất quán cho dù hiểm nguy
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Bởi do chí nguyện dẫn đường
Biết nơi cứu cánh mà nương lối về
Bờ kia là đạo bồ đề
Tự lòng đã quyết bến mê phải lìa
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Hạnh lành từ ái bao la
Chúng sanh bốn loại chan hoà tình thương
Lòng như cam lộ suối nguồn
Rải ban phúc lạc lệ tuôn quản gì
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

An nhiên hành xả giữa đời
Khen chê đặng thất khổ vui thường tình
Ðiều tâm giữ ý quân bình
Trong cơn bão loạn biết gìn chánh tri
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ

Từ trong bể khổ cuộc đời
Ðại hùng lập nguyện cứu người cứu thân
Ba la mật hạnh vẹn toàn
Dám quên mạng sống quyết tâm thực hành
Nhờ ân Thiện Thệ Cha Lành
Muôn loài vượt thoát tử sanh luân hồi (lạy)

Từ Bi Nguyện

Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Chúng sanh vô bệnh sống lâu
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từ nay
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn
Dứt trừ kinh sợ tai ương
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

IV.5 Nghi Thức Thỉnh Pháp Sư

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh. (lạy)

Ân Ðức Phật Bảo

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời (lạy)

Ân Ðức Pháp Bảo

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu (lạy)

Ân Ðức Tăng Bảo

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian (lạy)

Kệ Thỉnh Pháp Sư

Thuở đức Phật viên thành chánh giác
Gẫm đạo mầu diệu pháp cao thâm
Phân vân chưa chuyển pháp luân
Phạm thiên hầu Phật ba lần cầu xin

Bạch Thế Tôn muôn nghìn ân đức
Pháp vô biên mãn túc khai hoa
Mong Ngài chuyển pháp đăng tòa
Chúng sanh ít bụi may mà đủ duyên

Như hoa sen đẹp xinh mùa hạ
Ðóa vươn cao đóa lả mặt hồ
Ðóa còn tận đáy bùn nhơ
Chúng sanh căn trí tỏ mờ khác nhau

Vì bi mẫn ngưỡng cầu tế độ
Ngự thuyền từ cứu khổ quần mê
Chút duyên chút phước bồ đề
Chút nhân chút quả quay về thiện tâm

Phạm thiên vẫn vi trần phủ phục
Lời thiết tha bi đức sáng ngời
Pháp Vương im lặng nhận lời
Về vườn Lộc giả vì đời chuyển luân

Thuyết trung đạo Kiều Trần đại ngộ
Liễu niết bàn vô khổ vô sanh
Thế gian Tam Bảo tựu thành
Tỳ kheo năm vị đạo hành viên dung

Rồi từ đó Phật dùng trống Pháp
Gióng đêm thâu tỉnh giấc mộng trường
Dãi dầu nắng gió tuyết sương
Hoằng khai giáo hóa mở đường độ sinh

Bởi cớ tích sự tình ngày trước
Ðại phạm thiên mãi được tán dương
Kính thành dâng cúng hoa hương
Thỉnh Ngài thuyết pháp noi đường từ bi

Hàng thiện tín mãi mê trần cảnh
Nghiệp bốn bề nặng gánh lo toan
ít khi tâm trí rảnh rang
Não phiền kết buộc sân tham còn nhiều

Nghe Chánh Pháp như người được ngọc
Nghe Pháp nhiều chư Phật ngợi khen
Phước sanh trí tuệ vô biên
Ðường đi sáng tỏ nhân duyên rõ ràng

Thỉnh pháp sư đăng đàn thuyết giáo
Quỳ nơi đây tâm đạo tín thành
Ngưỡng mong chánh pháp thịnh hành
Ngưỡng cầu thâm nhập đạo lành Như Lai. (lạy)

Sau thời pháp:

[Ðại chúng cùng tụng]

Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Pháp Bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

Hồi Hướng Công Đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sanh
Ðồng viên thành chánh giác (lạy)

-ooOoo-

IV.6 Nghi thức Trai Tăng

Tín chủ Phật tử tụng:

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh. (lạy)

Tác bạch

Imaṃ bhikkhaṃ saparivāraṃ bhikkhu
saṅghassa dema amhākaṃ dīgharattaṃ
atthāya hitāya sukhāya.

Ngưỡng bạch chư tôn đức Tăng Già
Chúng con thành kính cúng dường thức ăn và lễ phẩm nầy đến chư tôn đức. Ngưỡng mong quí Ngài từ bi thọ nhận cho chúng con được tinh tiến, lợi lạc và hạnh phúc lâu dài. (lạy)

Chư Tăng nói lời tán thán và phúc chúc. Tín chủ hồi hướng:

Hồi hướng công đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

-ooOoo-

IV.7 Nghi Thức Hôn Lễ

Hai họ vân tập vào chánh điện.
Lời trình bày duyên sự.
Nghi thức:

Xưng Tán

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Hôm nay là ngày hôn lễ, nhị vị Phật tử... và... đối trước Tam Bảo nguyện lấy Phật pháp làm trọng, xem đạo nghĩa làm đầu, đồng cam cộng khổ, thành thực thương yêu quý mến nhau. Ngưỡng mong Phật đức cao dày từ bi gia hộ tân lang và tân nương mạng căn khương thới, gia đạo an hoà, tín tâm tăng trưởng, vạn sự cát tường như ý.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Ân Ðức Phật Bảo

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời (lạy)

Ân Ðức Pháp Bảo

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu (lạy)

Ân Ðức Tăng Bảo

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian (lạy)

Kinh Thắng Hạnh

Ðấng Ðại Bi cứu khổ
Vì lợi ích chúng sanh
Huân tu ba la mật
Chứng vô thượng chánh giác
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc

Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ðã chiến thắng Ma Vương
Trên bồ đoàn bất bại
Ðịa cầu liên hoa đỉnh
Nơi chư Phật đăng quang
Khiến dòng họ Thích Ca
Tăng trưởng niềm hoan hỷ
Nguyện chiến thắng vẻ vang
Nguyện khải hoàn như vậy

Khi nghiệp thân khẩu ý
Chân chánh và thanh tịnh
Chính là ngày cát tường
Là giờ phút hanh thông
Là thời khắc hưng vượng
Cúng dường bậc phạm hạnh
Là tế tự nhiệm mầu

Ai nói làm suy nghĩ
Sáng suốt và thuần thiện
Thì bổn nguyện viên thành
Ðược vô lượng an lạc

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành (lạy)

Chư Tăng trao truyền quy giới, tân lang và tân nương lập lại

Tam qui

Ðệ tử nguyện qui y Phật
Ðệ tử nguyện qui y Pháp
Ðệ tử nguyện qui y Tăng

Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Phật
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Pháp
Lần thứ hai đệ tử nguyện qui y Tăng

Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Phật
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Pháp
Lần thứ ba đệ tử nguyện qui y Tăng

Ngũ giới

Ðệ tử nguyện giữ giới không sát sanh
Ðệ tử nguyện giữ giới không trộm cắp
Ðệ tử nguyện giữ giới không tà dâm
Ðệ tử nguyện giữ giới không nói dối
Ðệ tử nguyện giữ giới không uống rượu và các chất say

Chư Tăng tụng kinh chú nguyện nhẫn cưới rồi tân lang và tân nương trao nhẫn cho nhau.

Chư Tăng nhắc bổn phận vợ chồng theo lời Phật dạy:

Năm bổn phận người chồng đối với vợ:

1. Luôn đối xử hoà ái
2. Không bạc đãi khinh khi
3. Một dạ thủy chung
4. Giao quyền nội chính
5. Tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ

Năm bổn phận người vợ đối với chồng:

1. Quán xuyến công việc gia đình
2. Cư xử với hai họ một cách đồng đều
3. Một lòng tiết hạnh
4. Gìn giữ tài sản
5. Cần mẫn trong bổn phận.

Tân lang và tân nương cùng nói:

-Chúng con thành kính phụng hành

Ðạo từ
Chư Tăng tụng kinh phúc chúc

Hồi hướng công đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

Lời cảm tạ của đại diện hai họ.

-ooOoo-

IV.8 Nghi Thức Cầu Thọ

Lời trình bày duyên sự
Nghi thức:

Xưng Tán

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa


Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh. (lạy)

Kỳ Nguyện

Ðệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già.

Hôm nay chư vị Phật tử vì lòng hiếu kính, nhớ nghĩa sanh thành chí tâm thiết lễ báo ân cầu thọ... Ngưỡng mong Phật đức cao dày từ bi gia hộ... tăng phúc tăng thọ, thân tâm thường tịnh lạc.

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy)

Ân Ðức Phật Bảo

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng cha lành
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời (lạy)

Ân Ðức Pháp Bảo

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu (lạy)

Ân Ðức Tăng Bảo

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian (lạy)

Kinh Vô Úy

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến

Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền

Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ

Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)

Nếu cầu thọ cho cha mẹ thì tụng bài Niệm Ân và Sám Hối Phụ Mẫu:

Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu

Lạy cha mẹ nguồn ân cao cả
Dẫu muôn thân vạn thuở khôn đền
Từ ấu thơ lầm lỗi gây nên
Nay khôn lớn chưa tròn hiếu tử
Ân nghĩa nặng thịt xương huyết nhũ
Công sâu dày chín tháng cưu mang
Dưỡng bào nhi ăn uống kiêng khem
Lúc đi đứng nằm ngồi giữ ý
Nỗi thống khổ làm sao kể xiết
Tự chống chèo vượt cạn qua sông
Trào lệ vui tiếng khóc bên lòng
Yêu con trẻ nâng như trứng mỏng

Lạy cha mẹ nghĩa sâu vô tận
Suối cam lồ tắm mát đời con
Lắm âu lo bất trắc không sờn
Bao dơ uế nhọc nhằn cam chịu
Nuốt mặn đắng chua cay tủi hận
Ôi suốt đời hiền mẫu lo toan
Mới cảm đau ương yếu se mình
Mẹ hớt hải cầu Trời khấn Phật
Tình thương mẹ thấm dòng sữa mật
Nuôi đời con đến lúc nên người
Buổi khó khăn khô nhạt cầm hơi
Miếng ngon ngọt dành phần con trẻ
Năm canh đêm thức chừng con ngủ
Sáu khắc ngày tần tảo ngược xuôi
Ðủ áo cơm nở mặt với đời
Cho ăn học đua đòi sĩ diện

Lạy cha mẹ ơn thiêng hiển hiện
Suối bi từ vô lượng nhân gian
Nhiều khi con hư hỏng hoang đàng
Lắm lúc lại hỗn hào tai ngược
Mẹ quay mặt dao bào cắt ruột
Ðánh con đau lòng mẹ thêm đau
Ôi thâm ân giáo dưỡng sâu mầu
Ðèn sách sáng lòng con chưa đủ sáng
Nay nhờ Phật tâm minh trí rạng
Ðuốc thiên lương Phật đạo soi đường
Mẹ cha là sen báu ngát hương
Là thanh nhạc chim trời Ðao lợi
Là bảy báu phúc lành cao vợi
Là trăng sao sáng đẹp tuyệt vời
Là suối tình muôn thuở về xuôi
Là biển rộng thái sơn cao ngất

Lạy cha mẹ bậc thầy trước nhất
Là tiên nhân từ ái trong nhà
Con nghiêm cung phủ phục thiết tha
Mọi lầm lỡ thành tâm sám hối
Từ tấm bé muôn lầm vạn lỗi
Ðến khi con khôn lớn nên người
Chuyện nghĩa ân thù tạc với đời
Việc hiếu đạo chừng như bổn phận
Có ai sống không niềm ân hận
Ai chưa thương biết quí tình thương
Ðời phù du muôn vạn nẻo đường
Con dong ruổi thung huyên luống tuổi
Nhờ Phật dạy biết điều lầm lỗi
Ðã tri ân xin nguyện báo ân
Dẫu cho con làm được muôn phần
Chưa trả hết ân sâu huyết nhũ
Mong phụng dưỡng áo cơm đầy đủ
Nguyện cúc cung hết dạ sớm hôm
Khi ốm đau tận tụy thuốc thầy
Lúc hữu sự ân cần công của
Giữ hòa khí cháu con thuận thảo
Gìn gia phong hợp đạo nghĩa nhân
Giúp mẹ cha bố thí cúng dường
Tu tín giới tham thiền niệm Phật
Xin minh chứng tấm lòng chân thật
Sống thiện lương y pháp phụng hành
Con hôm nay hội đủ duyên phần
Hiếu và đạo tinh cần tu tập
Vầng nhật nguyệt tam thiên toả khắp
Vẹt vô minh hôn ám bao đời
Cầu cho sanh loại muôn nơi
Thọ trì hiếu hạnh rạng ngời nhân luân (lạy)

Sám Hối Phụ Mẫu

Cúi đầu kính lạy mẹ cha
Ngưỡng mong mở lượng hải hà bao dung
Tội con bất hiếu muôn phần
Ấu thơ cho đến thành nhân vẫn còn
Một đời tần tảo lo toan
Gian truân bao độ vì con chẳng sờn
Bút nào tả hết yêu thương
Lời nào nói đủ đoạn trường gian lao
Tóc xanh cho đến bạc màu
Vì con tất cả nghĩ đâu phần mình
Phật xưa rằng đấng sanh thành
Là trời Phạm đế đức lành bao la
Thiện thần ngự trị trong nhà
Cổ nhân thánh đức chói loà ngàn sau
Bậc thầy tiên khởi thanh cao
Dạy con từng bước đi vào lớn khôn
Dù hai vai cõng song đường
Trăm năm chưa đủ đáp ơn sâu dày
Con từ thơ dại đến nay
Xét ra lỗi đạo lầm sai lắm điều
Những mong mình được nuông chiều
Biết đâu cha mẹ bao nhiêu ưu phiền
Bao lời răn của từ nghiêm
Ít khi tạc dạ trọn niềm kính tin
Ấm no chỉ biết phần mình
Mẹ cha mòn mỏi chút tình đợi mong
Tình cha nghĩa mẹ biển đông
Tình con đáp lại giọt sương đầu cành
Nhớ công giáo dưỡng sanh thành
Sáu thời cung dưỡng ba canh phụng thờ
Khắc ghi tâm khảm từng giờ
Sống theo hiếu đạo nương nhờ Phật ân

Ngưỡng cầu minh chứng lòng con
Nghiêng mình kính lễ sắt son một niềm(lạy)

Cầu cha mẹ trọn phước duyên
Nghiêng mình kính lễ vô biên nguyện cầu (lạy)

Nguyện đem hiếu đạo làm đầu
Nghiêng mình kính lễ ân sâu đáp đền (lạy)

Hiếu tử đến gần cha mẹ, đầu cúi sát đất để được cha mẹ xoa đầu xá tội; sau đó cúng dường lễ phẩm lên cha mẹ.

Ðạo từ.
Chư Tăng tụng kinh phúc chúc.

Hồi hướng công đức

Con xin hồi hướng phước lành
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần
Mẹ cha thầy tổ thân nhân
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa
Cầu cho mưa thuận gió hoà
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương
Chúng sanh ba cõi sáu đường
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn
Nghiệp lành từ khẩu ý thân
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

-ooOoo-

IV.9 Nghi Thức Sám nguyện

Sám hối bất thiện nghiệp đã làm trong quá khứ. Tụng trong các thời kinh đầu tiên của tang lễ hay nhập liệm.

Kính Lễ

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy)

Sái tịnh

Ân sâu cõi thế khôn đền đáp
Nghĩa nặng trần gian nan tư nghì
Thắp nén tâm hương thành kính lễ
Cầu ân Ðiều Ngự độ chân linh

Kỳ nguyện

Nay toàn gia quyến tín thành kính lễ Phật Pháp Tăng xin nguyện thọ tang. Nguyện vì hương linh vun công bồi đức, an trú hạnh lành, tinh tấn bố thí, trì giới, niệm Phật, tham thiền.

Nguyện ân trên Tam Bảo từ bi chứng minh.

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng

Sám Nguyện

Cúi đầu kính lễ
Ba ngôi Tam Bảo
Vô thượng tôn Phật
Vi diệu Chánh Pháp
Thánh đức Tăng Già
Chúng sanh bao đời sanh tử trầm luân
Bởi không thông lẽ thật
Khổ tập diệt đạo
Chẳng hiểu đường ngay
Tam học bát chánh
Nên từ lâu lầm lạc
Vô minh bao phủ
Ái dục buộc ràng
Sở hành bất thiện
Ba nghiệp tội dày
Nhân quả oan khiên
Sát sinh hại vật
Trộm đạo tà dâm
Nói sai sự thật
Hiểm độc rẽ chia
Buông lung phiếm luận
Tham lam sân ác
Tà kiến chấp sai
Lắm lúc si mê ngu dại
Mạn khinh Tam Bảo
Chẳng tin nghiệp báo
Lẫn lộn chánh tà
Giao du bạn ác gần xa
Sống vong ơn tự mãn
Xem thường thầy tổ
Bất kính sa môn
Không màng đại nghĩa
Quên nỗi khổ tha nhân
Chẳng nghĩ tình đồng loại
Nhiều lần vô tâm bất hiếu
Không nhớ công sinh dưỡng
Phụ rẫy mẹ cha
Hỗn hào phạm thượng
Bao kiếp phóng túng loạn tâm
Say đắm dục trần
Sáu căn buông thả
Không tin đạo cả
Thiếu chí tu hành
Rơi vào sa đọa
Nay nhờ pháp Phật soi đường
Tự biết bao điều lầm lỗi
Thành tâm sám hối
Chân thật dọn lòng
Quyết tìm về nẻo sáng
Làm lành bỏ dữ
Thanh lọc tâm ý
Thương vật thương người
Dưỡng tánh từ bi
Tu đức hỉ xả
Nguyện hiếu kính mẹ cha
Học làm con thảo
Trọn đời gìn lòng ngay thẳng
Suốt kiếp hướng Tam Bảo tựa nương
Ngưỡng mong Phật đức cao vời
Từ bi chứng giám
Cho đệ tử chúng con
Tác thành sở nguyện
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Nếu thì giờ cho phép có thể tụng thêm kinh Năm Pháp Quán

Trì Niệm

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy)

Chân ngôn

BhavA-tu sabbamaṅgA-laṃ
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbabuddhānubhāvena
Sabbadhammānubhāvena
Sabbasanghānubhāvena
Sadā sotthī bhavantu te

Chú nguyện

Nguyện phước lành sung mãn
Hồi hướng chư hương linh
Như muôn sông ra biển
Xin tất cả nguyện lành
Ðược kíp thời viên đắc
Xin ý thiện tâm thành
Thường trong sáng sung mãn
Như trăng tỏ ngày rằm
Như ma ni ngọc báu
Cầu uy đức Phật Bảo
Cầu uy đức Pháp Bảo
Cầu uy đức Tăng Bảo
Cầu chư thiên gia hộ
Tất cả điều phúc lành
Luôn tựu thành như nguyện (lạy)

Tất cả cùng tụng qui sám và hồi hướng

-ooOoo-

IV.10 Nghi Thức Thù Ân

Cảm niệm ân nghĩa với người quá vãng. Tụng trong lễ phát tang

Kính lễ

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Sái Tịnh

Ân sâu cõi thế khôn đền đáp
Nghĩa nặng trần gian nan tư nghì
Thắp nén tâm hương thành kính lễ
Cầu ân Ðiều Ngự độ chân linh

Kỳ Nguyện

Nay toàn gia quyến tín thành kính lễ Phật Pháp Tăng xin nguyện thọ tang. Nguyện vì hương linh vun công bồi đức, an trú hạnh lành, tinh tấn bố thí, trì giới, niệm Phật, tham thiền.

Nguyện ân trên Tam Bảo từ bi chứng minh,

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,

Nếu người mất là cha mẹ thì tụng bài sám hối cha mẹ

Sám Hối Cha Mẹ

Cúi đầu kính lạy mẹ cha
Ngưỡng mong mở lượng hải hà bao dung
Tội con bất hiếu muôn ngàn
Ấu thơ cho đến thành nhân vẫn còn
Một đời tần tảo lo toan
Gian truân bao độ lòng son chẳng sờn
Bút nào tả hết yêu thương
Lời nào nói đủ đoạn trường gian lao
Tóc xanh cho đến bạc màu
Vì con tất cả nghĩ đâu phần mình
Phật xưa rằng đấng sanh thành
Là trời Phạm đế đức lành bao la
Thiện thần ngự trị trong nhà
Cổ nhân thánh đức chói loà ngàn sau
Bậc thầy tiên khởi thanh cao
Dạy con từng bước đi vào lớn khôn
Dù hai vai cõng song đường
Trăm năm chưa đủ đáp ơn sâu dày
Con từ thơ dại đến nay
Xét ra lỗi đạo lầm sai lắm điều
Những mong mình được nuông chiều
Biết đâu cha mẹ bao nhiêu ưu phiền
Lời răn của đấng từ nghiêm
Ít khi tạc dạ trọn niềm kính tin
Ấm no chỉ biết phần mình
Mẹ cha mòn mỏi chút tình đợi mong
Tình cha nghĩa mẹ biển đông
Tình con đáp lại giọt sương đầu cành
Nhớ công giáo dưỡng sanh thành
Sáu thời cung dưỡng ba canh phụng thờ
Từ nay cho đến trọn đời
Sống theo hiếu đạo nương nhờ Phật ân

Ngưỡng cầu minh chứng lòng con
Nghiêng mình kính lễ sắt son một niềm (lạy)

Cầu cha mẹ trọn phước duyên
Nghiêng mình kính lễ vô biên nguyện cầu (lạy)

Nguyện đem hiếu đạo làm đầu
Nghiêng mình kính lễ ân sâu đáp đền (lạy)

Kinh Hồi Hướng Vong Linh

[Duyên khởi]

Vua Bim Bi Sa Ra
Nằm mộng thấy thân nhân
Bị khổ quả đói lạnh
Ðến bạch hỏi Thế Tôn
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn
Chỉ dạy cách tạo phước
Hồi hướng các vong linh
Thoát ly mọi khổ ách

[Chánh kinh]

Các hương linh quá vãng
Thường đến nhà thân nhân
Ðứng ngoài vách tựa cửa
Ngã đường hay cổng thành
Trông chờ hưởng phước thí
Nhưng vì kém phước duyên
Hương linh bị quên lãng

Thân nhân tạo phước lành
Do công đức bố thí
Nên phát nguyện bằng lời
Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu
Sukhitā hontu ñātayo
Xin thân nhân quá vãng
Thượng hưởng công đức nầy
Ðược cát tường như ý.

Những thân nhân quá vãng
Vân tập các đạo tràng
Nhận được phước hồi hướng
Thường thốt lời cảm kích
Mong ân nhân của mình
Ðược trường thọ phúc lạc
Người đã tạo công đức
Chắc chắn được quả lành

Chúng sanh trong cảnh khổ
Hằng mong đợi phước báu
Do thân nhân hồi hướng
Bởi trong những cõi ấy
Không có các sinh kế
Trồng trọt hoặc chăn nuôi
Bán buôn hay trao đổi

Như nước trên gò cao
Ðương nhiên chảy xuống thấp
Phước lành đã hồi hướng
Có diệu năng cứu khổ
Như trăm sông tuôn chảy
Ðều hướng về đại dương
Nguyện công đức đã tạo
Thấu đến chư hương linh

Khi người nhớ ân trước
Do tình nghĩa thân bằng
Do tương duyên quyến thuộc
Hãy cúng dường trai Tăng
Hồi hướng phước đã tạo

Sự khổ sầu thương cảm
Trước tử biệt sanh ly
Không có lợi ích gì
Cho thân nhân quá vãng

Cách trai Tăng hợp đạo
Gọi Ðắc Khi Na Ða Ná (Dakkhinādāna)
Cúng dường vô phân biệt
Ðến đại chúng Tăng Già
Bậc phạm hạnh giới đức
Bậc vô thượng phước điền
Ðược vô lượng công đức
Là thắng duyên tế độ
Hương linh trong cảnh khổ

Nếu thì giờ cho phép có thể tụng thêm kinh Vô Ngã Tướng

Trì Niệm

Nam mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn

Chân ngôn

Sabbe buddhā Ba-lappattā
Paccekānañca yaṃ
Ba-laṃ
Arahantānañca tejena
Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso

Chú nguyện

Nguyện đàn na tín thí
Gia đình cùng quyến thuộc
Ðược thiểu bệnh ít khổ
Thường hạnh phúc an vui
Tinh tiến tu Phật đạo
Sở nguyện được viên thành

-ooOoo-

IV.11 Nghi Thức Huân Tu

Cầu phước lành cho người mất. Tụng trong lễ di quan, ngày giỗ kỵ.

Kính Lễ

Nhất tâm kính lễ Phật
đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự
bi trí vẹn toàn
Nhất tâm kính lễ Pháp
đạo chuyển mê khai ngộ
ly khổ đắc lạc
Nhất tâm kính lễ Tăng
bậc hoằng trì Chánh Pháp
vô thượng phước điền

Sái Tịnh

Các pháp do duyên sanh
Duyên diệt các pháp diệt
Ðức Phật đại sa môn
Hằng giáo huấn như vậy

Kỳ Nguyện

Nay đệ tử chúng con
Vì hương linh tụng niệm
Nguyện ân đức cao dày
Ðộ người qua bể khổ
Phát tâm cầu giác ngộ
Huân tu muôn phước lành
Vãng sanh cõi an lạc

Kinh Huân Tập Công Ðức

Người chôn giấu tài sản
Nơi hang sâu mực nước
Dụng tâm lúc hữu sự
Bị phép nước luật vua
Hay gặp phải cường hào
Ðem chuộc thân giữ mạng
Hoặc trang trải nợ nần
Hoặc phòng cơn đói kém
Sự cất giấu như vậy
Là thường tình thế gian
Vị tất đã an toàn

Dù chôn sâu giấu kín
Có khi bị thất thoát
Vì tài chủ lãng quên
Hay long chủng dời đổi
Dạ xoa đoạt mang đi
Hay bị kẻ thừa tự
Sanh lòng tham đánh cắp
Hoặc hết phước làm chủ
Tài sản tự biến mất

Ai bố thí trì giới
Phòng hộ và tự chế
Gọi cất giữ tài sản
Bảo đảm và an toàn
Ai cúng dường đền tháp
Năng phụng dưỡng mẹ cha
Hậu đãi bậc huynh trưởng
Hay khách khứa láng giềng
Khéo cất giữ như vậy
Không ai chiếm đoạt được

Khi mạng sống chấm dứt
Bao của tiền bỏ lại
Chỉ mang theo phước đức
Phước là tài sản thật
Không thể bị chiếm đoạt
Bậc trí tạo phúc nghiệp
Thứ tài sản đáng quí
Khiến trời người các cõi
Ðược mãn nguyện hài lòng

Người màu da tươi sáng
Giọng nói đẹp lòng người
Dung mạo nhìn dễ mến
Có phong cách đoan trang
Người quyền quí cao sang
Bậc vương triều tôn chủ
Bậc chuyển luân thánh chúa
Bậc thiên vương cõi trời
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Những hạnh phúc trần gian
Cùng thiên lạc cõi trời
Quả niết bàn vô thượng
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo
Người có được bạn lành
Thuần thục trong thiền định
Ðạt chánh trí giải thoát
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Bốn tuệ giác phân tích
Của thánh đệ tử Phật
Hay độc giác toàn giác
Tất cả quả lành nầy
Do công đức đã tạo

Bởi lợi lạc to lớn
Của phước hạnh đã làm
Nên thiện nhân hiền trí
Tán thán và khuyến khích
Sự cất giấu tài sản
Bằng tích lũy phước lành (lạy)

Nếu thì giờ cho phép có thể tụng thêm kinh Ðáo Bỉ Ngạn

Trì Niệm

Nam mô Phật
Nam mô Pháp
Nam mô Tăng

Chân ngôn

BhavA-tu sabbamaṅgA-laṃ
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbabuddhānubhāvena
Sabbadhammānubhāvena

Chú Nguyện

Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh

Tất cả cùng tụng qui sám và hồi hướng

-ooOoo-

IV.12 Nghi Thức Cảnh Sách

Tụng niệm Phật ngôn cảnh tỉnh mê lầm, dứt trừ vọng chấp. Tụng trong các tuần thất, lễ an táng.

Kính lễ

Ðệ tử chúng con
Trang nghiêm ba nghiệp
Ðảnh lễ Tam Bảo
Vô thượng tôn Phật
Vi diệu Chánh Pháp
Thánh đức Tăng Già. (3 lần)

Sái Tịnh

Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhơn thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh

Kỳ Nguyện

Nay toàn gia quyến tín thành ngưỡng vọng Tam Bảo nguyện kỳ siêu độ hương linh... pháp danh... sanh... mệnh chung... hưởng thọ (dương)... tuổi.

Cõi thế phù du mong dứt mê tâm hướng về nẻo sáng. Phật Pháp nhiệm mầu nguyện tinh tấn vượt thoát bờ mê.

Cảm nhận tình thân thượng hưởng phước lành

Lắng nghe tụng niệm viên thông lẽ đạo

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kệ Tỉnh Thức

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự
Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên
Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên
Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy
Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy
Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương
Ðã bao đời dâu bể tang thương
Xương trắng trải phủ đầy đại địa
Dù một kiếp trọn vui không dễ
Những phù du hưng phế đổi thay
Tuổi thanh xuân gẫm có bao ngày
Già đau chết hỏi ai tránh khỏi
Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi
Những nhục vinh kết nối liền nhau
Khi qua rồi còn lại niềm đau
Gió đời thổi phàm tâm xao động
Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng
Tình thân nhân bằng hữu phu thê
Thương phải xa ghét phải gần kề
Ai trọn kiếp không điều ngang trái
Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải
Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây
Vật ở đời tay lại qua tay
Buông tất cả khi tàn hơi thở
Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở
Bao tị hiềm cùng chuyện can qua
Lắm đổi dời trong mỗi sát na
Hạnh phúc đó não phiền cũng đó
Người trí hiểu căn nguyên thống khổ
Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh
Ngược dòng mê chánh đạo thực hành
Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử
Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh
Nương Pháp mầu đại hạnh đại duyên
Nương Tăng Già vô thượng phước điền
Nguyện uy đức cao dầy tiếp độ

Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy)

Nếu thì giờ cho phép có thể tụng thêm kinh Duyên Sinh

Trì Niệm

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chân ngôn

Aniccā vata saṅkhārā
upādavayadhammino
upajjitvā nirujjhanti
tesaṃ vūpasamo sukho

Chú Nguyện

Do thiện sự đã làm
Do hồi hướng đã nguyện
Do Tăng lực đã cầu
Xin tựu thành phúc quả.

-ooOoo-

Chương V-Khóa Lễ Anh ngữ

Khoá lễ Anh ngữ nầy được in trong quyển nghi thức tụng niệm với mục đích đáp ứng nhu cầu ngày một nhiều của tầng lớp Phật tử ở hải ngoại. Ðây chỉ là khoá lễ nhật hành căn bản, trong trường hợp cần thêm các kinh văn bằng tiếng Anh có thể trực tiếp sử dụng các nghi thức tụng niệm bằng Anh ngữ vốn rất dễ tìm. Nghi thức nầy được sắp xếp theo truyền thống Tích Lan, soạn dịch bởi Ngài Henepola Gunaratana Ma-hathera. Trích đoạn vói sự đồng ý của soạn giả.

Salutation to the Buddha

I pay homage to the Blessed One, the Worthy One, the Fully Enlightened One
(Three times)

Three refuges

I go to the Buddha for refuge
I go to the Dhamma for refuge
I go to the Sangha for refuge

A second time I go to the Buddha for refuge
A second time I go to the Dhamma for refuge
A second time I go to the Sangha for refuge

A third time I go to the Buddha for refuge
A third time I go to the Dhamma for refuge
A third time I go to the Sangha for refuge

Five Precepts

I undertake the trainning rule to abstain from taking life
I undertake the trainning rule to abstain from stealing
I undertake the trainning rule to abstain from sexual misconduct
I undertake the trainning rule to abstain from false speech
I undertake the trainning rule to abstain from intoxicating

HOMAGE TO THE BUDDHA

Such, indeed, is the Exalted One: worthy, perfectly enlightened, endowed with knowledge and conduct, well-gone, knower of the worlds, supreme trainer of persons to be tamed, teacher of gods and humans, enlightened and exalted.

To the Buddhas of the past
To the Buddhas of the future
To the Buddhas of the present
I offer my reverence always.

For me there is no other refuge
The Buddha is my matchless refuge
By these words of truth
May joyous victory be mine

With my forehead I pay reverence
To the dust at His feet
If I have done wrong to the Buddha
May the Buddha please forgive me

HOMAGE TO THE DHAMMA

Well expounded is the Dhamma by the Exalted One, directly visible, immediately effective, calling one to come and see, leading onwards, to be personally realized by the wise.

To the Dhammas of the past
To the Dhammas of the future
To the Dhammas of the present
I offer my reverence always.

For me there is no other refuge
The Dhamma is my matchless refuge
By these words of truth
May joyous victory be mine

With my forehead I pay reverence
To the matchless threefold Dhamma
If I have done wrong to the Dhamma
May the Dhamma please forgive me

HOMAGE TO THE SANGHA

The Order of the Exalted One's disciples is practicing well; the Order of the Exalted One's disciples is of upright conduct; the Order of the Exalted One's disciples has entered the right path; the Order of the Exalted One's disciples is practicing correctly, that is, the Four Pairs of Persons, the Eight Kinds of individuals, this Order of the Exalted One's disciples: worthy of offerings and hospitality, worthy of gifts and salutation, supreme field of merit for the world

To the Sanghas of the past
To the Sanghas of the future
To the Sanghas of the present
I offer my reverence always.

For me there is no other refuge
The Sangha is my matchless refuge
By these words of truth
May joyous victory be mine

With my forehead I pay reverence
To the matchless threefold Sanghas
If I have done wrong to the Sanghas
May the Sangha please forgive me

THE NOBLE EIGHTFOLD PATH

This is the Middle Path which the Perfect One discovered and expounded, which gives rise to vision and knowledge, which leads to peace, wisdom, enlightenment, and nibbana-the Noble Eightfold Path:

Right Understanding: of suffering, of its origin, of its cessation, of the way leading to the cessation of suffering.

Right Intention: of renunciation, free from craving; of good will, free from aversion; of compassion, free from cruelty.

Right Speech: abstaining from false speech, abstaining from malicious speech, abstaining from harsh speech, abstaining from useless speech.

Right Action: abstaining from taking life, abstaining from stealing, abstaining from sexual misconduct.

Right Livelihood: giving up wrong livelihood, one earns one's living by a right form of livelihood.

Right effort: to prevent unarisen unwholesome evil states of mind from arising by making effort, stirring up energy and exerting mind.

To abandon unwholesome evil states of mind that have already arisen by making effort, stirring up energy and exerting mind.

To develop wholesome mental states that have not yet arisen by making effort, stirring up energy and exerting mind.

Maintain and Perfect wholesome mental states already arisen and not to allow them to disappear, but to bring them to growth, to mA-turity and to the full perfection of development by making effort, stirring up energy and exerting mind.

Right mindfulness: mindful contemplation of the body, mindful contemplation of feelings, mindful contemplation of the mind, mindful contemplation of mental objects.

Right Concentration: Quite secluded from sense pleasures, secluded from unwholesome states of mind one enters and dwells in the first jhana, which is accompanied by applied thought and sustained thought with rapture and happiness born of seclusion.

With the subsiding of applied thought and sustained thought one enters and dwells in the second jhana, which has innner confidence and unification of mind, is without applied and sustained thought, is filled with rapture and happiness born of concentration.

With the fading away of rapture, one dwells in equanimity, mindful and discerning; and one experiences in one's own person that happiness of which the noble ones say: 'Happily lives one who is equanimous and mindful'-thus one enters and dwells in the third jhana.

With the abandoning of pleasure and pain, with the previous disappearance of joy a grief, one enters and dwells in the fourth jhana, which has neither pain nor pleasure and has purity of mindfulness due to equanimity.

GREAT DISCOURSE ON BLESSINGS

Thus have I heard. One time the Exalted One was living near Savatthi, in Jeta's Grove, the monastery of Anathapindika. Then, in the middle of the night, a certain deity of astounding beauty, lighting up the entire Jeta's Grove, approached the Exalted One. Drawing near, she paid homage to the Exalted One and stood to one side. Standing thus the deity addressed the Exalted One in verse:

Many deities and humans
Have pondered on blessings
Desiring their well-being
Tell me the blessing supreme

(Buddha's reply)
To associate not with the foolish
To be with the wise
To honor the worthy ones
This is a blessing supreme

To reside in a suitable location
To have good past deeds done
To set oneself in the right direction
This is a blessing supreme

To be well spoken, highly trained
Well educated, skilled in handicraft
And highly disciplined
This is a blessing supreme

To be well caring of mother, of father
To look after wife and children
To engage in a harmless occupation
This is a blessing supreme

Outstanding behavior, blameless action
Open hands to all relatives
And selfless giving
this is a blessing supreme

To cease and abstain from evil
To avoid intoxicants
To be diligent in virtuous practices
This is a blessing supreme

To be reverent and humble
Content and grateful
To hear the Dhamma at the right time
This is a blessing supreme

To be patient and obedient
To visit with spiritual people
To discuss the Dhamma at the right time
This is a blessing supreme

To live austerely and purely
To see the noble truths
And to realize nibbana
This is the blessing supreme

A mind unshaken when touched
By the worldly states
Sorrowless, stainless, and secure
This is the blessing supreme

Those who have fulfilled all these
Are everywhere invincible
They find well-being everywhere
Theirs is the blessing supreme

LOVING-KINDNESS DISCOURSE

One skilled in good, wishing to attain
that state of peace should act thus:
one should be able, straight, upright,
obedient, gentle, and humble

One should be content, easy to support,
with few duties, living lightly,
controlled in senses, discreet,
not impudent, unattached to families

One should not do any slight wrong
for which the wise might censure one
May all beings be happy and secure
May all beings have happy minds

Whatever living beings there may be
without exception, weak or strong,
long, large, middling,
short, subtle, or gross,

visible or invisible,
living near or far,
born or coming to birth
may all beings have happy minds

Let no one deceive another
nor despise anyone anywhere
Neither in anger nor enmity
should anyone wish harm to another

As a mother would risk her own life
to protect her only child,
even so towards all living beings
one should cultivate a boundless heart

One should cultivate for all the world
a heart of boundless loving-kindness,
above, below, and all around,
Unobstructed, without hate or enmity

Whether standing, walking, or sitting,
lying down or whenever awake,
one should develop this mindfulness;
this is called divinely dwelling here

Not falling into erroneous views,
but virtuous and endowed with vision,
removing desire for sensual pleasures,
one comes never again to birth in the womb

RECOLLECTION OF KAMMA

All living beings have kamma as their own, their inheritance, their congenital cause, their kinsman, their refuge. It is kamma that differentiates beings into low and high states

By oneself is wrong done
By oneself is one defiled
By oneself wrong is not done
By oneself, surely, is one cleansed
One cannot purify the other
Purity and impurity are in oneself

All actions are led by the mind;
mind is their master, mind is their maker
Act or speak with a defiled state of mind,
and suffering will follow
as the cartwheel follows the foot of the ox

All actions are led by the mind;
mind is their master, mind is their maker
Act or speak with a pure state of mind,
and happiness will follow
as your shadow that remains behind without departing

Even a wrongdoer experiences what is good
As long as the detriment has not mA-tured
But when the detrimental is mA-tured
The wrongdoer then experiences the detrimental

Even the good experiences what is detrimental
As long as the good has not mA-tured
But when the good is mA-tured
The good then experiences the good

By birth is not one an outcast
By birth is not one a noble being
By deed is one an outcast
By deed is one a noble being

We are the result of what we were and
will be the result of what we are
Past, present and future lives are linked through
wholesome and unwholesome mental processes

The evil-doer grieves here and hereafter; He grieves in both the worlds. He laments and is afflicted, recollecting his own impure deeds

The doer of good rejoices here and hereafter; He rejoices in both the worlds. He rejoices and is delighted, recollecting his own pure deeds

Sharing merit

By means of this meritorious deed
may I never join with the foolish
May I join always with the wise
until the time I attain nibbana

May the suffering be free from suffering,
may the fear-struck be free from fear,
may the grieving be free from grief
So too may all beings be.

From the highest realm of existence to the lowest
may all beings arisen in these realms
with form and without form,
with perception and without perception
be released from all suffering
and attain to perfect peace.

Excellent! Excellent! Excellent!

-ooOoo-

Chương VI-Phần Phụ Lục

Phụ lục 1-Cách phát âm Phạn ngữ Pāli

Ngôn ngữ Pāli còn được gọi là Māgadhī là ngôn ngữ của xứ Magadha (Ma Kiệt Ðà). Ðó là một trong những trung tâm Phật Giáo quan trọng bao gồm các địa danh nổi tiếng Vương Xá thành (Rājagaha), Linh Thứu Sơn (Gijjhakūta), NA-landa. Cũng chính tại vương quốc nầy, vua Ajātasattu đã tổ chức Ðại Hội Kết Tập Tam Tạng đầu tiên cách ba tháng sau ngày Phật viên tịch.

Pāli được gọi là Nam Phạn để phân biệt với tiếng Sanskrit là Bắc Phạn. Vào thời Phật trụ thế tiếng Sanskrit là tiếng của giới quí tộc và hàng giáo sĩ Bà la môn mang tính kinh viện và dùng cho nghi lễ theo kinh Veda. Ðức Phật dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau và Ngài khuyến khích dùng ngôn ngữ địa phương để diễn đạt chánh pháp. Có lẽ vì tính cách đại chúng và địa dư nên Nam Phạn Pāli được chọn trong lần kết tập kinh điển lần đầu. Thật ra Pāli có nghĩa là điển ngữ hay ngôn ngữ để chép kinh điển.

Ngày nay Nam Phạn Pāli đã trở thành cổ ngữ. Tuy vậy tất cả các quốc gia Phật giáo nguyên thủy đều dùng tiếng Nam Phạn làm tiêu chuẩn cho kinh điển và nghi lễ. Các học giả Tây Phương đầu thế kỷ nầy đã dùng Nam Phạn làm biểu chuẩn cho việc nghiên cứu và giới thiệu Phật học. Hiện đang có những nỗ lực để quốc tế hoá thuật ngữ Phật học từ các ngôn ngữ Sanscrit, Nhật ngữ, Hoa ngữ và tiếng Tây Tạng.

Tiếng Pāli tương đối dễ đọc. Có tất cả 41 mẫu tự gồm 8 nguyên âm và 33 phụ âm.

8 nguyên âm: a-ā-i-ī-u-ū-e-o

33 phụ âm chia thành 6 nhóm: k-kh-g-gh-ṅ
c-ch-j-jh-ñ
ṭ-ṭh-ḍ-ḍh-ṇ
t-th-d-dh-n
p-ph-b-bh-m
y-r-l-v-s-h-ḷ-ṃ

Cách đọc nguyên âm

a

đọc là

ă

như há

td: anīka

(á ni ká)

ā

đọc là

a

như cha

td: bālā

(ba la)

i

đọc là

í

như tí

td: isi

(í sí)

ī

đọc là

i

như nghi

td: īhā

(i ha)

u

đọc là

ú

như tú

td: udara

(ú đá rá)

ū

đọc là

u

như du

td: ūkā

(u ka)

e

đọc là

ê

như đê

td: eka

(ê ká)

o

đọc là

ô

như tô

td: okāra

(ô ka rá)

Các nguyên âm: ā, ī, ū, e, o phát âm dài Các nguyên âm có phụ âm đi sau phát âm dài; thí dụ: sattha (sát-thá) âm "sát" đọc dài, tunha (tun-há) âm "tun" đọc dài.

Cách đọc phụ âm lưu ý: những phiên âm có gạch nối là những "âm láy" khi phát âm đọc nhanh như "bờ" trong "bờ-há".

1. Nhóm âm họng.

k

đọc là

như ka ki

td: kata

(ká tá)

kh

đọc là

kờ-há

như khá

td: khaya

(khá dá)

g

đọc là

như gỗ

td: gati

(gá tí)

gh

đọc là

gờ-há

td: ghaṭī

(gờ-há ti)

đọc là

ngá

như ung

td: saṅkā

(săng ka)

2. Nhóm nóc giọng

c

đọc là

chá

như cháu

td: canda

(chanh đá)

ch

đọc là

chờ-há

td: chando

(chờ-hanh đô)

j

đọc là

dzá

như dzu

td: jāni

(dza ní)

jh

đọc là

dzờ-há

td: jhāna

(dzờ-ha ná)

ñ

đọc là

nhá

như nhà

td: ñāṇa

(nha ná)

3. Nhóm âm não (không có âm Việt tương đương) Khi phát âm giống như nhóm âm răng nhưng cong lưỡi lại,dồn hơi lên óc.

td: ṭaṅka

(tăng ká)

ṭh

td: ṭhāna

(tha ná)

td: ḍāka

(đa ká)

ḍh

td: oḍḍha

(ốt đơ-há)

td: iṇa

(í ná)

4. Nhóm âm răng

t

đọc là

như tú

td: taṭa

(tá tá)

th

đọc là

tờ-há

như thứ

td: thA-la

(thá lá)

d

đọc là

đá

như đong

td: dati

(đá tí)

dh

đọc là

đờ-há

td: dhana

(đờ-há ná)

n

đọc là

như non

td: naga

(ná gá)

5. Nhóm âm môi

p

đọc là

như pa-pa

td:pajā

(pá dza)

ph

đọc là

pờ-há

như phải

td:phA-la

(phá lá)

b

đọc là

như báo

td: bāhā

(ba ha)

bh

đọc là

bờ-há

td: bhaya

(bờ-há dá)

m

đọc là

như mơ

td: Ma-na

(má ná)

6. Các phụ âm không thuộc nhóm

y

đọc là

như du

td: yoni

(dô ní)

r

đọc là

như rõ

td: rajani

(rá dzá ní]

l

đọc là

như lo

td: laya

(lá yá)

đọc là

td: ḷīyati

(li dá tí)

v

đọc là

quá

như qui

td: vati

(quá tí)

s

đọc là

như sử

td: sati

(sá tí)

h

đọc là

như hổ

td: hati

(há tí)

đọc là

ăng

như băng

td: taṃ

(tăng)

Cách đọc vần ngược Pāli k, g trong vần ngược đọc như "c" trong "nam bắc" td: agga (ắc gá), sakka (sắc cá).

ṅ, ṇ, ṃ trong vần ngược đọc như "ng" trong "ngang dọc" td: saṅgha (săng gờ-há), taṇḍa (tăng đá), dhammaṃ (đờ-ham măng). c, j, ṭ, ḍ, t, d trong vần ngược đọc như "t" trong chữ chén bát (giọng bắc) td: satta (sát tá) ñ trong vần ngược đọc như "nh" trong "nhanh chóng" td: añña (anh nhá). n trong vần ngược đọc như "n" trong "than đá" (giọng bắc). p, b trong vần ngược đọc như "p" trong "áp đảo" thí dụ uppannaṃ (úp pan năng). l, ḷ trong vần ngược đọc "l" trong all của Anh ngữ. td: virūḷha (quí run há). s trong vần ngược đọc "s" trong Texas (không có âm Việt tương đương) y trong ey đọc như "ây" trong "đông tây" td: āhuneyyo (a hú nây dô)

ṅ, ṃ chỉ đi với nguyên âm trong vần ngược, tương đương với NG. thí dụ: taṃ [đọc là tăng]

Một chữ thường thấy xuất xứ từ Bắc phạn là Brahma (phạm chí) đọc là "bờ-ram má". Người học cần nhớ cách phiên âm để tự học chỉ là tương đối, nên học với thầy dạy là tốt nhất. Dưới đây là một bản thí dụ về cách phát âm Phạn ngữ Pāli với phiên âm bài kinh "Dâng Hoa"

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena
Pu jê mí bút d-hăng kú sú mê nánê ná
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pun nhê námê tê nácháhô tú mốc khăng
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Púp phăng mí la da tí dátha í đăm mê
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.
Ka dô tátha da tí quí na sápha quăng

-ooOoo-

Phụ lục 2-Các ngày lễ và ngày giới

1. Các ngày lễ truyền thống Phật Giáo

Ngày Phật Bảo (Visākhapūjā) nhằm đúng rằm tháng Tư âm lịch. Tên thông dụng của ngày lễ nầy là Vesakh được dùng bởi tất cả tổ chức Phật giáo quốc tế, kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni: đản sinh, thành đạo và viên tịch. Vì vậy còn được gọi là Ðại Lễ Tam Hợp. Theo Phật giáo Bắc truyền chỉ kỷ niệm sự kiện đản sinh nên gọi là Ngày Phật Ðản.

Ngày Pháp Bảo (Māghapūjā) nhằm Rằm tháng Giêng âm lịch. Kỷ niệm ngày đức Phật thuyết kinh Giải Thoát Giáo (Ovādapāṭimokkha) về tôn chỉ của Giáo Pháp và tinh thần hoằng pháp. Bài kinh được thuyết trong thánh hội gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị thánh nhân vô lậu. Cũng ngày Rằm tháng Giêng, Ðức Phật xác định nền tảng của Giáo Pháp đã thiết lập vững vàng và Ngài sẽ viên tịch.

Ngày Tăng Bảo (Kathi-na) có thể tổ chức bất cứ ngày nào trong vòng một tháng sau mùa kiết hạ của chư Tăng, tức từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Vì nghi thức chính của Ðại Lễ là cúng dường và thọ nhận một lá y theo thể thức được qui định bởi chính đức Phật nên Ðại Lễ nầy thường có tên Lễ Tăng Y Kathi-na. Chư Tăng theo Phật Giáo Bắc Truyền nhập hạ từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy.

2. Các ngày lễ văn hoá dân tộc

Ngày Tết Nguyên Ðán kéo dài nhiều ngày đầu tháng Giêng âm lịch đánh dấu năm mới. Ðây là ngày lễ trọng thể mang nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc. Nhiều người đi chùa lễ Phật cầu phước đầu năm vì vậy ngày Nguyên Ðán trở thành một đại lễ hằng năm tại các chùa.

Ngày Cha Mẹ. Cũng gọi là đại lễ Vu Lan Báo Hiếu tổ chức vào Rằm tháng Bảy âm lịch. Ðại lễ mang ý nghĩa ghi nhớ thâm ân sinh dưỡng và cầu phước cho cha mẹ hiện tiền cũng như quá vãng. Ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa ngày lễ cũng là ngày cầu siêu độ cho người quá vãng nên cũng được gọi là ngày Xá Tội Vong Nhân.

Ngày Thiếu Nhi. Cũng gọi là Tết Trung Thu nhằm Rằm tháng Tám âm lịch. Mặc dù bắt nguồn từ Trung Hoa ban đầu không liên quan đến tuổi trẻ nhưng các sinh hoạt vui chơi như múa lân, rước đèn, ca hát đã biến ngày nầy trở thành ngày của tuổi trẻ.

3. Các ngày kỷ niệm, tưởng niệm, và các lễ khác

Ngày Quốc Tổ. Cũng gọi là Giỗ Tổ Hùng Vương nhằm mùng Mười tháng Ba âm lịch đánh dấu triều đại đầu tiên lập nên nước Việt.

Ngày Hiệp kỵ. Là ngày giỗ chung chư vị tôn túc tiền bối dày công xây dựng và phát huy mối đạo tại Việt Nam. Giáo Hội thường chọn Rằm Tháng Chạp để tổ chức lễ nầy.

Ngày Chu Niên. Mang tánh cách địa phương kỷ niệm ngày thành lập ngôi chùa. Ðây là dịp tưởng lệ ghi công những Phật tử hữu công và hun đúc đạo tình trong một ngôi chùa.

Ngày An Cư Kiết Hạ. Có tánh cách nội bộ hàng xuất gia. Nhằm Rằm tháng Sáu âm lịch. Ngày lễ vốn được qui định trong Tạng Luật (Vinayapitaka). Ðức Phật cũng cho phép người cư sĩ tổ chức cúng dường y tắm mưa đến chư Tăng vào dịp lễ nầy. Ðây cũng là thời gian người cư sĩ tu bát quan trai trường trọn ba tháng. Cũng cần ghi nhận rằng Rằm tháng Sáu là ngày đức Phật chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển.

Ngày Thiền Học. Ðể phát huy truyền thống pháp hành. Thường được tổ chức theo điều kiện địa phương với một khoá tu học tiêu biểu. Thời lượng có thể là một hay nhiều ngày.

Lịch trình kiểu mẫu các ngày lễ trong năm theo thứ tự tháng dương lịch

Dương Lịch

Ngày Lễ

Âm Lịch

Ghi chú

Tháng 1

Ngày Hiệp Kỵ

Rằm tháng Chạp

Tháng 2

Tết Nguyên Ðán

Ðầu tháng Giêng

Tháng 3

Ngày Pháp Bảo

Rằm tháng Giêng

Tháng 4

Ngày Quốc Tổ

Mùng Mười tháng Ba

Tháng 5

Ngày Phật Bảo

Rằm tháng Tư

Tháng 6

Tháng 7

Ngày An Cư

Rằm tháng Sáu

Tháng 8

Ngày Cha Mẹ

Rằm tháng Bảy

Tháng 9

Ngày Nhi Ðồng

Rằm tháng Tám

Tháng 10

Ngày Tăng Bảo

Rằm tháng chín đến Rằm tháng Mười

Ngày thiền học

tùy duyên

Ngày chu niên

tùy duyên

4. Những điểm cần lưu ý

Ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo Trung Hoa, các chùa Việt Nam thường khai kinh cúng dường đại lễ từ ngày mùng Tám cho đến ngày Rằm. Lâu ngày một số lớn Phật tử hiểu lầm rằng chính lễ là ngày mùng Tám. Trên thực tế các đại lễ trong Ðạo Phật đều nhằm ngày Rằm.

Tại các quốc gia Âu Mỹ, người Phật tử tổ chức đại lễ theo "mùa" hơn là đúng ngày ghi trong lịch bởi vì chỉ có thể tổ chức vào cuối tuần và tình trạng thiếu Tăng Ni cũng khiến các ngày tổ chức lễ phải được linh động.

Những ngày lễ nêu trên đã được Hội Ðồng Chưởng Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thông qua trong phiên họp ngày 11-3-1997 tại Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas, Hoa Kỳ dưới sự chứng minh của Hoà Thượng Tăng Thống Hộ Giác và các thành viên trong Hội Ðồng.

5. Các Ngày Trai Giới

Ngày trai dịch từ phạn ngữ Uposatha có nghĩa là lấy sự qui định hạn cuộc thời gian làm nền tảng tu tập. Có những học giới mà người cư sĩ không thể hành trì trọn đời,tuy nhiên nếu phát nguyện gìn giữ trong một thời gian ấn định chẳng những có thể trong sạch mà còn hoan hỷ tinh tấn nhiều hơn. Yếu tố thời gian đó được qui định bởi đức Phật và cần hiểu rõ khi thực hành trai giới. Thông thường có sự hiểu lầm về chữ "Trai" hay đọc trại là "chay" có nghĩa là ăn lê hoát nhưng chữ trai (uposatha) nguyên nghĩa là thời gian tu tập tịnh giới (trai hựu tác thời).

Lịch Ấn Ðộ chia mỗi tháng thành hai tuần: thượng tuần và hạ tuần. Thượng tuần là tuần trăng đầy kể từ mùng một đến ngày Rằm; hạ tuần tính từ trăng tròn đến ba mươi.

Thời Phật trụ thế ngày trai gồm các ngày đầu, giữa và cuối thượng tuần cũng như hạ tuần. Như vậy tổng cộng có 6 ngày: Mùng 1, mùng 8, 15,16,23 và 30 (tháng thiếu 29). Về sau các vị tôn túc thêm hai ngày mùng 5 và 20.

Nếu tính như trên thì ngày sóc đúng mùng 1 và ngày vọng đúng 16 (trăng tròn). Nhưng vì vài sự sai biệt (...) nên các ngày sóc vọng và trai giới được qui định như sau: Mùng 5, mùng 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 âm lịch. Tháng thiếu: 28, 29.

-ooOoo-

Phụ lục 3-Xuất xứ, Ý nghĩa và cách dùng các kinh văn

Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo Nguyên Thủy là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Ðiển. Theo tinh thần tụng niệm thì uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố: a) Lời Phật là lời linh diệu. Ðức Phật là bậc đại bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn mà còn chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả Ananda trùng tụng lời Phật thường với thoại đầu "Evam me sutam (tôi nghe như vầy)." Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản của các kinh văn tụng niệm. b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự thật được nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và hiển. Trong kinh văn thường có câu: "Etena saccavaccena hotu me jayamaṅgA-laṃ / Nguyện nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát tường". Khi tâm thành và ý kinh được hợp nhất thì lời kinh được xem là chân ngôn. c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Ðức Phật dạy quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương. Người tụng đọc kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận được sự lợi lạc to lớn của sự tụng niệm. d) Ðức tin trong sạch là hạt giống của thiện pháp. Tụng niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy tâm hồn hướng thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây là lợi ích thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.

Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy được thêm vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa và duyên sự tụng đọc của các kinh văn.

1. Kinh Hạnh Phúc

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 46 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ Ma-hamaṅgA-lasutta.

Chữ Hạnh Phúc được dịch thoát từ phạn ngữ maṅgA-la có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên bạch hỏi Phật cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời.

Ðức Phật trả lời bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ mọi lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội... Vì đề cập đến cát tường nên bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những lời dạy trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.

2. Kinh Từ Bi

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 25 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ Mettasutta.

Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát triển hạnh từ ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng của từ tâm; phần kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp có hại cho lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ cuối cùng là quả phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho người tu tập lòng từ.

3. Kinh Châu Báu

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipāta) Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya) [PTS Sutta Nipāta P. 39 London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ Ratanasutta.

Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng trong hành trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn của bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy bài kinh nầy tại Vesalì nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalì. Kết quả mọi tai ách đều được giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.

4. Kinh Chuyển Pháp Luân

Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Ma-havagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka) cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) [PTS Kindred Saying V.420-431) Tựa kinh Phạn ngữ Dhammacakkappavattana Sutta.

Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca Mâu Ni đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp, để giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.

5. Kinh Vô Ngã

Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Mahāvagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikāya I. 57. Tựa kinh Phạn ngữ: AnattA-lakkhaṇasutta.

Ðây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương pháp quán niệm năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và các giác quan. Kinh chia làm bốn đoạn chính. Ðoạn I nói về sự trạng vô hộ vô chủ của năm uẩn. Ðoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của vô thường, khổ não và vô ngã. Ðoạn III xác định bản chất vô ngã của tâm lý, vật lý trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Ðoạn IV nói về trình tự giải thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn được giảng từng uẩn riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm. Bản dịch gom chung năm uẩn tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức Phật thuyết nhằm khai thị năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị hoàn toàn giải thoát nên thường được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.

6. Kinh Đáo Bỉ Ngạn

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Dasapāramī (Mười hạnh Ba la mật).

Ðáo bỉ ngạn hay ba la mật là pháp hành của các vị bồ tát trên đường hướng đến giác ngộ. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa là pháp đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Ðộ. Mười ba la mật là bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba la mật: một là vì đại nguyện tu tập hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một phần thân thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn được tính là ba mươi.

Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm tác động tín tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ hiện tiền lẫn người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an và cầu siêu.

7. Kinh Phật Lực

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ BuddhajayamaṅgA-lagāthā.

Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật hoán chuyển nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người, mãnh thú. Ðức Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức độ cho đến tuệ giác. Ðây là những sự kiện tiêu biểu các chướng duyên xảy ra trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng bài kinh không những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học soi sáng thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy được tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.

8. Kinh Thắng Hạnh

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Jayaparitta.

Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết tường. Mở đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo quả vô thượng mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả chúng sanh. Tiếp theo là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt theo đạo lý thánh hiền. Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên bài kinh nầy thường được đặc biệt dùng để chú nguyện trong các khoá lễ cầu an.

9. Kinh Lễ Chánh Giác Tông

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Sambuddhagāthā.

Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười phương ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra có tánh cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con số nầy dựa theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ tát trong suốt quá trình huân tu giác hạnh.

Bậc Trí Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi hai mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười hai ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn vị Phật.

Bậc Tấn Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi bốn mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua hai mươi bốn ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua một triệu vị Phật.

Bậc Tín Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi một trăm lé chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua bốn mươi tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua hai triệu vị Phật.

Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là nói về truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập khó thể nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa nầy bài kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.

10. Kinh Bồ Ðề Phần

Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha (Vi Diệu Pháp Tập Yếu). Tựa kinh Phạn ngữ Bodhipakkhiyasangaha.

Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật dạy rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu an.

11. Kinh Vô Úy

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Abhayaparittagāthā.

Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật toàn giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an tiêu tai.

12. Kinh Quán Niệm

Xuất xứ từ Dhammapada và Sutta Nipātā. Tựa kinh dựa theo nội dung quán niệm.

Ðây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của đời sống giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên. Ba đoạn đầu nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô ngã trong ba cõi; đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của người hiểu đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự liễu ngộ thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu siêu và nghi thức nhật hành.

13. Kinh Duyên Sinh

Xuất xứ từ Ma-hasaccakasutta, Trung Bộ Kinh I. M.I.237-251. Tựa kinh Phạn ngữ Paṭiccasamuppāda.

Nội dung là một trình bày cô đọng về mười hai duyên sinh. Ðề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo thành sự hiện hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của giáo lý Phật đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn. Ðây là một trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo truyền thống thì bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được tụng trong khoá lễ cầu siêu.

14. Kinh Suy Niệm Về Nghiệp

Phật ngôn sưu tập trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka)

Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật nhân quả và đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những được minh định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết thực để quán chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày. Với nội dung chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm mục đích soi sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.

15. Kinh Vạn Pháp Tổng Trì

Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ (Dhammasangini), Tạng Diệu Pháp.

Ðây là một trình bày hệ thống về bản thể vạn pháp. Mỗi tiêu đề (Mātikā) bao gồm trọn "biểu đồ pháp giới". Những chiết trung nầy được dùng để trình bày lý duyên hệ (paccayo) như những thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ giải thì đây là bài kinh có thắng lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc cảnh. Chính vì vậy Kinh Vạn Pháp Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá lễ cầu siêu bằng phạn ngữ.

16. Kinh Chúc Nguyện

Trích từ Kinh Tập (Sutta Nipāta), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya)

Ðây là một bài kinh chú nguyện được dùng nhiều nhất. Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình ảnh được dùng làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận nước của muôn sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm; và ngọc như ý ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ trên công đức đã làm và hướng nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang lại phước lành đầy đủ. Bài kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.

17. Kinh Hồi Hướng Vong Linh

Trích Bộ Tiểu Tụng (Khuddakapāṭha), Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya), tựa kinh Phạn ngữ Tirokuḍḍasuttam.

Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy trong một duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau khi qua đời sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh nầy thường tìm đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng. Ðức Phật dạy về sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng đúng cách. Kinh nầy được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.

18. Kinh Ghi Ri Ma Nan Ða

Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttaranikāya), tựa kinh Phạn ngữ Girimānanda.

Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, hệ lụy, đọan tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước, yểm ly và hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc phục bệnh căn. Ðức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả Ghi Ri Ma Nan Ða khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi bệnh. Do duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các khoá lễ cầu tiêu tai thân bệnh.

19. Kinh Tứ Niệm Xứ

Trích từ Kinh Trung Bộ (Majjhimanikāya), tựa kinh Phạn ngữ Satipathanasutta

Ðây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một trình bày toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ, trạng thái của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về phương pháp quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả pháp hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền định. Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và thực hành được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh được tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.

20. Kinh Lễ Bái Sáu Phương

Trích đoạn từ kinh Siṅgalovada, Trường Bộ Kinh (Dìghanikāya).

Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singàla về nghi lễ trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương theo tập tục. Ðức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và tôn trọng. Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan hệ với một người trong cuộc sống. Ðó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ chồng, thầy trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy nếu được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi.

Ðức Phật đã nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống người cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại chúng.

21. Kinh Sám Nguyện

Dựa theo tinh thần tu tập truyền thống.

Nội dung chính là sám hối mười bất thiện nghiệp từ thân khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng ngày. Những tâm sám nầy không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ mà còn là những soi sáng mọi hành vi trong đời người.

Cũng trong nội dung kinh văn sám nguyện có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh thần giới luật của một cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn bản cho khoá lễ sám hối cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.

22. Kinh Lễ Hồng Danh

Trích trong bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật. Ðây là những bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni trong giai đoạn sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ các ngài là bày tỏ lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục mệnh của chư Phật.

Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những duyên sự đặc biệt làm tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.

23. Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu và Kệ Sám Hối Phụ Mẫu

Dựa theo tinh thần kinh Sonadanta, Kinh Bổn Sanh (Jataka).

Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ và lời sám hối về lỗi lầm của con cái. Ðức Phật dạy bất hiếu là trọng tội và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân cha mẹ trong các thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó thể hiện được tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.

24. Kệ Phật Sử

Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh (Buddhacarita), Kinh Tiểu Bộ.

Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của thái tử Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo. Ðức Phật không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một nhân vật lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của Ngài không mảy may khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ và các khoá tu.

25. Kệ Chiêm Bái Xá Lợi

Dựa vào Biên Niên Sử của Bộ Tiểu Phẩm, Tạng Luật.

Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Ðạo Phật. Xá lợi và cây Bồ Ðề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật được chính Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn kính còn nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài kệ được tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.

26. Kệ Ba Pháp Ấn

Một trình bày các thực tướng vô thường, khổ, vô ngã qua hiện thực đời sống. Với văn thể bình dị, bài kệ hướng dẫn sự quán chiếu đối với mọi biến đổi, phiền lụy của thân tâm. Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.

-ooOoo-

Phụ lục 4-Nghi thức và Thờ phượng

I. Nghi Thức

Nghi thức các khoá lễ luôn luôn có 4 phần:

1. Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về duyên sự của buổi lễ. Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Ðây là khởi đầu của tất cả khoá lễ

2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán ba ngôi Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy đủ hay giản lược.

3. Phần Kinh Văn: Gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những người tham dự khoá lễ.

4. Phần hoàn kinh: Là phần sau cùng của mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.

Chương I của quyển kinh nầy là các khoá lễ được sắp sẵn với thời lượng và kinh văn cố định thích hợp cho những khoá lễ đông người.

II. Thờ phượng

Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.

Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những lễ phẩm cúng dường nên tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.

Nên thiết lập bàn thờ ở nơi trang trọng. Ðộ cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.

Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần.

Không nên xem thường yếu tố thẩm mỹ. Hình thức trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong gia đình.

III. Tinh thần của nghi lễ

Có mười hạnh lành mang lại phước báu mà đức Phật gọi là Mười Phước Hạnh (puññakiriyāvatthu). Sự tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước hạnh nầy.

Bố thí.

Danh từ nầy cần được hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là cho, tặng, cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh lành nầy.

Trì giới.

Giới là quyết tâm tránh những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là những luật nghi được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong các thời khoá. Nếu có chư Tăng thì xin thọ giới.

Thiền định.

Có nhiều phương pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng đối tượng là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một trong những phép tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều có cả hai phần nầy.

Cung kính.

Là giữ lòng kính quí đối với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức khiêm cung, giảm lòng kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung kính là điều tối cần.

Phục vụ.

Là lòng vị tha vì lợi ích cho người khác. Ðối với người tu tập, tinh thần phục vụ là cách hữu hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong các khoá lễ tụng niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu an, cầu siêu và kỳ nguyện.

Thuyết pháp.

Là sự chuyển đạt những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các kinh văn là Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai có duyên lành lắng nghe.

Thính Pháp.

Là nghe, học lời Phật dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư trong điều kiện khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa thính pháp.

Hồi hướng phước.

Là nguyện lành hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước không phải chỉ tăng phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm, bổn phận với người thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết thúc bằng lời hồi hướng phước báu.

Tùy hỷ phước.

Là cùng vui với phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng rãi không ganh tỵ và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy hỷ "Sàdhu lành thay" được dùng rất phổ biến tại các quốc gia Phật giáo.

Huân tu chánh trí.

Là làm thế nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu sống với tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai tác dụng định tâm và khai thị.

Người có tín tâm chuyên trì tụng niệm lấy mười phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ thì không bao giờ sợ lầm lạc và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của mình.

-ooOoo-


[Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục]