TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG BỬU CHƠN
1. Bức Thông điệp Dự lễ Kỷ niệm 2500 năm tại Nam Vang (ngày 13 tháng 5 năm 1957)
2. Thư gửi Ngài Bộ trưởng về việc hiến tặng tượng Phật
5. Thông tư Đại lễ Vesakh thứ 2506
6. Dự án Thống nhất Phật giáo Việt Nam
7. Bài tường thuật về lễ Trao tặng Tam Tạng chùa Tam bảo
9. Bài Tường thuật của ĐĐ. Bửu Chơn dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần VIII tại Thái Lan
10. Danh sách Hội viên Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Nam Tông
12. Lời đề nghị của HT. Bửu Chơn đến GHTGVN
13. Biên bản Đại hội Khoán đại thường niên năm 1972
14. Bài Tường thuật của HT. Bửu Chơn dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần X tại Tích Lan
16. Tuyên ngôn của Hội đồng Phật giáo Việt Nam
17. Hòa thượng Bửu Chơn trả lời phỏng vấn của Tờ báo Dân Sống
NHỮNG CẢM NGHĨ CỦA CHƯ TĂNG VÀ PHẬT TỬ
1. Hòa thượng Viên Minh (Thành viên Hội đồng Chứng Minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam)
2. Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam)
3. HT. Tăng Định (Phó ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam)
4. HT.Thiện Pháp (Phó ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện Long Thành)
5. HT. Giới Đức (Viện chủ chùa Huyền Không Sơn Thượng)
6. HT. Pháp Tông (Phó ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên ‒ Huế)
7. Thượng tọa Bửu Chánh (Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự, Phó ban Hoằng pháp Trung ương)
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG BỬU CHƠN
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957. Suốt cuộc đời ngài hoằng dương Chánh pháp, lập chùa, đào tạo tăng tài, dịch kinh, viết sách, tham gia những hội nghị quốc tế trên thế giới cho đến ngày viên tịch. Ngài viên tịch trong chuyến công tác Phật sự khá quan trọng tại Campuchia, đó là làm trưởng phái đoàn Việt Nam sang nước bạn Campuchia để phục hồi Phật giáo Campuchia, tái xuất gia cho 8 sư sãi sau nạn diệt chủng Pôn-pốt năm 1979. Ngài viên tịch do bịnh cũ tái phát.
Ngày 27/2/1979-27/2/2016, Việt Nam và Campuchia tổ chức kỷ niệm 37 năm ngày đất nước Campuchia hoàn toàn giải phóng, thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn-pốt. Quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn xuất bản vào dịp này, nhằm tôn vinh nhân cách một vị Hòa thượng cả cuộc đời phụng sự cho đạo pháp và dân tộc. Dịp này, chúng tôi bày tỏ một số cảm nghĩ nhằm tôn vinh công đức của Hòa thượng ân sư và giới thiệu cho hàng hậu học biết thêm về nhân cách, đạo đức, giới hạnh và những cống hiến cao cả của Hòa thượng.
Về tu hành, ít có nhà sư nào xuất gia chọn pháp môn đầu đà khổ hạnh. Hòa thượng Bửu Chơn có hơn 10 năm sống ở rừng, ở núi thực hành 13 pháp đầu đà trong Phật giáo Nguyên Thủy. Những năm tháng tu khổ hạnh, chỉ sử dụng tam y và bình bát, tu tập tam vô lậu học, sống hòa đồng với thiên nhiên, các loài cầm thú ở trong núi rừng là bạn của ngài. Ngài cũng không sợ những loài cầm thú và những loài cầm thú cũng không sợ ngài do năng lượng từ bi bác ái của ngài.
Về pháp môn tu học, ngài chọn đề mục Arahan – Đức Phật trọn lành. Đây là đề mục tu thiền nhập định trong thời gian tu đầu đà ở núi rừng Campuchia và là pháp môn tu niệm trong suốt cuộc đời tu của ngài. Pháp môn tu này, Hòa thượng Hộ Tông, vị khai sáng Phật giáo Nguyên Thủy, cũng áp dụng tu tập và truyền dạy cho hàng đệ tử cho tới tận ngày hôm nay. Chúng tôi có duyên học pháp môn này với Hòa thượng lúc theo học đạo với ngài. Đến nay, Hòa thượng đã mất hơn 37 năm, tôi vẫn liên tục hành trì pháp môn này và hướng dẫn cho tăng ni Phật tử tại chùa Phổ Minh tu học hằng ngày. Lợi ích của pháp môn này giúp cho người thực hành bớt đi bịnh tật và có một năng lượng phi thường, tà ma, phi nhân không quấy phá, gia đình hạnh phúc, hanh thông.
Về Phật giáo quốc tế, ngài thường xuyên tham dự những hội nghị quốc tế trên thế giới, giới thiệu hình ảnh Phật giáo Việt Nam và người Việt Nam đến với bạn bè năm châu trên thế giới. Ngài đi dự nhiều hội nghị trên thế giới nhưng không biết mệt mỏi, có khi một năm ngài dự hội nghị gần 20 lần. Ngài xem tham dự hội nghị là hình thức hoằng truyền Chánh pháp hữu hiệu nhất, giới thiệu Phật pháp, văn hóa Việt Nam, đạo Phật Việt Nam đến với tầng lớp trí thức trên thế giới. Nhờ hoạt động tích cực như vậy, các nước Phật giáo trên thế giới bầu và suy tôn ngài là Cố vấn Phật giáo Tinh thần vĩnh viễn trên thế giới.
Về văn hóa, ngài quả thật là một bậc thầy bận rộn việc Giáo hội và Phật sự quốc tế nhưng ngày đêm vẫn cặm cụi phiên dịch, sáng tác hơn 20 tác phẩm. Toàn bộ những tác phẩm ấy đã được sưu tập, trình bày và giới thiệu đầy đủ trong quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn. Chúng ta đọc những tác phẩm của Hòa thượng thấy có rất nhiều thể loại khác nhau như từ điển, kinh tụng, giới luật, v.v… Xem qua những tác phẩm trên, cảm nhận một điều về sự siêng năng, cần cù, chịu khó, thức khuya dậy sớm mới hoàn thành những tác phẩm có giá trị đó để hướng dẫn cho Tăng, Ni, Phật tử Phật giáo Nguyên Thủy tu học vào thời kỳ mới du nhập.
Về xây dựng chùa tháp, chùa Phổ Minh, chùa Phước Hải-Tiền Giang, chùa Phước Hải-Vũng Tàu, v.v… là do ngài trực tiếp xây dựng và sáng lập. Ngày nay, chúng ta đi thăm lại những ngôi chùa này thấy có nét kiến trúc giống nhau, mái chùa được xây dựng theo hệ thống cổ lầu, có tháp 3 tầng, hoa văn họa tiết nhẹ nhàng, thanh thoát, nội thất bên trong gọn gàng, tao nhã, trang nghiêm. Qua những ngôi chùa trên, chúng ta thấy ngài cũng rất quan tâm đến kiến trúc xây dựng. Qua đường nét kiến trúc của mái chùa đã thể hiện được tinh thần dân tộc Việt của ngài rất cao. Tuy ngài xuất gia ở Campuchia, học Phật pháp ở Thái Lan, Tích Lan, v.v… nhưng chùa tháp do ngài xây dựng rất Việt Nam và không bị ảnh hưởng bởi các quốc gia mà ngài học đạo.
Về hoằng pháp, ngài là một vị pháp sư lỗi lạc, có lối giảng pháp khá độc đáo, giúp cho người nghe dễ lãnh hội giáo lý nhà Phật. Những buổi giảng của Hòa thượng không thuyết giảng dài, không quá 60 phút, trình bày những giáo pháp căn bản, dễ hiểu, thực tế, gần gũi với cuộc sống gia đình và xã hội, giúp người nghe dễ ứng dụng Phật giáo trong đời sống thực tiễn.
Về Phật giáo Nguyên Thủy, ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, vị Tăng thống đầu tiên, Ban Chưởng quản lâm thời Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Ngài có khoảng 3 nhiệm kỳ làm Tăng thống trong số 11 nhiệm kỳ Tăng thống của Giáo hội Tăng già Việt Nam. Những nhiệm kỳ ngài làm Tăng thống, ngài đưa ra những phương hướng để đào tạo tăng tài như đưa các tăng, ni ra hải ngoại du học, đẩy mạnh việc hoằng pháp ở đa phương diện, cho mở nhiều đạo tràng thuyết pháp, ký những thông tư mở pháp hội vào những ngày chủ nhật. Sau năm 1975, ngài tham gia Phó Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ban này là tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay.
Nhân xuất bản quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn, chúng tôi chỉ gợi nhớ những nét nổi bật của ngài đã trình bày ở trên, nhằm để dâng lên giác linh của Hòa thượng – tấm gương suốt cuộc đời phụng sự đạo pháp, dân tộc. Cuộc đời, đạo hạnh của ngài đã cống hiến quá nhiều, không bút mực nào có thể diễn tả hết được những hành động của ngài đã cống hiến. Ngài đã yên giấc nghìn thu, 37 năm trôi qua, ngày nay viết về ngài với những dòng cảm xúc trong tâm khảm của chúng con đã trào dâng về những ngày xưa sống bên Hòa thượng, những lời dạy của ngài vẫn còn in sâu trong tâm. Sự nghiệp của ngài để lại, chúng con đã kế thừa và phát huy, đó là một phần nào đáp đền công ơn giáo dưỡng của ân sư. Nhiều khi Phật sự đa đoan, đôi lúc chúng con cũng muốn lùi bước để an phận cho đời tu nhưng nghĩ đến công đức cống hiến và phụng sự đạo pháp, dân tộc của Hòa thượng, giúp cho chúng con tăng thêm nghị lực và sức mạnh.
Xin tán dương Đại đức Thiện Minh và những Tăng, Ni, Phật tử Tổ đình Bửu Quang đã dày công sưu tập tác phẩm của Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn để giới thiệu đến chư tôn đức trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, các Ban Trị sự 62 tỉnh thành, quý giáo sư, những nhà nghiên cứu, những nhà khoa học và bạn đọc gần xa.
Chúng tôi xin được phép giới thiệu quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn, nhằm để tri ân và tôn vinh tấm gương sáng của ngài đã suốt đời vì đạo pháp và dân tộc Việt Nam cho đến hơi thở cuối cùng. Kính chúc chư tôn đức và toàn thể quý vị thân tâm an lạc, cát tường như ý.
Ngày 29 tháng 2 năm 2016
Hòa thượng Thích Thiện Tâm
Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Trưởng Phân ban Tăng sự Phật giáo Nam Tông Kinh, Phó Trưởng ban Trị sự GHPGVNTPHCM
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
Ngài có 7 năm làm công chức ở đất nước chùa tháp ‒ Campuchia trong môi trường đạo đức nên thời gian rảnh ngài nghiên cứu các đạo giáo. Một ngày kia, ngài gặp người bạn thân Lê Văn Giảng giới thiệu về Phật giáo Nguyên Thủy. Ngài tìm hiểu xem kinh, đọc sách Phật giáo Nguyên Thủy bằng tiếng Anh, Pháp và Campuchia. Ngài ngộ ra một điều là Phật giáo người Campuchia đang tu chính là Phật giáo nguyên chất, Phật giáo nguyên thủy. Hình ảnh chư tăng trì bình khất thực mỗi ngày, chùa tháp nguy nga tráng lệ ở Campuchia cộng với pháp độ chủng tử tiền kiếp của ngài nên ngài quyết định từ bỏ tất cả để chọn con đường xuất gia tu giải thoát. Năm 1937, ngài xuất gia sa di tại chùa Lankar.
Năm 1940, thầy tế độ-Hòa thượng Trụ trì chùa Lankar-nhận thấy oai nghi chánh hạnh, chuyên cần trong thiện pháp, giới luật trang nghiêm của sa di nên Hòa thượng cho tu lên bậc trên-tỳ khưu-vào lúc 10 giờ, ngày 9/7/1940 (nhằm ngày 21/6/1940 âl) tại chùa Lankar. Thầy bổn sư là Hòa thượng Sirīsammativansa, thầy yết ma Sirīpañña.
Sau khi xuất gia, Hòa thượng cho đề mục thiền định. Ngài xin thầy vào trong rừng núi ở Nam
Vang để tu thiền và hành trì pháp môn đầu đà. Hơn 10 năm ngài sống hạnh đầu đà, nghiêm trì giới luật, ngày đêm chuyên chú tham thiền, ngày ăn một buổi ngọ đúng theo giới luật Phật giáo Nguyên Thủy.
Năm 1951, một số Phật tử Việt Nam nghe tiếng và hâm mộ đã thỉnh ngài về Việt Nam để truyền bá Phật giáo Nguyên Thủy.
Năm 1952, ngài xuất ngoại sang Tích Lan nghiên cứu Phật học 2 năm ở trường Dhamma Ducla ViddhyA-lada. Dịp này, ngài đã sang Ấn Độ chiêm bái các thánh tích và khi trở về nước, ngài đã cung thỉnh một số ngọc xá lợi của Đức Phật do các giáo hội Tích Lan tặng để xây dựng bảo tháp tôn thờ ở Việt Nam.
Năm 1954, ngài làm trưởng đoàn tham dự hội nghị Kết tập Tam tạng Pāli lần thứ VI tại Rangoon ‒ Miến Điện.
Năm 1956, ngài dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ VI cũng tại Rangoon ‒ Miến Điện. Trong dịp này, ngài đã đại diện cho Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam nhận ngọc xá lợi do Bộ trưởng Bộ Lễ Miến Điện trao tặng.
Năm 1957, ngài đứng ra vận động sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và được cử làm Tăng thống Ban Chưởng quản lâm thời. Cũng năm đó, ngài đại diện Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam dự lễ kỷ niệm 2550 năm của Phật giáo tại Phnôm Pênh ‒ Campuchia.
Năm 1958, ngài làm trưởng đoàn dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần IV tại Myanmar và Hội nghị Triết học tại New Delhi ‒ Ấn Độ. Cũng năm đó, ngài dự Hội nghị Lịch sử của Tôn giáo Thế giới lần IX tại Đông Kinh Nhật Bản.
Năm 1960, ngài được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới trong kỳ đại hội lần V tại Thái Lan và dự Hội nghị Lịch sử Tôn giáo Thế giới lần X tại Tây Đức. Nhân dịp này, ngài chu du ở Anh, Ý, Pháp để nghiên cứu các tổ chức Phật giáo tại các nước này.
Năm 1961, ngài dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần VI tại Campuchia với tư cách là Phó Chủ tịch. Trong hội nghị này, Ngài được bầu vào chức vụ Cố vấn Tinh thần tối cao và vĩnh viễn cho Hội Phật giáo Thế giới.
Năm 1962, ngài đắc cử Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam khóa III. Trong nhiệm kỳ này, ngài khởi sự vận động xây dựng bảo tháp xá lợi tại núi Lớn Vũng Tàu, ngày nay gọi là Thích Ca Phật Đài. Ngoài ra, ngài còn tặng xá lợi Phật để thờ tại Đà Nẵng, Huế, Hậu Giang.
Năm 1963, trong mùa Pháp nạn, ngài được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo đấu tranh cho quyền tự do tín ngưỡng và đã bị Diệm ‒ Nhu bắt giam hơn 1 tháng.
Năm 1964, ngài hướng dẫn phái đoàn tham dự Hội nghị Phật giáo thế giới lần VII tại Ấn Độ.
Năm 1965, ngài được bầu làm Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới địa phương tại Tân Gia Ba và tham dự hội nghị thành lập Giáo hội Tăng già tại Tích Lan.
Năm 1966, ngài làm trưởng phái đoàn tham dự hội nghị Phật giáo Thế giới lần VIII tại Thái Lan.
Năm 1967, ngài bị bịnh sỏi thận, sỏi mật nên phải giải phẫu tại bịnh viện Grall. Từ đó, sức khỏe của ngài sút kém và bịnh tái phát nhiều lần. Tuy vậy, năm 1968, ngài tham dự Hội nghị Lịch sử Tôn giáo Thế giới lần XII tại Jerusalem ‒ Do Thái.
Năm 1972 đến 1975, ngài được tri cử vào chức vụ Phó Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam trong hai khóa VIII và IX.
Khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, năm 1975, ngài tham gia vào ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố và được tri cử vào chức vụ Phó Chủ tịch.
Năm 1977, ngài đắc cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1979, ngài được thỉnh vào chức vụ Cố vấn Ban Chưởng quản Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam khóa XI. Ngài là một học giả biết rất nhiều ngoại ngữ như Lào, Thái Lan, Cao Miên, Miến Điện, Tích Lan, Trung Hoa, Pháp, Anh, Ý và Đức. Dĩ nhiên, môn cổ ngữ Pāli là môn ngài rất thông thạo.
Đối với đạo pháp, mặc dù nhiều Phật sự đa đoan, ngài vẫn dịch một số kinh sách như cư sĩ Thiện Thành, Tứ thanh tịnh giới, Pháp xa, Chuyển pháp luân, Bồ tát khổ hạnh, Hàng rào giai cấp, Niệm thân, Chánh giác tông, Tội ngũ trần, Chuyện ngạ quỷ, Quả báo sa môn, Nhân quả liên quan, Kho tàng pháp bảo, Pháp đầu đà, Văn phạm Pāli, Tà kiến chánh kiến, Hội nghị quốc tế, Định luật thiên nhiên của vũ trụ và quyển cuối cùng là Từ điển Pāli.
Đối với dân tộc, ngài đã đóng góp công sức vào cuộc đấu tranh chống Mỹ ngụy đòi tự do dân chủ. Sau ngày giải phóng, mặc dù tuổi cao sức yếu, ngài vẫn cố gắng đem hết nhiệt tình phục vụ dân tộc, đạo pháp và chủ nghĩa xã hội, tích cực vận động đoàn kết giới Phật giáo, đoàn kết dân tộc, đoàn kết cùng các tôn giáo bạn, thực hiện các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, nhằm xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 17/9/1979, mặc dù sức khỏe yếu, bịnh cũ có triệu chứng tái phát, ngài vẫn vì nghĩa tình quốc tế cao cả và đạo Phật xứ thầy, nhận lời mời của Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, ngài làm trưởng đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam thăm hữu nghị Campuchia, và dự lễ Donta Chumbanh tại Phnôm Pênh. Buổi lễ lớn nhất của dân tộc Campuchia góp phần cùng cách mạng Campuchia bước đầu phục hồi lại đạo Phật và ngày lễ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Campuchia đã bị bọn Pôn-pốt Ieng-sa-ry hủy diệt trong 4 năm qua. Ngày 17/9/1979, bịnh cũ đột phát trầm trọng, đến 2 giờ sáng ngày 21/9/1979, ngài an nhiên viên tịch hưởng thọ 65 tuổi đời và 39 tuổi hạ.
Mấy dòng, chúng tôi muốn nói lên lòng tri ân và kính phục của chúng tôi đối với vị cao tăng của Giáo hội. Kính xin giác linh của ngài từ bi hỷ xả và hộ trì cho toàn thể tăng tín đồ của Giáo hội được luôn luôn tinh tấn trên đường phụng sự đạo pháp và dân tộc.
Kỷ niệm trong tôi về cố Hòa thượng Bửu Chơn
Tôi được vinh hạnh diện kiến Hòa Thượng Bửu Chơn năm 1963 trong dịp Ngài về hoằng pháp tại chùa Tỉnh Hội Quảng Trị sau khi Phật giáo vừa thoát nạn kỳ thị tôn giáo và bị đàn áp dã man dưới thời gia đình trị họ Ngô. Lúc đó tôi đang học lớp đệ nhất (tức lớp 12 bây giờ) tại trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị.
Năm 1964 tôi xuất gia với thầy bổn sư là Hòa thượng Giới Nghiêm tại chùa Tam Bảo-Đà Nẵng, đến năm 1965 tôi theo thầy vào chùa Kỳ Viên-quận 3, Sài Gòn, để theo học trường Đại học Vạn Hạnh, ở đây tôi mới thật sự được tiếp xúc với Ngài Bửu Chơn nhiều hơn vì chùa Kỳ Viên là trụ sở của Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam mà ngài là một trong những vị đồng sáng lập và đã nhiều lần giữ chức vụ Tăng thống hoặc cố vấn Ban Chưởng quản Giáo hội.
Ở chùa Kỳ Viên tôi mới được nghe ngài thuyết pháp nhiều hơn. Ngài thuyết giảng rất tự nhiên và lưu loát, kể cả khi giảng pháp cho người nước ngoài bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Ngài biết nhiều ngôn ngữ nên thường được Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam cử đi tham dự các hội nghị Phật giáo thế giới. Ấn tượng trong tôi về ngài là tính cách cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn, nhanh nhẹn cả trong cách nói, cách làm và đặc biệt là khi đi kinh hành trong sân chùa, ngài đi “như gió lướt” làm tôi vô cùng ngạc nhiên vì tôi thường thấy Thầy tôi hoặc Ngài Hộ Tông đều đi kinh hành rất khoan thai chậm rãi. Về sau, qua trải nghiệm, bản thân tôi mới nhận ra rằng đối với những bậc có trí tuệ mẫn tiệp đi kinh hành nhanh và tự nhiên dễ thể nhập thực tánh pháp hơn là cố ý đi chậm lại.
Vì ngài thường nghiêm khắc với hàng đệ tử hậu học như chúng tôi nên tôi ít khi dám đến gần ngài, trừ phi có Phật sự Giáo hội. Năm 1972, khi cuốn Đạo Phật Con Đường Hạnh Phúc đầu tay của tôi được xuất bản, tôi đem một tập đến cung kính dâng lên ngài, vừa nhìn thấy cuốn sách ngài nghiêm nghị hỏi: “Ông căn cứ vào đâu mà dám viết sách?”. Tôi cố lấy bình tĩnh trả lời: “Bạch Ngài, con đọc các tạp chí Phật giáo Tích Lan rồi lấy tài liệu để biên soạn thôi ạ”. Ngài dịu giọng nói: “Viết sách Phật học không phải dễ, phải cẩn thận mới được”. Tôi “dạ” và cũng từ bài học nghiêm minh đó của ngài, về sau tôi chỉ viết những gì tôi thực thấy, không dám lạm bàn Phật pháp quá tầm thấy biết của mình.
Ngài dịch nhiều bài Kinh, Luật trong Tam Tạng Pāli và viết một số tác phẩm, phần nhiều dưới dạng tường thuật hoặc bút ký. Tôi rất ngưỡng mộ những tác phẩm của ngài, nhất là những cuốn sách tường thuật các cuộc hội nghị Phật giáo quốc tế mà ngài đã tham dự có minh họa với nhiều hình ảnh chùa tháp hoặc di tích lịch sử ở các nước Phật giáo trên thế giới mà ngài đã đi qua.
Năm 1979, trong chuyến Phật sự lịch sử qua Campuchia, ngài làm trưởng phái đoàn Chư Tăng Nguyên Thủy Việt Nam với sứ mạng phục hồi Tăng đoàn Phật giáo tại bản xứ đã bị pháp nạn dưới chế độ diệt chủng Pôn-pốt Iêng-sơ-ri. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ngài đã thị tịch ngay trên xứ sở mà xưa kia ngài đã xuất gia tu học thành tài. Nhục thể của ngài đã được đưa về chùa Kỳ Viên, trụ sở của Giáo hội để cử hành lễ tang. Lúc đó tôi là Tổng Thư ký Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam nên đã đứng ra tổ chức Tang lễ cùng với chư Tôn Đức trong Ban Chưởng quản Giáo hội.
Ngài ra đi, rồi tiếp tục là Ngài Hộ Tông, Ngài Ẩn Lâm, Ngài Giới Nghiêm cũng ra đi sau đó không lâu đã để lại một khoảng trống không thể bù đắp được cho Giáo hội Tăng già và chư Tăng, Phật tử Nguyên Thủy Việt Nam.
Tôi viết lại những dòng này với một niềm cảm xúc vô cùng khó tả, cảm giác bơ vơ như những đứa con mồ côi, chỉ biết ngậm ngùi nhìn các bậc tiền bối của mình lần lượt ra đi không hẹn ngày trở lại! Vậy là từ đây hàng hậu học chúng tôi phải tự mình vươn lên trong một thời kỳ khủng hoảng khó khăn nhất của hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam. Chúng tôi chỉ biết nguyện đem hết sức mình để đền đáp công ơn của các bậc tiền bối đã khó khăn lắm mới đem được Phật Giáo Nguyên Thủy về Việt Nam ngay trong thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất của thế chiến thứ hai.
Người đi còn lại nụ cười
Cho yêu thương nối tình người ngàn sau
Cho cây đơm lá xanh màu
Cho trăng sáng mãi nhịp cầu thủy chung.
Con xin kính cẩn nghiêng mình trước giác linh Ngài Bửu Chơn và các bậc tiền bối đã đem trọn đời tu hành của mình để cống hiến cho sự nghiệp phục vụ Đạo pháp và Dân tộc.
Kính bái.
Tưởng niệm công đức một bậc Cao tăng ‒ Hòa thượng Bửu Chơn
Cách nay 105 năm (1911-2016), tại vùng đất mệnh danh là xứ Phật, đất Tổ của Phật giáo Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa cũng như nay, một bậc chân tu đã xuất hiện, đó là Hòa thượng Bửu Chơn, thế danh Phạm Văn Tông, sinh năm Tân Hợi (1914) tại Sa Đéc (nay là Đồng Tháp). Lớn lên xuất gia tu học tại xứ Chùa tháp ‒ Campuchia theo Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda) từ năm 1940 – 1951 tại chùa Lankar, do Hòa thượng Chua Nut trụ trì.
Bấy giờ Phật giáo Nam Tông đã hình thành tại Việt Nam từ năm 1930 do quý Cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu và Hòa thượng Hộ Tông v.v… dày công khởi xướng định hình.
Đến năm 1951, được quý Phật tử Phật giáo Nam Tông Việt Nam cung thỉnh ngài từ xứ Chùa tháp về Việt Nam hành đạo tại chùa Phổ Minh-Gò Vấp, Gia Định.
Năm 1957, ngài cùng quý Hòa thượng Hộ Tông, Thiện Luật v.v… thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Tại Đại hội Ban Chưởng quản Lâm thời, ngài được tôn làm Tăng thống Ban Chưởng quản Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Khi mở Đại hội Khoán đại đầu tiên của Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, Hòa thượng Hộ Tông đắc cử Tăng thống, ngài đắc cử Phó Tăng thống thứ nhất.
Năm 1962, ngài đắc cử Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam khóa III. Năm 1972 – 1975, ngài được suy cử vào chức vụ Phó Tăng thống trong hai khóa VIII và IX.
Đến năm 1979, ngài được thỉnh làm Cố vấn Ban Chưởng quản Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam.
Để phát huy và giới thiệu Phật giáo Việt Nam thông qua Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam, Hòa thượng đã công du hành đạo, trải qua nhiều nước trên thế giới, nhất là Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Ấn Độ, Nepal, Nhật Bản, Tân Gia Ba, Tây Đức v.v… Đặc biệt, Hòa thượng đã tham dự Hội nghị Kiết tập Tam Tạng lần thứ VI tại Miến Điện (1954-1955) và các cuộc hội nghị, diễn đàn quốc tế khác. Nhất là Hòa thượng đã được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Liên hữu Phật giáo thế giới năm 1960 tại Thái Lan.
Năm 1961, ngài cùng Hòa thượng Giới Nghiêm, Đại đức Narada – Tích Lan, khởi công kiến thiết Thích Ca Phật Đài, Núi Lớn – Vũng Tàu, một thắng tích Phật giáo Việt Nam còn lại đến ngày nay, trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong công cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi bình đẳng các Tôn giáo, hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc, với cương vị Phó Chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, Hòa thượng đã góp phần cho sự thành công cuộc đảo chính ngày 01/11/1963, đưa Phật giáo qua cơn Pháp nạn và đưa đến chiến dịch giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975.
Sau cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 01/11/1963 thành công, là giai đoạn thống nhất Phật giáo Việt Nam lần thứ hai, ngày 04/01/1964 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời. Hòa thượng Bửu Chơn được suy tôn vào hàng Trưởng lão Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất trong nhiều nhiệm kỳ, góp phần trang nghiêm Giáo hội, trang nghiêm vườn hoa Đạo Phật Việt Nam thống nhất hai Hệ phái Bắc tông – Nam tông trong lòng dân tộc Việt Nam, tạo nên sắc thái đặc biệt cho công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ XVII – XVIII và dẫn đến thế kỷ XXI của nhân loại ngày nay.
Sau ngày 30/4/1975, trong tinh thần đoàn kết hòa hợp các Hệ phái Phật giáo, Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh ra đời, do Hòa thượng Minh Nguyệt làm Chủ tịch, với cương vị là Phó Chủ tịch, Hòa thượng Bửu Chơn đã vận động chư Tăng, Tu nữ và Phật tử Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam tham gia công cuộc xây dựng đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh trong những ngày đầu mới giải phóng, góp phần ổn định tình hình xã hội, phát triển đất nước, tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Ngoài công tác trong nước, Hòa thượng còn góp phần lớn trong công tác đối ngoại, nhất là các nước lân cận như Campuchia, Lào anh em.
Ngày 17/9/1979, đáp lời mời của Chính phủ Campuchia, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Campuchia, Hòa thượng dẫn đầu đoàn Phật giáo Việt Nam sang đất nước Chùa tháp tham dự Lễ Dolta nước bạn và Lễ phục giới xuất gia cho 08 thầy tỳ kheo còn sống sót dưới chế độ diệt chủng Pol Pot Iengsary. Trong các vị tái xuất gia đó, ngày nay còn lại Đức Tăng thống Phật giáo Vương quốc Campuchia – Đại lão Hòa thượng Tép Vong và Phật giáo Campuchia từ đó đến nay không những đã phát triển huy hoàng, vững mạnh, sánh đôi với Phật giáo Thái Lan, Lào, Việt Nam mà còn là động lực thúc đẩy Phật giáo ba nước Đông Dương, cùng Đông Nam Á càng thêm hưng phấn và đoàn kết hòa hợp hơn trong sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế và Phật giáo quốc tế, trong đó không thể tách rời công đức của Hòa thượng Bửu Chơn đối với Phật giáo Việt Nam, ngày nay là Giáo hội Phật giáo Việt Nam đỉnh cao của thời đại.
Thế rồi, Hòa thượng đã theo luật vô thường, trở về thế giới Niết-bàn bất diệt, viên tịch ngày 21/9/1979, thọ 65 tuổi, hạ lạp 39 năm. Quả thực: “Hữu vi là Pháp vô thường, Sớm còn tối mất vô phương vững bền. Một khi sinh diệt đã không, Niết bàn an lạc thong dong tháng ngày”. Để rồi, gần 40 năm qua, kể từ khi Hòa thượng viên tịch, ngày nay Phật giáo Việt Nam – Giáo hội Phật giáo Việt Nam bao gồm các tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo Bắc Tông, Nam Tông, Khất Sĩ, Phật giáo người Hoa… trong ngôi nhà chung của nền thống nhất đặc biệt của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Dù Hòa thượng không còn nữa để chứng kiến sự hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam, của Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng công đức và đạo hạnh của ngài vẫn còn hiện hữu trong lòng Tăng Ni, Tu nữ, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam và trang sử muôn màu của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Thế mới biết:
“Một mai thân xác tiêu tan
Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời
Pháp thân lồng lộng sáng ngời
Chan hòa pháp giới rạng ngời sử xanh”.
Mùa Xuân Bính Thân 2016
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thập niên 70, tôi được những người bạn mời đến tham dự lễ đầu đà ở tại chùa Phổ Minh. Đó là lần đầu tiên tôi được biết Hòa thượng Bửu Chơn. Ngài hiền hòa, vui vẻ, bình dị và gần gũi với hàng Phật tử. Sau này, tìm hiểu về ngài mới biết ngài là một vị cao tăng sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và cố vấn tinh thần tối cao của Phật giáo thế giới, tôi càng kính phục ngài nhiều hơn nữa. Từ đó có ý nghĩ xuất gia theo hạnh của ngài. Trong những hội nghị của Giáo hội tại trụ sở Trung ương Kỳ Viên, ngài làm chủ tọa những hội nghị giải quyết những vấn đề của Giáo hội, tình lý viên dung, giải quyết vấn đề ngắn gọn, đơn giản và hiệu quả. Tôi cũng từng nghe ngài thuyết Pháp ở chùa Kỳ Viên-quận 3, Sài Gòn và chùa Phổ Minh – quận Gò Vấp. Lối thuyết giảng của ngài sống động, cuốn hút người nghe, chuyển hóa cao. Ngài kể những mẩu chuyện trong Phật giáo có tính giáo dục cho mọi tầng lớp. Mỗi lần tôi và thân mẫu đến thăm ngài ở tại chùa Phổ Minh, dù sức khỏe yếu nhưng ngài cũng tận tụy hướng dẫn, dạy đạo cho chúng tôi và thân mẫu. Gặp gỡ ngài thấy lòng từ bi của ngài bao la rộng lớn. Nay, tôi viết những dòng này để tưởng nhớ đến ngài mà lòng tôi vẫn xúc động.
Tôi gặp ngài vào năm 1976 tại chùa Bồ Đề-TP Vũng Tàu. Ngài mặc y màu vàng đỏ, phong cách trang nghiêm, thanh tịnh. Sau tôi khi đảnh lễ, ngài khuyên dạy chúng tôi ‒ những người mới xuất gia phải nghiêm trì giới luật và sống đời phạm hạnh để xứng đáng là bậc xuất gia cho thiên nhân lễ bái cúng dường. Những tác phẩm của Hòa thượng phiên dịch và sáng tác, tôi thường xuyên xem và nghiên cứu, và xem như là phương châm trong việc tu tập và hành đạo. Cuộc đời và hành trạng của ngài đã cống hiến trọn vẹn cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngài đã vĩnh viễn ra đi hơn 37 năm trôi qua, hàng hậu bối chúng tôi cố gìn giữ, phát huy và lan tỏa cho Phật giáo Nguyên Thủy.
Như Một Ánh Sao
(Cảm niệm về Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn)
Hỡi ôi!
Như một ánh sao
Ngài loé sáng qua bầu trời
Phật giáo Theravāda
Rất là huy hoàng
Rất là diễm lệ
Và cũng rất kiêu hùng đạp qua dâu bể
Vào thời đại mà Việt Nam
Chưa hề có Phật giáo uyên nguyên
Ngài cùng với đệ huynh
Chèo chống một con thuyền
Biết bao là phong ba
Biết bao là bão táp
Như là một bát, ba y bước qua sa mạc
Sa mạc của chấp thủ nhiều đời
Sa mạc của cuồng tín lên ngôi
Sa mạc của tín ngưỡng đa thần tối tăm và ngu muội...
Ôi!
Tôi nhớ,
Ngài xuất gia tỳ-khưu tháng 7 năm 1940
Khi vừa qua độ hoa xuân niên tuế
Trải qua 39 năm tuổi đạo
Đến năm 1979 là ngài đã vội vã ra đi
Ngài đã ra đi nhưng ngài không mất
Và dẫu có đi mất
Nhưng ngọn lửa tâm linh không tắt
Vẫn cháy sáng bập bùng
Vẫn rạng rỡ giữa thiên khung
Mãi mãi lưu danh giáo sử Và rõ nhất là
Từ điển Pāḷi từng dòng, từng chữ
Đã khắc sâu
Trong tâm thức thế hệ học Phật hôm nay!
Ôi!
Ngài như một áng mây bay
Và cho dẫu chỉ như áng mây bay
Nhưng là áng mây
Bồng bềnh, phiếu diễu
Là áng mây ngàn cao thù diệu
Thanh thản, nhẹ nhàng
Mang dáng vẻ hư linh!
Ngài đã nhẹ lướt phù sinh
Mà ba-la-mật công đức
Vẫn còn thơm
Vẫn còn phảng phất
Trong những diễn văn, diễn từ
Trong các cuộc hội nghị Phật giáo năm châu!
Ôi!
Đừng nên hỏi rằng
Ngài sẽ đi đâu, về đâu
Trong cuộc mộng tử sinh
Bóng dáng bậc sa-môn thượng sĩ
Đã hoàn thành xong sứ mạng lịch sử
Sứ mạng thắp kinh
Sứ mạng thắp chữ
Sứ mạng giáo huấn môn đồ
Sứ mạng đẹp như vần thơ
Tại chùa Kỳ Viên
Tại chùa Phổ Minh
Và cả trong lòng môn sinh tử tôn hậu tấn!
Ôi!
Tôi nhớ tôi đã viết sử đời ngài
Vốn là một trí thức trẻ
Nhớ gọng kiếng trắng
Và nhớ vầng trán cao
Mường tượng một trung-niên-tăng-học-giả
Du học Thái, Tích Lan
Gom kinh, thâu chữ
Nắm cho vững Pāḷi cổ ngữ
Và dĩ nhiên tiếng Thái, tiếng Miến
Rồi lại còn tiếng Pháp, tiếng Anh
Vừa đủ dùng
Cũng vừa đủ làm sáng giáo nghĩa, giáo minh
Và cũng vừa đủ
Khoác túi hành trang
Đông Tây đối thoại!
Ôi!
Hôm nay
Thời gian qua mau Gần 40 năm
Từng giọt nước nguồn xuôi về đông hải
Kỷ niệm đời ngài
Tôi với từng con chữ gõ lao xao
Từng con chữ nghẹn ngào
Kính, thương
Và cũng rất xót xa
Những gốc đại thụ
Của Phật giáo Nguyên thuỷ ta
Lần hồi, trước sau bật gốc
Chữ và từ viết lên
Như chơn, như thực?
Hay tựa như đốm mộng không hoa
Ảo hoá trùng trùng
Hành trạng đi về của các ngài
Muôn đời,
Vốn vô thuỷ vô chung!
Huế, Huyền Không Sơn Thượng
Mai Trúc Am, xuân Bính Thân, 2016
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Hòa thượng Bửu Chơn là một vị cao tăng lỗi lạc của Phật giáo Nguyên Thủy. Tôi gặp ngài tại chùa Tam Bảo – Đà Nẵng dịp lễ Dâng y Ka-ṭhi-na khoảng thập niên 70. Tuy mới gặp ngài nhưng qua phong cách, đạo hạnh thuyết Pháp, tôi càng tôn kính ngài nhiều hơn. Phật giáo Nguyên Thủy ở miền Trung phát triển tốt đẹp cho đến ngày nay cũng nhờ một phần đóng góp tích cực trong vai trò lãnh đạo của một vị Tăng thống Giáo hội Nguyên Thủy Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ. Được biết ngài là sư huynh của HT. Hộ Tông và HT. Giới Nghiêm, một vị uyên thông pháp học và pháp hành nhưng phong cách của ngài giản dị, gần gũi với quần chúng.
Tôi xuất gia sa di với HT. Bửu Chơn năm 1974, thông qua sự tiếp dẫn của HT. Thích Thiện Tâm của chùa Phước Hải.
Tôi đã gặp được ngài HT. Bửu Chơn tại chùa Phước Hải, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Vũng Tàu. Ngài rất quan tâm đến các em Phật tử bé nhỏ như chúng tôi. Khi lớn lên, được xuất gia sa di với ngài, tôi vô cùng kính phục phong cách nhanh nhẹn, hoạt bát cũng như tài năng thuyết Pháp của ngài. Các quyển kinh sách mà ngài biên soạn được in ra trước năm 1975 tôi đều có duyên được đọc và học thuộc lòng như: Ân đức Phật bảo, Ân đức Pháp bảo và Tăng bảo, Kho tàng Pháp bảo, Niệm thân, Chuyện ngạ quỷ, Hội nghị quốc tế. Nhờ đó đã giúp cho tôi có những kiến thức Phật học căn bản. Đặc biệt, những hoạt động quốc tế của ngài được in lại trong quyển Hội nghị quốc tế làm cho tôi hiểu thêm về tình hình Phật giáo ở nước ngoài, làm tăng thêm niềm tin đối với Phật pháp.
HT. Bửu Chơn, vị cao tăng thạc đức hữu công của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam, thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam trước đây, một bậc thiền sư, pháp sư lỗi lạc, là một ngôi sao trong bầu trời Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Thế giới.
Vài nét về Hòa thượng Đệ nhất Tăng thống Bửu Chơn
Trong khi hoài niệm đến công đức vị đệ Nhất Tăng thống Bửu Chơn, Giáo hội TGNTVN, tôi xin thắp lên một nén hương lòng và mời tất cả chư Phật tử bốn phương là bổn đạo và đệ tử của Ngài cùng chúng tôi chắp tay cầu nguyện Ngài được siêu sanh nơi nhàn cảnh và xin nguyện không xa rời tam qui ngũ giới, sa di giới, tỳ khưu giới, nhất là 227 giới của các vị tu sĩ trọng yếu trong Phật giáo. Chính các ngài sẽ tạo nên Giáo pháp thịnh hành hay đẩy lùi Phật pháp diệt vong.
Để thật sự nhớ mãi đấng hiền đức, lời giáo huấn thâm sâu, chơn chánh của Ngài Đệ Nhất Tăng thống Bửu Chơn. Tôi xin phép đại diện chư Phật tử Phật giáo Nam Tông, vì đã nhiều năm cộng tác với ngài nguyên nhiệm là Tổng Thư ký của Giáo hội, tôi đã nhận lệnh của ngài cùng đoàn Liên phái Phật giáo hiên ngang đi vào hang hùm của TT Ngô Đình Diệm để đòi hỏi 5 nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam và nhiều việc nguy hiểm khác để giao lưu với các giáo phái bạn. Nhưng khi ở Giáo hội mỗi phiên họp Ban Chưởng Quản (BCQ) sau khi họp bàn việc điều hành Giáo hội, điểm qua về Phật sự từ Trung phần rồi cả phần phía Nam về đời sống tu hành của chư tăng, Phật tử giáo phái y cứ không lai căn, lệch lạc tư tưởng thần đạo sai lầm, chính bản thân ta là tín đồ, nếu là cao tăng dẫn dắt nhiều người, hy vọng đắc thành đạo quả sẽ trở thành không tưởng. Trên đây là lời giáo huấn căn bản về phương hướng tu hành theo Chánh pháp.
Riêng về vấn đề phạm hạnh, ngài căn dặn tăng tín đồ không nên để một phút lơ là trong bổn phận của một vị tu sĩ, để vi phạm giới cấm là không tránh khỏi vấn đề thức ăn tinh khiết của đàn na tín thí, bất kể mặn lạt đều sẽ hóa thành lửa hồng vô dụng. Đối với việc hành đạo thì
Ngài xem như là vấn đề hệ trọng nhất của các vị tỳ khưu, nên giữ sao cho đúng nghĩa của người ăn xin (bhikkhu) không thì tai hại khó lường.
Đối với Phật pháp chơn truyền qua những phiên họp BCQ thì nhận thấy thời bấy giờ Phật tử các nơi từ làng xã đến thành thị thì đâu đâu cũng đều báo cáo là thuận lợi, vui vẻ, họ đều hâm mộ đạo Phật mới mẻ này và hầu hết mọi Phật tử đều trở thành diễn giả, Pháp sư. Mọi tín đồ, tân tăng đều phấn khởi hỗ trợ nhau trong thời buổi chiến tranh ác liệt để hành đạo và truyền đạo.
Cảm nghĩ sau cùng của trí giả, tôi và hầu hết tín đồ Phật giáo Nguyên Thủy đến với chánh pháp chỉ có một mục đích duy nhất là để tạo phúc đức và tuyệt đối tin tưởng là sẽ đạt thành ý nguyện giải thoát, Niết-bàn, với điều kiện là Phật pháp vẫn phát triển y như lời giáo huấn của các ngài Hòa thượng Tăng thống (TT) Bửu Chơn, HT. TT. Hộ Tông, và HT. TT. Giới Nghiêm trùng tuyên lại từ Tam tạng Pāli mà thôi, chẳng tin tưởng những cao kiến ngụy biện nào khác sẽ có lỗi với Tam bảo.
Namo Buddhāya
TS. Thái Văn Chải
PD Dũng Chí
[Chương trước][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][Chương tiếp theo]