Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 04

ĐẠI PHẨM tập I

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

II. CHƯƠNG UPOSATHA

  

TỤNG PHẨM CÁC NGOI ĐẠO

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, ở núi Gijjhakūṭa. Vào lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có ḷng mến chuộng, có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng.

 

2. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: “Hiện nay, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có ḷng mến chuộng, có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng. Hay là các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng?”

 

3. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nói với đức Thế Tôn điều này:

 

4. - “Bạch ngài, trường hợp trẫm trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: ‘Hiện nay, các du sĩ ngoại đạo tụ hội lại và giảng pháp vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe pháp. Họ có ḷng mến chuộng, có niềm tin vào các du sĩ ngoại đạo; các du sĩ ngoại đạo có được đồ chúng. Hay là các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng?’ Bạch ngài, tốt đẹp thay các ngài đại đức cũng nên tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.”

 

5. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

6. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng,” nên sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng, các vị ấy ngồi im lặng. Dân chúng đi đến gần họ để nghe Pháp. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng lại ngồi im lặng giống như là các con heo đần độn vậy? Sao các vị đă tụ hội lại mà không chịu giảng Pháp?”

 

8. Các tỳ khưu đă nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

9. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép giảng Pháp sau khi tụ hội vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng.”

 

10. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: “Hay là ta nên cho phép các vị ấy việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha gồm các điều học đă được ta quy định cho các tỳ khưu, việc ấy sẽ là hành sự Uposatha cho các vị ấy?”

 

11. Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn đă xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trường hợp ta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: ‘Hay là ta nên cho phép các vị ấy việc đọc tụng Pātimokkha gồm các điều học đă được ta quy định cho các tỳ khưu, việc ấy sẽ là hành sự Uposatha cho các vị ấy?’ Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Và này các tỳ khưu, nên đọc tụng như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

12.“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Phận sự trước tiên của hội chúng là ǵ? Các đại đức hăy tuyên bố sự trong sạch rồi tôi sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Hết thảy tất cả các vị hiện diện (chúng ta) hăy nghiêm chỉnh lắng nghe và hăy chú tâm đến điều ấy. Nếu vị nào có phạm tội, vị ấy nên bày tỏ; vị không có phạm tội th́ nên im lặng. Do thái độ im lặng, tôi sẽ nhận biết về các đại đức rằng: ‘(Các vị) được trong sạch.’ Giống như đối với mỗi lần được hỏi đến th́ có câu trả lời; tương tự như thế, trong hội chúng như thế này (câu hỏi) được thông báo đến lần thứ ba. Trong khi đang được thông báo đến lần thứ ba, vị tỳ khưu nào nhớ ra mà không bày tỏ tội đang có th́ vị ấy cố t́nh nói dối. Bạch chư đại đức, việc cố t́nh nói dối là pháp chướng ngại đă được đức Thế Tôn đề cập đến; do đó, vị tỳ khưu bị phạm tội mà nhớ ra và có ư muốn được trong sạch th́ nên bày tỏ ra tội đang có. Bởi v́ khi (tội) đă được bày tỏ th́ vị ấy sẽ được thoải mái.”

 

13. Pātimokkha: điều này là đầu tiên, điều này là lối đưa vào, điều này là đứng đầu của các thiện pháp, do đó được gọi là “Pātimokkha.”

 

14. Các đại đức: điều này là lời nói quư mến, điều này là lời nói kính trọng, điều này là lời nói có sự tôn kính và có sự phục tùng, tức là “các đại đức.”

 

15. Tôi sẽ đọc tụng: Tôi sẽ chỉ ra, tôi sẽ giảng, tôi sẽ cho biết, tôi sẽ bày ra, tôi sẽ khai triển, tôi sẽ phân tích, tôi sẽ làm rơ ràng, tôi sẽ cho thấy rơ.

 

16. Điều ấy nghĩa là giới bổn Pātimokkha được nói đến.

 

17. Hết thảy tất cả các vị hiện diện: trong hội chúng ấy cho đến các vị trưởng lăo, các vị mới tu, hoặc các vị trung niên, các vị này được gọi là “hết thảy tất cả các vị hiện diện.”

 

18. (Chúng ta) hăy nghiêm chỉnh lắng nghe: Sau khi định thần, sau khi chú tâm, sau khi tập trung tất cả tâm ư.

 

19. (Chúng ta) hăy chú tâm: (chúng ta) hăy chăm chú với tâm trú vào một điểm, với tâm không bị xao lăng, với tâm không bị rối loạn.

 

20. Nếu vị nào có phạm tội: Bất cứ tội nào thuộc nhóm năm tội hoặc bất cứ tội nào thuộc nhóm bảy tội của vị trưởng lăo, của vị mới tu, hoặc của vị trung niên.

 

21. Vị ấy nên bày tỏ: vị ấy nên sám hối, vị ấy nên khai ra, vị ấy nên làm rơ ràng, vị ấy nên cho thấy rơ ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một cá nhân.

 

22. Không có phạm tội: nghĩa là vị ấy không phạm tội, hoặc là sau khi phạm tội đă được thoát khỏi tội.

 

23. Nên im lặng: nên ưng thuận, không nên phát biểu.

 

24. Tôi sẽ nhận biết rằng: ‘(Các vị) được trong sạch’: Tôi sẽ biết được, tôi sẽ ghi nhận.

 

25. Giống như đối với mỗi lần được hỏi đến th́ có câu trả lời: Giống như việc một người được một người khác hỏi th́ nên trả lời, tương tự như thế đối với hội chúng ấy, điều cần được biết là: “Vị ấy hỏi tôi.” Hội chúng như thế này nghĩa là hội chúng các tỳ khưu được nói đến.

 

26. Được thông báo đến lần thứ ba: Được thông báo một lần, được thông báo đến lần thứ nh́, được thông báo đến lần thứ ba.

 

27. (Vị ấy) nhớ ra: (vị ấy) đang biết được, đang nhận ra được.

 

28. Tội đang có: nghĩa là tội đă vi phạm, hoặc là tội sau khi đă vi phạm c̣n chưa được thoát ra.

 

29. Không bày tỏ: (vị ấy) không sám hối, không khai ra, không làm rơ ràng, không cho thấy rơ ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một cá nhân.

 

30. Vị ấy cố t́nh nói dối: Là điều ǵ trong việc cố t́nh nói dối? Là đă làm điều sai trái.

 

31. Pháp chướng ngại đă được đức Thế Tôn đề cập đến: Chướng ngại của điều ǵ? Là chướng ngại cho việc chứng đắc sơ thiền, chướng ngại cho việc chứng đắc nhị thiền, chướng ngại cho việc chứng đắc tam thiền, chướng ngại cho việc chứng đắc tứ thiền, chướng ngại cho việc chứng đắc của các thiền, của các sự giải thoát, của các sự thể nhập định, của các sự xuất ly, của các sự ra khỏi (luân hồi), của các sự tịch tịnh, của các thiện pháp.

 

32. Do đó: V́ nguyên nhân ấy.

 

33. (Với) vị nhớ ra được: (Với) vị đang biết được, (với) vị đang nhận ra được.

 

34. Có ư muốn được trong sạch: có sự mong muốn được thoát ra, có sự mong muốn được làm cho trong sạch.

 

35. Tội đang có: nghĩa là tội đă vi phạm, hoặc là tội sau khi đă vi phạm c̣n chưa được thoát ra.

 

36. Nên bày tỏ ra: Nên được bày tỏ ra ở giữa hội chúng, hoặc ở giữa nhóm, hoặc nơi một cá nhân.

 

37. Bởi v́ khi (tội) đă được bày tỏ th́ vị ấy sẽ được thoải mái: Thoải mái của điều ǵ? Là sự thoải mái trong việc chứng đắc sơ thiền, là sự thoải mái trong việc chứng đắc nhị thiền, là sự thoải mái trong việc chứng đắc tam thiền, là sự thoải mái trong việc chứng đắc tứ thiền, là sự thoải mái trong việc chứng đắc của các thiền, của các sự giải thoát, của các sự thể nhập vào các tầng định, của các sự xuất ly, của các sự ra khỏi (luân hồi), của các sự tịch tịnh, của các thiện pháp.

 

38. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha đă được đức Thế Tôn cho phép” nên đă đọc tụng giới bổn Pātimokkha hàng ngày. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha hàng ngày; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha vào ngày Uposatha.”

 

39. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha đă được đức Thế Tôn cho phép vào ngày Uposatha” nên đă đọc tụng giới bổn Pātimokkha ba lần trong nửa tháng vào ngày mười bốn, vào ngày mười lăm, và vào ngày thứ tám của nửa tháng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ba lần trong nửa tháng; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một lần vào ngày mười bốn hoặc ngày mười lăm của nửa tháng.

 

40. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha theo tập thể, nghĩa là theo từng tập thể riêng của ḿnh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha theo tập thể, nghĩa là theo từng tập thể riêng của ḿnh; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép hành sự Uposatha hợp nhất.

 

41. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định ‘hành sự Uposatha hợp nhất,’ vậy sự hợp nhất có phạm vi đến tận đâu, cho đến phạm vi một trú xứ hay toàn bộ trái đất?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sự hợp nhất cho đến phạm vi một trú xứ.”

 

42. Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahākappina ngụ tại Rājagaha, ở Maddakucchi, nơi vườn nai. Khi ấy, đại đức Mahākappina trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: “Ta nên đi (tham dự) lễ Uposatha hay là không nên đi, ta nên đi (tham dự) hành sự của hội chúng hay là không nên đi, trong khi ta đă được thanh tịnh với sự thanh tịnh tối thượng?”

 

43. Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của đại đức Mahākappina, rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đă được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đă được duỗi ra, tương tự như thế (đức Thế Tôn) đă biến mất tại núi Gijjhakūṭa rồi hiện ra trước mặt đại đức Mahākappina ở Maddakucchi, nơi vườn nai. Đức Thế Tôn đă ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Đại đức Mahākappina đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đại đức Mahākappina đă ngồi xuống ở một bên, đức Thế Tôn đă nói với đại đức Mahākappina điều này:

 

44. - “Này Kappina, có phải ngươi trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ư nghĩ suy tầm như vầy đă sanh khởi: ‘Ta nên đi (tham dự) lễ Uposatha hay là không nên đi, ta nên đi (tham dự) hành sự của hội chúng hay là không nên đi, trong khi ta đă được thanh tịnh với sự thanh tịnh tối thượng?’” - “Bạch ngài, đúng vậy.” - “Nếu các ngươi là những người có Phạm hạnh không tôn trọng, không kính trọng, không quư trọng, không cúng dường lễ Uposatha th́ c̣n ai sẽ tôn trọng, sẽ kính trọng, sẽ quư trọng, sẽ cúng dường lễ Uposatha nữa? Này người có Phạm hạnh, ngươi hăy đi (tham dự) lễ Uposatha, chớ có không đi. Ngươi hăy đi (tham dự) hành sự của hội chúng, chớ có không đi.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Đại đức Mahākappina đă đáp lời đức Thế Tôn.

 

45. Sau đó, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đại đức Mahākappina bằng bài Pháp thoại rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đă được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đă được duỗi ra, tương tự như thế (đức Thế Tôn) đă biến mất trước mặt đại đức Mahākappina ở Maddakucchi nơi vườn nai rồi hiện ra tại núi Gijjhakūṭa.

 

46. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “‘Đức Thế Tôn đă cho phép sự hợp nhất cho đến phạm vi một trú xứ,’ vậy (phạm vi của) một trú xứ là đến tận đâu?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ấn định ranh giới. Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy: Trước tiên, các điểm mốc cần được định danh: điểm mốc là ngọn núi, điểm mốc là tảng đá, điểm mốc là khu rừng, điểm mốc là cội cây, điểm mốc là đường đi, điểm mốc là g̣ mối, điểm mốc là con sông, điểm mốc là vũng nước. Sau khi định danh các điểm mốc, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

47. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các điểm mốc xung quanh (phạm vi) đă được định danh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các điểm mốc xung quanh (phạm vi) đă được định danh. Hội chúng ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Đại đức nào đồng ư việc ấn định ranh giới với các điểm mốc ấy là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Ranh giới với các điểm mốc ấy đă được hội chúng ấn định là (khu vực) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

48. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép việc ấn định ranh giới” rồi ấn định các ranh giới quá rộng lớn bốn do tuần,[1] năm do tuần, sáu do tuần. Các vị tỳ khưu đi (tham dự) lễ Uposatha đi đến trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, đi đến khi vừa mới được đọc tụng xong, (hoặc) đă trú ngụ ở khoảng giữa (đường đi). Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên ấn định ranh giới quá rộng lớn bốn do tuần, năm do tuần, hoặc sáu do tuần; vị nào ấn định th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép ấn định ranh giới tối đa ba do tuần.”

 

49. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư ấn định ranh giới đến bờ bên kia của ḍng sông. Trong khi đi đến lễ Uposatha, các vị tỳ khưu đă bị cuốn trôi đi, các b́nh bát cũng đă bị cuốn trôi đi, các y cũng đă bị cuốn trôi đi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên ấn định ranh giới đến bờ bên kia của ḍng sông; vị nào ấn định th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ở nơi nào có thuyền bè thường trực hoặc có cầu cố định ta cho phép ấn định ranh giới đến bờ bên kia của ḍng sông theo h́nh thức như thế.”

 

50. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở dăy pḥng. Do không được quy định nên các vị tỳ khưu văng lai không biết được: “Hôm nay lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đâu?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở dăy pḥng không được quy định; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha sau khi chỉ định nhà hành lễ Uposatha tùy theo hội chúng mong muốn là trú xá, hoặc nhà một mái, hoặc ṭa nhà dài, hoặc khu nhà lớn, hoặc hang động. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

51. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định trú xá tên (như vầy) làm nhà hành lễ Uposatha xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Trú xá tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định làm nhà hành lễ Uposatha. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

52. Vào lúc bấy giờ, trong trú xứ nọ có hai nhà hành lễ Uposatha được chỉ định. Các tỳ khưu tụ hội ở cả hai nơi (nghĩ rằng): “Lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đây. Lễ Uposatha sẽ được thực hiện ở đây.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên chỉ định hai nhà hành lễ Uposatha ở trong một trú xứ; vị nào chỉ định th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép sau khi hủy bỏ một rồi thực hiện lễ Uposatha ở một nơi (c̣n lại). Và này các tỳ khưu nên hủy bỏ như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

53. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy). Đại đức nào đồng ư việc hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Nhà hành lễ Uposatha tên (như vầy) đă được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

54. Vào lúc bấy giờ, ở tại trú xứ nọ nhà hành lễ Uposatha được ấn định quá nhỏ. Vào ngày Uposatha, có đại chúng tỳ khưu đă tụ hội lại. Các vị tỳ khưu đă ngồi xuống ở khu vực không được ấn định và nghe giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Lễ Uposatha nên được thực hiện sau khi chỉ định nhà hành lễ Uposatha,’ c̣n chúng ta đây đă ngồi ở khu vực không được ấn định và nghe giới bổn Pātimokkha, như thế th́ lễ Uposatha của chúng ta đă được thực hiện hay đă không được thực hiện?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

- “Này các tỳ khưu, vị ngồi ở khu vực đă được ấn định hay không được ấn định và lắng nghe giới bổn Uposatha th́ từ chỗ đó lễ Uposatha của vị ấy đă được thực hiện. Này các tỳ khưu, như thế th́ hội chúng mong muốn mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha rộng tới mức nào th́ hội chúng hăy ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha rộng tới mức ấy. Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy: Trước tiên, các điểm mốc cần được định danh. Sau khi định danh các điểm mốc, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

55.“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các điểm mốc xung quanh (phạm vi) đă được định danh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Các điểm mốc xung quanh (phạm vi) đă được định danh. Hội chúng ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy. Đại đức nào đồng ư việc ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha với các điểm mốc ấy đă được hội chúng ấn định. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

56. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha các vị tỳ khưu mới tu đă tụ hội trước tiên (nghĩ rằng): “Các vị trưởng lăo vẫn chưa có đến” nên đă bỏ đi. Lễ Uposatha đă bị thiếu sót. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép các tỳ khưu trưởng lăo tụ hội trước nhất vào ngày lễ Uposatha.”

 

57. Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhiều trú xứ là cùng chung ranh giới. Các vị tỳ khưu ở đó tranh căi rằng: “Lễ Uposatha hăy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi. Lễ Uposatha hăy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trong trường hợp có nhiều trú xứ là cùng chung ranh giới và các vị tỳ khưu ở đó tranh căi rằng: “Lễ Uposatha hăy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi. Lễ Uposatha hăy được thực hiện ở trú xứ của chúng tôi.” Này các tỳ khưu, toàn bộ tất cả các tỳ khưu ấy nên tụ hội lại một chỗ rồi thực hiện lễ Uposatha, nơi nào có vị tỳ khưu trưởng lăo cư ngụ th́ nên tụ hội ở nơi ấy rồi thực hiện lễ Uposatha. Và lễ Uposatha không được thực hiện bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

58. Vào lúc bấy giờ, đại đức Mahākassapa từ Andhakavinda đang đi đến lễ Uposatha ở thành Rājagaha, trên đường đi trong khi vượt qua con sông đă suưt bị nước cuốn trôi. Các y của vị ấy bị ướt. Các tỳ khưu đă nói với đại đức Mahākassapa điều này: - “Thưa ngài, v́ sao các y của ngài bị ướt?” - “Này các đại đức, trường hợp tôi từ Andhakavinda đang đi đến lễ Uposatha ở thành Rājagaha, trên đường đi trong khi vượt qua con sông tôi đă suưt bị nước cuốn trôi; v́ thế các y của tôi bị ướt.”[2] Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha th́ hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y.[3] Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

59. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y. Đại đức nào đồng ư việc ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Ranh giới ấy đă được hội chúng ấn định là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

60. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Sự ấn định về việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y đă được Đức Thế Tôn cho phép” nên để các y trong xóm nhà. Các y ấy bị mất, bị cháy, bị chuột gặm nhấm. Các vị tỳ khưu trở nên ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm. Các vị tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đại đức, v́ sao các vị ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm?” - “Này các đại đức, trường hợp chúng tôi (nghĩ rằng): ‘Sự ấn định về việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y đă được Đức Thế Tôn cho phép’ nên đă để các y trong xóm nhà. Các y ấy đă bị mất, đă bị cháy, đă bị chuột gặm nhấm; do đó, chúng tôi trở nên ăn mặc bê bối, y phục luộm thuộm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha th́ hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Và này các tỳ khưu, nên ấn định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

61. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Đại đức nào đồng ư việc ấn định ranh giới ấy là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Ranh giới ấy đă được hội chúng ấn định là không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, ngoại trừ làng và vùng ven làng. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

62. Này các tỳ khưu, trong khi ấn định ranh giới, trước tiên nên ấn định ranh giới đồng cộng trú, sau đó nên ấn định việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y. Này các tỳ khưu, trong khi hủy bỏ ranh giới, trước tiên nên hủy bỏ việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y, sau đó nên hủy bỏ ranh giới đồng cộng trú. Và này các tỳ khưu, việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y nên được hủy bỏ như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

63. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y nào đă được hội chúng ấn định, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng hội chúng nên hủy bỏ việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y ấy. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y nào đă được hội chúng ấn định, hội chúng hủy bỏ việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y ấy. Đại đức nào đồng ư sự hủy bỏ việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Việc không (bị phạm tội v́) xa ĺa ba y ấy đă được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

64. Và này các tỳ khưu, ranh giới đồng cộng trú nên được hủy bỏ như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên hủy bỏ ranh giới ấy. Đây là lời đề nghị.

 

 Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Ranh giới nào đă được hội chúng ấn định là đồng cộng trú chung một lễ Uposatha, hội chúng hủy bỏ ranh giới đồng cộng trú chung một lễ Uposatha ấy. Đại đức nào đồng ư việc hủy bỏ của ranh giới đồng cộng trú chung một lễ Uposatha ấy xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

Ranh giới đồng cộng trú chung một lễ Uposatha ấy đă được hội chúng hủy bỏ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

65. Này các tỳ khưu, khi ranh giới chưa được ấn định chưa được thiết lập, vị (tỳ khưu) sống nương tựa vào ngôi làng hoặc thị trấn nào, trong trường hợp ấy ranh giới làng của ngôi làng ấy hoặc ranh giới thị trấn của thị trấn ấy là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha.

 

66. Này các tỳ khưu, nếu ở nơi không phải là làng, ở trong rừng, trong trường hợp ấy (khu vực) bảy abbhantara[4] ở xung quanh là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha.

 

67. Này các tỳ khưu, toàn bộ ḍng sông không phải là ranh giới, toàn bộ biển cả không phải là ranh giới, toàn bộ hồ thiên nhiên không phải là ranh giới. Này các tỳ khưu, trong ḍng sông, trong biển cả, trong hồ thiên nhiên, (khu vực) do việc ném nước ra xung quanh của người đàn ông (có sức mạnh) trung b́nh là (ranh giới) đồng cộng trú chung một lễ Uposatha trong trường hợp ấy

 

68. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư làm ranh giới (mới) gối lên ranh giới (đă có). Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào đă được ấn định trước, ranh giới ấy của các vị ấy là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy tŕ. Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào được ấn định sau, ranh giới ấy của các vị ấy là sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy tŕ. Này các tỳ khưu, không nên làm ranh giới (mới) gối lên ranh giới (đă có); vị nào làm gối lên th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

69. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư làm ranh giới (mới) trùm lên ranh giới (đă có). Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào đă được ấn định trước, ranh giới ấy của các vị ấy là đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy tŕ. Này các tỳ khưu, ranh giới của các vị nào được ấn định sau, ranh giới ấy của các vị ấy là sai Pháp, có thể sửa đổi, không đáng duy tŕ. Này các tỳ khưu, không nên làm ranh giới (mới) trùm lên ranh giới (đă có); vị nào làm trùm lên th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị ấn định ranh giới được ấn định ranh giới sau khi đă chừa ra khoảng cách giữa các ranh giới.”[5]

 

70. Sau đó, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Có bao nhiêu lễ Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Uposatha: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mười lăm. Này các tỳ khưu, đây là hai lễ Uposatha.”

 

71. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Có bao nhiêu hành sự Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Uposatha: Hành sự Uposatha sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Uposatha sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Uposatha đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự Uposatha đúng Pháp có sự hợp nhất.

 

72. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có h́nh thức như thế và hành sự Uposatha có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

73. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có h́nh thức như thế và hành sự Uposatha có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

74. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha đúng Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Uposatha có h́nh thức như thế và hành sự Uposatha có h́nh thức như thế không được ta cho phép.

 

75. Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Uposatha đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Uposatha có h́nh thức như thế và hành sự Uposatha có h́nh thức như thế được ta cho phép. Này các tỳ khưu, do đó ở đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Uposatha có h́nh thức như thế tức là ‘đúng Pháp có sự hợp nhất.’ Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.”

 

76. Sau đó, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Có bao nhiêu cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha: Sau khi đọc tụng phần mở đầu, nên thông báo phần c̣n lại bằng cách đă được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ nhất.

 

77. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, nên thông báo phần c̣n lại bằng cách đă được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ hai.

78. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa, nên thông báo phần c̣n lại bằng cách đă được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ ba.

 

79. Sau khi đọc tụng phần mở đầu, sau khi đọc tụng bốn điều pārājika, sau khi đọc tụng mười ba điều saṅghādisesa, sau khi đọc tụng hai điều aniyata, nên thông báo phần c̣n lại bằng cách đă được nghe; đây là cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha thứ tư.

 

80. (Đọc tụng) một cách chi tiết là cách thứ năm. Này các tỳ khưu, đây là năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha.

 

81. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt” rồi mọi lúc đều đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

82. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong nước Kosala vào ngày Uposatha có sự sợ hăi v́ đám lục lâm. Các vị tỳ khưu không thể đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách chi tiết. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi có sự nguy hiểm.”

 

83. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt ngay cả khi không có sự nguy hiểm. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi không có sự nguy hiểm; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt khi có sự nguy hiểm. Đây là mười sự nguy hiểm trong trường hợp ấy: Sự nguy hiểm từ đức vua, sự nguy hiểm v́ trộm cướp, sự nguy hiểm v́ hỏa hoạn, sự nguy hiểm v́ nước ngập, sự nguy hiểm v́ loài người, sự nguy hiểm v́ phi nhân, sự nguy hiểm v́ thú dữ, sự nguy hiểm v́ rắn, sự nguy hiểm cho mạng sống, sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt trong những (trường hợp) nguy hiểm có h́nh thức như thế và (đọc tụng giới bổn Pātimokkha) một cách chi tiết khi không có sự nguy hiểm.”

 

84. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thuyết Pháp ở giữa hội chúng khi không được thỉnh mời. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị không được thỉnh mời không nên thuyết Pháp ở giữa hội chúng; vị nào thuyết Pháp th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo đích thân thuyết Pháp hoặc thỉnh mời vị khác.”

 

85. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư khi chưa được chỉ định vẫn hỏi Luật ở giữa hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên hỏi Luật ở giữa hội chúng; vị nào hỏi th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị được chỉ định hỏi Luật ở giữa hội chúng.

 

86. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh, hoặc người khác chỉ định cho người khác.

 

87. Thế nào là tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi vị tên (như vầy) về Luật.”

 

Như vậy là tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh.

 

88. Thế nào là người khác chỉ định cho người khác? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ hỏi vị tên (như vầy) về Luật.”

 

Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.

 

89. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện đă được chỉ định rồi hỏi Luật ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự bực bội, hăm dọa hăm hại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đă được chỉ định quan sát tập thể và cân nhắc từng cá nhân rồi mới hỏi Luật ở giữa hội chúng.”

 

90. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trả lời về Luật ở giữa hội chúng dầu không được chỉ định. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên trả lời về Luật ở giữa hội chúng; vị nào trả lời th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đă được chỉ định trả lời về Luật ở giữa hội chúng.

 

91. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh, hoặc người khác chỉ định cho người khác.

 

92. Thế nào là tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

“Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ trả lời khi được vị tên (như vầy) hỏi về Luật.”

 

Như vậy là tự ḿnh chỉ định cho chính ḿnh.

 

93. Thế nào là người khác chỉ định cho người khác? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

- “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ trả lời khi được vị tên (như vầy) hỏi về Luật.”

 

Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.

 

94. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện, đă được chỉ định, trả lời Luật ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự bực bội, hăm dọa hăm hại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

- “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đă được chỉ định quan sát tập thể và cân nhắc từng cá nhân rồi mới trả lời về Luật ở giữa hội chúng.

 

95. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư buộc tội vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên buộc tội vị tỳ khưu chưa được thỉnh ư trước; vị nào buộc tội th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc tội sau khi đă thỉnh ư trước rằng: “Này đại đức, hăy cho phép. Tôi muốn nói với ngài.”

 

96. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu thỉnh ư trước các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi buộc tội. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự bực bội, hăm dọa hăm hại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, mặc dầu đă thỉnh ư rồi, ta cho phép cân nhắc về nhân vật (ấy) rồi mới buộc tội.”

 

97. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Các vị tỳ khưu hiền thiện (sẽ) thỉnh ư chúng ta trước tiên” liền ngay trước đó (đă) thỉnh ư (để buộc tội) các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có sự việc, không có nguyên do. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên thỉnh ư (để buộc tội) các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có sự việc, không có nguyên do; vị nào thỉnh ư th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép cân nhắc về nhân vật (ấy) trước rồi mới thỉnh ư (để buộc tội).”

 

98. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư thực hiện hành sự sai Pháp ở giữa hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự sai Pháp; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.” Các vị vẫn thực hiện hành sự sai Pháp. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.” - “Này các tỳ khưu, trong khi hành sự sai Pháp đang được tiến hành, ta cho phép phản đối.”

 

99. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu hiền thiện phản đối trong khi hành sự sai Pháp đang được tiến hành bởi các tỳ khưu nhóm Lục Sư. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự bực bội, hăm dọa hăm hại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép bày tỏ quan điểm.” Các vị bày tỏ quan điểm trong sự hiện diện của chính các vị kia. Các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư có sự giận dữ, có sự bực bội, hăm dọa hăm hại. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép phản đối với bốn năm vị, bày tỏ quan điểm với hai ba vị, c̣n một vị th́ khẳng định rằng: “Tôi không đồng ư việc này.”

 

100. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư trong lúc đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng cố ư không cho nghe được. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha không nên cố ư làm cho không nghe được; vị nào làm cho không nghe được th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

101. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha của hội chúng có giọng (nói) như loài quạ. Khi ấy, đại đức Udāyi đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nên làm cho nghe được,’ c̣n ta có giọng (nói) như loài quạ, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha nỗ lực (nghĩ rằng): ‘Bằng cách nào ta có thể làm cho (các vị) nghe được?’ Đối với vị đang nỗ lực th́ vô tội.”

 

102. Vào lúc bấy giờ, Devadatta đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở hội chúng có sự hiện diện của cư sĩ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở hội chúng có sự hiện diện của cư sĩ; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

103. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng dầu không được mời thỉnh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị không được mời thỉnh không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở giữa hội chúng; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lăo.”

 

Dứt tụng phẩm về các ngoại đạo.

 

--ooOoo--

 

TỤNG PHẨM CODANĀVATTHU

 

1. Sau đó, khi đă ngự tại thành Rājagaha theo như ư thích đức Thế Tôn đă ra đi du hành đến Codanāvatthu. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến Codanāvatthu. Tại nơi ấy, đức Thế Tôn đă trú ngụ ở Codanāvatthu. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu cư ngụ. Ở đó, vị tỳ khưu trưởng lăo là ngu dốt thiếu kinh nghiệm. Vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha.

 

2. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị trưởng lăo,’ và vị trưởng lăo này của chúng ta th́ ngu dốt thiếu kinh nghiệm, không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ở nơi đó vị tỳ khưu nào có kinh nghiệm, đủ năng lực th́ giới bổn Pātimokkha là trách nhiệm của vị ấy.”

 

3. Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Các vị ấy đă thỉnh mời vị trưởng lăo rằng: - “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị đă thỉnh mời vị trưởng lăo thứ nh́: - “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị đă thỉnh mời vị trưởng lăo thứ ba: - “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này các đại đức, tôi không làm được.” Bằng chính phương thức ấy, các vị đă thỉnh mời đến vị mới tu của hội chúng: - “Xin đại đức hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Thưa các ngài, tôi không làm được.”

 

4. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha tại trú xứ nọ có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt thiếu kinh nghiệm cư ngụ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Các vị ấy thỉnh mời vị trưởng lăo rằng: “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời đến vị trưởng lăo thứ nh́: “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Các vị thỉnh mời đến vị trưởng lăo thứ ba: “Thưa ngài, xin trưởng lăo hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Này các đại đức, tôi không làm được.” Bằng chính phương thức ấy, các vị thỉnh mời đến vị mới tu của hội chúng: “Xin đại đức hăy đọc tụng giới bổn Pātimokkha.” Vị ấy cũng nói như vầy: “Thưa các ngài, tôi không làm được.”

 

 Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy một vị tỳ khưu nên được các vị tỳ khưu ấy phái đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và học thuộc ḷng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc chi tiết rồi trở về.”

 

5. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Nên được phái đi bởi vị nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.” - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.” Được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không đi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, vị không bệnh không nên không đi; vị nào không đi th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

6. Sau đó, khi đă ngự tại Codanāvatthu theo như ư thích đức Thế Tôn đă trở về lại thành Rājagaha. Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng: - “Thưa ngài, là ngày thứ mấy của nửa tháng?” Các vị tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.” Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này không biết đến việc tính toán (ngày) của nửa tháng th́ những người này c̣n biết được điều tốt đẹp ǵ khác nữa đây?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép học cách tính toán (ngày) của nửa tháng.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vị nào nên học cách tính toán (ngày) của nửa tháng?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả đều học cách tính toán (ngày) của nửa tháng.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, dân chúng hỏi các vị tỳ khưu đang đi khất thực rằng: - “Thưa ngài, có đến bao nhiêu vị tỳ khưu?” Các vị tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này các đạo hữu, chúng tôi không biết.” Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Các Sa-môn Thích tử này không biết lẫn nhau th́ những người này c̣n biết được điều tốt đẹp ǵ khác nữa đây?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đếm số các vị tỳ khưu.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Khi nào th́ nên đếm số các vị tỳ khưu?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha ta cho phép hoặc là đếm số bằng cách gọi tên, hoặc là cho rút thẻ.”

 

8. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không biết: “Hôm nay là ngày lễ Uposatha” nên đi khất thực ở làng xa. Các vị ấy trở lại trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, trở lại khi giới bổn Pātimokkha vừa mới đọc tụng xong. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo: ‘Hôm nay là ngày lễ Uposatha.’” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Nên được thông báo bởi vị nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo thông báo vào sáng sớm.”

 

9. Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lăo nọ vào sáng sớm đă không nhớ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thông báo vào lúc thọ thực.” Ngay cả vào lúc thọ thực, vị ấy cũng đă không nhớ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép lúc nào nhớ th́ thông báo vào lúc ấy.”

 

10. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ nhà hành lễ Uposatha bị rác rến. Các tỳ khưu văng lai phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu lại không quét nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép quét nhà hành lễ Uposatha.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vị nào nên quét nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.” Được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không quét. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, vị không bệnh không nên không quét; vị nào không quét th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

11. Vào lúc bấy giờ, chỗ ngồi không được xếp đặt trong nhà hành lễ Uposatha. Các tỳ khưu ngồi trên nền nhà. Các phần thân thể và các y bị dơ bẩn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép xếp đặt chỗ ngồi trong nhà hành lễ Uposatha.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vị nào nên xếp đặt chỗ ngồi trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.” Được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không xếp đặt. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, vị không bệnh không nên không xếp đặt; vị nào không xếp đặt th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

12. Vào lúc bấy giờ, trong nhà hành lễ Uposatha không có đèn. Trong bóng tối, các vị tỳ khưu đạp nhầm cơ thể và luôn cả y nữa. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thắp sáng đèn trong nhà hành lễ Uposatha.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vị nào nên thắp sáng đèn trong nhà hành lễ Uposatha?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.” Được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không thắp sáng đèn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, vị không bệnh không nên không thắp sáng đèn; vị nào không thắp sáng đèn th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

13. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ các tỳ khưu thường trú không cung ứng nước uống, không cung ứng nước rửa. Các tỳ khưu văng lai phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu thường trú lại không cung ứng nước uống, không cung ứng nước rửa?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cung ứng nước uống, nước rửa.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Vị nào nên cung ứng nước uống, nước rửa?”

 

Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu trưởng lăo ra lệnh cho vị tỳ khưu mới tu.” Được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, các vị tỳ khưu mới tu vẫn không cung ứng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, khi được ra lệnh bởi vị trưởng lăo, vị không bệnh không nên không cung ứng; vị nào không cung ứng th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

14. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm lên đường đi xa đă không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm lên đường đi xa không xin phép các vị thầy tế độ và thầy dạy học. Này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học nên hỏi các vị ấy rằng: “Các ngươi sẽ đi đâu? Các ngươi sẽ đi với ai?”

 

15. Này các tỳ khưu, nếu các vị ngu dốt, thiếu kinh nghiệm ấy nêu ra các vị ngu dốt, thiếu kinh nghiệm khác, này các tỳ khưu, các vị thầy tế độ và thầy dạy học không nên cho phép; nếu các vị cho phép th́ phạm tội dukkaṭa. Và này các tỳ khưu, (nếu) các vị ngu dốt, thiếu kinh nghiệm ấy không được các vị thầy tế độ và thầy dạy học cho phép mà vẫn đi th́ phạm tội dukkaṭa.

 

16. Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm sống tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Nơi ấy có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nọ nên được các vị tỳ khưu ấy tiếp đón nồng hậu, nên được quan tâm, nên được chăm sóc, nên được cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm), gỗ chà răng, nước rửa mặt. Nếu các vị không tiếp đón nồng hậu, quan tâm, chăm sóc, cung ứng bột tắm, đất sét (để tắm), gỗ chà răng, nước rửa mặt th́ phạm tội dukkaṭa.

 

17. Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm sống tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và học thuộc ḷng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc chi tiết rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nơi nào có các vị biết về lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, toàn bộ tất cả các vị tỳ khưu ấy nên đi đến trú xứ ấy; nếu các vị không đi th́ phạm tội dukkaṭa.

 

18. Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu ngu dốt, thiếu kinh nghiệm cư trú mùa mưa tại trú xứ nọ. Các vị ấy không biết lễ Uposatha, hay là hành sự Uposatha, hay là giới bổn Pātimokkha, hay là việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy ngay trong hôm ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và học thuộc ḷng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc chi tiết rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nên phái đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và học thuộc ḷng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt hoặc chi tiết rồi trở về.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ các tỳ khưu ấy không nên cư trú mùa mưa tại trú xứ ấy. Nếu các vị ấy cư trú th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

19. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Uposatha.” Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.” - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra sự trong sạch. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra sự trong sạch. Hăy chuyển đạt sự trong sạch của tôi. Hăy thông báo về sự trong sạch của tôi.” (Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, th́ sự trong sạch đă được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, th́ sự trong sạch đă không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ư như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi vị trí th́ bệnh sẽ trầm trọng hơn, hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh khỏi vị trí. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Uposatha ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

20. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch từ chính chỗ ấy ra đi (đến nơi khác) th́ sự trong sạch nên được trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống lại) sa di, được biết là người đă từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đă chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự trong sạch nên được trao ra đến vị khác.

 

21. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại ra đi (đến nơi khác) th́ sự trong sạch vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, ―(như trên)― được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự trong sạch vẫn chưa được chuyển đạt.

 

22. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đă đến được hội chúng rồi ra đi (đến nơi khác) th́ sự trong sạch đă được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đă đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, ―(như trên)― được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự trong sạch đă được chuyển đạt.

 

23. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đă đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi lơ đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo th́ sự trong sạch đă được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự trong sạch không bị phạm tội.

 

24. Này các tỳ khưu, khi sự trong sạch đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự trong sạch đă đến được hội chúng rồi cố ư không thông báo th́ sự trong sạch đă được chuyển đạt, và vị chuyển đạt sự trong sạch bị phạm tội dukkaṭa.”

 

25. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện hành sự.” Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.” - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra sự tùy thuận. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra sự tùy thuận. Hăy chuyển đạt sự tùy thuận của tôi. Hăy thông báo về sự tùy thuận của tôi.” (Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, th́ sự tùy thuận đă được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, th́ sự tùy thuận đă không được trao ra. Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi thực hiện hành sự. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ư như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ th́ bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh dời khỏi chỗ. Hội chúng nên đi đến và thực hiện hành sự ở nơi ấy. Nhưng không nên thực hiện hành sự bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

26. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận từ chính chỗ ấy ra đi (đến nơi khác) th́ sự tùy thuận nên được trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ngay tại chỗ ấy hoàn tục, từ trần, được biết là vị (xuống lại) sa di, được biết là người đă từ bỏ điều học, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đă chuyển sang ngoại đạo, được biết là loài thú, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự tùy thuận nên được trao ra đến vị khác.

 

27. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại ra đi (đến nơi khác) th́ sự tùy thuận vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, từ trần, ―(như trên)― được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự tùy thuận vẫn chưa được chuyển đạt.

 

28. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đă đến được hội chúng rồi ra đi (đến nơi khác) th́ sự tùy thuận đă được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đă đến được hội chúng rồi hoàn tục, từ trần, ―(như trên)― được biết là kẻ lưỡng căn th́ sự tùy thuận đă được chuyển đạt.

 

29. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đă đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo, rồi lơ đễnh nên không thông báo, rồi nhập định nên không thông báo th́ sự tùy thuận đă được chuyển đạt. Vị chuyển đạt sự tùy thuận không bị phạm tội.

 

30. Này các tỳ khưu, khi sự tùy thuận đă được trao ra, nếu vị chuyển đạt sự tùy thuận đă đến được hội chúng rồi cố ư không thông báo th́ sự tùy thuận đă được chuyển đạt và vị chuyển đạt sự tùy thuận bị phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Uposatha vị trao ra sự trong sạch (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (pḥng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.”

 

31. Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày lễ Uposatha các thân quyến đă nắm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các thân quyến nắm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra sự trong sạch xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

32. Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Uposatha các đức vua nắm giữ vị tỳ khưu lại. ―(như trên)― Các kẻ trộm cướp nắm giữ ―(như trên)― Những kẻ bất lương nắm giữ ―(như trên)― Những kẻ đối nghịch tỳ khưu nắm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra sự trong sạch xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hăy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Uposatha xong.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Uposatha bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

33. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy tụ hội lại, hội chúng có việc cần phải làm.” Khi được nói như thế, có vị tỳ khưu nọ đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có vị tỳ khưu tên Gagga bị điên. Vị ấy không đến.”

 

34. - “Này các tỳ khưu, đây là hai trường hợp bị điên. Có vị tỳ khưu điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ; và có vị hoàn toàn không nhớ. (Có vị) có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến; và có vị không bao giờ đi đến.

 

35. Này các tỳ khưu, trường hợp vị bị điên nào có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến; này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ư về bệnh điên đến vị bị điên có h́nh thức như thế. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

36. “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ư về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên ― vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến ― hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga vẫn có thể thực hiện lễ Uposatha, vẫn có thể thực hiện hành sự của hội chúng. Đây là lời đề nghị.

 

Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Gagga này bị điên có khi nhớ đến lễ Uposatha có khi không nhớ, có khi nhớ đến hành sự của hội chúng có khi không nhớ, có khi đi đến lễ Uposatha có khi không đi đến, có khi đi đến hành sự của hội chúng có khi không đi đến. Hội chúng ban cho sự đồng ư về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên ― vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến ― hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Đại đức nào đồng ư việc ban cho sự đồng ư về bệnh điên đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên ― vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến ― hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên.

 

38. Sự đồng ư về bệnh điên đă được hội chúng ban đến tỳ khưu Gagga là vị bị điên ― vị tỳ khưu Gagga có thể nhớ đến lễ Uposatha hoặc có thể không nhớ, có thể nhớ đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không nhớ, có thể đi đến lễ Uposatha hoặc có thể không đi đến, có thể đi đến hành sự của hội chúng hoặc có thể không đi đến ― hội chúng dầu có Gagga hay không có Gagga sẽ thực hiện lễ Uposatha, sẽ thực hiện hành sự của hội chúng. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

39. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Nên thực hiện lễ Uposatha’ và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị.”

 

40. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

41. “Xin các đại đức hăy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Uposatha (vào ngày mười lăm). Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức, chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch (với nhau).” Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Này các sư đệ, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”

 

42. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu ấy như vầy: “Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Bạch các ngài, tôi được trong sạch, các vị hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”

 

43. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch đối với ba vị, và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Vị tỳ khưu trưởng lăo nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mới tu như vầy: “Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Này sư đệ, tôi được trong sạch, sư đệ hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”

 

44. Vị tỳ khưu mới tu nên đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lăo như vầy: “Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’ Bạch ngài, tôi được trong sạch, ngài hăy ghi nhận về tôi: ‘Là vị trong sạch.’”

 

45. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép đọc tụng giới bổn Pātimokkha đối với bốn vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch đối với ba vị, (cho phép) thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch đối với hai vị và ta chỉ có một ḿnh, vậy ta nên thực hiện lễ Uposatha như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

46. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem lại nước uống, nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến th́ nên thực hiện lễ Uposatha với các vị ấy; nếu không có ai đi đến th́ nên chú nguyện rằng: “Hôm nay là lễ Uposatha của tôi;” nếu không chú nguyện th́ phạm tội dukkaṭa.

 

47. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi đọc tụng giới bổn Pātimokkha bởi ba vị; nếu các vị đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi thực hiện lễ Uposatha - bày tỏ sự trong sạch bởi hai vị; nếu các vị thực hiện th́ phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt sự trong sạch của một vị rồi chú nguyện bởi một vị; nếu chú nguyện th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

48. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và ta th́ bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

49. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đại đức, tôi đă phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.” Vị kia nên nói rằng: - “(Đại đức) có thấy (tội ấy) không?” - “Thưa có, tôi thấy.” - “(Đại đức) hăy thu thúc trong tương lai.”

 

50. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Uposatha. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đắp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong th́ lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ v́ nguyên nhân ấy.”

 

51. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư sám hối tội (đă phạm) giống nhau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không được sám hối tội (đă phạm) giống nhau; vị nào sám hối th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

52. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhóm Lục Sư ghi nhận tội (đă phạm) giống nhau. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không được ghi nhận tội (đă phạm) giống nhau; vị nào ghi nhận th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

53. Vào lúc bấy giờ, trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng có vị tỳ khưu nọ nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Uposatha’ và ta th́ bị phạm tội, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

54. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu nhớ ra tội trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi đă phạm tội tên (như vầy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, th́ lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

55. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội trong lúc giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cạnh như vầy: “Bạch đại đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, th́ lễ Uposatha nên được tiến hành, nên lắng nghe giới bổn Pātimokkha, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ v́ nguyên nhân ấy.”

 

56. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đă phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đă phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đă phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

57. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hăy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

 

58. “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đă phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nh́n thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, th́ lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

59. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, th́ lễ Uposatha nên được tiến hành, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Uposatha chỉ v́ nguyên nhân ấy.

 

60. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ khi đă vào mùa an cư mưa, hội chúng đă phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu ngay trong hôm ấy đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hăy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.” Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đạt được (như thế) th́ nên phái đi một vị tỳ khưu trong thời hạn bảy ngày (bảo rằng): “Này đại đức, hăy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hăy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đại đức.”

 

61. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này:

 

62. - “Thưa đại đức, vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên ǵ? Vị ấy đă nói như vầy: - “Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên này. Này đại đức, ngươi đă phạm tội tên này, ngươi hăy sửa chữa tội ấy.” Vị nọ đă nói như vầy: - “Thưa đại đức, không phải chỉ ḿnh tôi đă phạm tội ấy. Toàn bộ hội chúng này đă phạm tội ấy.” Vị ấy đă nói như vầy: - “Này đại đức, người khác phạm tội hay không phạm tội th́ điều ǵ sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hăy tự thoát khỏi tội của bản thân ḿnh đi.”

 

63. Khi ấy, vị tỳ khưu nọ sau khi đă sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu ấy rồi đă đi đến gặp các vị tỳ khưu kia, sau khi đến đă nói với các vị tỳ khưu kia điều này: - “Này các đại đức, nghe nói vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên này. Này các đại đức, các vị đă phạm tội tên này, các vị hăy sửa chữa tội ấy.” Khi ấy, các vị tỳ khưu kia đă không muốn sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu nọ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

64. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ toàn bộ hội chúng đă phạm tội giống nhau. Hội chúng ấy không biết tên và loại của tội ấy. Ở đó, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Có vị tỳ khưu nọ đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: “Thưa đại đức, vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên ǵ?” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên này. Này đại đức, ngươi đă phạm tội tên này, ngươi hăy sửa chữa tội ấy.” Vị nọ nói như vầy: “Thưa đại đức, không phải chỉ ḿnh tôi đă phạm tội ấy. Toàn bộ hội chúng này đă phạm tội ấy.” Vị ấy nói như vầy: “Này đại đức, người khác phạm tội hay không phạm tội th́ điều ǵ sẽ xảy ra cho ngươi? Này đại đức, ngươi hăy tự thoát khỏi tội của bản thân ḿnh đi.” Này các tỳ khưu, nếu sau khi sửa chữa tội theo lời khuyên của vị tỳ khưu ấy, vị tỳ khưu nọ đă đi đến gặp các vị tỳ khưu kia, sau khi đến đă nói với các vị tỳ khưu kia như vầy: “Này các đại đức, nghe nói vị hành động như vầy và như vầy th́ vị ấy phạm tội tên này. Này các đại đức, các vị đă phạm tội tên này, các vị hăy sửa chữa tội ấy.” Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu kia sửa chữa tội ấy theo lời khuyên của vị tỳ khưu nọ, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu các vị không chịu sửa chữa, vị tỳ khưu nọ không nên khuyên các vị tỳ khưu ấy (v́ họ) không có mong muốn.”

 

Dứt tụng phẩm Codanāvatthu.

 

--ooOoo--

 

TỤNG PHẨM THỨ BA

 

1. Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú đă tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy đă không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi đă thực hiện lễ Uposatha và đă đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đă đi đến. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

 

2. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (1)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (2)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (3)

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (4)

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (5)

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (6)

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (7)

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pāti-mokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (8)

 

10. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (9)

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (10)

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pāti-mokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (11)

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (12)

 

14. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (13)

 

15. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (14)

 

16. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (15)

 

Dứt mười lăm trường hợp vô tội.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên th́ có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên th́ có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp có sự nghi ngờ.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (1)

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đă đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đă đứng lên th́ có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (4-15)

 

Dứt mười lăm trường hợp đă bỏ qua sự ngần ngại.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, phần c̣n lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

10. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

14. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

15. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đă đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đă được đọc tụng là đă được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.

 

Dứt mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.

 

Dứt hai mươi lăm nhóm ba.

 

--ooOoo--

 

 

1. Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không biết rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không nh́n thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nh́n thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đă đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba về vị thường trú với vị thường trú, về vị văng lai với vị thường trú, về vị thường trú với vị văng lai, về vị văng lai với vị văng lai, bằng cách thức thêm vào những phần tương tự th́ tạo ra được bảy trăm nhóm ba.

 

2. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên thuận theo các vị văng lai.

 

3. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên thuận theo các vị văng lai.

 

4. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai; các vị văng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu (có số lượng) tương đương và các vị thường trú không mong muốn ()unwillingly adv.) th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai; các vị văng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị văng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.

 

5. Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu văng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn th́ các vị văng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) tương đương th́ các vị văng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị văng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị văng lai không mong muốn th́ không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành.

 

6. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, pḥng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nh́n thấy khởi lên nghi ngờ: ‘Có các tỳ khưu thường trú hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội thullaccaya.

 

7. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: ‘Có các tỳ khưu thường trú hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội thullaccaya.

 

8. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu văng lai (như là) b́nh bát khác lạ, y khác lạ, vật lót ngồi khác lạ, sự vung văi nước rửa các bàn chân, sau khi nh́n thấy khởi lên nghi ngờ: ‘Có các vị tỳ khưu văng lai hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội thullaccaya.

 

9. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu văng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: ‘Có các vị tỳ khưu văng lai hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không t́m kiếm, sau khi không t́m kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm không nh́n thấy, sau khi không nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi t́m kiếm, sau khi t́m kiếm th́ nh́n thấy, sau khi nh́n thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha th́ phạm tội thullaccaya.

 

10. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy các tỳ khưu thường trú thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ vô tội.

 

11. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu văng lai nh́n thấy các tỳ khưu thường trú thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội.

 

12. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy các tỳ khưu văng lai thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ vô tội.

 

13. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nh́n thấy các tỳ khưu văng lai thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ th́ phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung th́ vô tội.

 

14. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

15. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

16. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

17. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

18. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

19. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

20. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

21. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

22. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

23. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

24. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

25. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

26. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

27. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

28. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

29. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

30. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

31. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

 

32. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’

 

33. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’

 

34. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’

 

35. Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’

 

36. Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

37. Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có cô ni tu tập sự ―(như trên)― có vị sa di ―(như trên)― có vị sa di ni ―(như trên)― có người đă từ bỏ điều học ―(như trên)― có vị đă phạm tội cực nặng; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

38. Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nh́n nhận tội; vị nào đọc tụng th́ nên được hành xử theo pháp.

 

39. Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ―(như trên)― đến hội chúng đă ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác; vị nào đọc tụng th́ nên được hành xử theo pháp.

 

40. Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

41. Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đă ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ―(như trên)― có kẻ đă đi theo ngoại đạo ―(như trên)― có loài thú ―(như trên)― có kẻ giết mẹ ―(như trên)― có kẻ giết cha ―(như trên)― có kẻ giết A-la-hán ―(như trên)― có kẻ làm nhơ tỳ khưu ni ―(như trên)― có kẻ chia rẽ hội chúng ―(như trên)― có kẻ làm chảy máu (đức Phật) ―(như trên)― có kẻ lưỡng căn; vị nào đọc tụng th́ phạm tội dukkaṭa.

 

42. Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha với việc trao ra sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly.[6]

 

43. Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha không nhằm ngày Uposatha trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.

 

Dứt chương Uposatha là chương thứ nh́.

 

Tụng phẩm thứ ba.

 

--ooOoo--

 

Trong chương này có tám mươi sáu sự việc.

 

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

 

1. Những người ngoại đạo, và đức vua Bimbisāra, (cho phép) tụ hội, (ngồi) im lặng, (giảng) Giáo Pháp, nơi thanh vắng, giới bổn Pātimokkha, (đọc tụng) hàng ngày, rồi một lần.

 

2. Tùy theo tập thể, của các vị hợp nhất, có sự hợp nhất, và ở Maddakucchi, ranh giới lớn, ḍng sông, ở dăy pḥng, tại hai chỗ, và các (ranh giới) nhỏ.

 

3. Các vị mới tu, và ở Rājagaha nữa, ranh giới với sự không xa ĺa, điều làm trước trong việc ấn định ranh giới, và điều làm sau trong việc hủy bỏ ranh giới.

 

4. Ranh giới làng là không ấn định, ở sông, ở biển, ở ao hồ, việc ném ra bụm nước, các vị làm gối lên, và tương tự như thế ấy các vị làm trùm lên.

 

 

5. Bao nhiêu cách hành sự? Việc đọc tụng, các kẻ lục lâm, và lúc không có, Pháp, Luật, các vị hăm dọa, lại thêm sự hăm dọa v́ Luật.

 

6. Việc kết tội, khi đă thỉnh ư, việc phản đối (hành sự) sai Pháp, bốn năm vị, các vị khác bày tỏ (quan điểm), nếu cố ư (không cho nghe), trong sự nỗ lực.

 

7. Có sự hiện diện của cư sĩ, các vị chưa được mời thỉnh, ở Codanā, vị không biết, nhiều vị không biết, ngay trong hôm ấy, và các vị không đi.

 

8. (Là ngày) thứ mấy? Có bao nhiêu? (Khất thực) ở vùng xa, và đă không nhớ để thông báo, có rác rến, chỗ ngồi, đèn, (đi) phương xa, vị khác là vị nghe nhiều.

 

9. Ngay hôm ấy, lễ Uposatha của mùa (an cư) mưa, trong sạch và hành sự, các thân quyến, vị Gagga, (lễ Uposatha của) bốn, ba, hai, một vị, sự phạm tội, tội đồng phạm, đă nhớ ra.

 

10. Toàn bộ hội chúng có sự nghi ngờ, các vị không biết, vị nghe nhiều, (có số lượng) nhiều hơn, tương đương, ít hơn, tập thể, và khi chưa đứng lên.

 

11. Một số đă đứng lên, tất cả (đă đứng lên), các vị biết, và có sự nghi ngờ, có sự ngần ngại rằng: ‘vẫn là được phép,” trong khi biết, trong khi nh́n thấy, và các vị nghe được.

 

12. Về vị văng lai với vị thường trú, thêm nữa là ngày mười bốn và mười lăm, ngày đầu tháng, ngày mười lăm, hiện tướng và việc đồng cộng trú, ở cả hai (trường hợp).

 

13. Vị thực hành parivāsa, không nhằm ngày Uposatha, trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng. Những điều tóm tắt được chia chẻ này là đầu mối làm rơ các sự việc.”

 

--ooOoo--

  


 

[1] Theo từ điển Pali-English Dictionary của hội Pali Text Society th́ 1 yojana có chiều dài khoảng 7 miles, từ điển của Childers th́ 12 miles, c̣n tài liệu The Buddhist Monastic Code cho biết là 10 miles tức vào khoảng 16 km (ND).

[2] Theo ngài Buddhaghosa, từ chỗ ngài Mahākassapa trú ngụ đến thành Rājagaha là 3 gāvuta (1 gāvuta = 1/4 yojana), như vậy vào khoảng 12 km. Trong thành Rājagaha có 18 trú xá lớn nhưng có cùng chung một ranh giới do ngài Sāriputta kết. Và Veḷuvana là chỗ các vị tỳ khưu ở trong ranh giới ấy tụ hội để thực hiện lễ Uposatha. Con sông được đề cập tên là Sippinī phát xuất từ núi Gijjhakūṭa và có gịng chảy rất mạnh (VinA. v, 1049).

[3] avippavāso: (từ phủ định) a + vippavāso (sự xa cách, sự vắng mặt) = sự không xa ĺa. Nếu dịch sát từ sẽ lă: ‘Ranh giới ấy là nơi vị tỳ khưu không xa ĺa ba y’ như bản dịch tiếng Anh của học giả I. B. Horner sẽ khiến cho ư nghĩa bị lầm lẫn. Mặt khác, nếu nói theo thói quen là ‘sīmā xa ĺa tam y, sīmā được phép xa ĺa tam y’ cũng không chính xác v́ đă bỏ rơi tiếp đầu ngữ phủ định ‘a.’ Muốn giải thích trường hợp này phải trở lại điều học nissaggiya pācittiya thứ 2: ‘... ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyya...’ và xem ‘vippavāsa’ có ư nghĩa một cách tổng quát là ‘sự phạm tội v́ xa ĺa ba y.’ Và ‘a + vippavāsa’ sẽ trở thành ‘không có +  sự phạm tội v́ xa ĺa ba y’ ở trong ranh giới ấy. Cũng cần nói thêm là việc ‘không có phạm tội v́ xa ĺa ba y’ và việc ‘được phép xa ĺa ba y’ có sự khác biệt rơ rệt về ư nghĩa (ND).

[4] Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (VinA. v, 1052). Từ Điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu Buddhist Monastic Code của Ven. Thanissaro cho biết khoảng cách của 7 abbhantara = 98 m (1 abbhantara = 14 m).

[5] Theo ngài Buddhaghosa, khoảng cách chung quanh được chừa ra giữa các ranh giới là khoảng cách một cánh tay (VinA. v, 1056).

[6] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đă bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được t́m thấy ở bộ Bhikkhunīvibhaṅga - Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni. Từ avuṭṭhitāya c̣n có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.”

 

 

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 |

<Mục Lục><Đầu Trang>