Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 05

ĐẠI PHẨM tập II

ẤN BẢN 2013

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

VIII. CHƯƠNG Y PHỤC

  

TỤNG PHẨM THỨ NHẤT

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, thành Vesāli được phồn thịnh và c̣n giàu có nữa, đông dân, người người chen chúc, vật thực dễ dàng, và có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy ṭa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen. Và có nàng kỹ nữ Ambapālī xinh đẹp, đáng nh́n, duyên dáng, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, có tài năng về múa, hát, và đàn, được những người đàn ông có ḷng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm với giá năm mươi tiền. Và nhờ nàng thành Vesāli càng thêm phần rạng rỡ.

 

2. Khi ấy, viên thị trưởng thành Rājagaha đă đi đến Vesāli do công việc cần thiết nào đó. Viên thị trưởng thành Rājagaha đă nh́n thấy thành Vesāli là phồn thịnh và c̣n giàu có nữa, đông dân, người người chen chúc, vật thực dễ dàng, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy ṭa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen, có nàng kỹ nữ Ambapālī xinh đẹp, đáng nh́n, duyên dáng, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, có tài năng về múa, hát, và đàn, được những người đàn ông có ḷng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm với giá năm mươi tiền, và nhờ nàng thành Vesāli càng thêm phần rạng rỡ.

 

3. Sau đó, khi đă hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesāli, viên thị trưởng thành Rājagaha đă quay về lại thành Rājagaha và đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, thành Vesāli là phồn thịnh và c̣n giàu có nữa, đông dân, người người chen chúc, vật thực dễ dàng, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy ṭa nhà dài, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy lầu mái nhọn, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy công viên, bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy hồ sen, có nàng kỹ nữ Ambapālī xinh đẹp, đáng nh́n, duyên dáng, được phú cho làn da đẹp hạng nhất, có tài năng về múa, hát, và đàn, được những người đàn ông có ḷng say đắm cầu cạnh, nàng qua đêm với giá năm mươi tiền, và nhờ nàng thành Vesāli càng thêm phần rạng rỡ. Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay nếu chúng ta cũng có thể đào tạo kỹ nữ.” - “Này khanh, như thế th́ khanh hăy t́m người con gái tương tợ rồi hăy đào tạo nàng trở thành kỹ nữ như thế.”

 

4. Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có người con gái tên Sālavatī là người xinh đẹp, đáng nh́n, duyên dáng, được phú cho làn da đẹp hạng nhất. Khi ấy, viên thị trưởng thành Rājagaha đă đào tạo người con gái Sālavatī thành kỹ nữ. Sau đó chẳng bao lâu, nàng kỹ nữ Sālavatī đă trở nên có tài năng về múa, hát, và đàn, được những người đàn ông có ḷng say đắm cầu cạnh, và nàng qua đêm với giá đến một trăm tiền.

 

5. Sau đó chẳng bao lâu, nàng kỹ nữ Sālavatī đă mang thai. Khi ấy, nàng kỹ nữ Sālavatī đă khởi ư điều này: “Đàn bà mang thai đâu c̣n được đàn ông ưa thích. Nếu có người biết về ta rằng: ‘Kỹ nữ Sālavatī mang thai’ th́ toàn bộ sự trọng vọng đối với ta đều sẽ mất. Hay là ta nên cáo bệnh?” Sau đó, nàng kỹ nữ Sālavatī đă bảo người gác cổng rằng: - “Này chú em gác cổng, chớ để bất cứ người đàn ông nào vào. Và ai hỏi ta th́ cho hay rằng: ‘Bị bệnh.’” - “Thưa cô chủ, xin vâng.” Người gác cổng ấy đă đáp lại nàng kỹ nữ Sālavatī. Sau đó, đến lúc phát triển đầy đủ của bào thai ấy, nàng kỹ nữ Sālavatī đă sanh ra đứa bé trai. Khi ấy, nàng kỹ nữ Sālavatī đă bảo người tớ gái rằng: - “Này em, giờ hăy đặt đứa bé trai này vào trong giỏ đan cũ kỹ rồi mang đi quăng bỏ ở đống rác.” - “Thưa cô chủ, xin vâng.” Rồi người tớ gái ấy nghe theo nàng kỹ nữ Sālavatī đă đặt đứa bé trai ấy vào trong giỏ đan cũ kỹ rồi mang đi quăng bỏ ở đống rác.

 

6. Vào lúc bấy giờ, vị vương tử tên Abhaya trong khi đi phục vụ đức vua vào lúc sáng sớm đă nh́n thấy đứa bé trai ấy đang bị bầy quạ bu quanh, sau khi nh́n thấy đă hỏi mọi người rằng: - “Này các khanh, vật ǵ bị bầy quạ bu quanh vậy?” - “Thưa ngài, đứa bé trai.” - “Này các khanh, c̣n sống không?” - “Thưa ngài, c̣n sống.” - “Này các khanh, như thế th́ hăy mang đứa bé trai ấy về hậu cung của chúng ta và giao cho các vú nuôi chăm sóc.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi những người ấy nghe theo vương tử Abhaya đă mang đứa bé trai ấy về hậu cung của vương tử Abhaya rồi giao cho các vú nuôi (nói rằng): - “Các người hăy chăm sóc.” Lời đă nói về đứa bé là “c̣n sống,” nên họ đă đặt tên đứa bé là “Jīvaka” (người đang sống). Và bởi v́ “được nuôi dưỡng bởi vị vương tử” nên đă được đặt tên là “Komārabhacca.”

 

7. Sau đó chẳng bao lâu, Jīvaka Komārabhacca đă đạt đến tuổi hiểu biết. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp vương tử Abhaya, sau khi đến đă nói với vương tử Abhaya điều này: - “Thưa ngài, ai là mẹ của con, ai là cha của con?” - “Này Jīvaka con, ta cũng không biết mẹ của con; tuy nhiên ta là cha của con v́ con đă được ta nuôi dưỡng.” Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Với kẻ không có nghề nghiệp th́ các gia đ́nh vương giả này quả là không dễ ǵ để sống nhờ vả. Hay là ta nên học lấy nghề nghiệp?”

 

8. Vào lúc bấy giờ, có người thầy thuốc tiếng tăm lẫy lừng sống ở Takkasilā. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca không xin phép vương tử Abhaya đă đi đến Takkasilā gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đă nói với người thầy thuốc ấy điều này: - “Thưa thầy, con muốn học nghề.” - “Này Jīvaka con, như vậy th́ con có thể học.”

 

9. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca học nhiều, học nhanh chóng, tiếp thâu tốt đẹp, và đối với anh ta điều đă được học th́ không quên đi. Sau đó, khi trải qua bảy năm Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Ta học nhiều, học nhanh chóng, tiếp thâu tốt đẹp, và đối với ta điều đă được học th́ không quên đi. Và trong khi ta đă học được bảy năm rồi mà đích cuối cùng của nghề này vẫn không được biết đến, vậy th́ khi nào đích cuối cùng của nghề này mới được biết đến?”

 

10. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đă nói với người thầy thuốc ấy điều này: - “Thưa thầy, con học nhiều, học nhanh chóng, tiếp thâu tốt đẹp, và đối với con điều đă được học th́ không quên đi. Và trong khi con đă học được bảy năm rồi mà đích cuối cùng của nghề này vẫn không được biết đến, vậy th́ khi nào đích cuối cùng của nghề này mới được biết đến?” - “Này Jīvaka con, như vậy th́ con hăy cầm lấy cái thuổng đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần, nếu con thấy được bất cứ vật ǵ không phải là dược phẩm th́ hăy đem vật ấy về.” - “Thưa thầy, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo người thuốc ấy đă cầm lấy cái thuổng, trong khi đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần, đă không nh́n thấy bất cứ vật ǵ không phải là dược phẩm.

 

11. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp người thầy thuốc ấy, sau khi đến đă nói với người thầy thuốc ấy điều này: - “Thưa thầy, trong khi đi dạo xung quanh Takkasilā một do tuần, con đă không thấy được bất cứ vật ǵ không phải là dược phẩm.” - “Này Jīvaka con, con đă học xong. Bấy nhiêu đó đă đủ cho cuộc sống của con rồi.” Rồi (người thầy thuốc ấy) đă trao cho Jīvaka Komārabhacca chút ít (tiền) dự pḥng đi đường.

 

12. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca sau khi nhận lấy chút ít (tiền) dự pḥng đi đường rồi đă ra đi về phía thành Rājagaha. Sau đó, vào khoảng giữa cuộc hành tŕnh, ở Sāketa chút ít (tiền) dự pḥng đi đường ấy đă hết. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Những con đường này hoang vắng, ít nước, ít thức ăn, không có (tiền) dự pḥng đi đường không phải dễ dàng để đi, hay là ta nên kiếm (tiền) dự pḥng đi đường?”

 

13. Vào lúc bấy giờ, ở Sāketa có người vợ của nhà đại phú bị bệnh đau đầu đă bảy năm. Nhiều thầy thuốc tiếng tăm vô cùng lừng lẫy đă đi đến và đă không thể làm khỏi bệnh; họ đă nhận lấy nhiều vàng khối rồi ra đi. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă đi vào Sāketa và hỏi dân chúng rằng: - “Này các người, ai bị bệnh? Tôi chữa trị cho ai đây?” - “Này ông thầy, người vợ nhà đại phú kia bị bệnh đau đầu đă bảy năm. Này ông thầy, hăy đi và chữa trị cho người vợ nhà đại phú.”

 

14. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến tư gia của vị đại phú, sau khi đến đă bảo người gác cổng rằng: - “Này chú gác cổng, hăy đi và báo cho người vợ nhà đại phú rằng: ‘Thưa bà, người thầy thuốc đă đến. Ông ấy có ư muốn gặp bà.’” - “Thưa thầy, xin vâng.” Rồi người gác cổng ấy nghe theo Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đă nói với người vợ nhà đại phú điều này: - “Thưa bà, người thầy thuốc đă đến. Ông ấy có ư muốn gặp bà.” - “Này chú gác cổng, người thầy thuốc ra làm sao?” - “Thưa bà, c̣n trẻ lắm.” - “Này chú gác cổng, thôi đi! Thầy thuốc c̣n trẻ lắm th́ sẽ làm được ǵ cho ta? Nhiều thầy thuốc tiếng tăm vô cùng lừng lẫy đă đi đến và đă không thể làm khỏi bệnh; họ đă nhận lấy nhiều vàng khối rồi ra đi.”

 

15. Sau đó, người gác cổng ấy đă đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, người vợ nhà đại phú đă nói như vầy: ‘Này chú gác cổng, thôi đủ rồi! Thầy thuốc c̣n trẻ lắm th́ sẽ làm được ǵ cho ta? Nhiều thầy thuốc tiếng tăm vô cùng lừng lẫy đă đi đến và đă không thể làm khỏi bệnh; họ đă nhận lấy nhiều vàng khối rồi ra đi.’”

 

16. - “Này chú gác cổng, hăy đi và báo cho người vợ nhà đại phú rằng: ‘Thưa bà, người thầy thuốc đă nói như vầy: Thưa bà, bà không phải đưa trước vật ǵ. Khi nào khỏi bệnh, khi ấy bà muốn cho vật ǵ th́ bà cứ việc cho vật ấy.’” - “Thưa thầy, xin vâng.” Rồi người gác cổng ấy nghe theo Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đă nói với người vợ nhà đại phú điều này: - “Thưa bà, người thầy thuốc đă nói như vầy: ‘Thưa bà, bà không phải đưa trước vật ǵ. Khi nào khỏi bệnh, khi ấy bà muốn cho vật ǵ th́ bà cứ việc cho vật ấy.’” - “Này chú gác cổng, như thế th́ hăy để người thầy thuốc đi đến.” - “Thưa bà, xin vâng.” Rồi người gác cổng ấy nghe theo người vợ nhà đại phú đă đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, người vợ nhà đại phú cho gọi thầy.”

 

17. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp người vợ nhà đại phú, sau khi đến đă xem xét sự biến đổi diện mạo của người vợ nhà đại phú rồi nói với người vợ nhà đại phú điều này: - “Thưa bà, tôi cần một bụm tay bơ lỏng.” Khi ấy, người vợ nhà đại phú đă bảo người trao cho Jīvaka Komārabhacca một bụm tay bơ lỏng. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă nấu sôi bụm tay bơ lỏng ấy với nhiều loại dược phẩm rồi bảo người vợ nhà đại phú nằm ngửa ở trên cái giường nhỏ và cho vào theo đường mũi. Sau đó, bơ lỏng đă được cho vào theo đường mũi ấy đă đi ra theo đường miệng. Khi ấy, người vợ nhà đại phú đă nhổ bơ lỏng ấy vào vật đựng rồi bảo người tớ gái rằng: - “Này em, hăy thu hồi lại bơ lỏng này bằng lớp g̣n.”

 

18. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Thật là kỳ lạ! Bà chủ nhà này thật là hà tiện! Bởi v́ thứ bơ lỏng chỉ đáng quăng bỏ này c̣n được bảo thu hồi lại bằng lớp g̣n! Và nhiều thứ thuốc vô cùng quư giá của ta đă được sử dụng, rồi bà này sẽ cho ta vật thưởng công là cái ǵ đây?”

 

19. Khi ấy, sau khi xem xét sự biến đổi diện mạo của Jīvaka Komārabhacca, người vợ nhà đại phú ấy đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, sao thầy có vẻ lo âu vậy?” - “Trong trường hợp này, tôi đă khởi ư điều này: ‘Thật là kỳ lạ! Bà chủ nhà này thật là hà tiện! Bởi v́ thứ bơ lỏng chỉ đáng quăng bỏ này c̣n được bảo thu hồi lại bằng lớp g̣n! Và nhiều thứ thuốc vô cùng quư giá của ta đă được sử dụng, rồi bà này sẽ cho ta vật thưởng công là cái ǵ đây?’” - “Thưa thầy, chúng tôi, được gọi là gia chủ, hiểu về điều này là sự tiết kiệm. Bơ lỏng ấy là thuốc xoa chân rất tốt cho các tôi tớ và các người làm công, hay là dầu cho việc đốt đèn. Thưa thầy, thầy chớ có lo âu. Vật thưởng công cho thầy sẽ không phải bỏ phí.”

 

20. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă trị dứt chứng bệnh đau đầu bảy năm của người vợ nhà đại phú chỉ bằng mỗi một việc làm ở mũi. Sau đó, người vợ nhà đại phú, được khỏi bệnh, đă thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người con trai (nghĩ rằng): “Mẹ ta đă khỏi bệnh!” nên đă thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người con dâu (nghĩ rằng): “Mẹ chồng ta đă khỏi bệnh!” nên đă thưởng cho Jīvaka Komārabhacca bốn ngàn. Người gia chủ đại phú (nghĩ rằng): “Vợ ta đă khỏi bệnh!” nên đă thưởng cho Jīvaka Komāra-bhacca bốn ngàn, đứa tôi trai, (đứa tớ gái), và chiếc xe ngựa.

 

21. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă cầm lấy mười sáu ngàn ấy, đứa tôi trai, đứa tớ gái, và chiếc xe ngựa rồi ra đi đến thành Rājagaha. Theo tuần tự, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến thành Rājagaha gặp vương tử Abhaya, sau khi đến đă nói với vương tử Abhaya điều này: - “Thưa ngài, đây là công việc đầu tiên của con gồm có mười sáu ngàn, đứa tôi trai, đứa tớ gái, và chiếc xe ngựa. Thưa ngài, xin ngài hăy nhận lấy cho việc đă nuôi dưỡng con.” - “Này Jīvaka con, thôi đi, hăy để cho chính con. Con hăy cho xây tư thất ở hậu cung của chính chúng ta.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo vương tử Abhaya đă cho xây tư thất ở hậu cung.

 

22. Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bị bệnh ṛ rỉ. Các vải choàng đều bị lấm lem bởi máu. Các vương phi sau khi nh́n thấy trêu ghẹo rằng: - “Bữa nay, chúa công tới chu kỳ. Kinh nguyệt của chúa công đă có. Chẳng bao lâu chúa công sẽ sanh con.” V́ chuyện ấy, đức vua bị xấu hổ.

 

23. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă nói với vương tử Abhaya điều này: - “Này khanh Abhaya, trẫm có bệnh giống như vầy. Các vải choàng đều bị lấm lem bởi máu. Các vương phi sau khi nh́n thấy trêu ghẹo rằng: ‘Bữa nay, chúa công tới chu kỳ. Kinh nguyệt của chúa công đă có. Chẳng bao lâu chúa công sẽ sanh con.’ Này khanh Abhaya, người nào có thể chữa trị cho trẫm th́ hăy t́m thầy thuốc hạng như thế ấy.” - “Tâu bệ hạ, Jīvaka này của thần là thầy thuốc trẻ, giỏi giang, cậu ta sẽ chữa trị cho bệ hạ.” - “Này khanh Abhaya, như thế th́ hăy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka. Vị ấy sẽ chữa trị cho trẫm.”

 

24. Sau đó, vương tử Abhaya đă truyền lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng: - “Này Jīvaka con, hăy đi và chữa trị cho đức vua.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo vương tử Abhaya sau khi nhét dược phẩm vào trong móng tay rồi đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, chúng ta hăy xem bệnh.”

 

25. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă trị dứt căn bệnh ṛ rỉ của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha chỉ bằng mỗi một liều thuốc thoa. Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, được khỏi bệnh, đă cho người trang điểm năm trăm người nữ với tất cả các đồ trang sức, xong bảo tháo ra, cho chất thành đống, rồi đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Này khanh Jīvaka, tất cả các đồ trang sức này từ năm trăm người nữ là của khanh.” - “Tâu bệ hạ, thôi đi, chỉ xin bệ hạ hăy nhớ cho chức vụ của thần.” - “Này khanh Jīvaka, như vậy th́ khanh hăy phục vụ trẫm, các cung phi, và hội chúng có đức Phật đứng đầu.” - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Jīvaka Komārabhacca đă trả lời đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.

 

26. Vào lúc bấy giờ, có nhà đại phú ở thành Rājagaha bị bệnh đau đầu đă được bảy năm. Nhiều thầy thuốc tiếng tăm vô cùng lừng lẫy đă đi đến và đă không thể làm khỏi bệnh; họ đă nhận lấy nhiều vàng khối rồi ra đi. Hơn nữa, ông ta đă bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đă nói như vầy: “Vào ngày thứ năm, người gia chủ đại phú này sẽ chết.” Một số thầy thuốc đă nói như vầy: “Vào ngày thứ bảy, người gia chủ đại phú này sẽ chết.”

 

27. Khi ấy, vị thị trưởng thành Rājagaha đă khởi ư điều này: “Người gia chủ đại phú này có nhiều cống hiến cho đức vua và cho thị trấn nữa. Tuy nhiên, ông ta đă bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ năm, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Một số thầy thuốc đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ bảy, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Và thầy thuốc Jīvaka này của đức vua là trẻ tuổi, giỏi giang, hay là chúng ta nên cầu xin đức vua phái thầy thuốc Jīvaka chữa trị cho người gia chủ đại phú vậy?”

 

28. Sau đó, viên thị trưởng thành Rājagaha đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, người gia chủ đại phú này có nhiều cống hiến cho đức vua và cho thị trấn nữa. Tuy nhiên, ông ta đă bị các thầy thuốc từ chối. Một số thầy thuốc đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ năm, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Một số thầy thuốc đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ bảy, người gia chủ đại phú này sẽ chết.’ Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay xin bệ hạ hăy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka chữa trị cho người gia chủ đại phú.” Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng: - “Này khanh Jīvaka, hăy đi và chữa trị cho người gia chủ đại phú.”

 

29. - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi đến gặp người gia chủ đại phú, sau khi đến đă xem xét sự biến đổi diện mạo của người gia chủ đại phú rồi đă nói với người gia chủ đại phú điều này: - “Này gia chủ, nếu tôi chữa cho ông khỏi bệnh, vật thưởng công cho tôi sẽ là cái ǵ đây?” - “Thưa thầy, tất cả tài sản sẽ là của thầy và tôi sẽ là đầy tớ của thầy.” - “Này gia chủ, vậy ông có thể nằm một bên hông trong bảy tháng không?” - “Thưa thầy, tôi có thể nằm một bên hông trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, vậy ông có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng không?” - “Thưa thầy, tôi có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, vậy ông có thể nằm ngửa trong bảy tháng không?” - “Thưa thầy, tôi có thể nằm ngửa trong bảy tháng.”

 

30. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă bảo người gia chủ đại phú nằm xuống trên cái giường nhỏ, sau khi buộc chặt vào cái giường nhỏ rồi đă cắt làn da đầu, tách đôi vết mổ, rồi lôi ra hai con sâu đưa cho mọi người thấy (nói rằng): - “Các người có thể nh́n xem hai con sâu một nhỏ một lớn này. Các vị thầy nào đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ năm, người gia chủ đại phú này sẽ chết,’ các vị ấy đă nh́n thấy con sâu lớn này trong năm ngày nữa sẽ xâm nhập bộ năo của người gia chủ đại phú; do sự xâm nhập vào bộ năo mà người gia chủ đại phú sẽ phải chết. Các vị thầy ấy đă nh́n thấy đúng. C̣n các vị thầy nào đă nói như vầy: ‘Vào ngày thứ bảy, người gia chủ đại phú này sẽ chết,’ các vị ấy đă nh́n thấy con sâu nhỏ này trong bảy ngày nữa sẽ xâm nhập bộ năo của người gia chủ đại phú; do sự xâm nhập vào bộ năo mà người gia chủ đại phú sẽ phải chết. Các vị thầy ấy đă nh́n thấy đúng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca đă khép lại vết mổ, khâu lại làn da đầu, rồi bôi thuốc mỡ vào.

 

31. Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, tôi không thể nằm một bên hông trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, không phải ông đă hứa với tôi rằng: ‘Thưa thầy, tôi có thể nằm một bên hông trong bảy tháng’ hay sao?” - “Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đă hứa. Nhưng mà tôi sẽ chết mất. Tôi không thể nằm một bên hông trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, như thế th́ ngươi hăy nằm bên hông kia trong bảy tháng.”

 

32. Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, tôi không thể nằm bên hông kia trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, không phải ông đă hứa với tôi rằng: ‘Thưa thầy, tôi có thể nằm bên hông kia trong bảy tháng’ hay sao?” - “Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đă hứa. Nhưng mà tôi sẽ chết mất. Tôi không thể nằm bên hông kia trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, như thế th́ ngươi hăy nằm ngửa trong bảy tháng.”

 

33. Sau đó, khi trải qua bảy ngày người gia chủ đại phú đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, tôi không thể nằm ngửa trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, không phải ông đă hứa với tôi rằng: ‘Thưa thầy, tôi có thể nằm ngửa trong bảy tháng’ hay sao?” - “Thưa thầy, đúng vậy. Tôi đă hứa. Nhưng mà tôi sẽ chết mất. Tôi không thể nằm ngửa trong bảy tháng.” - “Này gia chủ, nếu tôi không nói điều ấy th́ ông không thể nằm được chừng này. Hơn nữa, tôi đă tính trước và biết rằng: ‘Với ba lần bảy ngày, người gia chủ đại phú sẽ khỏi bệnh.’ Này gia chủ, hăy đứng dậy, ông đă khỏi bệnh. Ông hăy biết vật thưởng công cho tôi là cái ǵ?”- “Thưa thầy, tất cả tài sản hăy là của thầy và tôi là đầy tớ của thầy.” - “Này gia chủ, thôi đi. Ông chớ có cho tôi tất cả tài sản và chớ có là đầy tớ của tôi. Hăy trao cho đức vua một trăm ngàn và tôi một trăm ngàn.” Sau đó, người gia chủ đại phú, được khỏi bệnh, đă trao cho đức vua một trăm ngàn và Jīvaka Komārabhacca một trăm ngàn.

 

34. Vào lúc bấy giờ, người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī trong lúc chơi giỡn tṛ nhào lộn bị bệnh xoắn ruột. V́ thế, ngay cả cháo được húp vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, vật thực được ăn vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không b́nh thường. Do đó, cậu ấy trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân.

 

35. Khi ấy, nhà đại phú thành Bārāṇasī đă khởi ư điều này: “Con trai ta có chứng bệnh như thế này. V́ thế, ngay cả cháo được húp vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, vật thực được ăn vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không b́nh thường. Do đó, con trai ta trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân. Hay là ta nên đi đến thành Rājagaha cầu xin đức vua phái thầy thuốc Jīvaka chữa trị cho con trai của ta vậy?”

 

36. Sau đó, nhà đại phú ở Bārāṇasī đă đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă nói với đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha điều này: - “Tâu bệ hạ, con trai thần có chứng bệnh như thế này. V́ thế, ngay cả cháo được húp vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, vật thực được ăn vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không b́nh thường. Do đó, con trai thần trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân. Tâu bệ hạ, tốt lành thay xin bệ hạ hăy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka chữa trị cho con trai của thần.”

 

37. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng: - “Này khanh Jīvaka, hăy đi. Sau khi đi đến Bārāṇasī khanh hăy chữa trị cho con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī.” - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi Bārāṇasī gặp người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī, sau khi đến đă xem xét sự biến đổi diện mạo của người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī rồi bảo mọi người tránh đi, dùng màn che vây kín lại, cột chặt (người con trai) vào cây cột nhà, bảo người vợ đứng ở phía trước, rồi cắt làn da ở bụng, lấy ruột ra, đưa cho người vợ thấy (nói rằng): - “Hăy nh́n xem bệnh của tướng công bà. V́ điều này mà ngay cả cháo được húp vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, vật thực được ăn vào cũng không tiêu hóa đúng đắn, thậm chí việc tiểu tiện đại tiện cũng không b́nh thường. V́ điều này, người này trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân h́nh nổi đầy gân.” Rồi Jīvaka Komārabhacca đă gỡ rối phần ruột bị xoắn, đặt các thứ ruột vào trở lại, khâu lại làn da bụng, rồi bôi thuốc mỡ vào.

 

38. Sau đó cũng chẳng bao lâu, người con trai nhà đại phú ở Bārāṇasī đă được khỏi bệnh. Khi ấy, nhà đại phú ở Bārāṇasī (nghĩ rằng): “Con trai ta đă được khỏi bệnh” rồi đă thưởng cho Jīvaka Komārabhacca mười sáu ngàn. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă cầm lấy mười sáu ngàn ấy rồi quay trở về lại thành Rājagaha.

 

39. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota bị bệnh vàng da. Nhiều thầy thuốc tiếng tăm vô cùng lừng lẫy đă đi đến và đă không thể làm khỏi bệnh; họ đă nhận lấy nhiều vàng khối rồi ra đi. Sau đó, đức vua Pajjota đă phái sứ giả đi đến gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (nói rằng): - “Quả là tôi bị bệnh như thế này. Tâu bệ hạ, tốt đẹp thay xin bệ hạ hăy ra lệnh cho thầy thuốc Jīvaka. Vị ấy sẽ chữa trị cho tôi.”

 

40. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă ra lệnh cho Jīvaka Komārabhacca rằng: - “Này khanh Jīvaka, hăy đi. Sau khi đi đến Ujjenī khanh hăy chữa trị cho đức vua Pajjota.” - “Tâu bệ hạ, xin vâng.” Rồi Jīvaka Komārabhacca nghe theo đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đă đi Ujjenī gặp đức vua Pajjota, sau khi đến đă xem xét sự biến đổi diện mạo của đức vua Pajjota rồi đă nói điều này: - “Tâu bệ hạ, thần sẽ đun sôi bơ lỏng và bệ hạ sẽ uống thứ ấy.” - “Này khanh Jīvaka, thôi đi. Ngươi hăy làm khỏi bệnh bằng cách nào mà có thể không dùng bơ lỏng. Đối với ta, bơ lỏng ghê tởm và không thích hợp.”

 

41. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Bệnh của vị vua này là như thế ấy; không dùng bơ lỏng không thể nào làm khỏi bệnh được. Hay là ta nên nấu sôi bơ lỏng có màu cam, có hương của cam, và có vị của cam?” Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă nấu sôi bơ lỏng có màu cam, có hương của cam, và có vị của cam với nhiều loại dược phẩm.

 

42. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Đối với vị vua này, bơ lỏng đă được uống vào, trong khi được tiêu hóa, sẽ làm ợ chua. Vị vua này th́ tàn bạo có thể cho người giết ta, hay là ta nên hỏi pḥng xa trước?”

 

43. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp đức vua Pajjota, sau khi đến đă nói với đức vua Pajjota điều này: - “Tâu bệ hạ, những người thầy thuốc chúng tôi nhổ các thứ rễ cây, thu hoạch các thứ dược phẩm vào thời điểm thích hợp. Tốt đẹp thay xin bệ hạ hăy ra lệnh cho các trạm xe và các cổng thành rằng: ‘Jīvaka muốn đi bằng xe nào th́ hăy để cho đi bằng xe đó, muốn đi ra bằng cổng nào th́ hăy để cho đi ra bằng cổng đó, muốn đi ra lúc nào th́ hăy cho đi ra lúc đó, muốn đi vào lúc nào th́ hăy cho đi vào lúc đó.’”

 

44. Sau đó, đức vua Pajjota đă ra lệnh cho các trạm xe và các cổng thành rằng: - “Jīvaka muốn đi bằng xe nào th́ hăy để cho đi bằng xe đó, muốn đi ra bằng cổng nào th́ hăy để cho đi ra bằng cổng đó, muốn đi ra lúc nào th́ hăy cho đi ra lúc đó, muốn đi vào lúc nào th́ hăy cho đi vào lúc đó.”

 

45. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota có con voi cái tên là Bhaddavatikā có thể đi năm mươi do tuần. Rồi Jīvaka Komārabhacca đă đem lại bơ lỏng cho đức vua Pajjota (nói rằng): - “Xin bệ hạ hăy uống cam.” Sau đó, khi đă cho đức vua Pajjota uống bơ lỏng xong, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến chuồng voi và tẩu thoát thành phố bằng con voi cái Bhaddavatikā.

 

46. Sau đó, khi đă được đức vua Pajjota uống vào và trong khi tiêu hóa, bơ lỏng ấy đă làm ợ chua. Khi ấy, đức vua Pajjota đă nói với mọi người điều này: - “Này các khanh, Jīvaka xảo trá đă làm cho trẫm phải uống bơ lỏng. Chính v́ thế, các khanh hăy truy nă thầy thuốc Jīvaka.” - “Tâu bệ hạ, thầy thuốc đă tẩu thoát thành phố bằng con voi cái Bhaddavatikā rồi.”

 

47. Vào lúc bấy giờ, đức vua Pajjota có nam nô lệ tên là Kāka đă được sanh ra có nguồn gốc phi nhân có thể đi sáu mươi do tuần. Khi ấy, đức vua Pajjota đă ra lệnh cho nô lệ Kāka rằng: - “Này khanh Kāka, hăy đi và hăy bảo thầy thuốc Jīvaka rằng: ‘Thưa thầy, đức vua bảo đem thầy quay trở về.’ Này khanh Kāka, bọn người gọi là thầy thuốc này vô cùng quỷ quyệt. Khanh chớ có nhận lấy bất cứ vật ǵ từ ông ta.”

 

48. Sau đó, vào khoảng giữa đường đi tại thành Kosambi, người nô lệ Kāka đă bắt gặp Jīvaka Komārabhacca đang dùng điểm tâm. Khi ấy, người nô lệ Kāka đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, đức vua bảo đem thầy quay trở về.” - “Này chú em Kāka, hăy chờ cho ta ăn. Này chú em Kāka, ngươi cũng nên ăn đi.” - “Thưa thầy, thôi đi. Tôi đă được đức vua ra lệnh rằng: ‘Này khanh Kāka, bọn người gọi là thầy thuốc này vô cùng xảo trá. Khanh chớ có nhận lấy bất cứ vật ǵ từ ông ta.’”

 

49. Vào lúc bấy giờ, Jīvaka Komārabhacca đă dùng móng tay khảy lấy (chút) dược phẩm rồi ăn trái cây āmalaka và uống nước. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă nói với nô lệ Kāka điều này: - “Này chú em Kāka, ngươi hăy ăn trái cây āmalaka và nên uống nước.” Khi ấy, nô lệ Kāka (nghĩ rằng): “Thầy thuốc này ăn trái cây āmalaka và uống nước. Xem ra không có điều ǵ là quỷ quyệt cả” rồi đă ăn nửa trái āmalaka và uống nước. Khi người nô lệ ấy vừa ăn vào nửa phần của trái āmalaka ấy liền bị ói ra ngay tại chỗ ấy.

 

50. Khi ấy, nô lệ Kāka đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Thưa thầy, tôi có c̣n mạng sống không?” - “Này chú em Kāka, chớ có sợ. Rồi chính ngươi sẽ được khỏi bệnh. C̣n đức vua th́ tàn bạo, đức vua ấy cũng có thể ra lệnh giết ta; v́ thế ta không quay trở lại.” Sau khi bảo nô lệ Kāka dẫn đi con voi cái Bhaddavatikā, Jīvaka Komārabhacca đă ra đi về phía thành Rājagaha, tuần tự đă đi đến thành Rājagaha gặp đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đă tŕnh sự việc ấy cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha. - “Này khanh Jīvaka, khanh đă làm tốt lắm, là việc khanh đă không quay trở về. Đức vua ấy tàn bạo cũng có thể ra lệnh giết khanh.”

 

51. Sau đó, đức vua Pajjota, được khỏi bệnh, đă phái sứ giả đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca (nói rằng): - “Jīvaka hăy đi đến. Trẫm sẽ ban đặc ân.” - “Thưa ngài, thôi đi. Chỉ xin đức vua nhớ cho chức vụ của thần.”

 

52. Vào lúc bấy giờ, có xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi được phát sanh đến đức vua Pajjota. (Đây) là loại tốt nhất, thượng hạng, nổi tiếng, cao quư, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi. Sau đó, đức vua Pajjota đă phái người đem xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi ấy ban cho Jīvaka Komārabhacca.

 

53. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi này đă được đức vua Pajjota gởi đến cho ta, là loại tốt nhất, thượng hạng, nổi tiếng, cao quư, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi; không ai xứng đáng với vật này, ngoại trừ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy, hay là đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha.”

 

54. Vào lúc bấy giờ, cơ thể của đức Thế Tôn bị tiết ra dịch chất dơ. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo với đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, cơ thể của Như Lai bị tiết ra dịch chất dơ. Như Lai muốn uống liều thuốc xổ.”

 

55. Sau đó, đại đức Ānanda đă đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Này đạo hữu Jīvaka, cơ thể của Như Lai bị tiết ra dịch chất dơ. Như Lai muốn uống liều thuốc xổ.” - “Thưa ngài Ānanda, như thế th́ ngài hăy thoa dầu nơi cơ thể của đức Thế Tôn một vài ngày.”

 

56. Sau đó, khi đă thoa dầu nơi cơ thể của đức Thế Tôn một vài ngày, đại đức Ānanda đă đi đến gặp Jīvaka Komārabhacca, sau khi đến đă nói với Jīvaka Komārabhacca điều này: - “Này đạo hữu Jīvaka, cơ thể của Như Lai đă được thoa dầu, đạo hữu hăy suy nghĩ xem bây giờ là thời điểm của việc ǵ.”

 

57. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Đối với ta quả là không thích đáng, là việc ta có thể dâng đức Thế Tôn liều thuốc xổ thô tháo,” nên đă dùng ba nắm sen và nhiều loại dược phẩm trộn lẫn nhau rồi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă dâng lên đức Thế Tôn một nắm sen (nói rằng): - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ nhất này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần.” Rồi đă dâng đức Thế Tôn nắm sen thứ nh́ (nói rằng): - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ nh́ này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần.” Rồi đă dâng đức Thế Tôn nắm sen thứ ba (nói rằng): - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hít vào nắm sen thứ ba này, liều này sẽ làm đức Thế Tôn xổ mười lần.” (Rồi nghĩ rằng:) “Như thế đức Thế Tôn sẽ có liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.” Sau đó, khi đă dâng đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần, Jīvaka Komārabhacca đă đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

58. Khi ấy, trong lúc đang đi ra khỏi cổng ra vào, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: “Ta đă dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần. (Do) cơ thể của đức Như Lai đă bị tiết ra dịch chất dơ nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đă được xổ, ngài sẽ tắm. Và khi đă được tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.”

 

59. Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi dùng tâm biết được ư nghĩ suy tầm của Jīvaka Komārabhacca nên đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, ở đây trong lúc đang đi ra khỏi cổng ra vào, Jīvaka Komārabhacca đă khởi ư điều này: ‘Ta đă dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần. (Do) cơ thể của đức Như Lai đă bị tiết ra dịch chất dơ nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đă được xổ, ngài sẽ tắm; và khi đă được tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.’ Này Ānanda, như thế th́ ngươi hăy chuẩn bị sẵn sàng nước nóng.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda, nghe theo đức Thế Tôn, đă chuẩn bị sẵn sàng nước nóng.

 

60. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn đă được xổ chưa?” - “Này Jīvaka, ta đă được xổ.” - “Bạch ngài, ở đây trong lúc đang đi ra khỏi cổng ra vào, con đă khởi ư điều này: ‘Ta đă dâng lên đức Thế Tôn liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần. (Do) cơ thể của đức Như Lai đă bị tiết ra dịch chất dơ nên sẽ không làm đức Thế Tôn xổ đầy đủ ba mươi lần mà chỉ làm đức Thế Tôn xổ hai mươi chín lần. Tuy nhiên, khi đức Thế Tôn đă được xổ, ngài sẽ tắm. Và khi đă được tắm, liều thuốc sẽ làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn sẽ có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.’ Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hăy tắm, xin đấng Thiện Thệ hăy tắm.” Khi ấy, đức Thế Tôn đă tắm nước nóng. Khi đă được tắm, (liều thuốc) đă làm đức Thế Tôn xổ một lần nữa. Như thế, đức Thế Tôn đă có được liều thuốc xổ tổng cộng ba mươi lần.

 

61. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, cho đến khi cơ thể của đức Thế Tôn trở lại b́nh thường, cần kiêng đồ khất thực là nước trái cây.”

 

62. Sau đó chẳng bao lâu, cơ thể của đức Thế Tôn đă được b́nh thường. Khi ấy, Jīvaka Komārabhacca đă cầm lấy xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con thỉnh cầu đức Thế Tôn một điều ước muốn.” - “Này Jīvaka, các đấng Như Lai đă vượt khỏi các điều ước muốn.” - “Bạch ngài, điều ấy là hợp lư, điều ấy không bị chê trách.” - “Này Jīvaka, hăy nói đi.” - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là vị sử dụng y may từ vải bị quăng bỏ, và hội chúng tỳ khưu (cũng vậy). Bạch ngài, xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi này của con đă được vua Pajjota gởi đến, là loại tốt nhất, thượng hạng, nổi tiếng, cao quư, và sang trọng trong vô số các loại vải, trong vô số các xấp vải đôi, trong hàng trăm xấp vải đôi, trong hàng ngàn xấp vải đôi, trong hàng trăm ngàn xấp vải đôi. Bạch ngài, xin ngài thọ nhận xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi này của con và cho phép y của gia chủ[1] đến hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đă thọ nhận xấp vải đôi sản xuất tại xứ Sivi.

 

63. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

64. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép y của gia chủ. Vị nào thích th́ hăy là vị sử dụng y may từ vải bị quăng bỏ, vị nào thích th́ hăy chấp nhận y của gia chủ. Và này các tỳ khưu, ta ngợi khen sự biết đủ (dầu) với loại này hay loại kia.”

 

65. Rồi dân chúng ở thành Rājagaha đă nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đă cho phép y của gia chủ đến các tỳ khưu.” Và những người dân ấy đă trở nên mừng rỡ phấn chấn (nghĩ rằng): “Giờ đây, chúng ta sẽ dâng các vật thí, chúng ta sẽ làm các việc phước thiện, bởi v́ đức Thế đă cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và chỉ trong một ngày, ở thành Rājagaha nhiều ngàn y đă được phát sanh.

 

66. Rồi dân chúng trong nước đă nghe được rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đă cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và những người dân ấy đă trở nên mừng rỡ phấn chấn (nghĩ rằng): “Giờ đây, chúng ta sẽ dâng các vật thí, chúng ta sẽ làm các việc phước thiện, bởi v́ đức Thế đă cho phép y của gia chủ đến các vị tỳ khưu.” Và chỉ trong một ngày, ở trong nước nhiều ngàn y đă được phát sanh.

 

67. Vào lúc bấy giờ, có tấm vải choàng được phát sanh đến hội chúng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm vải choàng.” Có tấm vải choàng bằng tơ lụa được phát sanh. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm vải choàng bằng tơ lụa.” Có tấm choàng lông được phát sanh đến hội chúng. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép tấm choàng lông.”

 

Dứt tụng phẩm thứ nhất.

 

*****

 

TỤNG PHẨM VISĀKHĀ

 

1. Vào lúc bấy giờ, đức vua xứ Kāsi đă gởi đến Jīvaka Komārabhacca tấm mền len trị giá nửa kāsi[2] (hoặc) tương đương với nửa kāsi. Sau đó, Jīvaka Komārabhacca đă cầm lấy tấm mền len trị giá nửa kāsi ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi đă ngồi xuống một bên, Jīvaka Komārabhacca đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, tấm mền len này của con trị giá nửa kāsi (hoặc) tương đương với nửa kāsi đă được đức vua xứ Kāsi gởi đến. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lănh tấm mền, điều ấy sẽ đem lại sự lợi ích và sự an lạc lâu dài cho con.” Đức Thế Tôn đă thọ lănh tấm mền len.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Jīvaka Komārabhacca bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Jīvaka Komārabhacca đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

3. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) tấm mền len.”

 

4. Vào lúc bấy giờ, có các y đủ loại phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Loại y nào đă được đức Thế Tôn cho phép, loại nào không được cho phép?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại y: loại bằng sợi lanh, loại bằng bông vải, loại bằng tơ lụa, loại bằng sợi len, loại bằng gai thô, loại bằng chỉ bố.”

 

5. Vào lúc bấy giờ, những vị tỳ khưu nào chấp nhận y của gia chủ, những vị ấy trong lúc ngần ngại không chấp nhận loại vải dơ bị quăng bỏ (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn cho phép chỉ một loại y chứ không phải hai.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị chấp nhận y của gia chủ chấp nhận luôn cả loại vải dơ bị quăng bỏ. Này các tỳ khưu ta ngợi khen sự biết đủ với cả hai loại ấy.”

 

6. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đă đi vào băi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đă không chờ đợi. Những vị tỳ khưu đi vào băi tha ma đă nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những vị tỳ khưu không chờ đợi đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chia phần cho cả chúng tôi nữa.” Những vị kia đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đă không chờ đợi?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép không chia phần cho các vị không chờ đợi nếu không muốn.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đă đi vào băi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đă chờ đợi. Những vị tỳ khưu đi vào băi tha ma đă nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những tỳ khưu chờ đợi đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chia phần cho cả chúng tôi nữa.” Những vị kia đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đă không đi vào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đă chờ đợi cho dầu không muốn.”

 

8. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa ở trong xứ Kosala. Một số tỳ khưu đă đi vào băi tha ma trước để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số tỳ khưu đă đi vào sau. Những vị tỳ khưu đi vào băi tha ma trước đă nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Những vị tỳ khưu đi vào sau đă không nhặt được. Những vị ấy đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chia phần cho cả chúng tôi nữa.” Những vị kia đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đă đi vào sau?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép không chia phần cho các vị đi vào sau nếu không muốn.”

 

9. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa ở trong xứ Kosala. Các vị đă đi vào băi tha ma cùng một lúc để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số vị tỳ khưu đă nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Một số vị tỳ khưu đă không nhặt được. Những vị tỳ khưu không nhặt được đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chia phần cho cả chúng tôi nữa.” Những vị kia đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đă không nhặt được?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đi vào cùng một lúc cho dầu không muốn.”

 

10. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đi đường xa ở trong xứ Kosala. Các vị đă thỏa thuận với nhau rồi đi vào băi tha ma để kiếm vải dơ bị quăng bỏ. Một số vị tỳ khưu đă nhặt được nhiều vải quấn tử thi. Một số vị tỳ khưu đă không nhặt được. Những vị tỳ khưu không nhặt được đă nói như vầy: - “Này các đại đức, hăy chia phần cho cả chúng tôi nữa.” Những vị kia đă nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng tôi sẽ không chia phần cho các vị. Tại sao các vị đă không nhặt được?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chia phần cho các vị đi vào sau khi đă thỏa thuận cho dầu không muốn.”

 

11. Vào lúc bấy giờ, dân chúng cầm y đi đến tu viện. Trong khi không gặp được vị có trách nhiệm tiếp nhận nên họ mang về. Y được phát sanh ít ỏi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị tiếp nhận y là vị tỳ khưu có năm yếu tố: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, vị biết (vật) đă được tiếp nhận hay chưa được tiếp nhận.

 

12. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị tiếp nhận y xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị tiếp nhận y. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”

 

13. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu là các vị tiếp nhận y sau khi thọ lănh y bỏ ngay tại chỗ ấy rồi ra đi. Y bị mất. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị cất giữ y là vị tỳ khưu có năm yếu tố: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, vị biết (vật) đă được cất giữ hay chưa được cất giữ.

 

14. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỳ khưu cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định vị tỳ khưu tên (như vầy) là vị cất giữ y xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị cất giữ y. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”

 

15. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu là các vị cất giữ y cất giữ y ở mái che, ở gốc cây, ở hốc cây nimba. Các y bị gặm nhấm bởi các con chuột và loài mối. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định nhà kho chứa đồ thuộc loại nào mà hội chúng thích, (có thể) là trú xá, nhà một mái, ṭa nhà dài, khu nhà lớn, hoặc hang động.

 

16. Và này các tỳ khưu, nên được chỉ định như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ. Đại đức nào đồng ư việc chỉ định trú xá tên (như vầy) là nhà kho chứa đồ xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên. Trú xá tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là nhà kho chứa đồ. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”

 

17. Vào lúc bấy giờ, y ở trong nhà kho chứa đồ của hội chúng không được bảo quản. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị quản lư nhà kho là vị tỳ khưu có năm yếu tố: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, vị biết (vật) đă được bảo quản hay không được bảo quản. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: ―(như trên)― Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị quản lư nhà kho. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

18. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư băi nhiệm vị quản lư nhà kho. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên băi nhiệm vị giữ nhà kho; vị nào băi nhiệm th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

19. Vào lúc bấy giờ, trong nhà kho chứa đồ của hội chúng y được dồi dào. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép hội chúng chia phần theo sự hiện diện.”

 

20. Vào lúc bấy giờ, toàn thể hội chúng trong lúc chia phần y đă gây ra cảnh náo động. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ định vị chia y là vị tỳ khưu có năm yếu tố: vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hăi, vị biết (y) đă được phân chia hay chưa được phân chia. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: ―(như trên)― Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă được hội chúng chỉ định là vị chia y. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 

21. Sau đó, các tỳ khưu là các vị chia y đă khởi ư điều này: “Y nên được chia như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép trước tiên phân loại, phỏng định giá trị, làm cho đồng đều (giá trị), đếm số tỳ khưu, gom lại thành nhóm, rồi xác định phần chia về y.”

 

22. Khi ấy, các tỳ khưu là các vị chia y đă khởi ư điều này: “Phần chia về y có nên được cho đến các sa di hay không?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cho các sa di một nửa của phần chia về y.”

 

23. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn vượt qua (sông hoặc đoạn đường hoang vắng) với phần chia của bản thân. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép trao cho phần chia của bản thân đến vị đang (chuẩn bị) vượt qua (sông hoặc đoạn đường hoang vắng).”

 

24. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có ư muốn vượt qua (sông hoặc đoạn đường hoang vắng) với phần chia nhiều hơn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép trao cho phần chia nhiều hơn khi vật đền bù được trao lại.”

 

25. Sau đó, các tỳ khưu là các vị chia y đă khởi ư điều này: “Phần chia về y nên được trao cho như thế nào, theo thứ tự đi đến hay là theo thâm niên?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép bốc thăm để làm hoan hỷ các vị không được phần.”

 

26. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhuộm y với phân ḅ và đất sét đỏ. Y có màu sắc xấu. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại thuốc nhuộm: thuốc nhuộm từ rễ cây, thuốc nhuộm từ thân cây, thuốc nhuộm từ vỏ cây, thuốc nhuộm từ lá cây, thuốc nhuộm từ bông hoa, thuốc nhuộm từ trái cây.”

 

27. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu nhuộm y với nước lạnh. Y có mùi hôi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nồi nhuộm loại nhỏ để nấu thuốc nhuộm.” Thuốc nhuộm bị tràn ra. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc ṿng đế tṛn (ở bên trong nồi thuốc nhuộm).”

 

28. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không biết thuốc nhuộm đă được nấu hay chưa được nấu. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhỏ giọt vào trong nước hoặc ở bề lưng của móng tay.”

 

29. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu khi đổ thuốc nhuộm ra, cái nồi bị xoay tṛn. Cái nồi bị bể. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cái môi múc thuốc nhuộm, cái gàu có cán.”

 

30. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu không có cái thùng để nhuộm. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chậu nhuộm, lu nhuộm.”

 

31. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ṿ nhồi y trong cái đĩa, trong b́nh bát. Y đă bị thủng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép máng nhuộm.”

 

32. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trải y ra ở nền đất. Y bị lấm bụi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thảm cỏ.” Thảm cỏ bị mối ăn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sào máng y, dây treo y.” Các vị treo cao lên ở giữa. Thuốc nhuộm chảy ra hai bên. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép buộc ở các góc (y).” Góc (y) bị sờn. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép sợi chỉ ở các góc (y).” Thuốc nhuộm chảy ở một bên. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhuộm bằng cách đảo y trở qua rồi đảo y trở lại, và không được bỏ đi khi nước chưa ngừng nhỏ giọt.”

 

33. Vào lúc bấy giờ, y bị cứng. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ngâm trong nước.”

 

34. Vào lúc bấy giờ, y bị thô nhám. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đập bằng bàn tay.”

 

35. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc các y ca-sa màu ngà voi chưa được cắt. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên mặc các y chưa được cắt; vị nào mặc th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

36. Sau đó, khi đă ngự tại thành Rājagaha theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành đến Dakkhiṇāgiri. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy mảnh ruộng ở Magadha được kết nối bằng những khoảnh vuông vức, được kết nối bằng những đường biên xung quanh, được kết nối bằng những đường biên ngắn ở giữa, được kết nối bằng những mảnh vuông ở chỗ giao nhau, sau khi nh́n thấy đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, ngươi có nh́n thấy mảnh ruộng ở Magadha của chúng ta được kết nối bằng những khoảnh vuông vức, được kết nối bằng những đường biên xung quanh, được kết nối bằng những đường biên ngắn ở giữa, được kết nối bằng những mảnh vuông ở chỗ giao nhau không?” - “Bạch ngài, thưa có.” - “Này Ānanda, ngươi có khả năng tạo nên các y có kiểu mẫu như thế cho các vị tỳ khưu không?” - “Bạch Thế Tôn, con có khả năng.”

 

37. Sau đó, khi đă ngự tại Dakkhiṇāgiri theo như ư thích, đức Thế Tôn đă quay trở về lại thành Rājagaha. Khi ấy, đại đức Ānanda sau khi tự ḿnh tạo nên các y cho nhiều vị tỳ khưu đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin Thế Tôn hăy nh́n xem các y con đă tự ḿnh tạo nên.” Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ānanda thật sáng trí. Này các tỳ khưu, Ānanda có đại trí tuệ bởi v́ vị ấy hiểu ư nghĩa một cách đầy đủ của điều đă được ta nói ra một cách vắn tắt. Vị ấy làm được dải nối theo chiều dọc (của y), vị ấy làm được dải nối theo chiều ngang (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh lớn thuộc các dải điều bên (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc dải điều giữa (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc các dải điều kế (của y), vị ấy làm được mảnh nhỏ thuộc hai dải điều biên (của y), (như thế y) sẽ được cắt ra, sần sùi khi được ráp lại, phù hợp với Sa-môn, không c̣n được mong mỏi bởi những kẻ đối nghịch. Này các tỳ khưu, ta cho phép y hai lớp đă được cắt ra, thượng y đă được cắt ra, y nội đă được cắt ra (rồi ráp lại).”

 

38. Sau đó, khi đă ngự tại thành Rājagaha theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành đến thành Vesāli. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy nhiều vị tỳ khưu ôm đồm với các chiếc y đang đi đường xa giữa Rājagaha và Vesāli, các vị đă làm cuộn y ở trên đầu, các vị đă làm cuộn y ở vai, các vị đă làm cuộn y ở hông. Sau khi nh́n thấy đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Những kẻ rồ dại này đă xoay xở được nhiều y thật nhanh chóng, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y, (và) nên quy định sự giới hạn về y?”

 

39. Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đă ngự đến thành Vesāli. Tại nơi đó ở Vesāli, đức Thế Tôn ngụ tại điện thờ Gotamaka. Vào lúc bấy giờ, trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo vào thời điểm tuyết rơi, đức Thế Tôn đă ngồi ở ngoài trời vào ban đêm chỉ với một y; đức Thế Tôn đă không có cảm giác lạnh. Khi canh đầu đă qua, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă trùm lên y thứ nh́; đức Thế Tôn đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi canh giữa đă qua, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă trùm lên y thứ ba; đức Thế Tôn đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi canh cuối đă qua, hừng đông đă rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đă trùm lên y thứ tư; đức Thế Tôn đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi ấy, đức Thế Tôn đă khởi ư điều này: “Những vị nào là con trai của các nhà danh giá xuất gia ở trong Pháp và Luật này thường bị ảnh hưởng bởi sự lạnh và khiếp sợ sự lạnh, những vị ấy có thể tồn tại với ba y, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y, nên quy định sự giới hạn về y cho các tỳ khưu, (và) nên cho phép ba y?”

 

40. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ở đây trong khi đi trên đoạn đường xa giữa Rājagaha và Vesāli, ta đă nh́n thấy nhiều vị tỳ khưu ôm đồm với các chiếc y đang đi ngược chiều, các vị đă làm cuộn y ở trên đầu, các vị đă làm cuộn y ở vai, các vị đă làm cuộn y ở hông, sau khi nh́n thấy ta đă khởi ư điều này: ‘Những kẻ rồ dại này đă xoay xở được nhiều y thật mau mắn, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y, (và) nên quy định sự giới hạn về y?’

 

41. Này các tỳ khưu, ở đây trong khoảng thời gian tám đêm của mùa đông lạnh lẽo vào thời điểm tuyết rơi, ta đă ngồi ở ngoài trời vào ban đêm chỉ với một y; ta đă không có cảm giác lạnh. Khi canh đầu đă qua, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở ta. Ta đă trùm lên y thứ nh́; ta đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi canh giữa đă qua, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở ta. Ta đă trùm lên y thứ ba; ta đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi canh cuối đă qua, hừng đông đă rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, cảm giác lạnh đă xuất hiện ở ta. Ta đă trùm lên y thứ tư; ta đă không c̣n cảm giác lạnh. Khi ấy, ta đă khởi ư điều này: ‘Những vị nào là con trai của các nhà danh giá xuất gia ở trong Pháp và Luật này thường bị ảnh hưởng bởi sự lạnh và khiếp sợ sự lạnh, những vị ấy có thể tồn tại với ba y, hay là ta nên xác định sự hạn chế về y, nên quy định sự giới hạn về y cho các tỳ khưu, (và) nên cho phép ba y?’ Này các tỳ khưu, ta cho phép ba y gồm có y saṅghāṭi hai lớp, thượng y một lớp, và y nội một lớp.”

 

42. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đă cho phép ba y,” rồi đi vào làng với ba y nọ, mặc ở tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại sử dụng y phụ trội?”

 

43. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên cất giữ y phụ trội, vị nào cất giữ th́ nên được hành xử theo Pháp.”[3]

 

44. Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội được phát sanh đến đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda có ư định dâng y ấy đến đại đức Sāriputta. Và đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Khi ấy, đại đức Ānanda đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Không được cất giữ y phụ trội.’ Và y phụ trội này đă được phát sanh đến ta. Và ta có ư muốn dâng y này đến đại đức Sāriputta mà đại đức Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đại đức Ānanda đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta sẽ đi đến đây?” - “Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.”

 

45. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cất giữ y phụ trội tối đa mười ngày.”

 

46. Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến các tỳ khưu. Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Nên thực hành như thế nào đối với các y phụ trội?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y phụ trội.”

 

47. Sau đó, khi đă ngự tại thành Vesāli theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía thành Bāraṇasī. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến thành Bārāṇasī. Tại nơi đó ở Bārāṇasī, đức Thế Tôn ngự tại Isipatana, nơi vườn nai.

 

48. Vào lúc bấy giờ, y nội của vị tỳ khưu nọ bị rách. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă cho phép ba y gồm có y saṅghāṭi hai lớp, thượng y một lớp, và y nội một lớp. Và y nội này của ta bị rách, hay là ta nên đắp thêm miếng vá, như thế xung quanh sẽ là hai lớp và ở giữa là một lớp?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă đắp thêm miếng vá. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đang đắp thêm miếng vá, sau khi nh́n thấy đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, ngươi làm ǵ vậy?” - “Bạch Thế Tôn, con đắp thêm miếng vá.” - “Này tỳ khưu, thật tốt thay, thật tốt thay! Này tỳ khưu, thật tốt thay việc ngươi đắp thêm miếng vá!”

 

49. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép khi vải c̣n mới hoặc được xem như mới th́ y saṅghāṭi là hai lớp, thượng y là một lớp, và y nội là một lớp. Khi các lớp vải đă bị sờn bởi thời gian th́ y saṅghāṭi là bốn lớp, thượng y là hai lớp, và y nội là hai lớp. Nên thực hiện việc nỗ lực (t́m kiếm) vải dơ bị quăng bỏ hay (được bỏ rơi) ở các cửa tiệm theo như nhu cầu. Này các tỳ khưu, ta cho phép (đắp) miếng vá, (dùng) chỉ mạng, (đắp chồng) lớp nữa, miếng vá nhỏ, và việc may lại cho chắc chắn.”

 

50. Sau đó, khi đă ngự tại thành Rājagaha theo như ư thích, đức Thế Tôn đă ra đi du hành về phía thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đă ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó ở Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.

 

51. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi bà Visākhā mẹ của Migāra đă ngồi xuống một bên, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà bằng bài Pháp thoại.

 

52. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa trai phạn vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.” Đức Thế Tôn đă nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

53. Vào lúc bấy giờ, khi trải qua đêm ấy có đám mây lớn khắp cả bốn châu đă đổ mưa xuống. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, trời mưa ở Jetavana như thế nào th́ trời mưa ở bốn châu như thế ấy. Này các tỳ khưu, hăy để cho thân thể ướt đẫm nước mưa, đây là trận mưa lớn khắp cả bốn châu lần cuối cùng.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy nghe theo đức Thế Tôn, có các y đă được cất đi, rồi để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.”

 

54. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra sau khi cho chuẩn bị sẵn sàng vật thực hảo hạng loại cứng loại mềm rồi đă bảo người tớ gái rằng: - “Này em, hăy đi. Sau khi đến tu viện, hăy thông báo thời giờ rằng: ‘Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.’” - “Thưa bà, xin vâng.” Rồi người tớ gái nghe theo bà Visākhā mẹ của Migāra đă đi đến tu viện và nh́n thấy các vị tỳ khưu, có các y đă được cất đi, đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa. Sau khi nh́n thấy (nghĩ rằng): “Không có các tỳ khưu nơi tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lơa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa” rồi đă đi đến gặp bà Visākhā mẹ của Migāra, sau khi đến đă nói với bà Visākhā mẹ của Migāra điều này: - “Thưa bà, không có các tỳ khưu nơi tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lơa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.”

 

55. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra là người sáng trí, kinh nghiệm, thông minh đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là các ngài đại đức có các y đă được cất đi, và để cho thân thể ướt đẫm nước mưa! Cô gái đần độn này đây đă nghĩ rằng: ‘Không có các tỳ khưu nơi tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lơa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa,’” nên đă bảo người tớ gái lần nữa rằng: - “Này em, hăy đi. Sau khi đến tu viện, hăy thông báo thời giờ rằng: ‘Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.’”

 

56. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy sau khi làm cho mát mẻ các phần thân thể, có cơ thể khoẻ khoắn, đă cầm lấy các y rồi đi vào trú xá của ḿnh.

 

57. Sau đó, người tớ gái ấy đă đi đến tu viện, trong khi không nh́n thấy các vị tỳ khưu (nên nghĩ rằng): “Không có các tỳ khưu nơi tu viện, tu viện th́ trống không” rồi đă đi đến gặp bà Visākhā mẹ của Migāra, sau khi đến đă nói với bà Visākhā mẹ của Migāra điều này: - “Thưa bà, không có các tỳ khưu nơi tu viện, tu viện th́ trống không.”

 

58. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra là người sáng trí, kinh nghiệm, thông minh đă khởi ư điều này: “Chắc chắn là các ngài đại đức sau khi làm cho mát mẻ các phần thân thể, có cơ thể khoẻ khoắn, nên đă cầm lấy các y rồi đi vào trú xá của ḿnh. Cô gái đần độn này đây đă nghĩ rằng: ‘Không có các tỳ khưu nơi tu viện, tu viện th́ trống không,’” nên đă bảo người tớ gái lần nữa rằng: - “Này em, hăy đi. Sau khi đi đến tu viện, hăy thông báo thời giờ rằng: ‘Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.’”

 

59. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hăy sẵn sàng y bát. Đă đến thời điểm của bữa ăn.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Các vị tỳ khưu ấy đă đáp lời đức Thế Tôn.

 

60. Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đă mặc y, cầm y bát, rồi giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đă được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đă được duỗi ra, tương tợ như thế đức Thế Tôn đă biến mất tại Jetavana rồi hiện ra ở cổng nhà của bà Visākhā mẹ của Migāra. Đức Thế Tôn đă ngồi xuống ở chỗ ngồi đă được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu.

 

61. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra (nghĩ rằng): “Thật kỳ diệu thay! Thật phi thường thay! Đức Như Lai có đại thần lực, có đại oai lực! Bởi v́ trong khi các cơn lũ đang dâng tới mức đầu gối, trong khi các cơn lũ đang dâng lên tới hông thế mà không một vị tỳ khưu nào có các bàn chân hoặc các y bị ướt!” nên mừng rỡ phấn chấn, rồi đă tự tay làm hài ḷng và toại ư hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đă thọ thực xong có bàn tay đă rời khỏi b́nh bát, bà đă ngồi xuống một bên.

 

62. Khi đă ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con thỉnh cầu đức Thế Tôn tám điều ước muốn.” - “Này Visākhā, các đấng Như Lai đă vượt khỏi các điều ước muốn.” - “Bạch ngài, các điều ấy là hợp lư, các điều ấy không bị chê trách.” - “Này Visākhā, hăy nói đi.” - “Bạch ngài, con muốn dâng vải choàng tắm mưa đến hội chúng, dâng bữa ăn dành cho vị văng lai, dâng bữa ăn dành cho vị xuất hành, dâng bữa ăn dành cho vị bị bệnh, dâng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, dâng dược phẩm dành cho vị bị bệnh, dâng cháo hàng ngày, dâng vải choàng tắm đến hội chúng tỳ khưu ni đến trọn đời.”

 

63. - “Này Visākhā, trong khi thấy rơ sự hữu dụng ǵ mà bà lại thỉnh cầu Như Lai tám điều ước muốn?” - “Bạch ngài, ở đây con đă bảo người tớ gái rằng: ‘Này em, hăy đi. Sau khi đến tu viện, hăy thông báo thời giờ rằng: Bạch ngài, đă đến giờ, thức ăn đă chuẩn bị xong.’ Khi ấy, người tớ gái ấy đă đi đến tu viện và nh́n thấy các vị tỳ khưu, có các y đă được cất đi, đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa. Sau khi nh́n thấy (nghĩ rằng): ‘Không có các tỳ khưu nơi tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lơa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa’ rồi đă đi đến gặp con, sau khi đến đă nói với con điều này: ‘Thưa bà, Không có các tỳ khưu nơi tu viện, (chỉ có) các đạo sĩ lơa thể đang để cho thân thể ướt đẫm nước mưa.’ Bạch ngài, sự trần truồng là không tinh khiết, ghê tởm, bị lên án. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng vải choàng (tắm) mưa đến trọn đời.

 

64. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, vị tỳ khưu văng lai không rành rẽ đường xá, không rành rẽ khu vực, đi khất thực trong lúc đang mệt nhọc. Vị ấy sau khi thọ thực bữa ăn dành cho vị văng lai của con được rành rẽ đường xá, được rành rẽ khu vực, sẽ đi khất thực trong khi không c̣n mệt nhọc. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị văng lai đến trọn đời.

 

65. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, vị tỳ khưu là vị xuất hành, trong khi t́m kiếm vật thực cho ḿnh sẽ bị trễ đoàn lữ hành, hoặc sẽ đến nơi (mà vị ấy) có ư muốn đi đến vào lúc trời tối, sẽ phải đi đường xa trong lúc đang mệt nhọc. Vị ấy sau khi thọ thực bữa ăn dành cho vị xuất hành của con sẽ không bị trễ đoàn lữ hành, sẽ không đến nơi (mà vị ấy) có ư muốn đi đến vào lúc trời tối, sẽ đi đường xa trong khi không mệt nhọc. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị xuất hành đến trọn đời.

 

66. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không nhận được các thức ăn thích hợp, bệnh t́nh sẽ trầm trọng, hoặc sẽ chết đi. Trong khi vị ấy thọ dụng bữa ăn dành cho vị bị bệnh của con, bệnh t́nh sẽ không trầm trọng, sẽ không chết đi. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị bị bệnh đến trọn đời.

 

67. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, vị tỳ khưu là vị chăm sóc bệnh trong khi t́m kiếm thức ăn cho ḿnh sẽ đem lại bữa ăn của vị bệnh lúc mặt trời đă lên (cao), sẽ làm lỡ bữa ăn. Vị ấy sau khi thọ dụng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh của con sẽ đem lại thức ăn của vị bệnh lúc đúng thời, sẽ không làm lỡ bữa ăn. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh đến trọn đời.

 

68. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không nhận được các loại dược phẩm thích hợp, bệnh t́nh sẽ trầm trọng, hoặc sẽ chết đi. Trong khi vị ấy thọ dụng dược phẩm dành cho vị bị bệnh của con, bệnh t́nh sẽ không trầm trọng, sẽ không chết đi. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng dược phẩm dành cho vị bị bệnh đến trọn đời.

 

69. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, ở Andhakavinda trong khi thấy rơ mười điều lợi ích, đức Thế Tôn đă cho phép (thọ dụng) cháo. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng cháo hàng ngày đến trọn đời.

 

70. Bạch ngài c̣n có điều khác nữa, các tỳ khưu ni tắm trần truồng với các cô điếm ở một băi tắm của sông Aciravatī. Bạch ngài các cô điếm ấy đă chế giễu các tỳ khưu ni rằng: ‘Các bà đại đức ơi, các bà được cái ǵ với việc thực hành Phạm hạnh trong lúc c̣n trẻ trung vậy? Chớ không phải là các dục lạc nên được hưởng thụ hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vớ được cả hai điều lợi.’ Bạch ngài, khi bị các cô điếm chế giễu các tỳ khưu ni ấy đă mắc cở. Bạch ngài, sự trần truồng của phụ nữ là không tinh khiết, ghê tởm, bị lên án. Bạch ngài, trong khi thấy rơ sự hữu dụng này mà con muốn dâng đến hội chúng tỳ khưu ni vải choàng tắm đến trọn đời.”

 

71. - “Này Visākhā, trong khi thấy rơ lợi ích ǵ mà bà lại thỉnh cầu Như Lai tám điều ước muốn?” - “Bạch ngài, ở đây các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương sẽ đi đến Sāvatthi để diện kiến đức Thế Tôn. Các vị ấy sau khi đi đến gặp đức Thế Tôn sẽ hỏi rằng: ‘Bạch ngài, vị tỳ khưu tên (như vầy) đă từ trần. Cơi tái sanh của vị ấy là ǵ? Cảnh giới kế tiếp của vị ấy là ǵ?’ Đức Thế Tôn sẽ tuyên bố vị ấy ở quả vị Nhập Lưu, hoặc ở quả vị Nhất Lai, hoặc ở quả vị Bất Lai, hoặc ở phẩm vị A-la-hán. Con sẽ đi đến gặp các vị ấy và hỏi rằng: ‘Thưa các ngài, có phải vị đại đức ấy trước đây đă đi đến Sāvatthi?’ Nếu các vị trả lời con rằng: ‘Vị tỳ khưu ấy trước đây đă đi đến Sāvatthi,’ trường hợp ấy, con sẽ đi đến kết luận là: ‘Chắc chắn rằng vị đại đức ấy đă thọ dụng hoặc là vải choàng (tắm) mưa, hoặc là bữa ăn dành cho vị văng lai, hoặc là bữa ăn dành cho vị xuất hành, hoặc là bữa ăn dành cho vị bị bệnh, hoặc là bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, hoặc là dược phẩm dành cho vị bị bệnh, hoặc là cháo hàng ngày của con.’ Trong khi nhớ lại điều ấy, sự hân hoan sẽ được sanh khởi ở con đây, do sự hân hoan mà hỷ sẽ được sanh khởi, do tâm có hỷ mà thân sẽ khinh an, do thân được khinh an con sẽ cảm giác sự an lạc, do có sự an lạc tâm sẽ được định, điều ấy sẽ có ở con là sự tu tập về Căn Quyền, sự tu tập về Lực, sự tu tập về Giác Chi. Bạch ngài, trong khi thấy rơ lợi ích này mà con thỉnh cầu Như Lai tám điều ước muốn.”

 

72. - “Này Visākhā, thật tốt lắm, thật tốt lắm! Này Visākhā, thật tốt thay trong khi thấy rơ lợi ích này mà bà thỉnh cầu Như Lai tám điều ước muốn. Này Visākhā, ta cho phép bà tám điều ước muốn.”

 

73. Sau đó, đức Thế Tôn đă nói lời tùy hỷ cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng những lời kệ này:

 

Trong khi bố thí cơm nước, người nữ nào được hân hoan, được thành tựu về giới, là đệ tử của đấng Thiện Thệ, sau khi chế ngự sự bỏn xẻn, rồi dâng cúng vật thí, (là yếu tố) dẫn đến cơi trời, xua tan sầu muộn, đem lại sự an lạc.

 

Sau khi đạt tuổi thọ của cơi trời, cô ấy đi vào đạo lộ không bợn nhơ, không nhiễm ô. Với ước muốn về phước báu, cô ấy có được sự an lạc, không có bệnh, vui hưởng dài lâu ở hội chúng nơi Thiên đ́nh.”

 

74. Sau đó, khi đă nói lời tùy hỷ cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng những lời kệ này, đức Thế Tôn đă từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vải choàng tắm mưa, bữa ăn dành cho vị văng lai, bữa ăn dành cho vị xuất hành, bữa ăn dành cho vị bị bệnh, bữa ăn dành cho vị chăm sóc bệnh, dược phẩm dành cho vị bị bệnh, cháo hàng ngày, vải choàng tắm đến hội chúng tỳ khưu ni.”

 

Dứt tụng phẩm Visākhā.

 

*****

 

TỤNG PHẨM THỨ BA

 

1. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao khiến chỗ nằm ngồi bị lấm lem v́ chất dơ.

 

2. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn hầu cận đă nh́n thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem v́ chất dơ, sau khi nh́n thấy đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?” - “Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này bị lấm lem v́ chất dơ.” - “Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao v́ các vị ấy có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, các vị nào dầu là phàm nhân đă xa ĺa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.”

 

3. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ở đây trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với Ānanda là Sa-môn hầu cận ta đă nh́n thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem v́ chất dơ, sau khi nh́n thấy đă hỏi Ānanda rằng: ‘Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?’ ‘Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, rồi tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này đă bị lấm lem v́ chất dơ.’ ‘Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, bởi v́ đối với các vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, trong khi rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của họ bị xuất ra do chiêm bao. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, ngay cả các vị nào dầu là phàm nhân đă xa ĺa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy cũng không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.’

 

4. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ khổ sở, thức dậy khổ sở, thấy điều ác xấu trong khi ngủ, chư Thiên không hộ tŕ, tinh dịch bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lăng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ.

 

5. Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy điều ác xấu trong khi ngủ, chư Thiên hộ tŕ, tinh dịch không bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật lót ngồi để bảo vệ cơ thể, để bảo vệ y, để bảo vệ chỗ nằm ngồi.”

 

6. Vào lúc bấy giờ, vật lót ngồi[4] quá nhỏ nên không bảo vệ được toàn bộ chỗ nằm ngồi. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị mong muốn tấm trải nằm1 lớn chừng nào th́ được làm tấm trải nằm lớn chừng ấy.”

 

7. Vào lúc bấy giờ, đại đức Belaṭṭhisīsa, thầy tế độ của đại đức Ānanda, có bệnh ghẻ sần sùi. Các y bị dính vào thân v́ chất máu mủ của vị ấy. Các vị tỳ khưu liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra.

 

8. Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đă nh́n thấy các vị tỳ khưu ấy liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra, sau khi nh́n thấy đă đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đă nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này bị bệnh ǵ vậy?” - “Bạch ngài, đại đức này bị bệnh ghẻ sần sùi, các y bị dính vào thân v́ chất máu mủ, chúng con liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra.”

 

9. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) y đắp ghẻ đối với vị nào bị ghẻ ngứa, hoặc bị nhọt, hoặc có vết thương chảy mủ, hoặc bị ghẻ sần sùi.”

 

10. Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đă cầm cái khăn lau mặt đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đă ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, xin hăy thọ lănh cái khăn lau mặt của con v́ điều ấy đem lại sự lợi ích và sự an vui lâu dài cho con.” Đức Thế Tôn đă thọ nhận cái khăn lau mặt.

 

11. Khi ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đă được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đă từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

 

12. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khăn lau mặt.”

 

13. Vào lúc bấy giờ, Roja người Malla là bạn của đại đức Ānanda. Tấm vải dệt bằng sợi lanh của Roja người Malla đă bị rơi xuống ở cánh tay của đại đức Ānanda. Và đại đức Ānanda có nhu cầu về vải dệt bằng sợi lanh. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người có năm yếu tố: là vị đồng quan điểm, thân thiết, đă được nói trước, (vị ấy) c̣n sống, và vị lấy biết được rằng: “Khi được ta lấy th́ vị ấy sẽ hoan hỷ.” Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người có năm yếu tố này.”

 

14. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu có được đầy đủ ba y, và c̣n có nhu cầu về các đồ lọc nước và các túi mang. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép miếng vải phụ tùng.”

 

15. Khi ấy, các tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Các vật nào đă được đức Thế Tôn cho phép như là ‘ba y,’ hoặc là ‘vải choàng tắm mưa,’ hoặc là ‘vật lót ngồi,’ hoặc là ‘tấm trải nằm,’ hoặc là ‘y đắp ghẻ,’ hoặc là ‘khăn lau mặt,’ hoặc là ‘miếng vải phụ tùng,’ tất cả các thứ ấy nên được chú nguyện để dùng riêng hay là nên được chú nguyện để dùng chung?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng riêng ba y không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng vải choàng tắm mưa trong bốn tháng của mùa mưa sau đó chú nguyện để dùng chung vào các tháng khác, chú nguyện để dùng riêng vật lót ngồi không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng tấm trải nằm không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng y đắp ghẻ lúc c̣n bị bệnh sau đó chú nguyện để dùng chung vào lúc khác, chú nguyện để dùng riêng khăn lau mặt không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng miếng vải phụ tùng không được chú nguyện để dùng chung.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đă khởi ư điều này: “Y nên được chú nguyện để dùng chung (có kích thước) tối thiểu là bao nhiêu?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn.”

 

16. Vào lúc bấy giờ, y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ của đại đức Mahākassapa là nặng nề (do việc đắp lên miếng vá ở các chỗ bị sờn). Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) việc mạng bằng chỉ.” (Y) có góc bị thừa. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt góc bị thừa.” Các mối chỉ bị xổ ra. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép gắn vào miếng vải viền, (làm) đường biên xung quanh.” Vào lúc bấy giờ, các mảnh vải của y hai lớp bị bung ra. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm đường may ngang dọc.”

 

17. Vào lúc bấy giờ, trong lúc y của vị tỳ khưu nọ đang được làm, toàn bộ các mảnh cắt không đủ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) được cắt, một (y) không cắt.” Hai (y) được cắt một (y) không cắt là không đủ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) không cắt, một (y) được cắt.” Hai (y) không cắt một (y) được cắt là không đủ. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đặt vào miếng vải khác loại. Và này các tỳ khưu, không nên sử dụng toàn bộ (ba y) không cắt; vị nào sử dụng th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

18. Vào lúc bấy giờ, có nhiều y được phát sanh đến vị tỳ khưu nọ. Và vị ấy có ư muốn cho đến cha mẹ y ấy. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trong khi nói là: ‘cha mẹ,’ th́ chúng ta có thể nói điều ǵ? Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến cha mẹ. Và này các tỳ khưu, không nên cho vật bố thí v́ đức tin đến không đối tượng không xứng đáng; vị nào cho đến đối tượng không xứng đáng th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

19. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đă để lại y hai lớp trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đă lấy trộm y ấy. Vị tỳ khưu ấy trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đại đức, v́ sao ngài lại trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm?” - “Này các đại đức, trường hợp này là tôi đă để lại y ở trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đă lấy trộm y ấy, v́ thế tôi trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm.” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đi vào làng với y nội và thượng y; vị nào đi vào th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

20. Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda v́ thiếu sự ghi nhớ nên đă đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Các tỳ khưu đă nói với đại đức Ānanda điều này: - “Này đại đức Ānanda, không phải đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Không nên đi vào làng với y nội và thượng y’ hay sao? Này đại đức, v́ sao ngài đă đi vào làng với y nội và thượng y?” - “Này các đại đức, đúng vậy. Đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Không nên đi vào làng với y nội và thượng y.’ Hơn nữa, tôi đă đi vào (làng) với sự thiếu ghi nhớ.”

 

21. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa,[5] hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đă được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp.

 

22. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại thượng y: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đă được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại thượng y.

 

23. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y nội: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đă được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y nội.

 

24. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa: vị bị bệnh, hoặc là vị đi ra khỏi ranh giới, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vải choàng (tắm) mưa không được làm hoặc được làm chưa hoàn tất. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa.”

 

25. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống mùa (an cư) mưa có một ḿnh. Ở đó, dân chúng đă dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy khởi đă ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Hội chúng tối thiểu là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một ḿnh. Và các người này đă dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này tỳ khưu, các y ấy là của chính ngươi cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina.”

 

26. “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa chỉ mỗi một ḿnh. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép các y ấy là của chính vị ấy cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina.”

 

27. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống ngoài mùa (an cư) mưa có một ḿnh. Ở đó, dân chúng đă dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một ḿnh. Và các người này đă dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đă cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và tŕnh sự việc ấy đến các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép chia ra bởi hội chúng đang hiện diện.

 

28. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống ngoài mùa (an cư) mưa có một ḿnh. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ấy chú nguyện các y ấy rằng: ‘Những y này là của tôi.’ Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy chưa được chú nguyện thành của vị tỳ khưu ấy th́ có vị tỳ khưu khác đi đến, nên trao cho phần chia đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy nhưng chưa được bốc thăm th́ có vị tỳ khưu khác đi đến, nên trao cho phần chia đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy và đă được bốc thăm th́ có tỳ khưu khác đi đến, không cần trao cho phần chia nếu không thích.”

 

29. Vào lúc bấy giờ, có hai vị trưởng lăo là anh em: đại đức Isidāsa và đại đức Isibhadda đă sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đă đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Dân chúng (nghĩ rằng): “Đă lâu lắm các trưởng lăo mới ghé đến” rồi đă thực hiện các bữa thọ trai cùng với các y. Các tỳ khưu thường trú đă hỏi hai vị trưởng lăo rằng: - “Thưa các ngài, những y thuộc hội chúng này đă được phát sanh nhờ vào các trưởng lăo, các trưởng lăo sẽ hoan hỷ phần chia hay không?” Hai vị trưởng lăo đă nói như vầy: - “Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đă được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn th́ các y này là thuộc về chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.”

 

30. Vào lúc bấy giờ, có ba vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở trong thành Rājagaha. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Đức Thế Tôn đă quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị’ và chúng ta chỉ có ba vị. Và các người này dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”

 

31. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị trưởng lăo là đại đức Nīlavāsī, đại đức Sāṇavāsī, đại đức Gopaka, đại đức Bhagu, và đại đức Phaḷikasandāna cư ngụ ở Pāṭaliputta tại tu viện Kukkuṭa. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă đi đến Pāṭaliputta và hỏi các vị trưởng lăo. Các vị trưởng lăo đă nói như vầy: - “Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đă được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn th́ các y ấy là thuộc về chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.”

 

32. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi, rồi đă đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Ở đó, các tỳ khưu đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy đă nói như vầy: - “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” - “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó, vị ấy đă đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các tỳ khưu cũng đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” - “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, vị ấy đă đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các tỳ khưu cũng đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy cũng đă nói như vầy: - “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” - “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, vị ấy đă cầm lấy gói y lớn rồi quay trở về lại Sāvatthi.

 

33. Các tỳ khưu đă nói như vầy: - “Này đại đức Upananda, ngài có phước lớn. Nhiều y đă được phát sanh đến ngài.” - “Này các đại đức, phước của tôi là do đâu? Ở đây, tôi đă sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đă đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Ở đó, các tỳ khưu đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy đă nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Sau khi nhận phần y từ nơi đó, tôi đă đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu cũng đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy cũng đă nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, tôi đă đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu cũng đă tụ hội lại với ư định chia y. Các vị ấy cũng đă nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Tôi đă nhận phần y từ nơi đó nữa, như thế mà nhiều y đă được phát sanh đến tôi.”

 

34. - “Này đại đức Upananda, có phải ngài đă sống mùa (an cư) mưa ở một nơi và chấp nhận phần y ở một nơi khác?” - “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “V́ sao đại đức Upananda con trai ḍng Sakya đă sống mùa (an cư) mưa ở một nơi lại chấp nhận phần y ở một nơi khác?”

 

35. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi đă sống mùa (an cư) mưa ở một nơi và chấp nhận phần y ở một nơi khác, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, v́ sao ngươi sống mùa (an cư) mưa ở một nơi lại chấp nhận phần y ở một nơi khác? Này kẻ rồ dại, việc sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, vị sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác không nên chấp nhận phần y ở nơi khác; vị nào chấp nhận th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

36. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai ḍng Sakya một ḿnh đă sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ (nghĩ rằng): “Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă khởi ư điều này: “Phần chia về y nên được cho đến đại đức Upananda con trai ḍng Sakya như thế nào?”

 

Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, hăy cho đến kẻ rồ dại phần của một người.

 

37. Này các tỳ khưu, trường hợp một vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ (nghĩ rằng): ‘Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.’ Nếu vị ấy sống chỗ này một nửa (thời gian) chỗ kia một nửa (thời gian) th́ nên cho phần chia về y gồm một nửa của nơi này một nửa của nơi kia, hoặc ở chỗ nào vị ấy sống nhiều hơn th́ phần chia về y nên được cho từ chỗ đó.”

 

38. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh kiết lỵ. Vị ấy nằm dài ở đống phân và nước tiểu của chính ḿnh, bị lem luốc. Khi ấy, trong lúc đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn hầu cận, đức Thế Tôn đă đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy.

 

39. Đức Thế Tôn đă nh́n thấy vị tỳ khưu ấy đang nằm dài ở đống phân và nước tiểu của chính ḿnh, bị lem luốc, sau khi nh́n thấy đă đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này tỳ khưu, ngươi bị bệnh ǵ?” - “Bạch Thế Tôn, con bị bệnh kiết lỵ.” - “Này tỳ khưu, ngươi có người phục vụ không?” - “Bạch Thế Tôn, không có.” - “V́ sao các tỳ khưu lại không phục vụ ngươi?” - “Bạch ngài, con là người không có làm ǵ cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ con.”

 

40. Khi ấy, đức Thế Tôn đă bảo đại đức Ānanda rằng: - “Này Ānanda, hăy đi và mang nước lại. Chúng ta sẽ tắm cho vị tỳ khưu này.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đă mang nước lại. Đức Thế Tôn đă xối nước. Đại đức Ānanda đă rửa ráy toàn bộ. Rồi đức Thế Tôn đă đỡ phần đầu, đại đức Ānanda ở phần chân, đă nâng lên và đặt ở trên giường.

 

41. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lư do ấy nhân sự kiện ấy đă triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi hỏi các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, có phải có vị tỳ khưu ở trú xá đàng kia bị bệnh?” - “Bạch Thế Tôn, thưa có.” - “Này các tỳ khưu, vị ấy bị bệnh ǵ?” - “Bạch ngài, đại đức ấy bị bệnh kiết lỵ.” - “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có người phục vụ không?” - “Bạch Thế Tôn, không có.” - “V́ sao các tỳ khưu không phục vụ vị ấy?” - “Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là người không có làm ǵ cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ vị ấy.”

 

42. - “Này các tỳ khưu, các ngươi không có mẹ, không có cha là những người có thể phục vụ các ngươi. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không phục vụ lẫn nhau th́ giờ đây ai sẽ phục vụ đây? Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta (bằng sự thực hành theo lời giáo huấn và giảng dạy của ta), vị ấy có thể phục vụ người bệnh.[6] Nếu có thầy tế độ, thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có thầy dạy học, thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có đệ tử, người đệ tử nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có học tṛ, người học tṛ nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có vị đồng thầy tế độ, vị đồng thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có vị đồng thầy dạy học, vị đồng thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu không có thầy tế độ, hoặc thầy dạy học, hoặc người đệ tử, hoặc người học tṛ, hoặc vị đồng thầy tế độ, hoặc vị đồng thầy dạy học, hội chúng nên phục vụ; nếu không phục vụ th́ phạm tội dukkaṭa.

 

43. Này các tỳ khưu, người bệnh là khó phục vụ có năm yếu tố: Là người có hành động không có lợi ích; không biết sự vừa phải trong việc có lợi ích; không quen dùng dược phẩm; không nói rơ ràng về bệnh t́nh đúng theo thực trạng như (bệnh) đang gia tăng là: ‘(Bệnh) gia tăng,’ (bệnh) đang giảm là: ‘(Bệnh) giảm,’ (bệnh) ổn định là: ‘(Bệnh) ổn định’ cho người phục vụ bệnh nhân có sự mong muốn điều tốt đẹp; có bản tánh không chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đă sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh có năm yếu tố này là khó phục vụ.

 

 44. Này các tỳ khưu, người bệnh là dễ phục vụ có năm yếu tố: Là người có hành động có lợi ích; biết sự vừa phải trong việc có lợi ích; quen dùng dược phẩm; nói rơ ràng về bệnh t́nh đúng theo thực trạng như (bệnh) đang gia tăng là: ‘(Bệnh) gia tăng,’ (bệnh) đang giảm là: ‘(Bệnh) giảm,’ (bệnh) ổn định là: ‘(Bệnh) ổn định’ cho người phục vụ bệnh nhân có sự mong muốn điều tốt đẹp; có bản tánh chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đă sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh có năm yếu tố này là dễ phục vụ.

 

45. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân không thích hợp để phục vụ người bệnh là vị có năm yếu tố: Là vị không có khả năng để phân phát thuốc men; không biết điều ǵ có lợi ích và điều ǵ không có lợi ích, đem đến điều không có lợi ích và loại bỏ điều có lợi ích; phục vụ người bệnh v́ mục đích tài vật và không có tâm từ; ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; không có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân có năm yếu tố này là không thích hợp để phục vụ người bệnh.

 

46. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân thích hợp để phục vụ người bệnh là vị có năm yếu tố: Là vị có khả năng để phân phát thuốc men; biết điều ǵ có lợi ích và điều ǵ không có lợi ích, loại bỏ điều không có lợi ích và đem đến điều có lợi ích; có tâm từ và phục vụ người bệnh không v́ mục đích tài vật; không ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân có năm yếu tố này là thích hợp để phục vụ người bệnh.”

 

47. Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đi đường xa trong xứ sở Kosala. Hai vị ấy đă đi đến trú xứ nọ. Ở đó, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đă bàn bạc điều này: “Này đại đức, việc phục vụ người bệnh đă được đức Thế Tôn khen ngợi. Này đại đức, vậy chúng ta hăy phục vụ vị tỳ khưu này.” Các vị ấy đă phục vụ vị kia. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đă từ trần.

 

48. Sau đó, các tỳ khưu đă cầm lấy y bát của vị tỳ khưu kia đi đến Sāvatthi và đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và b́nh bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và b́nh bát thông qua hội chúng.

 

49. Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy: Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, vị tỳ khưu tên (như vầy) đă từ trần, đây là ba y và b́nh bát của vị ấy.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă từ trần, đây là ba y và b́nh bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho ba y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đă từ trần, đây là ba y và b́nh bát của vị ấy. Hội chúng cho ba y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ư việc cho ba y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên. Ba y và b́nh bát này đă được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”

 

50. Vào lúc bấy giờ, có vị sa di nọ từ trần. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đối với vị sa di khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và b́nh bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh y và b́nh bát thông qua hội chúng.

 

51. Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy: Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, vị sa di tên (như vầy) đă từ trần, đây là y và b́nh bát của vị ấy.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đă từ trần, đây là y và b́nh bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hăy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đă từ trần, đây là y và b́nh bát của vị ấy. Hội chúng cho y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ư việc cho y và b́nh bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ư có thể nói lên. Y và b́nh bát này đă được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ư nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”

 

52. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ và vị sa di đă phục vụ vị bị bệnh. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đă từ trần. Khi ấy, vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy đă khởi ư điều này: “Phần chia về y nên được cho đến vị sa di là vị phục vụ người bệnh như thế nào?” Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến vị sa di là vị phục vụ người bệnh phần chia đồng đều.”

 

53. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có nhiều đồ đạc, có nhiều vật dụng đă từ trần. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và b́nh bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và b́nh bát thông qua hội chúng, (cho phép) hội chúng đang hiện diện phân chia đồ đạc loại nhẹ và vật dụng loại nhẹ ở nơi ấy, (cho phép) đồ đạc loại nặng và vật dụng loại nặng ở nơi ấy là của hội chúng bốn phương hiện tại và vị lai,[7] không được phân tán, không được phân chia.”

 

54. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi làm trở thành trần truồng đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, sự trần truồng này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hăy cho phép sự trần truồng đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lơa thể? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lơa thể; vị nào thực hành th́ phạm tội thullaccaya.”

 

55. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ che thân bằng cỏ kusa ―(như trên)― che thân bằng vỏ cây ―(như trên)― che thân bằng tấm ván gỗ ―(như trên)― che thân bằng mền dệt bằng tóc ―(như trên)― che thân bằng mền dệt bằng lông ngựa ―(như trên)― che thân bằng cánh chim cú ―(như trên)― che thân bằng da linh dương rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (việc che thân bằng) da linh dương này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hăy cho phép (việc che thân bằng) da linh dương đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc da linh dương vốn là biểu tượng của ngoại đạo? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên mặc da linh dương vốn là biểu tượng của ngoại đạo; vị nào mặc th́ phạm tội thullaccaya.”

 

56. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ mặc (y làm bằng) sợi của cây akka, ―(như trên)― mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci rồi đă đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đă nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người thường ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (y làm bằng) sợi của cây makaci này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài ḥa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hăy cho phép (y làm bằng) sợi của cây makaci đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đă khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đă nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci; vị nào mặc th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

57. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc các y toàn màu xanh, ... mặc các y toàn màu vàng, ... mặc các y toàn màu đỏ (máu), ... mặc các y toàn màu tím, ... mặc các y toàn màu đen, ... mặc các y toàn màu đỏ tía, ... mặc các y toàn màu hồng, ... mặc các y không cắt đường viền, ... mặc các y có đường viền rộng, ... mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, ... mặc các y có đường viền vẽ h́nh rắn hổ mang, ... mặc áo choàng ngắn, ... mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, ... mang khăn xếp đội đầu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại mang khăn xếp đội đầu giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?”

 

58. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên mặc các y toàn màu xanh, không nên mặc các y toàn màu vàng, không nên mặc các y toàn màu đỏ (máu), không nên mặc các y toàn màu tím, không nên mặc các y toàn màu đen, không nên mặc các y toàn màu đỏ tía, không nên mặc các y toàn màu hồng, không nên mặc các y không cắt đường viền, không nên mặc các y có đường viền rộng, không nên mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, không nên mặc các y có đường viền vẽ h́nh rắn hổ mang, không nên mặc áo choàng ngắn, không nên mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, không nên mang khăn xếp đội đầu; vị nào mang th́ phạm tội dukkaṭa.”

 

59. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đă xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nh́n nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đă đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn.

 

60. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.

 

61. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đă xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, th́ hội chúng là chủ quản.

 

62. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh th́ được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nh́n nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.

 

63. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đă đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn, th́ hội chúng là chủ quản.

 

64. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y đă được phát sanh nhưng chưa phân chia lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.

 

65. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y đă được phát sanh nhưng chưa phân chia lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đă xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, th́ hội chúng là chủ quản.

 

66. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y đă được phát sanh nhưng chưa phân chia th́ được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nh́n nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.

 

67. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa khi y đă được phát sanh nhưng chưa phân chia được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đă đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn, th́ hội chúng là chủ quản.

 

68. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh th́ hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở một nhóm (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến hội chúng.’ (Y) ấy là của hội chúng.

 

69. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh th́ hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở chính nhóm ấy (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến hội chúng.’ (Y) ấy là của hội chúng.

 

70. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh th́ hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở một nhóm (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến nhóm.’ (Y) ấy là riêng của nhóm.

 

71. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh th́ hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở chính nhóm ấy (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến nhóm.’ (Y) ấy là riêng của nhóm.

 

72. Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa và y đă được phát sanh nhưng chưa chia phần th́ hội chúng bị chia rẽ. Nên chia đồng đều cho tất cả.”

 

73. Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata gởi y cho đại đức Sāriputta qua tay của vị tỳ khưu nọ (nói rằng): “Hăy trao y này đến vị trưởng lăo.” Sau đó ở khoảng giữa đường đi, vị tỳ khưu ấy đă lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức Revata. Sau đó, đại đức Revata đă đích thân đi đến đại đức Sāriputta và hỏi rằng: - “Thưa ngài, tôi đă gởi y cho ngài trưởng lăo. Y ấy đă đến chưa?” - “Này sư đệ, ta không nh́n thấy y ấy.” Sau đó, đại đức Revata đă nói với vị tỳ khưu ấy điều này: - “Này đại đức, tôi đă gởi y của ngài trưởng lăo qua tay của đại đức. Y ấy đâu rồi?” - “Thưa đại đức, tôi đă lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức.”

 

74. Các vị đă tŕnh sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đă được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy sai trái.

 

75. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đă được lấy đúng đắn.

 

76. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị gởi (y) đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị (gởi) ấy; (y) đă được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy sai trái.

 

77. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị sẽ nhận (y) đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị (đă từ trần) ấy; (y) đă được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đă được lấy đúng đắn.

 

78. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Cả hai đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đă được xác định đúng đắn. Vị ấy xác định y của người đă chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đă được xác định sai trái.

 

79. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đă được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy đúng đắn.

 

80. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đă được lấy sai trái.

 

81. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị gởi (y) đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị ấy; (y) đă được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đă được lấy đúng đắn.

 

82. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị sẽ nhận (y) đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị ấy; (y) đă được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đă được lấy sai trái.

 

83. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Cả hai đă từ trần’ rồi xác định y của người đă chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đă được xác định sai trái. Vị ấy xác định y của người đă chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đă được xác định đúng đắn.

 

84. Này các tỳ khưu, có tám tiêu đề về việc phát sanh y: (thí chủ) dâng trong ranh giới, dâng theo sự thỏa thuận, dâng theo sự thông báo về vật thực, dâng đến hội chúng, dâng đến cả hai hội chúng (tỳ khưu và tỳ khưu ni), dâng đến hội chúng đă sống qua mùa (an cư) mưa, dâng sau khi đă thông báo, dâng đến cá nhân.

 

85. (Thí chủ) dâng trong ranh giới: có bao nhiêu vị tỳ khưu đang ở trong ranh giới, th́ nên được chia bởi các vị ấy.

 

86. (Thí chủ) dâng theo sự thỏa thuận: nhiều trú xứ có sự thọ lănh chung, khi được dâng ở một trú xứ th́ được dâng cho tất cả.

 

87. (Thí chủ) dâng theo sự quy định về vật thực: các sự hộ độ thường xuyên được thực hiện đến hội chúng ở nơi nào th́ dâng ở nơi ấy.

 

88. (Thí chủ) dâng đến hội chúng th́ nên được chia phần bởi hội chúng đang hiện diện.

 

89. (Thí chủ) dâng đến cả hai hội chúng: Dầu cho có nhiều tỳ khưu mà có một tỳ khưu ni cũng nên được chia một nửa. Dầu cho có nhiều tỳ khưu ni mà có một tỳ khưu cũng nên được chia một nửa.

 

90. (Thí chủ) dâng đến hội chúng đă sống qua mùa (an cư) mưa: có bao nhiêu vị tỳ khưu đă sống qua mùa (an cư) mưa ở trú xứ ấy, th́ nên được chia bởi các vị ấy.

 

91. (Thí chủ) dâng sau khi đă thông báo về cháo, hoặc về bữa ăn, hoặc về vật thực cứng, hoặc về y, hoặc về chỗ trú ngụ, hoặc về dược phẩm.

 

92. (Thí chủ) dâng đến cá nhân là (nói rằng): ‘Tôi dâng y này đến vị tên (như vầy).’”

 

Dứt chương Y Phục là thứ tám.

 

*****

 

 

Trong chương này có chín mươi sáu sự việc.

 

 

TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY

 

 

1. Viên thị trưởng thành Rājagaha đă nh́n thấy nàng kỹ nữ ở Vesāli, sau khi trở về lại thành Rājagaha đă báo điều ấy đến đức vua.

 

2. Người con trai của nàng Sālavatī chính là con (nuôi) của Abhaya. Được hỏi bởi vị vương tử là: “C̣n sống không?” nên gọi tên là “Jīvaka.

 

3. Chính người ấy đă đi đến thành Takkasilā, đă học xong, trở thành đại y sĩ, đă tiêu trừ bệnh đă bảy năm bằng việc làm ở mũi.

 

4. (Jīvaka) đă trị dứt bệnh ṛ rỉ của đức vua bằng liều thuốc thoa. (Đức vua bảo): “Hăy phục vụ cho trẫm, các cung phi, đức Phật và hội chúng.”

 

5. Và nhà đại phú thành Rājagaha, chứng xoắn ruột đă được chữa trị. (Jīvaka) đă tiêu trừ bệnh bệnh trầm trọng của đức vua Pajjota bằng việc uống bơ lỏng.

 

6. Chức vụ, và xấp vải xứ Sivi, (Jīvaka) đă bảo thoa dầu cho (cơ thể) bị tiết ra dịch chất dơ, liều thuốc xổ ba mươi lần với ba nắm sen.

 

7. Khi (đức Phật) đă trở lại b́nh thường, (Jīvaka) đă thỉnh cầu điều ước muốn. Và Ngài đă thọ nhận xấp vải xứ Sivi. Và đức Như Lai đă cho phép y là vật thí của gia chủ.

 

8. Ở xứ sở Rājagaha nhiều y đă được phát sanh. Tấm vải choàng, luôn cả tấm vải choàng bằng tơ lụa, tấm choàng lông, (tấm mền len) trị giá nửa kāsi.

 

9. Và nhiều (y) đủ loại, sự biết đủ, về các vị không chờ và các vị chờ, vào trước tương tợ vào sau, sự thỏa thuận, họ đă mang về lại.

 

10. Kho chứa, và không được bảo quản, và các vị băi nhiệm cũng tương tợ y như thế, được dồi dào, và cảnh náo động, nên chia như thế nào, nên cho như thế nào.

 

11. Của bản thân, với phần nhiều hơn, phần chia (về y), nên cho thế nào? Với phân, và nước lạnh, để trào ra, vị không biết.

 

12. Trong khi đổ ra, và chậu nhuộm, trong cái đĩa, và ở nền đất, loài mối, ở giữa, chúng bị sờn, một bên, và với (y) bị cứng.

 

13. (Các y) bị thô, không cắt, được kết nối bằng những khoảnh vuông vức. Ngài đă nh́n thấy các vị ôm đồm (với các y). Sau khi suy xét, đấng Hiền Sĩ ḍng Sakya đă cho phép ba y.

 

14. Với y phụ trội khác, đă được phát sanh, và luôn cả y bị rách. (Mây đen) bốn châu lục, bà (Visākhā) đă thỉnh cầu điều ước muốn để được dâng vải choàng (tắm) mưa.

 

15. Vị văng lai, vị xuất hành, vị bị bệnh, và vị nuôi bệnh, dược phẩm, cháo thường xuyên, và vải choàng tắm (các ni). (Thức ăn) hảo hạng, (vật lót ngồi) quá nhỏ.

 

16. Ghẻ sần sùi, (khăn lau) mặt, sợi lanh, được đầy đủ, việc chú nguyện, tối thiểu, đă được làm, là nặng nề, có góc bị thừa, chỉ bị xổ ra.

 

17. (Các mảnh vải) bị bung ra, làm không đủ, vải khác loại, và có nhiều (y), rừng Andhavana, thiếu sự ghi nhớ, một ḿnh, mùa (an cư) mưa, và trong mùa khác.

 

18. Hai vị là anh em, ở Rājagaha, vị Upananda, lại ở hai nơi, bệnh kiết lỵ, vị bị bệnh, cả hai vị, và luôn cả các vật thuộc về vị bệnh.

 

19. Vị lơa thể, cỏ kusa, vỏ cây, tấm ván gỗ, và mền dệt bằng tóc, lông ngựa, và cánh chim cú, da linh dương sợi của cây akka.

 

20. Sợi của cây makaci, màu xanh, và màu vàng, màu đỏ (máu), và màu tím, màu đen, màu đỏ tía, màu hồng, và đường viền không cắt là tương tợ.

 

21. Đường viền rộng, vẽ bông hoa, rắn hổ mang, áo choàng ngắn, sợi vỏ cây, và khăn xếp đội đầu, khi chưa được phát sanh, vị ra đi, cho đên phần hội chúng bị chia rẽ.

 

22. Họ dâng đến nhóm, đến hội chúng, đại đức Revata đă gởi đi, vị lấy do thân thiết, vị chú nguyện, tám tiêu đề về y.”

 

--ooOoo--

 

 

 


 

[1] Y của gia chủ (gahapaticīvaraṃ) được ngài Buddhaghosa giải thích là: “Y được dâng bởi các gia chủ” (VinA. v, 1119).

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích một kāsi trị giá một ngàn (VinA. v, 1119).

[3] Liên quan đến tội nissaggiya pācittiya thứ nhất (ND).

[4] Được dịch là vật lót ngồi thay v́ tọa cụ, và tấm trải nằm thay v́ ngọa cụ (ND).

[5] Ngài Buddhaghosa giải thích là trong bốn tháng mùa mưa (VinA. v, 1129).

[6] yo bhikkhave maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyā ’ti: Câu này được dịch sát theo từ sẽ là: “Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta vị ấy có thể phục vụ người bệnh.” Tuy nhiên Ngài Buddhaghosa giải thích ư nghĩa của câu trên như sau: “yo bhikkhave maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyā ’ti yo maṃ ovādānusāsanīkaraṇena upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyya. mama ovādakārakena gilāno upaṭṭhātabbo ti ayam ettha attho. bhagavato ca gilānassa ca upaṭṭhānaṃ ekasadisan ti evaṃ pan’ ettha attho na gahetabbo” (VinA. v, 1132) = “Vị nào có thể phục vụ ta bằng sự thực hành theo lời giáo huấn và giảng dạy, vị ấy có thể phục vụ người bệnh. Ở đây điều này có ư nghĩa là: ‘Người bệnh nên được phục vụ bởi người thực hành theo lời giáo huấn của ta.’ Hơn nữa, không nên hiểu ư nghĩa của trường hợp này như vầy: ‘Sự phục vụ đến đức Thế Tôn và đến người bệnh là tương tợ như nhau.’”

[7] āgatānāgata = āgata + anāgata: đă đi đến và chưa đi đến, được dịch thoát nghĩa là hiện tại và vị lai (ND).

 

                                

 

   

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 |

<Mục Lục><Đầu Trang>