Trang Chính
Trang Các Bản Dịch
Mới
TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 28
PHẬT THUYẾT NHƯ VẬY
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
PHẬT THUYẾT NHƯ VẬY
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
PHẨM THỨ BA
3. 3. 1. KINH THỌ TRÌ CÁC NGHIỆP DO TÀ KIẾN
[70]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu uế hạnh do thân,
thành tựu uế hạnh do khẩu, thành tựu uế hạnh do ý, những kẻ phỉ báng các bậc
Thánh, những kẻ tà kiến có sự thọ trì các nghiệp do tà kiến, những kẻ ấy do sự
hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt,
địa ngục.
Này các tỳ khưu, tuy nhiên Ta nói điều ấy không phải đã nghe được từ Sa- môn
hoặc Bà-la- môn khác.
Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu uế hạnh do thân, thành
tựu uế hạnh do khẩu, thành tựu uế hạnh do ý, những kẻ phỉ báng các bậc Thánh,
những kẻ tà kiến có sự thọ trì các nghiệp do tà kiến, những kẻ ấy do sự hoại rã
của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục.
Này các tỳ khưu, hơn nữa chỉ có điều nào tự mình đã biết, tự mình đã thấy, tự
mình đã hiểu, thì Ta nói về điều ấy.
Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu uế hạnh do thân, thành
tựu uế hạnh do khẩu, thành tựu uế hạnh do ý, những kẻ phỉ báng các bậc Thánh,
những kẻ tà kiến có sự thọ trì các nghiệp do tà kiến, những kẻ ấy do sự hoại rã
của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Con người ở nơi đây quyết định ý nghĩ sai trái, nói lời nói sai trái, và làm
các hành động sai trái bằng thân.
3. Kẻ ít lắng nghe (học hỏi), kẻ hành động tội lỗi trong mạng sống ít ỏi ở nơi
đây, do sự hoại rã của thân kẻ có tuệ tồi ấy sanh vào địa ngục.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 2. KINH THỌ TRÌ CÁC NGHIỆP DO CHÁNH KIẾN
[71]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu thiện hạnh do
thân, thành tựu thiện hạnh do khẩu, thành tựu thiện hạnh do ý, những người không
phỉ báng các bậc Thánh, những người chánh kiến có sự thọ trì các nghiệp do chánh
kiến, những người ấy do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, được sanh vào chốn
an vui, cõi Trời.
Này các tỳ khưu, tuy nhiên Ta nói điều ấy không phải đã nghe được từ Sa- môn
hoặc Bà-la- môn khác.
Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu thiện hạnh do thân,
thành tựu thiện hạnh do khẩu, thành tựu thiện hạnh do ý, những người không phỉ
báng các bậc Thánh, những người chánh kiến có sự thọ trì các nghiệp do chánh
kiến, những người ấy do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, được sanh vào chốn
an vui, cõi Trời.
Này các tỳ khưu, hơn nữa chỉ có điều nào tự mình đã biết, tự mình đã thấy, tự
mình đã hiểu, thì Ta nói về điều ấy.
Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy các chúng sinh thành tựu thiện hạnh do thân,
thành tựu thiện hạnh do khẩu, thành tựu thiện hạnh do ý, những người không phỉ
báng các bậc Thánh, những người chánh kiến có sự thọ trì các nghiệp do chánh
kiến, những người ấy do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, được sanh vào chốn
an vui, cõi Trời.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Con người ở nơi đây, quyết định ý nghĩ chân chánh, nói lời nói chân chánh,
và làm các hành động chân chánh bằng thân.
3. Người nghe (học hỏi) nhiều, người hành động phước thiện trong mạng sống ít ỏi
ở nơi đây, do sự hoại rã của thân người có trí tuệ ấy sanh vào cõi Trời.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 3. KINH THOÁT LY
[72]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là ba tính chất của việc thoát ly. Ba tính chất nào?
Thoát ly khỏi các dục, tức là sự xuất ly. Thoát ly khỏi các sắc, tức là vô sắc.
Hơn nữa, bất cứ cái gì được hiện hữu, được tạo tác, được sanh khởi tùy thuận
(điều kiện), thoát ly khỏi cái ấy là sự tịch diệt. Này các tỳ khưu, đây là ba
tính chất của việc thoát ly.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Sau khi biết được sự thoát ly khỏi các dục, và sự vượt qua các sắc, trong
khi chạm đến sự vắng lặng của tất cả các hành, luôn luôn có sự nhiệt tâm ...
3. ... vị tỳ khưu ấy, thật vậy, với việc nhìn thấy đúng đắn, nhờ thế được giải
thoát khỏi nơi ấy, được hoàn mãn về thắng trí, được an tịnh, vị hiền trí ấy quả
thật đã vượt qua các sự ràng buộc.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 4. KINH AN TỊNH HƠN
[73]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, các pháp vô sắc là an tịnh hơn so với các sắc pháp. Sự tịch
diệt là an tịnh hơn so với các pháp vô sắc.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Các chúng sinh nào tiếp cận các sắc pháp và những ai có sự thiết lập ở các
pháp vô sắc, trong khi không nhận biết về sự tịch diệt, là những người đi đến sự
hiện hữu lại nữa.
3. Và những người nào sau khi đã hiểu toàn diện về các sắc, không an trú ở các
pháp vô sắc, những người nào được giải thoát ở sự tịch diệt, những người ấy có
sự từ bỏ tử thần.
4. Sau khi đã chạm đến bản thể bất tử bằng thân, không mầm tái sanh, sau khi đã
chứng đắc sự từ bỏ mầm tái sanh, không còn lậu hoặc, đấng Chánh Đẳng Giác thuyết
giảng về vị thế không sầu muộn, không bụi ô nhiễm.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 5. KINH CON TRAI
[74]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba hạng con trai này đang tồn tại, đang hiện hữu ở thế
gian. Ba hạng nào? Ưu sanh, tùy sanh, liệt sanh.
Và này các tỳ khưu, con trai hạng ưu sanh nghĩa là thế nào? Này các tỳ khưu, ở
đây mẹ và cha của người con trai không đi đến nương nhờ đức Phật, không đi đến
nương nhờ Giáo Pháp, không đi đến nương nhờ Tăng Chúng, không kiêng cữ việc giết
hại mạng sống, không kiêng cữ việc lấy vật chưa được cho, không kiêng cữ hành vi
sai trái trong các dục, không kiêng cữ việc nói lời dối trá, không kiêng cữ
trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men, có giới tồi, có ác
pháp. Và con trai của những người ấy đi đến nương nhờ đức Phật, đi đến nương nhờ
Giáo Pháp, đi đến nương nhờ Tăng Chúng, kiêng cữ việc giết hại mạng sống, kiêng
cữ việc lấy vật chưa được cho, kiêng cữ hành vi sai trái trong các dục, kiêng cữ
việc nói lời dối trá, kiêng cữ trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất
lên men, có giới hạnh, có thiện pháp. Này các tỳ khưu, con trai hạng ưu sanh
nghĩa là như thế.
Và này các tỳ khưu, con trai hạng tùy sanh nghĩa là thế nào? Này các tỳ khưu, ở
đây mẹ và cha của người con trai đi đến nương nhờ đức Phật, đi đến nương nhờ
Giáo Pháp, đi đến nương nhờ Tăng Chúng, kiêng cữ việc giết hại mạng sống, kiêng
cữ việc lấy vật chưa được cho, kiêng cữ hành vi sai trái trong các dục, kiêng cữ
việc nói lời dối trá, kiêng cữ trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất
lên men, có giới hạnh, có thiện pháp. Và con trai của những người ấy đi đến
nương nhờ đức Phật, đi đến nương nhờ Giáo Pháp, đi đến nương nhờ Tăng Chúng,
kiêng cữ việc giết hại mạng sống, kiêng cữ việc lấy vật chưa được cho, kiêng cữ
hành vi sai trái trong các dục, kiêng cữ việc nói lời dối trá, kiêng cữ trường
hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất lên men, có giới hạnh, có thiện pháp.
Này các tỳ khưu, con trai hạng tùy sanh nghĩa là như thế.
Và này các tỳ khưu, con trai hạng liệt sanh nghĩa là thế nào? Này các tỳ khưu, ở
đây mẹ và cha của người con trai đi đến nương nhờ đức Phật, đi đến nương nhờ
Giáo Pháp, đi đến nương nhờ Tăng Chúng, kiêng cữ việc giết hại mạng sống, kiêng
cữ việc lấy vật chưa được cho, kiêng cữ hành vi sai trái trong các dục, kiêng cữ
việc nói lời dối trá, kiêng cữ trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và chất
lên men, có giới hạnh, có thiện pháp. Và con trai của những người ấy không đi
đến nương nhờ đức Phật, không đi đến nương nhờ Giáo Pháp, không đi đến nương nhờ
Tăng Chúng, không kiêng cữ việc giết hại mạng sống, không kiêng cữ việc lấy vật
chưa được cho, không kiêng cữ hành vi sai trái trong các dục, không kiêng cữ
việc nói lời dối trá, không kiêng cữ trường hợp dễ duôi uống chất say là rượu và
chất lên men, có giới tồi, có các pháp. Này các tỳ khưu, con trai hạng liệt sanh
nghĩa là như thế. Này các tỳ khưu, ba hạng con trai này đang tồn tại, đang hiện
hữu ở thế gian.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Các bậc sáng suốt ước muốn con trai hạng ưu sanh, hạng tùy sanh, không ước
muốn hạng liệt sanh, là hạng phá hỏng gia đình.
3. Những người con trai này là những nam cư sĩ ở thế gian, có đức tin, được đầy
đủ về giới, rộng lượng, xa lìa sự bỏn xẻn, chói sáng ở các tập thể (tựa như) mặt
trăng được thoát khỏi đám mây.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 6. KINH MƯA
[75]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba hạng người này đang tồn tại, đang hiện hữu ở thế gian.
Ba hạng nào? Hạng tương tự đám mây không mưa, hạng có mưa ở khu vực, hạng có mưa
đều ở tất cả các nơi.
Và này các tỳ khưu, hạng người tương tự đám mây không mưa nghĩa là thế nào? Này
các tỳ khưu, ở đây có hạng người không là thí chủ đến toàn bộ tất cả Sa-môn,
Bà-la-môn, những người khốn khổ, lang bạt, nghèo khó, hành khất, về cơm ăn, nước
uống, vải vóc, phương tiện di chuyển, tràng hoa, hương thơm, vật thoa, giường
nằm, chỗ ngụ, đèn đuốc . Này các tỳ khưu, hạng người tương tự đám mây không mưa
nghĩa là như thế.
Và này các tỳ khưu, hạng người có mưa ở khu vực nghĩa là thế nào? Này các tỳ
khưu, ở đây có hạng người là thí chủ đến một số, không là thí chủ đến một số
Sa-môn, Bà-la-môn, những người khốn khổ, lang bạt, nghèo khó, hành khất, về cơm
ăn, nước uống, vải vóc, phương tiện di chuyển, tràng hoa, hương thơm, vật thoa,
giường nằm, chỗ ngụ, đèn đuốc. Này các tỳ khưu, hạng người có mưa ở khu vực
nghĩa là như thế.
Và này các tỳ khưu, hạng người có mưa đều ở tất cả các nơi nghĩa là thế nào? Này
các tỳ khưu, ở đây có hạng người bố thí đến tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, những
người khốn khổ, lang bạt, nghèo khó, hành khất, về cơm ăn, nước uống, vải vóc,
phương tiện di chuyển, tràng hoa, hương thơm, vật thoa, giường nằm, chỗ ngụ, đèn
đuốc. Này các tỳ khưu, hạng người có mưa đều ở tất cả các nơi nghĩa là như thế.
Này các tỳ khưu, đây là ba hạng người đang tồn tại, đang hiện hữu ở thế gian.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Sau khi có được cơm ăn, nước uống, vật thực mà không san sẻ đến các Sa-môn,
Bà-la-môn, những người khốn khổ, lang bạt, nghèo khó, người ta đã nói về kẻ hạ
tiện ấy là: ‘Người tương tự đám mây không mưa.’
3. Không bố thí đến một số người, ban tặng đến một số người, những người thông
minh đã nói về kẻ ấy là: ‘Người có mưa ở khu vực.’
4. Người có lời nói đem đến sự dễ dàng về vật thực, người có lòng thương tưởng
đến tất cả sanh linh, trong khi tùy hỷ, ban phát và nói rằng: “Các người hãy bố
thí, các người hãy bố thí.’
5. Cũng giống như đám mây gào thét, gầm rống rồi đổ mưa, ngay trong khi đang
tuôn ra nước, làm tràn đầy đất bằng và chỗ trũng.
6. Tương tự y như vậy, ở đây có hạng người như thế ấy, sau khi thâu thập tài sản
đạt được một cách hợp pháp nhờ vào nghị lực, rồi với cơm ăn và nước uống hoàn
toàn làm toại ý những người nghèo khó đã đi đến.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 7. KINH ƯỚC NGUYỆN HẠNH PHÚC
[76]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, trong lúc ước nguyện ba điều hạnh phúc này, người sáng suốt
nên gìn giữ giới. Ba điều nào? ‘Mong rằng sự ca ngợi hãy đến cho tôi.’ (nghĩ
thế) người sáng suốt nên gìn giữ giới, ‘Mong rằng của cải hãy sanh lên cho tôi,’
(nghĩ thế) người sáng suốt nên gìn giữ giới, ‘Do sự hoại rã của thân, do sự chết
đi, tôi sẽ sanh về chốn an vui, cõi Trời,’ (nghĩ thế) người sáng suốt nên gìn
giữ giới. Này các tỳ khưu, trong khi ước nguyện ba điều hạnh phúc này, người
sáng suốt nên gìn giữ giới.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Người thông minh nên gìn giữ giới trong lúc ước nguyện ba điều hạnh phúc: sự
ca ngợi, sự đạt được của cải, sự vui sướng ở cõi Trời sau khi chết.
3. Tuy nhiên, nếu trong lúc không làm ác, mà thân cận người đang làm, thì bị
nghi ngờ về điều ác, và tiếng xấu của người ấy tăng trưởng.
4. Kết bạn với người như thế nào, và thân cận người như thế nào, kẻ ấy chắc chắn
trở thành người như thế ấy, việc cộng trú chung cũng là như thế ấy.
5. Người đang cộng sự và đối tượng đang cộng sự, người đang tiếp xúc và người
khác là đối tượng đang tiếp xúc, tựa như mũi tên bị nhiễm độc làm nhơ nhuốc bó
tên còn chưa bị nhơ nhuốc, người sáng trí, do nỗi sợ hãi sự nhơ nhuốc, không nên
có bạn ác.
6. Người nào gói lại con cá thối bằng phần ngọn của cọng cỏ kusa, các cọng cỏ
kusa cũng tỏa ra các mùi thối; sự thân cận với kẻ ngu là tương tự.
7. Còn người nào gói lại cỏ thơm tagara bằng lá cây, luôn cả các lá cây cũng tỏa
ra mùi thơm; sự thân cận với người sáng trí là tương tự.
8. Vì thế, sau khi biết được kết quả đối với bản thân tựa như đối với giỏ lá
cây, người sáng suốt không nên thân cận những kẻ không tốt, nên thân cận những
người tốt; những kẻ không tốt dẫn đến địa ngục, những người tốt giúp cho đạt
được nhàn cảnh.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 8. KINH DỄ TAN VỠ
[77]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, thân này là dễ tan vỡ, thức có tính chất rã tan, tất cả các
mầm tái sanh là vô thường, khổ đau, có tính chất đổi thay.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Sau khi biết rằng thân là dễ tan vỡ, và thức có thể rã tan, sau khi nhìn
thấy nỗi sợ hãi ở các mầm tái sanh, (vị ấy) đã vượt qua sanh và tử; sau khi đạt
đến sự an tịnh tối cao, vị có bản thân đã được tu tập chờ đợi thời điểm.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 9. KINH SỰ KẾT HỢP THEO BẢN CHẤT
[78]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, tùy theo bản chất các chúng sinh cùng với các chúng sinh
kết hợp, gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh hướng thấp kém cùng với các chúng
sinh có khuynh hướng thấp kém kết hợp, gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh
hướng tốt lành cùng với các chúng sinh có khuynh hướng tốt lành kết hợp, gặp gỡ
nhau.
Này các tỳ khưu, ngay cả ở thời kỳ quá khứ, tùy theo bản chất các chúng sinh
cùng với các chúng sinh đã kết hợp, đã gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh
hướng thấp kém cùng với các chúng sinh có khuynh hướng thấp kém đã kết hợp, đã
gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sinh có
khuynh hướng tốt lành đã kết hợp, đã gặp gỡ nhau.
Này các tỳ khưu, luôn cả ở thời kỳ vị lai, tùy theo bản chất các chúng sinh cùng
với các chúng sinh sẽ kết hợp, sẽ gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh hướng
thấp kém cùng với các chúng sinh có khuynh hướng thấp kém sẽ kết hợp, sẽ gặp gỡ
nhau. Các chúng sinh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sinh có khuynh
hướng tốt lành sẽ kết hợp, sẽ gặp gỡ nhau.
Này các tỳ khưu, ngay cả hiện nay ở thời kỳ hiện tại, tùy theo bản chất các
chúng sinh cùng với các chúng sinh kết hợp, gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có
khuynh hướng thấp kém cùng với các chúng sinh có khuynh hướng thấp kém kết hợp,
gặp gỡ nhau. Các chúng sinh có khuynh hướng tốt lành cùng với các chúng sinh có
khuynh hướng tốt lành kết hợp, gặp gỡ nhau.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Ô nhiễm sanh lên do sự kết giao, bị chặt đứt do sự không kết giao. Giống như
người leo lên miếng gỗ nhỏ có thể chìm xuống ở đại dương, ...
3.
... Tương tự như thế, người có đời sống tốt lành đi đến với người biếng nhác
cũng chìm xuống. Vì thế nên xa lánh kẻ biếng nhác có sự tinh tấn thấp kém ấy.
4. Nên sống cùng với các bậc sáng suốt, sống tách ly, cao thượng, có bản tánh
cương quyết, có thiền, thường xuyên có sự ra sức tinh tấn.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 3. 10. KINH SỰ THOÁI HÓA
[79]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba pháp này vận hành đưa đến sự thoái hóa cho vị tỳ khưu
hữu học. Ba pháp nào? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu hữu học có sự ưa thích
công việc, thích thú công việc, gắn bó với sự ưa thích công việc; có sự ưa thích
nói chuyện, thích thú nói chuyện, gắn bó với sự ưa thích nói chuyện; có sự ưa
thích ngủ nghê, thích thú ngủ nghê, gắn bó với sự ưa thích ngủ nghê. Này các tỳ
khưu, ba pháp này vận hành đưa đến sự thoái hóa cho vị tỳ khưu hữu học.
Này các tỳ khưu, ba pháp này vận hành không đưa đến sự thoái hóa cho vị tỳ khưu
hữu học. Ba pháp nào? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu hữu học không có sự ưa
thích công việc, không thích thú công việc, không gắn bó với sự ưa thích công
việc; không có sự ưa thích nói chuyện, không thích thú nói chuyện, không gắn bó
với sự ưa thích nói chuyện; không có sự ưa thích ngủ nghê, không thích thú ngủ
nghê, không gắn bó với sự ưa thích ngủ nghê. Này các tỳ khưu, ba pháp này vận
hành không đưa đến sự thoái hóa cho vị tỳ khưu hữu học.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Có sự ưa thích công việc, thích thú nói chuyện, có sự ưa thích ngủ nghê, và
náo động, vị tỳ khưu như thế ấy không có khả năng chạm đến phẩm vị giác ngộ tối
thượng.
3. Chính vì thế, vị ấy nên có ít phận sự, ít buồn ngủ, không náo động, vị tỳ
khưu như thế ấy có khả năng chạm đến phẩm vị giác ngộ tối thượng.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
Phẩm thứ ba.
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Hai bài Kinh về kiến, sự thoát ly, sắc pháp, con trai, và với hạng người không
mưa, hạnh phúc, và sự tan vỡ, bản chất, với sự thoái hóa; chúng là mười.
--ooOoo--
PHẨM THỨ TƯ
3. 4. 1. KINH SUY TẦM
[80]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là ba suy tầm bất thiện. Ba suy tầm nào? Sự suy tầm
liên quan đến việc không bị khi dễ, sự suy tầm liên quan đến lợi lộc, tôn vinh,
và tiếng tăm, sự suy tầm liên quan đến việc quan tâm về người khác. Này các tỳ
khưu, ba pháp này là suy tầm bất thiện.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Vị gắn bó với việc không bị khi dễ, có sự sùng kính về lợi lộc và sự tôn
vinh, có sự vui mừng với các đồng sự, thì cách xa sự diệt trừ các ràng buộc.
3. Và vị nào từ bỏ con cái, đàn gia súc, các đám rước dâu, và những sự gom góp
(vật dụng), vị tỳ khưu như thế ấy có khả năng chạm đến phẩm vị giác ngộ tối
thượng.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 2. KINH TÔN VINH
[81]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy do sự tôn vinh các chúng sanh bị chế ngự,
có tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ,
cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy do sự không
tôn vinh các chúng sanh bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân,
do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Này các tỳ
khưu, Ta đã nhìn thấy do sự tôn vinh và do sự không tôn vinh các chúng sanh bị
chế ngự, có tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào
đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục.
Này các tỳ khưu, hơn nữa không phải đã nghe từ vị Sa- môn hoặc Bà-la- môn nào
khác mà Ta nói điều ấy. Này các tỳ khưu, chỉ có điều nào mà Ta tự mình đã biết,
tự mình đã thấy, tự mình đã hiểu, thì Ta nói về điều ấy.
Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy do sự tôn vinh các chúng sanh bị chế ngự, có
tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi
khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Này các tỳ khưu, Ta đã nhìn thấy do sự không tôn
vinh các chúng sanh bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân, do sự
chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Này các tỳ khưu,
Ta đã nhìn thấy do sự tôn vinh và do sự không tôn vinh các chúng sanh bị chế
ngự, có tâm bị nắm giữ, do sự hoại rã của thân, do sự chết đi, bị sanh vào đọa
xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Ở cả hai trường hợp, trong khi được tôn vinh và với sự không tôn vinh, vị
nào có định không dao động, có nếp sống không xao lãng, ...
3. ... vị ấy, có thiền, thường xuyên hành minh sát với nhận thức vi tế, có sự ưa
thích việc diệt trừ chấp thủ, được gọi là ‘bậc chân nhân.’”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 3. ÂM THANH CỦA CHƯ THIÊN
[82]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba âm thanh này của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên tùy
theo lúc này lúc khác. Ba âm thanh nào?
Này các tỳ khưu, vào lúc nào vị đệ tử của bậc Thánh cạo bỏ râu tóc, khoác lên
các y màu ca-sa, nghĩ đến việc xuất gia rời nhà sống không nhà, vào lúc ấy âm
thanh của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên rằng: ‘Vị đệ tử này của bậc Thánh
nghĩ đến việc chiến đấu với Ma Vương.’ Này các tỳ khưu, đây là âm thanh thứ nhất
của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên tùy theo lúc này lúc khác.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vào lúc nào vị đệ tử của bậc Thánh sống
gắn bó với sự tu tập và rèn luyện bảy pháp góp phần vào việc giác ngộ, này các
tỳ khưu, vào lúc ấy âm thanh của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên rằng: ‘Vị đệ
tử này của bậc Thánh chiến đấu với Ma Vương.’ Này các tỳ khưu, đây là âm thanh
thứ nhì của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên tùy theo lúc này lúc khác.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vào lúc nào vị đệ tử của bậc Thánh với sự
diệt trừ các lậu hoặc, không còn lậu hoặc, ngay trong kiếp hiện tại, nhờ vào
thắng trí của mình, chứng ngộ, đạt đến, và an trú vào sự giải thoát của tâm, sự
giải thoát của tuệ, này các tỳ khưu, vào lúc ấy âm thanh của chư Thiên phát ra ở
giữa chư Thiên rằng: ‘Vị đệ tử này của bậc Thánh đã chiến thắng cuộc chiến đấu,
sau khi chiến thắng và an trú ở chính vị trí đứng đầu của cuộc chiến đấu ấy.’
Này các tỳ khưu, đây là âm thanh thứ ba của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên
tùy theo lúc này lúc khác.
Này các tỳ khưu, ba âm thanh này của chư Thiên phát ra ở giữa chư Thiên tùy theo
lúc này lúc khác.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Sau khi nhìn thấy vị đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác đã chiến thắng cuộc
chiến đấu, ngay cả chư Thiên cũng lễ bái bậc vĩ đại, có sự tự tin.
3.
Ôi bậc thuần chủng của nhân loại, xin kính lễ người. Sau khi chiến thắng đạo
quân không bị chướng ngại của Tử Thần bằng sự giải thoát, Ngài là người đã đạt
được sự chiến thắng khó khăn.
4. Chư Thiên cúi chào vị có tâm ý đã đạt này, bởi vì họ không nhìn thấy ở vị ấy
điều gì khiến cho vị ấy có thể rơi vào sự thống trị của Tử thần.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 4. KINH DẤU HIỆU BÁO TRƯỚC
[83]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, khi vị Thiên nhân có hiện tượng lìa đời khỏi tập thể chư
Thiên, có năm dấu hiệu báo trước xuất hiện cho vị ấy: các tràng hoa bị héo úa,
các y phục bị ô uế, mồ hôi xuất ra từ hai nách, màu sắc xấu hiện ra ở cơ thể, vị
Thiên nhân không thích thú ở chỗ ngồi chư Thiên của mình.
Này các tỳ khưu, sau khi biết về vị ấy rằng: ‘Vị Thiên tử này có hiện tượng lìa
đời,’ chư Thiên làm cho vị ấy tùy hỷ bằng ba lời nói: ‘Thưa ngài, từ đây hãy đi
đến nhàn cảnh. Sau khi đi đến nhàn cảnh, hãy nhận lãnh phần được nhận tốt đẹp.
Sau khi nhận lãnh phần được nhận tốt đẹp, ngài hãy khéo được thiết lập.’
Khi được nói như vậy, một vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này: ‘Bạch
Ngài, điều mà chư Thiên gọi là đi đến nhàn cảnh là gì? Và bạch Ngài, điều mà chư
Thiên gọi là phần được nhận tốt đẹp là gì? Bạch Ngài, hơn nữa điều mà chư Thiên
gọi là khéo được thiết lập là gì?’
‘Này tỳ khưu, điều mà chư Thiên gọi là đi đến nhàn cảnh là trạng thái con người,
trong khi đang có bản thể loài người thì đạt được niềm tin ở Pháp và Luật đã
được đức Như Lai công bố, này các tỳ khưu, điều này gọi là phần được nhận tốt
đẹp. Thêm nữa, niềm tin ấy của vị này được xác định, được mọc rễ, được thiết
lập, là vững chắc, không bị lấy đi bởi vị Sa- môn, bởi vị Bà-la- môn, bởi Thiên
nhân, bởi Ma Vương, bởi Phạm Thiên, hoặc bởi bất cứ ai ở thế gian. Này các tỳ
khưu, điều này chư Thiên gọi là khéo được thiết lập.’”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Khi vị Thiên nhân lìa đời khỏi tập thể chư Thiên do hết tuổi thọ, có ba âm
thanh phát ra của chư Thiên đang tùy hỷ rằng:
3. ‘Thưa ngài, từ đây hãy đi đến nhàn cảnh, có sự sống chung với loài người. Với
bản thể loài người, hãy đạt được niềm tin vô thượng ở Diệu Pháp.
4. Niềm tin ấy của ngài nên được xác định, được mọc rễ, được thiết lập ở Diệu
Pháp khéo được công bố cho đến trọn đời không bị lấy đi.
5. Sau khi từ bỏ uế hạnh do thân và các uế hạnh do khẩu, sau khi từ bỏ uế hạnh
do ý và điều nào khác liên quan đến tội lỗi, ...
6. ... sau khi làm việc thiện bằng thân, nhiều việc thiện bằng khẩu, sau khi làm
vô lượng việc thiện không mầm tái sanh bằng ý, ...
7. ... kế đó, sau khi làm nhiều việc phước đưa đi tái sanh ấy bằng việc bố thí,
hãy tạo điều kiện cho những người khác cũng trú vào Diệu Pháp, vào Phạm hạnh.’
8. Với lòng thương tưởng này, chư Thiên khi biết được một vị Thiên nhân đang lìa
đời thì tùy hỷ rằng: ‘Này Thiên nhân, hãy trở lại, lần này lần khác.’”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 5. KINH LỢI ÍCH CHO NHIỀU NGƯỜI
[84]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba hạng người này, trong khi sanh lên ở thế gian, sanh lên
đem lại sự lợi ích cho nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều người, vì lòng
thương tưởng thế gian, đem lại sự tấn hóa, đem lại sự lợi ích, đem lại sự an lạc
cho chư Thiên và nhân loại. Ba hạng người nào?
Này các tỳ khưu, ở đây đức Như Lai sanh lên ở thế gian, là bậc A-la-hán, đấng
Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo
ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa,
thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn
và đầy đủ. Này các tỳ khưu, đây là hạng người thứ nhất, trong khi sanh lên ở thế
gian, sanh lên đem lại sự lợi ích cho nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều
người, vì lòng thương tưởng thế gian, đem lại sự tấn hóa, đem lại sự lợi ích,
đem lại sự an lạc cho chư Thiên và nhân loại.
Này các tỳ khưu, còn có hạng người khác nữa, vị đệ tử của chính bậc Đạo Sư ấy là
vị A-la-hán, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có việc cần làm đã
làm, có gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có sự
trói buộc ở hữu đã được đoạn tận, đã hiểu biết đúng đắn và đã được giải thoát.
Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn
hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về
Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Này các tỳ khưu, đây là hạng
người thứ nhì, trong khi sanh lên ở thế gian, sanh lên đem lại sự lợi ích cho
nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng thế gian,
đem lại sự tấn hóa, đem lại sự lợi ích, đem lại sự an lạc cho chư Thiên và nhân
loại.
Này các tỳ khưu, còn có hạng người khác nữa, vị đệ tử của chính bậc Đạo Sư ấy là
vị hữu học, có sự thực hành, nghe nhiều, thành tựu về giới và phận sự. Vị ấy
cũng thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn
hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự. Vị ấy giảng giải về
Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Này các tỳ khưu, đây là hạng
người thứ ba, trong khi sanh lên ở thế gian, sanh lên đem lại sự lợi ích cho
nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng thế gian,
đem lại sự tấn hóa, đem lại sự lợi ích, đem lại sự an lạc cho chư Thiên và nhân
loại.
Này các tỳ khưu, ba hạng người này, trong khi sanh lên ở thế gian, sanh lên đem
lại sự lợi ích cho nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều người, vì lòng
thương tưởng thế gian, đem lại sự tấn hóa, đem lại sự lợi ích, đem lại sự an lạc
cho chư Thiên và nhân loại.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Chính bậc Đạo Sư là vị đại ẩn sĩ thứ nhất ở thế gian, đệ tử tiếp nối vị ấy
có bản thân đã được tu tập, rồi vị khác nữa cũng có sự thực hành là vị hữu học,
nghe nhiều, thành tựu về giới và phận sự.
3. Ba vị này là tối thượng ở chư Thiên và nhân loại, các bậc phát ra ánh sáng,
trong khi nói lên Giáo Pháp, mở ra cánh cửa của sự Bất Tử, các vị ấy giúp cho
nhiều người giải thoát khỏi sự ràng buộc.
4. Những ai lần theo Đạo Lộ đã khéo được thuyết giảng bởi bậc Lãnh Đạo đoàn xe,
bởi bậc Vô Thượng, những ai không xao lãng về lời dạy của đấng Thiện Thệ thực
hiện việc chấm dứt khổ đau ngay tại nơi đây.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 6. KINH QUAN SÁT BẤT TỊNH
[85]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, hãy sống có sự quan sát bất tịnh ở cơ thể. Và niệm hơi thở
vào hơi thở ra của các ngươi hãy khéo được thiết lập luôn hiện diện ở nội phần.
Các ngươi hãy sống có sự quan sát vô thường ở tất cả các hành. Này các tỳ khưu,
đối với vị trong khi sống có sự quan sát bất tịnh ở cơ thể, sự tiềm ẩn về luyến
ái ở tịnh giới được dứt bỏ. Khi niệm hơi thở vào hơi thở ra là khéo được thiết
lập luôn hiện diện ở nội phần, các khuynh hướng suy tầm ở ngoại phần đem đến sự
buồn phiền là không tồn tại. Đối với vị sống có sự quan sát vô thường ở tất cả
các hành, vô minh được dứt bỏ, minh được sanh khởi.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Vị (tỳ khưu nào) có sự quan sát bất tịnh ở cơ thể, có niệm ở hơi thở vào hơi
thở ra, đang nhìn thấy sự yên lặng của tất cả các hành, luôn luôn có sự nhiệt
tâm, ...
3. ... vị tỳ khưu ấy, thật vậy, với việc nhìn thấy đúng đắn, nhờ thế được giải
thoát khỏi nơi ấy, được hoàn mãn về thắng trí, được an tịnh, vị hiền trí ấy quả
thật, đã vượt qua các sự ràng buộc.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 7. KINH THỰC HÀNH PHÁP THUẬN THEO PHÁP
[86]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Đối với vị tỳ khưu thực hành pháp thuận theo pháp, việc này là thuận theo
pháp nhằm giải thích việc ‘vị này thực hành pháp thuận theo pháp’: Trong khi
nói, thì nói thuần về Giáo Pháp, không nói phi Pháp, hoặc trong khi suy tư thì
suy tư thuần về Giáo Pháp, không suy tư phi Pháp, sau khi lìa khỏi cả hai việc
này là người hành xả, sống, có niệm, có sự nhận biết rõ.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Có sự ưa thích Giáo Pháp, thích thú Giáo Pháp, trong lúc suy nghiệm về Giáo
Pháp, trong lúc niệm tưởng về Giáo Pháp, vị tỳ khưu không buông lơi Diệu Pháp.
3. Trong lúc đi, hoặc trong lúc đứng, trong lúc ngồi hoặc trong lúc nằm, trong
lúc làm cho tâm được yên lặng ở nội phần, (vị ấy) đạt đến sự an tịnh tuyệt đối.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 8. KINH SỰ TẠO RA TĂM TỐI
[87]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba suy tầm bất thiện này là sự tạo ra tăm tối, sự không tạo
thành mắt, sự tạo ra vô trí, sự diệt tận tuệ, đem đến sự buồn phiền, không vận
hành đến Niết Bàn. Ba suy tầm nào?
Này các tỳ khưu, sự suy tầm về (ngũ) dục là sự tạo ra tăm tối, sự không tạo
thành mắt, sự tạo ra vô trí, sự diệt tận tuệ, đem đến sự buồn phiền, không vận
hành đến Niết Bàn. Này các tỳ khưu, sự suy tầm về oán hận là sự tạo ra tăm tối,
sự không tạo thành mắt, sự tạo ra vô trí, sự diệt tận tuệ, đem đến sự buồn
phiền, không vận hành đến Niết Bàn. Này các tỳ khưu, sự suy tầm về hãm hại là sự
tạo ra tăm tối, sự không tạo thành mắt, sự tạo ra vô trí, sự diệt tận tuệ, đem
đến sự buồn phiền, không vận hành đến Niết Bàn.
Này các tỳ khưu, ba suy tầm bất thiện này là sự tạo ra tăm tối, sự không tạo
thành mắt, sự tạo ra vô trí, sự diệt tận tuệ, đem đến sự buồn phiền, không vận
hành đến Niết Bàn.
Này các tỳ khưu, ba suy tầm thiện này là sự không tạo ra tăm tối, sự tạo thành
mắt, sự tạo ra trí, sự tăng trưởng tuệ, không đem đến sự buồn phiền, vận hành
đến Niết Bàn. Ba suy tầm nào?
Này các tỳ khưu, sự suy tầm về xuất ly là sự không tạo ra tăm tối, sự tạo thành
mắt, sự tạo ra trí, sự tăng trưởng tuệ, không đem đến sự buồn phiền, vận hành
đến Niết Bàn. Này các tỳ khưu, sự suy tầm về không oán hận là sự không tạo ra
tăm tối, sự tạo thành mắt, sự tạo ra trí, sự tăng trưởng tuệ, không đem đến sự
buồn phiền, vận hành đến Niết Bàn. Này các tỳ khưu, sự suy tầm về không hãm hại
là sự không tạo ra tăm tối, sự tạo thành mắt, sự tạo ra trí, sự tăng trưởng tuệ,
không đem đến sự buồn phiền, vận hành đến Niết Bàn.
Này các tỳ khưu, ba suy tầm thiện này là sự không tạo ra tăm tối, sự tạo thành
mắt, sự tạo ra trí, sự tăng trưởng tuệ, không đem đến sự buồn phiền, vận hành
đến Niết Bàn.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Hãy suy tầm ba suy tầm thiện, hơn nữa nên loại trừ ba (suy tầm) bất thiện.
Vị ấy, thật vậy, làm yên lặng các suy tầm đã được nghĩ đến, tựa như cơn mưa làm
yên lặng bụi bặm đã được gom lại. Vị ấy, thật vậy, với tâm được yên lặng các suy
tầm, ngay tại nơi đây vị ấy đã chứng đạt vị thế an tịnh.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 9. KINH VẾT NHƠ Ở BÊN TRONG
[88]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ba cái này là các vết nhơ ở bên trong, các kẻ thù ở bên
trong, các đối thủ ở bên trong, các sát thủ ở bên trong, các kẻ nghịch ở bên
trong. Ba cái gì?
Này các tỳ khưu, tham là vết nhơ ở bên trong, kẻ thù ở bên trong, đối thủ ở bên
trong, sát thủ ở bên trong, kẻ nghịch ở bên trong. Này các tỳ khưu, sân là vết
nhơ ở bên trong, kẻ thù ở bên trong, đối thủ ở bên trong, sát thủ ở bên trong,
kẻ nghịch ở bên trong. Này các tỳ khưu, si là vết nhơ ở bên trong, kẻ thù ở bên
trong, đối thủ ở bên trong, sát thủ ở bên trong, kẻ nghịch ở bên trong.
Này các tỳ khưu, ba cái này là các vết nhơ ở bên trong, các kẻ thù ở bên trong,
các đối thủ ở bên trong, các sát thủ ở bên trong, các kẻ nghịch ở bên trong.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Tham là sự sanh ra điều bất lợi, tham là sự kích động của tâm. Người đời
không thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
3.
Người bị khởi tham không biết được sự lợi ích, người bị khởi tham không nhìn
thấy lý lẽ. Tham ngự trị người nào, khi ấy người bị mù quáng tối tăm.
4. Và người nào sau khi dứt bỏ tham và không bị khởi tham ở vật gợi tham, tham
được dứt bỏ khỏi người ấy, tựa như giọt nước lìa khỏi lá sen.
5.
Sân là sự sanh ra điều bất lợi, sân là sự kích động của tâm. Người đời không
thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
6. Người bị nóng giận không biết được sự lợi ích, người bị nóng giận không nhìn
thấy lý lẽ. Sự nóng giận ngự trị người nào, khi ấy người bị mù quáng tối tăm.
7. Và người nào sau khi dứt bỏ sân và không bị khởi sân ở vật gợi sân, sân được
dứt bỏ khỏi người ấy, tựa như trái cây tālā lìa khỏi cuống.
8.
Si là sự sanh ra điều bất lợi, si là sự kích động của tâm. Người đời không
thấu hiểu sự nguy hiểm ấy đã được sanh ra từ bên trong.
9. Người bị si mê không biết được sự lợi ích, người bị si mê không nhìn thấy lý
lẽ. Si ngự trị người nào, khi ấy người bị mù quáng tối tăm.
10. Và người nào sau khi dứt bỏ si và không bị khởi si ở vật gợi si, vị ấy tiêu
diệt tất cả si mê, tựa như mặt trời đang mọc tiêu diệt sự tối tăm.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 4. 10. KINH DEVADATTA
[89]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ bởi ba điều phi diệu pháp,
Devadatta là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không
thể cứu chữa được. Ba điều nào?
Này các tỳ khưu, bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ bởi ước muốn ác xấu, Devadatta là
kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không thể cứu chữa
được. Này các tỳ khưu, bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ bởi bạn hữu ác xấu,
Devadatta là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không
thể cứu chữa được. Hơn nữa, trong khi có việc hơn nữa cần phải làm, Devadatta đã
đạt đến việc dừng lại ở khoảng giữa với sự đắc chứng đặc biệt có tính chất thấp
thỏi (là các tầng thiền và các pháp thần thông).
Này các tỳ khưu, bị chế ngự, có tâm bị nắm giữ bởi ba điều phi diệu pháp,
Devadatta là kẻ sanh đọa xứ, là kẻ đi địa ngục, phải chịu đựng trọn kiếp, không
thể cứu chữa được.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Đương nhiên, bất cứ người nào có ước muốn xấu xa chớ được sanh lên ở thế
gian. Cũng bởi điều này đây, các ngươi hãy biết là có cảnh giới tương ứng dành
cho những kẻ có ước muốn xấu xa.
3. Được nhận biết là ‘người sáng suốt,’ được công nhận ‘bản thân đã chứng
thiền,’ Devadatta được nổi tiếng là ‘đã trụ vững tựa như đang chói sáng với danh
tiếng.’
4. Kẻ ấy, thực hành có hạn lượng, sau khi công kích đấng Như Lai ấy, đã đi đến
địa ngục Avīci có bốn cửa, chốn gây nên nỗi kinh hoàng.
5. Bởi vì kẻ nào gây hại đến bậc không (có tâm) xấu xa, đến bậc không làm hành
động ác xấu, (quả) ác xấu xảy đến cho chính kẻ có tâm xấu xa, không có sự tôn
trọng ấy.
6. Kẻ nào suy nghĩ để làm ô nhiễm đại dương bằng lọ thuốc độc, với vật ấy kẻ ấy
không thể làm ô nhiễm bởi vì đại dương là bao la, to lớn.
7. Tương tự y như thế, kẻ nào dùng lời nói hãm hại đấng Thiện Thệ, bậc đã đạt
đến sự hoàn hảo, có tâm thanh tịnh; lời nói (bôi nhọ) không có tác động ở nơi vị
ấy.
8. Người sáng suốt nên kết bạn hữu với bậc như thế ấy, và nên phục vụ bậc ấy. Vị
tỳ khưu đi theo đường lối của bậc ấy sẽ đạt được sự diệt trừ khổ đau.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
Phẩm thứ tư.
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Sự suy tầm, sự tôn vinh, âm thanh, trong khi lìa đời, ở thế gian, bất tịnh,
(thuận theo) Pháp, sự tăm tối, vết nhơ, vị Devadatta; chúng là mười.
--ooOoo--
PHẨM THỨ NĂM
3. 5. 1. KINH SỰ TỊNH TÍN TỐI CAO
[90]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là ba sự tịnh tín tối cao. Ba sự tịnh tín nào?
Này các tỳ khưu, so sánh với các chúng sanh không chân, hoặc hai chân, hoặc bốn
chân, hoặc nhiều chân, hoặc có sắc, hoặc vô sắc, hoặc có tưởng hoặc vô tưởng,
hoặc phi tưởng phi phi tưởng, đức Như Lai được gọi là tối cao trong số ấy, tức
là bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, những ai tịnh tín ở đức
Phật, những người ấy tịnh tín ở đối tượng tối cao. Hơn nữa, đối với những ai
tịnh tín ở đối tượng tối cao, quả thành tựu của họ là tối cao.
Này các tỳ khưu, so sánh với các pháp hữu vi hoặc vô vi, sự xa lìa luyến ái được
gọi là tối cao trong số các pháp ấy, tức là sự nghiền nát say đắm, sự xua đi
khao khát, sự thủ tiêu các pháp ngủ ngầm, sự bẻ gãy vòng xoay, sự diệt trừ tham
ái, sự xa lìa luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Này các tỳ khưu, những ai tịnh
tín ở pháp xa lìa luyến ái, những người ấy tịnh tín ở đối tượng tối cao. Hơn
nữa, đối với những ai tịnh tín ở đối tượng tối cao, quả thành tựu của họ là tối
cao.
Này các tỳ khưu, so sánh với hội chúng hoặc tập thể, hội chúng Thinh Văn của đức
Như Lai được gọi là tối cao trong số ấy, tức là bốn cặp hạng người (bốn đôi Đạo
Quả), tám hạng người tính đơn (bốn Đạo và bốn Quả là tám). Hội chúng Thinh Văn
ấy của đức Thế Tôn đáng được hiến cúng, đáng được hiến dâng, đáng được cúng
dường, đáng được chắp tay, là nơi để gieo trồng phước báu của thế gian không gì
hơn được. Này các tỳ khưu, những ai tịnh tín ở Tăng Chúng, những người ấy tịnh
tín ở đối tượng tối cao. Hơn nữa, đối với những ai tịnh tín ở đối tượng tối cao,
quả thành tựu của họ là tối cao.
Này các tỳ khưu, đây là ba sự tịnh tín tối cao.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Thật vậy, đối với những người tịnh tín đang nhận biết Giáo Pháp tối cao là
tối cao, đối với những người tịnh tín ở đức Phật tối cao, bậc xứng đáng cúng
dường, đấng Vô Thượng, ...
3. Thật vậy, đối với những người tịnh tín ở Giáo Pháp tối cao, xa lìa luyến ái,
yên tịnh, an lạc, đối với những người tịnh tín ở Tăng Chúng tối cao, ruộng phước
vô thượng, ...
4. Đối với những người đang dâng cúng vật thí ở đối tượng tối cao, phước thiện
tối cao tăng trưởng, tuổi thọ, sắc đẹp, danh vọng, tiếng tăm, hạnh phúc, sức
mạnh tối cao.
5. Người bố thí đến đối tượng tối cao là bậc thông minh, đã được tập trung ở
Giáo Pháp tối cao, dầu có bản thể chư Thiên hay là nhân loại, người đã đạt đến
trạng thái tối cao thì vui sướng.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 2. KINH SỰ NUÔI MẠNG
[91]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, việc này là tận cùng trong các việc nuôi mạng, tức là sự
khất thực. Này các tỳ khưu, có lời nguyền rủa này ở thế gian: ‘Ông là kẻ khất
thực, đi lang thang, tay cầm bình bát.’ Và này các tỳ khưu, những người con trai
gia đình danh giá, những người sống cho tự ngã, tùy thuận tác động của tự ngã đi
đến với việc khất thực ấy, chẳng phải bị thúc ép bởi vua, chẳng phải bị thúc ép
bởi quân cướp, không vì có nợ nần, không vì có sợ hãi, không phải do tác động
bởi sự nuôi mạng. Nhưng (vì nghĩ rằng): ‘Chúng tôi bị sa đọa bởi sự sanh, sự
già, sự chết, các sự sầu bi khổ ưu não, bị chất chồng bởi khổ, bị quấy nhiễu bởi
khổ, mong sao việc làm chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này có thể được nhận biết.’
Và này các tỳ khưu, được xuất gia như vậy, người con trai gia đình danh giá này
bị tham đắm trong các dục, có sự luyến ái sắc bén, có tâm bị sái quấy, có ý suy
tư bị tồi bại, có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ, không định tĩnh,
có tâm bị tán loạn, có giác quan bị buông lơi.
Này các tỳ khưu, cũng giống như thanh gỗ ở lò thiêu xác chết bị đốt cháy ở hai
đầu, bị lấm phân ở khoảng giữa, không sử dụng được vì mục đích củi đốt không chỉ
ở làng mà luôn cả ở rừng, này các tỳ khưu, Ta nói về người này với ví dụ như
thế, người này đã buông bỏ các sự hưởng thụ tại gia nhưng không làm đầy đủ mục
đích của hạnh Sa-môn.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Kẻ đã buông bỏ các sự hưởng thụ tại gia và có phần yếu kém về mục đích của
hạnh Sa-môn, trong khi đang bị hủy hoại, kẻ ấy buông lung, rồi bị tiêu hoại như
thanh gỗ ở lò thiêu xác chết.
3. Có nhiều kẻ, cổ quấn y casa, (hành) theo pháp ác, không tự chế ngự, những kẻ
xấu xa ấy, do các nghiệp ác, bị sanh vào địa ngục.
4. Hòn sắt cháy rực tựa như ngọn lửa được ăn vào là tốt hơn so với kẻ có giới
tồi, không tự chế ngự, ăn đồ ăn khất thực của xứ sở.”[1]
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 3. KINH CHÉO Y HAI LỚP
[92]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, cho dầu vị tỳ khưu có thể nắm lấy chéo y hai lớp rồi theo
sát phía sau, trong khi đặt xuống bàn chân theo từng vết bàn chân. Và vị ấy bị
tham đắm, có sự luyến ái sắc nét ở các dục, có tâm bị sái quấy, có ý suy tư bị
tồi bại, có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ, không định tĩnh, có tâm
bị tán loạn, có giác quan bị buông lơi. Khi ấy, vị ấy vẫn xa cách Ta, và Ta xa
cách vị ấy. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Này các tỳ khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy
không nhìn thấy pháp, trong khi không nhìn thấy pháp thì không nhìn thấy Ta.
Này các tỳ khưu, cho dầu vị tỳ khưu ấy có thể sống xa một trăm do-tuần, và vị ấy
không bị tham đắm, không có sự luyến ái sắc nét ở các dục, có tâm không bị sái
quấy, có ý suy tư không bị tồi bại, có niệm được thiết lập, có sự nhận biết rõ,
được định tĩnh, có tâm được chuyên nhất, có giác quan đã được thu thúc. Khi ấy,
vị ấy rất gần Ta, và Ta rất gần vị ấy. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Này các tỳ
khưu, bởi vì vị tỳ khưu ấy nhìn thấy pháp, trong khi nhìn thấy pháp thì nhìn
thấy Ta.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Cho dầu theo sát, nhưng có ước muốn lớn lao và có sự buồn phiền, kẻ đeo đuổi
dục vọng đối với người không dục vọng, kẻ chưa diệt tắt đối với người đã diệt
tắt, kẻ thèm khát đối với người đã lìa sự thèm khát, ngươi hãy nhìn xem xa cách
đến chừng nào.
3. Và sau khi biết rõ pháp, sau khi hiểu được pháp, bậc sáng suốt ấy không còn
dục vọng, được yên lặng, tựa như hồ nước khi đứng gió.
4. Vị không dục vọng ấy đối với người không dục vọng, đã diệt tắt đối với người
đã diệt tắt, không thèm khát đối với người đã lìa sự thèm khát, ngươi hãy nhìn
xem gần gũi đến chừng nào.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 4. KINH LỬA
[93]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là ba loại lửa. Ba loại nào? Lửa tham ái, lửa sân hận,
lửa si mê. Này các tỳ khưu, đây là ba loại lửa.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Lửa tham ái thiêu đốt những kẻ bị luyến ái, bị mê mẩn về các dục, còn lửa
sân hận thiêu đốt những kẻ có tâm sái quấy, những kẻ giết hại các sinh mạng.
3. Và lửa si mê thiêu đốt những kẻ bị mê muội, không rành rẽ về pháp bậc Thánh.
Những kẻ thỏa thích với thân (ngũ uẩn) không biết những ngọn lửa này.
4. Những kẻ ấy khiến cho địa ngục, các thai bào của các loài súc sanh, hạng
A-tu-la, cảnh giới ngạ quỷ được tăng trưởng; họ không thoát khỏi sự trói buộc
của Ma Vương.
5. Và những người nào ngày đêm gắn bó vào lời dạy của đấng Chánh Đẳng Giác,
những người ấy diệt tắt lửa luyến ái, thường xuyên có sự suy tưởng về bất tịnh.
6. Hơn nữa, các bậc tối thượng nhân diệt tắt lửa sân hận bằng từ ái, và (diệt
tắt) lửa si mê bằng trí tuệ, đây là pháp đưa đến sự thấu triệt.
7. Sau khi đã diệt tắt (ba loại lửa), các bậc chín chắn ấy, ngày đêm không thụ
động, rồi viên tịch Niết Bàn không còn dư sót, các vị đã vượt qua khổ đau không
còn dư sót.
8. Các bậc hiểu biết sâu sắc, đã nhìn thấy pháp của bậc Thánh, các bậc sáng
suốt, sau khi hiểu biết đúng đắn, sau khi biết rõ sự diệt trừ việc sanh ra,
không đi đến sự hiện hữu lại nữa.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 5. KINH KHẢO SÁT
[94]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu nên khảo sát theo đường lối như thế nào đó để
trong khi đang khảo sát, thức của vị này không bị tản mạn, không bị tỏa rộng ở
ngoại phần, không bị gắn chặt ở nội phần, không nên chấp thủ và không nên trông
ngóng. Và này các tỳ khưu, khi thức của vị này không bị tản mạn, không bị tỏa
rộng ở ngoại phần, không bị gắn chặt ở nội phần, đối với vị không chấp thủ và
không khao khát, thì không có nhân sanh khởi và sự hình thành của sanh, già,
chết, khổ.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Đối với vị tỳ khưu đã dứt bỏ bảy điều dính mắc,[2] đã chặt dứt lối dẫn đi
tái sanh, sự luân hồi tái sanh đã được chấm dứt, không có sự hiện hữu lại nữa
đối với vị ấy.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 6. KINH SỰ SANH KHỞI CỦA CÁC DỤC
[95]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là ba sự sanh khởi của các dục. Ba sự sanh khởi nào?
Các dục đã được hiện diện, các sự thích thú vật do tự mình biến hóa ra, các sự
thể hiện quyền lực đối với các dục do người khác biến hóa ra. Này các tỳ khưu,
đây là ba sự sanh khởi của các dục.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Hạng có các dục đã được hiện diện, chư Thiên có sự thể hiện quyền lực, chư
Thiên có sự thích thú vật do tự mình biến hóa ra, và các hạng khác có sự hưởng
thụ các dục, ...
3. ... họ không vượt qua luân hồi, sự hiện hữu ở nơi này hay sự hiện hữu ở nơi
khác. Sau khi biết được bất lợi này ở các sự hưởng thụ dục, bậc sáng suốt nên
buông bỏ tất cả các dục thuộc cõi trời và thuộc loài người.
4. Sau khi chặt đứt sự trói buộc dễ chịu ở các sắc đáng yêu, dòng chảy khó thể
vượt qua, rồi viên tịch Niết Bàn không còn dư sót, các vị đã vượt qua khổ đau
không còn dư sót.
5. Các bậc hiểu biết sâu sắc, đã nhìn thấy pháp của bậc Thánh, các bậc sáng
suốt, sau khi hiểu biết đúng đắn, sau khi biết rõ sự diệt trừ việc sanh ra,
không đi đến sự hiện hữu lại nữa.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 7. KINH SỰ GẮN BÓ VỚI CÁC DỤC
[96]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, bị gắn bó với sự gắn bó của dục, bị gắn bó với sự gắn bó
của hữu, là vị hữu lai, người trở về lại trạng thái này.
Này các tỳ khưu, không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của dục, bị gắn bó với sự
gắn bó của hữu, là vị Bất Lai, người không trở về lại trạng thái này.
Này các tỳ khưu, không còn bị ràng buộc với sự gắn bó của dục, không còn bị ràng
buộc với sự gắn bó của hữu, là vị A-la-hán, có lậu hoặc đã cạn kiệt.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Bị ràng buộc với cả hai: với sự gắn bó của dục và với sự gắn bó của hữu,
chúng sanh đi đến luân hồi, đi đến sanh và tử.
3. Và những ai sau khi dứt bỏ các dục, không đạt đến sự diệt trừ các lậu hoặc,
bị ràng buộc với sự gắn bó của hữu, được gọi là vị ‘Bất Lai.’
4.
Còn những vị nào có hoài nghi đã được chặt đứt, có ngã mạn và sự hiện hữu lại
nữa đã được cạn kiệt, những vị nào đã đạt đến sự diệt trừ các lậu hoặc, thật vậy
những vị ấy đã đi đến bờ kia ở thế gian.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
Tụng Phẩm thứ ba.
3. 5. 8. KINH GIỚI TỐT ĐẸP
[97]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có giới tốt đẹp, có pháp tốt đẹp, có tuệ tốt đẹp
ở Pháp và Luật này được gọi là ‘vị toàn hảo, đã được hoàn mãn, con người tối
thượng.’
Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có giới tốt đẹp nghĩa là thế nào? Này các tỳ
khưu, ở đây vị tỳ khưu là vị có giới, sống thu thúc trong sự thu thúc của giới
bổn Pātimokkha, được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi trong các
tội nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các điều học. Này các tỳ khưu, vị tỳ
khưu có giới tốt đẹp nghĩa là như vậy. Có giới tốt đẹp là thế ấy.
Và có pháp tốt đẹp nghĩa là thế nào? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu sống gắn
liền với sự tu tập bảy pháp góp phần vào việc giác ngộ. Này các tỳ khưu, vị tỳ
khưu có pháp tốt đẹp nghĩa là như vậy. Có giới tốt đẹp, có pháp tốt đẹp là thế
ấy.
Và có tuệ tốt đẹp nghĩa là thế nào? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu với sự
diệt trừ các lậu hoặc, không còn lậu hoặc, ngay trong kiếp hiện tại, nhờ vào
thắng trí của mình, chứng ngộ, đạt đến, và an trú vào sự giải thoát của tâm, sự
giải thoát của tuệ. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có tuệ tốt đẹp nghĩa là như vậy.
Có giới tốt đẹp, có pháp tốt đẹp, có tuệ tốt đẹp ở Pháp và Luật này được gọi là
‘vị toàn hảo, đã được hoàn mãn, con người tối thượng’ là thế ấy.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Đối với vị nào không có việc đã làm sái quấy về thân, về khẩu, về ý, thật
vậy, người ta đã gọi vị tỳ khưu có liêm sỉ ấy là ‘vị có giới tốt đẹp.’
3. Đối với vị nào bảy pháp dẫn đến sự giác ngộ khéo được tu tập, thật vậy, người
ta đã gọi vị tỳ khưu không tự cao ấy là ‘vị có pháp tốt đẹp.’
4.
Đối với vị nào nhận biết sự diệt trừ khổ của bản thân ngay tại chỗ này, người
ta đã gọi vị tỳ khưu không còn lậu hoặc ấy là ‘vị có tuệ tốt đẹp.’
5.
Người ta đã gọi vị thành tựu những pháp ấy, không phiền muộn, có hoài nghi đã
được chặt đứt, không bị lệ thuộc đối với tất cả thế gian là vị đã dứt bỏ tất
cả.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 9. KINH BỐ THÍ
[98]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là hai loại bố thí: bố thí tài vật và bố thí pháp. Này
các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại bố thí này, tức là bố thí
pháp. Này các tỳ khưu, đây là hai loại san sẻ: san sẻ tài vật và san sẻ pháp.
Này các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại san sẻ này, tức là san
sẻ pháp. Này các tỳ khưu, đây là hai loại tương trợ: tương trợ tài vật và tương
trợ pháp. Này các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại tương trợ
này, tức là tương trợ pháp.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Người ta đã nói sự bố thí nào là tối cao vô thượng, đức Thế Tôn đã ngợi khen
sự san sẻ nào (là tối cao vô thượng); là người hiểu biết, đang nhận biết, có tâm
tịnh tín ở thửa ruộng (phước) cao thượng, ai có thể không hy sinh vào lúc đúng
thời?
3. Những người nào không những nói mà còn lắng nghe, có cả hai hành động, có tâm
tịnh tín ở lời dạy của bậc Thiện Thệ, những người nào không xao lãng về lời dạy
của đấng Thiện Thệ, mục đích tối cao ấy của những người ấy được thanh tịnh.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
3. 5. 10. KINH BA MINH
[99]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã
nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta tuyên bố (một người là) Bà-la-môn có ba Minh được căn cứ
vào pháp, không phải chỉ vì lời nói lảm nhảm được thốt lên.
Và này các tỳ khưu, Ta tuyên bố (một người là) Bà-la-môn có ba Minh được căn cứ
vào pháp, không phải chỉ vì lời nói lảm nhảm được thốt lên nghĩa là thế nào?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu nhớ lại nhiều kiếp sống trước như là một lần
sanh, hai lần sanh, ba lần sanh, bốn lần sanh, năm lần sanh, mười lần sanh, hai
mươi lần sanh, ba mươi lần sanh, bốn mươi lần sanh, năm mươi lần sanh, một trăm
lần sanh, một ngàn lần sanh, một trăm ngàn lần sanh, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp: ‘Ở nơi ấy, ta đã có tên như vầy, dòng họ
như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có
giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ chỗ ấy, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại chỗ
kia. Ở nơi kia, ta đã có tên như vầy, dòng họ như vầy, giai cấp như vầy, thức ăn
như vầy, kinh nghiệm lạc và khổ như vầy, có giới hạn tuổi thọ như vầy. Từ nơi
kia, ta đây đã chết đi rồi đã sanh lên tại nơi này.’ Như thế, vị ấy nhớ lại
nhiều kiếp sống trước với các nét đại cương và cá biệt. Đối với vị này, đây là
Minh thứ nhất được chứng đạt, vô minh được diệt tận, minh được sanh khởi, bóng
tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi như thế trong khi vị này sống không
xao lãng, nhiệt tâm, quyết tâm.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu với Thiên nhãn thanh tịnh vượt
trội loài người nhìn thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (trở
thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, sung sướng, (hay) đau khổ, vị ấy biết
được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng (như vầy): ‘Quả đúng như
vậy, những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động xấu xa bằng thân, có hành
động xấu xa bằng lời nói, có suy nghĩ xấu xa bằng ý, vu khống các bậc Thánh,
theo tà kiến, tán thành các hành động do tà kiến. Những kẻ ấy, khi tan rã thân
xác và chết đi, bị sanh vào đọa xứ, cõi khổ, nơi trừng phạt, địa ngục. Trái lại,
những chúng sanh đang hiện hữu này có hành động tốt đẹp bằng thân, có hành động
tốt đẹp bằng lời nói, có suy nghĩ tốt đẹp bằng ý, không vu khống các bậc Thánh,
theo chánh kiến, tán thành các hành động do chánh kiến. Những người ấy, khi tan
rã thân xác và chết đi, được sanh vào chốn an vui, cõi Trời.’ Như thế, bằng
Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, vị ấy nhìn thấy các chúng sanh trong
khi chết đi rồi sanh lại (trở thành) hạ tiện, cao quý, đẹp đẽ, xấu xí, sung
sướng, (hay) đau khổ, vị ấy biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp
tương ứng. Đối với vị này, đây là Minh thứ nhì được chứng đạt, vô minh được diệt
tận, minh được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi như
thế trong khi vị này sống không xao lãng, nhiệt tâm, quyết tâm.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu do sự diệt tận các lậu hoặc,
nhờ vào thắng trí của bản thân, ngay trong thời hiện tại chứng ngộ sự giải thoát
của tâm, sự giải thoát của tuệ, sự không còn lậu hoặc, rồi thể nhập và an trú.
Đối với vị này, đây là Minh thứ ba được chứng đạt, vô minh được diệt tận, minh
được sanh khởi, bóng tối được diệt tận, ánh sáng được sanh khởi như thế trong
khi vị này sống không xao lãng, nhiệt tâm, quyết tâm.
Này các tỳ khưu, Ta tuyên bố (một người là) Bà-la-môn có ba Minh được căn cứ vào
pháp, không phải chỉ vì lời nói lảm nhảm được thốt lên nghĩa là như thế.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Vị nào biết về kiếp sống trước, nhìn thấy cõi Trời và đọa xứ, rồi đạt đến sự
diệt trừ tái sanh, là bậc hiền trí, đã được hoàn hảo về thắng trí.
3.
Với ba Minh này, trở thành vị Bà-la- môn có ba Minh, Ta nói vị ấy là vị Tam
Minh, chứ không phải kẻ khác với lời nói lảm nhảm được thốt lên.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
Phẩm thứ năm.
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Sự tịnh tín, nuôi mạng, (chéo) y hai lớp, lửa, sự khảo sát, sự sanh khởi, (gắn
bó) các dục, giới tốt đẹp, bố thí, căn cứ vào pháp; chúng là mười.
NHÓM BA PHÁP ĐƯỢC CHẤM DỨT.
--ooOoo--
NHÓM BỐN PHÁP
4. 1. 1. KINH BÀ-LA-MÔN
[100]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta là vị Bà-la-môn, có sự đáp ứng việc cầu xin (Giáo Pháp)
vào mọi lúc, luôn luôn có bàn tay trong sạch, mang thân mạng cuối cùng, là nhà
thầy thuốc phẫu thuật vô thượng. Đối với Ta đây, các ngươi là những người con
trai chính thống, được sanh ra từ miệng, được sanh ra từ Giáo Pháp, được tạo ra
từ Giáo Pháp, là những người thừa hưởng Giáo Pháp, không là những người thừa
hưởng tài vật.
Này các tỳ khưu, đây là hai loại bố thí: bố thí tài vật và bố thí Giáo Pháp. Này
các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại bố thí này, tức là bố thí
Giáo Pháp.
Này các tỳ khưu, đây là hai loại san sẻ: san sẻ tài vật và san sẻ Giáo Pháp. Này
các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại san sẻ này, tức là san sẻ
Giáo Pháp.
Này các tỳ khưu, đây là hai loại tương trợ: tương trợ tài vật và tương trợ Giáo
Pháp. Này các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại tương trợ này,
tức là tương trợ Giáo Pháp.
Này các tỳ khưu, đây là hai loại dâng hiến: dâng hiến tài vật và dâng hiến Giáo
Pháp. Này các tỳ khưu, việc này là cao thượng trong số hai loại dâng hiến này,
tức là dâng hiến Giáo Pháp.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Vị nào đã dâng hiến sự dâng hiến Giáo Pháp, không bỏn xẻn, là đức Như Lai,
có lòng thương tưởng đến tất cả sanh linh, chúng sinh kính lễ vị ấy, con người
như thế ấy, bậc tối thượng của chư Thiên và nhân loại, vị đã đi đến bờ kia của
hiện hữu.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 2. KINH BỐN VẬT KHÔNG BỊ KHIỂN TRÁCH
[101]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, bốn vật này là tầm thường, dễ đạt được, và các vật ấy không
bị khiển trách. Bốn vật nào?
Này các tỳ khưu, y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ là tầm thường và dễ đạt được
trong số các loại y, và vật ấy không bị khiển trách. Này các tỳ khưu, miếng ăn
khất thực là tầm thường và dễ đạt được trong số các loại vật thực, và vật ấy
không bị khiển trách. Này các tỳ khưu, gốc cây là tầm thường và dễ đạt được
trong số các chỗ trú ngụ, và vật ấy không bị khiển trách. Này các tỳ khưu, nước
tiểu hôi thối là tầm thường và dễ đạt được trong số các loại dược phẩm, và vật
ấy không bị khiển trách.
Này các tỳ khưu, bốn vật này là tầm thường, dễ đạt được, và các vật ấy không bị
khiển trách.
Này các tỳ khưu, khi vị tỳ khưu được hài lòng với vật tầm thường và dễ đạt được,
Ta nói rằng: ‘Vị này có được một yếu tố của hạnh Sa- môn.’”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Vị hài lòng với vật không bị khiển trách, tầm thường, và dễ đạt được, thì có
tâm không có buồn phiền liên quan đến chỗ trú ngụ, y phục, nước uống, vật thực,
và không bị ưu phiền về các phương (đi đến).
3. Và các pháp nào được tuyên bố phù hợp với hạnh Sa-môn, được vượt trội, là
dành cho vị tỳ khưu hài lòng, không bị xao lãng này.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 3. KINH DIỆT TRỪ LẬU HOẶC
[102]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, Ta nói về sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết, cho
người thấy, không cho người không biết, không cho người không thấy. Và này các
tỳ khưu, sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết gì, cho người thấy gì?
Này các tỳ khưu, sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: ‘Đây
là khổ.’ Sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: ‘Đây là nhân
sanh của khổ.’ Sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: ‘Đây là
sự diệt tận khổ.’ Sự diệt trừ các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: ‘Đây
là sự thực hành đưa đến sự diệt tận khổ.’ Và này các tỳ khưu, sự diệt trừ các
lậu hoặc cho người biết, cho người thấy là như vậy.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Đối với vị hữu học đang học tập, có sự hành trì theo đạo lộ ngay thẳng, thứ
nhất là trí về sự diệt trừ, sau đó là sự hiểu biết vô thượng.
3.
Kế đó là sự hiểu biết của vị đã được giải thoát, trí giải thoát tối thượng,
trí về sự diệt trừ sanh khởi rằng: ‘Các ràng buộc đã được cạn kiệt.’
4.
Niết Bàn này, sự giải thoát tất cả trói buộc, không thể nào được chứng đạt
bởi kẻ biếng nhác, ngu dốt, không nhận thức.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 4. KINH SA-MÔN VÀ BÀ-LA-MÔN
[103]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, bất cứ các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào không nhận biết đúng
theo thực thể rằng: ‘Đây là Khổ,’ không nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây
là nhân sanh Khổ,’ không nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự diệt tận
Khổ,’ không nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự thực hành đưa đến diệt
tận Khổ,’ này các tỳ khưu, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được Ta công
nhận là Sa-môn trong số các Sa-môn, không được Ta công nhận là Bà-la-môn trong
số các Bà-la-môn, và hơn nữa không có trường hợp các vị đại đức này, ngay trong
kiếp hiện tại, nhờ vào thắng trí của mình, chứng ngộ, đạt đến, và an trú mục
đích của hạnh Sa-môn hoặc mục đích của hạnh Bà-la-môn.
Và bất cứ các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nhận biết đúng theo thực thể rằng:
‘Đây là Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là nhân sanh Khổ,’ nhận
biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự diệt tận Khổ,’ nhận biết đúng theo thực
thể rằng: ‘Đây là sự thực hành đưa đến diệt tận Khổ,’ này các tỳ khưu, các vị
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được Ta công nhận là Sa-môn trong số các Sa-môn, được Ta
công nhận là Bà-la-môn trong số các Bà-la-môn, và hơn nữa các vị đại đức ấy ngay
trong kiếp hiện tại, nhờ vào thắng trí của mình, chứng ngộ, đạt đến, và an trú
mục đích của hạnh Sa-môn hoặc mục đích của hạnh Bà-la-môn.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Những người nào không nhận biết về khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi
nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và không biết về đạo lộ ấy, (đạo
lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ.
3. Những người ấy là thấp kém về sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của
tuệ, những người ấy không thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ đi đến sanh
và già.
4. Và những người nào nhận biết về khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi nào
khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và nhận biết về đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa
đến sự yên lặng của khổ.
5. Những người ấy thành tựu sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của tuệ,
những người ấy có thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ không đi đến sanh và
già.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 5. KINH THÀNH TỰU GIỚI
[104]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, những vị tỳ khưu nào thành tựu giới, thành tựu định, thành
tựu tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu trí và sự nhận thức về giải thoát, là
những vị giáo giới, những vị giảng giải, những vị chỉ dạy, những vị thức tỉnh,
những vị khuyến khích, những vị tạo niềm phấn khởi, những vị thuyết giáo đầy đủ
và đúng đắn về Diệu Pháp.
Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy cũng có nhiều sự
hỗ trợ. Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc lắng nghe các vị tỳ khưu ấy cũng có
nhiều sự hỗ trợ. Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc đi đến gần các vị tỳ khưu ấy
cũng có nhiều sự hỗ trợ. Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc hầu cận các vị tỳ
khưu ấy cũng có nhiều sự hỗ trợ. Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc nhớ đến các
vị tỳ khưu ấy cũng có nhiều sự hỗ trợ. Này các tỳ khưu, Ta nói rằng việc xuất
gia theo các vị tỳ khưu ấy cũng có nhiều sự hỗ trợ.
Điều ấy có nguyên nhân là gì?
Này các tỳ khưu, đối với người đang phục vụ, đang cộng sự, đang hầu cận các vị
tỳ khưu như thế, giới uẩn dầu chưa được đầy đủ cũng đi đến sự đầy đủ của việc
phát triển, định uẩn dầu chưa được đầy đủ cũng đi đến sự đầy đủ của việc phát
triển, tuệ uẩn dầu chưa được đầy đủ cũng đi đến sự đầy đủ của việc phát triển,
giải thoát uẩn dầu chưa được đầy đủ cũng đi đến sự đầy đủ của việc phát triển,
trí và sự nhận thức về giải thoát uẩn dầu chưa được đầy đủ cũng đi đến sự đầy đủ
của việc phát triển.
Và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu như thế ấy còn được gọi là ‘các vị đạo sư,’
còn được gọi là ‘các vị lãnh đạo đoàn xe,’ còn được gọi là ‘các vị từ bỏ ô
nhiễm,’ còn được gọi là ‘các vị xua tan bóng tối,’ còn được gọi là ‘các vị tạo
ra ánh sáng,’ còn được gọi là ‘các vị tạo ra hào quang,’ còn được gọi là ‘các vị
tạo ra cây đèn,’ còn được gọi là ‘các vị cầm cây đuốc,’ còn được gọi là ‘các vị
tạo ra nguồn sáng,’ còn được gọi là ‘các bậc Thánh,’ còn được gọi là ‘các vị có
mắt.’”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Như vậy là cơ sở tạo ra sự hoan hỷ cho những người đang nhận thức, tức là
những vị có bản thân đã được tu tập, của các bậc Thánh có mạng sống đúng theo
Pháp.
3. Các vị ấy, các bậc tạo ra nguồn sáng, các bậc tạo ra ánh sáng, các bậc sáng
trí, các bậc có mắt, các bậc từ bỏ ô nhiễm. làm sáng tỏ, làm chói sáng Diệu
Pháp.
4. Thật vậy, những người sáng suốt, sau khi lắng nghe lời dạy của các vị này,
sau khi hiểu biết đúng đắn, sau khi biết rõ sự diệt trừ việc sanh ra, không đi
đến sự hiện hữu lại nữa.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 6. KINH SỰ SANH KHỞI CỦA THAM ÁI
[105]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, đây là bốn sự sanh khởi của tham ái, tại đó tham ái đang
sanh khởi được sanh khởi đến vị tỳ khưu. Bốn sự sanh khởi nào?
Này các tỳ khưu, do nhân y phục tham ái đang sanh khởi được sanh khởi đến vị tỳ
khưu. Này các tỳ khưu, do nhân đồ ăn khất thực tham ái đang sanh khởi được sanh
khởi đến vị tỳ khưu. Này các tỳ khưu, do nhân chỗ trú ngụ tham ái đang sanh khởi
được sanh khởi đến vị tỳ khưu. Này các tỳ khưu, do nhân có hay không có như thế,
tham ái đang sanh khởi được sanh khởi đến vị tỳ khưu.
Này các tỳ khưu, đây là bốn sự sanh khởi của tham ái, tại đó tham ái đang sanh
khởi được sanh khởi đến vị tỳ khưu.
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Có tham ái là bạn lữ, trong khi luân chuyển một thời gian dài đến cõi này và
cõi khác, con người không vượt qua được luân hồi.
3. Sau khi biết được sự bất lợi như vậy, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi
của khổ, vị tỳ khưu, đã xa lìa tham ái, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du
phương.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 7. KINH CÓ PHẠM THIÊN
[106]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, ở những gia đình nào mẹ và cha được các con tôn vinh ở
trong nhà, những gia đình ấy được xem là có Phạm Thiên. Này các tỳ khưu, ở những
gia đình nào mẹ và cha được các con tôn vinh ở trong nhà, những gia đình ấy được
xem là có chư Thiên đầu tiên. Này các tỳ khưu, ở những gia đình nào mẹ và cha
được các con tôn vinh ở trong nhà, những gia đình ấy được xem là có các vị thầy
đầu tiên. Này các tỳ khưu, ở những gia đình nào mẹ và cha được các con tôn vinh
ở trong nhà, những gia đình ấy được xem là có các bậc đáng được cống hiến.
Này các tỳ khưu, ‘Phạm Thiên’ là từ biểu trưng của mẹ và cha. Này các tỳ khưu,
‘chư Thiên đầu tiên’ là từ biểu trưng của mẹ và cha. Này các tỳ khưu, ‘các vị
thầy đầu tiên’ là từ biểu trưng của mẹ và cha. Này các tỳ khưu, ‘các bậc xứng
đáng sự cống hiến’ là từ biểu trưng của mẹ và cha. Điều ấy có nguyên nhân là gì?
Này các tỳ khưu, mẹ và cha đối với các con là có nhiều sự hỗ trợ, là những người
chăm sóc, là những người nuôi dưỡng, là những người chỉ dạy về thế gian này.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Mẹ và cha được gọi là ‘Phạm Thiên,’ ‘các vị thầy đầu tiên,’ và ‘các bậc xứng
đáng sự cống hiến’ của các con, là những người có lòng thương tưởng đến hàng con
cháu.
3. Chính vì thế, đối với mẹ và cha, bậc sáng suốt nên kính lễ và tôn vinh với
cơm ăn, nước uống, vải vóc, và giường nằm, với sự xoa bóp, với việc tắm, và việc
rửa sạch các bàn chân.
4. Với việc phục vụ ấy đến mẹ và cha, ngay ở kiếp này các bậc sáng suốt ca ngợi
người ấy, sau khi chết vui hưởng ở cõi Trời.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 8. KINH NHIỀU SỰ ÍCH LỢI
[107]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, các Bà-la-môn và các gia chủ là có nhiều ích lợi cho các
ngươi, họ cung cấp cho các ngươi với những vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú
ngụ, và thuốc men chữa bệnh. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng có nhiều sự hỗ trợ
cho các Bà-la-môn và các gia chủ là việc các ngươi thuyết giảng Giáo Pháp toàn
hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý
nghĩa, thành tựu về văn tự, các ngươi giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một
cách trọn vẹn và đầy đủ. Này các tỳ khưu, như vậy Phạm hạnh này được tồn tại nhờ
vào nương tựa lẫn nhau nhằm mục đích vượt qua khỏi cơn lũ, nhằm làm chấm dứt khổ
một cách đúng đắn.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Những người có nhà (tại gia) và các vị không nhà (xuất gia), cả hai, được
nương tựa lẫn nhau, làm thành tựu Diệu Pháp, sự an toàn vô thượng đối với các
trói buộc.
3. Ở những người có nhà, các vị không nhà thọ nhận y phục, vật dụng cần thiết,
chỗ nằm ngồi, (có tác dụng) xua đi các hiểm họa.
4. Vả lại, nương tựa vào đấng Thiện Thệ, những người tại gia, có sự tầm cầu ngôi
nhà, đang có niềm tin vào các bậc A-la-hán, vào bậc có thiền chứng bằng Thánh
tuệ.
5. Ở nơi đây, sau khi thực hành Giáo Pháp, đạo lộ đưa đến chốn an vui, họ có
niềm vui, có sự mong muốn các dục, vui hưởng ở thế giới chư Thiên.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 9. KINH DỐI TRÁ
[108]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào là dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa
đảo, khoác lác, không định tĩnh, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy không phải
là những người tận tụy, và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy đã lìa khỏi Pháp
và Luật này. Và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy không đạt được sự phát triển,
tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.
Và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào là không dối trá, không nói nhiều, sáng
trí, không ương ngạnh, khéo định tĩnh, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy là
những người tận tụy, và này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy là không lìa khỏi
Pháp và Luật này. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy đạt được sự phát triển,
tăng trưởng, lớn mạnh trong Pháp và Luật này.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Những người dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa đảo, khoác lác, không định
tĩnh, những người ấy không tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng
Giác thuyết giảng.
3. Các vị không dối trá, không nói nhiều, sáng trí, không ương ngạnh, khéo định
tĩnh, thật vậy các vị ấy tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác
thuyết giảng.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 10. KINH NGƯỜI VÀ SẮC ĐÁNG YÊU
[109]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, cũng giống như người bị cuốn trôi bởi dòng chảy của con
sông có sắc đáng yêu, có sắc khoái lạc. Có người sáng mắt đứng ở bờ sông nhìn
thấy người ấy và nói như vầy: ‘Này ông, mặc dầu ông bị cuốn trôi bởi dòng chảy
của con sông có sắc đáng yêu có sắc khoái lạc, tuy nhiên nơi đây ở bên dưới có
cái hồ nước lớn có sóng, có dòng nước xoáy, có cá dữ, có quỷ sứ. Này ông, sau
khi đến nơi ấy, ông phải gánh chịu sự chết hoặc khổ đau gần như chết.’ Này các
tỳ khưu, khi ấy người ấy, sau khi lắng nghe lời nói của người đàn ông ấy, thì nỗ
lực bằng các cánh tay và các bàn chân lội ngược dòng.
Này các tỳ khưu, ví dụ này của Ta được tạo ra nhằm làm cho hiểu biết về ý nghĩa.
Đây là ý nghĩa ở câu chuyện này:
Này các tỳ khưu, ‘dòng chảy của con sông’ là từ biểu trưng của tham ái. Này các
tỳ khưu, ‘có sắc đáng yêu có sắc khoái lạc’ là từ biểu trưng của sáu nội xứ. Này
các tỳ khưu, ‘hồ nước lớn ở bên dưới’ là từ biểu trưng của năm sự ràng buộc ở
phần dưới. Này các tỳ khưu, ‘có sóng’ là từ biểu trưng của giận dữ và buồn
phiền. Này các tỳ khưu, ‘có xoáy nước’ là từ biểu trưng của năm loại dục. Này
các tỳ khưu, ‘có cá dữ, có quỷ sứ’ là từ biểu trưng của phụ nữ. Này các tỳ khưu,
‘ngược dòng’ là từ biểu trưng của việc xuất ly. Này các tỳ khưu, ‘nỗ lực bằng
các cánh tay và các bàn chân’ là từ biểu trưng của vị đang ra sức tinh tấn. Này
các tỳ khưu, ‘người sáng mắt đứng ở bờ sông’ là từ biểu trưng của đức Như Lai,
bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri.”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Người ước nguyện sự an toàn đối với các trói buộc trong ngày vị lai nên từ
bỏ các dục cho dầu có sự khổ đau.
Trong khi nhận biết một cách đúng đắn, người có tâm khéo được giải thoát có thể
chạm đến sự giải thoát vào chính thời điểm ấy.
Vị hiểu biết sâu sắc ấy, có Phạm hạnh đã được hoàn mãn được gọi là ‘vị đã đi đến
tận cùng thế giới, vị đã đi đến bờ kia.’”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 11. KINH BƯỚC ĐI
[110]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang bước đi có sự suy tầm về
dục, hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu chịu đựng điều ấy, không dứt bỏ, không xua đi, không làm
chấm dứt, không khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc
đang bước đi vị tỳ khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘không có nhiệt tâm,
không có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên liên tục biếng nhác, có sự tinh tấn hạ
liệt.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang đứng có sự suy tầm về dục,
hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu chịu đựng điều ấy, không dứt bỏ, không xua đi, không làm
chấm dứt, không khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc
đang đứng vị tỳ khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘không có nhiệt tâm,
không có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên liên tục biếng nhác, có sự tinh tấn hạ
liệt.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang ngồi có sự suy tầm về dục,
hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu chịu đựng điều ấy, không dứt bỏ, không xua đi, không làm
chấm dứt, không khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc
đang ngồi vị tỳ khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘không có nhiệt tâm,
không có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên liên tục biếng nhác, có sự tinh tấn hạ
liệt.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang nằm còn thức tỉnh có sự suy
tầm về dục, hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này
các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu chịu đựng điều ấy, không dứt bỏ, không xua đi, không
làm chấm dứt, không khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong
lúc đang nằm còn thức tỉnh vị tỳ khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘không
có nhiệt tâm, không có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên liên tục biếng nhác, có sự
tinh tấn hạ liệt.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang bước đi có sự suy tầm về
dục, hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu không chịu đựng điều ấy, dứt bỏ, xua đi, làm chấm dứt,
khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang bước đi vị tỳ
khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường
xuyên liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang đứng có sự suy tầm về dục,
hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu không chịu đựng điều ấy, dứt bỏ, xua đi, làm chấm dứt,
khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang đứng vị tỳ
khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường
xuyên liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang ngồi có sự suy tầm về dục,
hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này các tỳ
khưu, nếu vị tỳ khưu không chịu đựng điều ấy, dứt bỏ, xua đi, làm chấm dứt,
khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang ngồi vị tỳ
khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường
xuyên liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang nằm còn thức tỉnh có sự suy
tầm về dục, hoặc sự suy tầm về oán hận, hoặc sự suy tầm về hãm hại khởi lên, này
các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu không chịu đựng điều ấy, dứt bỏ, xua đi, làm chấm
dứt, khiến cho không còn hiện hữu, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang nằm còn
thức tỉnh vị tỳ khưu có trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ
tội lỗi, thường xuyên liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2. “Nếu trong lúc đang đi, hoặc đang đứng, đang ngồi, hoặc đang nằm, vị nào suy
tầm sự suy tầm ác xấu, liên hệ đến đời sống gia đình.
3. Vị ấy thực hành đường lối sai trái, bị mê mẩn ở những sự việc làm cho si mê,
vị tỳ khưu như thế ấy không có khả năng chạm đến phẩm vị giác ngộ tối thượng.
4. Còn vị nào, trong lúc đang đi, hoặc đang đứng, đang ngồi, hoặc đang nằm, làm
cho sự suy tầm được yên lặng, thích thú trong sự an tịnh các suy tầm, vị tỳ khưu
như thế ấy có khả năng chạm đến phẩm vị giác ngộ tối thượng.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 12. KINH GIỚI THÀNH TỰU
[111]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy sống với giới được thành tựu, với giới bổn
Pātimokkha được thành tựu. Các ngươi hãy sống thu thúc trong sự thu thúc của
giới bổn Pātimokkha, được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi
trong các tội nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các điều học.
Này các tỳ khưu, trong khi sống với giới được thành tựu, với giới bổn Pātimokkha
được thành tựu, trong khi sống thu thúc trong sự thu thúc của giới bổn
Pātimokkha, được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi trong các tội
nhỏ nhặt, trong khi thọ trì và thực hành trong các điều học, này các tỳ khưu, có
việc gì hơn nữa cần phải làm?
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang bước đi có tham đắm được xa
lìa, oán hận được xa lìa, dã dượi buồn ngủ được xa lìa, phóng dật và hối hận
được xa lìa, hoài nghi được dứt bỏ, tinh tấn được ra sức không sút giảm, niệm
được thiết lập không bị lơ là, thân được khinh an không bị kích động, tâm được
định tĩnh chuyên nhất, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang bước đi vị tỳ khưu
có trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên
liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang đứng có tham đắm được xa
lìa, oán hận được xa lìa, dã dượi buồn ngủ được xa lìa, phóng dật và hối hận
được xa lìa, hoài nghi được dứt bỏ, tinh tấn được ra sức không sút giảm, niệm
được thiết lập không bị lơ là, thân được khinh an không bị kích động, tâm được
định tĩnh chuyên nhất, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang đứng vị tỳ khưu có
trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên
liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang ngồi có tham đắm được xa
lìa, oán hận được xa lìa, dã dượi buồn ngủ được xa lìa, phóng dật và hối hận
được xa lìa, hoài nghi được dứt bỏ, tinh tấn được ra sức không sút giảm, niệm
được thiết lập không bị lơ là, thân được khinh an không bị kích động, tâm được
định tĩnh chuyên nhất, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang ngồi vị tỳ khưu có
trạng thái như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên
liên tục có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’
Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ngay trong lúc đang nằm có tham đắm được xa lìa,
oán hận được xa lìa, dã dượi buồn ngủ được xa lìa, phóng dật và hối hận được xa
lìa, hoài nghi được dứt bỏ, tinh tấn được ra sức không sút giảm, niệm được thiết
lập không bị lơ là, thân được khinh an không bị kích động, tâm được định tĩnh
chuyên nhất, này các tỳ khưu, ngay trong lúc đang nằm vị tỳ khưu có trạng thái
như vậy được gọi là ‘có nhiệt tâm, có ghê sợ tội lỗi, thường xuyên liên tục có
sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết.’”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Vị tỳ khưu trong khi ra sức, nên bước đi; trong khi ra sức, nên đứng; trong
khi ra sức, nên ngồi; trong khi ra sức, nên nằm; trong khi ra sức, nên co (tay
chân) lại; trong khi ra sức việc ấy, nên duỗi (tay chân) ra.
3.
Ở phía trên, ở bề ngang, ở bên dưới, cho đến phạm vi của thế giới, là người
quán sát đúng đắn sự sanh và diệt của các pháp, của các uẩn.
4.
Vị có sự an trú như vậy, có sự nhiệt tâm, có hành vi an tịnh, không kiêu
hãnh, có sự đúng đắn trong sự vắng lặng của tâm, đang học tập, luôn luôn có
niệm, người ta gọi vị tỳ khưu thuộc hạng như thế là ‘vị thường xuyên có bản tánh
cương quyết.’”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
4. 1. 13. KINH GIÁC NGỘ VỀ THẾ GIỚI
[112]. Ðiều này đã được đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi
đã nghe như vầy:
1. “Này các tỳ khưu, thế giới đã được đức Như Lai hoàn toàn thấu hiểu. Đức Như
Lai đã không còn bị gắn bó với thế giới. Này các tỳ khưu, nhân sanh khởi của thế
giới đã được đức Như Lai hoàn toàn thấu hiểu, nhân sanh khởi của thế giới đã
được đức Như Lai dứt bỏ. Này các tỳ khưu, sự diệt tận của thế giới đã được đức
Như Lai hoàn toàn thấu hiểu, sự diệt tận của thế giới đã được đức Như Lai chứng
ngộ. Này các tỳ khưu, sự thực hành đưa đến sự diệt tận của thế giới đã được đức
Như Lai hoàn toàn thấu hiểu, sự thực hành đưa đến sự diệt tận của thế giới đã
được đức Như Lai tu tập.
Này các tỳ khưu, điều đã được thấy, đã được nghe, đã được cảm giác, đã được nhận
thức, đã đạt đến, đã được tầm cầu, đã được đeo đuổi bởi tâm ý của thế gian tính
luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn,
Bà-la-môn, chư thiên và loài người, bởi vì điều ấy đã được đức Như Lai hoàn toàn
thấu hiểu; vì thế được gọi là ‘Như Lai.’
Và này các tỳ khưu, vào đêm đức Như Lai hoàn toàn thấu hiểu quả vị Chánh Đẳng
Giác vô thượng, và vào đêm Ngài Vô Dư Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư
sót, điều mà Ngài thuyết giảng, nói ra, chỉ dạy trong khoảng thời gian này, tất
cả điều ấy đều là như thế, không sai khác; vì thế được gọi là ‘Như Lai.’
Này các tỳ khưu, đức Như Lai nói như thế nào làm như thế ấy, làm như thế nào nói
như thế ấy. Như vậy, nói như thế nào làm như thế ấy, làm như thế nào nói như thế
ấy; vì thế được gọi là ‘Như Lai.’
Này các tỳ khưu, ở thế gian tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm
thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người, đức Như Lai
là đấng chiến thắng, bậc không bị chế ngự, bậc nhìn thấy tất cả, bậc vận hành
quyền lực; vì thế được gọi là ‘Như Lai.’”
Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy:
2.
“Sau khi biết rõ tất cả thế giới, (biết rõ) đúng theo thực thể về tất cả thế
giới, không còn bị gắn bó với tất cả thế giới, không có sự dính líu ở tất cả thế
giới.
3. Đấng Chiến Thắng, bậc sáng trí, có sự giải thoát tất cả trói buộc, vị này đã
chạm đến sự an tịnh tối thượng, Niết Bàn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
4. Vị này có lậu hoặc đã được cạn kiệt, đã được giác ngộ, không bị khổ sở, sự
nghi ngờ đã được cắt đứt, đã đạt đến sự diệt trừ tất cả các nghiệp, đã được giải
thoát ở sự tiêu diệt của các mầm tái sanh.
5. Vị này đây là đức Thế Tôn, bậc Giác Ngộ, vị này là loài sư tử vô thượng, đã
chuyển vận bánh xe (Pháp) cao thượng của thế gian luôn cả chư Thiên.
6. Như thế, chư Thiên và nhân loại, những người nào đi đến nương nhờ đức Phật,
sau khi tụ hội lại, họ lễ bái Ngài, bậc vĩ đại, có sự tự tin.
7.
Vị đã được rèn luyện, bậc tối thượng trong số những người đang rèn luyện; vị
an tịnh, bậc ẩn sĩ trong số những người đang tu tập sự an tịnh; vị đã được thoát
ra, bậc tối cao trong số những người đang tự thoát ra; vị đã vượt qua, bậc cao
quý trong số những người đang tự vượt qua.
8. Chính vì như thế, họ lễ bái Ngài, bậc vĩ đại, có sự tự tin. Ở thế gian luôn
cả chư Thiên, không có kẻ nào sánh bằng Ngài.”
Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.
Nhóm Bốn Pháp được chấm dứt.
*****
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Bà-la-môn, bốn (vật không bị khiển trách), người biết, vị Sa-môn, (thành tựu)
giới, tham ái, Phạm Thiên, nhiều sự lợi ích, dối trá, người, bước đi, với (giới)
được thành tựu, và thế giới là mười ba.
Nhóm một pháp có hai mươi bảy bài Kinh, nhóm hai pháp được gom lại hai mươi hai
bài Kinh, còn nhóm ba pháp có đúng năm mươi bài Kinh, và nhóm bốn pháp là mười
ba bài kinh, tập Kinh này là như thế.
Trước đây, sau khi trùng tụng và tập hợp lại một trăm mười hai bài kinh vô
thượng, các bậc A-la-hán đã gọi tập Kinh ấy với tên là Itivuttaka (Phật Thuyết
Như Vậy) nhằm sự tồn tại lâu dài.
PHẬT THUYẾT NHƯ VẬY ĐƯỢC CHẤM DỨT.
--ooOoo--
[1] Hai kệ ngôn 3 và 4 giống hai kệ ngôn 307, 308 của Pháp Cú, Phẩm Địa Ngục.
[2] Bảy điều dính mắc (saṅga): tham ái, tà kiến, ngã mạn, sân hận, si mê, ô
nhiễm, và uế hạnh (ItA. ii, 120).
| 00 | 01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
<Mục Lục><Đầu Trang>