Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 40

APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KƯ SỰ

 Tập Hai

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

TẠNG KINH - TIỂU BỘ

 

THÁNH NHÂN KƯ SỰ  

Tập Hai

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri! 

 

XLI. PHẨM METTEYYA

 

401. Kư Sự về Trưởng Lăo Tissametteyya

3891. Ở gần đỉnh của sườn núi, (tôi là) vị đạo sĩ khổ hạnh tên Sobhita (chỉ) ăn trái cây đă được rụng xuống và cư ngụ ở trong vùng đồi núi.

3892. Khi ấy, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng về việc đạt đến thế giới Phạm Thiên, tôi đă mang lửa và củi lại rồi nhóm lửa.

3893. Có ư muốn tiếp độ tôi, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara ấy, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă đi đến khu vực của tôi.  

3894. “Này bậc đại phước, ông đang làm ǵ vậy? Xin ông hăy cho tôi lửa và củi. Tôi (sẽ) chăm sóc ngọn lửa, nhờ đó tôi sẽ có được sự trong sạch.”

3895. “Hỡi người nhân loại, ngài là bậc hiền thiện. Hỡi đấng Thiên Nhân, ngài biết rơ (sự việc). Ngài hăy chăm sóc ngọn lửa, lửa và củi của ngài đây này.”

3896. Sau đó, đấng Chiến Thắng đă cầm lấy gỗ củi và đă nhóm lên ngọn lửa. Gỗ củi (của tôi) ở nơi ấy đă không bốc cháy; (đó là) điều kỳ diệu của bậc Đại Ẩn Sĩ.

3897. “Ngọn lửa của ông không bốc cháy, sự hiến cúng của ông không có, sự hành tŕ của ông là vô nghĩa. Vậy ông hăy chăm sóc ngọn lửa của Ta.”

3898. “Hỡi vị đại anh hùng, ngọn lửa ấy của ngài được gọi là loại lửa ǵ? Xin ngài giảng giải cho tôi luôn, cả hai chúng ta sẽ chăm sóc (ngọn lửa) ấy.”

3899. “Về sự diệt tận các pháp là nhân tố, và về sự tịnh lặng các ô nhiễm, sau khi từ bỏ sự ganh tỵ và bỏn xẻn; ba việc này là sự cúng hiến của Ta.”

3900. “Này vị đại anh hùng, ngài là hạng người như thế nào? Thưa ngài, ngài có ḍng dơi thế nào? Sở hành và cách tu luyện của ngài khiến tôi thích thú vô cùng.”

3901. “Ta được sanh ra trong gia tộc Sát-đế-lỵ, đă đạt đến sự toàn hảo về thắng trí, đă được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.”

3902. “Hỡi đấng Phát Quang, hỡi vị Xua Tan tăm tối, hỡi bậc Thiên Nhân, nếu ngài là đức Phật, đấng Toàn Tri, là bậc Đoạn Tận khổ đau, tôi sẽ lễ bái ngài.”

3903. Tôi đă trải ra tấm da dê và đă dâng cúng chỗ ngồi: “Hỡi đấng Bảo Hộ, hỡi bậc Toàn Tri, xin ngài hăy ngồi xuống. Tôi sẽ phục vụ ngài.”

3904. Đức Thế Tôn đă ngồi xuống tại chỗ ấy, trên tấm da dê đă khéo được trải rộng. Sau khi thỉnh mời bậc Toàn Giác, tôi đă đi đến ngọn núi.

3905. Và tôi đă chất trái cây tinduka đầy túi đựng vật dụng rồi mang về. Tôi đă trộn trái cây với mật ong rồi dâng lên đức Phật.

3906. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đă thọ dụng trong lúc tôi đang trầm tư. Tại đó, trong khi ngắm nh́n bậc Lănh Đạo Thế Gian, tôi đă khiến tâm được tịnh tín.

3907. Bậc Thông Suốt Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi ở khu ẩn cư của tôi và đă nói lên những lời kệ này:

3908. “Người nào (với tâm) tịnh tín tự tay ḿnh làm Ta được thỏa măn với trái cây, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

3909. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc hai mươi lăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

3910. 3911. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, cơm ăn, nước uống, vải vóc, và chỗ nằm vô cùng giá trị biết được ước muốn của người ấy ngay lập tức sẽ sanh lên cho người ấy là người đă có nghiệp (thiện) trong quá khứ. Và người này sẽ luôn luôn được vui vẻ, không có tật bệnh.

3912. Chốn nào người ấy sanh lên, là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, người ấy sẽ được sung sướng ở khắp mọi nơi rồi sẽ đi đến bản thể nhân loại.

3913. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt ba tập Vệ-đà, người ấy sẽ đi đến với bậc Toàn Giác và sẽ trở thành bậc A-la-hán.”

3914. Từ khi tôi nhớ lại bản thân, từ khi tôi đạt được hiểu biết, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.

3915. Tôi đă đạt được Giáo Pháp cao quư, đă tiêu diệt tham ái và sân hận, đă được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

3916. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

3917. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

3918. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Tissametteyya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Tissametteyya là phần thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

402. Kư Sự về Trưởng Lăo Puṇṇaka

3919. Ở gần đỉnh của sườn núi, có đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại, cư ngụ ở trong vùng đồi núi. Đức Phật đáng kính bị lâm bệnh.

3920. Cho đến lúc ấy, đă có tiếng động ở vùng lân cận khu ẩn cư của tôi. Trong khi đức Phật đang (viên tịch) Niết Bàn, có ánh sáng đă xuất hiện.

3921. Từ loài gấu, chó sói, linh cẩu, cọp, và sư tử ở trong cụm rừng già cho đến toàn bộ (thú rừng) đă rống lên.

3922. Sau khi nh́n thấy hiện tượng bất thường ấy, tôi đă đi đến ngọn núi. Tại nơi ấy, tôi đă nh́n thấy đấng Giác Ngộ, bậc không bị đánh bại, đă tịch diệt.

3923. Bậc không bị đánh bại đă tịch diệt ví như là cây sālā chúa đă được trổ hoa, tợ như mặt trời đă mọc lên, như là đống than đă tàn ngọn lửa.

3924. Sau khi gom đầy cỏ và củi, tôi đă tạo dựng giàn hỏa thiêu ở tại nơi ấy. Sau khi hoàn tất giàn hỏa thiêu khéo được tạo dựng, tôi đă thiêu đốt thi thể.

3925. Sau khi thiêu đốt thi thể, tôi đă rưới nước thơm. Ngay khi ấy, có con Dạ-xoa đứng ở trên không trung đă đặt tên (cho tôi) rằng:

3926. “Này vị hiền trí, công việc đối với bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Tự Chủ đă được ông làm đầy đủ, vậy ông hăy luôn luôn có tên là Puṇṇaka.”[1]

3927. Sau khi chết đi ĺa bỏ thân ấy, tôi đă đi đến thế giới chư Thiên. Tại nơi ấy, có hương thơm bằng chất liệu thuộc cơi trời tỏa ra ở không trung.

3928. Cũng ở tại nơi đó, khi ấy tên gọi của tôi đă là “Puṇṇaka.” Dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, tôi đều làm tṛn đủ ư định (của ḿnh).

3929. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Cũng ở nơi đây tên Puṇṇaka được công bố là tên gọi (của tôi).

3930. Sau khi đă làm hài ḷng đấng Toàn Giác Gotama, bậc Cao Quư ḍng Sakya, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

3931. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của công việc (hỏa táng) thi thể.

3932. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đă được đoạn tận, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

3933. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

3934. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Puṇṇaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Puṇṇaka là phần thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

403. Kư Sự về Trưởng Lăo Mettagū

3935. Ở không xa núi Hi-mă-lạp, có ngọn núi tên là Asoka. Tại nơi ấy, khu ẩn cư của tôi đă được hóa hiện ra bởi vị trời Vissakamma.

3936. Bậc Toàn Giác cao cả, đấng Đại Bi, bậc Hiền Trí tên Sumedha vào buổi sáng sau khi mặc y đă đi đến tôi để khất thực.

3937. Khi bậc Lănh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sumedha đi đến, tôi đă nhận lấy b́nh bát của đấng Thiện Thệ và đă chứa đầy với bơ lỏng và dầu ăn.

3938. Sau khi đă dâng cúng đức Phật tối thượng, bậc Lănh Đạo Thế Gian Sumedha, tôi đă chắp tay lên và đă khởi lên niềm vui dào dạt:

3939. “Do sự bố thí bơ lỏng này và do các nguyện lực của tác ư, dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, mong sao cho tôi đạt được sự an lạc sung măn.

3940. Mong sao cho tôi lánh xa chốn đọa đày trong khi luân hồi cơi này cơi khác. Mong sao cho tôi khẳng định được tâm về điều ấy và đạt được vị thế Bất Động.”

3941. “Này người Bà-la-môn, điều lợi ích cho ngươi đă được ngươi đạt thành một cách tốt đẹp, là việc ngươi đă nh́n thấy Ta. Sau khi đi đến gặp Ta, ngươi sẽ trở thành vị A-la-hán.

3942. Sau khi đạt đến thành công lớn, ngươi hăy tự tin, chớ lo sợ. Bởi v́ sau khi bố thí bơ lỏng đến Ta, ngươi được hoàn toàn giải thoát khỏi sự (tái) sanh.

3943. Do sự bố thí bơ lỏng này và do các nguyện lực của tác ư, dầu trở thành vị Thiên nhân hay là loài người, ngươi sẽ đạt được sự an lạc sung măn.

3944. Do sự bố thí bơ lỏng này và do sự hành tŕ tâm từ ái, ngươi sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn tám trăm kiếp.

3945. Và ngươi sẽ trở thành vị Thiên Vương ba mươi tám lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

3946. Và ngươi sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm mươi mốt lần, là người chinh phục bốn phương, là đấng chúa tể của vùng đất Jambu.

3947. Tợ như đại dương là không bị xao động, giống như trái đất là khó mang vác, và tương tợ y như thế của cải thuộc về ngươi sẽ là vô lượng.”

3948. Sau khi từ bỏ sáu mươi koṭi (600 triệu) tiền vàng, tôi đă xuất gia. Trong khi tầm cầu điều tốt đẹp ǵ mà tôi đă đi đến với Bāvarī[2]?

3949. Tại nơi ấy, tôi học tập các chú thuật và sáu phần về tướng số. “Bạch đấng Đại Hiền Trí,[3] trong khi hủy diệt điều tăm tối ấy Ngài đă hiện khởi.

3950. Bạch đấng Đại Hiền Trí, có sự ước muốn về việc nh́n thấy Ngài con đă đi đến. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, con đă đạt đến vị thế Bất Động.”

3951. Tôi đă dâng cúng bơ lỏng đến đức Phật trong ba mươi ngàn kiếp. Trong khoảng thời gian ấy, tôi không biết rơ lượng bơ lỏng đă được tôi dâng cúng.

3952. Hiểu được ư định của tôi, biết được tâm tư của tôi, (mọi vật) đă được sanh lên, đă được tạo ra theo như ước muốn. Tôi được thỏa măn về mọi thứ.

3953. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Bởi v́ sau khi dâng cúng chỉ chút ít bơ lỏng, tôi đạt được vô lượng.

3954. Cho đến nước trong đại dương được nh́n thấy từ núi Neru so sánh với bơ lỏng của tôi th́ không chạm đến được phần chia của một góc (bơ lỏng của tôi).

3955. Cho đến số lượng của vũ trụ đang được h́nh thành, khoảng không gian ấy không sánh bằng các tấm vải đă được sanh lên cho tôi.

3956. Núi chúa Hi-mă-lạp cũng chính là ngọn núi hàng đầu sẽ không là sự so sánh đối với vật thơm đă được thoa cho tôi.

3957. (Tôi đă đạt được) vải vóc, vật thơm, bơ lỏng, thức ăn, và ở kiếp hiện tại này là Niết Bàn không c̣n tạo tác; điều này là quả báu của việc dâng cúng bơ lỏng.

3958. (Tôi có được) sự trú vào các thiết lập niệm, có hành xứ về thiền định, có sự thọ hưởng các chi phần giác ngộ ở ngày hôm nay; điều này là quả báu của việc dâng cúng bơ lỏng.

3959. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đă được đoạn tận, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

3960. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

3961. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Mettagū[4] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Mettagū là phần thứ ba.

 

--ooOoo--

 

404. Kư Sự về Trưởng Lăo Dhotaka

3962. Sông Gaṅgācó tên là Bhāgīrathī được phát xuất từ núi Hi-mă-lạp, lúc bấy giờ chảy dọc theo cửa khẩu của (thành phố) Haṃsavatī.

3963. Tu viện tên là Sobhita đă khéo được tạo lập ở cạnh bờ sông Gaṅgā. Đức Phật Padumuttara, đấng Lănh Đạo Thế Gian, cư ngụ tại nơi ấy.

3964. Như là vị (Chúa Trời) Inda với chư Thiên cơi Đạo Lợi, đức Thế Tôn đă ngồi xuống ở tại nơi ấy phía trước đám người tợ như con sư tử không bị hăi sợ.

3965. Tôi là vị Bà-la-môn sống ở thành phố Haṃsavatī có tên là Chaḷaṅga. Tôi là vị đại hiền trí có tên như thế.

3966. Khi ấy, có một ngàn tám trăm người theo tôi. Được tháp tùng bởi những người học tṛ ấy, tôi đă đi đến bờ sông Gaṅgā.

3967. Tại nơi ấy, tôi đă nh́n thấy các vị sa-môn không giả dối, có các tội lỗi đă được gội rửa, đang băng qua sông Bhāgīrathī. Tôi đă tức thời suy nghĩ như vầy:

3968. “Những người con trai có danh tiếng lớn lao này của đức Phật trong khi sáng chiều băng qua (sông) khiến bản thân bị khó khăn, bản thân của họ bị hành hạ.

3969. Đức Phật được gọi là vị Cao Cả của thế gian luôn cả chư Thiên, (vậy mà) ta không có hành động cúng dường là việc làm trong sạch con đường đi đến các cảnh giới tái sanh.

3970. Hay là ta nên cho thực hiện cây cầu ở sông Gaṅgā (dâng) đến đức Phật Tối Thượng? Sau khi cho thực hiện việc làm này, ta (sẽ) vượt qua sự hiện hữu này.”

3971. Trong khi tin tưởng rằng: “Hành động được làm sẽ có (kết quả) dồi dào cho ta,” tôi đă bố thí một trăm ngàn và đă cho xây dựng cây cầu.

3972. Sau khi đă cho xây dựng cây cầu ấy, tôi đă đi đến đấng Lănh Đạo Thế Gian. Sau khi chắp tay lên ở đầu, tôi đă nói lời nói này:

3973. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, cây cầu lớn này đă được làm hết một trăm ngàn và đă được con bảo làm v́ lợi ích của Ngài, xin Ngài thọ nhận.”

3974. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đă nói lên những lời kệ này:

3975. “Người nào được tịnh tín đă bảo thực hiện cây cầu cho Ta với các bàn tay của ḿnh, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

3976. Dẫu cho bị rơi xuống từ vực thẳm, từ ngọn núi, hoặc từ thân cây, thậm chí bị chết đi, người này sẽ đạt được vị thế; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.

3977. Các kẻ thù không áp chế được, ví như cơn gió không áp chế được cây đa có mạng rễ đă được phát triển; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.

3978. Các kẻ cướp không áp chế người này, các vị Sát-đế-lỵ không khinh bỉ, người này thoát khỏi tất cả kẻ thù; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.

3979. Khi hiện diện ở ngoài trời (và) bị thiêu đốt bởi sức nóng dữ dội, (do) được gắn liền với nghiệp phước thiện, các cảm thọ sẽ không có.

3980. Ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, sau khi biết được ước muốn của người ấy, phương tiện di chuyển bằng voi sẽ được hóa hiện ra, sẽ được tạo ra ngay lập tức.

3981. Một ngàn con ngựa giống Sindhu có tốc độ của gió là phương tiện di chuyển nhanh chóng sẽ đi đến sáng chiều; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.

3982. Sau khi đi đến bản thể nhân loại, người này sẽ được sung sướng. Ngay cả ở đây cũng sẽ có phương tiện di chuyển bằng voi cho chính con người ấy.

3983. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

3984. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

3985. Ôi việc làm của tôi đă được thực hiện tốt đẹp đến vị (Phật) tên Padumuttara! Sau khi thể hiện sự tôn kính đến vị ấy, tôi đă đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.

3986. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, tôi được an tịnh, không c̣n mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

3987. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

3988. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đă được đoạn tận, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

3989. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Dhotaka[5] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Dhotaka là phần thứ tư.

 

--ooOoo--

 

405. Kư Sự về Trưởng Lăo Upasiva

3990. Ở không xa núi Hi-mă-lạp, có ngọn núi tên là Anoma, có khu ẩn cư của tôi đă khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đă khéo được tạo lập.

3991. Và con sông chảy qua nơi ấy có bến nước cạn xinh xắn làm thích ư. Và dọc theo bến nước cạn ấy, có nhiều sen hồng sen xanh mọc lên.

3992. Có các loài cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita. Con sông nhỏ, chứa đầy dẫy những cá và rùa, luôn luôn trôi chảy.

3993. Ở nơi ấy, các loài hoa timira, hoa asoka, hoa khuddamālaka, hoa nguyệt quế, hoa nguyệt quế núi đă được nở rộ tỏa hương đến khu ẩn cư của tôi.

3994. Ở nơi ấy, loài hoa kūṭaja và các rừng hoa nhài được nở rộ. Ở nơi ấy, có nhiều cây sālā, cây salala, và cây campaka được nở rộ.

3995. Các loài cây ajjuna, cây atimutta, và cây mahānāma được nở rộ, và loài cây asana có hương thơm ngọt ngào, chúng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

3996. Các loại cây uddālaka, cây pāṭalika, cây yūthika, cây piyaṅguka, và cây bimbijālaka bao phủ ở xung quanh nửa do-tuần.

3997. Ở nơi ấy, có nhiều loại cây mātaṅgava, cây sattali, cây pāṭalī, cây sinduvāraka, cây aṅkolaka, và cây tālakūṭa được nở rộ hoa.

3998. Ở nơi ấy, có nhiều cây cánh kiến trắng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi. Trong khi những cây này đang nở rộ hoa, nhiều cây trở nên rực rỡ. Khu ẩn cư của tôi tỏa ra với hương thơm ấy ở xung quanh.

3999. Và có những loại trái cây ngọt như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.

4000. Và ở nơi ấy có những loại trái cây như trái tinduka, trái piyāla, trái cam thảo, trái kāsumārī, trái mít, trái sa-kê, trái chuối, trái badarī.

4001. Ở nơi ấy, có nhiều trái cây ambāṭaka và trái cây vallikāra. Các cây bījapūra và cây sapāriya được kết trái ở khu ẩn cư của tôi.

4002. Từ nơi ấy có nhiều trái cây như trái āḷaka, trái isimugga, và trái moda bao phủ, đă chín tới và trĩu nặng. Và có các trái cây như trái vả và trái sung.

4003. Ở nơi ấy, có nhiều trái ớt, trái tiêu, trái đa, trái táo rừng, trái sung, và trái pāriya đă chín một phần.

4004. Và có nhiều loại cây này và loại cây khác đă kết trái ở khu ẩn cư của tôi. Cũng có nhiều cây có bông hoa đă đơm hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4005. Các loài thảo mộc như là āluva, kaḷamba, bilālī, takkala, ālaka, luôn cả tālaka đều được t́m thấy ở khu ẩn cư của tôi.

4006. Ở không xa khu ẩn cư của tôi (đă) có hồ nước thiên nhiên rộng lớn, có nước trong, có nước mát, có bến nước cạn xinh xắn, làm thích ư.

4007. Ở nơi ấy, có nhiều sen hồng, sen xanh, kết hợp với sen trắng, được che phủ bởi những cây mạn-đà-la, tỏa ra với nhiều hương thơm khác loại.

4008. Có những đóa sen hồng đang tượng h́nh, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, có nhiều đóa có các cánh hoa rũ xuống trở thành những gương sen.

4009. Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen, chúng tỏa ra nhiều hương thơm khác loại (ḥa quyện) với hương thơm ấy ở xung quanh.

4010. Có nhiều bông súng trắng và mùi thơm của xoài thoảng qua được nhận biết. Ở kế bờ hồ nước thiên nhiên, có nhiều cây dừa dại được đơm bông.

4011. Có các cây bandhujīva khéo nở rộ hoa và các cây setavārī có hương thơm ngát. Có các con cá sấu loại kumbhīla, loại suṃsumāra, và loại gahaka được sanh ra ở tại nơi ấy.

4012. Có nhiều măng xà là loài thú kiếm mồi trong hồ nước thiên nhiên ở tại nơi ấy. Và có các loài cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita.

4013. Có đầy dẫy các loài cá, các con rùa, và các con rái cá nữa. Và có các con chim bồ câu, các con ngỗng trời, các con gà rừng, và các loài sống ở sông.

4014. Có nhiều chim le le, ngỗng đỏ, chim campaka, chim jīvajīvaka, chim kalandaka, chim ưng, chim diều hâu, và chim uddhara.

4015. Có nhiều chim koṭṭhaka, chim sukapota, loài cua, loài ḅ rừng, loài thú kāreṇī, và loài thú tilaka sống nương nhờ hồ nước ấy.

4016. Các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, linh cẩu, các loài khỉ, và luôn cả loài kim-sỉ-điểu được nh́n thấy ở khu ẩn cư của tôi.

4017. Trong khi ngửi các hương thơm ấy, trong khi ăn các thứ trái cây (ấy), và trong khi uống nước có hương thơm (ấy), tôi sống ở khu ẩn cư của tôi.

4018. Có các con sơn dương, nai, heo rừng, hươu, các loài có dáng vóc nhỏ bé, và luôn cả các con đom đóm có ánh sáng sống ở khu ẩn cư của tôi.

4019. Ở nơi ấy có nhiều chim thiên nga, chim c̣, chim công, chim sáo, chim cu, chim mañjarikā, chim cú mèo, và chim gơ kiến.

4020. Có nhiều loài yêu tinh, loài người khổng lồ, và luôn cả loài quỉ sứ, loài quỷ dữ, loài nhân điểu, và luôn cả các loài ḅ sát sống ở khu ẩn cư của tôi.

4021. Có nhiều vị ẩn sĩ có đại oai lực, có tâm thanh tịnh, được định tĩnh, tất cả đều mang bầu nước, có y choàng là tấm da dê, các vị mang búi tóc rối ấy sống ở khu ẩn cư của tôi.

4022. Và (các vị ấy) nh́n với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, hài ḷng với việc có hay không có, sống ở khu ẩn cư của tôi.

4023. Được hỗ trợ bởi các năng lực của bản thân, các vị ấy luôn luôn di chuyển ở không trung (vừa đi) vừa phất phơ bộ y phục vỏ cây vừa kềm giữ tấm y da dê.

4024. Các vị ấy không mang theo nước, củi gỗ, hoặc củi nhóm lửa, và các vị ấy đă tự thân đạt được (các thứ ấy), điều này là quả báu của phép kỳ diệu.

4025. Sau khi nhận lấy cái máng bằng kim loại, các vị ấy sống ở giữa rừng ví như những con voi ḍng long tượng, tợ như con sư tử không bị hăi sợ.

4026. Một số vị đi đến Tây Ngưu Hóa Châu, một số vị khác đi đến Đông Thắng Thần Châu, và một số vị khác đi đến Bắc Câu Lưu Châu tùy theo năng lực của tự thân. Sau khi mang lại vật thực từ các nơi ấy, các vị thọ thực chung.

4027. Khi ấy, trong lúc tất cả các vị có oai lực nổi bật như thế ấy đang ra đi, khu rừng được rộn ràng bởi âm thanh bộ y bằng da dê của (các vị).

4028. “Bạch đấng Đại Hiền Trí, các vị như thế ấy là những người học tṛ có sự khổ hạnh nổi bậc của con. Được tùy tùng bởi các vị ấy, con sống ở khu ẩn cư của con.

4029. Được hoan hỷ với việc làm của bản thân, các vị này đă cùng nhau tụ hội, và cũng đă được huấn luyện. Là những người có sự mong mỏi về việc làm của bản thân, có giới hạnh, cẩn trọng, rành rẽ về các pháp vô lượng tâm, họ đă làm con hài ḷng.”

4030. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Hướng Đạo sau khi nhận biết thời điểm đă đi đến.

4031. Sau khi đi đến, đấng Toàn Giác, bậc Hiền Trí, vị có sự nhiệt tâm, cẩn trọng, đă ôm lấy b́nh bát, rồi đấng Toàn Giác đă đến gần tôi để khất thực.

4032. Khi đấng Đại Hùng, bậc Lănh Đạo Padumuttara đă đi đến, tôi đă sắp xếp tấm thảm cỏ và đă rải rắc bằng các bông hoa sālā.

4033. Tôi đă thỉnh đấng Toàn Giác ngồi xuống. Trở nên mừng rỡ, với tâm ư đă được kích động, tôi đă mau chóng leo lên ngọn núi và đă thâu nhặt gỗ trầm hương.

4034. Sau khi hái trái mít có kích thước bằng bầu nước, có hương thơm cơi trời, tôi đă đặt ở trên vai rồi đă đi đến gần đấng Hướng Đạo.

4035. Sau khi đă dâng trái cây đến đức Phật, tôi đă thoa trầm hương. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đảnh lễ đức Phật tối thượng.

4036. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi xuống ở giữa những vị ẩn sĩ và đă nói những lời kệ này:

4037. “Người nào đă dâng cúng trái cây, trầm hương, và chỗ ngồi đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4038. Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, vật thực sẽ hiện ra đúng theo tâm (ước muốn) của người này.

4039. Được sanh lên ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, người nam này sẽ làm toại ư nhóm tùy tùng với các thức ăn và với các loại vải vóc.

4040. Chốn nào được sanh lên là bản thể Thiên nhân hay loài người, sau khi có được của cải không bị suy suyển, người nam này sẽ luân hồi.

4041. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4042. Và người này sẽ cai quản Thiên quốc bảy mươi mốt lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4043. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

4044. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không c̣n lậu hoặc.”

4045. Điều lợi ích được thành tựu một cách tốt đẹp đă được thành tựu đến tôi, là việc tôi đă được nh́n thấy đấng Lănh Đạo, tôi đă thành tựu tam minh, tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

4046. Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, sau khi biết được tâm của tôi vật thực luôn luôn hiện đến cho tôi.

4047. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4048. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4049. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Upasiva đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Upasiva là phần thứ năm.

 

--ooOoo--

 

406. Kư Sự về Trưởng Lăo Nandaka

4050. Trong thời quá khứ, tôi đă là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng rậm hoang dă. Trong lúc t́m kiếm thú rừng là loài nai, tôi đă nh́n thấy đấng Chiến Thắng, bậc Tự Chủ.

4051. Bậc Toàn Giác, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại tên là Anuruddha. Khi ấy, có ước muốn độc cư, bậc trí tuệ ấy đă đi sâu vào trong khu rừng.

4052. Tôi đă cầm lấy bốn cây gậy rồi đă đặt ở bốn vị trí. Sau khi thực hiện mái che đă được làm khéo léo, tôi đă phủ lên bằng những đóa hoa sen.

4053. Sau khi đă lợp xong mái che, tôi đă đảnh lễ đấng Tự Chủ. Tôi đă quăng bỏ cây cung ngay tại chỗ ấy và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4054. Được xuất gia không bao lâu, bệnh tật đă khởi lên cho tôi. Tôi đă nhớ lại việc làm trước đây rồi đă qua đời ở tại nơi ấy.

4055. Được gắn liền với nghiệp trước đây, tôi đă đi đến cơi trời Đẩu Suất. Ở tại nơi ấy, có cung điện bằng vàng được tạo ra theo như ước muốn.

4056. Tôi đă chú nguyện về phương tiện di chuyển ở cơi trời là chiếc xe đă được buộc vào một ngàn con ngựa. Sau khi bước lên chiếc xe ấy, tôi ra đi theo như ước muốn.

4057. Từ đó, trong khi tôi là vị Thiên nhân và trong khi tôi được đưa đi, có chiếc lọng được che cho tôi ở xung quanh một trăm do-tuần.

4058. Tôi nằm ở cái giường thường xuyên được lót bằng bông hoa. Và có các đóa hoa sen từ trên không trung liên tục rơi xuống.

4059. Khi ảo ảnh (ở mắt) đang lung linh và sức nóng đang thiêu đốt, sức nóng đă không làm tôi bị nóng bức; điều này là quả báu của mái che.

4060. Trong khi vượt qua khổ cảnh, các địa ngục đă đóng lại đối với tôi. Ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi không biết đến sự nóng bức.

4061. Sau khi chú nguyện sự niệm tưởng về đất, tôi băng qua nước biển mặn, việc làm của tôi đây đă được thực hiện tốt đẹp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4062. Thậm chí không có con đường, tôi tạo ra con đường, tôi đi bằng đường không trung. Ôi việc làm của tôi đă được thực hiện tốt đẹp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4063. Tôi biết được đời sống trước đây, thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc của tôi đă được đoạn tận; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4064. Cuộc sống trước đây đă được buông bỏ, tôi là tỳ khưu của đức Phật, và là người thừa tự Chánh Pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4065. Tôi đă làm hài ḷng đấng Thiện Thệ Gotama, bậc Cao Quư của ḍng Sakya. Tôi là ngọn cờ của Giáo Pháp, là người thừa tự Giáo Pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4066. Tôi đă hầu cận đấng Toàn Giác Gotama bậc Cao Quư của ḍng Sakya và đă hỏi đấng Lănh Đạo Thế Gian về Đạo Lộ đi đến bờ kia.

4067. Được yêu cầu, đức Phật đă thuyết giảng về Đạo Lộ thâm sâu vi tế. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, tôi đă đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc.

4068. Ôi việc làm của tôi đă được thực hiện tốt đẹp! Tôi đă được giải thoát khỏi sự sanh, đă được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

4069. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4070. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4071. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Nandaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Nandaka là phần thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

407. Kư Sự về Trưởng Lăo Hemaka

4072. Vào lúc bấy giờ, có vị đạo sĩ khổ hạnh tên là Anoma đă tạo lập khu ẩn cư được xây dựng khéo léo ở gần chóp đỉnh của sườn núi và đă sống ở gian nhà rộng bằng lá.

4073. Sự thực hành khổ hạnh của vị ấy đă được thành tựu. Được đạt đến sự thành tựu về các năng lực của bản thân, vị hiền trí có sự nhiệt tâm, cẩn trọng, đang tiến đến bản thể sa-môn của chính ḿnh.

4074. (Vị ấy) tự tin ở giáo lư của ḿnh và rành rẽ về học thuyết của người khác, được nổi tiếng ở trên trời dưới đất và rành rẽ về điềm báo hiệu.

4075. Vị hiền trí không c̣n sầu muộn, không giết hại, (thọ) chút ít vật thực, không tham lam, hài ḷng với việc có hay không có, chứng thiền, thỏa thích về thiền.

4076. Bậc Toàn Giác cao cả, đấng Bi Mẫn, bậc Hiền Trí tên Piyadassī, có ước muốn giúp cho chúng sanh vượt qua, khi ấy Ngài đă lan tỏa với tâm bi mẫn.

4077. Sau khi nh́n thấy người có khả năng giác ngộ, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī vẫn đi đến dẫu cho (khoảng cách là) một ngàn vũ trụ, và bậc Hiền Trí giáo giới (người ấy).

4078. Có ư muốn tiếp độ tôi, Ngài đă đi đến khu ẩn cư của tôi. Tôi chưa từng nh́n thấy đấng Chiến Thắng trước đây, và cũng chưa từng được nghe từ bất cứ ai.

4079. Tôi hiểu biết rành rẽ về các điềm báo hiệu, các mộng mị, và các tướng mạo. Tôi được nổi tiếng về thiên văn địa lư và rành rẽ về thuật chiêm tinh.

4080. Tại đó, sau khi lắng nghe đức Phật tôi đây đă làm cho tâm được tịnh tín. Trong khi ăn hoặc trong khi ngồi xuống, tôi thường xuyên nhớ lại.

4081. Khi tôi nhớ lại như vậy, đức Thế Tôn cũng đă tưởng nhớ lại. Trong khi tưởng nhớ đến đức Phật, tôi có được phỉ lạc ngay lập tức.

4082. Và đă xảy ra một lần khác nữa, bậc Đại Hiền Trí đă đi đến gần tôi. Tôi cũng không biết về người đă đi đến: “Vị này là đức Phật, bậc Đại Hiền Trí.”

4083. Bậc Thương Tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī đă tỏ rơ về bản thân rằng: “Ta là đức Phật (ở thế gian) gồm luôn cả chư Thiên.”

4084. Sau khi nhận ra đấng Toàn Giác, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī, tôi đă làm cho tâm của chính ḿnh được tịnh tín rồi đă nói lời nói này:

4085. “Những người khác tự ngồi xuống ở ghế đẩu, ghế bành, và các ghế dài. C̣n ngài là đấng Toàn Tri, xin ngài hăy ngồi xuống chỗ ngồi bằng châu báu.”

4086. Ngay khi ấy, tôi đă hóa hiện ra chiếc ghế đẩu toàn bộ làm bằng châu báu và đă dâng lên bậc Hiền Trí Piyadassī (chiếc ghế) đă được hóa hiện ra bằng thần thông.

4087. Và khi Ngài đă ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu bằng châu báu đă được hóa hiện ra bằng thần thông, tôi đă tức thời dâng đến Ngài trái mận đỏ có kích thước bằng bầu nước.

4088. Sau khi làm cho tôi sanh khởi niềm vui, bậc Đại Hiền Trí đă thọ dụng. Khi ấy, tôi đă làm cho tâm được tịnh tín và đă đảnh lễ bậc Đạo Sư.

4089. Rồi đức Thế Tôn Piyadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, ngồi ở chỗ ngồi bằng châu báu đă nói lên các lời kệ này:

4090. “Người nào đă dâng cúng Ta chiếc ghế đẩu làm bằng châu báu và trái cây bất tử, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4091. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong bảy mươi bảy kiếp, và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.

4092. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi hai lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4093. (Người này) sẽ đạt được nhiều chiếc ghế bành khéo được tạo ra làm bằng vàng, làm bằng bạc, làm bằng hồng ngọc, và luôn cả làm bằng châu báu.

4094. Khi ấy, có vô số chiếc ghế bành sẽ quây quanh con người có được nghiệp phước thiện, ngay cả trong lúc (vị ấy) đang đi kinh hành.

4095. Các ngôi nhà mái nhọn, các ṭa lâu đài, và chỗ nằm vô cùng giá trị, sau khi biết được tâm (ước muốn) của người này sẽ được hiện ra ngay khi ấy.

4096. Sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục với yên cương bằng vàng.

4097. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu, chúng sẽ hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.

4098. Sáu mươi ngàn con ngựa ḍng Sindhu thuần chủng là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức.

4099. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có mang cung với gươm, chúng cũng sẽ hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.

4100. Sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao.

4101. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các tay cầm cung mang áo giáp, chúng sẽ thường xuyên hộ tống người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.

4102. Sáu mươi ngàn con ḅ cái sữa sẽ sản xuất ra các con ḅ con và ḅ đực cao quư; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.

4103. Mười sáu ngàn phụ nữ được trang điểm với tất cả các loại trang sức, được trang hoàng bằng các loại vải vóc nhiều màu sắc, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni.

4104. Có lông mi cong, có nụ cười, có điệu bộ duyên dáng, có eo thon, các nàng sẽ thường xuyên vây quanh người này; điều này là quả báu của chiếc ghế bằng châu báu.

4105. Vào một ngàn tám trăm kiếp, bậc Hữu Nhăn tên là Gotama sau khi hủy diệt điều tăm tối ấy và sẽ trở thành đức Phật ở thế gian.

4106. (Người này) sẽ đi đến chiêm ngưỡng vị (Phật) ấy, sẽ xuất gia, không c̣n sở hữu ǵ, sẽ làm hài ḷng bậc Đạo Sư, và sẽ vô cùng thỏa thích trong Giáo Pháp.

4107. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, (người này) sẽ tiêu diệt các phiền năo. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người này) sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

4108. Tôi có sự tinh tấn, có khả năng thực hành các phận sự là điều kiện đưa đến sự an ổn khỏi các điều ràng buộc. Trong khi ước nguyện mục đích tối thượng, tôi sống ở trong Giáo Pháp.

4109. Đây là lần sau cùng của tôi, là kiếp sống cuối cùng trong sự luân chuyển. (Tôi) đă được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

4110. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4111. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4112. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Hemaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Hemaka là phần thứ bảy.

(Tụng phẩm thứ mười bảy).

 

--ooOoo--

 

408. Kư Sự về Trưởng Lăo Todeyya

4113. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Ketumatī có đức vua tên Vijaya, là vị anh hùng, được hội đủ sức lực, đă cư ngụ ở tại thành phố.

4114. Khi vị vua ấy bị xao lăng, những kẻ lục lâm đă nổi dậy. Khi ấy, những điều tội lỗi và các sự phóng đăng nữa đă tàn phá hoại xứ sở.

4115. Vào lúc biên thùy bị rối loạn, vị thuần hóa kẻ thù (đức vua) đă lập tức cho tập trung các binh lính luôn cả các nhân viên quân đội, và khi ấy đă lên án kẻ thù.

4116. Lúc bấy giờ, các nài voi, các lính ngự lâm, các bậc anh hùng, đội quân áo giáp da, các cung thủ, và các thủ lănh, tất cả đă tập trung lại.

4117. Lúc bấy giờ, các người đầu bếp, các thợ hớt tóc, các người hầu tắm, các người làm tràng hoa, các vị anh hùng thắng trận, tất cả đă tập trung lại.

4118. Lúc bấy giờ, các người tay có cầm dao, tay có cầm cung, có áo giáp, các vơ sĩ thắng trận, tất cả đă tập trung lại.

4119. Lúc bấy giờ, các con voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi được sáu mươi tuổi có sự trang sức với các chuông vàng, tất cả đă tập trung lại.

4120. Lúc bấy giờ, các dũng sĩ đă được huấn luyện, có sức chịu đựng sự lạnh, sự nóng, và sự mang vác các vật thối tha, tất cả đă tập trung lại.

4121. Lúc bấy giờ, có tiếng tù và vỏ ốc, tiếng trống lớn, và tiếng trống trầm. Trong lúc đang giải trí với những tiếng trống này, tất cả bọn họ đă tập trung lại.

4122. Lúc bấy giờ, trong khi đánh đập nhau, trong khi làm cho nhau té ngă bằng các chĩa ba các cây trượng và bùa chú, bằng các áo giáp và các mũi thương, tất cả đă tập trung lại.

4123. Lúc bấy giờ, là kẻ chiến thắng vị vua ấy đă không lắng nghe kẻ bại trận về bất cứ điều ǵ và đă làm sáu chục ngàn sanh mạng phải khiếp đảm ở nơi cọc nhọn.

4124. Những con người (ấy) đă thốt ra lời rằng: “Ôi, vị vua bất nhân! Đối với kẻ đang bị nung nấu ở địa ngục th́ khi nào sẽ là sự kết thúc?

4125. Khi ấy, trong lúc trằn trọc ở trên giường, tôi (như là) nằm ở địa ngục, cả ngày lẫn đêm tôi không ngủ. Với cây cọc nhọn họ làm cho tôi hoảng sợ.

4126. (Tôi đă suy nghĩ rằng): “Được ǵ với sự chểnh mảng, với vương quốc, với xe cộ, và với binh lực? Chúng không phải là để bám víu, chúng luôn luôn làm tôi hăi sợ.

4127. Được ǵ cho tôi với các người con trai, với các người vợ, và với toàn bộ vương quốc? Hay là ta nên xuất gia, ta nên làm trong sạch đạo lộ tái sanh?

4128. 4129. Không mong mỏi việc lai văng ở chiến trường, vào địa vị, tôi đă từ bỏ sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục yên cương bằng vàng, được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu. Bị nóng nảy bởi hành động của chính ḿnh, tôi đă ra đi vào đời sống không gia đ́nh.

4130. 4131. (Tôi đă từ bỏ) sáu mươi ngàn con ngựa ḍng Sindhu thuần chủng, là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm cung mang áo giáp. Sau khi buông bỏ tất cả các thứ ấy, tôi đă ra đi vào đời sống không gia đ́nh.

4132. (Tôi đă từ bỏ) sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao. Sau khi bảo đem đi tất cả các thứ ấy, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4133. (Tôi đă từ bỏ) sáu mươi ngàn con ḅ cái, tất cả đều mang bầu sữa. Sau khi quăng bỏ luôn cả lũ ḅ cái, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4134. (Tôi đă từ bỏ) sáu mươi ngàn phụ nữ được trang điểm với tất cả các loại trang sức, được trang hoàng bằng các loại vải vóc nhiều màu sắc, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni.

4135. Các nàng có lông mi cong, có nụ cười, có điệu bộ duyên dáng, có eo thon. Tôi đă từ bỏ các nàng đang khóc lóc và đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4136. (Tôi đă từ bỏ) sáu mươi ngàn ngôi làng có đầy đủ tất cả. Sau khi quăng bỏ vương quốc ấy, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4137. Sau khi rời khỏi thành phố, tôi đă đi đến núi Hy-mă-lạp. Tôi đă tạo lập khu ẩn cư ở bờ sông Bhāgīrathī.

4138. Sau khi xây dựng gian nhà rộng bằng lá, tôi đă xây dựng ngôi nhà thờ lửa. Có sự nỗ lực tinh tấn, có tính khẳng quyết, tôi sống ở khu ẩn cư của tôi.

4139. Và trong lúc tham thiền ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, tuy nhiên sự run sợ của tôi là không được biết đến, tôi không nh́n thấy sự kinh hoàng và hăi sợ.

4140. Đấng Toàn Giác tên Sumedha, bậc Cao Cả, đấng Bi Mẫn, bậc Hiền Trí, trong khi chói sáng với ánh sáng trí tuệ đă lập tức hiện khởi ở thế gian.

4141. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi có con Dạ-xoa có đại thần lực, khi ấy đă thông báo cho tôi về đức Phật tối thượng đă hiện khởi:

4142. “Đức Phật bậc Hữu Nhăn tên Sumedha đă hiện khởi ở thế gian. Ngài giúp cho tất cả loài người vượt qua. Ngài cũng sẽ giúp cho ngươi vượt qua.”

4143. Sau khi lắng nghe lời nói của con Dạ-xoa, ngay khi ấy sự chấn động đă xuất hiện (ở tôi). Trong lúc suy nghĩ “Đức Phật! Đức Phật!” tôi đă xếp đặt lại khu ẩn cư.

4144. Và sau khi quăng bỏ lửa củi, tôi đă tự sắp xếp thảm trải. Sau khi lễ bái khu ẩn cư, tôi đă rời khỏi khu rừng.

4145. Sau khi cầm lấy trầm hương từ khu rừng ấy, trong khi t́m kiếm vị Trời của chư Thiên từ làng này đến làng khác, từ thành phố này đến thành phố khác, tôi đă đi đến gần bậc Hướng Đạo.

4146. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, bậc Lănh Đạo Thế Gian Sumedha, trong khi công bố về bốn Sự Thật (đă) giác ngộ nhiều người.

4147. Sau khi đă chắp tay lên và đặt trầm hương ở trên đầu, tôi đă đảnh lễ đấng Toàn Giác và đă nói lên những lời kệ này:

4148. “Trong khi hoa nhài đang nở rộ, (hương thơm) tỏa ra vùng lân cận. Bạch đấng Anh Hùng, Ngài tỏa ra khắp mọi phương với hương thơm của đức hạnh.

4149. Trong khi các loài hoa campaka, hoa mù u, hoa atimuttaka, hoa dứa dại, hoa sālā đang nở rộ, (hương thơm) tỏa ra theo chiều gió.

4150. Bạch đấng Đại Hùng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, vị có danh tiếng vĩ đại, sau khi nghe được danh thơm của Ngài, con từ núi Hi-mă-lạp đă đi đến nơi đây, con xin cúng dường Ngài.”

4151. Tôi đă thoa trầm hương cao quư lên đấng Lănh Đạo Thế Gian Sumedha. Sau khi làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín, ngay khi ấy tôi đă đứng yên lặng.

4152. Đức Thế Tôn tên Sumedha, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đă ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đă nói lên những lời kệ này:

4153. “Người nào đă ca tụng về đức hạnh của Ta và đă cúng dường trầm hương, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4154. (Người này) sẽ là người cao quư, thẳng thắn, có sự huy hoàng, có ngôn từ được (người khác) thâu nhận, có hào quang trong hai mươi lăm kiếp.

4155. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong hai ngàn sáu trăm kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4156. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi ba lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4157. Mệnh chung từ nơi ấy, người này sẽ đi đến bản thể nhân loại, được gắn liền với nghiệp phước thiện, sẽ là thân quyến của Phạm Thiên.[6]

4158. (Sẽ có) người Bà-la-môn tên Bāvarī là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt ba tập Vệ-đà, hội đủ ba tướng mạo.

4159. Sau khi trở thành đệ tử của vị ấy, (người này) sẽ thông thạo về chú thuật và sẽ đi đến với đấng Toàn Giác Gotama, bậc cao quư ḍng Sakya.

4160. Người này sẽ hỏi các câu hỏi khôn khéo, sẽ tu tập Đạo Lộ, sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, và sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

4161. Ba loại lửa (tham sân si) của tôi đă được dập tắt, tất cả các hữu đă được xóa sạch, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4162. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4163. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4164. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Todeyya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Todeyya là phần thứ tám.

 

--ooOoo--

 

409. Kư Sự về Trưởng Lăo Jatukaṇṇi

4165. Khi ấy, tôi đă là người con trai của nhà triệu phú ở thành phố Hamsavatī. Tôi được cung ứng và được vây quanh bởi các loại dục lạc.

4166. Khi ấy, những người ghi dấu các căn nhà đă dựng lên ba ṭa nhà. Sau khi bước lên ṭa nhà, tôi được vây quanh bởi các điệu vũ và lời ca ở tại nơi ấy.

4167. Các loại nhạc cụ kết hợp với (âm thanh của) chũm chọe được biểu diễn cho tôi. Tất cả những người phụ nữ đang nhảy múa hoàn toàn thu hút tâm ư của tôi.

4168. Những vũ công về các điệu vũ velāpika, lāmaṇika, kuñjavāsī,timajjhika, những người nhào lộn, và những diễn viên hài luôn luôn vây quanh tôi.

4169. Có nhiều nhạc công, những người đánh trống, các diễn viên uốn dẻo, các vũ công, các diễn viên, và ngay cả các kịch sĩ luôn luôn vây quanh tôi.

4170. Các người thợ hớt tóc, các người hầu tắm, các người đầu bếp, các người làm tràng hoa, các người giữ trẻ, các người nhào lộn, các vơ sĩ đấu vật, tất cả bọn họ luôn luôn vây quanh tôi.

4171. Trong khi những người này đang đùa giỡn, luyện tập về kỹ xảo, tôi không biết đến ngày và đêm tợ như vị Chúa Trời Inda ở cơi trời Tam Thập.

4172. Những người lữ hành, những người đi đường, tất cả các hành khất, nhiều người bộ hành, trong lúc xin ăn bọn họ thường xuyên đi đến nhà của tôi.

4173. Các Sa-môn và luôn cả các Bà-la-môn là những Phước Điền vô thượng, trong lúc làm tăng trưởng phước báu của tôi, các vị đi đến nhà của tôi.

4174. Các hạng đạo sĩ che một mảnh vải, đạo sĩ che bằng dây leo, các du sĩ ngoại đạo, đạo sĩ có tấm choàng bằng bông hoa, đạo sĩ chống ba cây gậy, đạo sĩ có một cḥm tóc, tất cả đều đi đến nhà của tôi.

4175. Các vị đạo lơa thể, các kẻ cướp giật, các người hành pháp trâu ḅ, các người hành pháp chư Thiên, các người tu hạnh bôi trét bụi và bùn đất (ở cơ thể), những người này đi đến nhà của tôi.

4176. Nhiều vị đạo sĩ nhóm parivattaka, nhóm siddhipatta, nhóm koṇḍapuggaṇika, các đạo sĩ khổ hạnh, và các người tu ở rừng đi đến nhà của tôi.

4177. Những người Oḍḍaka, luôn cả các người Ta-min, các người Sākula, các người Malayālaka, các người Sabara, và cả các người Yonaka nữa đi đến nhà của tôi.

4178. Tất cả những người xứ sở Andhaka, xứ sở Muṇḍaka, xứ sở Kolaka, xứ sở Sānuvindaka, và xứ sở Trung Hoa xa xôi đi đến nhà của tôi.

4179. Các người xứ sở Alasandaka, xứ sở Pallavaka, xứ sở Babbara, xứ sở Bhagga, xứ sở Kārusa, xứ sở Rohita, và xứ sở Cetaputta đi đến nhà của tôi.

4180. Các người xứ sở Mādhuraka, xứ sở Kosalaka, xứ sở Kāsika, xứ sở Hatthiporika, xứ sở Isiṇḍa, luôn cả các người xứ sở Makkala đi đến nhà của tôi.

4181. Các người xứ sở Celāvaka, xứ sở Aramma, xứ sở Okkala, xứ sở Meghala, xứ sở Khuddaka, luôn cả xứ sở Suddaka đi đến nhà của tôi.

4182. Các người xứ sở Rohaṇa, xứ sở Sindhava, xứ sở Citaka, xứ sở Ekakaṇṇika, xứ sở Suraṭṭha, và xứ sở Aparanta đi đến nhà của tôi.

4183. Các người xứ sở Suppāraka, xứ sở Kikumāra, xứ sở Malaya, xứ sở Soṇṇabhūmika, xứ sở Vajjī, và xứ sở Tāra, tất cả bọn họ đi đến nhà của tôi.

4184. Những người làm ống thổi, những người thợ dệt, những người thợ thuộc da, những người thợ mộc, những người thợ rèn, và những người thợ làm đồ gốm đi đến nhà của tôi.

4185. Những người thợ làm ngọc, thợ làm kim khí, thợ kim hoàn, người buôn vải, và thợ làm ch́, tất cả đi đến nhà của tôi.

4186. Những người thợ làm tên, thợ tiện gỗ, thợ dệt, và những người làm hương liệu, những người thợ nhuộm, và những người thợ may đi đến nhà của tôi.

4187. Những người buôn dầu, những người vận chuyển gỗ, những người vận chuyển nước, những người đưa tin, những người đầu bếp, và những người bảo quản vật thực đi đến nhà của tôi.

4188. Những người gác cổng, những người hộ vệ, những người canh ngục, những người đổ bỏ rác bông hoa, các nài voi, các quản tượng đi đến nhà của tôi.

4189. Tôi đă dâng đến vị Đại Vương Ānanda là người bị xao lăng. Tôi làm đầy đủ sự thiếu hụt (của đức vua) bằng châu báu có bảy màu sắc.

4190. Những người đă được tôi đề cập đến là những nhóm người có màu da khác nhau. Sau khi biết được tâm của họ, tôi đă làm thỏa măn họ bằng châu báu.

4191. Trong khi họ đang nói những lời vui vẻ, trong khi những cái trống lớn được vỗ vang lên, trong khi họ đang thổi những chiếc tù và vỏ ốc, tôi sướng vui ở tại ngôi nhà của chính ḿnh.

4192. 4193. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, đấng Lănh Đạo Padumuttara, bậc Hữu Nhăn ấy, được tháp tùng bởi một trăm ngàn vị tỳ khưu là các bậc Lậu Tận có năng lực, đă ngự đến ở trên đường, trong lúc đang tỏa sáng tất cả các phương tợ như cây đèn chiếu sáng.

4194. Tất cả các chiếc trống lớn được vỗ lên trong khi bậc Lănh Đạo Thế Gian đang đi. Hào quang của Ngài tỏa ra tợ như ánh mặt trời đă mọc lên cao.

4195. Do ánh hào quang đă đi vào dầu chỉ bằng cánh cửa sổ, ở trong gian nhà ngay lập tức đă có ánh sáng vô cùng bao la.

4196. Sau khi nh́n thấy ánh hào quang của đức Phật, tôi đă nói với đám đông rằng: “Chắc chắn rằng đức Phật tối thượng đă đi đến con đường này.”

4197. Tôi đă cấp tốc bước xuống khỏi ṭa nhà và đă đi đến khu phố chợ. Tôi đă đảnh lễ bậc Toàn Giác và đă nói lời nói này:

4198. “Xin đức Phật đấng Lănh Đạo Padumuttara hăy thương tưởng đến con.” Bậc Hiền Trí ấy đă nhận lời cùng với một trăm ngàn vị có năng lực.

4199. Sau khi thỉnh mời, tôi đă hướng dẫn bậc Toàn Giác đi đến ngôi nhà của ḿnh. Tại nơi ấy, tôi đă làm toại ư bậc Đại Hiền Trí với cơm ăn và nước uống.

4200. Biết được thời điểm đă thọ thực xong của đức Phật tối thượng như thế ấy, tôi đă phục vụ đức Phật tối thượng bằng một trăm khúc tấu nhạc.

4201. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi xuống ở trong nhà và đă nói lên những lời kệ này:

4202. “Người nào đă phục vụ Ta bằng các khúc tấu nhạc và đă dâng cúng ta cơm ăn nước uống, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4203. Sau khi đă có dồi dào về lương thực, với vàng, với thức ăn, người nam này sẽ cho thực hiện bốn châu lục thành một vương quốc.

4204. (Người này) sẽ thọ tŕ năm giới cấm và sau đó là mười đường lối về (thiện) nghiệp. Sau khi thọ tŕ và trong lúc hành theo, người này sẽ chỉ dạy hội chúng.

4205. Một trăm ngàn nữ nhân được trang điểm sẽ thường xuyên tŕnh tấu nhạc cụ cho người này; điều này là quả báu của việc phục vụ.

4206. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc sáu mươi bốn lần.

4207. Và (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương sáu mươi bốn lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4208. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

4209. (Người này) sẽ sanh vào bản thể Thiên nhân hay loài người. Người này sẽ có của cải không bị thiếu hụt và sẽ đi đến bản thể loài người.

4210. Sau khi trở thành vị giảng huấn, thông suốt ba tập Vệ-đà, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng, (người này) sẽ đi đó đây ở trái đất này.

4211. Về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người này sẽ xuất gia và sẽ thỏa thích trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.

4212. Người này sẽ làm hài ḷng đấng Toàn Giác Gotama bậc cao quư ḍng Sakya, sẽ thiêu đốt các phiền năo, và sẽ trở thành vị A-la-hán.”

4213. Giờ đây, tôi sống trong Giáo Pháp của người con trai ḍng Sakya không bị hăi sợ, tợ như con cọp chúa ở trong rừng, như là con sư tử vua của loài thú.

4214. Tôi không nh́n thấy sự tái sanh của tôi ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, ở nơi nghèo khó hoặc ở vào khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.

4215. Tôi đă được gắn liền với sự độc cư, được an tịnh, không c̣n mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4216. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4217. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4218. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Jatukaṇṇi đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Jatukaṇṇi là phần thứ chín.

 

--ooOo--

 

410. Kư Sự về Trưởng Lăo Udena

4219. Ở không xa núi Hi-mă-lạp, có ngọn núi tên là Paduma, có khu ẩn cư của tôi đă khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đă khéo được tạo lập.

4220. Các con sông chảy qua nơi ấy có những bến nước cạn xinh xắn làm thích ư. Các con sông luôn luôn có nước trong, có nước mát, xinh đẹp.

4221. Có các loài cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita. Những loài cá này thường xuyên sống ở ḍng sông, đồng thời làm cho các con sông trở nên rực rỡ.

4222. (Các con sông) được che phủ bởi các cây xoài và cây mận. Tương tợ như thế, có các cây bông hường, cây tilaka, cây bả đậu, cây hoa kèn làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4223. Các cây aṅkolaka, cây bimbijāla, và cây māyākārī được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4224. Các cây atimutta, cây sattalika, cây nāga, và cây sālā được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4225. Các cây kosamba, cây salala, cây nīpa, và cây aṭṭhaṅga khéo được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4226. Ở khu ẩn cư có nhiều loại trái cây như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.

4227. Tại nơi ấy, ở khu ẩn cư của tôi các cây kalamba, cây kandalī trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4228. Các cây asokapiṇḍī, cây varī, và cây nimba được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4229. Các cây punnāga, cây giripunnāga, cây timira ở tại nơi ấy được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4230. Các cây nigguṇḍī, cây sirinigguṇḍī, cây campa ở tại nơi này được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4231. Không xa có cái hồ nước được líu lo bởi loài ngỗng đỏ, được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các bông sen xanh và các bông sen đỏ.

4232. Có bến nước cạn xinh xắn làm thích ư, có nước trong, có nước mát, trong vắt tương tợ ngọc pha-lê, (cái hồ nước) làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4233. Ở tại nơi ấy, có các bông sen xanh, các bông sen trắng, và các bông sen đỏ nở rộ. Được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, (cái hồ nước) làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4234. Có các loại cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, cá rohita. Và trong khi thơ thẩn ở tại nơi ấy, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4235. Có các con cá sấu kumbhīla, cá sấu suṃsumāra, các con rùa, các con gaha, các con rắn, và các con măng xà làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4236. Và ở tại nơi ấy có các loài sống ở sông như chim bồ câu, ngỗng trời, ngỗng đỏ, chim le le, chim sáo, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4237. Các cây nayita, cây ambagandhī, và cây dừa dại ở tại nơi ấy được trổ hoa, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4238. Có các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, và linh cẩu, trong khi đi lang thang ở khu rừng bao la chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4239. Có các vị (đạo sĩ) mang các búi tóc, có y choàng là tấm da dê, trong khi đi lang thang ở khu rừng bao la các vị làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4240. Các vị này mặc các tấm da dê, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, có hành trang ít ỏi, tất cả các vị ấy làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4241. Lúc bấy giờ, các vị đă cầm lấy túi vật dụng rồi đi sâu vào rừng. Trong khi thọ thực các rễ và trái cây, các vị thường xuyên sống ở khu ẩn cư.

4242. Các vị ấy không đem lại củi (và) nước rửa chân. Do năng lực của tất cả các vị (các vật dụng) được tự chúng mang lại.

4243. Có tám mươi bốn ngàn vị ẩn sĩ đă tụ hội ở tại nơi này. Tất cả các vị này là các vị tầm cầu mục đích tối thượng, có thiền chứng.

4244. Là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự hành tŕ Phạm hạnh, đang năng nổ trong việc duy tŕ sự nhập định, có sự di chuyển ở không trung, tất cả các vị thường xuyên sống ở khu ẩn cư.

4245. Mỗi năm ngày, các vị tụ hội lại, có sự chăm chú, có hành vi thanh tịnh. Sau khi đảnh lễ lẫn nhau, các vị ra đi bằng hướng đối nghịch.

4246. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Trong khi hủy diệt điều tăm tối ấy, đấng Chiến Thắng đă tức thời hiện khởi.

4247. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi có con Dạ-xoa có đại thần lực. Khi ấy, nó đă thông báo cho tôi về đấng Toàn Giác bậc Lănh Đạo Padumuttara rằng:

4248. “Thưa ngài, đức Phật bậc Đại Hiền Trí Padumuttara này đă xuất hiện. Ngài hăy mau đi đến và phục vụ bậc Toàn Giác.”

4249. Sau khi lắng nghe lời nói của con Dạ-xoa, khi ấy với tâm ư trong sạch, tôi đă xếp đặt lại khu ẩn cư và đă ĺa khỏi khu rừng.

4250. Như là mảnh vải đang bốc cháy, sau khi ĺa khỏi khu ẩn cư tôi đă trú ngụ (chỉ) một đêm và đă đi đến gặp đấng Hướng Đạo.

4251. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi công bố về bốn Sự Thật đă thuyết giảng về vị thế Bất Tử.

4252. Sau khi cầm lấy đóa sen khéo được nở rộ, tôi đă đi đến gần bậc Đại Ẩn Sĩ. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă dâng lên đức Phật.

4253. Sau khi cúng dường bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo Padumuttara, tôi đă khoác tấm da dê một bên vai rồi đă ngợi ca đấng Lănh Đạo Thế Gian rằng:

4254. “Đấng Toàn Giác bậc không c̣n lậu hoặc sống ở thế gian này với trí tuệ nào, tôi sẽ tán dương trí tuệ ấy. Xin các người hăy lắng nghe tôi nói.

4255. Sau khi cắt đứt ḍng chảy luân hồi, Ngài đă giúp cho tất cả chúng sanh vượt qua. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, họ vượt qua ḍng chảy ái dục.

4256. Bạch đấng Tối Thượng của loài người, Ngài là bậc thầy, là biểu hiệu, là ngọn cờ, là mục đích tối cao, là nơi nương tựa, là sự nâng đỡ, là ngọn đèn của chúng sanh.

4257. Bạch đấng Toàn Tri, cho đến những người được gọi là các bậc Xa Phu có đồ chúng ở trên thế gian, Ngài là đấng Cao Cả, tất cả những người ấy đều được gộp chung lại ở Ngài.

4258. Bạch đấng Toàn Tri, bằng trí tuệ của Ngài, Ngài đă giúp cho nhiều người vượt qua. Sau khi đi đến diện kiến Ngài, họ sẽ được chấm dứt khổ đau.

4259. Bạch đấng Hữu Nhăn, bạch đấng Đại Hiền Trí, những hương thơm nào đă được sanh lên và tỏa ra ở thế gian, không có ǵ sánh bằng hương thơm ở Phước Điền của Ngài.

4260. Bạch đấng Hữu Nhăn, Ngài giúp cho thoát khỏi sự sanh vào loài thú, địa ngục. Bạch đấng Đại Hiền Trí, Ngài giảng giải về Đạo Lộ an tịnh, không c̣n tạo tác.”

4261. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đă nói lên những lời kệ này:

4262. “Người nào được tịnh tín đă tự tay ḿnh cúng dường trí tuệ của Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4263. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.”

4264. Tôi đă nhận lănh điều lợi ích đă được đạt thành một cách tốt đẹp. Sau khi làm hài ḷng bậc có sự hành tŕ tốt đẹp, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4265. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4266. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4267. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Udena đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Udena là phần thứ mười.

 

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị trưởng lăo Metteyya, vị Puṇṇaka, vị Mettagū, luôn cả vị Dhotaka, vị Upasīva, vị Nanda, và vị Hemaka là vị thứ bảy ở nơi ấy, vị Todeyya, vị Jatukaṇṇī, và vị Udeno có danh vọng lớn lao. Ở đây là ba trăm câu kệ và thêm vào tám mươi ba câu.

Phẩm Metteyya là phẩm thứ bốn mươi mốt.

 

--ooOoo--

 

XLII. PHẨM BHADDĀLI

411. Kư Sự về Trưởng Lăo Bhaddāli

4268. Bậc Toàn Giác tên Sumedha, đấng Bi Mẫn cao cả, vị Hiền Trí, bậc Cao Cả của thế gian có ước muốn độc cư nên đă đi đến núi Hi-mă-lạp.

4269. Sau khi đi sâu vào núi Hi-mă-lạp, đấng Lănh Đạo Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Sumedha đă xếp chân kiết già rồi ngồi xuống.

4270. Đấng Lănh Đạo Thế Gian Sumedha ấy đă thể nhập vào định. Đức Phật bậc Tối Thượng Nhân đă ngồi bảy ngày đêm.

4271. Tôi đă cầm lấy túi vật dụng rồi đă đi sâu vào khu rừng. Tại nơi ấy, tôi đă nh́n thấy đấng Toàn Giác, bậc đă vượt qua ḍng nước lũ, không c̣n lậu hoặc.

4272. Khi ấy, tôi đă cầm lấy cây chổi và đă quét khu ẩn cư. Sau khi dựng lên bốn cây cọc, tôi đă tạo nên cái mái che.

4273. Sau khi mang lại bông hoa sālā, tôi đă che phủ mái che. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đảnh lễ đức Như Lai.

4274. Người ta nói về bậc thông thái có trí tuệ bao la là “Sumedha.” Ngài đă ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đă nói lên những lời kệ này.

4275. Nhận biết lời nói của đức Phật, tất cả chư Thiên đă tụ hội lại. Quả nhiên, đức Phật tối thượng bậc Hữu Nhăn (đă) thuyết giảng Giáo Pháp.

4276. Đấng Toàn Giác tên Sumedha, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă ngồi xuống ở hội chúng chư Thiên và đă nói lên những lời kệ này:

4277. “Người nào đă duy tŕ mái che được che phủ bằng bông hoa sālā cho Ta suốt bảy ngày, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4278. Dầu trở thành vị Thiên nhân hay nhân loại, (người này) sẽ có làn da màu vàng chói, sẽ có của cải dồi dào, sẽ có sự thọ hưởng các dục lạc.

4279. Sáu mươi ngàn con voi loài long tượng được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có chuông vàng, có trang phục yên cương bằng vàng.

4280. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các bàn tay cầm giáo và móc câu, chúng sẽ đi đến phục vụ người nam này sáng chiều. Được hộ tống bởi những con long tượng ấy, người nam này sẽ vui sướng.

4281. Sáu mươi ngàn con ngựa ḍng Sindhu với sự sanh ra được thuần chủng, là phương tiện vận chuyển nhanh chóng, được trang hoàng với tất cả các loại trang sức.

4282. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có mang cung với gươm, chúng sẽ thường xuyên hộ tống tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4283. Sáu mươi ngàn cỗ xe được trang hoàng với tất cả các loại trang sức, có các mảnh da báo và cả da hổ được bày biện, có các ngọn cờ được giương cao.

4284. Được cỡi bởi các vị trưởng làng có các tay cầm cung mang áo giáp, chúng sẽ thường xuyên hộ tống tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4285. Sẽ luôn luôn hiện hữu sáu mươi ngàn ngôi làng có đầy đủ tất cả, có tài sản và lúa gạo dồi dào, được thành công tốt đẹp về mọi mặt; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4286. Các con voi, các con ngựa, các cỗ xe, các binh lính và quân đội gồm bốn binh chủng sẽ thường xuyên hộ tống người này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4287. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn tám trăm kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4288. Và (người này) sẽ cai quản Thiên quốc ba trăm lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4289. Vào ba mươi ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

4290. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không c̣n lậu hoặc.

4291. Tôi đă nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian cách đây ba mươi ngàn kiếp, trong khoảng thời gian này tôi đă tầm cầu vị thế Bất Tử.

4292. Điều lợi ích cho tôi đă được tôi đạt thành một cách tốt đẹp là tôi đă hiểu được Giáo Pháp, tam minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.

4293. Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Sau khi tán dương trí tuệ của Ngài, con đă đạt được vị thế Bất Động.

4294. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi đều được sung sướng ở tất cả các nơi, là quả báu của tôi về việc tán dương trí tuệ.

4295. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4296. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4297. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4298. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Bhaddāli đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Bhaddāli là phần thứ nhất.

 

--ooOoo--

 

412. Kư Sự về Trưởng Lăo Ekachattiya

4299. Ở bờ sông Candabhāgā có khu ẩn cư của tôi đă khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá được rải cát vô cùng tinh khiết đă khéo được tạo lập.

4300. Con sông nhỏ có bờ nước lúp xúp, có băi nước cạn xinh xắn làm thích ư, có đủ các loài cá và rùa, được loài cá sấu lai văng.

4301. Có các con gấu, công, báo, chim cu rừng, và chim sáo. Chúng hót líu lo vào mọi lúc, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4302. Có các chim cu cu có âm giọng lôi cuốn và các con thiên nga có âm điệu ngọt ngào. Chúng hót líu lo tại nơi ấy, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4303. Có các con sư tử, cọp, heo rừng, chó sói, chó rừng, và linh cẩu. Chúng gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4304. Có các con linh dương, nai, chó rừng, lợn rừng. Nhiều con gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4305. Có các loại cây uddālaka, cây campaka, cây pāṭalī, cây sindu-vāraka, cây atimutta, và cây asoka nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4306. Có các loại cây aṅkola, cây yūthika, luôn cả cây sattalī, cây bimbijālika, cây kaṇṇika, và cây kaṇikāra nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4307. Có các loại cây nāga, cây sālā, cây saḷala, cây sen trắng được trổ hoa ở nơi đây. Trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4308. Có các loại cây ajjuna, cây asana, và cây mahānāma được trổ hoa ở nơi đây, có các cây sālā và các bông hoa của cây kê làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4309. Có các cây xoài, cây mận đỏ, cây tilaka, cây nimba, và cây sālakalyāṇī, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4310. Có các loại cây asoka, cây kapittha, và cây bhaginimāla được trổ hoa ở nơi đây, trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4311. Các loại cây kadamba, luôn cả các cây chuối, và cây isimugga đă được gieo trồng, chúng thường xuyên trĩu nặng những trái làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4312. Có những loại cây có trái như cây harītaka, cây āmalaka, cây xoài, cây mận đỏ, cây vibhītaka, cây táo, cây bhallātaka, và cây billa ở khu ẩn cư của tôi.

4313. Không xa có cái hồ nước khéo được thiết lập làm thích ư, được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các bông sen đỏ và các bông sen xanh.

4314. Có những đóa sen đỏ đang tượng h́nh, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, luôn cả các đóa có các cánh hoa rủ xuống, chúng nở hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4315. Có các loại cá như là cá pāṭhīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, cá rohita. Trong khi thơ thẩn ở làn nước trong, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4316. Có mùi thơm của xoài được thoảng qua và có các cây dứa dại ở dọc bờ sông. Trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4317. Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen. Trong khi tỏa ra hương thơm của cơi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4318. Ở nơi ấy có cát sáng chói được trải ra và được ve văn bởi làn nước với các bông hoa tàn đă được nở rộ giờ yên nghỉ, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4319. Các vị (đạo sĩ) mang búi tóc rối, có y choàng là tấm da dê, tất cả đều mặc y phục bằng vỏ cây, họ làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4320. Và (các vị ấy) nh́n với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, không mong mỏi về sự thọ hưởng các dục lạc, sống ở khu ẩn cư của tôi.

4321. Tất cả các vị có (lông) nách, móng tay chân, và các lông được mọc dài, có răng bẩn, có đầu lấm bụi, mang bụi dơ (ở thân), sống ở khu ẩn cư của tôi.

4322. Và các vị ấy đă đạt đến sự toàn hảo về các thắng trí, có sự di chuyển ở không trung. Trong khi bay lên bầu trời, các vị này làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4323. Khi ấy, được tùy tùng bởi những người học tṛ ấy, tôi sống ở khu rừng. Luôn luôn thể nhập vào thiền, tôi không biết đến ngày và đêm.

4324. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, bậc Đại Hiền Trí, đấng Lănh Đạo Thế Gian Atthadassī, trong khi xua đi điều tăm tối ấy đă hiện khởi.

4325. Rối có người học tṛ nọ đă đi đến gặp tôi. Người ấy có ư định học về các chú thuật và sáu phần về danh hiệu và tướng số (và đă nói rằng):

4326. “Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Atthadassī đă xuất hiện ở thế gian. Trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.”

4327. Được hớn hở vui mừng hoan hỷ, có khuynh hướng đi đến với Giáo Pháp, tôi đă rời khỏi khu ẩn cư và đă nói lời nói này:

4328. “Đức Phật có ba mươi hai hảo tướng đă xuất hiện ở thế gian. Các người hăy đi đến, tất cả chúng ta sẽ đi gặp đấng Chánh Đẳng Giác.

4329. Là những người tầm cầu mục đích tối thượng, có sự đáp ứng theo lời giáo huấn, đă hướng đến sự toàn hảo trong Chánh Pháp, các vị ấy đă đồng ư rằng: “Lành thay!

4330. Khi ấy, trong lúc tầm cầu mục đích tối thượng, các vị (đạo sĩ) mang các búi tóc ấy, có y choàng là tấm da dê, đă rời khỏi khu rừng.

4331. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn Atthadassī vị có danh tiếng lớn lao trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.

4332. Tôi đă cầm lấy chiếc lọng màu trắng và đă che cho đức Phật tối thượng. Sau khi nắm giữ (chiếc lọng) trong một ngày, tôi đă đảnh lễ đức Phật tối thượng.

4333. Kế đó, đức Thế Tôn, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu Atthadassī đă ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đă nói lên những lời kệ này:

4334. “Người nào được tịnh tín nắm giữ chiếc lọng (che) cho Ta bằng các bàn tay của ḿnh, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4335. Khi người này được sanh lên, ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, sẽ có chiếc lọng luôn luôn che cho người này; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.

4336. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong bảy mươi bảy kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4337. Và sẽ trở thành vị Thiên Vương bảy mươi bảy lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4338. Vào một ngàn tám trăm kiếp, bậc Hữu Nhăn Gotama, đấng cao quư ḍng Sakya, trong khi xua đi điều tăm tối ấy, sẽ hiện khởi.

4339. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không c̣n lậu hoặc.”

4340. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm là đă nắm giữ chiếc lọng (che) cho đức Phật, trong khoảng thời gian này, tôi không biết đến việc không được che bởi chiếc lọng trắng

4341. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Việc nắm giữ chiếc lọng được vận hành liên tục đến tận ngày hôm nay.

4342. Ôi, việc làm đă được tôi khéo thực hiện đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy. Tôi đă được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

4343. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4344. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4345. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ekachattiya[7] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ekachattiya là phần thứ nh́.

 

--ooOoo--

 

413. Kư Sự về Trưởng Lăo Tiṇasūlakachadaniya

4346. Lúc bấy giờ, tôi đă suy xét về sự sanh, sự già, và sự chết. Sau khi ĺa khỏi sự sống chung, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

4347. Trong khi tuần tự du hành, tôi đă đi đến bờ sông Gaṅgā. Ở tại nơi ấy, tôi đă nh́n thấy khoảnh đất nổi cao lên ở bờ sông Gaṅgā.

4348. Sau khi tạo lập khu ẩn cư ở tại nơi ấy, tôi sống ở khu ẩn cư. Đường kinh hành của tôi đă khéo được thực hiện, được lai văng bởi các bầy chim khác loại.

4349. Chúng đến gần tôi, và trở nên quen thuộc. Và chúng hót líu lo một cách quyến rũ. Trong khi đùa vui với chúng, tôi sống ở khu ẩn cư.

4350. Ở lân cận khu ẩn cư của tôi, có con sư tử (vua của loài thú) đi khắp bốn phương. Sau khi rời khỏi chỗ trú ẩn, nó đă gầm lên như là tiếng sấm.

4351. Và khi con nai chúa gào thét, nụ cười đă xuất hiện ở tôi. Trong lúc t́m kiếm con nai chúa, tôi đă nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian.

4352. Sau khi nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian Tissa, vị Trời của chư Thiên, tôi đă trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đă cúng dường nhụy bông hoa nāga.

4353. Tôi đă ca tụng đấng Lănh Đạo Thế Gian như là mặt trời đang mọc lên, như là cây sālā chúa đă được trổ hoa, như là v́ sao osadhī đang chiếu sáng.

4354. “Bạch đấng Toàn Tri, Ngài đă giải thoát thế gian này luôn cả chư Thiên bằng trí tuệ của Ngài. Sau khi làm cho Ngài hài ḷng, (chúng sanh) được hoàn toàn giải thoát khỏi sự sanh.

4355. Bạch đấng Toàn Tri, do sự không nh́n thấy chư Phật là các vị có sự nh́n thấy tất cả, (chúng sanh) bị xâm chiếm bởi ái dục sân hận (rồi) rơi vào địa ngục Vô Gián.

4356. Bạch đấng Toàn Tri, bạch đấng Lănh Đạo Thế Gian, sau khi đi đến diện kiến Ngài, tất cả được giải thoát khỏi hữu (và) chạm đến Đạo Lộ Bất Tử.

4357. Khi chư Phật, các bậc Hữu Nhăn, các đấng Phát Quang xuất hiện, sau khi thiêu đốt các phiền năo các Ngài thị hiện ánh sáng.”

4358. Sau khi tán dương đấng Toàn Giác Tissa, bậc Lănh Đạo cao cả của thế gian, tôi đă trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đă cúng dường hoa tiṇasūla.

4359. Sau khi biết được ư định của tôi, đấng Lănh Đạo Thế Gian Tissa đă ngồi xuống chỗ ngồi của ḿnh rồi đă nói lên những lời kệ này:

4360. “Người nào được tịnh tín tự tay ḿnh che phủ Ta bằng các bông hoa, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

4361. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc hai mươi lăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.

4362. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Và (đó là) kết quả về hành động của người ấy do sự cúng dường các bông hoa.

4363. Và người nam này, được gắn liền với nghiệp phước thiện, khi đă gội đầu xong nếu ao ước về bông hoa, (bông hoa) sẽ hiện ra ở phía trước.

4364. (Nếu người này) ước muốn bất cứ điều ǵ với các dục, chính điều ấy sẽ hiện ra. Sau khi làm tṛn đủ ư định, (người này) sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

( Tụng phẩm thứ mười tám).

4365. Có sự nhận biết ḿnh, có niệm (đầy đủ), tôi đă thiêu đốt các phiền năo. Tôi đă ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy và đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

4366. Trong khi đi kinh hành, trong khi nằm, trong khi ngồi, hay trong khi đứng, tôi sống thường xuyên tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.

4367. Ở tại nơi ấy, tôi không có sự thiếu hụt về y phục, vật thực, thuốc men, và chỗ nằm ngồi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4368. Bây giờ, tôi đây đă đạt đến vị thế Bất Tử, thanh tịnh, vô thượng. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4369. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4370. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4371. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4372. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Tiṇasūlakachadaniya[8] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Tiṇasulakachadaniya là phần thứ ba.

 

--ooOoo--

 

414. Kư Sự về Trưởng Lăo Madhumaṃsadāyaka

4373. Tôi đă là người bán thịt heo ở thành phố Bandhumatī. Sau khi nấu chín phổi và ḷng, tôi trộn chung vào món thịt ngọt.

4374. Tôi đă đi đến nơi tụ hội (của các vị tỳ khưu) và đă nhận lấy một b́nh bát. Sau khi chứa đầy b́nh bát ấy, tôi đă dâng lên hội chúng tỳ khưu.

4375. Khi ấy, vị tỳ khưu trưởng lăo lớn nhất tại nơi ấy đă chúc phúc cho tôi rằng: “Với sự đầy đặn của b́nh bát này, mong rằng con sẽ đạt được sự an lạc sung măn.

4376. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, con sẽ thọ hưởng hai sự thành tựu (trời người), trong khi kiếp cuối cùng đang hiện hữu con sẽ thiêu đốt các phiền năo.

4377. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi. Tại nơi ấy, tôi có thức ăn, tôi có nước uống, và tôi đạt được sự an lạc sung măn.

4378. Khi ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi đă nhớ lại việc làm trước đây. Ngay lập tức có trận mưa về cơm ăn và nước uống đổ mưa xuống cho tôi.

4379. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Ngay cả ở đây, cơm ăn và nước uống đổ mưa xuống cho tôi trong mọi thời điểm.

4380. Do chính sự dâng cúng thịt ấy, sau khi trải qua các kiếp sống, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4381. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng thịt ngọt.

4382. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4383. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4384. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

 Đại đức trưởng lăo Madhumaṃsadāyaka[9] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Madhumaṃsadāyaka là phần thứ tư.

 

--ooOoo--

 

415. Kư Sự về Trưởng Lăo Nāgapallavaka

4385. Tôi (đă) sống ở vườn thượng uyển của thành phố Bandhumatī. Đấng Lănh Đạo Thế Gian đă ngồi xuống ở gần nơi khu ẩn cư của tôi.

4386. Tôi đă cầm lấy chồi non của cây nāga và đă dâng lên đức Phật. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đảnh lễ đấng Thiện Thệ.

4387. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường chồi non trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4388. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4389. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4390. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Nāgapallavaka[10] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Nāgapallavaka là phần thứ năm.

 

--ooOoo--

 

416. Kư Sự về Trưởng Lăo Ekadīpiya

4391. Khi bậc Thiện Thệ, đấng Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha viên tịch Niết Bàn, tất cả chư Thiên cùng nhân loại đă cúng dường đến bậc Tối Thượng Nhân.

4392. Và khi đấng Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha được đưa lên giàn hỏa thiêu, mọi người cúng dường lễ hỏa táng của bậc Đạo Sư tùy theo năng lực của ḿnh.

4393. Tôi đă thắp lên ngọn đèn ở không xa giàn hỏa thiêu cho đến khi mặt trời mọc lên. Ngọn đèn đă chiếu sáng đến tôi.

4394. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

4395. Tại nơi ấy, có cung điện đă khéo được kiến tạo dành cho tôi được biết tên là “Ekadīpi.” Có một trăm ngàn ngọn đèn đă cháy sáng ở cung điện của tôi.

4396. Thân h́nh của tôi luôn luôn chiếu sáng tợ như mặt trời đang mọc lên. Với tất cả các hào quang của cơ thể, tôi luôn luôn có được ánh sáng.

4397. Bằng mắt, sau khi đă vượt lên ngọn núi, xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, tôi (có thể) nh́n thấy xung quanh một trăm do-tuần.

4398. Tôi đă sướng vui ở thế giới chư Thiên bảy mươi bảy lần. Và tôi đă cai quản Thiên quốc ba mươi mốt lần.

4399. Và tôi đă trở thành đấng Chuyển Luân Vương hai mươi tám lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4400. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, tôi đă tái sanh vào bụng mẹ. Ngay cả khi đi vào bụng mẹ, mắt của tôi không nhắm lại.

4401. Bốn tuổi tính từ khi sanh, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Chưa đầy nửa tháng, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

4402. Tôi đă làm cho Thiên nhăn được thanh tịnh, tất cả các hữu đă được xóa sạch, tất cả phiền năo đă được cắt ĺa; điều này là quả báu của một ngọn đèn.

4403. Tôi (có thể) nh́n thấy sau khi đă vượt lên thậm chí toàn bộ ngọn núi, xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá; điều này là quả báu của một ngọn đèn.

4404. Đối với tôi các sự gập ghềnh trở thành bằng phẳng, bóng đen không được biết đến, tôi không nh́n thấy sự tăm tối; điều này là quả báu của một ngọn đèn.

4405. Kể từ khi tôi đă dâng cúng cây đèn trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một ngọn đèn.

4406. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4407. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4408. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ekadīpiya[11] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ekadīpiya là phần thứ sáu.

 

--ooOoo--

 

417. Kư Sự về Trưởng Lăo Ucchaṅgapupphiya

4409. Tôi đă là người làm tràng hoa ở thành phố Bandhumatī. Sau khi chất đầy ở bên hông, tôi đă đi đến khu phố chợ.

4410. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đấng Lănh Đạo Thế Gian, với năng lực lớn lao, dẫn đầu hội chúng tỳ khưu đi ra.

4411. Sau khi nh́n thấy đấng Quang Đăng của thế gian Vipassī, vị giúp cho thế gian vượt qua, tôi đă lấy ra bông hoa từ bên hông và đă cúng dường đến đức Phật tối thượng.

4412. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

4413. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4414. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4415. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ucchaṅgapupphiya[12] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ucchaṅgapupphiya là phần thứ bảy.

 

--ooOo--

 

418. Kư Sự về Trưởng Lăo Yāgudāyaka

 

4416. Lúc bấy giờ, sau khi tiếp đăi người khách của tôi, tôi đă đi đến ngôi làng nhỏ. Sau khi nh́n thấy con sông bị tràn ngập, tôi đă đi đến tu viện của hội chúng.

4417. Là những vị chuyên sống ở rừng, thông thạo pháp giũ bỏ (đầu đà), chứng thiền, mặc y thô, thỏa thích sự độc cư, các vị trí tuệ ấy sống ở tu viện của hội chúng.

4418. Sự đi lại của các vị đă được giải thoát tốt đẹp như thế ấy là bị gián đoạn. Các vị ấy không đi để khất thực chính v́ ḍng sông ngăn trở.

4419. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đă chắp tay lên. Tôi đă lấy gạo của tôi rồi đă dâng cúng vật thí là cháo.

4420. Được tịnh tín, tôi đă tự tay ḿnh dâng cúng cháo đến năm vị. Được hài ḷng với việc làm của chính ḿnh, tôi đă đi đến cơi Đạo Lợi.

4421. Và có cung điện làm bằng ngọc ma-ni dành cho tôi được tạo ra ở hội chúng Tam Thập. Được gần gũi với đám nữ nhân, tôi vui thích ở cung điện tuyệt vời.

4422. Tôi đă là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi ba lần. Tôi đă là đấng Chuyển Luân Vương cai quản lănh thổ rộng lớn ba mươi lần.

4423. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người, tôi đều thọ hưởng danh vọng.

4424. Khi đạt đến cuộc sống cuối cùng, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Khi tóc được cạo bỏ, tôi đă thấu triệt tất cả.

4425. Trong khi biết chắc rằng thân thể là sự suy tàn hoặc là sự hoại diệt cũng thế, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán trước việc thọ tŕ điều học.

4426. Sự bố thí cao quư của tôi đă được bố thí tốt đẹp, việc đổi trao đă được gắn liền tốt đẹp. Do chính việc dâng cúng cháo ấy, tôi đă đạt đến vị thế Bất Động.

4427. Tôi không biết đến sự sầu muộn, sự than văn, sự bệnh tật, sự lo lắng, sự bực bội của tâm đă được sanh khởi; điều này là quả báu của việc dâng cúng cháo.

4428. Sau khi dâng cúng cháo ở Phước Điền vô thượng của hội chúng, tôi thọ hưởng năm điều lợi ích. Ôi tính chất đă được hiến dâng tốt đẹp của món cháo!

4429. Sự không bị bệnh, có sắc đẹp, chuyên chú vào Giáo Pháp, đạt được cơm nước, tuổi thọ là điều (lợi ích) thứ năm đối với tôi.

4430. Bất cứ người nào trong khi sanh khởi niềm phấn khởi, người ấy nên dâng cúng cháo đến hội chúng. Là bậc trí tuệ, (người ấy) có thể nhận lănh năm điều này.[13]

4431. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cháo.

4432. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4433. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4434. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Yāgudāyaka[14] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Yāgudāyaka là phần thứ tám.

 

--ooOo--

 

419. Kư Sự về Trưởng Lăo Patthodanadāyaka

4435. Trước đây, tôi đă là người đi rừng, thường xuyên làm việc ở trong rừng. Sau khi cầm lấy gói cơm, tôi đă đi làm công việc.

4436. Ở nơi ấy, tôi đă nh́n thấy bậc Toàn Giác, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại. Sau khi nh́n thấy Ngài đang từ rừng đi ra để khất thực, tôi đă làm cho tâm được tịnh tín.

4437. Bị vướng bận trong sự quán xuyến công việc của người khác, và phước báu của tôi là không được biết đến. Có gói cơm này, tôi sẽ chăm lo bữa ăn cho bậc Hiền Trí.

4438. Khi ấy, tôi đă cầm lấy gói cơm và đă dâng cúng đến đấng Tự Chủ. Trong khi tôi đang suy tư, bậc Hiền Trí đă thọ dụng (gói cơm).

4439. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

4440. Tôi đă là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi sáu lần. Tôi đă là đấng Chuyển Luân Vương ba mươi ba lần.

4441. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi được sung sướng có danh vọng; điều này là quả báu của gói cơm.

4442. Trong khi luân hồi ở cơi này cơi khác, tôi đạt được tài sản không ước lượng được, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của gói cơm.

4443. Các của cải được sanh lên cho tôi tương đương với ḍng nước của con sông, tôi không thể nào đo lường; điều này là quả báu của gói cơm.

4444. “Ngươi hăy nhai món này, hăy ăn món này, hăy nằm ở chiếc giường này,” v́ thế tôi được sung sướng; điều này là quả báu của gói cơm.

4445. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của gói cơm.

4446. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4447. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4448. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Patthodanadāyaka[15] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Patthodanadāyaka là phần thứ chín.

 

--ooOoo--

 

420. Kư Sự về Trưởng Lăo Mañcadāyaka

4449. Khi đấng Bi Mẫn, bậc Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha đă viên tịch Niết Bàn, khi Phật Ngôn đă được phổ biến, được tôn kính bởi chư Thiên cùng nhân loại.

4450. Tại nơi ấy, tôi đă là người giai cấp hạ tiện, là người làm ghế dài và ghế đẩu. Tôi sinh sống bằng công việc ấy. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.

4451. Được tịnh tín, tôi đă tự tay ḿnh làm xong chiếc ghế dài khéo được hoàn tất. Rồi tôi đă đích thân đi đến và đă dâng cúng đến hội chúng tỳ khưu

4452. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.

4453. Được đi đến thế giới của chư Thiên, tôi vui thích ở cơi trời Tam Thập. Các giường nằm có giá trị lớn lao được sanh lên theo như ước muốn.

4454. Tôi đă là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần. Tôi đă là đấng Chuyển Luân Vương tám mươi lần.

4455. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi được sung sướng có danh vọng; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.

4456. Sau khi mệnh chung từ thế giới chư Thiên, nếu tôi đi đến cơi nhân loại, các chiếc giường xinh đẹp vô cùng giá trị tự chính chúng hiện ra cho tôi.

4457. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Thậm chí hôm nay cũng là thời điểm của chiếc giường, có chiếc giường hiện diện.

4458. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc giường.

4459. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

4460. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4461. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Mañcadāyaka[16] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Mañcadāyaka là phần thứ mười.

 

--ooOo--

 

Phần Tóm Lược

Vị Bhaddāli, vị (dâng) một chiếc lọng, vị Tiṇasūla, vị dâng cúng thịt, vị (dâng) chồi non cây nāga, vị có ngọn đèn, vị có (bông hoa) ở bên hông, vị dâng cúng cháo, vị có gói cơm, vị dâng cúng chiếc giường. Và các câu kệ được tính đếm ở đây là hai trăm câu kệ và một câu kệ được thêm vào đó.

Phẩm Bhaddāli là phẩm thứ bốn mươi hai.

 

--ooOoo--


 

[1] Puṇṇaka nghĩa là “người đă làm đầy đủ.”

[2] Tên của một vị đạo sư Bà-la-môn (ND).

[3] Lúc này là lời đối thoại với đức Phật Gotama (ND).

[4] Mettagū nghĩa là “người đă đạt đến () tâm từ ái (mettā).”

[5] Dhotaka nghĩa là “người đă được gội rửa (dhota).”

[6] Người Bà-la-môn (brāhmaṇa) tự hào là thân quyến của Phạm Thiên (brahmā).

[7] Ekachattiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) chiếc lọng (chatta).”

[8] Tiṇasūlakachadaniya nghĩa là “vị liên quan đến việc che phủ (chadanaṃ) bằng các bông hoa tiṇasūla.”

[9] Madhumaṃsadāyaka nghĩa là ‘vị dâng cúng (dāyaka) thịt (maṃsa) ngọt (madhu).’

[10] Nāgapallavaka nghĩa là “vị liên quan đến chồi non (pallava) của cây nāga.”

[11] Ekadīpiya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) cây đèn (dīpa).”

[12] Ucchaṅgapupphiya nghĩa là “vị mang bông hoa (puppha) ở hông (ucchaṅga).”

[13] Ở các Tạng Miến, Thái, Anh có thêm 2 câu kệ (4 ḍng). Không thêm vào v́ ư nghĩa không có ǵ đặc biệt.

[14] Yāgudāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cháo (yāgu).”

[15] Patthodanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) gói (pattha) cơm (odana).”

[16] Mañcadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (mañca).”

 

   

| 00b | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 |

<Mục Lục><Đầu Trang>