TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 40
APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KƯ SỰ
Tập Hai
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
6025. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6026. Vào lúc bấy giờ, tôi là con trai nhà triệu phú có đại tài sản ở tại Haṃsavatī. Trong khi đi bộ lang thang, tôi đă đi đến tu viện của Hội Chúng.
6027. Khi ấy, bậc Quang Đăng của thế gian, đấng Lănh Đạo ấy đang thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài đă tán dương vị Thinh Văn ưu tú trong số các vị có giọng nói ngọt ngào.
6028. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ và đă thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Tôi đă đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư và đă phát nguyện vị thế ấy.
6029. Khi ấy, đức Phật, đấng Hướng Đạo đă chú nguyện ở giữa hội chúng rằng: “Trong thời vị lai xa xăm người này sẽ đạt được điều ước nguyện ấy.
6030. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên là Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6031. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Bhaddiya.”
6032. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6033. Trước đây chín mươi hai kiếp, bậc Lănh Đạo Phussa, vị khó tiếp cận, khó chinh phục, đấng Chiến Thắng tối thượng của tất cả thế gian đă hiện khởi.
6034. Là vị hội đủ tánh hạnh, cao thượng, ngay thẳng, có sự huy hoàng, là người tầm cầu sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, Ngài đă giải thoát cho nhiều người khỏi sự trói buộc.
6035. Tôi đă là con chim cu cu cườm ở khu rừng Nandārāma. Tôi sống ở cành cây xoài gần hương thất của Ngài.
6036. Khi ấy, sau khi nh́n thấy đấng Chiến Thắng tối thượng, bậc xứng đáng cúng dường, đang đi khất thực, tôi đă làm cho tâm được tịnh tín và đă hót lên với tiếng hót ngọt ngào.
6037. Khi ấy, tôi đă đi đến khu vườn của đức vua và đă gắp lấy chùm xoài chín muồi có màu da vàng chói rồi đă dâng đến bậc Toàn Giác.
6038. Khi ấy, biết được tâm của tôi, bậc Đại Bi Mẫn, đấng Chiến Thắng, bậc Lănh Đạo đă nhận lấy b́nh bát từ tay của vị thị giả.
6039. 6040. Với tâm hớn hở, tôi đă dâng cúng chùm xoài đến bậc Đại Hiền Trí. Sau khi đặt vào b́nh bát, tôi đă chắp hai cánh lại đồng thời hót lên với tiếng hót ngọt ngào, quyến rũ, êm tai, vui vẻ nhằm mục đích cúng dường đức Phật. Rồi tôi đă bay về tổ và nằm xuống.
6041. Khi ấy, tôi đă có tâm hoan hỷ, có thiên hướng yêu mến đức Phật. Có con chim ưng với tâm ư xấu xa đă đi đến và đă giết chết tôi.
6042. Từ nơi ấy chết đi, tôi đă thọ hưởng sự sung sướng lớn lao ở cơi trời Đẩu Suất. Do nhờ tác động của nghiệp ấy, tôi đă đi đến nhập vào thai của loài người.
6043. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, thuộc ḍng dơi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên (ḍng dơi Bà-la-môn).
6044. Ngài đă làm chói sáng Giáo Pháp, đă khuất phục các ngoại đạo xấu xa, đă huấn luyện những người đáng được huấn luyện, và đă Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.
6045. Khi đấng Cao Cả ấy của thế gian đă Niết Bàn, được tịnh tín nhiều người tạo nên ngôi bảo tháp nhằm mục đích cúng dường đến đức Phật, đến bậc Đạo Sư.
6046. Họ bàn thảo như vầy: “Chúng ta sẽ tạo nên ngôi bảo tháp bảy do-tuần được trang hoàng bằng bảy loại châu báu dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ.”
6047. Khi ấy, tôi đă là vị thống lănh quân đội của đức vua của xứ Kāsi (tên) là Kiki. Tôi đă nói đến việc giảm thiểu kích thước ở ngôi bảo tháp.
6048. Khi ấy, do lời nói của tôi họ đă xây dựng ngôi bảo tháp một do-tuần được trang hoàng bằng bảy loại châu báu dành cho bậc Anh Hùng của nhân loại.
6049. Do nghiệp ấy đă được thực hiện hoàn tất và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6050. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh vào gia đ́nh triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở tại kinh thành Sāvatthī.
6051. Sau khi nh́n thấy đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành phố, tôi đă có tâm ư sửng sốt. Sau khi xuất gia không lâu, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.
6052. Do hành động tôi đă làm về kích thước của ngôi bảo tháp, tôi đă được sanh ra có thân h́nh thấp bé, đáng bị khinh thường.
6053. Sau khi cúng dường bậc Ẩn Sĩ tối thượng với giọng hót ngọt ngào, tôi đă thành tựu bản thể hàng đầu trong số các vị tỳ khưu có giọng nói ngọt ngào.
6054. Do việc dâng cúng trái cây và sự tưởng nhớ đến đức hạnh của đức Phật, tôi được thành tựu quả vị Sa-môn, tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6055. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6056. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6057. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Lakuṇṭakabhaddiya[1] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Lakuṇṭakabhaddiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
6058. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6059. Ngài có hàm sư tử, có giọng nói của Phạm Thiên, có âm điệu của loài chim thiên nga và tiếng trống, có sự bước đi hùng dũng của loài rồng, có ánh sáng vượt trội mặt trăng và mặt trời.
6060. Bậc Đại Trí, đấng Đại Hùng là có thiền chứng lớn lao, có sức mạnh lớn lao. Bậc Đại Bi, đấng Bảo Hộ là có sự xua đi màn tăm tối lớn lao.
6061. Có lần nọ, đấng Cao Cả của tam giới ấy, bậc Toàn Giác, đấng Hiền Trí, vị hiểu biết về thiên hướng của chúng sanh, trong lúc đang huấn luyện cho nhiều người đáng được huấn luyện, Ngài đă thuyết giảng Giáo Pháp.
6062. Trong lúc tán dương ở hội chúng về vị anh hùng có thiền chứng, thỏa thích về thiền, an tịnh, không bị chộn rộn, đấng Chiến Thắng đă làm cho dân chúng được hoan hỷ.
6063. Khi ấy, tôi đă là vị Bà-la-môn thông suốt các bộ Vệ Đà ở thành Haṃsavatī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp, được hoan hỷ tôi đă phát nguyện vị thế ấy.
6064. Lúc bấy giờ, đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo đă chú nguyện ở giữa hội chúng rằng: “Này Bà-la-môn, ngươi hăy hoan hỷ, ngươi sẽ đạt được điều ước nguyện ấy.
6065. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên là Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6066. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Revata.”
6067. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6068. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra ở thành Koliya, được thành tựu gia tộc Sát-đế-lỵ sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao.
6069. Vào lúc đức Phật đă thuyết giảng Giáo Pháp ở Kapilavatthu, khi ấy được tịnh tín ở đấng Thiện Thệ, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.
6070. Tôi đă có nhiều sự hoài nghi về điều được phép và không được phép, ở việc này việc nọ. Sau khi thuyết giảng về Giáo Pháp tối thượng, đức Phật đă hướng dẫn tất cả các điều ấy.
6071. Do đó, tôi đă vượt qua luân hồi và tôi sống luôn luôn được thỏa thích trong sự an lạc của thiền. Khi ấy, đức Phật, sau khi nh́n thấy tôi, Ngài đă nói điều này:
6072. “Bất cứ điều hoài nghi nào ở nơi đây hoặc ở cơi khác, do sự hiểu biết của chính ḿnh hoặc do sự hiểu biết của người khác, những vị nào có thiền chứng, có sự tinh cần, đang thực hành Phạm hạnh, dứt bỏ tất cả những hoài nghi ấy.”
6073. Việc làm đă được thực hiện ở một trăm ngàn kiếp đă cho tôi nh́n thấy quả báu tại đây. Như là tốc độ của mũi tên khéo được bắn ra, tôi đă thiêu đốt các phiền năo của tôi.
6074. Do đó, sau khi nh́n thấy tôi được thỏa thích trong thiền, đức Phật, vị đă đi đến tận cùng của thế giới, bậc Hiền Trí, đấng Đại Trí đă tuyên bố tôi là đứng đầu trong số các vị tỳ khưu có thiền chứng.
6075. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6076. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6077. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Kaṅkhārevata[2] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Kaṅkhārevata là phần thứ nh́.
--ooOoo--
6078. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6079. Giới của vị ấy là không thể đo lường, định được sánh với kim cương, trí tuệ cao quư là không thể ước lượng, và sự giải thoát là không có tương đương.
6080. Ở cuộc hội họp của loài người, chư Thiên, các loài rồng và các đấng Phạm Thiên, được đông đảo các vị Sa-môn và Bà-la-môn, bậc Lănh Đạo đă thuyết giảng Giáo Pháp.
6081. Được tự tin ở nơi các hội chúng, Ngài đă thiết lập vị Thinh Văn có lợi lộc nhiều, có phước báu rạng ngời vào vị thế tối thắng.
6082. Khi ấy, tôi đă là vị Sát-đế-lỵ ở thành phố tên là Haṃsā. Tôi đă nghe được lời nói ấy của đấng Chiến Thắng (nói) về nhiều đức hạnh của vị Thinh Văn.
6083. Tôi đă thỉnh mời và đă cung cấp vật thực đến Ngài cùng với các vị Thinh Văn trong bảy ngày. Sau khi cúng dường cuộc đại thí, tôi đă phát nguyện vị thế ấy.
6084. Khi ấy, sau khi nh́n thấy tôi khom ḿnh ở bàn chân, bậc Nhân Ngưu đấng Đại Hùng với âm điệu dịu dàng đă nói lời nói này.
6085. Do đó, có ước muốn được nghe lời nói của đấng Chiến Thắng, đám đông người gồm có chư Thiên, A-tu-la, Càn-thát-bà, và các đấng Phạm Thiên có đại thần lực.
6086. Luôn cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đă chắp tay lên lễ bái rằng: “Bạch đấng Siêu Nhân, xin kính lễ Ngài. Bạch đấng Tối Thượng Nhân, xin kính lễ Ngài.
6087. Bạch đấng Đại Hiền Trí, cuộc đại thí đă được vị Sát-đế-lỵ dâng cúng đến Ngài trọn bảy ngày, xin Ngài hăy chú nguyện quả báu cho vị ấy, (chúng tôi) có ước muốn được nghe.”
6088. 6089. Khi ấy, đức Thế Tôn đă nói rằng: “Các ngươi hăy lắng nghe lời nói của Ta. Sự cúng dường đă khéo được thiết lập ở đức Phật vô lượng, ở Hội Chúng, ai là người thông báo rằng chính việc cúng dường ấy là có quả báu vô lượng? Và luôn cả người có của cải dồi dào này cũng phát nguyện vị thế tối thượng rằng:
6090. ‘Giống như vị tỳ khưu Sudassana là có lợi lộc trong số các vị có lợi lộc dồi dào, mong rằng ta cũng có thể được tương tợ như thế,’ (người này) sẽ đạt được điều ấy trong ngày vị lai.
6091. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6092. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Sīvali.”
6093. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6094. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lănh Đạo Thế Gian Vipassī là vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rơ tất cả các pháp đă hiện khởi.
6095. Lúc bấy giờ, tôi đă bị bận rộn với việc buôn bán, là người được cảm t́nh và c̣n được mong mỏi nữa của một gia đ́nh nọ ở tại thành Bandhumatī.
6096. Khi ấy, có hội đoàn nọ đă thực hiện bữa ăn lớn lao vô cùng nổi tiếng đến bậc Đại Ần Sĩ Vipassī.
6097. Và khi cuộc đại thí được hoàn tất, họ đă dâng cúng món bánh tổng hợp. Trong lúc t́m kiếm, người ta vẫn không nh́n thấy sữa đông tươi và luôn cả mật ong nữa.
6098. Khi ấy, tôi đă cầm lấy sữa đông tươi ấy luôn cả mật ong rồi đă đi đến nhà của người chủ công việc. Trong lúc t́m kiếm vật ấy, họ đă nh́n thấy tôi.
6099. Dầu họ đă xuất ra đến một ngàn nhưng vẫn không nhận được hai món ấy. Do đó, tôi đă suy nghĩ như vầy: “Việc này sẽ không là chuyện nhỏ.
6100. Giống như tất cả những người này tôn trọng đức Như Lai, th́ ta cũng sẽ thể hiện sự tôn kính ở nơi đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với Hội Chúng.”
6101. Khi ấy, sau khi suy nghĩ như thế, tôi đă nghiền nát sữa đông và mật ong chung lại rồi đă dâng cúng đến đấng Lănh Đạo Thế Gian cùng với Hội Chúng.
6102. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6103. Lần khác nữa, tôi đă trở thành vị vua có danh vọng lớn lao ở thành Bārāṇasī. Khi ấy, bị bực ḿnh đối với quân thù, tôi đă cho thực hiện sự ngăn chận ở cổng thành.
6104. Khi ấy, mọi người cùng với các quân lính đă bị ngăn cản và đă bị canh giữ bảy ngày. Sau đó, do kết quả của việc ấy, tôi đă thường xuyên bị rơi vào địa ngục.
6105. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra ở thành Koliya. Và mẹ của tôi là Suppavāsā, cha là Mahāli người xứ Licchavī.
6106. Do nghiệp phước thiện khi là vị Sát-đế-lỵ và do tác động của việc ngăn chận cổng thành, tôi đă sống bảy năm trong bụng mẹ, chịu khổ đau.
6107. Trong bảy ngày, tôi đă bị mê man ở cửa (sanh ra), gánh chịu sự khổ đau lớn lao. Mẹ của tôi đă bị vô cùng đớn đau như thế do việc bày tỏ sự đồng t́nh (về quyết định ngăn chận cửa thành trong bảy ngày).
6108. Được đức Phật thương tưởng, tôi đă được sanh ra an toàn. Ngay vào ngày được hạ sanh, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.
6109. Thầy tế độ của tôi là vị Sāriputta và vị Moggallāna có đại thần lực. Trong khi đang xuống tóc, bậc đại trí đă chỉ dạy cho tôi.
6110. Khi các sợi tóc đang được cạo, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán. Chư Thiên, các loài rồng, và nhân loại đem lại cho tôi các vật dụng.
6111. Việc tôi đă hoan hỷ cúng dường đến đấng Bảo Hộ Padumuttara và đấng Hướng Đạo Vipassī với các vật dụng một cách đặc biệt.
6112. Do đó, với tính chất đặc biệt của các nghiệp ấy, tôi đạt được lợi lộc dồi dào và thượng hạng ở mọi nơi, ở rừng rú, ở làng mạc, ở sông nước, ở đất liền.
6113. Vào lúc đấng Hướng Đạo ra đi nhằm mục đích thăm viếng vị Revata, đấng Lănh Đạo cao cả của thế gian đă ra đi cùng với ba mươi ngàn vị tỳ khưu.
6114. Khi ấy, bậc Đại Trí, đấng Đại Hùng, vị Lănh Đạo Thế Gian cùng với Hội Chúng đă có các vật dụng được chư Thiên đem lại v́ sự lợi ích cho tôi.
6115. Được tôi phục vụ, đức Phật đă đi đến và thăm viếng Revata. Sau đó, Ngài đă đi đến Jetavana và đă thiết lập tôi vào vị thế tối thắng.
6116. Bậc Đạo Sư, nguồn lợi ích của tất cả thế gian, đă tán dương tôi ở các hội chúng rằng: “Này các tỳ khưu, trong các đệ tử của Ta, Sivalī là vị đứng đầu trong số các vị có được lợi lộc.”
6117. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6118. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6119. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Sīvalī đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Sīvalī là phần thứ ba.
--ooOoo--
6120. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6121. Cũng giống như sóng ở biển cả, tợ như các v́ sao ở bầu trời, tương tợ như thế lời giảng dạy của Ngài được tô điểm bằng các vị A-la-hán.
6122. Ngài đứng đầu chư Thiên, các hàng A-tu-la, các loài rồng, và nhân loại. Ngài là bậc tối thượng ở giữa dân chúng có đông đảo các vị Sa-môn và Bà-la-môn.
6123. Đấng Chiến Thắng, vị đă đi đến tận cùng của thế giới, đang chiếu sáng thế gian bằng các tia sáng. Ngài đang đánh thức những đóa hoa sen xứng đáng được dẫn dắt bằng ngôn từ.
6124. Bậc Tối Thượng Nhân được hội đủ bốn pháp tự tín, có sự sợ hăi và quyến luyến đă được dứt bỏ, đă đạt đến sự b́nh an, có ḷng tự tín.
6125. Đấng Cao Cả của thế gian chứng tỏ vị thế hùng tráng quư cao và toàn bộ nền tảng của bậc đă được giác ngộ, không có tự trách cứ về bất cứ điều ǵ.
6126. Trong khi Ngài là bậc như thế ấy đang rống lên tiếng rống không chút hăi sợ của loài sư tử, không có người nào phản bác lại dầu là Thiên nhân, hoặc loài người, hay là đấng Phạm Thiên.
6127. Trong khi thuyết giảng Giáo Pháp quư cao, trong khi giúp cho (nhân loại) luôn cả chư Thiên vượt qua, bậc tự tín ở nơi các hội chúng (đă) chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.
6128. Sau khi tán dương vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị có tài biện giải được công nhận là tốt lành về nhiều đức hạnh, Ngài đă thiết lập vị ấy vào vị thế tối thắng.
6129. Khi ấy, tôi đă được sanh ra ở thành Haṃsavatī, là người Bà-la-môn được công nhận là tốt lành, là người hiểu biết về tất cả các bộ Vệ-đà, là vị chúa tể của việc tranh căi, là bậc có sự tiêu diệt người đối đáp.
6130. Tôi đă đi đến gặp đấng Đại Hùng ấy và đă lắng nghe về sự thuyết giảng Giáo Pháp ấy. Được thỏa thích với đức hạnh của vị Thinh Văn, tôi đă đạt được niềm phỉ lạc cao quư.
6131. Tôi đă thỉnh mời đấng Thiện Thệ là niềm vui thích của thế gian cùng với Hội Chúng. Sau khi cung cấp vật thực trong bảy ngày, khi ấy tôi đă khoác lên (các vị) với những tấm vải.
6132. Tôi đă quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (Ngài). Được sự cho phép, tôi đă chắp tay lại, đứng ở một bên, mừng rỡ, tôi đă ngợi ca đấng Chiến Thắng tối thượng rằng:
6133. “Bạch đấng tranh luận (dũng mănh) tợ loài beo, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Cao Cả của tất cả thế gian, con kính lễ Ngài! Bạch đấng làm cho không c̣n hăi sợ, con kính lễ Ngài!
6134. Bạch đấng khuấy động Ma Vương, con kính lễ Ngài! Bạch đấng có sự tiêu diệt tà kiến, con kính lễ Ngài! Bạch đấng ban cho sự thanh tịnh và an lạc, con kính lễ Ngài! Bạch đấng tạo sự nương nhờ, con kính lễ Ngài!
6135. Ngài đang là đấng Bảo Hộ cho những ai không người bảo hộ, là người ban phát sự không sợ hăi cho những ai bị hăi sợ, là vùng đất nghỉ ngơi của chúng sanh, là nơi nương nhờ cho những ai tầm cầu sự nương tựa.”
6136. Sau khi ngợi ca đấng Toàn Giác có đức hạnh lớn lao như thế, v.v... Tôi đă nói rằng: “Con sẽ đạt đến số phận của vị tỳ khưu tranh luận dũng cảm.”
6137. 6138. Khi ấy, đức Thế Tôn, bậc có tài biện giải không giới hạn đă nói rằng: “Được tịnh tín, người này đă tự tay ḿnh chăm lo bữa ăn đến đức Phật cùng với (các) Thinh Văn trong bảy ngày và đă ngợi ca đức hạnh của Ta. Người này ước nguyện vị thế của vị tỳ khưu là người tranh luận dũng cảm.
6139. Trong thời vị lai xa xăm người này sẽ đạt được điều ước nguyện ấy sau khi đă thọ hưởng sự thành tựu ở cơi Trời và cơi người không phải là ít.
6140. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6141. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Vaṅgīsa.”
6142. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, đức Như Lai bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
6143. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đẩu Suất.
6144. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được tái sanh vào gia đ́nh du sĩ ngoại đạo. Và đến lúc tôi đă được bảy tuổi tính từ lúc sanh.
6145. Tôi đă trở thành người hiểu biết tất cả các bộ Vệ-đà, được tự tin trong nghệ thuật về tranh luận, là vị chúa tể của các nhà tranh luận, có sự thuyết giảng hay, đánh bại các nhà tranh luận khác.
6146. Vaṅgīsa nghĩa là “Được sanh ra ở xứ Vaṅga” hoặc là “Vị chúa tể về lời nói.” Được đồng t́nh bởi thế gian, tên của tôi đă là Vaṅgīsa.
6147. Vào lúc tôi đạt đến sự hiểu biết, tôi đă đứng đầu trong lớp trẻ. Khi ấy tôi đă nh́n thấy vị Sāriputta ở thành Rājagaha đáng yêu.
(Tụng phẩm thứ hai mươi lăm).
6148. Trong lúc đi đó đây để khất thực, vị ấy tay ôm b́nh bát, khéo thu thúc, mắt không láo liên, có lời nói cân nhắc, có tầm nh́n xuống một cán cày.
6149. Sau khi nh́n thấy vị ấy, tôi đă trở nên sửng sốt và đă tức thời nói lên câu kệ văn vẻ thuận theo tâm ư được sáng tác tại chỗ.
6150. Vị ấy đă nói với tôi về đấng Đạo Sư, bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo của thế gian. Khi ấy, bậc anh hùng ấy đă nói cho tôi câu trả lời.
6151. Vị ấy đă nói về lời giảng dạy có sự xa ĺa tham ái, khó hiểu thấu, cao thượng. Với các sự hiểu biết rơ ràng, tôi đă trở nên hoan hỷ với vị như thế ấy. Tôi đă quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (vị Sāriputta) và đă nói rằng: “Xin ngài hăy cho tôi xuất gia.”
6152. Do đó, bậc đại trí tuệ ấy đă đưa tôi đến gặp đức Phật tối thượng. Tôi đă quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (Ngài) rồi đă ngồi xuống gần bên bậc Đạo Sư.
6153. Bậc Tối Thượng trong số những người tranh luận đă nói với tôi rằng: “Này Vaṅgīsa, ngươi biết được điều ǵ, có tài nghệ ǵ?” Và tôi đă nói với Ngài rằng: “Con có biết.”
6154. “Với tài nghệ đặc biệt của ngươi, nếu ngươi có khả năng th́ hăy cho biết về cái sọ người đă chết bị quăng bỏ ở trong rừng cũng đă mười hai năm.”
6155. “Xin vâng.” Khi tôi đồng ư, Ngài đă chỉ cho thấy ba cái sọ người. Tôi đă cho biết rằng đă đạt đến địa ngục, loài người, và cơi trời.
6156. Khi ấy, đấng Lănh đăo đă chỉ cho thấy cái sọ của đức Phật Độc Giác. Do đó, tôi đă bị thất bại và tôi đă cầu xin sự xuất gia.
6157. Sau khi xuất gia, tôi ngợi ca đức Thiện Thệ ở nơi này nơi khác. Do đó, các vị tỳ khưu ở đây than phiền về tôi là “Nhà sáng tác thơ ca.”
6158. Do đó, nhằm mục đích t́m hiểu, đức Phật bậc Hướng Đạo đă nói với tôi rằng: “Những câu kệ này đă được suy nghĩ (trước đây) hay là (vừa mới) nảy sanh theo sự việc?”
6159. “Bạch đấng Đại Hùng, con không phải là nhà sáng tác thơ ca, chúng (vừa mới) nảy sanh theo sự việc.” “Này Vaṅgīsa, như thế th́ người hăy ngợi ca về Ta theo sự việc.”
6160. Khi ấy, tôi đă ngợi ca đấng Anh Hùng, bậc Ẩn Sĩ tối thượng với những câu kệ theo sự việc. Khi ấy, được hoan hỷ về tôi, đấng Chiến Thắng đă thiết lập tôi vào vị thế đứng đầu.
6161. Do tâm sáng láng, tôi đă vượt trội các vị tốt lành khác. Do điều ấy, tôi đă bị tác động, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.
6162. “Không t́m thấy bất cứ vị nào khác là vị đứng đầu trong số các vị có tài biện giải như là vị tỳ khưu Vaṅgīsa này. Này các tỳ khưu, các ngươi hăy ghi nhận như thế.”
6163. Việc làm đă được thực hiện ở một trăm ngàn kiếp đă cho tôi nh́n thấy quả báu tại đây. Như là tốc độ của mũi tên khéo được bắn ra, tôi đă thiêu đốt các phiền năo (của tôi).
6164. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6165. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6166. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Vaṅgīsa đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Vaṅgīsa là phần thứ tư.
--ooOoo--
6167. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6168. Đấng Siêu Nhân, bậc cao quư trong số các vị đang thuyết giảng đă ngự đến (thế gian) có cả chư Thiên v́ sự tấn hóa, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của tất cả chúng sanh.
6169. Đấng Chiến Thắng đạt được danh vọng cao cả, có sự vinh quang, được mang lại sự ca ngợi về tiếng thơm, được cúng dường, được nổi tiếng ở khắp mọi phương của toàn thể thế gian.
6170. Ngài đă vượt lên trên sự nghi hoặc, đă vượt qua hẳn sự lưỡng lự, đă được tṛn đủ về tâm ư và sự suy tư, đă đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng.
6171. Bậc Vĩ Nhân là người đă làm sanh lên con đường chưa được hiện khởi, đă công bố điều chưa được công bố, và đă biết điều chưa được biết.
6172. Là người biết về Đạo Lộ, hiểu rơ về Đạo Lộ, bậc Nhân Ngưu ấy đă nói về Đạo Lộ. Được thiện xảo về Đạo Lộ, bậc Đạo Sư là đấng cao quư tối thượng trong số những người điều khiển xe.
6173. Khi ấy, đấng Đại Bi, bậc Lănh Đạo thuyết giảng Giáo Pháp. Ngài tiếp độ những sanh mạng bị ch́m đắm trong vũng lầy mê muội.
6174. Trong lúc tán dương vị Thinh Văn được công nhận là đứng đầu trong việc giáo giới các tỳ khưu ni, bậc Đại Hiền Trí đă tuyên bố về vị thế tối thắng.
6175. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Tôi đă thỉnh mời đức Như Lai cùng với Hội Chúng, và sau khi đă chăm lo bữa ăn tôi đă phát nguyện vị thế tối thượng ấy.
6176. Khi ấy, được hoan hỷ đấng Bảo Hộ, bậc Đại Ẩn Sĩ đă nói với tôi rằng: “Mong rằng ngươi được an lạc và trường thọ, ngươi sẽ đạt được điều ước nguyện ấy.
6177. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6178. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Nandaka.”
6179. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6180. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh vào gia đ́nh triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.
6181. Sau khi nh́n thấy đấng Thiện Thệ ở lối đi vào thành phố, tôi đă có tâm ư sửng sốt. Vào lúc tiếp nhận tu viện Jeta, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.
6182. Trong thời gian không bao lâu tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau đó, có sự luân hồi đă được vượt qua, tôi đă được chỉ dạy bởi đấng Toàn Tri.
6183. 6184. Theo sự yêu cầu, tôi đă thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho các tỳ khưu ni. Được chỉ dạy bởi tôi, tất cả năm trăm vị ni ấy không thiếu người nào đă trở thành các bậc Vô Lậu. Khi ấy, được hoan hỷ bậc có sự lợi ích lớn lao đă thiết lập tôi vào vị thế tối thắng trong số các vị giáo giới các tỳ khưu ni.
6185. Việc làm đă được thực hiện ở một trăm ngàn kiếp đă cho tôi nh́n thấy quả báu tại đây. Như là tốc độ của mũi tên khéo được bắn ra, tôi đă thiêu đốt các phiền năo (của tôi).
6186. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6187. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6188. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Nandaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Nandaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
6189. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6190. Bậc Đạo Sư là đấng cao quư trong số các đấng Lănh Đạo, là bậc hiểu biết về thiện hạnh và ác hạnh, là đấng Chiến Thắng, là bậc ghi nhớ ân nghĩa, là bậc biết được hậu quả, Ngài giúp cho các sanh mạng gắn bó vào niềm tin.
6191. Có thiên hướng về ḷng trắc ẩn, Ngài phân định bằng trí tuệ biết được tất cả. Có sự tích lũy về đức độ vô biên, Ngài thuyết giảng về Giáo Pháp quư cao.
6192. Có lần nọ, bậc Đại Anh Hùng ấy thuyết giảng Giáo Pháp ngọt ngào bao gồm bốn Sự Thật ở cuộc hội họp gồm dân chúng vô số kể.
6193. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp cao quư có sự tốt đẹp ở phần đầu phần giữa và phần cuối ấy, đă có sự lănh hội Giáo Pháp của hàng trăm ngàn sanh mạng.
6194. Khi ấy, trái đất đă gây ra tiếng động, và các đám mây mưa đă gào thét. Chư Thiên, Phạm Thiên, nhân loại, và các A-tu-la đă thể hiện hành động tán thán:
6195. “Ôi đấng Bi Mẫn, bậc Đạo Sư! Ôi sự thuyết giảng Giáo Pháp! Ôi đấng Chiến Thắng đă tiếp độ những kẻ bị ch́m đắm trong đại dương của hiện hữu!”
6196. Trong khi nhân loại, chư Thiên, và Phạm Thiên sanh lên nỗi niềm bày tỏ như thế, đấng Chiến Thắng đă tán dương vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị tạo niềm tịnh tín cho các gia đ́nh.
6197. Khi ấy, được sanh ra trong gia đ́nh vị quan cận thần ở tại Haṃsavatī, tôi đă là người đáng mến, đáng nh́n, có dồi dào về tài sản và lúa gạo.
6198. Tôi đă đi đến tu viện Haṃsa và đă đảnh lễ đức Như Lai ấy. Tôi đă lắng nghe Giáo Pháp ngọt ngào và đă thể hiện hành động tôn kính đến vị như thế ấy.
6199. Tôi đă quỳ xuống ở cạnh bàn chân (Ngài) và đă nói lời nói này: “Bạch đấng Hiền Trí, vị đứng đầu trong số các vị tạo niềm tịnh tín cho các gia đ́nh đă được Ngài ngợi khen,
6200. Bạch đấng Anh Hùng, con sẽ là vị như thế ấy trong Giáo Pháp của đức Phật tối thượng.” Khi ấy, đấng Đại Bi đang rước lên tôi bằng (ḍng nước) Bất Tử.
6201. Ngài đă nói với tôi rằng: “Này con trai, hăy đứng dậy, ngươi sẽ đạt được điều ước nguyện ấy. Sao lại không có kết quả sau khi đă thể hiện hành động tôn kính đến đấng Chiến Thắng?
6202. Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6203. (Người này) sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Udāyi.”
6204. Nghe được điều ấy, tôi đă trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái tôi đă chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.
6205. Do kết quả của nghiệp ấy và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6206. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh ra trong gia đ́nh vị quan đại thần của vị lănh chúa Suddhodana ở tại thành Kapilavatthu đáng yêu.
6207. Vào lúc đấng Nhân Ngưu Siddhattha đă được sanh ra ở tại khu rừng Lumbinī đáng yêu v́ lợi ích và v́ sự an lạc của tất cả thế gian.
6208. Tôi đă được sanh ra đúng vào ngày hôm ấy. Cùng với Ngài ấy, tôi đă lớn lên, trở thành người bạn yêu dấu, được cảm t́nh, có học thức, rành rẽ về lề lối.
6209. Đến khi hai mươi chín tuổi, trong lúc ra đi Ngài đă xuất gia. Sau khi trải qua sáu năm, Ngài đă trở thành đức Phật, đấng Hướng Đạo.
6210. Sau khi đă chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh, sau khi đă làm cho các lậu hoặc bị quăng bỏ, sau khi đă vượt qua đại dương của hiện hữu, Ngài đă trở thành đức Phật (ở thế gian) luôn cả chư Thiên.
6211. Ngài đă đi đến nơi có tên là Isi(patana) và đă hướng dẫn nhóm năm vị. Sau đó, đức Thế Tôn đă đi đến nơi này, đă đi đến nơi khác và đă hướng dẫn.
6212. Khi ấy, trong lúc đang huấn luyện những người đáng được huấn luyện, trong lúc tiếp cận (thế gian) cùng với chư Thiên, đấng Chiến Thắng ấy đă đi đến ngọn núi Māgadha và đă cư ngụ ở tại nơi ấy.
6213. Khi ấy, được phái đi bởi vị lănh chúa Suddhodana, tôi đă đi đến, đă gặp đấng Thập Lực, đă xuất gia, và đă trở thành vị A-la-hán.
6214. Khi ấy, tôi đă cầu xin bậc Đại Ẩn Sĩ và đă thuyết phục Ngài đi đến Kapila. Sau đó, tôi đă trở lại thành phố và đă tạo được niềm tịnh tín cho đại gia tộc.
6215. Được hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo ấy ở hội chúng đông đảo đă tuyên bố tôi là vị đứng đầu trong số các vị tạo niềm tịnh tín cho các gia đ́nh.
6216. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6217. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6218. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Kāḷudāyi đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Kāḷudāyi là phần thứ sáu.
--ooOoo--
6219. Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lănh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhăn về tất cả các pháp đă hiện khởi.
6220. Đức Như Lai giúp cho người an trú vào việc đi đến nương nhờ, giúp cho người an trú vào giới, vào mười đường lối tối thượng về (thiện) nghiệp.
6221. Đấng Đại Hùng ấy ban cho người quả vị Sa-môn tối thượng. Tương tợ như thế Ngài ban phát tám sự thể nhập (thiền) và ba minh.
6222. Bậc Tối Thượng Nhân giúp cho chúng sanh gắn bó vào sáu thắng trí. Bậc Bảo Hộ ấy ban cho người bốn pháp phân tích
6223. Sau khi nh́n thấy người có khả năng giác ngộ dầu (ở xa) vô số do-tuần, đấng Điều Phục Nhân trong phút chốc vẫn đi đến gặp và hướng dẫn.
6224. Lúc bấy giờ, tôi đă là con trai của vị Bà-la-môn ở thành Haṃsavatī, là người thông suốt tất cả các bộ Vệ-đà, được công nhận về (khả năng) giảng giải.
6225. Được thiện xảo về ngôn từ, và tự tin về từ đồng nghĩa, là người rơ về cú pháp, hiểu biết về nghi lễ, rành rẽ về việc kết hợp âm điệu thi ca.
6226. Trong khi đi bộ lang thang tôi đă đi đến tu viện Haṃsa. Tôi đă nh́n thấy bậc hàng đầu trong số các vị đang thuyết giảng, được đám đông dân chúng ái mộ.
6227. Trong khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp không bị ô nhiễm, (dầu) có sự hiểu biết trái nghịch tôi đă đi đến và đă lắng nghe những lời nói không bị bợn nhơ của Ngài.
6228. Tôi đă không nh́n thấy lời đă được nói ra của bậc Hiền Trí ấy là bị lập lại, lạc đề, hoặc không có ư nghĩa; do đó tôi đă xuất gia.
6229. Trong thời gian không bao lâu, được tự tin về tất cả các học thuật, tôi đă được công nhận bởi tập thể là vị thông thạo về lời dạy của đức Phật.
6230. Khi ấy, tôi đă sáng tác bốn câu kệ có sự diễn tả khéo léo. Tôi đă ngợi ca bậc Cao Cả của tam giới và tôi đă diễn giảng ngày này qua ngày khác:
6231. “Bạch đấng Đại Hùng, Ngài không bị ái luyến trong khi sống trong luân hồi (đầy) sự kinh hăi. V́ ḷng bi mẫn Ngài đă không Niết Bàn; do đó bậc Hiền Trí là đấng Bi Mẫn.
6232. Người nào dầu c̣n là phàm nhân mà đă không bị sự chi phối của phiền năo, có sự nhận biết ḿnh, được gắn liền với niệm; do đó người này là không thể nghĩ bàn.
6233. Đối với người nào các phiền năo ở trạng thái ngủ ngầm đă trở nên yếu ớt, đă bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ mà không bị cạn kiệt, điều ấy là kỳ diệu.
6234. Vị nào là thầy của tất cả thế gian và thế gian tôn kính như thế đối với vị nào, cũng tương tợ như vậy vị nào là thầy dạy của thế gian, thế gian là xu hướng theo vị ấy.”
6235. Trong khi tán dương đấng Toàn Giác như thế, v.v... Sau khi thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp đến hết cuộc đời, từ nơi ấy chết đi tôi đă đi đến cơi trời.
6236. Kể từ khi tôi đă tán dương đức Phật cho đến một trăm ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
6237. Ở thế giới chư Thiên, tôi đă cai quản vương quốc rộng lớn và vùng địa phận. Là đấng Chuyển Luân Vương, tôi đă thường xuyên thọ hưởng vương quốc rộng lớn.
6238. Tôi (đă) được sanh ra ở hai cảnh giới trong bản thể Thiên nhân và loài người, tôi không biết đến cơi tái sanh khác; điều này là quả báu của việc tán dương.
6239. Tôi (đă) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn, tôi không biết đến gia tộc hạ tiện; điều này là quả báu của việc tán dương.
6240. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi là con trai của đức vua Bimbisāra ở tại kinh thành Giribbajja và có tên là Abhaya.
6241. Sau khi rơi vào sự ảnh hưởng của bạn xấu, tôi đă bị mê muội v́ ngoại đạo. Được phái đi bởi (Giáo chủ) Nātaputta, tôi đă đi đến gặp đức Phật tối thượng.
6242. Tôi đă hỏi câu hỏi khôn khéo và đă lắng nghe lời giảng giải xuất chúng. Tôi đă xuất gia, chẳng bao lâu tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.
6243. Sau khi tán dương đấng Chiến Thắng cao quư, tôi được ca ngợi vào mọi lúc. Với thân h́nh và khuôn mặt có hương thơm ngát, tôi đă đạt được sự an lạc.
6244. Tôi có được tuệ sắc bén, tuệ vi tiếu, tuệ nhẹ nhàng và tuệ vĩ đại tương tợ y như thế,[3] và tôi có tài biện giải đa dạng nhờ vào tác động của nghiệp ấy.
6245. Với tâm tịnh tín, sau khi ngợi ca danh xưng (của đức Phật) Padumuttara, đấng Tự Chủ, không người sánh bằng, tôi (đă) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp nhờ vào quả báu của nghiệp ấy.
6246. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6247. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6248. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Abhaya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Abhaya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
6249. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên (ḍng dơi Bà-la-môn).
6250. Lúc bấy giờ, tôi và luôn cả Candana đă xuất gia trong Giáo Pháp và đă làm tṛn đầy bổn phận trong Giáo Pháp cho đến phút cuối của cuộc đời.
6251. 6252. Từ nơi ấy chết đi, cả hai chúng tôi đă đạt đến cơi trời Đẩu Suất. Tại nơi ấy, chúng tôi đă vượt trội những vị c̣n lại về mười chi phần là sắc, v.v... về các điệu vũ, các lời ca, và các khúc tấu nhạc. Chúng tôi đă sống cho đến hết tuổi thọ và đă trải qua sự an lạc lớn lao.
6253. Sau khi mệnh chung từ nơi ấy, Candana đă đi đến cơi trời Đạo Lợi, tôi đă trở thành người con trai ḍng Sakya ở thành Kapilavatthu.
6254. Vào lúc được thỉnh cầu bởi trưởng lăo Udāyi, v́ ḷng thương tưởng đối với các vị ḍng Sakya, đấng Lănh Đạo Thế Gian đă ngự đến thành Kapila.
6255. Khi ấy, các vị ḍng Sakya vô cùng tự cao, không biết về hạnh lành của đức Phật, chấp nhất về sanh chủng, không tôn trọng, nên không cúi chào đấng Toàn Giác.
6256. Biết được ư định của họ, đấng Chiến Thắng đă đi kinh hành ở trên không trung, đă đổ mưa xuống tương tợ Thần Mưa, đă phát cháy như là ngọn lữa.
6257. Ngài đă làm cho nh́n thấy sắc thân vô song rồi lại biến mất, chỉ là một biến thành nhiều, rồi đă biến thành mỗi một ḿnh trở lại.
6258. Ngài đă thị hiện bóng tối và ánh sáng theo nhiều cách. Sau khi đă tạo ra điều kỳ diệu, bậc Hiền Trí đă hướng dẫn các quyến thuộc.
6259. Liền khi ấy có đám mây lớn khắp bốn châu lục đă đổ mưa. Chính vào khi ấy, đức Phật đă thuyết giảng chuyện Bổn Sanh Vessantara.
6260. Khi ấy, tất cả các vị Sát-đế-lỵ ấy đă tiêu diệt sự tự hào khởi lên do sanh chủng. Họ đă đi đến nương nhờ đức Phật. Khi ấy, (đức vua) Suddhodana đă nói rằng:
6261. “Bạch đấng có tuệ bao la, bạch đấng Toàn Nhăn, đây là lần thứ ba cha đảnh lễ các bàn chân của Ngài, vào lúc đản sanh Ngài đă làm rung động trái đất, và vào lúc bóng cây Jambu đă không rời bỏ Ngài.”
6262. Khi ấy, sau khi nh́n thấy năng lực ấy của đức Phật, với tâm ư sửng sốt, tôi đă xuất gia ở ngay tại nơi ấy và đă sống là người phụng dưỡng mẹ.
6263. Khi ấy, vị Thiên tử Candana đă đi đến gặp tôi và đă hỏi về cách thức tóm tắt và giải rộng của bài Kinh Bhaddekaratta.[4]
6264. Khi ấy, bị thúc đẩy bởi vị ấy, tôi đă đi đến gặp đấng Lănh Đạo loài người. Sau khi lắng nghe bài Kinh Bhaddekaratta, tôi đă chấn động và đă trở thành người nhiệt t́nh với khu rừng.
6265. Khi ấy, tôi đă hỏi mẹ về việc tôi sẽ sống mỗi một ḿnh ở trong rừng. Mẹ của tôi đă ngăn cản rằng: “Con là mảnh mai.” Khi ấy, tôi đă nói với mẹ rằng:
6266. “Bằng ngực con sẽ đầy lùi cỏ dabba, cỏ kusa, cỏ poṭakila, cỏ usīra, cỏ muñja, và cỏ babbaja trong khi thực hành hạnh độc cư.”[5]
6267. Khi ấy, tôi đă đi vào trong rừng. Tôi đă nhớ lại lời dạy của đấng Chiến Thắng, về sự giáo giới bài Kinh Bhaddekaratta, và tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.
6268. Hiển nhiên, người ta có thể tưởng nhớ quá khứ nhưng không thể mong mỏi tương lai, v́ việc quá khứ ấy đă được từ bỏ và việc tương lai là chưa đến.
6269. Và người nào nh́n thấy rơ pháp hiện tại ở nơi này ở nơi kia, sau khi biết được điều ấy là không dời đổi không lay chuyển, người ấy có thể tiến bộ.
6270. Người nào đang nhiệt tâm với phận sự trong chính ngày hôm nay, có thể biết được Tử Thần vào ngày mai. Nếu không, (sẽ) không có sự chạm trán với Tử Thần cùng với đạo quân binh đông đảo.
6271. Quả vậy, bậc Hiền Trí nói về vị đang sống có sự nhiệt tâm như thế đêm ngày không biếng nhác là vị được an tịnh là “Người hiền một đêm.”
6272. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6273. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6274. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Lomasakaṅgiya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Lomasakaṅgiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
6275. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên (ḍng dơi Bà-la-môn).
6276. Lúc bấy giờ, tôi đă xuất gia trong Giáo Pháp của đức Phật ấy. Tôi đă thực hành Phạm hạnh đến hết cuộc đời và đă chết đi từ nơi ấy.
6277. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6278. Mệnh chung từ nơi ấy, tôi đă trở thành con chim bồ câu ở trong khu rừng. Tại nơi ấy có vị tỳ khưu đầy đủ đức hạnh cư ngụ, luôn luôn thỏa thích với thiền.
6279. Vị anh hùng vĩ đại luôn luôn có tâm từ ái, có ḷng bi mẫn, có vẻ mặt hoan hỷ, là vị có hành xả, rành rẽ về các tâm vô lượng.
6280. (Vị ấy) có sự suy tầm không bị chướng ngại, có thiên hướng về sự lợi ích cho tất cả chúng sanh. Không bao lâu sau, tôi đă có được niềm tin ở vị Thinh Văn ấy của đấng Thiện Thệ.
6281. Khi ấy, tôi đây đă đi đến ở cạnh bàn chân của vị ấy đang ngồi. Có lần nọ, vị ấy cho thức ăn, và có một lần thuyết giảng Giáo Pháp.
6282. Khi ấy, tôi đă phục vụ người con trai của đấng Chiến Thắng với ḷng yêu thương bao la. Từ nơi đó chết đi, tôi đă đi đến cơi trời như là đă đi về nhà của chính ḿnh sau cuộc hành tŕnh ở xứ lạ.
6283. Mệnh chung từ cơi trời, tôi đă hạ sanh vào loài người nhờ vào nghiệp phước thiện. Tôi đă từ bỏ gia đ́nh và đă xuất gia một cách mau chóng.
6284. Tương tợ y như thế, sau khi trở thành vị Sa-môn, đạo sĩ khổ hạnh, Bà-la-môn, du sĩ ngoại đạo, tôi đă sống ở trong rừng hàng trăm (kiếp sống).
6285. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, ở thành Kapilavatthu đáng yêu có người Bà-la-môn Vacchagotta. Tôi đă nhập thai ở người vợ của ông ta.
6286. Khi tôi đă nhập thai, mẹ của tôi (là sản phụ) đă có niềm khao khát và đă có quyết định về việc cư ngụ ở rừng vào lúc gần được lâm bồn.
6287. Do đó, mẹ đă sanh ra tôi ở bên trong khu rừng đáng yêu. Khi tôi đang ra khỏi bào thai, mọi người đă đỡ lấy tôi bằng tấm y ca-sa.
6288. Sau đó, vương tử Siddhattha biểu tượng của gia tộc Sakya đă được sanh ra. Tôi đă trở thành người bạn yêu quư của vị ấy, được tin tưởng, vô cùng tự hào.
6289. Khi con người ưu tú của chúng sanh đang ra đi sau khi đă từ bỏ danh vọng vĩ đại, tôi cũng đă xuất gia và đă đi đến núi Hi-mă-lạp.
6290. Tôi đă nh́n thấy vị (Mahā) Kassapa là người thuyết giảng về pháp giũ bỏ, có sự cư ngụ ở rừng, vị đáng được tôn kính. Tôi đă được nghe về sự hiện khởi của đấng Chiến Thắng và tôi đă đi đến gặp đấng Điều Phục Nhân.
6291. Trong lúc giảng giải về mọi ư nghĩa, Ngài đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Sau đó, tôi đă xuất gia và cũng đă quay về lại khu rừng.
6292. Tại nơi ấy, trong khi sống không xao lăng, tôi đă chạm đến sáu thắng trí. Ôi, điều lợi ích đă được đạt thành tốt đẹp cho tôi, tôi đă được người bạn tốt thương tưởng!
6293. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6294. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6295. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Vanavaccha[6] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Vanavaccha là phần thứ chín.
--ooOoo—
6296. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đă hiện khởi đấng cao quư tên Kassapa có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên (ḍng dơi Bà-la-môn).
6297. Ngài đầy đủ các tướng phụ, có ba mươi hai hảo tướng, được bao quanh bởi quầng ánh sáng, được bao trùm bởi mạng lưới hào quang.
6298. Là người làm cho thoải mái tương tợ mặt trăng, là nguồn tạo ra ánh sáng tợ như mặt trời, là người dập tắt (lửa phiền năo) như là cơn mưa, là kho chứa của đức hạnh ví như biển cả.
6299. Với giới như là trái đất, với định như là núi Hi-mă-lạp, với tuệ tợ như bầu trời, không bị dính mắc giống như làn gió.
6300. Vào lúc bấy giờ, tôi được sanh ra tại thành Bārāṇasī trong đại gia tộc có tài sản và lúa gạo dồi dào, có sự tích lũy nhiều loại châu báu khác nhau.
6301. Vào lúc đấng Lănh Đạo Thế Gian đang ngồi cùng đoàn tùy tùng đông đảo, tôi đă đi đến gần và đă lắng nghe Giáo Pháp tợ như cao lương mỹ vị có sự thu hút tâm ư.
6302. Ngài có ba mươi hai hảo tướng như là mặt trăng có cḥm tinh tú, được đầy đủ các tướng phụ tợ như cây sālā chúa đă được trổ hoa.
6303. Ngài phát ra xung quanh mạng lưới hào quang tợ như ngọn núi vàng cháy rực, được bao quanh bởi quầng ánh sáng tợ như mặt trời có các tia sáng.
6304. Đấng Chiến Thắng cao quư có khuôn mặt vàng chói tợ như tảng đá có viên ngọc ma-ni, có trái tim tràn đầy ḷng bi mẫn cùng với đức hạnh như là biển cả.
6305. Và đấng Anh Hùng, bậc Hiền Trí có danh tiếng lẫy lừng ở thế gian tợ như ngọn núi tối thượng Sineru, đă được lan rộng với sự vinh quang tương tợ bầu trời.
6306. Đấng Lănh Đạo có tâm không bị ràng buộc với tất cả các nơi như là làn gió. Bậc Hiền Trí thứ bảy là sự nâng đỡ đối với tất cả chúng sanh tợ như trái đất.
6307. Ngài không bị vấy bẩn bởi thế gian giống như hoa sen không bị lấm lem bởi nước. Ngài chiếu sáng như là khối lửa có sự đốt cháy những lùm cây ngoại giáo.
6308. Ngài là người tiêu diệt chất độc phiền năo ở tất cả các nơi như là phương thuốc chữa bệnh. Ngài được trang sức bằng hương thơm của đức hạnh tợ như viên đá nghiền nát hương liệu.
6309. Đấng Chiến Thắng là kho chứa của các đức hạnh tợ như biển cả (là nơi chứa đựng) đối với các loại châu báu, là người mang đi các phiền năo và ô nhiễm tợ như con sông Sindhu đối với những dăy rừng.
6310. Với sự tiêu diệt đạo binh của Ma Vương, Ngài như là người chiến sĩ lực lưỡng có sự chiến thắng. Ngài là vị chúa tể của các loại châu báu là các chi phần đưa đến giác ngộ tợ như đấng Chuyển Luân Vương.
6311. Ngài là người thầy thuốc về cơn bệnh sân hận tương tợ vị y sĩ vĩ đại. Ngài là người mổ xẻ mụt nhọt tà kiến giống như phẫu thuật viên hạng nhất.
6312. Khi ấy, được loài người và chư Thiên kính trọng, bậc Quang Đăng của thế gian, ánh Mặt Trời của nhân loại, đấng Chiến Thắng ấy thuyết giảng Giáo Pháp ở các hội chúng.
6313. Ngài đă chỉ dạy như vầy: “Sau khi dâng cúng vật thí th́ trở nên có tài sản lớn lao, nhờ vào giới đi đến nhàn cảnh, và do sự tham thiền đạt đến Niết Bàn.”
6314. Toàn thể các hội chúng lắng nghe sự thuyết giảng có phẩm vị cao cả ấy, có sự tốt đẹp ở phần đầu phần giữa và phần cuối, như là cao lương mỹ vị có chất bổ dưỡng lớn lao.
6315. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp có vị ngọt tuyệt vời, tôi được tịnh tín với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Tôi đă đi đến nương nhờ đức Thiện Thệ và đă tôn kính Ngài đến hết cuộc đời.
6316. Khi ấy, tôi đă lau chùi nền đất ở hương thất của bậc Hiền Trí bằng chất thơm được sanh lên từ bốn loại (bông hoa) vào tám ngày trong một tháng.
6317. Tôi đă ước nguyện về trạng thái có hương thơm ở thân thể bị mùi khó chịu. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đă chú nguyện về việc đạt được cơ thể có hương thơm rằng:
6318. “Người nào lau chùi nền đất của hương thất bằng chất thơm một lần, do kết quả của nghiệp ấy được sanh lên ở nơi này nơi khác.
6319. Ở tất cả các nơi, người nam này sẽ có được thân h́nh có hương thơm ngạt ngào. Sau khi được gắn liền với hương thơm của đức hạnh, (người này) sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”
6320. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6321. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đă được sanh vào gia đ́nh Bà-la-môn. Khi tôi đang trú ở trong bào thai, mẹ của tôi đă trở thành người có hương thơm ở cơ thể.
6322. Và vào lúc tôi rời khỏi ḷng mẹ, khi ấy thành Sāvatthī đă tỏa ra như là được tẩm bằng tất cả các loại hương thơm.
6323. Và có cơn mưa bông hoa thơm ngát làm thích ư với các hương thơm của cơi trời và có các hương trầm có giá trị cao đă thổi đến liền khi ấy.
6324. Và ở ngôi nhà tôi đă được sanh ra, chư Thiên đă tẩm hương thơm ngôi nhà ấy bằng mọi thứ hương thơm, bằng hương trầm và các bông hoa.
6325. Và vào lúc tôi c̣n trẻ, hiền thiện, đang ở vào giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, khi ấy đấng Điều Phục Nhân đă hướng dẫn Sela cùng nhóm tùy tùng.
6326. Cùng với tất cả những người ấy, Ngài đă ngự đến thành Sāvatthī. Sau khi nh́n thấy năng lực ấy của đức Phật, tôi đă xuất gia.
6327. Sau khi làm cho phát triển bốn pháp: Giới, Định, Tuệ, và sự Giải Thoát vô thượng, tôi đă thành tựu sự đoạn tận các lậu hoặc.
6328. Và vào lúc tôi đă được xuất gia, vào lúc tôi trở thành vị A-la-hán, và vào lúc tôi sẽ Niết Bàn, khi ấy sẽ có cơn mưa hương thơm.
6329. Hương thơm ở cơ thể của tôi luôn luôn vượt trội các loại hương trầm, hương campaka, và hương sen vô cùng giá trị, tương tợ như thế ấy khi tôi đi nơi này nơi khác tôi tỏa ra hương thơm át hẳn tất cả các loại hương thơm khác về mọi phương diện.
6330. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6331. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6332. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Cūḷasugandha đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Cūḷasugandha là phần thứ mười.
Phẩm Bhaddiya là phẩm thứ năm mươi lăm.
--ooOoo--
Vị Bhaddiya, vị trưởng lăo Revata, và vị Sīvali có lợi lộc lớn lao, vị Vaṅgīsa, vị Nandaka, và luôn cả vị Kāḷudāyi, và tương tợ là vị Abhaya, vị Lomasa, vị Vanavaccha, và vị Sugandha đă được thực hiện là thứ mười. Ở đây, có ba trăm câu kệ và mười sáu câu thêm vào đó nữa.
--ooOoo--
Phẩm tên Kaṇikāra, phẩm về vị dâng cúng trái cây, phẩm về vị dâng cúng cỏ, phẩm Kaccāna, và phẩm Bhaddiya. Và các câu kệ này đă được tính đếm ở đây là chín trăm và tám mươi bốn. Có năm trăm năm mươi kư sự đă được giảng giải. Cùng với các câu kệ tóm lược, đây là sáu ngàn hai trăm câu kệ và mười tám câu thêm vào đó nữa.
--ooOoo--
6333. Chỗ cư ngụ của tôi đă được hóa hiện ra ở gần biển cả, có hồ nước đă khéo được hóa hiện ra, được líu lo bởi loài ngỗng đỏ.[7]
6334. (Hồ nước) được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các đóa sen xanh và sen đỏ. Và con sông chảy qua nơi ấy có bến nước cạn xinh xắn làm thích ư.
6335. (Ḍng sông) chứa đầy dẫy những cá và rùa, đông đúc với nhiều loại chim khác nhau, náo nhiệt bởi các chim công và chim c̣ cùng với những loài dơi và loài chim sáo, v.v...
6336. Và ở đây có các loài sống ở sông như là các con chim bồ câu, các loài ngỗng trời, các con ngỗng đỏ, các chim le le, các con chim cu, các loài pampaka, và các con jīvaṃjīvaka.
6337. (Ḍng sông) có các chim thiên nga, chim c̣ làm ầm ĩ, có nhiều chim cú và loài piṅgala, được đầy đủ bảy loại châu báu, với băi cát có ngọc ma-ni và ngọc trai.
6338. Tất cả các cây đều làm bằng vàng được tỏa ra với nhiều hương thơm khác loại. Chúng thắp sáng chỗ trú ngụ ngày và đêm vào mọi thời điểm.
6338. Sáu mươi ngàn loại nhạc cụ được phát ra âm thanh sáng chiều. Mười sáu ngàn người nữ luôn luôn quây quần bên tôi.
6340. Tôi đă rời khỏi nơi cư ngụ (đi đến gặp) đấng Lănh Đạo Thế Gian Sumedha. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đảnh lễ bậc có danh vọng lớn lao ấy.
6341. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, tôi đă thỉnh mời Ngài cùng Hội Chúng. Đấng Lănh Đạo Thế Gian Sumedha trí tuệ ấy đă chấp nhận.
6342. Sau khi thực hiện việc thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi, bậc Đại Hiền Trí đă giải tán. Tôi đă đảnh lễ bậc Toàn Giác và đă đi về chỗ cư ngụ của tôi.
6343. Tôi đă thông báo với nhóm tùy tùng rằng: “Vào buổi sáng, đức Phật sẽ đi đến chỗ ngụ (này).” Khi ấy tất cả đă tụ hội lại (đáp rằng):
6344. “Điều lợi ích cho chúng tôi đă được chúng tôi thành đạt khéo léo là chúng tôi sống thân cận với ngài. Chúng tôi cũng sẽ cúng dường đến bậc Đạo Sư là đức Phật tối thượng.”
6345. Sau khi sắp đặt thức ăn và nước uống, tôi đă thông báo về thời gian. Đấng Lănh Đạo Thế Gian đă ngự đến cùng với một trăm ngàn vị có năng lực.
6346. Tôi đă thực hiện việc tiếp đón với các loại nhạc cụ có đủ năm yếu tố. Bậc Tối Thượng Nhân đă ngồi xuống chiếc ghế làm toàn bằng vàng.
6347. Khi ấy, ở phía trên đă có chiếc lọng làm toàn bằng vàng. Có những cái quạt quạt gió đến Hội Chúng tỳ khưu vô thượng.
6348. Tôi đă làm toại ư Hội Chúng tỳ khưu với cơm ăn nước uống dồi dào. Tôi đă dâng cúng đến Hội Chúng tỳ khưu mỗi vị một xấp vải đôi.
6349. Sau khi ngồi xuống ở nơi Hội Chúng tỳ khưu, vị thọ nhận các vật hiến cúng mà mọi người gọi là “Sumedha” đă nói lên lời kệ này:
6350. “Người nào đă làm toại ư Ta và tất cả các vị này với cơm ăn nước uống, ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.
6351. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên một ngàn tám trăm kiếp và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.
6352. Người này sanh lên chốn nào, là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có chiếc lọng làm toàn bằng vàng sẽ che cho người ấy.
6353. Vào ba mươi ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
6354. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.
6355. (Người này) sẽ ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và sẽ rống lên tiếng rống của loài sư tử. Nhiều người cầm chiếc lọng ở giàn hỏa thiêu, và (người này) được thiêu ở bên dưới chiếc lọng.”
6356. Trạng thái Sa-môn đă được tôi đạt đến, các phiền năo đă được tôi thiêu đốt. Dầu ở mái che hoặc ở gốc cây, sự run sợ không được biết đến ở tôi.
6357. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu sự dâng cúng mọi thứ.
6358. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6359. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6360. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Yasa đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Yasa là phần thứ nhất.
--ooOoo—
6361. Nhân dịp đức Thế Tôn Padumuttara bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy đang hành hạnh khất thực, tôi đă cầm lấy trái cây đầu mùa danh tiếng hạng nhất và đă dâng cúng đến bậc Đạo Sư.
6362. Do nghiệp ấy, tôi trở thành vị chúa của chư Thiên, bậc trưởng thượng của thế gian, là vị ưu tú của nhân loại, tôi đă từ bỏ hơn thua và đă đạt đến vị thế Bất Động.
6363. Kể từ khi tôi đă dâng cúng trái cây trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây đầu mùa.
6364. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6365. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6366. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Nadīkassapa đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Nadīkassapa là phần thứ nh́.
--ooOoo--
6367. Vào lúc bấy giờ, tôi mặc y da dê, mang túi vật dụng. Tôi đă cầm lấy gói trái táo và đă mang về khu ẩn cư.
6368. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, đấng Chiến Thắng là đơn độc không người thứ hai. Trong khi đang làm cho sáng tỏ vào mọi thời điểm, Ngài đă đi đến khu ẩn cư của tôi.
6369. Sau khi làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín, tôi đă đảnh lễ vị có sự hành tŕ tốt đẹp. Bằng cả hai bàn tay, tôi đă nâng lên trái táo và đă dâng cúng đến đức Phật.
6370. Kể từ khi tôi đă dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái táo.
6371. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6372. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6373. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Gayākassapa đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Gayākassapa là phần thứ ba.
--ooOoo--
6374. Khi đấng Bà-la-môn toàn hảo Kakusandha Niết Bàn, tôi đă cầm lấy tràng hoa salala và đă cho thực hiện mái che.
6375. Trong khi đi đến cơi trời Đạo Lợi, tôi đă đạt được ṭa lâu đài hạng nhất. Tôi rực rỡ hơn chư Thiên khác; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
6376. Và vào ban ngày hoặc vào ban đêm, trong khi đi kinh hành và trong khi đứng tôi được bao phủ bởi các bông hoa salala; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
6377. Việc tôi đă cúng dường đức Phật là ngay trong kiếp này, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6378. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6379. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6380. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Kimbila đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Kimbila là phần thứ tư.
--ooOoo—
6381. Đức Thế Tôn có ngàn ánh hào quang, đấng Tự Chủ, vị không bị đánh bại sau khi xuất ra khỏi sự độc cư đă ra đi về việc khất thực.
6382. Có được nắm tay trái cây, tôi đă nh́n thấy đấng Nhân Ngưu và đă đi đến gần Ngài. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă dâng cúng trái cây savanṭa.
6383. Kể từ khi tôi đă dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
6384. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6385. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6386. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Vajjiputta đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Vajjiputta là phần thứ năm.
--ooOoo--
6387. Đấng Toàn Giác tên Sumedha có ba mươi hai hảo tướng. Có ước muốn độc cư, đức Thế Tôn đă đi đến núi Hi-mă-lạp.[8]
6388. Sau khi đă đi sâu vào núi Hi-mă-lạp, đấng Bi Mẫn cao cả, bậc Hiền Trí, đấng Tối Thượng Nhân đă xếp chân thế kiết già rồi đă ngồi xuống.
6389. Khi ấy, tôi đă là người nắm giữ pháp thuật, là vị du hành ở không trung. Sau khi cầm lấy cây chỉa ba được thực hiện khéo léo, tôi đi ở trên không trung.
6390. Đức Phật chói sáng ở trong khu rừng giống như ngọn lửa ở trên đỉnh núi, tợ như mặt trăng ngày rằm, như là cây sālā chúa được trổ hoa.
6391. Hào quang của đức Phật vượt ra khỏi chóp đỉnh của khu rừng và tỏa rộng giống như là màu sắc ngọn lửa của cây sậy, sau khi nh́n thấy tôi đă làm cho tâm được tịnh tín.
6392. Trong khi chọn lựa, tôi đă nh́n thấy bông hoa kaṇikāra có hương thơm của cơi trời. Sau khi cầm lấy ba bông hoa, tôi đă cúng dường đến đức Phật tối thượng.
6393. Khi ấy, do nhờ năng lực của đức Phật, ba bông hoa của tôi (xoay ngược lại) có các cuống hoa ở bên trên và các cánh hoa ở bên dưới, tạo thành bóng râm che cho đức Phật.
6394. Do nghiệp ấy đă được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ư, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đă đi đến cơi trời Đạo Lợi.
6395. Tại nơi ấy, có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được biết (với tên) là “kaṇikārī” có chiều dài sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
6396. (Cung điện) có một ngàn cột trụ chống có màu lục, với một trăm mái tṛn được trang hoàng với những ngọn cờ. Có một trăm ngàn tháp nhọn đă hiện diện ở cung điện của tôi.
6397. Có những chiếc ghế bành làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, và cũng làm bằng hồng ngọc nữa, luôn cả ngọc pha-lê (hiện ra) ở bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào theo ước muốn.
6398. Và có chiếc giường vô cùng giá trị được trải loại nệm bông g̣n có một phần lông rái cá, và được gắn liền với chiếc gối.
6399. Khi nào tôi ước muốn việc ra đi, th́ sau khi rời khỏi nơi cư ngụ và trong lúc thực hiện cuộc du hành cùng với chư Thiên, tôi dẫn đầu hội chúng chư Thiên..
6400. Tôi đứng ở phía bên dưới là bông hoa, ở phía bên trên của tôi xung quanh một trăm do-tuần có mái che được phủ bằng các bông hoa kaṇika.
6401. Có sáu mươi ngàn nhạc công đă phục vụ sáng chiều. Họ thường xuyên vây quanh tôi ngày đêm không biếng nhác.
6402. Ở tại nơi ấy, tôi sướng vui với các điệu vũ, các lời ca, các tiếng chũm chọe, và các khúc tấu nhạc, với niềm sướng vui của việc giải trí. Tôi vui thích theo sự mong muốn này mong muốn khác.
6403. Lúc bấy giờ, ở tại nơi ấy tôi đă ăn, tôi đă uống, tôi vui thích ở cơi trời Tam Thập. Được gần gũi với các đám nữ nhân, tôi vui thích ở lâu đài tuyệt hảo.
6404. Và tôi đă cai quản Thiên quốc năm trăm lần. Và tôi đă trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba trăm lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
6405. Trong khi luân hồi ở cơi này cơi khác, tôi nhận lănh của cải lớn lao, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6406. Tôi (đă) luân hồi ở hai cảnh giới trong bản thể Thiên nhân và loài người, tôi không biết đến cơi tái sanh khác; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6407. Tôi (đă) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và luôn cả Bà-la-môn, tôi không biết đến gia tộc hạ tiện; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6408. Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, kiệu khiêng, và cỗ xe kéo, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6409. Về đám tôi trai, bầy tớ gái, và các nữ nhân đă được trang điểm, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6410. Về y phục làm bằng tơ lụa, bằng sợi len, bằng chỉ lanh, và bằng bông vải, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6411. Về vải vóc mới, trái cây tươi, thức ăn mới lạ có phẩm vị cao sang, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6412. “Ngài hăy nhai món này, ngài hăy ăn món này, ngài hăy nằm ở chiếc giường này,” tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6413. Tôi được tôn vinh ở tất cả các nơi, danh vọng của tôi được thăng tiến, tôi luôn luôn có phe cánh đông đảo, luôn luôn có hội chúng không bị chia rẽ.
6414. Tôi không biết đến sự lạnh (và) sự nóng, sự bực bội không được biết đến. Sự khổ sở thuộc về tâm ở trái tim của tôi không được biết đến.
6415. Sau khi có được làn da màu vàng ṛng, tôi luân hồi ở cơi này cơi khác, tôi không biết đến việc tàn tạ sắc thân; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6416. Sau khi mệnh chung ở thế giới chư Thiên, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch tôi đă được sanh ra trong nhà đại bá hộ vô cùng sang trọng ở thành phố Sāvatthī.
6417. Sau khi từ bỏ năm phần dục lạc, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.
6418. Sau khi nhận biết đức hạnh (của tôi), đức Phật bậc Hữu Nhăn đă cho tu lên bậc trên, tôi là vị trẻ tuổi xứng đáng được cúng dường; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6419. Thiên nhăn của tôi được thanh tịnh, tôi là thiện xảo về định, đă đạt đến sự toàn hảo về các thắng trí; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6420. Tôi đă thành tựu các pháp phân tích, là vị rành rẽ về các nền tảng của thần thông, đă đạt đến sự toàn hảo về các pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6421. Việc tôi đă cúng dường đức Phật trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
6422. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6423. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6424. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Uttara đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Uttara là phần thứ sáu.
--ooOoo--
6425. Khi bậc Bảo Hộ Thế Gian, đấng Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha Niết Bàn, tôi đă tập hợp quyến thuộc của tôi lại và tôi đă cúng dường xá-lợi.
6426. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường xá-lợi trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường xá-lợi.
6427. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6428. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6429. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Uttara khác đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Uttara khác là phần thứ bảy.
--ooOoo—
6430. Lúc bấy giờ, tôi đă lội xuống hồ nước đă bị nhiều con voi sử dụng, và v́ lư do đói (bụng) tôi (đă) nhổ lên củ sen ở tại nơi ấy.[9]
6431. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn danh hiệu Padumuttara là vị Phật mặc y màu đỏ (đang) di chuyển ở trên không trung.
6432. Khi ấy, trong khi Ngài đang phất phơ các lá y may từ vải bị quăng bỏ, tôi đă nghe được tiếng động. Trong khi chú ư ở phía bên trên, tôi đă nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian.
6433. Trong khi đứng ngay tại nơi ấy, tôi đă thỉnh cầu đấng Lănh Đạo Thế Gian rằng: “Xin đức Phật, bậc Hữu Nhăn, v́ ḷng thương tưởng hăy thọ lănh mật ong cùng với các củ sen, sữa, bơ lỏng, và rễ sen của con.”
6434. Do đó, đấng Bi Mẫn, bậc Đạo Sư có danh vọng lớn lao đă ngự xuống. Bậc Hữu Nhăn v́ ḷng thương tưởng đă thọ nhận vật thực của tôi. Sau khi thọ nhận, bậc Toàn Giác đă thực hiện lời tùy hỷ đến tôi rằng:
6435. “Này người có đại phước, mong rằng ngươi được an lạc. Mong rằng cảnh giới tái sanh được thành tựu cho ngươi. Do việc dâng cúng củ sen này, ngươi sẽ đạt được sự an lạc lớn lao.”
6436. Sau khi nói lên điều ấy, đấng Toàn Giác tên Padumuttara, bậc Toàn Giác, đấng Chiến Thắng đă cầm lấy thức ăn rồi đă ra đi bằng đường không trung.
6437. Sau đó, tôi đă cầm lấy củ sen và đă đi về lại khu ẩn cư của ḿnh. Sau khi đă treo củ sen ở trên cây, tôi đă tưởng nhớ lại việc dâng cúng của ḿnh.
6438. Khi ấy, có cơn gió lớn đă nổi lên và đă làm lay chuyển khu rừng. Bầu trời đă gào thét và sấm sét đă nổ ra.
6439. Sau đó, tia sét đánh xuống đă giáng vào đầu của tôi. Khi ấy, trong khi bị khuỵu xuống tôi đây đă ĺa đời ở tại nơi ấy.
6440. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, tôi đă đi đến cơi trời Đẩu Suất. (Khi) thân thể của tôi bị ngă xuống, tôi sướng vui ở thế giới chư Thiên.
6441. Có tám mươi sáu ngàn nữ nhân đă được trang điểm hầu cận sáng tối; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
6442. Sau khi đi đến sự sanh ra ở loài người, tôi luôn luôn được sung sướng, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
6443. Là người được thương tưởng bởi vị Trời của chư Thiên như thế ấy, (tôi có) tất cả các lậu hoặc đă được đoạn tận, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.
6444. Kể từ khi tôi đă dâng cúng rễ sen trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
6445. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6446. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6447. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Bhaddaji đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Bhaddaji là phần thứ tám.
--ooOoo--
6448. Khi bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī đang đi về việc t́m kiếm (vật thực). Tôi đă nh́n thấy b́nh bát trống trơn và tôi đă để đầy sữa kem.
6449. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thực trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của sữa kem.
6450. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.
6451. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn, đă thành tựu tam minh, đă thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
6452. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lăo Sīvaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Kư sự về trưởng lăo Sīvaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
Vị Yasa, vị Nadīkassapa, vị Gayākassapa, vị Kimbila, vị Vajjiputta, hai vị Uttara, vị Bhaddaji, và luôn cả vị Sīvaka tối thượng.
Phẩm Yasa là phẩm thứ năm mươi sáu.
TRƯỞNG LĂO KƯ SỰ
được đầy đủ.
--ooOoo--
[1] Lakuṇṭakabhaddiya nghĩa là “vị tên Bhaddiya thấp lùn (lakuṇṭaka).”
[2] Kaṅkhārevata nghĩa là “vị Revata có sự hoài nghi (kaṅkhā).”
[3] Xem phần Giảng về Tuệ ở Paṭisambhidāmagga II - Phân Tích Đạo II, trang 187-191 (Tam Tạng Pāḷi - Việt tập 38).
[4] Majjhimanikāya III - Kinh Trung Bộ III, Kinh Nhất Dạ Hiền Giả (HT. Minh Châu).
[5] Câu kệ này được thấy Theragāthā - Trưởng Lăo Kệ, câu 27.
[6] Vanavaccha nghĩa là “vị có sự cư ngụ (vaccha) ở rừng (vana).”
[7] Kư sự này giống y như kư sự 399 về trưởng lăo Sabbadāyaka (Apadāna - Thánh Nhân Kư Sự, tập I).
[8] Kư sự này tương tợ như kư sự 501 về trưởng lăo Tikaṇikārapupphiya.
[9] Kư sự này tương tợ như kư sự 483 về trưởng lăo Bhisadāyaka.