BuddhaSasana Home Page Ba Ngày Luận Ðạo
PL. 2506 - TL. 1963 [02] Vấn: Bạch Ngài, lúc nãy Ngài có dạy hãy hành thêm sự
Bố thí và Thiền định. Bố thí, tôi thấy tôi có thể tạm
hiểu, còn Thiền định là chi?
Ðáp: Thiền là tiếng âm theo Păli, là JHÀNA, nghĩa là
thiêu đốt những ác pháp, như hôn trầm, phóng tâm, v.v... Nhưng
chúng ta quen dùng tiếng THIỀN ấy như là tiếng Việt, lại
hiểu nghĩa có khác chút là: Yên lặng. Còn chính Păli là
SAMÀDHI nghĩa là gom tâm cho trụ chắc vào một đề mục, không
cho tâm xao lãng. Khi hai tiếng ấy đi đôi nhau thì chúng ta lại
hiểu nghĩa là: Làm cho Tâm yên trụ vào một chỗ, không cho
Tâm vọng mống theo Ngũ trần. Bởi tâm của chúng ta không bao
giờ chịu trụ vào một chỗ, nó chạy theo các điều ưa thích,
luân chuyển mãi như cái bánh xe lăn. Tâm con người vọng mống
cho đến khi ngủ mà nó cũng vẫn nằm mộng. Vì vậy nên đức
Thế Tôn dạy dùng đề mục để cột tâm lại. Phương pháp
làm cho tâm không vọng động gọi là Chỉ quán, có bốn mươi
cách khác nhau, tôi không thể giải thích nơi đây rõ rệt cho
ông, xin ông vui lòng tìm xem trong bộ "ÁNH SÁNG PHẬT
PHÁP", tạp chí do một nhóm Cư sĩ ở Nam Vang xuất bản. Ðức Phật có dạy: Trước khi muốn làm cho tâm ta mau trụ
thì phải có giới hạnh trong sạch. Tâm chúng ta hằng rung động
chạy theo triều lưu của cảnh trần. Vì lẽ ấy nên đức Thế
Tôn có dạy trong kinh Pháp Cú một câu kệ rằng: VÀRIJOVA THALE KHITTO OKAMOKATA UBBHATO Nghĩa là: Cá mà người ta bắt lên khỏi nước rồi, bỏ nó
trên khô nó hằng giẫy giụa như thế nào thì tâm của hành
giả bị đem ra khỏi chỗ nó hằng ở là Ngũ trần rồi khép
nó vào khuôn khổ là Minh sát, cốt để dứt bỏ sự tham muốn
(là lưới) của Ma vương thì nó hằng lay động thế ấy. Theo câu Phật ngôn này, ta thấy rõ rằng: Tâm ta đã ngâm
trong Ngũ trần hằng vô số kiếp, nó bị Ma vương cám dỗ
và đã thâm nhiễm điều xằng bậy không lo giải thoát; một
khi ta nhận thức được con đường giải thoát của đấng đại
Từ bi tìm thấy và hành theo, thì phải nhờ giới đem tâm ấy
ra khỏi ngũ trần, phải khép tâm vào khuôn khổ là Thiền định. Vì tâm tham mê theo Ngũ trần nên không trông thấy cái vô
thường, khổ não và vô ngã; một khi Tâm được an tịnh thì
mới sanh trí tuệ nhận thấy rõ ba tướng ấy. Ðây tôi chỉ
giải sơ lược thôi, xin ông tìm xem tạp chí "ÁNH SÁNG PHẬT
PHÁP" rõ hơn. Vấn: Ngài dạy vậy thì tôi đành tìm coi tạp chí ấy,
song xin Ngài vui lòng cho tôi hiểu thêm về vấn đề Thiền định
chút nữa. Ngài có dạy rằng SAMÀDHI là "ÐỊNH" mà
định ấy là thế nào?
Ðáp: ÐỊNH nghĩa là làm cho tâm an trụ lại một chỗ,
gọi là đề mục, không cho tâm chạy theo trần cảnh là Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, bắt tâm phải chăm chú vào một
đề mục, không xao lãng, lấy đề mục làm mục phiêu niệm
tưởng. Vấn: Bạch Ngài, xin Ngài vui lòng chỉ rõ TƯỚNG, VỊ,
THẬT TƯỚNG, và NỀN TẢNG của ÐỊNH ấy ra thế nào?
Ðáp: Theo tôi biết thì ông không phải là người mới
bắt đầu học đạo. Nếu tôi đoán không sai thì ông đã nhiều
năm nghiên cứu; nay ông hỏi đạo với tôi, hoặc là để thấu
hiểu đạo lý sâu xa, hoặc là ông muốn hỏi tôi cho tôi
không thể trả lời được. Nếu thật lòng ông hỏi để hiểu
thêm thì nên, bằng hỏi để cho tôi không trả lời được
thì xin ông cho tôi nghỉ còn hơn, vì hỏi như thế để thỏa
lòng hiếu kỳ thì không bổ ích chi cho chúng ta hết. Riêng
tôi thì tôi tin rằng tôi không đến nỗi không trả lời được. Vấn:
Bạch Ngài, tôi đã dày công nghiên cứu Phật giáo nhưng không
được thông rõ, vì cuộc vật lộn với đời không rảnh
rang để tầm học thêm; nên hôm nay duyên may run rủi gặp
Ngài có thể chỉ dạy thêm cho tôi, nên tôi mới dám hỏi,
xin Ngài tha thứ và chỉ thêm, xin Ngài coi tôi như một người
thiện nam của Ngài.
Ðáp: Nếu vậy thì tôi rất vui lòng giải những gì mà
ông muốn hỏi, tùy theo sự hiểu biết của tôi:
1/ Sự không giãi đãi là TƯỚNG của Thiền định. Vấn: Bạch Ngài, nguyên nhân chi làm cho Thiền định
nhơ đục? Ðáp:
Sự tham mê trong Ngũ trần là NGUYÊN NHÂN làm cho Thiền định
nhơ đục. Trái lại, sự tinh tấn và không nhớ đến Ngũ trần
là nguyên nhân làm cho Thiền định được trong sạch. Vấn:
Nếu ta muốn cho Thiền định được phát sanh phải nhờ vào
pháp chi?
Ðáp: Nếu ta muốn cho Thiền định phát sanh phải nhờ
sáu pháp là:
1/ Giữ giới cho trong sạch. Vấn: Bạch Ngài, tôi hiểu năm pháp đầu, nhưng về pháp
thứ sáu Ngài dạy rằng "Thông hiểu rành phương pháp
hành đạo làm cho Thiền định phát sanh mau chóng", bạch
Ngài, phương pháp ấy như thế nào? Có mấy chi? Ðáp: Có mười pháp làm cho Thiền định phát sanh:
1/ Làm cho bề ngoài được trong sạch, nghĩa là thân và
đồ vật dụng được sạch sẽ. 2/ Làm cho ngũ căn đồng nhau. Ngũ căn ấy là: Tính căn, Tấn
căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn. 3/ Phải thông hiểu rõ đề mục, nghĩa là phải làm cho
tâm trụ trong đề mục của mình niệm. 4/ Phải biết cột tâm lại, nghĩa là khi nào biết tâm
giãi đãi thì hành giả phải biết cách kềm chặt nó vào một
đề mục và làm cho nó tinh tấn thêm. 5/ Phải biết đè nén tâm xuống một khi biết rằng tâm
mình rất tinh tấn quá hơn bốn pháp kia. 6/ Phải biết làm cho tâm vui trong khi tâm bực bội. 7/ Phải xem chừng tâm trong khi thấy nó khắn khít với đề
mục thái quá, phải kéo bớt nó lại cho vừa với sức của
mấy pháp kia. 8/ Không nên giao tiếp với người có tâm phóng túng, nghĩa
là người không làm được một chuyện gì có kết quả. 9/ Phải thân cận với các bậc thiện trí thức mà tâm
không giãi đãi, trái lại tinh tấn, an định và không vọng
động. 10/ Phải cố đem tâm đến mục đích là AN ÐỊNH. Vấn: Bạch Ngài, thế tôi đã hết hoài nghi; nhưng Ngài
còn dạy rửa lòng trong sạch là rửa cách nào? Ðáp: Tiếng Việt chúng ta thường dùng tiếng lòng thay
thế cho tiếng tâm. Ðây là nói rửa tâm là làm cho tâm trong
sạch.
Vấn: Bạch Ngài, xin Ngài dạy cho tôi biết: Khi chúng ta
làm phước và tội, phước và tội ấy ta để đâu? Ðáp:
Ðể trong tâm. Vấn: Nếu phước và tội để trong tâm, tôi không hiểu
tại sao đức Phật dạy: Rửa tâm trong sạch. Khi chúng ta rửa
tâm trong sạch, thì phước và tội đều đi mất hết chăng?
Ðáp:
Câu này, ông hỏi nghe xuôi lắm, nhưng theo lý thì không như lời
ông hỏi. Những pháp của đức Thế Tôn dạy có chỗ chúng
ta phải dùng trí tuệ để suy nghĩ mới thấy rõ, cũng có chỗ
chúng ta không phải mệt trí để suy nghĩ cũng có thể nhận
thức được; câu ông hỏi đây cũng vậy, ông cần phải suy
nghĩ thêm cho nhiều mới hiểu rõ được. Pháp đây, đại khái
đức Thế Tôn dạy có ba pháp.
A) Pháp trắng Giải: 1/ Pháp trắng kết quả trắng. Pháp trắng đây ngụ ý chỉ
pháp thiện. Pháp thiện có nghĩa là sự an vui, nếu ta làm
lành như là bố thí, trì giới hay tham thiền thì ta được
hưởng quả an vui trong kiếp hiện tại và vị lai, vì đó
là nguyên nhân làm cho tâm ta trong sạch. 2/ Pháp đen trả quả đen. Pháp đen đây ý nói tất cả
các Ác pháp, nếu hành Ác pháp thì trả quả khổ vì đó
là phiền não ở trong tâm ta. 3/ Pháp không trắng không đen, kết quả không trắng
không đen. Ý nói rằng: Người làm phước không làm cho
hoàn toàn trong sạch, hay không hiểu cho rõ thế nào gọi là
phước, thế nào gọi là tội và khi làm tội, cũng không
làm những tội vĩ đại, vì vậy nên khi bị hay được quả
cũng bằng một cách lưng chừng không rõ rệt, vui cũng không
hoàn toàn vui, khổ cũng không hoàn toàn khổ. Ðức Thế Tôn biết rằng tâm chúng sanh rất là bẩn thỉu,
xấu xa, chất chứa nhiều phiền não, phiền não ấy ví như là
tấm vải đen mà nhơ nhớp, nên Ngài dạy rửa tâm cho trong sạch,
nghĩa là làm cho hết phiền não, hay là làm cho trắng; mà trắng
ấy chính là pháp thiện. Ý Phật muốn dạy chúng ta hãy cố
xóa hay rửa bỏ những điều xấu xa đê tiện, là ác pháp
ở trong lòng ta và tạo thêm phước thiện, là Giới, Ðịnh,
Huệ. Ba pháp này gọi là Thiện pháp hay là Pháp trắng. Vì vậy
nên đức Phật dạy phải rửa lòng trong sạch, phải tiêu trừ
những điều tội lỗi cho tâm được trong sạch, ý dạy ta phải
hành cho đắc quả Niết Bàn, chớ không phải rửa tội như
đạo Bà La Môn ở con sông GANGÀ. Vì rửa tội bên ngoài là
thuộc về phần thể xác; còn về phương diện tinh thần ta
không thể hiểu cho cách rửa tội ấy được. Nếu nói cụ
thể văn hoa thì có thể hiểu là phải rửa tội bằng nước
của các con sông Bố thí, Trì giới, Tham thiền mới làm cho
tâm được trong sạch. Vấn: Bạch Ngài, như vậy người tu Phật muốn đắc quả
Niết Bàn phải nhờ mấy nguyên nhân?
Ðáp: Phải có đủ ba nguyên nhân là: 1/ Nhờ quả báu đã tạo từ quá khứ. Vấn: Bạch Ngài, câu thứ ba dạy "Do nhờ trí tuệ".
Vậy trí tuệ là chi, xin Ngài giải rõ?
Ðáp: Trí tuệ nghĩa là sự quan sát trông thấy thân
này là Vô thường, Khổ não, và Vô ngã. Vấn: Bạch Ngài, xin Ngài hoan hỷ dạy tôi biết và thấy
rõ cái đại khái của trí tuệ ra thế nào, và nó khác với
Tưởng và Thức thế nào?
Ðáp: Trí tuệ đại khái là hiểu rõ triệt để các
lý lẽ của Vô thường, Khổ não và Vô ngã, là hiểu tận
nguồn gốc của ba pháp. Trí nghĩa là hiểu rõ LÝ, SỰ; Tuệ
nghĩa là Tinh mẫn, là Rành rẽ. Tiếng Trí tuệ phải hiểu
khác hơn Tưởng và Thức như vầy: Tưởng chỉ biết rằng vật này có màu xanh, đỏ hoặc lớn,
nhỏ, dài, ngắn v.v... chớ không thể nhận định rằng những
vật ấy đều ở trong ba tướng là Vô thường, Khổ não và
Vô ngã. Còn Thức đã biết rõ hình dáng và màu sắc của vật
trông thấy, còn có biết hơn cái thấy này nữa, là biết rằng
những gì mà đã trông thấy đều là Vô thường, Khổ não
và Vô ngã. Nhưng THỨC không thể đoạn được phiền não ấy
để đắc QUẢ Niết Bàn được. Chỉ có Trí tuệ mới là
hoàn toàn nhận biết hình thể màu sắc là Vô thường, Khổ
não và Vô ngã, mà lại còn có thể quán tưởng biết rõ
nguyên nhân rồi đoạn tuyệt phiền não, đắc QUẢ NIẾT BÀN.
Nhưng Tưởng, Thức và Trí tuệ không thể nào xa nhau được,
ví như một đứa bé, một bà mẹ và người thợ bạc. Khi đứa
bé lượm được cục vàng nó chỉ biết cục vàng thôi chớ
nó không biết giá trị của cục vàng ấy; nó mới đem về
cho mẹ nó coi; người mẹ biết rằng: Vàng là vật có giá trị,
có thể làm vòng, cà rá, dây chuyền được, nhưng bà không
thể làm ra những món đồ đó được, phải đi nhờ người
thợ bạc làm. Ðứa bé ấy ví như Tưởng, vì Tưởng chỉ biết
màu, hình của vạn vật nhưng không biết giá trị. Thức ví
như bà mẹ vì biết rõ màu sắc giá trị của vàng, là biết
Vô thường, Khổ não, Vô ngã, nhưng không thể dứt phiền
não để thoát khỏi ba tướng ấy. Còn Trí tuệ biết hơn hai
pháp kia, là biết chỗ đoạn diệt được tận gốc phiền não,
và giải thoát khỏi Vô thường, Khổ não và Vô ngã, cũng
như người thợ bạc biết làm vàng ấy ra những món nữ
trang. Cả ba Pháp ấy có tánh cách khác nhau như thế. -ooOoo- Vấn: Xin Ngài giải cho tôi rõ chi là Tướng của trí tuệ?
Chi là Vị của trí tuệ? Chi là Thật tướng của trí tuệ?
Ðáp: Tư cách phá tan hay là diệt trừ tận gốc của
các ác pháp là Tướng của trí tuệ. Tư cách đánh đổ được
sự mờ ám là sự si mê che đậy hay phá hoại các ác pháp
là Vị của trí tuệ. Sự không si mê theo các ác pháp và không quên mình để bị
sự cám dỗ của Ma vương là Thật tướng của trí tuệ. Vấn: Bạch Ngài, nếu muốn làm cho trí tuệ tấn hóa
và phát sanh thêm, phải làm thế nào?
Ðáp: Chư hành giả muốn cho trí tuệ phát sanh thêm hay
là làm cho trí tuệ tấn hóa thì phải học cho biết pháp nào
là Nền tảng của trí tuệ và bảy điều Thanh tịnh, tiếng
Păli gọi là VISUDDHI. Vấn: Tôi chưa từng thấy nơi nào dạy nền tảng và bảy
điều thanh tịnh như Ngài vừa dạy, vậy xin Ngài vui lòng giảng
giải cho tôi rõ.
Ðáp: Những pháp có trạng thái khác nhau là KHANDHA nghĩa
là Uẩn, ÀWYATYANA nghĩa là Căn trần, DHÀTU nghĩa là Tứ đại,
INDRIYA nghĩa là Căn. Khi hành giả trông thấy rõ rệt các
pháp ấy và không ham mê theo, là đã có nền tảng của trí
tuệ. Còn bảy điều thanh tịnh " VISUDDHI " là: 1/ SÌLAVISUDDHI, Giới thanh tịnh, Vấn: Bạch Ngài, khi trí tuệ tấn hóa như thế, hành giả
được hưởng những quả báu gì?
Ðáp: Không một ai có thể đo lường quả của trí tuệ
được. Nhưng thấy có chỗ đức Thế Tôn dạy có bốn: 1/ Khi có trí tuệ rồi mới có thể tiêu trừ được các
phiền não. Vấn:
Bạch Ngài, tôi thường nghe có chỗ gọi là Bát Nhã. Vậy
Trí tuệ và Bát Nhã khác nhau chỗ nào? Ðáp: Tiếng Bát Nhã là tiếng âm từ tiếng Nam Phạn
là PANNÀ hay Bắc Phạn gọi là PRÀJNÀ tiếng ta dịch là trí
tuệ cũng đồng một ý.
Vấn: Bạch Ngài, trước hết muốn làm cho trí tuệ
phát sanh phải làm cách nào? Ðáp: Phải hành theo bốn pháp là:
1/ Thân cận với các bậc có trí tuệ. Còn có bốn pháp nữa là: 1/ Phải ráng nghe pháp. Ðây là bước đường tiến hóa của Trí tuệ. Vấn: Bạch Ngài, chúng ta làm thế nào mà phân biệt
được rằng có trí tuệ hay không? Ðáp: Có bốn điều làm cho ta phân biệt được là:
1/ Biết rõ rằng: Ðây là ÁC PHÁP. Sự hành động như thế gọi là Phàm tuệ. Ðiều này ví
như người làm tràng hoa biết chọn lựa các thứ hoa tươi,
thơm và đẹp kết thành tràng hoa. Vấn: Theo lời Ngài dạy trí tuệ có hai phần là Phàm
tuệ và Thánh tuệ. Bạch Ngài, hai tuệ ấy khác nhau thế
nào? Ðáp: Phàm tuệ trí như trái cây còn sống chưa ăn được
vì Phàm tuệ chưa giải thoát được bởi chưa hoàn toàn, lắm
lúc còn bị phiền não làm cho mờ ám.
Thánh tuệ là tuệ của các bậc Thánh nhơn đã tiêu diệt
được tận gốc của phiền não, không còn một tý bợn nhơ
nào trong tâm, mặc dầu còn trong trần, nhưng sau khi bỏ xác
thân này thì nhập Niết Bàn. -ooOoo- Vấn: Bạch Ngài, khi đã qui y theo Chánh pháp, có phải bị
bắt buộc thề thốt hay không, được quyền bỏ đạo không? Ðáp:
Theo các tôn giáo khác thì tôi không được biết, nhưng riêng
về chánh pháp của đức Phật Tổ thì không bao giờ có chuyện
thề thốt, vì Ngài biết rõ rằng những lời chỉ bảo của
Ngài là những phương pháp đem chúng sanh giải thoát, những bực
trí thức đã tin theo Phật pháp thì chắc chắn không còn tin
gì hơn, vì các vị ấy thấy rõ lợi ích của pháp dập tắt
lửa lòng, như thế thì không còn có một lý do gì làm cho
các vị ấy lay chuyển sự tin tưởng được, nên không có sự
thề thốt hay bỏ đạo.
Vấn: Bạch Ngài, một khi là tín đồ của Phật mỗi ngày
phải cúng mấy thời?
Ðáp: Vậy ý ông muốn nói cúng cách nào? Vấn: Bạch Ngài, cúng nước ấy mà.
Ðáp: Không cần cúng nước nôi gì cả. Mỗi ngày chúng
ta để ra một ít thì giờ vào lối bảy hay tám giờ tối,
sáng bốn giờ rưỡi hay năm giờ, thắp nhang đèn làm lễ đọc
kinh Tam Bảo, trong Nhựt Hành theo phái Phật giáo Nguyên Thủy
của chúng tôi đã thông dịch ra từ Nam phạn. Sự tụng kinh
không phải tụng không không mà cần phải hiểu nghĩa của
kinh để hun đúc lòng tin tưởng nơi Tam Bảo và thật hành
theo. Khi tụng kinh xong xin hồi hướng phước lành của mình
đã làm tới những người có ơn với mình, chẳng hạn như
cha mẹ và vợ con v.v... Rồi mình lại phát nguyện cố gắng
tu hành tinh tấn để diệt trừ tận gốc của phiền não, và
xin cho duyên lành sanh lại kiếp nào cũng đều sanh vào gia đình
chánh kiến để tu hành theo chánh pháp, và xin được gặp Phật
ra đời để tu hành theo Ngài. Ðó là pháp lành của một tín
đồ chơn chánh. Vấn: Bạch Ngài, như thế thì Phật giáo dạy rất tiện
và hợp với mọi tầng lớp của dân chúng. Bạch Ngài, hằng
ngày đây đạo quả vẫn còn hay là tiêu diệt rồi, mà mình
không nghe thấy ở đâu có vị Thánh Tăng cả, trong khi hằng
bao nhiêu triệu tín đồ tu Phật?
Ðáp:
Nếu bao giờ Bát Chánh Ðạo còn thì đạo quả vẫn còn; nhưng
tiếc rằng người hành không đúng theo lời của Phật dạy
là một lẽ, một lẽ nữa là duyên lành của chúng ta còn
ít, chưa có thể đắc đạo quả được. Hơn nữa nếu có
thì các Ngài đắc quả cũng không bao giờ bảo ngay với
chúng ta rằng: "Bần đạo đã đắc được quả này, quả
nọ." Vì những lẽ kể trên, nên chúng ta không gặp được
các đấng cao cả ấy. Nhưng chúng ta ráng lo tu thì ngày kia
chúng ta cũng gặp và cũng đắc quả vị ấy. Vấn: Bạch Ngài, chi là Tướng của đạo?
Ðáp: Giới, Ðịnh và Huệ là Tướng của đạo, vì ba
pháp ấy là pháp trừ diệt phiền não. Người vâng giữ hành
theo ba pháp ấy là pháp hoàn toàn trong sạch gọi là người
ở trong đạo. Một khi người cố công hành đúng mức thì sẽ
được kết quả, đó là Niết Bàn. Riêng chúng ta hằng ngày
đây tạm gọi là ở trong đạo, hay có thể nói là ở trong
phàm đạo. Ý tôi muốn nói rằng chúng ta đang cố gắng hành
theo cho thành chánh quả, nhưng chưa diệt nổi tận nguồn gốc
của phiền não, nên còn là Phàm nhơn, hay là Phàm đạo. Còn
quả Thánh của các bực Thánh Nhơn thì gọi là Thánh đạo. Tôi
xin ví dụ: Ái dục và phiền não ví như các chứng bịnh; người
còn trong vòng cương tỏa của Ma vương như chúng ta ví như
người bịnh; đạo ví như thuốc chữa bịnh. Khi người bịnh
biết rằng ta có bịnh phải cố gắng uống thuốc thì sẽ khỏi
bịnh, cũng như hành giả biết rằng mình có bịnh về tinh thần,
phải mau tìm thuốc tinh thần chữa bịnh, ấy là hành đạo;
khi hành đúng theo và không hề giãi đãi, cứ hành cho đến
nơi cùng tột thì sẽ được giải thoát, cũng như người bịnh
uống đúng theo toa của bác sĩ và độ lượng của bác sĩ đã
dạy thì người bịnh ấy sẽ mạnh. Vấn: Bạch Ngài, tại sao gọi là bể khổ trầm luân?
Ðáp: Ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới
còn trong ở trong vòng của ba tướng là Vô thường, Khổ não
và Vô ngã, lại là chỗ trú ngụ của chúng sanh, nơi ấy toàn
là những điều đau khổ, cũng như biển cả là nơi trú ngụ
của loài thủy tộc, có sóng lớn nhận chìm ghe thuyền. Trầm
luân theo Phật pháp có ý nghĩa là chìm đắm trong ba cõi sáu
đường. Chúng ta bị chìm đắm như vậy mãi mãi là do vô
minh, ái dục ví như lượn sóng cuốn ta chìm mãi; sở dĩ ta
không giải thoát được là vì ta không đủ sức trấn áp những
lượn sóng ấy, cũng như người hành đạo không giải thoát
được, là vì không hành cho đúng độ của đức Phật dạy,
nên bị phiền não lôi cuốn. Vấn: Bạch Ngài, còn tại sao gọi là Tam giới?
Ðáp: Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc
giới. Trong ba cõi ấy sự an lạc khác nhau. Vấn: Xin Ngài giải cho tôi biết trong ba cảnh ấy sự
an lạc khác nhau như thế nào?
Ðáp: Cõi nào hưởng sự an lạc theo sắc, thinh, hương,
vị, xúc, gọi là cõi Dục giới. Cảnh sắc là cảnh thọ hưởng
an vui do quả của Thiền định. Trong kinh dạy rằng: "Cõi
ấy không phân biệt đàn ông hay đàn bà, cõi ấy gọi là
cõi Phạm Thiên. Cõi Vô sắc là cõi không còn có sắc tướng,
cõi này chỉ còn một điểm linh quang thừa hưởng quả của
Thiền Vô sắc đã được trong khi còn ở trong cõi người. Phải
đắc được Thiền định trong cõi này mới sanh về cõi Sắc
và Vô sắc ấy được. Còn cõi người được sanh về cõi Dục
là nhờ quả của sự bố thí hay trì giới hay là kính trọng
những bực trưởng thượng. Vấn: Bạch Ngài, cõi Sắc và Vô Sắc không có tình dục,
vậy đó không phải là Niết Bàn sao?
Ðáp: Hai cảnh ấy nhờ Thiền định đè nén được lòng
dục vọng trong thời gian có hạn định tùy theo hành giả dằn
được phiền não, chớ không phải diệt trừ được tận nguồn
gốc của phiền não như các bậc Thánh nhơn. Hai cảnh ấy có
thể ví như một sân cỏ bị người ta lấy đá trải lên, cỏ
ấy mọc không được vì bị đá trải lên trên chớ không phải
không có cỏ. Ðá trải lên trên đám cỏ ấy ví như Thiền
định. Còn cỏ ví như phiền não, khi đem đá ấy đi thì cỏ
lại mọc lại như thường. Muốn không cho cỏ mọc lại được
thì phải tận diệt cho hết gốc của nó. Nước đục đem lóng trong, nếu ta không lọc lại một lần
nữa, thì khi bị xao động nó sẽ đục lại như trước; đó
cũng như tâm của con người được thanh tịnh là do nhờ thiền
định làm cho lóng trong, một khi Ngũ căn chạm phải Ngũ trần
thì phiền não sanh lại như cũ. Muốn không cho tâm đục lại
thì phải nhờ Thánh tuệ diệt tận phiền não như nước nhờ
bình lọc hết cặn thì nước không bị đục lại. Vấn: Bạch Ngài, tại nguyên nhân nào làm cho chúng sanh
phải luân hồi trong tam giới này mãi mãi?
Ðáp: Do nghiệp Thiện hay Ác phát sanh tùy thân, khẩu,
ý. Do quả của nghiệp ấy mà người tạo ra; vì các quả ấy,
nên chúng sanh phải sanh trở lại để hưởng hay thọ theo
nghiệp Thiện hay Ác. Nghiệp thiện là không tham, không sân,
không si, còn nghiệp ác là tham, sân, si. Vấn: Bạch Ngài, nếu ta muốn ngăn ba điều ác này, phải
làm cách nào?
Ðáp: Cách ngừa ba điều ác ấy, đức Thế Tôn có dạy
rằng: Trước nhứt phải thu thúc lục căn, phải dùng trí tuệ
quán tưởng rằng Lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp do nơi Lục căn đã thọ rồi, đều là Vô thường, Khổ
não, và Vô ngã. Khi tâm tham sanh lên nó tưởng rằng các pháp
mà nó được là trường tồn. Một khi mà tâm ta nhận thấy
rằng vạn vật gì đã có trong trời đất đều phải bị dưới
quyền sở hữu của sự thay đổi là vô thường, không bền
vững, mặc dầu ta có ráng giữ cũng chẳng được nào, khi đã
nhận thấy Vô thường như thế thì tâm không còn có thiết
gì đến vật chi, vì có được vật ấy chăng nữa cũng không
giữ nó được mãi với ta, hay là nó bị tiêu diệt trong khi
ta chưa muốn xa nó. Một khi biết là khổ não do nơi lòng sân
hận thì không bao giờ người ta dại gì mà sân hận để
mang lấy cái hậu quả khổ sở. Một khi thấy và biết rõ mọi
vật đều không phải của ta hay là ta thì con người còn
ngoan cố hay là cố chấp làm chi cái vật đầy tội lỗi và
không trung thành ấy? Vấn: Bạch Ngài, tại sao lại phải thu thúc Lục căn?
Thu thúc để làm gì?
Ðáp: Ðể ngăn ngừa không cho tâm cảm xúc với cảnh
trần, vì khi ta bị cảnh trần chạm phải, làm cho tâm xao xuyến
hoặc vì tham lam, sân hận, hoặc si mê; vì những sự xúc động
ấy tâm ta mới làm tội lỗi nên đức Thế Tôn dạy ta phải
thu thúc Lục căn. Vấn: Bạch Ngài, xúc động thế nào đến đỗi tâm ta
tu hành không được?
Ðáp:
Ví như mắt trông thấy sắc đẹp thì tâm lại thọ sự
khoái lạc của sự thấy sắc đẹp ấy, tiếp theo là lòng dục
vọng phát sanh; khi ấy tâm lại tìm tất cả các phương pháp
làm sao cho đoạt được sở thích của nó. Những tội lỗi
phát sanh lên cũng vì ta thiếu thu thúc Lục căn cho thanh tịnh.
Còn năm căn kia cũng thí dụ mường tượng như vậy.
Vấn:
Bạch Ngài, theo tôi thiết tưởng mình không cần phải thu
thúc chi cho mệt, khi nào mình biết rõ sắc kia thâm nhập vào
tâm mình rồi, mình quán tưởng dứt bỏ nó cũng được chớ
có sao? Ðáp: Ông nói nghe xuôi lắm và như thế thì rất dễ
cho những người tu quá. Nhưng tôi xin hỏi ông: Ông đào giếng
trước khi khát nước hay đợi khát mới đào?
Vấn: Lẽ cố nhiên là phải đào giếng trước khi khát
nước. Nếu để đến khi khát mới đào thì đã chết trước
khi được nước! Ðáp: Phải, cũng như sự thu thúc Lục căn vậy; lẽ cố
nhiên phải thu thúc trước chớ để ngoại cảnh thâm nhập rồi
thì chỉ còn chịu chết với nó thôi. Chắc ông không quên
câu: Ngừa bịnh hơn trị bịnh chớ?
Vấn: Bạch Ngài, tôi có xem kinh, chỗ đức Phật dạy các
thầy Tỳ khưu rằng: Lục căn là lửa. Bạch Ngài, vậy ý đức
Phật muốn dạy sao? Chớ nếu là lửa thì làm sao chư Tỳ
khưu và chúng ta sống được? Ðáp: Lửa có nhiều thứ: lửa than, lửa rơm, lửa điện
vv... Chúng ta có thể dập tắt nó được bằng nước hay bằng
chất hóa học, hoặc chúng ta tìm thế ngăn ngừa. Còn thứ lửa
không ngọn, không khói thì có chi là triệu chứng để cho chúng
ta biết rằng đây là lửa để ta diệt trừ nó? Ðáng sợ nhứt
là thứ lửa đó, lửa của Lục căn nó nóng tột bực, nó hằng
thiêu đốt trí tuệ của chúng ta, mà chúng ta không bao giờ
thấy và biết được. Lửa của lục căn chúng ta không thể
tắt được bằng nước hay bằng chất hóa học được.
Vấn:
Vậy xin Ngài dạy cái nóng của nó cho tôi hiểu trước.
Ðáp: Sự nóng của lửa Lục căn, chúng ta không thể nhận
thức được là vì khi nhãn thức tiếp xúc với sắc trần rồi
nó thọ một điều nào trong ba điều, là ưa thích, không ưa
thích hay là không ưa thích mà cũng không ghét. Nhưng phần nhiều
là ưa thích hay không ưa thích chớ ít khi có thản nhiên. Một
khi gặp trường hợp nó không ưa thì lòng nó nóng nảy ghét
vơ, muốn tìm thế diệt trừ điều ấy đi cho khuất mắt, đó
là một thứ lửa đốt tâm ta mà ta có để ý biết nó đâu.
Còn như gặp điều nào làm nó ưa thích, mà nó không thể
chiếm vật ấy được, thì tâm cũng buồn rầu đau khổ và
nóng nảy vô cùng. Xin lỗi ông, trong khi ông sống ở đời phải
gặp biết bao nhiêu trường hợp như vậy, ông có quan tâm đến
hay không? Ông có biết đó là vật nóng nhứt không? Vấn: Khi Ngài dạy như thế tôi mới nhận thấy khi mất
hay gặp những sự thương ghét thì lòng mình nóng nảy lắm;
nhưng đáng thương hại là chính mình không hay biết rằng
mình đang bị Lửa Tam Ðộc thiêu đốt. Nhưng bạch Ngài, chỉ
riêng chư Ðại đức là các bực xa lánh hồng trần nên thu
thúc dễ dàng còn chúng tôi làm gì thu thúc được như quí
Ngài? Ðáp: Ðành như lời ông nói, nhưng cũng có cách để
cho ông thu thúc lần, chẳng hạn bớt coi những điều không bổ
ích cho mình mà còn làm cho gia tăng phiền não, như xem các thứ
hát, vì khi xem hát con người không thế nào tránh khỏi những
điều làm cho tâm mình xúc động hay là thương ghét riêng,
làm cho tâm mình phóng túng và quen thích mê say. Ngoài ra ông
còn phải ráng xa lánh bạn ác, nói chuyện nhảm nhí vô ích
vv... Khi ông làm như thế thì làm cho Lục căn của ông được
trong sạch thêm lên. Người mà Lục căn không trong sạch thì
giới hạnh cũng không được trong sạch. Ví như tòa nhà thật
đẹp mà không có hàng rào, thiếu cái hàng rào làm cho tòa
nhà mất vẻ nguy nga tráng lệ mà cũng dễ cho kẻ trộm dòm
ngó và trộm cắp được dễ dàng, khó giữ được sự hao mòn
hư hại. Người có giới cũng như tòa lầu ấy; không có thu
thúc cũng như không có hàng rào. Kẻ trộm đây ví như các cảnh
trần bên ngoài thâm nhập vào trộm các Thiện pháp của ta hết.
Vì vậy dầu là người Cư sĩ nhưng cũng cần phải thu thúc Lục
căn.
Vấn:
Bạch Ngài, những gì Ngài đã dạy, tôi thấy tôi đã thông cảm
được. Nhưng xin Ngài dạy phương pháp nào tiêu trừ được
chất nóng ấy? Ðáp: Nó là chất lửa không ngọn thì mình nên dập tắt
nó bằng nước không nguồn.
Vấn: Bạch Ngài, xin Ngài vui lòng dạy cho, chớ Ngài bảo
thế thì tôi không đủ trí tuệ để hiểu nổi. Ðáp:
Nước không nguồn là một thứ nước không ai tìm ra, ngoại
trừ đức Chánh đẳng Chánh giác tìm thấy dưới cội Bồ đề,
nước ấy là thu thúc Lục căn cho thanh tịnh. Lục căn thanh tịnh
là nguyên nhân làm cho Giới thanh tịnh, Giới thanh tịnh là
nguyên nhân làm cho Tâm thanh tịnh, Tâm thanh tịnh thì Thiền
định lại phát sanh, Thiền định phát sanh thì Trí tuệ lại
sanh. Tuệ là nguyên nhân hay nói cho đúng là lưỡi gươm rất
bén đoạn tuyệt được phiền não. Ðó là nước không nguồn
để dập tắt lửa không ngọn.
Vấn: Bạch Ngài, đành rằng phải thu thúc, nhưng một
khi hơ hỏng để Ngũ trần thâm nhập vào tâm rồi, thì hành
giả phải làm sao?
Ðáp: Ðức Phật dạy, khi ấy phải ráng dùng Trí tuệ
quan sát cho thấy rõ điều đã thâm nhập vào tâm ta là Vô thường,
Khổ não và Vô ngã. Chúng ta bị luân hồi là vì chúng ta hằng
cho rằng: Ngũ căn này là của ta, mà Ngũ trần cũng là của
ta, nên khi được nó thì vui, còn khi mất nó thì buồn; khi
được nó, lại sợ mất, chỉ lo giữ thì càng khổ hơn nữa.
Khi mất nó có hai cái khổ khác nhau là: Ðiều thứ nhứt vì
bị kẻ khác chiếm mất, hay là bị hư hoại vì thời gian,
không gian; điều thứ hai là khi ta còn đang thỏa thích với vật
ấy mà ta lại phải bỏ, vì bị bắt buộc, hay là ta chết bỏ
nó lại. Những điều kể trên ta phải bị một điều nào,
không sao khỏi. Ta không còn có phương pháp nào giữ những vật
mà ta thương yêu quí mến ở lại với ta được. Khi suy nghĩ
thấy thế mới có thể chận đứng và tiêu trừ được điều
mà đã thâm nhập vào Tâm ta. Người mà diệt trừ được các
điều ấy là nhờ có Minh, Sát, Tuệ. Vấn: Bạch Ngài, khi suy nghĩ như thế thì mình thấy
chán với cõi đời ô tục này thật, tôi chỉ nghe Ngài dạy
mà tôi nhận thấy nếu tôi biết suy nghĩ như thế này từ xưa,
thì chắc ít có oan trái, oán thù và tội lỗi. Bạch Ngài,
có chỗ này tôi cần hỏi và xin Ngài tha tội. Nếu các bực
tu hành quán tưởng thấy rõ là thân này là Vô thường, Khổ
não và Vô ngã, tại sao các Ngài vẫn còn vui sống với nó, vậy
tại sao không uống thuốc độc chết đi cho rồi để khỏi
phải khổ? Vì khi còn mang cái thân này ngày nào thì còn khổ
ngày ấy.
Ðáp: Ông hỏi nghe cũng có lý thật, nhưng trái lại,
tôi còn có một ý nghĩ khác cũng lạ, xin hỏi lại ông: Có
khi nào ông bị ghẻ không? Vấn: Tưởng bịnh chi chớ bịnh ấy thì tôi thường có,
đây tôi đang băng nó đây. Bạch Ngài, Ngài hỏi chi vậy?
Ðáp: Vậy coi bộ ông thương mụt ghẻ ấy quá, phải
không? Vấn: Bạch Ngài, thương làm sao được mà thương, nó
hành đau nhức ăn không ngon, ngủ không yên, mà lại còn hôi
hám khó chịu quá.
Ðáp: Vậy mà tôi tưởng ông thương nó lắm chớ. Nếu
ông không thương nó tại sao ông phải luống công chăm nom rửa
ráy, băng bó, thuốc men cho nó luôn luôn không ngớt? Vấn:
Bạch Ngài, sự thật tôi không thương nó chút nào hết, nhưng
tôi phải chăm nom nó cho mau lành đặng tránh khỏi sự đau nhức
do nó hành; kỳ thật thì không phải một mình tôi, mà ai ai cũng
đều ghê tởm và kinh sợ nó. Ðáp: Các bực hành giả cũng vậy, vị nào cũng đều
chán sợ xác thân này lắm, cũng như ông ghê sợ mụt ghẻ
kia vậy. Vì xác thân này làm cho chúng ta đau khổ khó chịu
vô cùng, nhưng cũng phải ráng lo chăm nom nó, cũng như chính
ông chăm nom mụt ghẻ kia vậy.
Vấn:
Bạch Ngài, Ngài chỉ dùng những thí dụ rất thực tế làm
cho dễ hiểu được những cái khó khăn. Bạch Ngài, trong kinh
có chỗ dạy cha, mẹ, chư Phật, chư Thinh Văn đệ tử Phật,
chồng, đều là lửa. Bạch Ngài, tại sao các bậc ấy đều
là lửa? Nếu nói các bậc ấy là lửa, vậy ta phải đốt lửa
lên thờ như Bà La Môn vậy sao?
Ðáp: Lửa đây đức Thế Tôn ngụ ý khác, chớ không
phải lửa giết người như ông nghĩ. Lửa có hại, mà cũng có
lợi: Nếu người biết dùng lửa đem nấu cơm hay hơ ấm
trong mùa giá rét, hoặc đốt cho sáng trong nhà, thì lửa có lợi;
bằng ta dùng lửa đốt nhà thì lửa rất có hại. Vì vậy
nên đức Thế Tôn ví các bậc ấy với lửa. Vậy người nào
biết dùng lửa, tức là biết cung phụng, kính nể, vâng lời
các bậc ấy, thì sẽ được kết quả lợi ích lâu dài. Bằng
khinh bỉ, chưởi mắng, chê bai thì bị tội lỗi, như tự
đem lửa thiêu lấy mình hay đốt nhà mình.
Vấn: Bạch Ngài, các bậc hữu ân như Cha, Mẹ, Phật,
chư Thánh nhơn là các bậc có công đức cao dầy, đáng cho
chúng ta lễ bái cúng dường đã đành tôi không dám cãi, nhưng
chồng mà cũng coi như là các đấng kể trên thì đáng thương
hại cho hàng phụ nữ bao giờ cũng bị thiệt thòi quá. Như vậy
thật là bất công. Xin Ngài giải rõ coi có ẩn ý gì trong ấy
không? Ðáp: Phàm người chồng, đúng theo lời Phật dạy,
không phải là con người say sưa, cờ bạc hành hạ vợ như kẻ
tôi đòi, hoặc xem vợ như cái máy để đẻ con nối dòng cho
họ như ta đã thấy nhiều trong đời này đâu. Bổn phận của
một người chồng khuôn mẫu, bao giờ đối vợ cũng như là
một người anh đối với người em gái, như người cha đối
với người con, như người bạn tâm giao hay là bạn lành bao
giờ cũng thủ lễ không dám làm phiền lòng nhau. Theo trong
bài kinh SINGÀLOVADASUTTA (ta dịch là Lễ Bái Lục Phương). Ðức
Phật có dạy rằng ông chồng, người tại gia cư sĩ còn
trong gia đình phải có tư cách tốt đối với vợ hiền, làm
cho đáng mặt người mà vợ kính nể, thương yêu, quí mến,
vâng lời. Ðức Thế Tôn dạy người chồng ấy phải có đủ
năm yếu pháp là:
1/ SAMMÀNANÀYA, thương mến vợ và luôn luôn nói lời dịu
ngọt. Ý nói phàm người chồng đứng đắn, mặc dầu đã
ăn ở với nhau đến răng long đầu bạc, cũng luôn luôn lễ
phép với vợ như lúc ban sơ. Mặc dầu vợ có làm gì sái
ý nghịch lòng, người chồng cũng dùng lời dịu ngọt
khuyên răn, chớ không dùng lời thô lỗ, cộc cằn chưởi mắng. 2/ AVIMANÀNAYA, không hà hiếp và khinh bỉ vợ. Ông chồng
đúng đắn không bao giờ dùng quyền thế hà hiếp vợ,
khinh bỉ vợ khi biết vợ nhà thiếu một điều nào trong
Công, Dung, Ngôn, Hạnh. 3/ ANATICARIYÀYA, không ngoại tình. Ông chồng đúng đắn
luôn luôn giữ một lòng thương vợ, không bao giờ ngoại
tình. Ðây là một điều trong ngũ giới cấm. Một số lớn
gia đình bị tan rã cũng vì thiếu điều này. 4/ ISSARIYAVASSAGGENA, giao chủ quyền trong gia đình cho vợ.
Vì sanh sống theo quan trường hay là trên đường thương mãi,
ông chồng không có đủ thì giờ trông lo việc gia đình,
nên giao chủ quyền ấy cho vợ. Chẳng những vậy, khi vấp
phải vấn đề gì khó giải quyết, chồng nên đem ra bàn với
vợ, ví dầu biết rằng vợ nhà không giúp được, nhưng đây
là phương pháp làm cho vợ vui lòng. Làm như vậy, chồng cho
vợ mặc nhiên cảm thấy rằng mình cũng là người quan trọng
trong việc làm ăn và trong gia đình, khi ấy vợ lại càng hết
lòng lo cho gia đình. Hơn nữa, vợ nhận thấy bằng chứng
được chồng tin cậy. Nếu vợ chồng không thật lòng với
nhau thì sẽ đi tới chỗ tai hại. 5/ ALANKÀRANUPPADÀNENA, cho những vật trang sức. Nếu nói
là phải cho hằng ngày hằng tháng thì của đâu cho đủ mà
cho. Ðây ý nói rằng: Tùy thời mà cho. Theo ý tôi thì cho
trong ngày lễ sinh nhựt của vợ hay một ngày lễ nào của
gia đình. Cho như thế để tỏ ra người chồng mặc dầu phải
lo làm ăn, nhưng cũng không quên người vợ duy nhứt và bao
giờ cũng hết lòng săn sóc, chăm nom. Lẽ cố nhiên, người đàn ông nào có đủ đức tánh này,
thì bà vợ phải kiêng nể, kính vì, không nghi kỵ, thì trong
gia đình mới được đầm ấm, an vui. Riêng phần bà vợ, khi ông chồng có đủ các đức tánh kể
trên, bổn phận làm vợ phải cư xử hoàn toàn như người em
gái đối với người anh hay là người con đối với cha luôn
luôn kính nể và lễ phép. Ðức Phật dạy người vợ hiền luôn phải có đủ năm pháp
là: 1/ SUSAMVIHITAKAMMANTÀ, lo sắp đặt việc gia đình cho có thứ
tự. Người vợ là người quan trọng nhứt trong gia đình,
tiếng Phạn gọi là MÀTUGÀMA nghĩa là Mẹ của gia đình.
Khi có khách đến trông thấy nhà cửa sạch sẽ, chưng dọn
vén khéo, người ta có thể đoán rằng: Bà nội trợ trong
gia đình này là hạng người nào. Vì vậy bổn phận làm vợ
phải lo cho nhà cửa được thứ tự, sạch sẽ, làm thế
là làm cho chồng nở mặt với bạn bè. 2/ SUSANGAHITAPARIJANÀ, tiếp đãi và giúp đỡ quyến thuộc
của chồng như của mình. Nghĩa là hết lòng cung kính cha mẹ
chồng, tiếp đãi quyến thuộc của chồng cũng như của mình,
không tỏ vẻ buồn giận hay lợt lạt. Người vợ hiền, là
người biết yêu kính chồng và không có tánh rầy con, quở
tớ, chưởi chó, mắng mèo. 3/ SAMBHATANCA ANURAKKHATI, biết gìn giữ của cải mà chồng
đã giao phó cho. Ý dạy rằng: Khi được chồng giao phó làm
chủ gia đình, thì tùy thời mà sử dụng tiền bạc ấy,
không nên cờ bạc, không đút nhét cho quyến thuộc của
mình, không chi tiêu vô ích. Nếu cần, bà nội trợ nên có
một quyển sổ chi tiêu gia đình. Ðành rằng ông chồng
không bắt buộc, nhưng đó là phận sự của bà nội trợ.
Sự thành thật với chồng như thế là một sợi dây thiêng
liêng để cột chặt Chồng, Vợ. 4/ ANÀTICARINÌ, không ngoại tình. Ðây là một giới trong
năm điều răn của thiện tín thật hành. 5/ DAKKHACÀHOTIANLASÀSABBAKIC-CESU, giỏi giắn, siêng năng, không
lười biếng làm việc trong gia đình. Ý nói rằng: Từ việc
nhỏ tới việc lớn của gia đình, bà nội trợ không hề bỏ
qua một việc nào. Nói về sáu thứ lửa mà nơi đây tôi nói nhiều về gia đình
để ông trông thấy rằng: Chồng là người đối với vợ phải
có phận sự thế nào, và bà vợ hiền phải làm sao để bảo
toàn được nguồn hạnh phúc của gia đình. Vấn: Từ hồi nào tới giờ tôi không thể tưởng rằng
trong Phật giáo lại dạy lối ăn ở như Ngài vừa dạy, nên
tôi nghĩ chắc Phật giáo chỉ dạy cho những người xuất gia
thôi. Bạch Ngài, xin Ngài vui lòng dạy cho tôi biết rằng: Tại
sao trong kinh có chỗ dạy sát sanh có phước, mà trong Ngũ giới
dạy sát sanh có tội? Ðáp: Phải, người có giới mà sát sanh thì có phước;
còn người không có giới mà sát sanh thì có tội.
Vấn: Bạch Ngài, tại sao lạ vậy? Ðáp: Như tôi đã nói, lắm khi chúng ta phải dùng Trí
tuệ để hiểu Phật ngôn vì khi xưa có nhiều vị trí thức
hỏi đức Thế Tôn nhiều chuyện lạ, Ngài nhân cơ hội ấy
đáp lại nhiều điều lạ nên làm cho chúng ta khó hiểu được
lý giảng giải của Ngài. Ðức Phật dạy sát sanh có nghĩa
như vầy: Người muốn tìm đường giải thoát hằng trông nom
coi chừng tâm đừng cho bao giờ xao lãng, một khi thấy tâm
xao động vì một ác pháp nào sanh ra, thì lập tức tiêu trừ
ngay, nên gọi rằng "sát sanh " có phước vì "sát
sanh " đây là giết những "Ác pháp" sanh trong
tâm, chớ không phải giết người hay giết thú.
Vấn: Bạch Ngài, không biết do pháp nào mà làm cho phước
thiện phát sanh? Ðáp: Do nơi đức tin chơn chánh cũng gọi Chánh tín, là
tin nơi Tam Bảo, hành theo lời Phật dạy: Bố thí, Trì giới,
Tham thiền. Ðức tin là nguồn gốc sanh ra phước thiện; vì
có đức tin mới làm được mọi việc lành.
Vấn: Bạch Ngài, làm sao cho ta biết rằng: người kia có
đức tin và cho ta biết rằng: ta có đức tin? Ðáp:
Có ba trạng thái cho ta nhìn biết rằng có đức tin hay không.
Ba điều ấy là: 1/ PASÀDASADDHÀ, làm cho tâm ta được trong sạch. Vấn:
Bạch Ngài, chúng ta hằng nói đến PHƯỚC, vậy chúng ta làm
sao thấy Phước được?
Ðáp: THÂN, KHẨU, Ý trong sạch, thanh tịnh, yên vui, ấy
là TRẠNG THÁI của PHƯỚC, vì tiếng PHƯỚC ngụ ý chỉ sự
AN VUI, hoặc chỉ sự TỐT LÀNH, GIÀU SANG, hay việc MAY MẮN.
Người mà Thân, Khẩu, Ý được trong sạch là người không
có sự thống khổ, không bị sự rủi ro. Ðược như vậy là
người có nhiều PHƯỚC.
Vấn: Bạch Ngài, nói đến phước thì ai ai cũng đều
ưa thích ham muốn mà tôi không hề thấy và không biết rằng
phước ấy để ở chỗ nào, xin Ngài chỉ cho. Ðáp: Phước là pháp vô hình không ai chỉ được,
nhưng tôi có thể chỉ cho ông bằng ví dụ. Nhưng trước khi
chỉ cho ông rõ bằng những lời ví dụ, tôi xin ông trả lời
những câu hỏi của tôi trước. Vậy tôi xin hỏi ông: Ông
có biết tiếng Pháp không? Biết tiếng Lào không? Biết tiếng
Việt không?
Vấn: Bạch Ngài, tôi biết những thứ tiếng ấy. Bạch
Ngài, Ngài hỏi chi, có chuyện gì chăng? Ðáp: Có chớ, vậy xin ông trả lời thêm cho tôi một
câu nữa. Vậy những thứ tiếng mà ông biết ấy ông để đâu,
mà tôi không thấy?
Vấn: Ngài hỏi thế thì khó chỉ quá, nếu tôi nói để
trong óc, thì thế nào Ngài cũng hỏi: Các vị Bác sĩ thường
mổ óc con người sao không thấy chữ và tiếng cất trong ấy?
Chừng ấy càng khó trả lời với Ngài. Còn nói ở trong tâm
thì chắc Ngài cũng hỏi thêm không thể đáp lời được. Tôi
xin thưa thật rằng: Tôi không biết để chỗ nào, nhưng khi cần
thì tôi có dùng ngay. Vậy xin chịu thua Ngài chỗ cất dành chữ,
vì tôi không đủ trí hay nói rõ là không đủ phương tiện
để chỉ cho Ngài thấy rõ nơi để chữ. Ðáp: Hay là ông không biết các thứ chữ và tiếng ấy
chăng?
Vấn: Biết chắc chắn vậy, bao giờ tôi lại dám dối
Ngài. Ðáp: Tôi chỉ hỏi thử ông vậy thôi, chớ nếu ông
không thông những thứ chữ và tiếng ấy thì làm sao làm việc
cho được. Phước mà ông muốn biết cũng thế, có thật nhưng
không thể chỉ được là để chỗ nào. Ông nghĩ thêm cho kỹ
coi, chữ và tiếng mà ta thường đem ra sử dụng hằng ngày
mà ta còn không thể chỉ chỗ ở, hay chỗ mà ta cất để
được thay, phương chi là chỗ của phước làm sao chỉ cho
được. Nhưng chúng ta có thể nhận biết hay phân biệt được
phước như thế này là: bao giờ Thân, Khẩu, Ý trong sạch,
vui vẻ, sung sướng gọi là phước.
Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy vậy thì chúng tôi cũng hiểu,
nhưng xin Ngài cho thêm một, hai cái ví dụ nữa cho dễ hiểu. Ðáp: Như ông trồng một cây bưởi, ông tin chắc rằng
nó sẽ có trái thì ông mới trồng, có phải vậy không?
Vấn: Bạch Ngài, phải vậy. Ðáp: Vậy một cây bưởi mấy năm có trái?
Vấn:
Bạch Ngài, tôi không hiểu rõ vì không có làm vườn, nhưng
cũng ước độ ba hay bốn năm nó có trái. Ðáp:
Trong thời kỳ nó chưa có trái, vậy ông có chắc và định rằng:
trái nó sẽ trổ ở chỗ nào, cành nào hay không?
Vấn: Bạch Ngài, chuyện ấy làm sao dám chắc được.
Ðáp: Trong khi nó chưa có trái, ông lại đốn nó rồi
đem đi chẻ manh, chẻ mún ra để kiếm coi trái nó ở chốn
nào, nhánh nào, vậy ông có thể tìm trái nó bằng cách đó
được không? Vấn:
Bạch Ngài, chuyện ấy cũng không giúp cho tôi thấy và biết
chỗ trái trổ được. Ðáp: Còn như chúng ta cố công vun quén cho nó đến thời
kỳ đúng sức nó, vậy nó có thể trổ trái hay không?
Vấn: Bạch Ngài, theo phương pháp sau này thì chắc có kết
quả, nhưng nhiều hay ít không nhứt định được. Ðáp:
Thế là một chuyện lạ, vì khi chẻ ra kiếm không có, không
thấy, còn để tới đúng sức và mùa thì lại có. Kỳ quá
ông nhỉ?
Vấn: Bạch Ngài, đó cũng không chi là lạ, chỉ vì chưa
tới lúc nó trổ sanh trái thôi; nếu chưa tới lúc thì làm
sao chỉ chỗ được.
Ðáp: Phước cũng vậy, nếu nó chưa tới thời kỳ cho
chúng ta hưởng quả thì chúng ta cũng không thể chỉ chỗ của
nó ở được, mà ta cũng không biết nó ở nơi nào, dầu ta
có moi trong óc, móc trong tim, cũng không tìm ra được. Ðó là
một ví dụ cho ông dễ hiểu. -ooOoo- Vấn: Bạch Ngài, lấy chi làm bằng chứng chắc chắn rằng
Phật pháp CÓ THẬT?
Ðáp: Phật pháp có thật bởi có thể căn cứ vào hai
pháp: Pháp Học và Pháp Hành. Pháp học là Kinh, Luật, Luận của
đức Thế Tôn đã giáo truyền, chư Tỳ khưu đang học và
hành theo. Còn pháp hành là hành theo ba mươi bảy NHÂN SANH QUẢ
BỒ ÐỀ. Vấn: Bạch Ngài, hai phép học và hành để chỉ rõ và
làm chứng chắc rằng có Phật pháp chắc thật. Xin Ngài cho
tôi biết coi khi học vậy có hành hay không, còn khi hành có học
hay không. Còn hiện giờ, Ngài ở trong pháp học hay pháp
hành?
Ðáp: Trong pháp học cũng có hành, như nghiêm trì giới
luật, thu thúc lục căn thanh tịnh, rồi cố tâm học cho
thông hiểu Tam Tạng Pháp Bảo của đức Phật đã giáo truyền.
Nhưng vì trong khi học ấy không có Tham thiền về chỉ quán
hay Minh, Sát, Tuệ. Các nhà sư còn trong pháp học là vì các
Ngài còn phải học cho hiểu thông mới có thể tầm lấy nơi
thanh tịnh để tự hành Thiền định khỏi phải tìm thầy.
Nhưng gọi là pháp học vì các Ngài không hành Thiền định,
không ở nơi thanh vắng, nên người ta vẫn tưởng rằng học
không, không có hành. Sự thật thì các Ngài đều có hành mà
chỉ giữ giới cho trong sạch thôi. Còn về pháp hành thì các Ngài hằng ở nơi thanh tịnh lo
tham thiền nhập định, không chịu ở nơi có thiện nam, tín
nữ; các Ngài chỉ tìm sự giải thoát cho cá nhân thôi. Nếu
những bậc xuất gia đều lo về pháp hành hết thì ông đâu
có được biết giáo pháp của đức Thế Tôn. Vì vị nào cũng
tìm rừng sâu, núi thẳm để tìm hương vị của giải thoát. Vấn: Bạch Ngài, theo Ngài dạy vậy thì tôi hay vậy, nhưng
lòng tôi cũng vẫn còn nghi ngờ không biết có Phật thật hay
không. Vì tôi và tất cả người hiện giờ không ai gặp đức
Phật hết.
Ðáp: Ông không tin vậy cũng phải, nhưng riêng tôi thì
tin chắc lắm. Nếu ông tha lỗi, tôi có một cách chỉ cho
ông thấy rõ có đức Phật. Vấn: Bạch Ngài, theo tôi tưởng thì Ngài đã hiểu tôi
rồi, xin Ngài tùy tiện giải cho tôi rõ, Ngài coi tôi như là
người thiện nam của Ngài.
Ðáp: Ðược vậy còn gì quý hơn, vì câu hỏi này hơi
bất nhã, nên tôi phải cáo lỗi với ông trước mới dám hỏi
sau. Vậy ông có trông thấy hay gặp ông Sơ của ông hay
không? Vấn: Bạch Ngài, không.
Ðáp: Một khi ông không thấy vậy ông có tin rằng ông
Sơ của ông có hay không? Vấn: Bạch Ngài, theo tôi thì tôi tin chắc rằng có.
Ðáp: Nếu ông không thấy sao ông dám chắc rằng có? Vậy
có chi làm bằng chứng? Vấn: Bởi vì nếu không có các bậc Tiền nhân thì làm
sao có tôi bây giờ, mà có tôi bây giờ thì các Ngài đã có
từ trước. Tuy rằng không thấy, mà tôi tin chắc rằng có,
vì lý do trên.
Ðáp: Ðối với tôi và đức Phật cũng vậy, tôi tin rằng
có đức Phật, vì tôi còn trông thấy Chánh Pháp của Ngài để
lại là con đường đi tới nơi giải thoát. Theo tôi tưởng
như các đấng Tiền nhân của ông không có để chúc ngôn hay
là lời gì lại để dạy ông, mà ông còn tin rằng có thay,
phương chi đức Từ phụ Thích Ca có di huấn lại dạy bảo
chúng tôi đến tám muôn bốn ngàn Pháp môn là con đường đi
tới nơi giải thoát, thì làm sao tôi lại không tin. Ông nghĩ
có phải vậy không? Vấn: Thật Ngài biết cách chận đón đủ mọi phương
diện, tôi xin chịu. Bạch Ngài trước khi đức Phật Tổ xuất
hiện trên cõi Diêm Phù Ðề này có các tôn giáo khác hay
không?
Ðáp: Trong lúc chưa có đức Phật ra đời thì có các
đạo khác như Bà La Môn giáo. Những chi đạo ấy cũng có chỗ
đáng khen vì có thể người hành theo pháp Thiền định được
sanh về cõi Sắc giới hay là Vô sắc giới. Nhưng không phải
giải thoát đến Niết Bàn được. Vấn: Ðức Thế Tôn dạy ta đến Niết Bàn bằng cách
nào? Và tại sao các chi đạo khác không thể dạy cho chúng
sanh đến Niết Bàn được?
Ðáp:
Ðức Phật dạy cách tận diệt nguồn gốc của phiền não bằng
Giới, Ðịnh, Huệ không còn một nhơ bợn nào trong tâm ta. Còn các chi đạo khác chỉ dạy nén phiền não bằng Thiền
định thôi, vì vậy phiền não chỉ bị đè bẹp trong khi người
còn đàn áp được phiền não; khi mà người lơ đãng phiền
não vẫn sanh lại như xưa. Các chi đạo khác chỉ dạy con người
tới Minh Sát chớ không dạy được tới Chỉ Quán, vì vậy
nên Phật giáo mới có một giá trị cao thượng hơn và được
nhiều bậc trí thức sùng bái phụng hành. Vấn: Bạch Ngài, theo trong Kinh dạy thì người đắc
được quả của Niết Bàn rồi thì không còn là Ta, là Của
Ta nữa, có phải vậy không, thưa Ngài?
Ðáp: Phải vậy. Vấn: Bạch Ngài, bậc đã đắc A La Hán quả rồi, thì
không còn tham muốn chi cả, nghĩa là đã diệt hết phiền
não. Như vậy Ðại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã
bảo rằng hai Ngài không tham sống mà cũng không sợ chết,
mà hai Ngài chỉ sống để đợi ngày nhập Niết Bàn thôi,
thì cái muốn ấy không phải là Tham ái sao?
Ðáp: Phàm Ái dục hay Tham ái là phiền não muốn những
gì mà nó chưa có, như muốn tiền của vì chưa có hoặc có
ít, hay muốn làm quan khi chưa được làm như thế gọi là Ái
dục. Còn Niết Bàn là nơi không còn có những gì thuộc về
Ái dục, nơi ấy không còn có Tài, Sắc, Lợi, Danh gì hết.
Vì lẽ ấy nên người muốn đến Niết Bàn không gọi là muốn
trong vòng Ái dục. Nói cho dễ nghe hơn là người đã có những
gì thuộc về Ngũ trần, Lục dục mà lại bỏ đi mong tìm
cái không có Ngũ trần, Lục dục nên muốn ấy không gọi là
Ái dục được. Vấn: Bạch Ngài, nếu Niết Bàn không còn chi chi nữa hết
thì chỉ là không vậy sao?
Ðáp: Có Tuệ quả Phạn ngữ gọi là PHALANNÀNA sáng suốt
hoàn toàn không dưới quyền sở hữu của pháp nào cả. Tôi
xin ví dụ: trái dừa khô khi ta để dành lâu thì nó hư, còn
đem đi trồng thì nó lại mọc lên thành cây rồi trổ quả,
cứ luân chuyển như thế mãi. Người trí không muốn cho dừa
ấy thúi mà cũng không muốn được trái khác nữa, thì phải
làm sao? Cố nhiên phải đem đi nấu cho ra dầu, khi dừa đã
thành dầu thì đem trồng cũng không mọc, mà để lâu cũng không
hư. Nếu ta nói rằng: Ðó không phải là dừa không được, mà
nói là dừa cũng không được. Tuệ quả kia cũng vậy, nếu
ta nói rằng: Nó không có chi cả cũng không được, mà nếu
nói rằng có cũng không được. Vì quả của Tuệ là hoàn
toàn sáng suốt không còn phiền não xen vào được. Vấn: Bạch Ngài, theo tôi biết thì hai tiếng Niết Bàn
chắc không phải tiếng Ta hay Tàu, vậy nó là tiếng chi xin
Ngài dạy cho?
Ðáp: Sự thật không phải là tiếng Việt, nhưng chúng
ta nghe thường quá thành chúng ta tự biến tiếng ấy như tiếng
Việt đó là tiếng âm của Nam Phạn cũng như Bắc Phạn. Tiếng
Nam Phạn là NIBBÀNA, còn Bắc Phạn là NIRVANA. Vấn: Xin Ngài vui lòng giải rõ hai tiếng ấy cho tôi hiểu
lý.
Ðáp: Về Nam Phạn câu VIGAHA giải tiếng Niết Bàn rằng
VÀNATONIKKHAMATÌTI NIBBÀNAM. Nghĩa là người hoàn toàn ra khỏi
rừng nên gọi là NIBBÀNA, Nibbàna nghĩa là ra khỏi rừng. Chữ
BÀNA đứng một mình có nghĩa như chữ VÀNA chữ BÀNA hay là
VÀNA đều có nghĩa là rừng. Nếu có chữ NI đứng trước chữ
BÀNA theo văn phạm của Nam Phạn thì phải thêm vào một chữ
B vì vậy lại viết là NIBBÀNA. Về Bắc Phạn nếu chữ NI đứng
trước VÀNA thì phải thêm vào chữ R vì vậy ta thấy thường
viết là NIRVÀNA. Mặc dầu khác tiếng như vậy chớ cũng đồng
một nghĩa; cũng như tiếng Việt chúng ta giữa Nam và Bắc
khác nhau đôi tiếng như TRÀNG và GIÀNG vậy thôi. NIBBÀNA hay là NIRVÀNA có nghĩa là ra khỏi rừng một cách
hoàn toàn, hay nói theo tiếng ta là hoàn toàn ra khỏi rừng. Nếu
giải nghĩa từng chữ thì "NI" nghĩa là Tốt: đẹp,
hoàn toàn, toàn thiện, toàn mỹ, chu đáo, ráo rốt. Còn tiếng
"BÀNA" nghĩa là rừng. Vấn: Bạch Ngài, tại sao Niết Bàn lại nghĩa là hoàn
toàn ra khỏi rừng. Vậy có ý nghĩa như thế nào mà đức Thế
Tôn mới dạy chúng ta như thế?
Ðáp: Lẽ cố nhiên là lời Phật dạy đều có nghĩa lý
rất chu đáo. Tiếng ấy có lý là: Phàm người đi trong rừng
sâu hằng bị lạc, vì trong ấy có nhiều đường nhiều nẽo
nhỏ, không ai có thể không lầm lẫn được; người mà bị
lạc trong rừng thì không sao tránh khỏi những tai nạn kinh khủng
như thú dữ, gió độc, nước độc, lại còn nạn thiếu thực
phẩm v.v... Còn người ra khỏi rừng là người hoàn toàn sung
sướng, không còn kinh khủng, lo âu hay là những gì mà người
còn trong rừng sâu lo âu, kinh sợ nữa. Ðây tôi xin giải
thêm từ chi tiết. Ðức Thế Tôn ví rừng ấy là rừng tham
ái, ái dục, phiền não, những đám rừng này rất rậm và rất
khó tìm đường ra được, chúng ta vì bị lạc trong ấy nên
phải chịu không biết bao nhiêu kiếp và bao nhiêu khổ. Khi ta
ra khỏi rừng ấy thì ta được an vui hoàn toàn. Người ra khỏi
rừng phiền não đến nơi đô thị nơi ấy không bị những
đe dọa những gì mà ta đã bị trong rừng, nên gọi là đến
nơi an vui; đô thị ấy tạm ví như Niết Bàn là nơi không
còn sự kinh sợ gì. Vấn: Bạch Ngài, tôi đã hiểu nhưng xin Ngài vui lòng giải
cho tôi biết sao gọi là lửa KHỔ, và sao gọi là lửa Phiền
não?
Ðáp: Những cái khổ như là sanh, già, đau, chết, thất
vọng, buồn rầu v.v... nói tóm lại những khổ não sanh lên bởi
có thân Ngũ uẩn này gọi là lửa KHỔ. Còn sự tham lam, sân
hận, si mê hằng làm lòng người băn khoăn lo sợ, đau khổ từng
giờ, từng phút nên gọi là lửa PHIỀN NÃO. -ooOoo- Vấn: Bạch Ngài, sao gọi là pháp hành? Và nếu chia ra
có mấy chi?
Ðáp: Pháp hành có nghĩa là sự chuyển động, tạo tác
không ngừng, không dứt. Nếu chia ra pháp hành có hai chi là: 1/ UPÀDISESASANKHÀRA. Nghĩa là pháp hành hữu thức. Ý nói
rằng: Pháp hành ấy có Tâm thức như người và thú. 2/ ANUPÀDISESANKHÀRA. Nghĩa là pháp hành vô thức. Ý nói những
pháp hành không có thức tánh, như đất, nước v.v... Về phương diện khác pháp hành có chia ra làm ba chi nữa
là: 1/ PUNNÀBHISANKHÀRA, Pháp hành sanh lên do nhờ phước báu cấu
tạo. Như do nhờ phước báu nên người hay thú được sanh
vào cõi Trời. Người hành đắc được Thiền định được
sanh về cõi Phạm Thiên. 2/ APUNNÀBHISANKHÀRA, Pháp hành sanh lên do quả của ác
pháp cấu tạo. Nghĩa là các chúng sanh nào sanh vào bốn đường
ác. 3/ ANENJÀBHISANKHÀRA, do đắc Tứ thiền sau khi chết được
sanh vào cõi Phạm Thiên. Vấn: Bạch Ngài, do nơi pháp nào pháp hành phát sanh
lên? Nơi nào mới là nơi không còn có pháp hành, hay là tiêu
trừ được pháp hành?
Ðáp: Có bốn nguyên nhân làm cho pháp hành sanh lên được
là: 1/ AVIJJÀ, Vô minh. Chỉ có Niết Bàn là nơi không có bốn pháp kể trên nên
không có pháp hành hay pháp hành đã tiêu trừ tận nguồn gốc
không còn có lửa khổ. -ooOoo- Chân thành cám ơn Đại
đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, tháng
8-2001) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thong Kham Medhivongs
Tái bản: PL. 2539 - TL. 1996
PARIPHANDATIDAN CITTAM MÀRADHEYYAN PAHÀTAVE.
2/ Sự đánh đổ được giãi đãi là VỊ của Thiền định.
3/ Sự không giãi đãi là THẬT TƯỚNG của Thiền định.
4/ Sự yên vui của thân và tâm là NỀN TẢNG của Thiền định.
2/ Phải cắt dứt những gì dính dấp với ta, nghĩa là đoạn
tuyệt sự quyến luyến và các sự tiếp xúc với đời.
3/ Phải thân cận với các bậc trí thức, hiểu thông lối
giải thoát để chỉ dạy mình.
4/ Phải học đề mục đúng với tánh mình.
5/ Chỗ ở phải hợp với tánh mình.
6/ Phải thông hiểu rành phương pháp hành đạo làm cho Thiền
định phát sanh mau chóng.
B) Pháp đen
C) Pháp không trắng không đen.
2/ Cố làm những điều phước thiện, xa những tội lỗi xấu
xa.
3/ Do trí tuệ diệt trừ tận gốc của phiền não.
2/ CITTAVISUDDHI, Tâm thanh tịnh, (Hai pháp này là nguồn cội
sanh trí tuệ).
3/ DITTIHISUDDHI, Thanh tịnh vì hiểu thấy chơn chánh,
4/ KANNKHAWVITARANAVISUDDHI, Thanh tịnh vì diệt bỏ được sự
hoài nghi,
5/ MAGGÀMAGGANNANADASSANAVI-SUDDHI, Thanh tịnh và Trí tuệ biết
rõ đây là Chánh đạo hay là Tà đạo (Ðạo đây ý nói là
đường).
6/ PATIPADÀNÀNADASSANAVISUDDHI, Thanh tịnh vì Trí tuệ trông thấy
rõ sự hành theo chánh đạo.
7/ NÀNADASSANAVISUDDHI, Thanh tịnh vì trông thấy rõ Thánh đạo.
Năm điều sau này ví như là thân hình của trí tuệ. Hay
nói cho dễ hiểu hơn là hiện thân của trí tuệ.
2/ Nhờ trí tuệ ta mới được hưởng mùi vị của Thánh quả.
3/ Có thể nhập Diệt thọ Vô Tưởng Ðịnh được (vì đã
đắc được từ quả A Na Hàm trở lên).
4/ Có thể đem mình đến nơi mà chúng sanh lễ bái cúng dường
(ý nói rằng đáng gọi là Phước điền của nhân loại).
2/ Ráng nghe lời chỉ dạy của các Ngài.
3/ Cố tâm nghiên cứu lời giảng dạy của đức Thế Tôn.
4/ Hành theo pháp của đức Thế Tôn đã giáo truyền.
2/ Phải suy nghĩ cho chu đáo sau khi nghe xong.
3/ Khi suy nghĩ kỹ rồi nhưng còn chỗ nghi ngờ nên hỏi
lại.
4/ Khi hỏi và hiểu rõ nên viết để dành.
2/ Biết rõ rằng: Ðây là THIỆN PHÁP.
3/ Phân biệt được Ác pháp hay Thiện pháp không cho lẫn lộn
nhau.
4/ Diệt bỏ tất cả Ác pháp, vun trồng thêm thiện căn.
2/ PAKKHANTHASADDHÀ, tâm trong sạch và lần xa các pháp ác.
3/ PAKKHANTHALADDHANASADDHÀ, làm cho tâm tinh tấn làm phước thiện,
và người có đức tin hằng mong mỏi gặp được người thông
hiểu Phật pháp để được nghe giảng giải về đường giải
thoát, mong gặp người có giới đức để Bố thí làm
lành. Ấy là trạng thái chỉ rõ cho ta biết rằng: người
hay ta có đức tin.
2/ KAMMA, Nghiệp.
3/ TANHA, Ái dục.
4/ ÀHÀRA, Vật thực.
updated: 14-08-2001