BuddhaSasana Home Page Ba Ngày Luận Ðạo
PL. 2506 - TL. 1963 [03] Vấn: Bạch Ngài, tại sao pháp hành mà còn có pháp hành
hữu thức và vô thức?
Ðáp: Pháp hành ý nói là sự tạo tác, như chúng ta là
người có thức tánh, thì chúng ta biết cử động là đi, đứng
v.v... và làm những điều thiện hay ác do nơi thức tánh của
chúng ta. Còn như cây, đá, gió lửa v.v... nó cũng tùy theo trường
hợp mà sanh ra không ngừng nghỉ, nhưng nó không biết nó
đang làm gì và kết quả đi tới đâu. Nên gọi là pháp hành
vô thức, ý nói sự hành động không có thức tánh. Vấn: Bạch Ngài, tôi chưa thông đạt được bốn pháp
nhân sanh ra pháp hành, xin Ngài vui lòng giải rõ.
Ðáp: Vô minh là nhân không hiểu rõ pháp hành, nên sanh
ra pháp hành. Ý muốn nói rằng: vì Vô Minh chúng ta không nhận
định được rõ ràng tội phước, thiện ác nên chúng ta
hành động: đã làm, đang làm hoặc sắp làm gọi là pháp
hành. Ái dục là sự mong ước và nguyện vọng của con người
như muốn sự giàu sang, sung sướng sanh về cõi trời v.v...
nói tóm lại là muốn sự an vui cho mình càng ngày càng nhiều. Nghiệp là nơi Vô minh và Ái dục mà ta tạo ra nghiệp. Nghiệp
đây ý nói là nghiệp thiện hay là ác. Khi có nghiệp ta phải
sanh lại để hưởng hay thọ cái nghiệp ấy. Nghiệp ấy là
vật thực của chúng sanh. Vấn: Tất cả các pháp sanh ra đều do nơi một nguyên
nhân nào mới sanh lên được, bạch Ngài? Vậy tội và phước
do nơi nguyên nhân nào sanh lên?
Ðáp: Nguyên nhân sanh tội là do nơi Tam độc là Tham,
Sân, Si. Tam độc làm cho ta không còn phân biệt thiện ác, ý
muốn nói rằng: ta chỉ thấy ÁC, ÁC và ÁC, vì vậy nên ta cứ
làm ÁC. Nguyên nhân sanh lên phước là do nơi không tham lam, không
sân hận và không si mê. Không tham lam là nguyên nhân làm cho
con người có lòng từ bi lo bố thí. Không sân hận là nguyên
nhân làm cho người trì giới được trong sạch. Không si mê
là nguyên nhân làm cho tâm con người không vọng động nên
mau đắc Thiền định; Thiền định khi đắc rồi là nguyên
nhân làm cho người phát sanh Trí tuệ, mà Trí tuệ là nguồn
cội sanh phước. Vấn: Bạch Ngài, hai pháp là Phước và Tội, pháp nào
có sức mạnh hơn? Pháp nào có quả báo nhiều hơn?
Ðáp: Phước có quả báo nhiều hơn hay có thể nói là
cao thượng hơn. Vấn: Bạch Ngài, tại sao phước lại có quả báo nhiều
hơn tội?
Ðáp: Nếu giải ra có nhiều nguyên nhân, nhưng xin đưa
lại một biện pháp thật tế và gần đây cho ông dễ hiểu
và ít mất thì giờ. Khi con người làm điều tội lỗi nặng
nhứt là Ngũ nghịch đại tội, khi chết sanh về cõi A tỳ địa
ngục lâu không sao kể cho xiết, nhưng rồi trong ngày nào đó
lại được sanh lại làm thú, rồi người, tuần tự theo đà
tiến hóa. Còn người mà đã đắc được THÁNH QUẢ nhập Niết
Bàn rồi thì không có ngày trở lại một cõi nào trong Tam giới.
Như thế chỉ cho chúng ta thấy rằng: Phước có quả báo cao
thượng hơn, mạnh hơn, nhiều hơn. Vấn: Bạch Ngài, một người không biết tội là gì, họ
tha hồ làm tội còn một người biết đạo đức và tu hành,
nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm tội. Vậy trong
hai người ấy, người nào bị tội nhiều hơn?
Ðáp: Người không biết tội làm tội bị tội nhiều hơn. Vấn: Bạch Ngài, sao lạ vậy? Theo tôi hiểu thì người
biết tội song họ lại làm thì phải bị tội nhiều hơn mới
phải chớ. Theo luật thế gian thì người biết tội, làm tội,
bị tội nhiều hơn, vì lẽ người ấy cố tâm làm, còn người
không biết tội, làm tội là vì ngộ tâm, thì người biết tội
làm tội phải bị tội nhiều hơn mới phải chớ.
Ðáp: Ông nói nghe hữu lý, tôi cũng nghĩ như ông; nhưng
đây trái lại không phải là tôi, vì đây là lý của Phật
mà tôi là người thay thế để nói lại những gì Phật đã
dạy. Vậy tôi xin hỏi ông như vầy: Một người biết rằng:
đây là lửa, trường hợp bắt buộc họ phải bốc, nhưng họ
chỉ bốc với hai ngón tay, thì nếu có phỏng cũng phỏng hai
ngón thôi. Còn người không biết là lửa, họ bốc hay họ hốt
cả hai tay, vậy trong hai người ấy ai phỏng nặng hơn? Lửa
đây tôi ví như tội. Vấn: Lẽ cố nhiên là người hốt cả bụm lửa phải
bị phỏng nhiều hơn.
Ðáp: Ðó cũng ví như người biết tội và không biết
tội. Người biết tội một khi vì hoàn cảnh bắt buộc họ
phải làm, họ mới làm chớ không phải tự ý muốn, trước
khi làm tâm vẫn lo sợ quả của tội ấy, trong khi làm cũng
lo sợ, sau khi đang làm xong lòng vẫn nghĩ ăn năn hối hận,
lo âu. Còn người không biết tội, trước khi họ tìm kiếm làm tội
hết sức làm theo sở thích của họ, đang khi làm họ càng cố
làm cho kết quả mỹ mãn, khi làm xong họ tự hào rằng: Họ
làm việc ấy được kết quả mỹ mãn lắm. Vậy ông là người
bàng quan ông thử định coi ai tội nhiều hơn? Vấn: Bạch Ngài, nếu xét kỹ tôi thấy rằng: Người
biết tội kia ví như người ngộ tâm, còn người không biết
tội là người cố tâm thì người cố tâm phải có tội nhiều
hơn người ngộ tâm.
Bạch Ngài, còn như người không biết phước mà làm phước
có lẽ được phước nhiều, vì họ cố tâm làm đại như
người làm tội kia vậy. Ðáp: Trái lại, người không biết phước làm phước
được phước ít hơn. Bởi sự làm phước lại có lề lối
khác hơn, đây tôi xin ví dụ: Có người kia giàu lòng bố thí, khi gặp một người nghiện
rượu đến xin người bố thí. Người thí chủ vui lòng cho.
Khi đi mua rượu cho y cũng vui thích trong tâm, khi đang cho y
cũng vui thích, khi cho xong y cũng vui thích, nó tròn đủ ba nguyên
nhân. Nhưng sự bố thí của người thí chủ ấy không có phước
vì họ bố thí chất say cho người khác. Ðây là ví dụ thứ nhì: người kia không từng biết làm
phước là gì, khi được người thiện tín rủ đi chùa làm
phước, họ chỉ vị tình nên họ gởi tiền hay là vật gì
để làm phước cúng chùa giùm họ; vì lẽ không biết phước
là gì, nên cái phước của người ấy làm cũng không được
kết quả mỹ mãn. Kiếp sau người ấy sanh lại giàu sang, nhưng
không biết gì về sự tu hành để giải thoát, vì không
trông thấy cái khổ của Sanh Tử Luân Hồi. Ðây là cái hại
của sự không biết làm phước. Còn người biết làm phước
trước khi làm phước người ấy suy nghĩ thấy đời là Vô
Thường không chi bền vững, những gì ta có cũng không vĩnh
viễn với ta, người ấy suy nghĩ thấy ba Tướng như có đoạn
tôi đã giải cho ông rõ rồi, khi ấy họ vui với sự bố
thí vì nghĩ rằng: Ðây là con đường đi đến Niết Bàn,
nguyên nhân diệt trừ phiền não là sự bỏn xẻn, đắp thêm
lòng Từ bi thương nhân loại; khi bố thí xong người ấy
cũng không mong được trả ơn ngày nào. Khi đang bố thí, y hết
lòng lo lắng vui vẻ, kính trọng người thọ thí chớ không
ỷ mình là thí chủ coi thường người thọ thí. Khi bố thí
xong y thấy lòng hân hoan thơ thới vì đã làm được việc lành.
Hơn nữa, nếu người hiểu biết rành về Phật pháp thì khi
làm phước người ấy làm bằng đồng tiền Chánh Nghiệp
nên phước báu càng cao thượng. Vấn: Bạch Ngài, thế nào gọi là đồng tiền chánh
nghiệp?
Ðáp: Tiền mà tự ta làm ăn chơn chánh, như không trộm,
cướp, lường gạt, hay giết thú bán lấy tiền, gọi là đồng
tiền chánh nghiệp hay là đồng tiền chân chánh. Vấn: Bạch Ngài, khi chúng ta muốn hành cho mau giải
thoát thì phải hành thế nào?
Ðáp: Phải hành như con chim, đừng hành như con lợn. Vấn: Bạch Ngài, tại sao Ngài lại đem hai con thú ấy
làm ví dụ cho người hành đạo?
Ðáp: Bất cứ loại chim nào được hay bị ông bắt
đem nhốt trong cái lồng sơn son thếp vàng cho ăn sung sướng,
mặc dầu là sung sướng nhưng trong thâm tâm của nó cũng vẫn
muốn giải thoát khỏi cái lồng tai hại ấy. Chim đó có
khác nào người muốn giải thoát, cư sĩ cũng như xuất gia,
đều có hoàn cảnh ràng buộc: các bực xuất gia vì say mê
trong sự cúng dường và kính nể của thiện tín, nên không
thể bỏ chùa ra đi hành đạo; nếu vị nào có nhiều trí tuệ
trông thấy những pháp ấy như là cái lồng đẹp nhưng làm mất
sự giải thoát của mình, các Ngài cố gắng chạy khỏi cái
lồng tai hại ấy. Còn về phần các vị tại gia, khi còn ở
trong gia đình mà cố công hành đạo thường bị Tài, Sắc, Lợi,
Danh làm cho tâm say mê, không thể hành đạo cao thượng được,
làm trở ngại sự tu tập; khi nhìn thấy cái tai hại ấy thì
cố lo chạy ra khỏi cái lồng nguy hiểm ấy. Ðó là người
biết hành theo cái hạnh con chim. Còn con lợn thì có khác, cả ngày chỉ biết đòi ăn, ăn
xong lại đi nằm, ăn cho mập lại bị đem đi làm hàng. Người
xuất gia ham mê theo sự cúng dường, sự sùng bái, sự khen tặng
của tín đồ quên lo tu hành. Còn người cư sĩ thì mảng lo
mê say theo tài, sắc, lợi, danh mà không lo tu hành để ngày
kia tử thần đến đành ngửa cổ cho Tử thần xuống tay, thế
là uổng cho một kiếp người. Người xuất gia và người tại
gia như thế thật không có cái hạnh của con chim mà phải chịu
số phận của con heo vậy. -ooOoo- Vấn: Bạch Ngài, tiếng nói là ALAHÁN, là tiếng Việt
hay là tiếng Anh?
Ðáp: Tiếng ALAHÁN là tiếng âm của Nam Phạn là ARAHAM,
Bắc Phạn là ARHAM, có bốn nghĩa là: 1/ ARINAM ARAKATTÀ nghĩa là xa lìa quân thù. Vấn: Theo nghĩa số một Ngài bảo xa lìa quân thù, vậy
chớ chi là quân thù của các Ngài?
Ðáp: Quân thù đây ngụ ý là phiền não, bậc A La Hán
không bao giờ gần được quân thù ấy. Vấn: Nếu vậy nên hiểu rằng: phiền não sợ vị A La
Hán hay vị A La Hán sợ phiền não?
Ðáp: Nếu chúng ta muốn nói phiền não sợ vị A La Hán
hay vị A La Hán sợ phiền não, nói cách nào cũng được. Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy phân hai vậy làm sao hiểu
được, phàm hai điều phải có một điều đúng một điều
sai chớ?
Ðáp:
Bởi ông hỏi phân hai tôi phải trả lời phân hai vậy. Vì
trong câu hỏi của ông cũng có đúng và cũng có sai. Như câu
ông hỏi: Phiền não sợ đức A La Hán là đúng. Vì lẽ cố
nhiên bao giờ cũng như bao giờ các bậc chưa đắc Thánh quả,
tôi muốn nói là A La Hán quả, vì bậc A La Hán mới hoàn
toàn diệt tận hết phiền não, còn ba bậc dưới vẫn còn
phiền não nhiều hay ít. Từ A Na Hàm trở xuống phàm nhơn là
người còn cố gắng đánh đuổi phiền não cho đến khi nào
các Ngài đánh bật phiền não ra khỏi tâm các Ngài, thì chừng
ấy phiền não không bao giờ dám đến gần. Hơn nữa, khi chúng
ta chưa đắc tới A La Hán quả là chúng ta còn kinh sợ phiền
não và cố đánh hay diệt trừ phiền não. Ðến khi đã đắc
A La Hán quả rồi trái lại phiền não lại sợ ta, vì nó là
quân đã bị bại trận thì còn đâu dám léo hánh lại gần.
Vấn: Ngài dạy thế thì tôi đã hiểu rõ rồi, vậy xin
Ngài vui lòng giải câu bẻ gãy căm. Tiếng nói căm đây ý
Ngài dạy chi?
Ðáp: Tiếng căm đây có ý nói căm của bánh xe luân hồi. Vấn:
Theo lời Ngài dạy làm cho tôi cảm tưởng luân hồi là một
cái xe, có thùng xe, gọng và bánh xe, nên có căm xe v.v... Vậy
xin Ngài vui lòng chỉ dạy. Ðáp: Ông tưởng tượng như thế thật đúng, căm của
bánh xe luân hồi đem chúng ta đi quanh quẩn trong Tam giới.
Vấn:
Nếu Ngài dạy vậy xin Ngài cho phép tôi hỏi Ngài kỹ lại. Bạch
Ngài, nếu có căm thì dĩ nhiên phải có đùm, có niền, có
cây dí và có thùng xe. Vậy xin Ngài ví dụ cho đủ một cái
xe cho tôi biết thêm.
Ðáp: Có Già, Bịnh, Chết là Vành. Vô minh, Cảnh giới,
Ái dục là Ðùm. Tập hội họp những sự khổ và phiền não
trần ASAVA là cây Dí. Có mười pháp là: Hành, Thức, Danh, Sắc,
Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái dục, Thủ, Hữu, Sanh là Căm. Có
Sanh, Tử là Vành, có Tập và phiền não là Dí, thế là đủ
cho thấy một cái bánh xe Luân hồi. Còn Tam giới là thùng xe.
Vì vậy nên mới nói rằng: Các bậc A La Hán bẻ gãy những căm
của bánh xe luân hồi.
Vấn: Bạch Ngài, làm cách nào mới bẻ gãy được bánh
xe luân hồi? Ðáp: Người muốn bẻ gãy được bánh xe luân hồi phải
đứng trên đất cứng, đất đây là Giới. Hay chân thật là
cứng là Tinh tấn. Tay trái cầm cái bánh xe cho thật chắc,
ấy là đức tin. Tay mặt cầm cái búa thật bén, búa ấy là
Trí tuệ. Khi ấy mới chặt ra từng đoạn, từng mảnh vụn,
không cho còn vành, đùm v.v... nữa, thì nó không thể nào ráp
lại thành bánh xe được.
Người tiêu diệt được bánh xe luân hồi bằng đức tin,
Giới tinh tấn, Trí tuệ mà tự người ấy đã tạo ra từ
vô số kiếp. Người mà bẻ được bánh xe luân hồi gọi là
A La Hán. Bậc đã được quả A La Hán cũng gọi là
JÀTIKKHAYAMPATTO nghĩa là bậc đã đi đến nơi không còn sanh. Vấn: Xin Ngài giải cho tôi rõ câu thứ ba nói: là đấng
đáng cho chúng sanh cúng dường. Ðáp:
Ðại khái nói rằng: Ðức A La Hán là đấng không còn phiền
não đã bẻ gãy bánh xe luân hồi, là bậc đáng thọ lãnh sự
lễ bái và cúng dường của nhân loại. Chỉ có bậc đó mới
là phước điền của nhân loại. Vấn: Còn câu thứ tư dạy rằng: đức A La Hán không hề
làm tội lỗi nơi khuất tịch, ấy có ý dạy thế nào?
Ðáp: Một khi người làm tội lỗi hoặc nơi đô hội
hay nơi khuất tịch đều do nơi lòng dẫy đầy phiền não.
Riêng các đấng không còn phiền não thì không bao giờ muốn
làm quấy hoặc không bao giờ làm trong khi quên mình hay không
bao giờ làm bằng cách vô ý. Ví như người đã ăn no rồi không
khi nào biết thèm gì mặc dầu đồ ăn ấy có ngon đến đâu
cũng không thể dùng thêm được. Còn người phàm như chúng
ta dẫy đầy phiền não ví như kẻ đã quá đói thấy cái gì
có thể ăn được là ăn ngay không từ một vật gì; đây ý
nói chúng ta là người nhiều phiền não như người đói gặp
điều tội nào nơi đô hội hay nơi khuất tịch cũng không từ. Vấn:
Bạch Ngài, tiếng PHẬT nghĩa là chi? Tiếng âm hay tiếng Việt?
Ðáp: Tiếng "PHẬT" là tiếng âm của Phạn ngữ.
Nếu đọc nguyên là Phật Ðà, nguyên ở chữ BUDDHÀ ra. Phật
Ðà nghĩa là Giác Ngộ, nghĩa là hiểu thông mọi lẽ trong Trời
Ðất. Cũng còn nhiều nghĩa nữa.
Vấn: Bạch Ngài, nếu còn nhiều nghĩa nữa xin Ngài vui
lòng giải luôn cho chúng tôi biết. Ðáp: Ông muốn vậy thì tôi cũng giải cho ông hiểu
được, nhưng tôi không thể giải theo Tàu được vì tôi
không thể tìm đủ nghĩa của Phạn ngữ ra Tàu như Phật là
Giác Ngộ vv... Tôi chỉ giải tiếng Phạn ra tiếng Việt
thôi.
Vấn: Bạch Ngài, không sao, miễn là Ngài giải bằng tiếng
Việt cho chúng tôi hiểu được là xong chuyện, vì tôi là người
mong học triết lý chớ không học từ ngữ hay văn chương. Ðáp:
Phật Ðà (BUDDHA) có mười lăm nghĩa khác nhau là: 1/ BUJJHITASACCÀTINI, nghĩa là: Ngài là đấng hiểu rõ những
sự thật (ý nói hiểu rõ Tứ diệu đế). 2/ BODHENATO PAJÀYATI, nghĩa là: Ngài kêu gọi chúng sanh, dạy
cho chúng sanh hiểu rõ sự thật mà Ngài đã hiểu. 3/ SABBANNÙTAYÀ, nghĩa là: Ngài thông thấu rõ mọi lẽ
trong Tam thế không thầy chỉ dạy. 4/ SABBADASSÀVITÀYA, nghĩa là: Ngài thông thấu rõ mọi lẽ
trong Tam thế. 5/ ANANNANEYYATÀYA, nghĩa là: Ngài giảng giải cho chúng sanh
thấy và biết rõ Niết Bàn. Ngài thông hiểu những pháp mà
chúng sanh trong Tam giới không thể hiểu được. 6/ VISATITAYA, nghĩa là: Ngài có đầy đủ trí nhớ. 7/ KHÌNASAVASANKHÀTENA, nghĩa là: Ngài diệt tận vi trần. 8/ NIRUPAKILESASANKHÀTENA, nghĩa là: Ngài là đấng hoàn toàn
trong sạch không còn bị phiền não làm nhơ bẩn. 9/ EKANTAVITARÀGÀTI, nghĩa là: Ngài đã hoàn toàn xa lìa
Tham ái. 10/ EKANTAVITADOSOTI, nghĩa là: Ngài hoàn toàn xa lìa phiền
não là Sân, Hận. 11/ EKANTAVITAMOHOTI, nghĩa là: Ngài hoàn toàn xa lìa phiền
não là Si mê. 12/ EKANTANIKKILESO, nghĩa là: Ngài hoàn toàn không còn một
vi tế phiền não nào trong tâm Ngài cả. 13/ EKAYÀNA MAGGAM GATOTI, nghĩa là: Ngài là đấng đã đi trên
con đường đi một mình (con đường này ngụ ý chỉ Bát
Chánh Ðạo). Con đường đi đến Niết Bàn. 14/ EKO AUTTARASAMMÀSAMBOBHI ABHISAMBUDDHO, nghĩa là: Tự Ngài
ngộ lấy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 15/ ABUDDHVIHATATTABUDDHIPA TI-LÀBHÀ, nghĩa là: Ngài diệt trừ
sự tối mê bằng sự Giác ngộ. Vấn: Bạch Ngài, sự cố thù, húng hiếp, thù nghịch, hại
người mà phát sanh lên là do một nguyên nhân nào?
Ðáp: Do nơi sự ganh tị và bỏn xẻn. Vấn: Ganh tị và bỏn xẻn sanh lên là do nơi một pháp
nào hướng dẫn?
Ðáp: Bởi sự thương và ghét trong các pháp hành. Vấn: Sự thương và ghét trong các pháp hành sanh lên do
nơi đâu?
Ðáp: Do nơi sự ham thích trong Ngũ trần, Vấn: Sự ham thích trong Ngũ trần sanh lên do nơi đâu?
Ðáp: Do nơi sự hằng suy nghĩ trong các ác pháp. Vấn: Sự suy nghĩ trong các ác pháp phát sanh lên do nơi
đâu?
Ðáp: Bởi các pháp ác làm cho tâm ta có tham muốn, Ái dục,
Ngã mạn, Tà kiến. Ái dục là nguyên nhân làm cho ta say mê
trong sự yêu thương tình ái, luôn luôn muốn được an vui về
nhục dục. Ngã mạn là nguyên nhân làm ta chấp lấy thân Ngũ
uẩn này, và chấp trong khi tuổi còn trẻ hay là già tùy theo
tuổi, vì người chấp rằng: tuổi ta còn trẻ là tuổi vui chơi,
vì vậy họ không cần lo làm việc lành hay tu hành gì cả.
Còn các bực có tuổi thì họ lại nói rằng: Tuổi này mà
còn tu hành gì kịp nữa, tuổi này ta đã hiểu đời lắm rồi
không ai dạy ta nữa. Vì vậy các ông không chịu ai giảng giải
chi hết. Ngoài ra còn chấp: ta là hạng quý phái, sang giàu,
có quyền chức, có thế lực. Còn tà kiến làm cho ta nhìn thấy
phải và trái, trái và phải. Vấn: Bạch Ngài, muốn tiêu trừ các pháp ấy phải làm
thế nào?
Ðáp: Phải cố gắng vun trồng thiện pháp và cố diệt
trừ các ác pháp. (Nếu muốn hiểu rõ thêm xin xem lại quyển
Ðế Thích Vấn Ðạo của tôi đã ấn tống). Vấn: Bạch Ngài, theo tôi thiết tưởng chúng ta ai cũng
có Phật tánh thì chúng ta hãy cố tìm cho ra cái tánh ấy là
được chớ có khó gì và cái tu cũng không phải phiền phức
nhiều chuyện dông dài quá, nào là phải biết pháp này, pháp
nọ, tôi tưởng tu tất là xong.
Ðáp: Ông nói nghe có lý lắm, tôi mà không hiểu theo lẽ
đạo cũng mê theo lý thuyết của ông. Nhưng ông cho tôi hỏi
lại câu ông vừa nói, rồi tôi trả lời câu ông hỏi, ông
có bằng lòng không? Tôi hay là ai là người học Phật đều
biết tiếng Phật nghĩa là Giác mà nếu chúng ta có PHẬT
TÁNH sao còn si mê? Vấn: Vì bị vô minh che đậy, ví như hòn ngọc bị chất
đá bao kín, làm cho chúng ta không thấy được hòn ngọc bên
trong.
Ðáp: Ông nói thật là có lý, nhưng hai pháp GIÁC và MÊ
là hai pháp tương phản nhau, không thể đi chung nhau được. Nếu
còn mê thì không có giác, mà khi đã giác rồi thì không còn
mê nữa, cũng như khi có sáng đến thì không thế nào ông
tìm cho ra cái tối, mà khi đã tối thì làm gì có sáng. Ðây
xin ông vui lòng giải cho tôi nghe. Vấn: Bạch Ngài, khi tánh nết chưa được hoàn toàn
thì làm sao lại không mê?
Ðáp: Vì bởi tánh nết chưa hoàn toàn nên chưa gọi là
PHẬT TÁNH được. Xin ông nghe tôi ví dụ thêm, nếu trời
sáng thì nói sáng, bằng tối thì ta nói tối, còn mờ mờ
thì ta gọi là mờ mờ, chớ có ai nói mờ mờ là sáng được
không? Theo ông nói thì có thể làm cho người mới hiểu Ðạo
họ nghĩ rằng: Họ là một vị Phật không cần phải tu làm
gì. Vấn: Bạch Ngài, nếu không có PHẬT TÁNH, sao lại biết
suy nghĩ mọi việc, làm mọi việc?
Ðáp: Thế thì ông còn nhiều ngộ nhận lỗi lầm trong
Phật giáo và ông quên những đoạn giảng giải lúc ban đầu
về tâm rồi. Tâm nghĩa là suy nghĩ và làm các việc, nếu
không có tâm thì thân chỉ là một cái xác thôi, không làm
gì được. Còn nếu ông nói về hiểu thì đó lại là thức,
là một nguyên nhân khác nhau. Vấn: Bạch Ngài, thật ra tôi ít hiểu đạo nên câu hỏi
không được chu đáo mà bị Ngài chận đứng chớ sự thật
ý tôi muốn nói rằng: Sự biết sợ tội lỗi làm lành, lánh
dữ, chớ không ngụ ý cái biết của Tâm hay của Thức.
Ðáp: Nếu ông nói vậy đặng chữa cái lý của ông nhưng
cũng còn chưa trúng, vì khi ta biết làm những điều phải, tránh
những việc quấy là do nơi tâm thiện đi với thiện tâm sở
là TẦM nghĩa là thẹn và hổ với tội lỗi. HÚY là kinh sợ
điều tội lỗi. Khi có hai pháp nói trên thì tâm không dám
làm tội lỗi chớ kỳ thật đó không phải là Phật tánh. Vấn: Bạch Ngài, nếu không có Phật tánh, vậy làm sao
có chúng sanh sanh lên được?
Ðáp: Chúng sanh mà sanh lại đây không phải là do nơi
Phật tánh mà trái lại do nơi Vô minh. Vấn: Tại sao sanh lại do nơi Vô minh? Ðức Thế Tôn có
thuyết nơi nào không hay là tự Ngài thuyết lấy?
Ðáp: Ông có biết rằng: Trước khi thành đạo dưới cội
Bồ đề, đức Thế Tôn quan sát trông thấy những gì không? Vấn: Bạch Ngài, không, vì vậy nên tôi xin Ngài hoan hỷ
chỉ giáo.
Ðáp: Vì vậy nên ông tưởng tôi nói theo ý kiến của
tôi, một Phật tử chơn chánh không bao giờ dám nói theo ý kiến
của mình. Vậy tôi xin cho ông thấy rằng: Khi thành đạo đức
Phật quan sát về Thập nhị nhân duyên, cũng gọi là Thập nhị
duyên khởi, nghĩa là mười hai nguyên nhân sanh ra chúng sanh. Thập nhị duyên khởi ấy là: 1/ Vô minh sanh ra Hành. Sau ấy Ngài mới quán tưởng ngược lại rằng: 1/ Nếu Vô minh diệt thì Hành ắt diệt. Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy câu Phật ngôn như vậy thì
tôi không biết nói sao nhứt là tôi là người căn cơ thấp kém
không thể hiểu hơn những gì mà tôi đã hỏi Ngài. Nhưng
theo Ngài thì Ngài không nhìn nhận cái thuyết PHẬT TÁNH, phải
vậy không?
Ðáp: Phải thật vậy, và tôi xin nhắc lại một lần nữa
rằng: Chúng sanh là chúng sanh, chúng sanh làm sao có PHẬT TÁNH
được? Vấn: Bạch Ngài, nếu không có Phật Tánh, thì làm sao
có chúng sanh, vậy chúng sanh từ một lý do nào sanh lại?
Ðáp: Như tôi vừa nói với ông rằng: Từ Vô minh sanh lại,
thưa ông, ông đã quên rồi sao? Vấn: Vậy xin Ngài cho tôi hiểu rõ chữ Vô minh nghĩa là
gì?
Ðáp: Tiếng Vô minh dịch từ tiếng Phạn là ÀVIJJÀ. Tiếng
ÀVIJJÀ mới có từ ngày đức Thế Tôn thành đạo dưới cội
Bồ đề chớ trước ngày ấy không ai biết tiếng Vô minh
ÀVIJJÀ ấy cả. Vậy tôi xin giải theo Phạn ngữ. Chữ
ÀVIJJÀ chia ra làm hai phần là A và VIJJÀ. A nghĩa là KHÔNG,
VIJJÀ nghĩa là HIỂU. ÀVIJJÀ nghĩa là không phân biệt và
không hiểu theo lời Phật dạy thì, vật chi không nghe, không
thấy, không biết, không phân biệt đều gọi là ANANÀM,
ADASSANAM hay cũng gọi là ÀVIJJÀ nghĩa là Vô minh. Vấn: Bạch Ngài, có lẽ Ngài muốn ngụ ý nói chúng
sanh không trông thấy pháp Tứ Ðế nên gọi là Vô minh chăng?
Ðáp: Ấy là cái Vô minh CŨ, hay tạm gọi là Vô minh chớ
kỳ thật nó chỉ là hiện ảnh của Vô minh thôi, chớ không
phải thật là Vô minh cũng gọi nó là Si mê. Theo kinh thì thường
gọi đó là Si mê thuộc về Tam độc chớ không bao giờ gọi
là Vô minh cả. Tại sao vậy? Vì con người còn biết thương,
ghét, buồn, tham, giận v.v... nên không thể gọi là Vô minh,
mà gọi là Si mê. Vì họ không thấy lý của Tứ Ðế. Còn
cái Vô minh mà tôi nói với ông đây là cái Vô minh là cái
Vô minh thật, ý tôi muốn nói cái Vô minh không biết gì hết,
hay nói cho dễ nghe là cái Vô minh mới. Vấn: Vậy thì lại còn có cái Vô minh cũ; Vô minh mới
hay là Vô minh tạm gọi nữa thật là phiền phức quá. Song
xin Ngài giải rõ cho tôi hiểu hai cái Vô minh ấy khác nhau như
thế nào?
Ðáp: Vô minh mới là đất, nước, gió, lửa, vì những
chất ấy không biết thương, ghét, đau, khổ v.v... ví như sắt
mới đem từ mỏ lên chưa lọc xong nên chưa dùng vào đâu
được. Vấn:
Bạch Ngài, nếu nói Tứ đại là Vô minh không có cái biết tại
sao lại sanh ra con người có cái biết được, nếu không có
Phật tánh?
Ðáp: Một khi Tứ đại hội họp lại gọi là Hành, khi
Hành ấy đi tới mức hoàn toàn rồi thì lại có THỨC nghĩa
là lúc biết cử động, khi nó cử động được thì nó có
hai pháp gọi là Danh, Sắc v.v... như THẬP NHỊ DUYÊN KHỞI mà
tôi đã nói xong.
Vấn: Bạch Ngài, Ngài giải vắn tắt quá chúng tôi
không thể hiểu nổi xin Ngài vui lòng chỉ dạy cho rõ thêm. Ðáp: Xin Ông cho tôi biết: Ông có từng thấy, những
con thú nào sanh lên do nơi những chất như lá cây hay không?
Vấn: Bạch Ngài, có, chính tôi lúc nọ có gặp con cào
cào sanh bởi đọt cây trứng cá, tôi thấy rõ ràng cái đầu
nó còn dính với cọng, tôi lấy làm lạ có hỏi nhiều người,
có người bảo rằng: Ðó là chuyện thường. Tôi còn hỏi
nhiều người học thức thì lại bảo: Ðó là do nơi một con
cào cào đẻ trứng trên đó nên nó mới sanh ra được, mà
Ngài nghĩ coi tin các ông ấy sao được, vì chính tôi trông thấy
cái đầu của nó còn dính nơi cọng trứng cá, mà hơn nữa tôi
thấy ổ cào cào chớ không thấy trứng cào cào bao giờ. Tôi
còn thấy hai cái cánh của nó còn là cái lá cây một bên
khúc trong coi như cái cánh, bên ngoài còn là lá. Sau lại tôi
còn gặp cái mình là con cào cào, còn cái đầu chưa có cái
mình cũng còn dính với cái cọng cây trứng cá. Lại nữa, hồi
tôi về thăm nhà, ở nhà tôi có người bạn đi bắt cá mò
nhằm một con lươn mà kéo hoài không ra, y tức giận lấy dao
cắt đứt đem ra thì cái khúc trong là rễ của cây lăng, ngoài
là đuôi con lươn. Tôi nghĩ không lẽ lươn lại đẻ khúc trứng
dính ở rễ cây rồi lại sanh ra lươn. Còn một chuyện lạ nữa
là con đường từ Vientiane đi Luang Prabang có một đoạn rừng
toàn một thứ cây gọi là cây sỉnh, nếu năm nào cây ấy trổ
bông thì khổ lắm, không biết hàng triệu con chuột từ đâu
đến ăn hại mùa màng không làm sao trừ diệt cho kịp. Sau người
ta tìm ra biết rằng: Những con chuột tai hại ấy sanh bởi
bông cây sỉnh. Ngài thử nghĩ coi nếu nói chuột đẻ thì những
năm cây ấy không trổ bông sao không có giống chuột ấy,
còn nói chuột là giống sanh mau đẻ lẹ thì làm gì trong một
lúc sanh hàng triệu con, đành rằng chuột đẻ nhiều, nhưng cái
nhiều có giới hạn chớ nhiều gì không thể ức đoán được
vậy. Nên những gì mà tôi thấy thì tôi tin chắc vậy, mình
cũng có thể tin các ông ấy nhưng có chỗ mình phải dùng
trí mà phán đoán chớ làm sao tin càn được. Ðáp: Theo ông thì ông tin rằng: Lá cây trứng cá, rễ
cây lăng và bông cây sỉnh thành ra những con thú mà ông nói
có phải vậy không?
Vấn: Bạch Ngài, tai sao thì tôi không biết, chớ tôi thấy
sao thì tôi tin vậy, mặc dầu có ai nói tôi ngu tôi cũng chịu. Ðáp: Vậy thì tôi xin hỏi ông lá cây trứng cá, rễ
cây lăng và bông cây sỉnh kia có PHẬT TÁNH không?
Vấn: Bạch Ngài, những cái ấy đều không có PHẬT
TÁNH. Ðáp: Thế là tự ông nhận rằng: Những vật ông nói
không có PHẬT TÁNH mà sanh lại những con thú ông vừa kể,
thì ông suy nghĩ kỹ theo Thập nhị duyên khởi ông sẽ thấy
rõ là Vô minh sanh ra chúng sanh.
Vấn: Bạch Ngài, tôi vẫn còn thắc mắc, tại sao trước
kia là Vô minh rồi họp lại gọi là Hành, rồi lại Thức
v.v... như Ngài đã giảng, rồi Thức từ đâu đến? Ðáp:
Vậy tôi xin thí dụ này không có tánh cách khoa học: xương cá
khô, rau dền, lá mồng tơi, măng, mướp, bắp xắt ra rồi nấu
chung, khi nó chín, vật ấy có tên là gì? Nó là thức chi? Vấn: Người ta gọi là canh Xiêm lo, nó là một thức
ăn của người Việt.
Ðáp: Tại sao lại gọi là canh Xiêm lo mà không gọi là
xương cá khô nấu mướp v.v..., nếu ta lấy ra một hai món,
ta có thể gọi là canh Xiêm lo được hay không? Vấn: Bạch Ngài, không.
Ðáp: Tại sao vậy? Vấn: Vì không đủ chất cho thứ canh ấy.
Ðáp: Ðây là một ví dụ cho ông thấy rằng: Nếu trong
Tứ đại mà thiếu một chất nào thì cũng không thế nào cấu
tạo ra được. Như ở những xứ lạnh thì những loại kiến,
mối, ruồi có rất ít vì nó thiếu nguyên nhân cấu tạo cho
phát sanh lên. Khi những vô minh ấy cấu tạo rồi dần dần
nó lại thành ra có thức như tôi đã giải cho ông nghe trong
Thập nhị duyên khởi. Vấn: Nếu Ngài dạy thế thì phải cần có Thức nữa mới
được chớ?
Ðáp: Vậy canh Xiêm lo cần phải có một chất chi nữa
mới gọi là canh Xiêm lo không? Vấn: Bạch Ngài, không.
Ðáp: Thì cũng như tôi đã ví dụ có Tứ đại thì đã
đủ rồi không cần có gì thêm nữa. Vấn: Nếu dạy như Ngài thì không có PHẬT TÁNH sao?
Ðáp: Theo tôi hiểu thì không có, vì như tôi đã nói với
ông rằng: Phật nghĩa là Giác, mà một khi người đã Giác
thì hoàn toàn không còn mê say trong ngũ trần nữa. Nếu nói
là người có Giác mà còn bị vô minh bao bọc thì mâu thuẫn
quá. Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy vậy tôi nghe vậy, nhưng còn
có chỗ tôi nghi ngờ là tôi có xem kinh có chỗ Phật dạy rằng:
Chúng sanh là Phật vị lai. Vậy có nghĩa là sao, bạch Ngài?
Ðáp: Lẽ cố nhiên chúng sanh nào muốn thành Phật thì
phải noi theo con đường của chư Phật đã thành từ vô số
kiếp, là phải hành theo pháp Ba La Mật của Ngài thì sẽ
thành Phật. Có khi nào ông thấy trong đoạn kinh nào nói: Người
không tu mà thành Phật không? Ông hãy thử nghĩ có một ông kỹ
sư kia tìm thấy một mỏ sắt tốt, ông ấy có thể nói rằng:
Ðây là kho khí cụ của ta. Mà chính ông ấy không khai mỏ
ấy và đem về lọc lại rồi tạo ra khí cụ. Nếu ông ấy
không khai mỏ và không biến chế, ông ta có được khí cụ
không? Ðiều này ví như chúng ta không tu thì không thể thành
giống gì được hết; phải tu mới thành chớ. Vấn: Nếu nói như Ngài thì chúng sanh đi từ cái VÔ
MINH tới cái MINH, phải không?
Ðáp: Phải đúng vậy. Vấn:
Bạch Ngài, nếu Ngài nói vậy, Ngài lấy chi làm bằng?
Ðáp: Như tôi đã nói với ông nhiều lần rằng: tôi dựa
vào Thập nhị duyên khởi làm tài liệu.
Vấn: Ngài nói sao tôi cũng vẫn còn nghi ngờ vì tôi lấy
làm lạ là tại sao chúng sanh đi từ cái Vô minh tới cái Minh
được? Ðáp:
Ông nghĩ sao, người ta từ cái dốt đi tới cái khôn có được
hay không? Vấn:
Bạch Ngài, tùy theo trường hợp, có thể được lắm chớ.
Ðáp: Vậy tùy theo trường hợp, là trường hợp như thế
nào?
Vấn: Nếu chúng ta dốt có thể vào trường học trở nên
người thông minh được chớ. Ðáp: Thì cũng như từ cái Vô minh đi đến cái Minh được
cũng không có gì lạ vậy, xin cho chúng ta được thầy hay bạn
giỏi chỉ dạy cho thì có khó gì.
Vấn: Nếu vậy xin Ngài giải thế nào cho tôi hiểu, điều
này tôi chưa hiểu được, nên tôi không thể tin được.
Nhưng tôi không biết làm sao hỏi cho rõ thêm được vì nó
quá với sự hiểu biết của tôi. Ðáp: Ðây là tại ông muốn tò mò hiểu những sự vô
ích và quá sức tưởng tượng của ông. Phải chi ông tìm biết
ba mươi bảy nhân sanh quả Bồ đề, rồi ông ráng hành theo,
khi được viên mãn rồi thì tự ông trông thấy sự giải
thoát. Vì những sự của ông biết không phải là nhân giải
thoát chỉ tìm hiểu chơi mà thôi. Giờ tôi xin hỏi ông: Người
ta có thể lấy nước mặn làm ra nước ngọt được không?
Vấn: Bạch Ngài, theo tôi tưởng thì được lắm chớ. Ðáp: Thế cũng như vô minh vậy, khi mà các bực cao thượng
như đức Chánh đẳng Chánh giác, Ðộc Giác dùng ba mươi bảy
nhân sanh quả Bồ đề làm dụng cụ nấu nó thì nó lại
thành cái MINH. Như người ta đem nước biển lọc hay nấu làm
lại nước uống được vậy.
Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy thế thật là chí lý nhưng
phải chi Ngài cho thêm một ví dụ nữa. Ðáp: Vậy cũng được, nhưng xin ông trả lời câu hỏi
của tôi đã. Vậy ông có biết người ta làm khô họ dùng
chi muối cá không?
Vấn: Bạch Ngài, họ dùng muối để muối cá. Ðáp: Muối làm bằng gì vậy, hở ông?
Vấn: Bạch Ngài, bằng nước biển. Ðáp: Vậy tại sao người ta không lấy nước biển mà
muối cá lại lấy muối muối cá?
Vấn: Bạch Ngài, nếu dùng nước biển muối cá thì
không phải phương pháp. Ðáp: Tại sao vậy, thì nước biển cũng mặn mà cũng
chính nó làm ra muối kia mà?
Vấn: Ðành vậy, nhưng khi nó còn là nước biển không
thể đem muối cá được vì nó ít chất mặn. Ðáp: Vô minh ấy có thể ví như nước biển, nhưng nước
biển không thể muối cá được mà phải dùng chất muối,
mà chính chất muối lại lấy từ chất nước biển ra. Cũng
như các bậc có Trí tuệ nhứt là đức Chánh đẳng Chánh
giác biết dùng ba mươi bảy nhân sanh quả Bồ đề ép nấu
Vô minh thành cái Minh được vậy.
Vấn:
Thật hôm nay tôi chịu cách thuyết của Ngài. Nhưng tôi lấy
làm lạ là ai ai khi nói gì cũng muốn cho người ta tin mình,
còn riêng Ngài, tại sao Ngài lại bảo tôi khoan tin Ngài? Ðáp: Sự tin vội là một tai hại cho mình sau này, chẳng
hạn chuyện gì dầu lớn hay nhỏ ta cũng phải dùng Trí tuệ
suy nghĩ kỹ trước rồi hãy tin. Lắm khi người ta nói một
câu chuyện nghe có lý nhưng lại không đúng với sự thật. Mặc
dầu đức Thế Tôn là đấng hoàn toàn giác ngộ mà Ngài cũng
vẫn dạy chúng sanh hãy suy nghĩ lời Ngài cho chu đáo rồi sẽ
tin theo.
-ooOoo- Vấn: Thật hôm nay tôi chịu cách thuyết của Ngài. Nhưng
tôi lấy làm lạ là ai ai khi nói gì cũng muốn cho người ta
tin mình, còn riêng Ngài, tại sao Ngài lại bảo tôi khoan tin
Ngài? Ðáp: Sự tin vội là một tai hại cho mình sau này, chẳng
hạn chuyện gì dầu lớn hay nhỏ ta cũng phải dùng Trí tuệ
suy nghĩ kỹ trước rồi hãy tin. Lắm khi người ta nói một
câu chuyện nghe có lý nhưng lại không đúng với sự thật. Mặc
dầu đức Thế Tôn là đấng hoàn toàn giác ngộ mà Ngài cũng
vẫn dạy chúng sanh hãy suy nghĩ lời Ngài cho chu đáo rồi sẽ
tin theo.
Vấn: Thật ra tôi muốn học và hỏi những gì tôi nghi
ngờ từ bấy lâu, nhưng không gặp được ai là bực thông hiểu
đạo lý rốt ráo để chỉ dạy cho, hôm nay gặp Ngài tôi lấy
làm thỏa thích hỏi những chuyện ngoài vấn đề của một
người tại gia cư sĩ. Vậy bây giờ xin Ngài vui lòng dạy cho
chúng tôi biết cách thực hành của một người cư sĩ làm thế
nào. Cư xử làm sao đúng theo lời Phật dạy, đem hạnh phúc
lại cho gia đình. Ðáp: Phật có dạy nhiều nơi trong Tạng Kinh về phận
sự của người cư sĩ; nếu người ta có công sưu tầm có thể
viết ra một quyển để người cư sĩ hành theo gọi là Luật
Tại Gia. Tôi không thể giải hết nơi đây cho ông nghe, nhưng
tôi chỉ xin nói những gì tôi còn thuộc được.
Vậy bổn phận người tại gia phải đối với cha mẹ có
năm điều là: 1/ BHARANAM, nuôi dưỡng cha mẹ. Bổn phận làm cha mẹ đối với con có năm điều: 1. PÀPÀNIVÀRENTI, ngăn cấm con không cho làm điều tội lỗi. Người bạn lành đáng cho ta giao tiếp phải có bốn pháp
là: 1. UPAKÀRAKO, người bạn có ơn với ta. Hơn nữa người bạn đáng cho ta giao tiếp có năm pháp như
là: 1. DÀNENA, chia tiền của cho. Người không đáng cho ta làm bạn có bốn điều mà ta có
thể nhận thấy là: 1. ANNADATTHUHARO, người bạn chỉ biết tìm sự lợi ích
riêng cho mình. Ý nói người vụ lợi. Khi ta chọn được bạn lành ta phải đối xử với bạn ta
đúng theo năm pháp này là: 1. DÀNENA, phải cho đồ nên cho. Ý nói cho trong khi bạn ta
thiếu món ấy. Hơn nữa ta phải có thêm năm pháp đối với bạn hiền là: 1. PANATTAM RAKKHANTI, cố trông nom bạn khi người bạn ấy
dễ duôi. Ý nói rằng: Khi ta trông thấy bạn ta chểnh mảng
việc gì như làm những việc phi pháp hoặc say mê việc gì
bỏ phế gia đình, ta cố nhắc nhở. Bổn phận người giúp việc đối với chủ có năm pháp: 1/ PUBBHATTHÀYINO CA HONTI, phải thức dậy làm việc trước
chủ. Bổn phận của người chủ đối với người làm công phải
có năm pháp: 1/ YATHÀBALAM KAMMAN TASAMVIDHÀNENA, cho người làm công làm
những việc vừa theo sức họ. Ý nói không bóc lột nhân
công. Bổn phận làm trò đối với thầy có năm điều là: 1/ UTTHÀNENA, đứng dậy tiếp đón thầy khi thầy đến.
Hay bất cứ trong trường hợp nào khi mình đang ngồi. Bổn phận làm thầy đối với trò có năm pháp là: 1/ SUVINÌTAM VINENTI, dạy trò rất chu đáo. Bổn phận của người tại gia cư sĩ đối với các bậc
xuất gia có năm điều là: 1/ METTÀKÀYAKAMMENA, từ bi bằng thân. Ý nói rằng: Hằng
giúp đỡ người xuất gia trong mọi trường hợp như bố thí,
cúng dường. Bổn phận người xuất gia phải đối với cư sĩ có sáu
điều là: 1/ PÀPÀ NIVÀRENTI, răn dạy tín đồ không cho làm những
điều tội lỗi. Người tại gia cư sĩ phải xài tiền như thế này là: 1. Nuôi Cha, Mẹ, Vợ, con và giúp đỡ bạn bè. Làm năm điều giúp đỡ là: 1) NÀTIBALI, chia tiền ra giúp quyến thuộc. Lại còn có sáu cách xài tiền nữa là: 1. Trả nợ cũ. Vấn: Bạch Ngài, trong sáu điều ấy có điều tôi hiểu,
có điều không hiểu rõ được, xin Ngài vui lòng giải cho. Ðáp: Nợ cũ ý nói Cha, Mẹ. Vì chúng ta sanh ra và được
lớn khôn có gia đình đều do nơi cha mẹ sinh dưỡng. Công
ơn của hai người chúng ta không đo lường được. Cha thì lo
chạy tảo, lo tần hầu tìm cho ra tiền để đem về lo cho con
ăn học cho nên người, ngoài ra khi con khôn lớn còn lo gia đình,
chẳng những vậy lại còn chia gia tài cho, khi con đã lập gia
đình rồi. Vì vậy nên đối với cha mẹ con là người thiếu
nợ, cha mẹ là người chủ nợ. Vậy bổn phận làm con phải
lo trả nợ cũ, ý dạy rằng: Phải ráng phụng thờ nuôi dưỡng
cha mẹ cho hơn cái mà cha mẹ đã nuôi dưỡng ta.
Cho vay nợ mới, nghĩa là khi ta có con thì ta phải hết
lòng nuôi dưỡng con, như tôi đã giải cho ông nghe trong đoạn
của người cư sĩ. Hơn nữa ta phải giúp đỡ quyến thuộc bất
cứ bên vợ hay bên chồng. Trải trên mặt đất, ý dạy phải đóng thuế cho nhà nước,
đừng dễ duôi, vì chúng ta là công dân, có bổn phận phải
giúp chánh phủ. Ðổ xuống hố sâu, ý dạy rằng: những cái hố nào mặc
dầu sâu đến đâu người ta cũng có thể lấp được, nhưng
những cái hố là mắt, mũi, lưỡi, tai, thân này không thế
nào ai lấp cho nó đầy được. Như bụng ăn sáng trưa đói,
ăn trưa chiều đói. Mắt xem sắc đẹp không bao giờ biết đủ,
biết no v.v... Hàng cư sĩ là người còn gần với đời, chúng
ta không thể nào tránh khỏi những điều đòi hỏi ấy, thì
chúng ta cũng phải trả những cái món nợ ấy, nhưng cũng không
nên trả thái quá mà có hại. Chôn cất để dành, có hai nghĩa là: A) Phải lo chia tiền để dành dưỡng già, ta không nên
tin cậy ở con ta. Vì nếu gặp đứa con bất hiếu thì
không ai nuôi dưỡng ta. B) Làm phước như là bố thí cho người nghèo khó, cho kẻ
xuất gia. Vì tiền của mà ta chôn cất nơi đâu cũng không
kín vì vẫn còn bị trộm cướp, cháy, trôi, hay chúng ta chết
rồi không thế nào đem theo được. Còn phước của ta làm
có thể theo bên ta như bóng với hình; mặc dầu ta sanh ra nơi
nào phước ấy cũng vẫn theo bên ta và hộ trì ta. Ðổ vào miệng rắn hổ, ý nói rằng: phải có vợ, có tiền
để mua sắm những vật cần thiết của họ, như đồ trang sức
đừng để thua kém chúng bạn. Khi các bà bị thua kém chúng bạn
thì các bà buồn phiền chắc chắn trong gia đình không được
yên vui. -ooOoo- Chân thành cám ơn Đại
đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, tháng
8-2001) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thong Kham Medhivongs
Tái bản: PL. 2539 - TL. 1996
2/ ARANAM HATATTÀ nghĩa là người bẻ gãy những căm.
3/ PACCÀYÀTÌNAM ARAHATAATÀ nghĩa là đáng cho chúng sanh lễ
bái cúng dường (Tàu dịch là Ứng cúng).
4/ PÀPAKARAN RAHÀBHÀVE nghĩa là không làm tội lỗi nơi khuất
tai, khuất mắt.
2/ Hành sanh ra Thức.
3/ Thức sanh ra Danh Sắc.
4/ Danh Sắc sanh ra Lục Nhập.
5/ Lục Nhập sanh ra Xúc.
6/ Xúc sanh ra Thọ.
7/ Thọ sanh ra Ái.
8/ Ái sanh ra Thủ.
9/ Thủ sanh ra Hữu.
10/ Hữu sanh ra Sanh.
11/ Sanh sanh ra lão, tử.
12/ Lão Tử, đau đớn, than van, khổ não, buồn rầu, thất vọng.
2/ Nếu Hành diệt thì Thức ắt diệt.
3/ Nếu Thức diệt thì Danh Sắc ắt diệt.
4/ Nếu Danh Sắc diệt thì Lục Nhập ắt diệt.
5/ Nếu Lục Nhập diệt thì Xúc ắt diệt.
6/ Nếu Xúc diệt thì Thọ ắt diệt.
7/ Nếu Thọ diệt thì Ái ắt diệt.
8/ Nếu Ái diệt thì Thủ ắt diệt.
9/ Nếu Thủ diệt thì Hữu ắt diệt.
10/ Nếu Hữu diệt thì Sanh ắt diệt.
11/ Nếu Sanh diệt thì Lão, bịnh, tử, than van, khổ não, buồn
rầu, thất vọng ắt diệt.
2/ KICCAKARANAM, làm tất cả các việc để giúp cha mẹ.
3/ KÙLAVISATHAPANAM, gìn giữ thanh danh của gia đình, không
làm mất thể thống của gia đình, và giữ gia tài của cha
mẹ để lại.
4/ DÀYAJJÀRAHAPATIPAJJANAM, làm cho ra người đáng thọ hưởng
di sản của cha mẹ để lại.
5/ DAKKHINÀNUPADÀNAM, khi cha mẹ quá vãng phải lo làm phước
hồi hướng đến cho cha mẹ.
2. KÀLYÀNE NIVESENTI, dạy con làm những việc lành.
3. SIPPAM SIKKHÀPENTI, cho con học các thiện nghiệp (các nghề
chơn chánh).
4. SAMAYE DÀYAJJAM NIYYÀDENTI, tùy thời chia của cho.
5. PATIRÙPENE DÀRENA SAMYOJENTI, làm lễ sính hôn cho con tùy
theo gia đình của mình (ý nói môn đăng hộ đối, và cũng
tùy theo trường hợp).
2. SAMÀNASUKHADUKKHO, người bạn cùng chia vui khổ với ta.
3. ATTHAKKHÀYÌ, người bạn thường chỉ những điều hữu
ích cho ta và dạy những điều tai hại cho ta lánh.
4. ANUKAPPAKO, người bạn thường giúp đỡ những lúc ta hữu
sự.
2. PIYAVACANENA, thường nói lời dịu ngọt mà hữu ích cho
ta.
3. ATTHACARIYÀ, làm sự lợi ích cho ta, nghĩa là thường giúp
đỡ ta mọi việc.
4. SAMÀNATTATÀ, có sự hành vi chơn chánh. Ý nói rằng: Khi
giúp bạn thì giúp bằng lòng chơn thật chớ không mong vụ
lợi, hoặc mong bạn trả ơn, mặc dầu là một chuyện gì.
Và bao giờ người bạn ấy cũng có một tư tưởng tương
đồng không phản bội.
5. AVISAMVÀDANATÀYA, không bao giờ lừa dối bạn.
2. VACÌPARAMO, chỉ nói tốt ở miệng.
3. ANUPIYABHÀNÌ, chỉ nói xu bợ. Ý nói không bao giờ chỉ
trích cái quấy của bạn mặc dầu biết đó là quấy.
4. APÀYASAHÀYO, người bạn dẫn mình tới nơi phá sản. Ý
nói người bạn ấy thường rủ mình đi đến nơi sòng bạc,
hay quán rượu v.v...
2. ATTHACARIYÀ, làm sự hữu ích cho bạn. Ý nói giúp đỡ những
gì mà bạn mình không biết hay không thể làm được.
3. PIYAVÀCÀ, nói lời dịu ngọt và thành thật. Ý nói không
bao giờ dùng lời thiếu nhã nhặn đối với bạn.
4. SAMÀNATTATÀ, trung thành với bạn.
5. AVISAMVÀDANATÀYA, không nói dối bạn.
2. PAMATTASSA SÀPATEYYAM RAKKHANTI, ráng trông nom săn sóc của cải
của bạn khi người bạn trụy lạc mà ta chưa khuyên được.
3. BHÌTASSA SARANAM HOTI, khi bạn ta có tai nạn ta có thể cho bạn
ta nương nhờ được.
4. ÀPADÀSU NA VIJJAHANTI, không bỏ nhau trong khi hoạn nạn.
5. APPARAPPAJAMPISSA PATIPÙJENTI, quý mến tất cả họ hàng của
bạn như của ta.
2/ PACCHÀNIPÀTINO CA, khi làm việc nghỉ sau chủ.
3/ DINNADÀYINO CA, chỉ lấy của chủ đã phát cho. Ý nói
không tham lam, lấy cắp của chủ.
4/ SUKATAKAMMÀKARÀ, càng lo làm công chuyện nhiều thêm.
5/ KITTIVANNAHARÀ CA, ca tụng những việc làm của chủ ở mọi
nơi.
2/ BHATTAVETTANÀNUPPADÀNENA, cho vật thực và tiền thưởng cho
người làm công. Ý nói không vụ lợi, bỏn xẻn.
3/ GILÀNUPATTHÀNENA, khi người có bịnh phải hết lòng săn sóc
thuốc men, trông nom cho chu đáo.
4/ ACCHARIYÀNAM RASÀNAM SAMVIBHÀGENA, cho người làm công ăn món
ngon vật lạ. Ý nói không bỏn xẻn, cho ăn những đồ không
ngon, không thay buổi ăn của người làm công.
5/ SAMAYE VOSSAGGENA, cho nghỉ làm việc hợp thời. Ý nói rằng
khi có lễ vui chơi nên cho người làm công nghỉ để đi xem
lễ.
2/ PACCUPPATTHÀNENA, vào hầu thầy theo thời. Ý nói rằng: Phải
vào thăm viếng thầy khi thầy có giờ rảnh hay đau ốm, hoặc
có công chuyện gì.
3. SUSSÙSÀYA, vâng lời chỉ dạy của thầy.
4. PÀRICÀRIYÀYA, hầu hạ thầy.
5. SAKKACCAM SIPPAM PATIGGAHANENA, khi học phải tỏ vẻ hết
lòng kính trọng và chăm chú nghe lời giảng của thầy.
2/ SUGAHITAM GÀHÀPETI, tập dạy trò trở nên người tốt.
3/ SABBASIPPESU TAM SAMAKKHÀYINO BHAVANTU, dạy không giấu nghề.
Ý nói dạy hết những gì mình đã hiểu biết.
4/ MITTÀMACCESU PATIVESENTI, khen trò trước mặt bạn khác.
5/ DISÀSU PARITTÀNAM KARONTI, tránh sự tai hại cho trò trong mọi
nơi. Ý nói rằng để ý trông nom những nơi đi, chốn đến,
chỗ ở của trò, không để cho trò vì nhẹ dạ, non lòng bị
người cám dỗ, hay trụy lạc v.v...
2/ METTENA VACÌKAMMENA, từ bi bằng khẩu. Ý nói rằng: Hằng
dùng lời dịu ngọt nói với người xuất gia.
3/ METTENA MANOKAMMENA, từ bi bằng tâm. Ý nói bao giờ cũng
nghĩ thương hại người xuất gia và nghĩ đến sự giúp đỡ
như bố thí v.v...
4/ ANÀVATADVÀRATÀYA, không đóng cửa nhà. Ý nói rằng: Bao giờ
cũng mở cửa tiếp đón các bậc xuất gia để giúp đỡ vật
thực, thuốc men v.v...
5/ ÀMISÀNUPPADÀNENA, thường cúng dường đến các bậc xuất
gia.
2/ KALAYÀNE NIVESENTI, bắt buộc, khuyên bảo các người cư
sĩ làm những việc lành.
3/ KALYÀNE MANASÀ ANUKAMPANTI, giúp đỡ tín đồ bằng lòng từ
bi. Ý nói giúp đỡ bằng lòng thương hại tín đồ, chớ không
vì sự bắt buộc hay vì tư lợi.
4/ ASSUTAMSÀVENTI, dạy tín đồ những pháp giải thoát mà
tín đồ chưa từng nghe biết.
5/ SUTAM PARIYODAPENTI, những pháp nào tín đồ đã biết, giải
rõ làm cho tín đồ hiểu rõ rệt hơn.
6/ SAGGASSAMAGGAM ÀCIKKHANTI, chỉ Thiên đàng cho tín đồ. Ý
nói dạy cách hành đạo cho được an vui trong kiếp này và
vị lai, khi không thể xuất gia hành đạo cao thượng. Ngoài
ra người tín đồ Phật giáo cần phải biết cách sử dụng
tiền, không lãng phí thái quá.
2. Giúp đỡ quyến thuộc.
3. Xài trong những việc cần như trong khi bịnh hoạn.
4. Cúng dường đến các bậc hành Phạm hạnh. (Người xuất
gia).
2) ATITHIBALI, tiếp khách.
3) PUBBAPETABALI, làm phước hồi hướng đến những người hữu
ơn với ta đã quá vãng.
4) RÀJABALI, đóng thuế.
5) DEVABALI, làm phước hồi hướng đến Chư Thiên.
2. Cho vay nợ mới.
3. Trải trên mặt đất.
4. Ðổ xuống hố sâu.
5. Chôn cất.
6. Ðổ vào miệng rắn hổ.
updated: 14-08-2001