BuddhaSasana Home Page Bát Chánh
Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc
Eight Mindful Steps to Happiness Hòa thượng Henepola Gunaratana Bước 1
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu
chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha
đã rời bỏ cung
điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc
sống không nhà của người lữ hành lang thang
đi tìm con
đường tâm linh, và sau nhiều năm
tu hành tinh tấn, Ngài đã
đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc
cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã
đi đến thành phố Benares, giờ
được gọi là Varanasi. Ở
đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài
thuyết pháp về những gì Ngài đã khám
phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn
vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng
sâu sắc. Một cuộc sống đắm say trong dục lạc hoặc quá khổ hạnh đều không
thể có được hạnh phúc. Chỉ có con đường trung đạo, tránh hai trạng thái
cực đoan đó, mới có thể giúp ta đạt được tâm bình an, tuệ giác và
sự giải thoát hoàn toàn khỏi những phiền não trong cuộc
đời.
Theo truyền thống, những lời dạy đó của
Đức Phật được gọi là Tứ Diệu Đế.
Diệu đế cuối cùng trong bốn diệu
đế kia đã
đề ra giáo lý tám ngành (Bát Chánh
Đạo) để giúp ta đạt được hạnh
phúc. Ngài dạy chúng ta phải phát triển sự thiện xảo trong suy nghĩ, hiểu
biết, lời nói, hành động, cách sống, tinh
tấn, chánh niệm và định.
Trong chương này và các chương tiếp theo chúng ta sẽ khảo sát các ngành
(bước) này một cách chi tiết. Bạn sẽ thấy ba ngành – chánh kiến, chánh
tinh tấn và chánh niệm – có mặt trong tất cả tám ngành.
Đây là những
điều cốt yếu trong con
đường đạo. Tất cả các ngành
đều tương quan lẫn nhau nhưng không có ngành
nào có thể vận hành mà không có sự ứng dụng triệt
để của chánh kiến, chánh tinh tấn và
chánh niệm. Bạn thực hành theo con đường này
bằng cách mang sự chú tâm chánh niệm đến với
tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống hằng ngày, tiếp tục tu sửa
để tiến tới sự hoàn thiện và ứng dụng
trí tuệ một cách khôn ngoan hơn. Khi tâm đã
ổn định, tuệ giác sẽ bắt đầu phát sinh.
Có loại trí tuệ tựa như một sự bừng tĩnh nhẹ nhàng khi một phần nào
đó của cuộc sống hay của vũ trụ bỗng trở nên
rõ ràng, khúc chiết. Lại có những sự liễu ngộ sâu sắc hơn, như thể cả vũ
trụ chuyển động bởi sự khám phá này
của bạn. Đó có thể là một cảm giác
giải tỏa, tiếp theo sau bởi một cảm giác tự tại, an nhiên mạnh mẽ, có thể
kéo dài hàng giờ hay đôi khi nhiều ngày.
Những chứng nghiệm tuyệt vời này không phải là sự giác ngộ. Chúng chỉ là
những dấu hiệu cho ta thấy sự giác ngộ hoàn toàn có thể sẽ như thế nào.
Nhưng có thể có một giây phút nào đó khi
tất cả các chi của tám ngành đều có
mặt cùng một lúc. Giới luật hoàn hảo; thiền
định sâu xa và mạnh mẽ; tâm trong sáng
rõ ràng không có mặt của bất cứ chướng ngại nào. Lúc
đó có thể bạn đã có
được tuệ giác sâu xa nhất – rằng tất
cả pháp đều vô ngã và vô thường, rằng
không có gì đáng để chúng ta bám víu vào.
Ngay lúc đó, tất cả mọi hoài nghi của
bạn đều tan biến, và bạn sẽ nhìn cuộc
đời bằng con mắt khác.
Từ đó, bạn bước lên một cấp bậc
hoàn toàn mới trên con đường đạo. Nhưng trước
thời điểm đó, bạn phải có sự hiểu biết rõ ràng thông suốt về cách
tất cả các ngành của con đường hòa
hợp, ăn khớp với nhau. Sau sự liễu ngộ đó,
trí tuệ của bạn sẽ đạt đến một trình
độ cao hơn, gọi là cấp bậc "vượt trên thế tục", và bạn sẽ bước tới
với một sự tự tin tuyệt đối. Bạn biết rằng
bất chấp tất cả, bạn sẽ đạt đến mục đích của mình. Khi làm bất cứ điều gì,
đầu tiên là phải biết tại sao chúng ta
hành động như thế. Đó là lý do tại sao
Đức Phật đã chọn chánh kiến làm bước
đầu tiên trên con
đường tiến tới hạnh phúc. Ngài muốn
chúng ta hiểu rằng con đường Phật giáo không
phải là một điều gì mơ hồ của
"lời hứa sống tốt" để được ban thưởng, cũng
không phải là những giới luật kỳ quặc nào
đó mà ta phải tuân giữ như trong một
hội kín. Trái lại, con đường của Đức Phật được đặt
nền tảng trên sự hiểu biết thông thường và trong sự quán sát thực
tại rốt ráo. Ngài biết rằng nếu chúng ta chịu mở mắt ra, nhìn lại cuộc
đời mình một cách cặn kẻ, ta sẽ hiểu
rằng chính những lựa chọn của ta, sẽ dẫn ta
đến hạnh phúc hay bất hạnh. Một khi đã hiểu quy luật này một cách
thấu đáo, chúng ta sẽ có những lựa chọn khôn
ngoan, vì chúng ta thực sự muốn được
hạnh phúc.
Như Đức Phật đã giải thích, chánh
kiến có hai phần: hiểu được lý nhân quả, và
hiểu được Tứ Diệu Đế.
Lý Nhân Quả Đức Phật có thể diễn tả các hành động như là tốt xấu, đúng sai, đạo đức
hay không đạo đức, nhưng chúng có một ý nghĩa phần nào khác với những gì
mà các từ này thường biểu hiện. Có lẽ "thiện xảo hay không thiện xảo" giải
thích ý nghĩa này tốt nhất. Căn bản đạo đức
trong Phật giáo là nếu hành động một
cách bất thiện xảo sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau, và nếu hành xử một
cách thiện xảo, khéo léo sẽ đưa đến những kết
quả tốt đẹp. Quy luật nhân quả đơn giản này là một khía cạnh của
những gì mà người Phật tử chúng ta thường gọi là nghiệp (karma hay
kamma).
Mặc dù một số hành động bất thiện xảo có
thể đem lại hạnh phúc tạm bợ -thí dụ, người buôn bán ma tuý có thể
hài lòng với chiếc xe hơi mới tinh bóng lộng của mình, hoặc ai
đó có cảm giác hài lòng, thoã mãn khi
có thể đem lại đau đớn cho người đã
hãm hại mình– nhưng Đức Phật đã chỉ rõ
rằng những hành động bất thiện lúc nào
cũng đưa đến khổ đau. Chúng ta tự quan
sát cũng xác tín được sự thật này. Một
số hậu quả có thể không thấy được, như là
sự đau khổ tinh thần lúc ăn năn hối hận. Có
những hậu quả xấu không xuất hiện ngay lập tức. Đức Phật giải thích rằng
hậu quả của những hành động thiện và
bất thiện, có thể xảy ra mãi sau này xa, rất xa trong tương lai,
đôi khi mãi
đến các kiếp sau.
Bạn có thể nghĩ "Tôi không quan tâm đến
kiếp sống tương lai, tôi chỉ muốn những gì tôi có thể có
được ngay trong kiếp sống này."
Đức Phật khuyên chúng ta hãy nghĩ
đến những tình huống sau
đây:
Ngay nếu như không có đời sống
tương lai, làm việc thiện vẫn đem đến
cho chúng ta hạnh phúc và một lương tâm trong sáng ngay trong kiếp
sống này. Ngược lại nếu có cuộc sống tiếp nối sau khi chết, ta sẽ
được thưởng đến hai lần -hiện tại và
sau này. Mặt khác, dầu không có một đời sống
trong tương lai, hành động bất thiện
vẫn khiến ta cảm thấy ăn năn, hối hận ngay trong kiếp sống này. Và
nếu thật sự có một cuộc sống sau khi chết thì ta sẽ phải chịu khổ lần nữa.
Do đó, dầu có một đời sống ở kiếp sau hay
không, hãy buông xả những ác nghiệp và phát triển thiện nghiệp
để đảm bảo được hạnh phúc.
Một khi ta hiểu được rằng tất cả mọi suy
nghĩ, hành động hay lời nói của ta là
nguyên nhân dẫn đến những hậu quả không thể
tránh, trong hiện tại và tương lai, dĩ nhiên là ta sẽ muốn tư duy,
nói năng và hành
động để đưa đến những kết quả tích cực và
tránh những ý nghĩ, hành động, và lời
nói đưa đến những kết quả tiêu cực.
Nhận thức được rằng nhân luôn dẫn đến quả
giúp chúng ta chấp nhận hậu quả của các hành
động trong quá khứ của chúng ta. Điều đó cũng
giúp ta thận trọng trong các quyết định đưa đến một tương lai hạnh phúc
hơn.
Chánh nghiệp là những hành động tạo nên
nhân cho hạnh phúc, như là những hành động
phát xuất từ lòng từ bi. Bất cứ hành
động nào xuất phát từ một tâm không
đang bị sân, si, hay tham chế ngự đều sẽ mang hạnh phúc đến cho người hành
động cũng như người thọ nhận. Do đó, một hành
động như thế được coi là thiện xảo hay
đạo đức.
Giả sử rằng bạn luôn vun trồng tâm bố thí và từ bi
đến cho tất cả mọi người. Hành
động thiện này là nhân. Thì quả sẽ
được gì? Bạn sẽ có rất nhiều bạn bè,
nhiều người yêu mến, và bạn sẽ cảm thấy tự tại, tràn
đầy hạnh phúc. Người chung quanh bạn có thể
sân hận, khổ đau, nhưng bạn thì không. Hành động tích cực của bạn làm phát
sinh hai loại kết quả tức thời. Kết quả đầu
tiên thuộc nội tại -bạn cảm giác thế nào. Vì bạn luôn có tâm
độ lượng, thương yêu và tâm
đó đã phản ảnh qua hành
động của bạn, thì tâm bạn tràn
đầy bình an, hạnh phúc. Kết quả thứ
hai ở bên ngoài: người khác sẽ mang ơn, và quan tâm
đến bạn. Mặc dầu sự quan tâm này chắc
chắn sẽ làm ta hài lòng, thỏa mãn, tuy nhiên nó không quan trọng bằng việc
ta cảm thấy thế nào. Vì các kết quả ở bên ngoài tùy thuộc vào phản ứng của
người khác, chúng không đáng tin cậy lắm.
Khi chúng ta đã hiểu
được quy luật này, thì
điều trái ngược lại cũng trở nên rõ
ràng. Đức Phật đã liệt kê mười hành vi
bất thiện vì chúng luôn mang đến khổ đau. Ba
hành vi là thuộc về thân: giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Bốn hành
vi thuộc về lời nói: nói dối, nói lời độc ác,
lời thô lỗ và nói chuyện phù phiếm. Ba hành vi còn lại thuộc về
tâm: tham, sân và si. Mỗi hành vi này nghĩa là gì và ta làm thế nào
để tránh phạm chúng sẽ được giải thích chi
tiết trong những bước sau của con đường đạo. Tuy nhiên, trước khi
có thể bắt đầu thực hành theo con
đường đạo của Đức Phật, chúng ta cần có đủ
những tri thức căn bản để nhận thức rằng mười hành vi này là bất
thiện vì chúng chắc chắn sẽ mang đến cho
người hành động lẫn nạn nhân sự khổ
đau vô cùng tận. Để kiềm chế khỏi phạm vào mười hành vi này không phải là một danh sách
các lời răn cấm mà là một số những điều luật ta tự nguyện tuân theo do có
lòng tin như thế. Không ai có thể ép buộc bạn tuân theo chúng. Bạn phải tự
mình khám phá ra, từ chính kinh nghiệm bản thân và từ việc quan sát học
hỏi kinh nghiệm của người khác, xem những hành
động như thế sẽ mang lại kết quả tích cực hay
tiêu cực. Kinh nghiệm cho bạn biết rằng các hành vi bất thiện sẽ
mang đến những nỗi đau nơi thân cũng như tâm
cho chính bản thân bạn và người khác. Hơn thế nữa, người ta chỉ tạo ra các hành vi bất thiện khi họ không
hiểu biết hay khi tâm họ bị vẩn đục bởi tham,
sân, si. Thật ra, bất cứ hành động nào
xuất phát từ một tâm chứa đầy tham, sân, hay
si đều đưa đến khổ đau và do đó là
hành động sai trái hay bất thiện.
Đạo đức theo Phật giáo là những hành động có lý trí dựa trên nguyên lý
nhân quả. Bạn phải tự dối mình về lý nhân quả mới có thể hành động sai
trái. Hành động càng xấu ác, thì sự lừa dối càng phải lớn lao. Nếu bạn cố
tình dung dưỡng sự giả trá này với những hành
động đi ngược lại với chân lý cơ bản rằng hành
động sẽ mang lại hậu quả, thì bạn làm
sao có được tuệ giác sâu xa hay sự giải thoát
nào? Nếu phạm vào các hành động tội
lỗi nghiêm trọng, bạn sẽ không có được
sự sáng suốt để theo con đường đạo của Đức Phật – nói gì
đến việc có trí tuệ giải thoát. Bạn
phải tôn trọng đạo đức này.
Điều đó rất quan trọng.
Minh sát thiền làm tăng trưởng ý thức về
những hậu quả tai hại của một hành
động vô lương. Hành giả sẽ trải nghiệm một cách sinh
động các hậu quả đớn đau của những hành
động, ý nghĩ, và lời nói bất thiện và
cảm thấy cần phải buông xả chúng một cách nhanh chóng. Tương lai là do bạn tự tạo dựng – kinh nghiệm dạy bạn
điều đó. Hành vi của bạn không phải là
một định luật thiên nhiên bất biến.
Mỗi giây phút, bạn đều có cơ hội để chuyển
hóa -để thay đổi cách suy nghĩ, lời nói và hành
động. Nếu bạn tự rèn luyện
để trở nên chánh niệm về hành vi của
mình, và tự quán sát xem một hành động nào
đó sẽ dẫn đến hậu quả tích cực hay tiêu
cực, là bạn đã tự dẫn dắt mình
đi đúng hướng.
Các thiện ý qua nhiều huân tập có thể tạo ra một tiếng nói nội tại mạnh
mẽ để giúp bạn vững bước đi tới. Nó sẽ
nhắc nhở bạn -bất cứ khi nào bạn tự trói buộc mình vào vòng xoáy của khổ
đau -để bạn có thể thoát ra cạm bẫy đó. Thi
thỏang bạn có thể thoáng nhận được thế
nào là giải thoát. Bạn sẽ biến cảm giác này thành hiện thực bằng
cách hành động theo những hướng tích cực và
buông xả khổ đau.
Do đó đạo đức – được định nghĩa như
những hành động tuân theo thực tại– là nền tảng của mọi phát triển tâm
linh. Không có nó, không có điều gì
trên con đường đạo sẽ hiệu ứng để giảm khổ
đau.
Biết được rằng một hành
động sẽ có các kết quả tương ứng là sự
khởi đầu cho chánh kiến. Giờ bạn phải
thêm vào đó một sự hiểu biết thấu đáo về Tứ
Diệu Đế.
Tứ Diệu
Chính Đức Phật đã nói rằng Ngài chỉ
dạy bốn điều: khổ, nguồn gốc của khổ, sự chấm
dứt khổ, và con đường đưa đến sự chấm
dứt khổ. “Khổ” ám chỉ những bất hạnh mà ta cảm nhận trong cuộc
đời mình. "Nguồn gốc" là nhân cho sự
đau khổ này: là tâm không rèn luyện,
tham đắm của chúng ta. “Chấm dứt” là
lời hứa khả của Đức Phật rằng chúng ta có thể
chấm dứt khổ đau bằng cách tận diệt ái dục. “Con đường (đạo)” là
tám bước (ngành) chúng ta phải theo để đạt
đến mục đích này. Trong bốn mươi lăm năm thuyết pháp, từ bài
thuyết pháp đầu tiên của Ngài trong
vườn Nai cho đến lúc nhập diệt, Đức Phật đã
giảng giải về bốn điều này hàng trăm
lần. Ngài muốn chắc chắn rằng những
điều cơ bản này phải được nhiều người
ở những hoàn cảnh khác nhau, ở những giai
đoạn phát triển tâm linh khác nhau, thấu đáo.
Có lần, Đức Phật đã dạy rằng không
chấp nhận những bất hạnh trong cuộc đời là
một gánh nặng. Chúng ta tạo ra đau khổ cho mình
bằng cách nhận lãnh gánh nặng đó. Ta chấm dứt
khổ bằng cách đặt gánh nặng xuống. Con đường đạo chỉ cho ta phương cách để
giảm bớt gánh nặng cho bản thân. Đức Phật cũng dạy rằng khổ là một
căn bệnh. Giống như một người thầy thuốc, Ngài
đã chẩn
đoán nguồn gốc của bệnh. Sự chấm dứt căn bệnh là cách chữa trị của
dược sư Như Lai và con đường là thuốc
chữa mà Ngài đã kê toa cho chúng ta. Diệu
Chân lý đầu tiên mà
Đức Phật thuyết cho chúng ta là khổ là
điều không thể tránh khỏi. Có thể bạn tự hỏi,
“Giáo lý về khổ này có áp dụng được
trong thế giới hiện đại với rất nhiều những phát minh để giúp cho cuộc
sống của chúng ta thoải mái hơn? Vào thời của
Đức Phật, con người hẳn phải khổ vì
các nhu cầu thiết yếu, bệnh tật, và thiên tai. Chẳng phải là các kiến thức
về kỹ thuật hiện đại đã giúp chúng ta
có thể làm bất cứ điều gì ta muốn,
đi đến bất cứ nơi nào ta ao ước và sản
xuất ra bất cứ sản phẩm nào ta cần sao?" Tuy nhiên, dầu cuộc sống hiện đại của
chúng ta có dễ dàng và an toàn đến thế
nào, thì chân lý về khổ cũng không thay
đổi. Nó vẫn có mặt như đã từng có mặt
ở thời Đức Phật. Con người vào những
thời đại đó đã
đau khổ, và chúng ta hiện nay cũng
thế. Chúng ta có thể gọi diệu đế thứ nhất của
Đức Phật với bằng nhiều tên tùy thuộc vào hoàn cảnh: khổ
đau, căng thẳng, sợ hãi, lo âu, bồn
chồn, trầm uất, thất vọng, sân hận, ghen tuông, ruồng bỏ, thần kinh hay
đau đớn. Tất cả mọi chúng sanh, không cần
biết họ sống ở đâu, khi nào, đều có
thể đối mặt với những vấn đề này. Chúng ta có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Cũng có thể bị chia ly với
người thân yêu. Có thể đánh mất những gì
đang có hay bị đẩy vào những hoàn cảnh
phải chấp nhận những điều mà ta ghê
tởm. Cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh chị em, hàng xóm, bè bạn, các cộng
đồng và các quốc gia -tất cả
đều xung đột tranh đấu vì tiền bạc,
địa vị, quyền lực và biên giới. Một số
những vấn đề này là do tham, sân, và
si tạo ra. Tất cả đều liên quan
đến những điều kiện ở bên ngoài -như
xã hội, chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường– và cả bên trong ta. Nhận ra rằng những điều này là
không thể tránh khỏi khiến tâm ta đau khổ vô
ngần. Hãy nhận mặt và chấp nhận chúng như chúng thật sự là, mà
không trách móc, đổ lỗi cho người, là trọng tâm của diệu
đế thứ nhất của Đức Phật. Ngài dạy
rằng để bắt đầu tiến đến hạnh phúc, chúng ta
cần phải đối mặt với khổ đau -bằng tâm vững chãi và tình cảm ổn
định– mà không oán trách hay cảm thấy
buồn nản, bi quan. Chúng ta cần phải nhìn thẳng vào các vấn
đề của mình: bất cứ hoàn cảnh nào
trong cuộc sống cũng mang đến một mức độ khổ
đau nào đó cho bất cứ những ai chưa
hoàn toàn giác ngộ. Nỗi khổ có thể rất vi tế, có thể chỉ là một trăn
trở tiềm ẩn. Hay rất rõ ràng, như sự chấp chặt vào người, của cải,
hay quan điểm. Tất cả tùy thuộc vào
lòng tham, sân và si của chúng ta sâu dầy bao nhiêu, và tùy thuộc vào cá
tính cũng như kinh nghiệm của chúng ta trong quá khứ. Thí dụ, có hai người cùng chứng kiến một sự kiện nhưng họ có những phản
ứng hoàn toàn khác nhau. Một người có thể cảm thấy bình thản và chấp nhận;
người kia có thể hoảng sợ và lo âu. Hạnh phúc cũng như khổ
đau đều do tâm tạo. Tâm của chúng ta tạo ra
những kinh nghiệm sống cho ta, và tâm
đó chấp nhận hay phản kháng sự tạo dựng này.
Đó là lý do tại sao
Đức Phật nói chính chúng ta tạo ra
thiên đàng hay
địa ngục ngay trong cuộc sống này. Cho đến khi chúng ta đạt được giác ngộ, sẽ
còn có nhiều hoàn cảnh mang đến bao
thất vọng cho tất cả chúng ta. Hãy thử nhìn chỉ ba vấn
đề: kiếp nhân sinh, sự đổi thay, và sự
không thể làm chủ cuộc sống của mình. KIẾP NHÂN SINH Vòng xoay chuyển không thể tránh được
của kiếp người – sinh, già, bệnh, chết– mang
đến bao khổ đau.
Người ta được sinh ra trong cõi
đời không phải với những nụ cười rạng rỡ trên
gương mặt. Nhưng càng lớn, tiếng khóc thuở ban
đầu càng bớt ồn ào hơn. Có thể nói
rằng nó đã
được đổi thành tiếng khóc trong lòng
cho suốt cuộc đời còn lại của chúng
ta. Chúng ta đã khóc vì bao lít sữa;
bao tấn thực phẩm; bao mét vải; bao mét vuông
đất để xây nhà, xây trường học, bao cây cối
để làm sách vở, bàn ghế; bao thuốc men
cho đủ các loại bệnh; bao người để họ yêu
thương chúng ta; bao phương cách để
thỏa mãn nhu cầu của chúng ta. Nếu chúng ta không sinh vào thế giới
đầy bất ổn này, thì tất cả khổ
đau đã không có mặt. Mỗi
đứa trẻ được sinh ra đời, thì hình như
sự bất hạnh cũng đã
được sinh ra theo nó.
Quá trình lão hóa cũng mang đến khổ đau.
Có lẽ chúng ta không còn nhớ đến những
khó khăn khi phải thích ứng với một môi trường mới hay một vị thầy mới,
nhưng ta có thể nhớ rất rõ những khó khăn
khi phải thích ứng với sự thay đổi về cơ thể và tâm lý ở tuổi dậy
thì. Khi trưởng thành ta lại phải thay đổi để
thích ứng với công việc mới, những tương quan mới, kỹ thuật hiện đại, các
căn bệnh lạ, những điều kiện xã
hội mới. Những điều này lại thường xảy
ra trước khi ta hoàn toàn thích ứng với những cái
đang có. Các biến chuyển không dễ chịu này
hình như rất phổ biến ở mỗi bước ngoặt của cuộc
đời.
Ở tuổi già, việc thích ứng với những sự thay
đổi càng trở nên khó khăn
hơn. Thật đau khổ khi không còn
có sức khoẻ, thân thể không còn cường tráng như lúc trẻ. Ta biết rằng
không thể chạy trốn tuổi già, nhưng vẫn mong nó
đừng đến. Do đó ta đau khổ.
Khi Đức Phật thuyết rằng tuổi già
mang lại đau khổ. Ngài thực sự
đang nói về sự già nua và hoại diệt
nói chung. Chúng ta biết rằng mỗi tế bào trong cơ thể ta
đang bị hủy hoại hay chết
đi, và các tế bào mới tiếp tục sinh
sản. Mọi trạng thái tâm cũng biến mất và được
thay thế bằng cái mới hơn. Lâu dần, quá trình hoại diệt và chuyển
đổi này làm suy yếu thân tâm ta,
đưa đến cái chết.
Chắc chắn bệnh tật cũng là nguồn gốc của khổ
đau. Ai cũng biết bệnh tật đau đớn thế nào.
Bệnh tật thật ra mang đến hai cái đau: sự sợ
hãi căn bệnh và chính căn
bệnh. Do đó bệnh tật là nỗi ám ảnh triền miên, khiến ta khổ
đau khi bị bệnh và lo âu, sợ hãi khi
ta còn mạnh khỏe. Thông thường người ta nghĩ rằng sự đau đớn
và khổ đau là
đồng nghĩa, nhưng không phải thế. Dầu
bạn khó thể tránh được đau đớn vì bệnh
hoạn, thương tật, nhưng bạn có thể tránh được khổ đau vì bệnh tật. Khi bạn
giảm bớt được sự bám víu vào thân thọ một cách thái quá, bạn sẽ bớt khổ
đau khi nó đổi thay. Thí dụ, khi Devadatta (Bồ Đề Đạt Đa) chọi hòn đá và
làm chân Phật bị thương, Đức Phật cảm nhận
được cái đau. Nhưng vì Ngài đã
hiểu được bản chất của đau, Ngài không
đau đớn như một người bình thường. Cảm
giác đau đớn thường có thể chế ngự được.
Nhưng khổ vì "một trạng thái nào đó” thì
sâu xa hơn và khó chế ngự hơn. Cái khổ kế tiếp trong kiếp người là tử -không chỉ giây phút trước khi
chết mà tất cả mọi thứ đưa đến cái chết. Tất
cả chúng ta đều sợ chết và lo lắng không biết khi nào hay bằng cách
nào chúng ta sẽ chết. Ta cũng biết rằng khi chết, ta phải
để tất cả mọi thứ lại phía sau. Chúng ta có
thể chịu đựng được điều đó không? Khi người thân ra đi, chúng ta cảm thấy
sốc, đau đớn, và mất mát hàng năm trời
nếu không nói là mãi mãi. Nhưng những khổ đau trong kiếp người không
chấm dứt với cái chết. Đức Phật dạy rằng cái chết không đoạn tận
được vòng luân hồi khổ đau. Một người đã từng trải qua nhiều
đau khổ có thể nói, khi gần chết, “Tôi không
muốn sinh trở lại nữa.” Nhưng chỉ ước nguyện như thế không thể chấm dứt vòng
luân hồi tái sinh. Khi nào chúng ta còn vô minh về bản chất thật sự của
thực tại, thì kiếp sống này sẽ nối tiếp kiếp kia. Khi nào tham, sân và si
vẫn còn trong tâm thức chúng ta, thì vòng tái sinh vô cùng tận – vòng luân
chuyển của những kiếp sống trong quá khứ, hiện tại, và tương lai - sẽ tiếp
tục. Trong vòng luân hồi đó, những khổ đau mà
chúng ta đã kể trên sẽ lại tái diễn
không dừng. Năng lượng của tất cả những
trải nghiệm này giống như một gánh nặng mà chúng ta phải mang trên
lưng từ kiếp sống này sang kiếp sống khác trải qua bao lần tái sinh không
thể kể xiết. Trong mỗi kiếp sống mới, hành lý bên trong
đó lại được chuyển sang một cái túi mới. Khi
chết, ta không đem theo được vật chất
gì. Tuy nhiên cái túi chứa năng lượng
đó -dấu vết của tất cả các tâm hành và tất cả những lời nói, hành
động cố ý trong kiếp sống này và những
kiếp trước đó– không chỉ
đi theo chúng ta mà thực ra còn tác
động đến kiếp sống mới.
Cho đến khi chúng ta có thể trút sạch
những gì chứa đựng trong túi xách đó
– cho đến khi chúng ta có thể hủy diệt
tất cả những hậu quả mà ta đã
tạo nên vì tham, sân, hay si qua bao kiếp sống – chúng ta không thể trốn
thoát cái chết và sự luân hồi tái sinh. Chúng ta có thể sử dụng sự suy
nghĩ này để thúc đẩy ta hành
động thế nào trong cuộc
đời này
để đạt đến hạnh phúc giải thoát dài lâu. Chúng ta đã biết tham và sân là các
động lực mạnh mẽ cho hành
động, nhưng Đức Phật muốn nói si (vô minh) là
gì? Tại sao vô minh lại đóng vai trò
quan trọng đối với những khổ đau mà ta
phải nếm trải? Vô minh (si) trong thuật ngữ Phật giáo có hai ý nghĩa: "không biết" –
như là không biết Đức Phật hàm ý gì
khi nói đến Tứ Diệu Đế- và "biết sai"
– như là tin rằng chúng ta hiểu thế giới vận hành như thế nào trong khi
chúng ta thật sự không biết. Không hiểu biết sự thật về khổ, chúng ta nghĩ rằng có một việc làm mới,
một ngôi nhà mới, hay một bạn tình mới sẽ mang
đến cho ta hạnh phúc thực sự. Không biết năng
lượng của lời nói, hành động sẽ đi
theo chúng ta như thế nào từ kiếp sống này sang kiếp sống khác,
chúng ta để cho tâm tham, sân, nghi và
ganh tỵ sai khiển. Không biết rằng một cuộc sống
đơn giản, có kỷ luật, có bạn tốt, hành
thiền, và quán sát đầy chánh niệm về bản chất
thực sự của các trải nghiệm sẽ mang hạnh phúc
đến cho chúng ta trong kiếp sống này
và nhiều kiếp kế tiếp, chúng ta đã
viện ra hàng triệu lý do để không tham dự vào
những hoạt động tích cực này. Chúng ta còn không biết ngay cả sự vô minh của mình. Sau một bài thuyết
pháp đặc biệt sâu sắc về bản chất của thực
tại, ngài Ananda, thị giả của Đức
Phật, thưa với Ngài, "Bạch Thế tôn, giáo lý này có vẻ rất thâm sâu,
nhưng đối với con, nó rõ ràng
đúng như bản chất của sự rõ ràng." Đức Phật trả lời, "Không, không, đừng nói thế! Nó không chỉ có vẻ thâm
sâu, mà nó thực sự thâm sâu." (D 15) Vì vô minh, sự hiểu biết của ngài Ananda
đối với lời dạy của Đức Phật chưa được thấu đáo, vì thế ông
đã không
đạt được giải thoát ngay lúc đó. Giống như Ananda, vô minh khiến chúng ta
trôi lăn theo bao khổ đau trong luân hồi. ĐỔI THAY Sự đổi thay cũng khiến chúng ta khổ. Dầu
chúng ta có làm gì, sự đổi thay cũng
chia cách ta khỏi những gì ta ưa thích và mang
đến cho ta những gì ta ghét bỏ. Cái
chết và chia ly khiến ta phải cách biệt người ta thương yêu. Bạn bè
đi xa. Người tình rời bỏ ta. Những sự
chia ly đó làm ta
đau đớn khôn cùng.
Đánh mất thứ gì mà ta yêu thích khiến
ta buồn bã, tức bực. Ngay cả những thứ tầm thường cũng có thể khiến ta
phiền não khi chúng bị bể hay biến mất. Hồi đó, khi lên bốn, có lần ngồi
trên cát, tôi dùng đầu ngón tay vẽ một vòng
thật tròn trĩnh quanh tôi. Tôi thích lắm! Chị tôi, lúc ấy khoảng bảy tuổi,
đi ngang qua và dùng chân xoá vòng
tròn của tôi. Tôi giận dữ đến nỗi tôi rượt
theo chị, rồi lượm một cái ghế nhỏ nhưng nặng và ném chị. Giờ chị
vẫn còn một vết thẹo trên ngón chân. Tất cả bao bực tức, giận dữ, tất cả
những giọt nước mắt và đau đớn, gây ra bởi
một thứ thật tầm thường và mong manh như là một vòng tròn trên cát! Không chỉ là việc đánh mất những gì
ta yêu thích, mà ta còn phải luôn đối mặt với
những người hay những hoàn cảnh mà ta không muốn chúng hiện hữu –
ít nhất là không phải ở đây, không phải ngay
bây giờ. Phải chung sống hay làm việc ngày này qua ngày khác với
những kẻ ta không thích tạo ra nhiều đau khổ.
Ngay cả với những thứ ta không thể làm chủ, như là thời tiết, cũng
làm ta tức bực. Ở hội Bhavana miền tây Virginia nơi tôi giảng dạy, người
ta than phiền khi trời nóng và ẩm. Nhưng rồi họ cũng than phiền khi trời
mưa lạnh. Khi trời nóng, họ than da và xoang mũi họ bị ảnh hưởng. Khi trời
lạnh, họ than phiền vì sợ té trên tuyết. Và khi thời tiết thật tuyệt vời,
họ than không có thì giờ để tận hưởng!
Khi nhìn lại quanh mình, ta thấy rõ ràng là tất cả mọi thứ hiện hữu
đều tạo ra khổ. Tại sao như thế? Thực ra tất
cả mọi thứ trên thế gian có mặt là do kết quả của một nhân nào
đó. Sự thay
đổi trong áp lực không khí, gió, và
nhiệt độ là nguyên nhân của mưa. Một
cội cây là kết quả của hạt giống chúng ta trồng và ánh nắng mặt trời,
đất, và nước
đã nuôi dưỡng nó. Cũng thế, sự hiện
hữu của chúng ta là sản phẩm của các nhân và duyên – nhân vật lý trực tiếp
của sự tạo giống của cha mẹ chúng ta và nhân của những dấu ấn sâu hằn mà
ta đã tích lũy trong nhiều kiếp sống
quá khứ. Đức Phật gọi những thứ này và tất cả những thứ khác phát sinh từ các
nhân là "pháp hữu vi." Ngài giải thích rằng tất cả các pháp hữu vi có ba
đặc tính. Trước hết, chúng vô thường. Với
thời gian, tất cả -núi non, sâu bọ, cây cỏ, máy móc- đều hư hoại, đổi
thay, hay chết. Thứ hai, do những sự thay đổi này, tất cả các pháp
hữu vi đều khổ. Như chúng ta đã thấy,
tất cả mọi đổi thay đều có thể gây ra đau
khổ. Thứ ba, tất cả các pháp hữu vi đều vô ngã.
Đặc tính cuối cùng này là cái khó hiểu
nhất, vì thế tạm thời hãy để nó qua một bên. Vô thường không khó hiểu. Vấn đề không
phải ở chỗ sự thật là vạn vật đều tạm
bợ. Mà chính là sự bám víu của chúng ta
đối với người hay vật gì
đó -giống như vòng tròn trên cát của
tôi– khiến chúng ta đau khổ. Thí dụ ta vừa
mua được một cái áo khoác rất vừa ý. Sau khi mặc chỉ vài lần, nó bị
dính sơn, vướng rách, hay bị bỏ quên đâu đó,
ta cảm thấy rất bực tức.
Dĩ nhiên, một cái áo khoác bị rách hay bị mất không phải là một
đại bi kịch, ta có thể dễ dàng mua cái
khác. Nhưng nếu đó là món quà của
người yêu ta tặng thì sao? Nếu ta mua nó để
kỷ niệm một sinh nhật, một lễ lộc hay một chuyến đi đặc biệt nào
đó? Thì ta rất nâng niu nó và khi nó
bị đánh mất hay làm hư, ta sẽ rất
đau buồn.
Nói về những điều này
đôi khi khiến người nghe rất khó chịu.
"Còn hạnh phúc thì sao?" họ hỏi. "Tại sao không nói về những
điều ấy? Tại sao chúng ta không nói về
niềm vui, hạnh phúc, sự sung sướng thay vì khổ?" Câu trả lời, thưa bạn, chính là sự đổi
thay. Do vô thường, bất cứ thứ gì dễ chịu, hạnh phúc, hay sung
sướng, cũng không duy trì được lâu. Là
những người trưởng thành, thông minh, chúng ta phải dám nói về những gì
thực sự xảy ra mà không cảm thấy phiền não. Chúng ta phải nhìn tận mặt, sự
đau khổ do vô thường tạo ra, và chấp
nhận nó. Tại sao phải che giấu nó và giả bộ như tất cả mọi thứ
đều màu hồng. Khi trực diện với vô thường, chúng ta có thể nhận thấy nó cũng có những
khía cạnh tích cực. Ta có thể tin chắc rằng bất cứ hoàn cảnh nào
đang hiện hữu trong cuộc đời ta rồi cũng sẽ
thay đổi. Có thể xấu hơn. Nhưng cũng có thể tốt hơn. Do vô thường, ta có
cơ hội học hỏi, phát triển, trưởng thành, dạy dỗ, ghi nhớ và tạo ra
những sự thay đổi tích cực khác, kể cả việc
tu tập theo Phật giáo. Nếu tất cả vạn pháp đều bất di bất dịch thì
không có sự chuyển đổi nào có thể xảy
ra. Kẻ vô học sẽ mãi mãi là người vô học. Người nghèo
đói sẽ vẫn nghèo
đói. Chúng ta cũng sẽ không có cơ hội để đoạn
diệt, tham, sân, si và những hậu quả tiêu cực của chúng. Vậy thì chúng ta đã hiểu về vô
thường và những khổ đau mà nó
đã tạo ra. Giờ nói về vô ngã thì sao?
Nó có liên quan gì đến vô thường? Đức
Phật đã dạy rằng vạn vật trên thế gian đều vô ngã hay không có thực thể vì
chúng luôn chuyển đổi. Chúng ta và tất cả mọi vật chung quanh đều không
bền chặt, bất biến. Chúng ta không thể dán cái nhãn hiệu "Tôi" hay "Của
tôi" lên bất cứ vật gì trên thế gian này. Tất cả
đều thay đổi quá nhanh chóng.
Với thân, thọ, tưởng, hành, thức, và chủ tâm luôn biến
đổi, thì làm sao chúng ta có thể chỉ
vào một vật gì đó và nói, "Đây
là cái của tôi" hay "Đây là
tôi"? Ngay chính ý nghĩ hay niềm tin "đây là
tôi" cũng biến đổi nhanh chóng. Do phương
tiện, chúng ta có thể nói “tôi có mặt ở đây” hay “cái này của tôi,"
nhưng chúng ta phải nói những lời này bằng tâm trí sáng suốt, không
để bị dẫn dắt vào sự suy nghĩ rằng
chúng ám chỉ sự hiện hữu của một thực thể bất biến, là "tôi" hay "cái của
tôi." Các đối tượng vật chất cũng thay đổi
không ngừng. Chúng ta có thể dùng những cách
đặt tên thông dụng và nói "đây
là cái ghế" hay "đây là con
vượn," nhưng các tên gọi này khó mà phù hợp với thực tại luôn biến
đổi như ta đã biết. Đúng hơn, chúng ta và tất cả vạn pháp đang trong một tiến trình, một
dòng chảy không dừng của tăng trưởng và hoại diệt, cấu thành rồi tan rã.
Không có gì trên thế giới này hay trong bản thân của chúng ta là khác biệt
hay trường tồn. Hãy quán sát tâm bạn trong một phút và bạn sẽ biết tôi
muốn nói gì. Ký ức, tình cảm, suy nghĩ, cảm xúc lướt qua bức màn tâm thức
quá nhanh đến nỗi ta khó bắt kịp chúng. Vì
vậy, thật là vô vọng khi tâm muốn bám víu hay xô
đuổi những chiếc bóng thoáng qua này.
Khi tâm chánh niệm của ta trở nên nhạy bén, như trong trạng thái thiền
định sâu xa, thì chúng ta có thể thấy
rất rõ trạng thái vô thường – quá rõ ràng đến
nỗi không còn gì để tin tưởng vào
một cái ngã. Có người cảm thấy bi quan, thất vọng khi nghe về lý thuyết vô ngã. Có
kẻ còn nổi giận. Họ kết luận một cách lầm lẫn rằng như thế có nghĩa là
cuộc đời không có ý nghĩa gì. Họ không
hiểu rằng một cuộc sống không có ý niệm về ngã là một cuộc sống dễ chịu và
ý nghĩa nhất. Có lần tôi đưa bản thảo một bài
viết cho một người bạn biên tập. Anh là một biên tập viên chuyên nghiệp,
nên tôi đoán anh chỉ mất một giờ là
xong việc. Vậy mà sáu tháng sau, tôi cũng chẳng
được tin tức gì. Cuối cùng anh
đến thăm và chúng tôi cùng nhau tản
bộ. Khi anh không nói gì về bài viết của tôi, tôi linh cảm rằng
đó là một
đề tài tế nhị. Tôi gợi đến vấn đề một
cách e dè, cẩn trọng. Tôi hỏi, "Anh đã
có thời gian xem qua bài viết của tôi chưa?" Anh im lặng một hồi lâu rồi
trả lời, "Thưa đại đức, tôi đã xem
qua. Đến đoạn về thuyết vô ngã, tôi
bực tức quá đến nỗi đã vứt
đi cả bản thảo!” Tôi ngạc nhiên, nhưng
không giận anh. Thay vào đó tôi buông xả sự
bám víu vào bài viết của tôi. Anh ta đã
vứt bản thảo của tôi vì vô ngã, nên tôi cũng vứt cái ngã liên quan
đến bản thảo đó. Tôi đã có thể giữ
thái độ thân thiện, từ tốn và nhã
nhặn. Tuy nhiên, người bạn ấy lại trở nên lạnh lùng, khép kín, và khổ sở,
vì sự chấp ngã của bản thân. Vì thế có thể bạn cũng thấy rất khó chấp nhận ý niệm về vô ngã. Tuy
nhiên khi bạn còn duy trì ý niệm về ngã, cuộc sống của bạn sẽ không thoải
mái, cố chấp và khép kín, còn người chung quanh sẽ cho bạn là một kẻ ngã
mạn, rất khó chịu. Bạn dễ bực bội hay tức giận khi có ai
đó không đồng ý hay trách móc bạn, khi
sự việc xảy ra không theo ý bạn hoặc làm bạn thất vọng và ngay cả khi
người ta góp ý với bạn một cách xây dựng. Hiểu
đúng ý nghĩa của vô ngã, bạn sẽ cảm
thấy cởi mở, thoải mái hơn. Bạn sẽ dễ dàng hòa
đồng với tất cả mọi người, kể cả người khác
quốc tịch, vì bạn không cảm thấy mình quan trọng hơn hay kém quan
trọng hơn người khác, bạn sẽ dễ dàng thích nghi với bất cứ hoàn cảnh nào,
và mọi người sẽ cảm thấy dễ chịu khi ở gần bạn. Với sự hiểu biết chân chính về vô ngã, bạn có thể cảm thấy hạnh phúc và
tự tại dầu ở đâu, dầu bạn được tiếp đãi
ân cần hay không. Đừng để ý niệm về vô ngã làm bạn bi quan và cũng đừng để
nó làm bạn bực tức. Giờ chúng ta tạm chấp nhận ý niệm này như một tri thức. Tuy nhiên, với
lòng kiên trì tu tập chánh niệm, một ngày nào
đó bạn sẽ nhận ra được tính chất vô ngã, không có thực thể của vạn
pháp một cách trực tiếp. Lúc đó, chúng ta sẽ
mãi mãi chấm dứt được những đau khổ do
vô thường mang đến. Phật và các vị đạo sư đã
đạt được giác ngộ hoàn toàn là bằng
chứng cho điều đó. Đức Phật đã hoàn
toàn giải thoát khỏi ý niệm về "ngã." Tuy nhiên, Ngài vẫn tiếp tục sống
trong cộng đồng xã hội sau khi giác
ngộ. Vì những quy ước chung và để việc giao
tiếp được dễ dàng, Ngài tiếp tục dùng các từ quen thuộc, như là
"tôi", hay "của tôi." Bạn cũng thể. Cái tên trên bằng lái xe của bạn có
thể không phải là một tên gọi tuyệt đối đúng,
bảo đảm cho một nhân dạng cố định, nhưng nó là một phương tiện
thích hợp theo đúng quy ước của xã
hội. Nhưng khi chánh niệm giúp bạn nhận thức ra rằng "cái tôi" mà bạn
đã từng bảo vệ một cách quyết liệt,
thật ra, chỉ là một ảo giác -một dòng chảy của những cảm giác, tình cảm và
trạng thái vật lý không ngừng biến đổi, mà
không có một thực thể cố định hay thường hằng
nào– lúc đó sẽ không còn có
"bạn" để gắn kết với những thứ vô thường trên
thế gian này, do đó không có lý do gì
để bạn phải buồn phiền hay đau khổ.
KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC
Nếu có thể thực sự làm chủ cuộc đời mình,
chúng ta đã không có lý do gì
để đau khổ. Nhưng chúng ta không có quyền lực
đó. Trái lại, ta thường không được cái
mình muốn, mà lại được cái mình
không muốn. Chúng ta muốn có một việc làm thích hợp, văn
phòng tiện nghi, ông chủ tốt bụng, mức lương cao này kéo dài mãi,
nhưng chúng thay đổi, mà chúng ta
không thể biết tại sao hay khi nào nó xảy ra. Chúng ta muốn người thân yêu
ở mãi bên mình, nhưng dầu ta giữ họ chặt đến
đâu, một ngày kia rồi ta và họ cũng phải chia lìa.
Để giữ sức khoẻ, chúng ta uống thuốc bổ, thể
dục, ăn uống điều độ, nhưng chúng ta vẫn bệnh. Chúng ta muốn được trẻ mãi,
và luôn mạnh khoẻ, với tin tưởng rằng tuổi già chỉ
đến với người khác, nhưng thời gian qua đi,
rồi ta khám phá ra rằng cơ thể ta không còn như trước. Bất cứ hoàn
cảnh lý tưởng nào mà chúng ta đang có, dĩ nhiên
là ta muốn giữ nó mãi. Nhưng ta không có quyền lực gì
đối với luật vô thường. Tất cả mọi hiện hữu
đều tuân theo quy luật đó, và ta không thể làm gì khác hơn.
Đôi khi có những việc bất ngờ xảy ra cũng khiến cho chúng ta phiền não.
Thí dụ bị ong đốt. Chương trình TV mà
bạn mong đợi bị hủy bỏ. Xe bạn bị
trộm. Bạn bị mất việc. Người thân bị ung thư. Ảnh kỷ niệm bị cháy mất. Con
bạn bị tai nạn xe hay dính vào ma tuý. Tai tiếng, đổ lỗi, sự nhục nhã,
thất bại, đói khổ, mất của cải, mất tình
yêu, cơ thể không còn được như xưa –
quá nhiều những thứ bất hạnh, không mong cầu xảy
đến cho ta và cho những người ta muốn
bảo vệ. Nhưng chúng ta không thể làm bất cứ
điều gì. Có thể bạn sẽ nói: "Thôi đủ rồi!” Nhưng
tôi vẫn còn muốn nói thêm vài điều.
Nếu quán sát thấu đáo, chúng ta có thể thấy
rằng ngay nếu như các ước muốn của mình có thành hiện thực, thì
điều đó cũng mang lại khổ đau.
Thí dụ bạn muốn có một căn nhà
đẹp. Vì thế bạn
đã mua nhà, sau
đó có bao nhiêu phiền phức bạn phải
trải qua. Bạn phải trả góp tiền nhà, tiền thuế, gìn giữ nó, bảo hiểm nó,
sửa sang, trang hoàng và duy trì nó. Nhưng bạn
đâu có ở nhà nhiều. Sáng sớm bạn
đã phải
đi làm việc. Buổi chiều, có thể bạn đi
dự tiệc hay xem phim, về nhà chỉ để
ngủ năm hay sáu tiếng, rồi lại đi nữa. Chắc chắn là nhà bạn rất to,
rất đẹp. Nhưng bạn phải tiếp tục trả
các món nợ, rồi cắt cỏ, sửa mái nhà, dọn dẹp garage. Bạn
đã được
thỏa nguyện ước, nhưng bạn có hạnh phúc không? Lấy một thí dụ khác. Một thanh niên thích một cô gái, và cô ta cũng
thích anh. Mỗi người đều cố gắng để lôi cuốn
người kia. Nhưng ngay từ lúc bắt đầu mối quan hệ, họ đã phải sống
trong sợ hãi. Chàng thanh niên sợ người bạn gái sẽ thương một người khác
đẹp trai hơn, còn cô gái thì sợ một
người đàn bà khác quyến rũ hơn sẽ cướp
mất anh. Họ tràn đầy lòng ghen tuông,
nghi ngờ, lo lắng. Đó có phải là hạnh phúc? Còn bao nhiêu thí dụ khác nữa. Chỉ cần mở báo ra.
Đọc về người may mắn đã trúng số
độc đắc, rồi từ đó phải sống một cuộc đời khổ
sở đến thế nào! Đó là lý do tại sao người ta nói chỉ có hai bi kịch
trong đời: không được điều mình muốn, và được điều mình muốn. CÁI NHÌN THỰC TẾ Đức Phật đã cố gắng chỉ rõ cho chúng ta thấy tất cả các pháp hữu vi đều
mang đến đau khổ cho người chưa giác ngộ. Ngài liệt kê "năm uẩn" có mặt
trong tất cả mọi khía cạnh của thực tại: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
"Sắc" chỉ tất cả những hiện hữu vật chất -kể cả thân và tất cả những thứ
ta tiếp xúc qua các giác quan. Bốn uẩn khác thuộc về tâm. Ở cuối bản liệt kê của tất cả các pháp mang
đến đau khổ, Đức Phật nói, “Tóm lại, sự bám
víu vào năm uẩn mang đến khổ đau.” (D
22)
Điều này có nghĩa là gì? Tại sao khổ bao trùm mọi khía cạnh của cuộc
đời? Nhưng theo lời Phật dạy, khổ hay không là do ta cảm nhận và suy nghĩ
thế nào về mọi sự vật. Điều này xảy ra như thế nào thì rất vi tế. Ai cũng biết rằng họ cảm nhận thế giới qua các giác quan. Chúng ta
thường nói về năm giác quan, qua đó chúng ta
nghe, thấy, ngửi, nếm và xúc chạm. Đức
Phật cũng nói đến một giác quan thứ sáu, đó là tâm, vì tâm chúng ta
cũng cảm nhận được ý nghĩ, tư tưởng, hình
ảnh trong tâm trí và xúc cảm. Những gì các giác quan thực sự tiếp nhận là các dữ liệu thô của kinh
nghiệm hay, trong trường hợp của tâm, đó là
các tâm ảnh của kinh nghiệm – màu sắc, hình dáng, kích cỡ,
đậm nhạt, cứng, thô, hay mịn màng. Dĩ
nhiên, chúng ta cũng biết mỗi người có những cảm nhận khác nhau tùy thuộc
vào trạng thái tâm và các giác quan của người cảm nhận. Một người bị cảm
có thể không ngửi được mùi hay nếm
được vị. Người khiếm thính có thể không nghe
được những âm thanh trầm. Vì thế tưởng có tính chất chủ quan tùy
thuộc vào các căn của người cảm nhận.
Chúng ta ý thức được sự khác biệt này,
nhưng tâm vẫn lừa dối được ta. Nó khiến ta
tin sự cảm nhận của mình là chính xác,
đáng tin cậy. Nó đưa ta đến việc xem những tính chất mà ta cảm nhận
được đương nhiên thuộc về
đối tượng mà ta
đang quán sát, hơn là kết quả của các
duyên hợp, kể cả các giác quan của ta. Không chỉ có vậy. Sau khi cảm nhận một
điều gì đó, tâm ta lập tức phân loại
hay phán đoán, rồi xếp vật đó hay kinh nghiệm đó vào một trong ba
chiếc hộp. Chiếc hộp đầu tiên
được dán nhãn là các cảm thọ dễ chịu –
như là hương vị của bánh mì mới nướng, một bản nhạc hòa tấu, một buổi
hoàng hôn rực rỡ. Chiếc hộp thứ hai chứa đựng
các cảm thọ khó chịu – ký ức về cái chết của người cha, một cơn
nhức đầu, tiếng còi xe cảnh sát hụ. Và
chiếc hộp thứ ba chứa đựng các cảm thọ trung
tính -tất cả các pháp, các kinh nghiệm mà chúng ta phản ứng một
cách trung tính đối với chúng.
Dĩ nhiên là sau đó tâm ta, vì chưa
hoàn toàn giải thoát khỏi bám víu, đã
cố chấp chặt lấy những điều dễ chịu. Vì
ghét bỏ, ta xô đẩy những thứ khó chịu. Vì
vô minh (si), ta phớt lờ những thứ trung tính, và chúng ta coi tất cả các
pháp -dễ chịu, khó chịu, hay trung tính- là thường hằng, là có một cái ngã
hay linh hồn, là có khả năng đem đến cho ta
hạnh phúc dài lâu hay khiến ta khổ triền miên. Đức Phật đã giải thích về ảnh hưởng của sự cảm nhận sai lầm hay thiên
lệch này như sau: Do nhân con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba
pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có
tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý
luận. Do hý luận ấy làm nhân, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người,
đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức,
quá khứ, tương lai và hiện tại. (cũng thế
đối với tai, mũi, lưỡi, thân, và ý).
(M 18 [do tỳ kheo Bodhi chuyển sang Anh ngữ; Hòa Thượng Thích Minh Châu,
Việt ngữ]) Trái lại, với sự nhận thức (tưởng) thực tế, chân chính, thì không có sự
bám víu hay phản kháng nào. Nó sẽ chấp nhận vô thường, khổ, và vô ngã như
chúng thực sự là. Khi chúng ta cảm nhận thế giới với cái nhìn thiện mỹ, là
ta đã vun trồng các thiện ý. Cái nhìn
thực tế là một phương cách chữa trị tốt nhất. Nếu chúng ta có thể nhìn vạn
pháp (sự vật và con người) như chúng thực sự là -với tính chất vô thường,
khổ, vô ngã – thì không có cảm nhận gì có thể khiến ta
đau khổ.
Cái nhìn thực tế là mục đích của thiền
quán chánh niệm. Thực tế có nghĩa là không trốn tránh những
điều không tốt đẹp về bản thân cũng như về
thế giới. Qua sự ý thức một cách chánh niệm, chúng ta tập nhìn sự hiện hữu một
cách thực tế nghĩa là không phải luôn tốt
đẹp, dễ chịu hay hạnh phúc. Mà cuộc sống là một hỗn hợp của
đau khổ lẫn niềm vui. Chúng ta ghi nhận được
những khổ đau về thể xác hay tâm hồn lúc nó vừa chớm xuất hiện và
theo dõi xem nó phát triển như thế nào. Ta cũng quán sát xem tình trạng
đó kéo dài bao lâu, rồi hoại diệt như
thế nào. Thiền chánh niệm hoạt động giống như
bộ phận giảm sốc trong xe hơi. Nếu bạn
đã quen đối đầu với những thất vọng
khổ đau trong cuộc sống hằng ngày và biết rằng
đó là những sự kiện xảy ra một cách tự
nhiên, thì khi một hoàn cảnh khó khăn hay đau
khổ xảy đến, bạn sẽ đối mặt với nó một cách can đảm và bình tĩnh.
Khi ta có thể nhìn tận mặt khổ đau mà
không nao núng, thì ta cũng có thể nhận diện
được hạnh phúc chân thật.
Diệu
Diệu Đế thứ hai của Đức Phật cho chúng ta
biết nguồn gốc của khổ đau là ái dục, mà chúng ta cũng có thể gọi
là bám víu, tham luyến hay chấp. Không quan trọng
đối tượng là gì – có thể là một bữa
ăn ngon, một người bạn thân, hay một mục đích
tâm linh cao quý- nhưng nếu bám víu vào
đó, bạn sẽ cảm thấy thất vọng, khổ đau.
Bạn có thể hỏi ái dục từ đâu đến? Nguồn
gốc rõ ràng nhất là bản năng –
lòng ham muốn được sinh tồn, ham muốn được có
thực phẩm, quần áo, chỗ trú ngụ, sự ấm áp, sự phong phú, sự thỏa
mãn. Lòng ham muốn dường như đã
được cài
đặt trong con người, cũng như súc vật. Ngay chính cỏ cây hình như
cũng có một số ham muốn, vì chúng luôn hướng về phía mặt trời
để có ánh sáng và sự ấm áp. Một nguồn
gốc khác của ái dục là những điều kiện xã
hội -tất cả những quan điểm và giá trị
mà chúng ta học được từ cha mẹ, gia đình,
bạn bè, học đường, quảng cáo, và sách
vở, điều kiện hóa ta khiến ta tin rằng
điều này tốt,
điều kia xấu.
Lòng ham muốn mạnh mẽ nhất dựa trên các lạc thọ. Cuộc sống mang lại cho
chúng ta biết bao sung sướng khóai lạc qua từng giác quan. Thí dụ, nhãn
quan: mắt của bạn thì khả ý và khả lạc. Nhãn thức cũng khả ý và khả lạc,
cũng như nhãn căn, nhãn trần, cảm thọ
về cái thấy, sự nhận biết hình ảnh, lòng ham muốn
đối với những đối tượng của mắt, những hình
ảnh tưởng tượng, những tư duy có chủ ý, vân vân. Tương tự tai, mũi, thân
và ý cũng mang đến các lạc thọ. Mỗi ngày
ta đều có cơ hội để tận hưởng những đối tượng
khả ý và khả lạc qua các giác quan. Tuy nhiên ta vẫn không hạnh
phúc. Trong diệu đế thứ hai này,
Đức Phật khuyên ta nên nhận biết rằng
sự bám víu vào dục lạc rất nguy hại cho hạnh phúc. Ngài
đã so sánh dục lạc với một mẩu xương
không còn thịt được vứt cho một con chó đói.
Dầu chú chó gặm cục xương rất lâu, nhưng cục xương chẳng bao giờ có thể
thỏa mãn được cơn đói của nó. Suy gẫm
lại ta có thể thấy mình cũng giống như thế. Dầu có hưởng bao nhiêu dục
lạc, ta vẫn không thỏa mãn, vẫn còn muốn hơn thế nữa. Bao nhiêu bánh, bao nhiêu kẹo thì đủ? Bao
nhiêu trò chơi trực tuyến bạn cần tham gia? Bao nhiêu quyển tiểu
thuyết bạn cần đọc để thỏa mãn lòng
ham muốn hưởng thụ của bạn? Bao nhiêu hoạt
động tình dục ta cần có để thỏa
mãn sự khao khát tình dục? Bao nhiêu rượu hay bao nhiêu ma tuý?
Đôi khi người ta thức thâu đêm suốt
sáng để ăn chơi cho đến khi gục ngã.
Vậy họ đã hưởng
đủ chưa? Hay bao giờ cũng có những trò
chơi khóai lạc khác mà họ chưa nếm qua. Đức Phật đã so sánh dục lạc với một lưỡi gươm bén thấm đầy mật ngọt
trên lưỡi dao. Để nếm được mật, ta có thể phải chịu nhiều đớn đau. Có biết
bao câu chuyện về những người tự làm tổn thương bản thân,
đôi khi cả tánh mạng, để tìm
được khóai lạc. Vài năm
trước đây có một chuyện đăng báo về người công nhân đang sửa mái nhà,
khi nhìn xuống qua cửa kính trời, anh ta bắt gặp người
đàn bà khỏa thân
đang đi lại trong nhà. Để nhìn kỹ hơn,
anh chòm người tới cửa kính, chẳng may trợt té khỏi mái nhà và bị thương
nặng. Rượu chè, ma túy, những cuộc du lịch thám hiểm, các trò thể thao nguy
hiểm – chưa kể đến những hành
động tình dục bừa bãi-
đã khiến nhiều người phải khổ. Hơn thế nữa, ta không thể kéo dài dục lạc. Giống như một giấc mơ, dục
lạc thỏang qua đi. Chúng nhanh chóng vuột
khỏi tầm tay, khiến bạn không còn gì
để giữ lại ngoại trừ cảm giác và ký ức. Giống như những món
đồ vay mượn, ta không thể giữ chúng lâu.
Vì thế bạn càng tham đắm vào loại dục
lạc nào, thì nó càng mang đến thương tổn cho
bạn khi thời gian, sự đổi thay, hay hoàn cảnh không thể tránh
được, tước
đoạt nó đi.
Ái dục phát sinh từ cảm giác của khóai lạc và
đau đớn. Khi được hưởng thụ khóai lạc,
thì ta sinh lòng ham muốn nắm giữ, duy trì nó. Khi bị phiền não,
đau khổ, thì ta có lòng muốn
đuổi xô hay trốn tránh nó. Vì sự tham
đắm của ta đối với các lạc thọ, và sự
phản kháng của ta đối với các khổ thọ, ta sẽ
không ngừng tìm kiếm các trải nghiệm mang
đến nhiều khóai lạc hay trốn tránh
được khổ đau. Một khi
đã tìm
được điều gì đó có thể thỏa mãn
được mục đích này, ta sẽ trở nên thành
kiến và phân biệt. Trạng thái tâm này khiến ta trở nên chấp thủ. Để bảo vệ
và gìn giữ được những gì đang có, người ta sẵn sàng nói dối, làm hại, sỉ
nhục người khác, hay ngay cả sử dụng vũ khí
để bảo vệ những gì họ nghĩ là sở hữu của họ. Lòng ham muốn cũng đưa đến sự dằn vặt tâm
lý. Vì các cảm thọ phát khởi từ việc xúc chạm với những gì mang
đến dễ chịu – qua mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý– con người suy tư và lý luận, lập giả thuyết, triết lý hóa,
phỏng đoán và tưởng tượng. Họ trở nên
bám víu vào tà kiến và những niềm tin bất chính. Hồi tưởng lại những dục
lạc trong quá khứ, họ còn dựng nên các tư duy, niềm tin và lý thuyết
đầy dục vọng.
Có người quá chìm đắm trong ham muốn đến
nỗi họ nguyện sẽ tái sinh để được
hưởng tất cả các dục lạc đó nữa. Người khác, trái lại, vì những
kinh nghiệm khổ đau mà họ
đã trải qua, không muốn tái sinh: "Vậy
là đủ rồi,” họ nói. “Một kiếp là
đủ rồi. Tôi không muốn những thứ này
nữa." Tóm lại, lòng ham muốn phát xuất từ vô minh – không biết rằng không có
gì trường tồn và không biết rằng dục vọng mang
đến khổ đau. Khi các giác quan tiếp
xúc với những trần cảnh mang đến sự dễ chịu,
tâm si mê phát khởi ý muốn nắm bắt và giữ chặt nó lại. Ngược lại
cũng thế. Khi các giác quan xúc chạm với điều
gì khó chịu, tâm si mê phát khởi ý muốn chạy trốn hay xa lánh nó.
Vì sự tác ý này, con người có những hành động
bất thiện nơi thân, khẩu, và ý, bất chấp hậu quả. Vì lòng ham muốn,
người ta bóp méo sự thật và trốn tránh trách nhiệm cá nhân
đối với các hành
động của họ.
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA MÌNH Giáo lý về nhân quả của Đức Phật đã
nói rõ rằng việc chấp nhận trách nhiệm cho hành
động của mình là nền tảng cho sự tự
tại vẹn toàn của mỗi cá nhân. Không chấp nhận sự thiếu sót của mình rồi đổ
lỗi cho thế giới về sự bất hạnh của mình, sẽ khiến ta phải
đắm chìm trong
đau khổ. Ai cũng có những điều không vừa ý.
Nhưng khi bạn còn trách móc, đổ lỗi cho cha mẹ hay xã hội về những vấn
đề của mình, thì bạn
đã tự cho mình một lý do
để không sửa đổi. Ngay giây phút bạn biết
nhận trách nhiệm cho hoàn cảnh của mình, dầu người khác cũng có góp
phần vào đó, là bạn
đã bắt
đầu hướng đến con đường tích cực hơn.
Theo tôi, chúng ta bóp méo sự thật và trốn tránh việc nhận lãnh trách
nhiệm cá nhân bằng ít nhất ba phương cách. Thứ nhất, ta cho rằng thế giới
bên ngoài mang đến đau khổ cho chúng ta. Kết
quả là, ta hướng tất cả mọi nỗ lực và khả năng
tinh thần ra bên ngoài. Ta dồn hết công sức, và
đôi khi còn trở nên mù quáng, trong
việc cố gắng sửa đổi người xung quanh, như
thể là sự hoàn toàn của họ sẽ đem lại
giải thoát cho ta. Hoặc chúng ta cố gắng thay đổi xã hội, tưởng
rằng việc sửa đổi những cái ác trong xã
hội sẽ giải quyết vấn đề của bản thân ta:
“Khi đói khổ, chiến tranh, và ô nhiễm môi trường
được dẹp bỏ, thì tôi mới
được hạnh phúc.”
Dĩ nhiên, ước muốn hoàn thiện xã hội cũng là
điều đáng khuyến khích. Chúng ta thấy đồng
loại đau khổ như thế nào, ta cảm thông với họ, và ta hành
động để xoá bỏ khổ đau cho họ. Nhưng thường
ta không nhận ra rằng trong khi cố gắng để giải quyết vấn đề cho người
khác, ta quên hay đè nén vấn
đề của chính mình. Lý do của chúng ta
là: có quá nhiều những tệ nạn xã hội cần được
sửa đổi, ta không có thời gian để lo cho mình. Thực ra, chúng ta thiếu sự chân thật và can
đảm để quán xét chủ đích thực sự của mình.
Những người tham gia các hoạt động xã
hội có thể rất từ bi và có tâm phục vụ, nhưng cũng có người không nhìn ra
mục đích thực sự của họ. Chúng ta ai cũng
biết rằng giúp đỡ người khó khăn hơn mình mang
đến cho ta một cảm giác đầy quyền lực mà
ta không thể có được đối với những người
không phụ thuộc vào ta. Ước muốn được
có quyền lực là một bản năng cơ bản.
Cần phải có nhiều lòng chân thật để
nhận ra bao nhiêu phần trong những gì ta làm cho người khác phát
xuất từ động lực này. Nhận ra
được chủ đích thực sự phía sau các hành
động của chúng ta có thể giúp ta chú tâm vào
công việc quan trọng hơn tất cả là xếp đặt
việc nhà của mình yên ổn trước khi cố gắng cứu giúp người khác. Lý do thứ hai mà chúng ta dùng để tránh
nhận lãnh trách nhiệm cho hành động
của mình là nhất quyết cho rằng chúng ta không có vấn
đề gì. Chúng ta chỉ quan tâm
đến hạnh phúc và mục
đích của riêng mình mà không
để ý gì
đến việc hành động của ta có thể ảnh
hưởng đến người khác như thế nào. Trong tiềm thức, ta có thể nghĩ
rằng thế giới bên ngoài không quan trọng, hay không có thực. Nếu có thể
lắng nghe sự suy nghĩ của chính mình, có lẽ ta sẽ nghe mình tự nhủ, "Chỉ
có tôi là hiện hữu, và chỉ có những gì tôi quan tâm
đến là quan trọng – ngoài ra không có
gì nữa." Có thể tất cả chúng ta đều biết đến những
nhân vật tuyên bố coi trọng giá trị này, giá trị nọ, nhưng âm thầm
hành động ngược lại với những điều đó.
Những người này chỉ quan tâm đến bản thân
họ. Có người cũng thành thật nhận rằng họ bị lôi cuốn theo sự ham
muốn được thành công về tài chánh,
quyền lực, hay sự nổi tiếng. Tuy nhiên, họ cũng tìm cách
để tránh chịu trách nhiệm cho các hành
động của mình. Họ tự dối bằng cách tư
duy rằng những mục đích cá nhân mà họ
theo đuổi quan trọng hơn bất cứ thứ gì
khác. Họ tự lừa dối bằng cách tin rằng nếu
đạt được mục đích họ sẽ hạnh phúc, mà không cần biết là ai sẽ bị
tổn thương trên đường đi của họ.
Cách thứ ba để chúng ta trốn tránh các vấn
đề cá nhân đơn giản là chạy trốn chúng. Tất cả chúng ta
đều làm như thế. Xem TV hay lục tủ
lạnh kiếm đồ ăn là cách ta thường làm
để tránh khỏi phải tự nhìn lại mình
một cách chân thật. Bạn ru ngủ thân tâm bằng sự êm ái, dễ chịu rồi chìm
vào giấc ngủ. Thời gian sẽ qua đi. Trừ việc
trở nên già đi và mập thêm, thì
không có sự thay đổi nào xảy ra cho
ta. Thử thách ở đây là có can
đảm để hỏi tại sao.
Tất cả chúng ta, không ít thì nhiều, đều đã
từng sử dụng các phương cách này để trốn
tránh trách nhiệm, và chúng cũng tạm thời mang
đến cho ta sự an ủi, hạnh phúc ngắn ngủi.
Nhưng không có gì mang đến một giải
pháp lâu dài, đích thực cho các vấn đề
của ta. Dầu ta có cố gắng để thay đổi thế giới, phớt lờ thế giới, hay tách
mình ra khỏi thế giới, ta cũng không thể trốn tránh trách nhiệm
cuối cùng cho hành động của mình. Cuộc
sống có lúc lên, lúc xuống, và chính chúng ta tạo ra chúng. Chính phương
tiện này của chúng ta -sự kết hợp của thân và tâm– phải chịu muôn vàn khó
khăn. Điều duy nhất ta có thể làm,
theo giáo lý của Đức Phật, là tìm cách
để hoàn thiện hơn công cụ duy nhất có
quyền năng mang đến hạnh phúc cho bản thân ta
và thế giới. Công cụ đó chính là
tâm của chúng ta. Diệu
Sự thật thứ ba là lời hứa khả của Đức Phật
rằng khổ đau có thể được đoạn trừ. Sự chấm dứt
đó xuất phát từ việc hoàn toàn diệt bỏ
mọi chấp thủ, mọi ái dục của chúng ta. Giờ thì ta
đã bắt
đầu hiểu về nhân quả của hành động cá
nhân của mình và chấp nhận trách nhiệm cho lời nói, hành
động và ý nghĩ của mình. Ta có thể
thấy rằng chính ta đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc chấm dứt sự đau khổ
của bản thân. Tuy nhiên ở thời điểm này
thật khó để ta có thể cảm nhận được cảm giác
hạnh phúc trọn vẹn ra sao. Cuộc sống sẽ như thế nào nếu không còn
có sân hận hay tham muốn nữa? Các đệ tử của Đức Phật cũng đã có
những thắc mắc như thế. Một lần, ngài Xá Lợi Phất, một trong hai vị
đại đệ tử của Đức Phật, và chính ông
cũng là một vị thầy đã giác ngộ,
đang có cuộc thảo luận với một nhóm các vị tu
sĩ. Họ hỏi rằng: "Thưa Đại đức, trạng
thái hạnh phúc toàn vẹn, mà Đức Phật
gọi là niết bàn, không phải là thứ hạnh phúc dựa trên kinh nghiệm
cá nhân. Làm sao có thể có một cái gì đó
không được trải nghiệm mà được gọi là
hạnh phúc?" Ngài Xá Lợi Phất trả lời, "Đó là lý
do tại sao nó được gọi là hạnh phúc."
(A IV (9) IV 3) Nói cách khác, hạnh phúc bao gồm những gì không phải trải qua. Diệu
đế thứ ba dạy rằng hạnh phúc xóa sạch tất cả
mọi trạng thái tâm tiêu cực -tất cả tham, sân, si. Cuối cùng khi
chúng ta đã thành công trong việc dập
tắt các ngọn lửa nội tâm làm cháy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm, thì
lúc đó ta sẽ chứng nghiệm được hạnh phúc toàn
vẹn, thanh tịnh tuyệt đối. Có thể khó tưởng
tượng ra trạng thái đó cảm giác như thế nào, nhưng cách duy nhất
để tự khám phá ra điều đó là bước theo
con đường đạo dẫn đến mục đích đó.
Giống như phần đông chúng ta, các vị tu sĩ
tham vấn với Ngài Xá Lợi Phất muốn biết ngay từ khi mới bắt
đầu con đường đoạn cuối của nó ra sao. Điều này
cũng giống như khi ta hỏi một bé gái, "Cháu cảm thấy thế nào khi sanh em
bé?" Cô bé đó chưa hề sanh nở. Em phải lớn lên
và trưởng thành để có được kinh nghiệm đó. Cô
bé có thể nói đôi chút về sự sanh nở từ những điều em được đọc hay đã
nghe qua, nhưng em không thể diễn tả hoàn toàn tất cả kinh nghiệm
đó.
Ngay chính mẹ em có thể cũng không có khả năng
để nhớ lại lúc sanh nở ra sao. Bà có thể nói về kinh nghiệm của bản
thân, nhưng khi người nghe chưa bao giờ có kinh nghiệm sanh nở thì cũng
không thể hiểu người mẹ ấy cảm giác thế nào. Hạnh phúc thường hằng của giác ngộ cũng giống như thế. Chỉ có những
người đã qua các giai
đoạn tu tập và
đã tự mình trải qua chứng nghiệm
đó mới có thể hiểu được.
Thí dụ cô bé đó đến hỏi cha mình,
"Ba ơi, liên hệ của ba với mẹ là như thế nào?" Người cha có thể trả lời, "Con ơi, hãy ra ngoài chơi
đi. Cha sẽ nói cho con biết sau này."
Có lẽ, khi cô bé đã trưởng thành,
đến tuổi lập gia đình, người cha mới
nói với con gái, "Lâu rồi con đã hỏi
cha về sự liên hệ giữa cha với mẹ con là gì. Giờ con có muốn nghe câu trả
lời không?" Người con gái trả lời, "Không, thưa ba, con
đã biết câu trả lời." Người con gái đã trưởng thành trong
hiểu biết. Cô đã tự biết câu trả lời.
Nếu một kinh nghiệm thế tục như là sự liên hệ giữa một người nam và một
người nữ đã khó trả lời như thế, hãy
tưởng tượng xem để hiểu được hạnh phúc toàn
vẹn của sự giải thoát khỏi khổ đau còn
khó đến ngần nào! Hiện tại, tâm ta tràn đầy bao suy tưởng,
quan niệm, thiên kiến, mà đa số xuất
phát từ lòng tham, sân, và si. Cố hiểu cho
được sự nhiệm mầu của hạnh phúc toàn
vẹn trước khi ta diệt bỏ được các tâm tiêu
cực là điều không tưởng. Ta không thể làm
gì hơn là dựa vào các ẩn dụ, ngụ ngôn, kinh sách do các bậc chứng ngộ kể
lại và cố gắng suy luận để có được chút hiểu
biết nào đó. Thí dụ: Thởi xa xưa có một chú rùa sống giữa một đàn
cá và những sinh vật biển khác, bỗng nhiên rùa biến mất. Khi rùa trở về,
bọn cá hỏi nó đã
đi đâu.
"Tôi lên mặt đất,” con rùa trả lời
chúng. Chúng lại hỏi, "Nước trên mặt đất ra sao?”
Rùa trả lời, "Mặt đất không có nước.”
"Vậy sao anh bơi được?”
"Tôi không bơi. Tôi đi.”
"Đi? Anh nói ‘đi’
là sao? Và anh có thấy nhiều cá trên
đó không?”
Khi rùa cố gắng giải thích, đàn cá
nói một cách nghi ngờ, "Không có nước; không có cá; anh không lội
được; và anh nói rằng anh ‘đi’.
Làm sao có thể như thế được?”
Rùa trả lời, "Các bạn muốn hiểu sao cũng
được. Còn tôi, tôi sẽ trở lên đất
liền.” Nói xong, rùa bỏ đi.
Cũng giống như đàn cá không thể
hình dung về ý nghĩa của đất liền, người còn
đầy phiền não do tham, sân, si, không
thể hiểu được niết bàn.
Để có thể tuệ tri được điều đó, ta phải
chuyển hóa tất cả các trạng thái tâm tiêu cực và tự mình chứng
nghiệm giác ngộ. Hiện tại thì kinh nghiệm gần gủi nhất đối
với hạnh phúc của giác ngộ là trạng thái tâm thanh tịnh mà thỉnh
thỏang chúng ta có thể đạt được khi buông xả
được các gánh nặng của mình trong một giây phút nào
đó, khi tâm chỉ là "tâm" chứ không có
gì trong đó nữa. Sự hiểu biết do suy
luận mà ta có được ở những lúc như thế, có
thể so sánh với việc ta đang đi trên sa mạc và cảm thấy mệt mỏi,
đói khát. Rồi ta tìm
được một chiếc giếng sâu với ít nước ở dưới
đáy nhưng chung quanh không có gào múc hay dây kéo. Nhưng ta
đã quá suy nhược, không còn sức lực
để bện một cái gào múc nước. Vì thế
dầu là ta có thể nhìn thấy nước, ta vẫn không thể chạm
đến được, nói gì
đến chuyện uống. Tương tự, khi tâm tạm thời
được giải thoát khỏi tham, sân, si, ta có thể cảm nhận được sự thanh tịnh
của niết bàn, nhưng không nhất thiết là ta có phương tiện
để đạt đến đó. Đoạn diệt được lòng
tham ái thì cũng giống như tìm được sợi dây
của tâm từ bi. Giải thoát được tâm khỏi sân hận thì cũng giống như
gắn được sợi dây đó vào cái gàu của
tình thương yêu. Sức mạnh trong đôi tay thì
tựa như trí tuệ, sự giải thoát khỏi vô minh. Khi ta có thể kết hợp ba phẩm
chất này lại với nhau, thì ta có phương tiện
để cuối cùng được nếm hạnh phúc toàn
vẹn của niết bàn. Trạng thái hạnh phúc này không thể diễn tả
được bằng lời. Đặc tính duy nhất của nó là sự thanh tịnh. Nó không
sinh, không được cấu thành, và không
có điều kiện. Vì thế,
điều duy nhất ta có thể làm là nói về
những gì mà trạng thái này không có. Ở đó
không có lòng tham, sự bám víu, chấp chặt vào sự vật, con người,
hay quá khứ. Ở đó cũng không có sân, xung
đối, thù hằn hay tham luyến. Ở đó
không có sự lầm lạc nhìn mọi sự vật như là thường hằng, tự tại hoặc
là có một linh hồn hay một cái ngã bên trong. Những người còn sống trong ảo tưởng rằng họ
đang hưởng thụ cuộc sống như nó là
trong một thế giới khổ đau, khi nghe sự diễn
tả này có thể sẽ nói, "Như vậy giác ngộ
đâu có gì là tốt
đẹp. Không chắc gì tôi
đã muốn
đạt được trạng thái đó. Ở đó có nhà cửa không? Rồi còn gia
đình, trường học, bảo hiểm y tế, bệnh
viện, đường xá, vân vân?” Những câu hỏi này
đã được
đặt ra với tôi.
Câu trả lời phải là không. Những người còn bám víu vào cuộc sống, vào
sự luân hồi vô cùng tận này, sẽ không có tâm sáng suốt
để muốn đạt được trạng thái của sự thanh tịnh
toàn vẹn. Họ không hiểu diệu đế thứ
nhất của Đức Phật, rằng khổ là điều
không thể tránh được, hay diệu đế thứ hai của Ngài, rằng càng ham
muốn, thì ta càng khổ đau. Không có chánh
kiến về những điều căn bản này, thì họ khó mà hiểu
được diệu đế thứ ba của Đức Phật -rằng khổ sẽ
chấm dứt khi ta đoạn diệt được tất cả mọi tham ái, mọi bám víu.
Có thể sẽ có thắc mắc không biết việc ta muốn
đạt được giác ngộ và thoát khỏi vòng
luân hồi vô cùng tận có được chấp nhận không.
Câu trả lời là được, đây là một
ước muốn thiện – được gọi là "ước muốn được không còn ham muốn." Diệu
Diệu đế thứ tư của Đức Phật là con
đường đạo dẫn đến sự chấm dứt khổ. Con đường
tám ngành (Bát Chánh Đạo) mang lại
hạnh phúc và an bình cho những ai thực hành chúng. Sau này chúng ta
sẽ tìm hiểu kỹ từng bước một, nhưng giờ hãy
điểm sơ qua: Bước 1: Chánh Kiến trong giáo lý của Đức
Phật đòi hỏi chúng ta phải liễu tri các hành
động thiện dựa trên nhân quả và Tứ
Diệu Đế và xét xem chúng có phù hợp
đối với giáo lý của Đức Phật nói chung.
Bước 2: Chánh Tư Duy hướng ta đến ba tư
duy tích cực – sự rộng lượng hay xả, tình thương yêu và lòng bi
mẫn. Bước 3: Chánh Ngữ dạy chúng ta làm thế nào
để nói sự thật và tránh nói lời ác
độc, cộc cằn, phù phiếm để giúp ta
tiến trên con đường đạo.
Bước 4: Chánh Nghiệp đưa ra những nguyên
tắc giúp ta sống có đạo đức -nhất là
tránh giết hại, trộm cắp, tà dâm và các chất gây nghiện. Bước 5: Chánh Mạng giải thích tại sao việc ta chọn một công việc hay
nghề nghiệp thích đáng là
điều quan trọng đối với sự thực hành
tâm linh và đối với những câu hỏi về đạo đức
trong kinh doanh, thái độ của chúng ta phải thế nào. Bước 6: Chánh Tinh Tấn đề ra bốn bước mà
ta có thể theo để thúc đẩy công phu tu tập
– ngăn ngừa các trạng thái tâm tiêu
cực, chế ngự các trạng thái tâm tiêu cực, vun trồng các trạng thái tâm
tích cực và duy trì các trạng thái tâm tích cực. Bước 7: Chánh Niệm nói đến sự thực hành
thiền chánh niệm -nhất là vun trồng chánh niệm nơi thân, thọ, tâm, và
pháp. Bước 8: Chánh Định nói đến bốn giai đoạn
của thiền định sâu xa mà chúng ta có thể
đạt được trong thiền quán.
Tám bước này (Bát Chánh Đạo) không chỉ là
một bảng liệt kê thú vị về các tư tưởng đã
được Đức Phật dạy. Mà chúng là nguồn
hy vọng tốt đẹp nhất của chúng ta để đạt được
giác ngộ. Nếu tám bước này là những
điều mà bạn sẽ đọc lướt qua một cách
nhanh chóng rồi để qua một bên, là bạn
đã không nắm được sự quan trọng của
chúng. Không có lời dạy nào trong giáo lý của
Đức Phật sâu sắc hơn và quan trọng
hơn. Đúng ra tám bước này chính là
Phật pháp. Tám bước này thường được diễn tả như một
bánh xe – bánh xe của trí tuệ, ngược lại với bánh xe của luân hồi
sanh tử không dừng dứt. Trí tuệ sẽ chặn đứng
lại vòng xoay của sanh tử luân hồi. Các nấc trên bánh xe trí tuệ là
tám bước trên con đường đạo của Phật. Trục
bánh xe là sự kết hợp của tâm từ bi và trí tuệ. Ngược lại, những
nấc trên bánh xe của sanh tử luân hồi là bao kiếp sống mà chúng ta
đã phải trải qua và rồi chúng còn sẽ
đưa ta đến các cõi khổ
đau. Trục của bánh xe
đó là sự kết hợp của tham, sân, và si. Cả hai bánh xe đều luôn chuyển động. Chúng
ta đã nhìn thấy tất cả quanh ta là những vòng bánh xe không dừng
dứt của sanh và tử. Cây cỏ, thú vật, và con người luôn
được sinh ra rồi chết đi. Nhưng sẽ khó nhận
ra sự chuyển động của bánh xe trí tuệ, tuy nó vẫn có mặt. Quanh ta, bao
người vẫn đang tu tập theo con đường đến hạnh phúc của Đức Phật. Bánh xe này
chuyển động vì sự thực hành tâm linh
rất mạnh mẽ, luôn hoạt động và luân
chuyển. Dáng hình tròn của cả hai bánh xe đều
là biểu tượng của sự toàn vẹn. Bánh xe của sanh tử cũng là một quy
trình khép kín tuyệt đối. Đó là một hệ
thống toàn hảo để luân chuyển trong khổ đau.
Trong khi dáng hình tròn của bánh xe trí tuệ biểu tượng rằng Bát
Chánh Đạo là
đầy đủ, vẹn toàn. Để tự giải thoát khỏi khổ đau, bạn cần thực hành mọi khía cạnh của bánh
xe trí tuệ. Chỉ đọc về tám bước của bánh xe (Bát Chánh Đạo) sẽ không giúp
bạn được hạnh phúc. Nếu bạn cố gắng để giữ một bánh xe đạp đứng thẳng, nó
sẽ ngã xuống. Tuy nhiên nếu bạn giữ cho bánh xe quay bằng cách
đạp xe đi tới, thì bánh xe sẽ
đứng thẳng cho đến khi nào sự chuyển
động dừng lại. Để mang đến ích lợi cho bạn,
bánh xe của trí tuệ cũng cần phải được lăn đi trong sự thực tập hằng ngày. CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH KIẾN Để bạn biết làm thế nào thực hành bước thứ nhất – Chánh Kiến về Tứ Diệu
Đế- thí dụ, một buổi sáng kia khi ngồi trên
gối thiền bạn cảm thấy đau ở chân. Thay vì
chỉ ghi nhận sự phát sinh và hoại diệt của cảm giác
đó, thì bạn trong trường hợp này lại
cảm thấy khổ vì cái đau, và sự khó
chịu của bạn càng làm nó đau thêm. Nếu
tâm chánh niệm của bạn đã thuần thục,
thì vấn đề này
đã không xảy ra, nhưng giờ bạn
đã sa lầy. Bạn có thể làm
được gì bây giờ? Bạn có thể chế ngự được sự phiền não
do cái đau mang đến bằng cách thực hành
bát chánh đạo của Đức Phật. Đây là cơ
hội để quán sát tứ diệu đế trong thực hành.
Mặc dầu tám bước (Bát Chánh Đạo) đã
được mô tả theo một thứ tự đặc biệt, nhưng
chúng ta không cần phải thực hành chúng theo thứ tự
đó. Không đơn giản và rõ ràng như thế.
Thí dụ như ta đang nấu ăn trong nhà
bếp nơi tất cả các dụng cụ đều được treo theo
kích cỡ và được xếp đặt gọn gàng
theo một thứ tự lô gích nào đó, thì ta
cũng không dùng các dụng cụ này theo thứ tự mà chúng
đã được
xếp đặt. Thay vào đó ta sẽ lấy bất cứ
cái chảo hay cái nồi nào mà ta đang
cần lúc đó. Cũng thế, khi áp dụng Bát Chánh Đạo vào cuộc sống hằng
ngày đòi hỏi ta phải chọn lựa và sử
dụng bất cứ bước nào mà ta cần. Do đó, trước hết ta chánh niệm về cái đau
và sự phản kháng của ta đối với nó.
Như thế là ta đã sử dụng chánh
niệm, là bước thứ bảy của Bát Chánh Đạo. Với
chánh niệm, ta bắt đầu nhận thức rằng “Đây là khổ." Khi nhìn ra sự
thật của khổ, là ta đã nhận ra diệu
đế thứ nhất. Nó trở thành là một thực
tại đối với ta và ta bắt
đầu thực hành chánh kiến, là bước
đầu tiên của Bát Chánh
Đạo.
Với sự chú tâm chánh niệm, ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng càng phản kháng
cái đau, thì ta càng cảm thấy tệ hại
hơn. Vì thế ta cố gắng để chế ngự, buông xả
sự phản kháng. Hành động đó liên
quan đến chánh tinh tấn, là bước thứ
sáu. Ta buông xả sự phản kháng bằng cách thư giãn và thiết lập một thái
độ thân thiện hơn. Ta có thể, thí dụ, suy
luận rằng cái đau trong chân cũng đáng được chấp nhận, thương yêu
như bất cứ những cảm giác nào khác của thân. Bằng cách
đó, ta tu tập một khía cạnh của chánh tư duy,
là bước thứ hai. Sau đó ta có thể quán sát rằng nỗi khổ
phát sinh không chỉ vì sự phản kháng mà còn vì ta mong muốn
được cảm thấy dễ chịu hơn. Thí dụ, ta có thể
nghĩ, “Giá mà tôi có thể ngồi một cách yên tĩnh, không bị
đau đớn!” Thấy được sự liên hệ giữa
lòng ham muốn và sự khổ đau sẽ đưa chúng ta
thẳng đến trí tuệ trong diệu đế thứ hai, sự thật rằng chính lòng
tham ái đem lại khổ. Giờ thì chánh
kiến của ta đã
được phát triển sâu xa hơn.
Khi ngồi với ý thức về diệu đế thứ hai, ta
trở nên rất rõ ràng về sự liên hệ giữa lòng tham ái và khổ, do
đó chánh niệm cũng được phát triển sâu hơn. Vì
thấy quá rõ lòng tham ái đưa đến khổ đau như
thế nào, nên ta phát khởi quyết tâm phải làm
điều gì
đó đối với lòng tham ái. Phát khởi quyết tâm, là ta
đã lại thực hành chánh tinh tấn, nhưng
lần này, là để buông bỏ tâm tham ái, bám víu
vào những cảm giác dễ chịu. Tư tưởng buông xả, còn
được biết đến như là xả ly, là một
khía cạnh khác của chánh tư duy. Có thể lúc đầu chúng ta đã phản ứng
lại cái đau với cảm giác thất vọng, bực tức.
Nếu sự tự trách hay các ác ý khác nhắm đến
bản thân đã phát sinh, thì giờ ta phải thực hành chánh tinh tấn
để buông bỏ chúng. Làm
được thế, là ta một lần nữa thực hành
chánh tư duy. Hãy nhớ rằng nếu ta cố gắng quá sức, thì ta tạo ra nhiều
đau đớn và căng
thẳng hơn. Tuy nhiên, với chánh niệm, ta sẽ nhìn thấy
được vấn đề đó. Rồi chánh tư duy một lần nữa
lại trở nên hữu dụng, lần này là để
giải nhiệt cho tâm với tư duy về tình thương yêu dành cho bản thân.
Những sự thành công như thế trong việc vun trồng chánh kiến, chánh tư
duy, chánh tinh tấn, và chánh niệm sẽ giúp tâm lắng
đọng. Tâm trở nên
định tĩnh hơn; đây là một biểu hiện
của bước thứ tám trên con đường đạo: Chánh
Định. Khi đạt được định sâu lắng, thì
sự đau đớn tinh thần cũng như thể xác sẽ qua
đi. Khi sự đau đớn đã tan biến ta sẽ cảm thấy
đầy an bình, tĩnh lặng và hạnh phúc.
Các trạng thái này, ngược lại, sẽ đưa ta vào
tầng định cao sâu hơn.
Định sâu lắng hơn sẽ giúp tâm chánh niệm được củng cố và ta tiếp tục
quán sát các chứng nghiệm của mình. Ta thấy rằng cái đau biến mất vì ta
buông xả lòng tham muốn đối với dục lạc. Sau đó chánh kiến sẽ tăng trưởng
khi ý nghĩa và hiệu lực của diệu đế thứ ba trở nên tách bạch: khi chấm dứt
tham ái thì khổ được đoạn diệt.
Có thể nhận thấy rằng trong thí dụ vừa rồi chúng ta
đã không nói
đến khía cạnh “đạo đức” của Bát Chánh Đạo: đó
là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng (bước thứ ba, tư, và năm).
Nhưng chúng cũng có mặt, vì chúng đóng
vai trò quan trọng trong một cuộc sống tốt
đẹp. Sống thiếu đạo đức sẽ khiến tâm không
an, khiến cho việc hành thiền trở nên khó khăn
ngay cả trong những hoàn cảnh thuận tiện. Ta cần có một nền tảng
đạo đức vững chãi trước khi có thể duy
trì được định và giữ
được quyết tâm mạnh mẽ khi đối diện với những
đau đớn của thân tâm. Do đó khi đã thực hành không sai lệch các
bước trên con đường đạo (Bát Chánh Đạo) của
Đức Phật, ta sẽ tìm thấy trong đó
phương cách để buông xả khổ đau. Khi làm
được thế, ta sẽ chánh kiến được diệu đế cuối
cùng trong Tứ Diệu Đế, sự thật rằng
phương cách để chấm dứt khổ là đi theo
con đường Bát Chánh Đạo. Đến đây chúng ta đã điểm qua tất cả bốn
khía cạnh căn bản của Chánh Kiến. Khi đã tự mình thấy
được Tứ Diệu Đế diễn biến như thế nào
trong trường hợp này, chúng ta cũng đoán được
chúng sẽ vận hành ra sao trong cuộc
đời nói chung. Do đó bánh xe trí tuệ
sẽ được tiếp tục quay vòng. TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH KIẾN Những điều sau đây nhằm giúp ta đạt được
hạnh phúc thông qua Chánh Kiến:
- Chánh Kiến giúp ta hành động trong sự
hiểu biết về nhân quả và Tứ Diệu Đế.
- Tuân theo luật nhân quả, hành động một
cách khôn khéo sẽ đem đến những kết quả tốt đẹp và hành
động bất thiện sẽ đưa đến những kết quả xấu.
- Bất cứ hành động nào phát xuất từ
tâm tham, sân, hay si đều đưa đến đau khổ, do
đó là các hành động bất thiện hay sai
trái.
- Bất cứ hành động nào không bị ảnh
hưởng của tâm tham, sân, hay si, sẽ đem đến
hạnh phúc, do đó là hành động thiện
hay đạo đức.
- Tứ Diệu Đế giải thích về khổ, nguồn gốc
của khổ, sự chấm dứt của khổ và Bát Chánh
Đạo, con đường đưa đến sự chấm dứt của khổ.
- Chấp nhận sự thật về khổ giúp ta nhận ra
được chân hạnh phúc.
- Sinh, già, bệnh, chết; phải rời xa những gì ta yêu và phải ở cạnh
điều ta ghét; muốn cái ta không được và
được cái ta không muốn -tất cả đều là
khổ. - Khổ phát sinh khi ta không chấp nhận vô thường, bản chất khổ, và tính
chất vô ngã của vạn pháp. - Ái dục là nguồn gốc sâu xa của khổ. Ta càng tham ái bao nhiêu, thì
càng khổ bấy nhiêu. - Ta phải chịu trách nhiệm cho lòng tham ái và những hành
động có chủ đích của mình. - Khi biết chấp nhận trách nhiệm đối với hậu quả của các hành
động có chủ tâm, thì ta sẽ có thể
chuyển đổi hành
động của mình. - Khổ có thể được đoạn trừ.
- Tám bước trên con đường đưa đến hạnh
phúc của Đức Phật (Bát Chánh Đạo) chỉ bày cho ta các phương cách
để đoạn diệt khổ và
đạt được hạnh phúc toàn vẹn. - Chánh Niệm có thể giúp chúng ta liễu tri Tứ Diệu
Đế và Bát Chánh
Đạo, con đường đưa đến hạnh phúc.
-ooOoo- Bước 2
Tư duy có thể khiến ta đau khổ hay hạnh
phúc, điều đó ai cũng biết. Thí dụ bạn đang ngồi dưới gốc cây vào
một ngày mùa xuân êm đẹp. Không có gì
đặc biệt xảy ra, trừ làn gió nhẹ
đang vờn trên mái tóc, tuy nhiên tâm
bạn đang ở một nơi thật xa vời. Có thể bạn
đang nhớ đến một ngày mùa xuân của vài năm
trước đó khi bạn đang khổ. Bạn vừa mất việc, thi rớt, hay chú chó cưng của
bạn đi lạc mất. Ký ức đó khiến bạn trở nên lo lắng. "Nếu tôi lại
mất việc thì làm sao đây? Tại sao tôi lại có
thể nói như vậy với người đó? Chắc chắn là tôi phải nghe
đầy lỗ tai vì chuyện này. Giờ thì tôi
thực sự khổ rồi! Làm sao tôi có tiền để trả
các món nợ?” Lo lắng này kéo theo lo lắng khác, rồi chuyện kia lây
sang chuyện nọ. Chẳng bao lâu bạn sẽ cảm thấy cuộc
đời bạn đang rối tung lên, nhưng tất
cả những điều này xảy ra khi bạn
đang ngồi dưới gốc cây!
Sự hoang tưởng, lòng sợ hãi và các loại suy nghĩ bám víu khác là một
vấn đề lớn đối với chúng ta. Ai cũng
thường có khuynh hướng trói buộc mình vào những cách suy nghĩ không lành
mạnh – những thói quen đã
ăn sâu trong tiềm thức, khiến ta phải lăn
theo các dấu mòn xưa cũ dẫn đến khổ
đau.
Bước thứ hai trên con đường đạo của Đức
Phật chỉ bày cho chúng ta một lối thoát khỏi các thói quen này, một
phương cách để hướng tư tưởng của ta theo
chiều tích cực và ích lợi. Khi chúng ta bắt
đầu hiểu sự vật một cách đúng đắn –
với chánh niệm về các điểm quan trọng trong
bước một (Chánh kiến) của Bát thánh đạo– thì dĩ nhiên tâm ta sẽ
chảy một cách tự nhiên theo chánh tư duy. Tư duy ở
đây không chỉ là các tư tưởng mà bất
cứ trạng thái tâm có chủ đích nào. Khi
đã hiểu tham ái là cội nguồn của khổ
đau, thì ta cũng biết rằng các tư
tưởng kết nối với tham, sân luôn đưa đến đau
khổ. Chánh tư duy bao gồm việc buông bỏ các tư tưởng tiêu cực, như
là bám víu, sân hận, tàn nhẫn, và thay thế chúng bằng các tư tưởng thiện,
như là buông xả, từ bi, và thương yêu. Các tư tưởng thiện này vận hành
để đối trị tâm bám víu, lo âu, và giúp
ta tiến bước trên con đường đưa đến hạnh phúc
dài lâu. BUÔNG XẢ Đối nghịch với tâm tham hay bám víu là buông xả. Hãy nghĩ
đến điều đó như sự bố thí trong ý nghĩ cao
thượng nhất. Trên đường tu theo Đức
Phật, ta sẽ có cơ hội để bố thí hay buông bỏ tất cả mọi thứ đã níu
giữ ta lại, đã ngăn
trở ta đạt được mục đích của hạnh phúc tối thượng -sự sở hữu, con người,
niềm tin, quan điểm, và ngay cả sự bám víu vào chính thân và tâm. Khi nghe những điều này, người ta
bắt đầu lo ngại. Họ sợ rằng khi tuân
theo giáo lý của Đức Phật, họ phải từ bỏ tất
cả để gia nhập tăng đoàn. Dầu việc trở thành một tỳ kheo hay tỳ
kheo ni thật sự là một cách để thực hành
bố thí, tuy nhiên đa số chúng ta vẫn có thể
thực hành hạnh bố thí, buông xả ngay trong cuộc sống gia
đình đầy
bận rộn. Những gì chúng ta cần xả bỏ không phải là của cải vật chất
hay gia đình, bè bạn của chúng ta, mà
đúng hơn là cảm nhận sai lầm rằng
những thứ đó thuộc sở hữu của ta. Chúng ta
cần xả bỏ thói quen bám víu vào người và của cải vật chất cũng như
các quan niệm, ý kiến, niềm tin trong cuộc
đời ta. Bố Thí Vật Chất Buông xả là một quá trình tiệm tiến. Trước khi có thể thực sự xả bỏ bất
cứ thứ gì, chúng ta phải vun trồng tâm bố thí. Ta thực hiện
điều đó bằng cách suy nghĩ thật thấu đáo về ý
nghĩa của hạnh bố thí, tâm buông xả, và bằng cách nhìn nhận những
ưu và khuyết điểm của việc thực hành
này. Hãy bắt đầu với việc bố thí dễ nhất, đó
là bố thí của cải vật chất. Trước hết hãy xem tâm có thể xua khiến ta không thực hiện hành bố thí
như thế nào. Ta thường tự nhủ rằng để có thể
bố thí, trước hết ta phải thật dư giả. "Hãy
đợi đến khi tôi giàu có, rồi tôi sẽ
xây nhà cho kẻ không nơi nương tựa, xây bệnh viện và xây các trung tâm
thiền hoành tráng. Lúc đó, tôi sẽ giúp được
biết bao người!" Kết quả là chúng ta thu thập, tích lũy, và
đầu tư chỗ này, chỗ kia. Khi
đồng vốn tăng trưởng, chúng ta lại càng
bận rộn lo lắng và càng bám víu hơn vào những gì ta có. Dường như ta không
còn thì giờ để thực hành hạnh bố thí
nữa. Một cái bẫy khác của tâm là đính kèm
thêm một động lực bên ngoài trong việc
bố thí. Tặng cho ai một món quà, chúng ta khám phá ra,
điều đó khiến ta vui hơn. Đôi khi việc tặng
quà còn khiến ta vui hơn là người được
nhận quà. Hành động bố thí khiến ta
cảm thấy rất tự hào. Bản ngã ta được
đề cao khi món quà đắt giá hay đẹp đẽ
thế nào, khi món quà thể hiện được sự
khéo chọn lựa hay khiếu thẫm mỹ của ta ra làm sao. Hơn thế nữa, ta
còn có thể âm thầm nghĩ rằng người được quà
giờ phải mang nợ ta. Chúng ta còn có thể sử dụng sự rộng lượng thái hóa
của mình để hạ thấp người nhận. Khi bố thí
cho ai một thứ gì, yếu tố của việc tìm kiếm niềm vui cũng thường có
mặt. Bố thí để ta cảm thấy hài lòng,
để cho ai đó nghĩ tốt về ta hay mang ơn ta, làm
hỏng đi hạnh bố thí của ta. Một hình thức bố thí kém thiện xảo hơn nữa xảy ra khi chúng ta bố thí
để xoa dịu cảm giác đau đớn. Thí dụ một gia đình
có thể đóng góp tiền bạc để xây công viên
hay nhà cho cộng đồng được đặt theo tên
một người thương yêu đã mất của gia
đình. Món quà này có thể là một cách
để chuyển sự bám víu của họ đối với người
thân thành ý tưởng xây dựng một công trình lâu bền. Tâm bố thí chân
thật buông xả không chỉ của cải, vật sở hữu mà cả sự bám víu vào người
đã chết và vào cảm giác của khổ
đau hay sân hận. Tôi biết có một cặp
vợ chồng giàu có đã bố thí hết tất cả
tài sản mà họ có sau cái chết của đứa con
trai độc nhất của họ. Dầu biểu hiện ra ngoài là họ
đóng góp tiền cho các cơ sở từ thiện, nhưng
thực sự là họ đã bố thí với
lòng sân hận. Họ muốn dập tắt cảm giác đau
đớn vì mất con bằng cách tự hành phạt mình. Các tu viện và cơ sở từ
thiện có thể được nhiều lợi lộc từ các món quà
này nhưng người bố thí thì không hoàn toàn
được ích lợi. Mặc khác, cũng có người bố thí như thế để chuyển hóa nỗi đau
khổ của họ thành lòng từ bi, thương yêu. Sự bố thí này thì thiện
xảo và sẽ làm lành được những vết thương.
Cách bố thí tốt nhất là khi chúng ta không mong
đợi sự đáp trả nào, ngay cả một lời
cám ơn. Chúng ta bố thí khi tâm đã tự
tại, đã có tất cả
để được hạnh phúc. Những sự bố thí như
vậy được thúc đẩy bởi một cảm giác viên
mãn, đầy đủ, chứ không phải vì
đau khổ, mất mát. Bố thí một cách ẩn danh,
không cần biết người nhận là một cách bố thí tuyệt vời. Âm thầm bố
thí, không làm đình làm
đám, sẽ giảm thiểu lòng tham dục và
tâm bám víu của ta đối với những của cải mà
ta sở hữu. Hình thức cao thượng nhất của việc bố thí vật chất xảy ra khi chúng ta
giúp đỡ người khác dầu phải nguy hiểm đến
tánh mạng của mình. Xem tin tức truyền hình có lần tôi thấy một
người đàn ông
đã làm việc này sau khi có một tai nạn
khủng khiếp xảy ra. Đó là vào một ngày mùa đông lạnh lẽo của năm 1983 khi
chiếc máy bay rời Washington D.C. để đi Florida đã không bay lên được, vì
tuyết phủ trên cánh máy bay. Nó va vào cầu số 14. Hầu hết mọi người trên
máy bay đều tử nạn. Một số nạn nhân bị rơi xuống dòng sông Potomac phủ
đầy băng, nước lạnh cóng.
Ở điểm nơi các nạn nhân đang cố trèo
ra khỏi nước, lên các tảng băng, một chiếc
máy bay cứu hộ tiến đến và thả dây cáp xuống trong tầm với của một
người đàn ông. Nhưng thay vì nắm sợi
dây để được cứu sống, anh ta đã giúp
một phụ nữ nắm lấy sợi dây. Bà ta được kéo lên
an toàn. Khi chiếc máy bay vòng trở lại, dầu người
đàn ông
đang lạnh cóng, ông ta lại chuyền dây cáp đến cho một phụ nữ khác nữa, và
người này cũng được cứu. Khi chiếc trực thăng
vòng trở lại lần thứ ba, người đàn
ông đó đã chết vì lạnh giá. Ta không cần một hoàn cảnh như vậy để hành
động một cách anh hùng, mà ta cũng
không cần sở hữu một gia tài mới có thể thực hành hạnh bố thí. Tất cả
những gì ta cần là ý muốn được cống hiến, dầu
chỉ là những việc nhỏ. Với suy nghĩ
đó, ta có thể, thí dụ, dành thời gian cho người khác, giúp họ vượt
qua sự cô đơn. Tốt hơn nữa, ta có thể giúp họ
chế ngự đau khổ bằng cách chia sẻ với họ những gì ta
đã học
được trên con đường đạo của Đức Phật và
những gì ta biết về sự thực hành chánh niệm và thiền quán. Sự chia sẻ này
quý báu hơn tất cả mọi quà tặng khác. Bám Víu Vào Người, Quá Khứ, Và Quan
Giờ chúng ta đã biết, phiền não,
khổ đau phát sinh từ sự bám víu vào
bất cứ điều gì - sắc, thọ, tưởng,
hành, và thức. Buông bỏ được khuynh hướng bám
víu vào người, kinh nghiệm, và quan
điểm thì còn khó hơn việc bố thí những của cải vật chất nhiều,
nhưng làm được điều này sẽ mang lại
hạnh phúc tối thượng cho ta. Bám víu vào thân sắc có hai khía cạnh. Dễ nhận thấy nhất là việc chúng
ta bám víu vào người khác trong cuộc đời mình.
Bám víu không phải là thương yêu. Nó không giống như khi bạn quan tâm
đến ai và muốn cho người
đó được hạnh phúc. Đúng hơn, đó là
lòng ghen tỵ hay sự chiếm hữu mù quáng muốn sở hữu người khác. Thí dụ
người chồng hay vợ muốn sở hữu người phối ngẫu của mình, hay những người
bạn độc đoán, muốn kiểm soát tất cả đến nỗi
họ làm chết cả tình bằng hữu. Thực hành tâm bố thí trong liên hệ
giữa con người với nhau có nghĩa là tin tưởng vào người khác và
để cho họ được có không gian, tự do và
tự trọng. Tuy nhiên, ngay trong những sự liên hệ tốt
đẹp có thể cũng có yếu tố của bám víu. Tất cả mọi cặp vợ chồng hạnh phúc
đều hy vọng rằng hôn nhân của họ sẽ trường tồn. Dầu vậy, yếu tố của sự sợ
hãi luôn có mặt: "Anh ấy sẽ bỏ đi.”
“Vợ mình có thể lìa đời trước mình."
Nghĩ đến những điều này có thể khiến
ta rất đau đớn, nhưng ta phải nhớ rằng mọi
cuộc hôn nhân, dầu hạnh phúc tới đâu, cuối cùng cũng chia xa. Ngay
nếu như một cặp vợ chồng sống với nhau năm
mươi năm và cùng ra đi với nhau trong
sự bình an, thì ở thời điểm của cái
chết, họ cũng phải chia xa và đi theo
con đường riêng của họ tùy theo các hành
động trong quá khứ của họ.
Một hình thức bám víu vi tế hơn đối với
thân là sự chấp thân và nghĩ rằng ta làm chủ nó. Dầu hiện giờ cơ
thể ta khỏe khoắn, lành mạnh tới đâu, ta cũng
biết rằng với thời gian, tuổi tác nó sẽ trở nên yếu
đuối, bệnh hoạn và hoại diệt. Hơn nữa,
ta không thể kiểm soát điều gì sẽ xảy
đến cho thân. Ta không thể biết giây phút kế
tiếp ta sẽ vui hay buồn. Mà ta cũng không thể kiểm soát dòng tư
tưởng nào sẽ đi qua đầu ta. Thí dụ, khi nghe
đến từ ‘chó’, ta cố gắng không nghĩ đến hình ảnh của một con chó có
được không? Chỉ có thế mà ta
đã không kiểm soát
được.
Chúng ta cố gắng tự bảo vệ chống lại sự tấn công ào ạt của những
đổi thay không ngừng bằng cách dựng nên
các khái niệm, hình ảnh và chấp chặt vào đó
– vào nhà của tôi, xe của tôi, công việc của tôi, người tình của
tôi, thân của tôi- như thể tất cả những thứ này có một bản thể mà ta có
thể nương tựa vào. Nguyên nhân sâu xa của sự bám víu này là lòng sợ hãi.
Nhưng dầu ta có nắm giữ chúng chặt tới đâu,
với thời gian, tất cả mọi thứ trên thế gian này
đều biến chuyển, đổi thay. Tất cả rồi
sẽ vỡ tan như kiếng. Lúc đó ta sẽ đau khổ
dường bao!
Sự sở hữu, bám víu, hay chấp chặt vào bất cứ gì
điều gì cũng khiến cuộc sống của ta
thêm phiền não. Sử dụng một sở hữu vật chất mà không bám víu vào nó giúp
ta tránh được đau khổ khi nó bị mất, bể, hay
bị đánh cắp. Cũng thế, bám víu vào gia
đình, bạn bè hay cảm nhận về ngã sở của ta -chức vị hay nghề
nghiệp, nguồn gốc gia đình, vị trí
trong xã hội– sẽ khiến ta khổ đau khi các
khái niệm này vỡ tan một cách không thể tránh
được. Khi không bám víu, tâm ta luôn được tự
tại. Tâm trạng thoải mái này bao bọc, che chở ta, và làm giảm bớt
sự căng thẳng, bồn chồn, lo âu, và sợ
hãi của ta. Muốn phát triển thái độ không bám víu,
trước hết, ta phải dành một số thời gian
đơn độc một mình. Đa số chúng ta bám
víu vào việc được ở bên người khác vì sợ cô đơn. Nhưng một mình không có
nghĩa là cô đơn. Đúng hơn, chính sự
đơn độc tạo ra không gian cho chúng ta suy nghĩ, quán tưởng, thiền định và
giải thoát tâm khỏi sự ồn ào và bám víu. Khi lòng tham, sân, và si của ta
giảm thiểu qua sự thực tập chánh niệm và thiền quán, thì khả năng có mặt
với người mà không bám víu vào họ được tăng
thêm sức mạnh. Khi tâm tự tại, thì dầu giao tiếp hay có mặt bên bao
người, ta vẫn không bám víu, do đó tránh được
sự khổ đau do tâm bám víu mang đến.
Mỗi ngày Đức Phật đi bộ nhiều dặm đường
với hàng ngàn tăng, ni và cư sĩ
chung quanh người. Một số sinh sống trong tăng
đoàn với Đức Phật. Số khác
đến tham vấn với Ngài. Số nữa
đến thưa hỏi về những vấn đề của họ.
Hay để tranh luận với Đức Phật, hoặc đơn
thuần chỉ đến để nghe Pháp. Dầu ở giữa
đám đông, Đức Phật vẫn giữ hạnh đơn độc riêng mình. Thái
độ không bám víu của Ngài thật toàn
vẹn. Thỉnh thỏang, một số các tăng ni hay cư
sĩ, đệ tử của Phật, trải qua thời gian sống độc cư trong rừng, hầu vẹn toàn
sự thực hành tâm buông xả của họ. Nhưng họ không sống mãi trong rừng. Khi
họ đã buông bỏ
được tâm bám víu, họ tập sống với người khác
trong lúc vẫn duy trì một trạng thái tâm vững vàng, tự tại. Trạng thái tâm đó được gọi là xả
ly. Hạnh xả ly không chỉ được áp dụng cho
tăng ni mà còn cho tất cả những ai yêu thích cuộc sống
đơn độc hay người muốn sống không có những sự
ràng buộc. Tất cả những người thực hành hạnh xả ly, ngay chính các
vị tăng ni, cũng phải sống với ai đó một
khoảng thời gian nào đó. Chánh tư duy
giúp chúng ta có được một trạng thái tâm lý vững chãi
để ta không bị những sự thay đổi của hoàn
cảnh sống hay con người phiền nhiễu ta. Theo gương
Đức Phật, ta tu tập để trong tâm luôn duy trì
hạnh xả ly. Buông xả cũng đòi hỏi chúng ta phải
buông bỏ sự bám víu đối với niềm tin, quan
niệm hay tư tưởng của chúng ta. Điều đó rất khó. Ta có khuynh hướng đánh
đồng sự cảm nhận về những gì chúng ta suy nghĩ
đối với nhiều vấn đề khác nhau, với một cá
thể riêng biệt -để tự xác định mình.
Rồi ta lại bị kẹt vào trong sự xác định này
đến nỗi ta cảm thấy cá nhân mình bị
tấn công, khi có ai đó chỉ trích vị ứng cử viên
chính trị mà ta ủng hộ, hoặc phê bình ý kiến của chúng ta về một số vấn
đề của các chính sách cộng đồng. Tuy nhiên
lý tưởng, ý kiến, hay quan điểm của ta cũng
tuân theo luật vô thường. Hãy nhớ lại những
điều bạn đã tin tưởng ở tuổi mười sáu
hay ba mươi, và bạn sẽ thấy rằng các quan niệm cá nhân của bạn
đã thay
đổi như thế nào. Trên một bình diện rộng hơn, xuyên suốt lịch sử nhân loại trên khắp thế
giới, chiến tranh đã xảy ra dưới danh
nghĩa của các ý kiến hay quan điểm mà
người ta tôn thờ. Sự sát hại mà nhân loại chúng ta làm
để bảo vệ các sở hữu vật chất thì
không đáng kể nếu so sánh với những sự giết
chóc mà ta làm để bảo vệ những quan
điểm không chánh đáng, như là sự phân biệt chủng tộc hay chủ nghĩa
tôn giáo mù quáng. Hãy thử xét xem những niềm tin
được tôn thờ đã dẫn
đến chiến tranh, chúng có xứng đáng được bảo
vệ bằng những chi phí khủng khiếp của chiến tranh.
Buông xả các ý nghĩ, lời nói, và hành động
bất thiện tạo ra không gian cho chúng ta vun trồng các thiện pháp như là
từ bi, hỷ, bất bạo động, và xả ly.
Ngay đối với các thiện pháp, ta cũng không nên
quá bám víu vào chúng. Tâm buông xả đòi
hỏi chúng ta phải vượt lên trên sự phân biệt tốt, xấu.
Đức Phật đã dạy, cuối cùng rồi ngay cả
giáo lý của Ngài, chúng ta cũng phải để qua
một bên: "Giáo lý này giống như chiếc bè, phải
được để lại một khi bạn đã qua sông.
Nếu như ta phải buông xả cả những trạng thái tâm thanh tịnh do giáo lý này
mang đến, thì
đối với các trạng thái tâm bất thiện, ta còn
phải buông bỏ nhiều hơn thế nữa!" (M 22) Tôi không có ý nói rằng bạn sẽ có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu ngay
lập tức hay sẽ được giải thoát chỉ trong một
thời gian ngắn. Tìm kiếm "một sự giác ngộ ngay tức khắc" có thể chỉ
là một sự phô trương bản ngã. Khi tôi đi
hoằng pháp, thỉnh thỏang cũng có người
đến gặp, thưa trình rằng họ đã
đạt được giác ngộ rất nhanh chóng. Tôi trả
lời bằng cách lặp lại lời diễn tả của Đức Phật về những đặc tính của một
người đã đạt đến các giai đoạn của
giác ngộ. Vì những người này không có những
đặc tính đó, họ trở nên rất thất vọng,
đôi khi nổi sân cả với tôi vì phản ứng
của tôi không làm đẹp lòng họ. Sự bám víu đã tiềm ẩn trong tâm
thức chúng ta và tăng trưởng qua nhiều đời,
nhiều kiếp. Không thể buông bỏ nó một cách nhanh chóng, dễ dàng như
thế. Tuy nhiên, chúng ta không phải đợi qua
nhiều kiếp sống mới có thể bắt đầu. Có sự hiểu biết
đúng đắn, lòng kiên nhẫn, tinh tấn, và
chánh niệm, là chúng ta có thể bắt đầu tự
giải thoát khỏi những ràng buộc, kể cả việc có thể
đạt được sự giác ngộ viên mãn ngay
trong kiếp sống này. Để đạt được hạnh phúc,
ngay bây giờ ta phải bắt đầu phát triển chánh tư duy để buông xả các bám
víu và thay thế chúng bằng tâm từ bi rộng mở, nhu nhuyễn, và buông
xả. Đối Trị Lòng Sợ Hãi Khi bắt đầu thực hành chánh niệm về
tâm buông xả, chúng ta thường rơi vào trạng thái sợ hãi. Sợ hãi phát sinh
vì sự thiếu tự tin, quá tình cảm hay quá tham
đắm vào sự suy nghĩ, quan điểm, cảm
thọ, hay các đối tượng vật lý, kể cả thân này. Cũng có thể là do
chúng ta tiếp cận với một điều gì
đó mà ta không hiểu hay không biết kết
quả cụ thể của nó. Thí dụ, bạn vừa được biết mình bị
ung thư. Bạn đã lên lịch
để mổ, để sau đó bác sĩ sẽ quyết định là
bạn có cần thêm phương pháp chữa trị gì khác không. Giờ bạn
đang cố gắng hành thiền. Nhưng có quá
nhiều tư tưởng lộn xộn trong tâm bạn. Các ý nghĩ và cảm xúc
đan xen nhau, khiến bạn trở nên bực
bội, buồn bã, và rất sợ hãi. Bạn sẽ làm gì bây giờ? Khi ngồi thiền, bạn hãy quán sát mỗi trạng thái tâm phát khởi. Nếu có
quá nhiều tư tưởng và cảm xúc dâng trào cùng lúc, hãy cố gắng phân loại
chúng: "Điều gì sẽ xảy ra cho tôi?" –
đó là tâm sợ hãi. "Cô y tá đó sao dám nói với
tôi như thế!” – tâm sân hận. "Gia đình
đang phụ thuộc vào tôi! Tôi không thể
bệnh! Tôi không thể chết!" – tâm bám víu. "Bạn tôi cũng bệnh thế này. Vợ
anh ấy vẫn còn khóc khi nhắc đến anh ấy”
– tâm phiền não. "Tôi ghét những mũi kim chích!" – tâm chống
đối. "Ai sẽ
đưa tôi đi tái khám đây? – tâm bồn
chồn, lo lắng. "Đã có bao nhiêu người
sống sót từ căn bệnh này?" – tâm sợ
hãi. Khi bạn bắt đầu phân loại chúng, tư tưởng
và cảm xúc của bạn dễ quản lý hơn. Bạn không còn bị vướng mắc vào
những sự sợ hãi mà tâm bạn đã vẽ vời
ra, và bạn có thể bắt đầu suy nghĩ một cách
có lý hơn. Bạn có thể trấn an tâm bằng những ý nghĩ như -khả năng và
lòng tận tụy của các vị bác sĩ và y tá, những tiến bộ mới nhất trong việc
chữa trị căn bệnh này, nhiều người bị
chẩn đoán bệnh giống như bạn, vẫn sống cuộc
sống bình thường. Khi bạn phản công lại với những tư tưởng khiến bạn lo âu sợ hãi như
thế, là bạn đang thực hành chánh niệm
bằng hành động. Bạn có thể thấy tâm có nhiều
trò đến đâu, sử dụng ý nghĩ để tạo ra
sợ hãi và sợ hãi để tạo ra thêm
nhiều ý nghĩ nữa. Đây có thể cũng là
một cơ hội tốt để bạn tự quán chiếu. Bạn có
thể quán xét lại những hành động trong
quá khứ, những lúc do sợ hãi bạn đã
hành động thiếu khôn khéo như thế nào.
Từ đó bạn quyết giữ gìn chánh niệm,
không để cho sự sợ hãi khiến bạn hành
động như thế nữa trong tương lai.
Khi tâm đã an tĩnh, sáng suốt, bạn
có thể trở về quán sát hơi thở hay một đối
tượng thiền nào đó. Tuy nhiên
phải biết rằng các tư tưởng, ý nghĩ sợ hãi sẽ lại phát sinh trong các thời
khóa bạn tọa thiền. Với kinh nghiệm đã
có được, bạn có thể bỏ qua nội dung cụ thể
của các suy nghĩ này, mà chỉ quán sát những gì xảy ra cho tất cả
các ý nghĩ và cảm thọ của bạn. Bạn sẽ nhận thấy rằng mọi tâm pháp phát
sinh rồi đạt đến đỉnh điểm. Không cần
biết nó mãnh liệt đến thế nào, nhưng
nếu bạn trụ vào đó – như thể nó là
người bạn muốn cầm tay để dẫn dắt bạn đi qua
lúc khó khăn- bạn cũng sẽ thấy mọi tâm pháp đều qua đi. Giờ thì bạn
đã ý thức
được tiến trình tư duy, bạn đạt được
sự tự tin rằng không cần biết một dòng tư tưởng
đáng sợ hãi như thế nào có thể xuất
hiện, rồi nó cũng phải qua đi.
Một khi bạn đã hoàn toàn có thể
đối phó với nỗi sợ hãi cùng cực, thì
bạn sẽ không còn nhìn sợ hãi giống như trước nữa. Bạn biết rằng sợ hãi
cũng chỉ là một trạng thái tâm bình thường
đến rồi đi. Nó không có bản thể và không thể làm tổn hại bạn. Như
thế thì thái độ của bạn đối với sợ hãi
cũng bắt đầu nhẹ đi. Bạn biết rằng bạn có thể
quán sát và buông bỏ bất cứ tâm pháp nào có thể phát sinh. Khi bạn
buông bỏ được lòng sợ hãi về sự sợ
hãi, là bạn đạt được một cảm giác giải thoát.
Phương pháp đó có thể áp dụng cho các
trạng thái tâm tiêu cực khác, kể cả ký ức, sự tưởng tượng, mơ mộng
hay lo lắng về những vấn đề bạn phải đối mặt.
Đôi khi bạn có thể sợ hãi về những ký ức
đau đớn vì bạn nghĩ rằng bạn không thể
đối mặt với chúng. Nhưng giờ bạn biết rằng mình
có thể đối phó với bất cứ trạng thái tâm nào
mà trước đây bạn muốn chế ngự.
Công phu tu tập chánh niệm giúp bạn biết rằng không phải tự các trạng
thái tâm khiến bạn phiền não, mà chính là thái
độ của bạn đối với chúng. Có thể bạn nghĩ
rằng các trạng thái tâm tạo nên cá tính của bạn, là một phần của sự
hiện hữu của bạn. Rồi bạn cố gắng xua đẩy
những thứ không dễ chịu như thể chúng là những bộ phận xa lạ. Nhưng
thực sự bạn không thể xua đuổi bất cứ thứ gì,
vì trước hết, chúng không phải là của bạn. Phản ứng tốt nhất là thường
xuyên thực hành quán sát tâm một cách rốt ráo, không phản ứng bằng sự bám
víu hay ghét bỏ đối với bất cứ tâm pháp nào,
mà tinh tấn tu tập để giải thoát tâm khỏi tất
cả mọi bất thiện pháp.
TÌNH THƯƠNG YÊU Khi buông bỏ được các trạng thái tâm tiêu
cực, bạn sẽ tạo ra được không gian trong tâm
để vun trồng những tư tưởng tích cực. Chánh tư duy có nghĩa là
chúng ta thay thế những tư tưởng sân hận, thù ghét bằng tư tưởng của lòng
thương yêu. Lòng thương yêu, hay từ bi (metta), là một khả năng
bẩm sinh. Đó là một cảm giác ấm cúng thấm
đẫm tình
đồng loại, một cảm giác tương quan với tất cả mọi chúng sanh. Vì
chúng ta mong cầu hòa bình, hạnh phúc, niềm vui cho bản thân, chúng ta
biết rằng tất cả mọi chúng sanh khác cũng đều
mong muốn những thứ này. Tình thương yêu tỏa sáng cả thế giới với
ước muốn rằng tất cả mọi chúng sanh đều được
hưởng một cuộc sống thỏa mái trong sự hòa hợp, tôn trọng lẫn nhau,
và đầy đủ vật chất.
Dầu tất cả chúng ta đều có hạt giống từ bi
bên trong, nhưng ta phải cố gắng để
vun trồng nó. Khi tâm ta tràn đầy lo
lắng, gúc mắc, căng thẳng, và sợ hãi, thì khả năng
thương yêu bẩm sinh khó thể thăng hoa.
Để dung dưỡng hạt giống thương yêu, ta phải tập thư giãn. Trong trạng thái
tâm an tịnh, như khi ta thực hành thiền chánh niệm, ta có thể quên
đi những bất đồng trong quá khứ với người và
tha thứ lỗi lầm, sự yếu đuối, xúc phạm của họ
đối với ta. Lúc đó tình thương
yêu tự nhiên sẽ tăng trưởng trong ta.
Cũng giống như trường hợp của tâm xả, từ bi cũng bắt
đầu bằng một ý nghĩ. Thông thường, tâm
ta tràn đầy quan điểm, ý kiến, niềm tin, suy
nghĩ. Chúng ta đã
được điều kiện hóa như thế bởi văn hóa,
truyền thống, giáo dục, tương quan và quá khứ của chúng ta. Từ
những điều kiện tư tưởng đó chúng ta tạo dựng
nên các thành kiến và phán đoán.
Những suy nghĩ hạn hẹp này bóp nghẹt tình thương yêu sẵn có trong ta. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của sự suy nghĩ sai lầm này, ý nghĩ về sự tương
quan thân thiện với người đôi khi cũng xuất
hiện. Chúng ta thoáng nhìn thấy nó như khi ta thoáng nhận ra cảnh
vật qua tia chớp của sấm sét. Khi ta tu tập buông thư, xả bỏ mọi tiêu cực,
ta bắt đầu nhận ra được các thành kiến
phân biệt của chúng ta và không để chúng làm
chủ tâm mình. Khi đó tâm từ bi, thương yêu
mới bắt đầu tỏa sáng, hiển lộ sức mạnh và
vẻ đẹp thực sự của nó.
Tình thương yêu mà chúng ta muốn vun trồng không phải là thứ tình yêu
mà ta thường biết đến. Khi nói thương
yêu ai, trong tâm tưởng chúng ta thường xuất hiện một tình cảm bị
điều kiện hóa bởi các hành
động hay đức tính của người đó. Có thể
là ta ngưỡng mộ vẻ bề ngoài, cách cư xử, sự suy nghĩ, giọng nói hay thái
độ của người đó. Nếu các
điều kiện này thay
đổi, những gì ta gọi là tình thương
yêu có thể cũng thay đổi theo. Trong
những trường hợp cực đoan, tình thương
yêu đó còn có thể biến thành hận thù.
Tính yêu-ghét này trùm phủ mọi tình cảm bình thường của ta. Ta yêu người
này và ghét kẻ kia. Hay giờ thì yêu, sau lại ghét. Hoặc khi muốn yêu thì
yêu, lúc muốn ghét thì ghét. Hay ta yêu khi mọi thứ
đều diễn tiến tốt đẹp, nhưng khi có sự cố gì
thì lại ghét. Nếu tình thương yêu của chúng ta thay đổi
theo thời gian, không gian, và hoàn cảnh như thế, thì cái mà ta gọi
là tình yêu không phải là tình thương yêu chân chánh. Đó có thể là nhục
dục, lòng ham muốn được đảm bảo về vật chất, ước muốn được thương yêu, hay
một số hình thức ngụy tạo khác của lòng tham ái. Tình thương yêu chân
chính không có một động lực ngoại tại nào.
Nó chẳng bao giờ đổi thành ghét khi
hoàn cảnh thay đổi. Nó chẳng bao giờ
khiến ta trở nên hận thù nếu tình yêu của ta không
được đáp trả. Tình thương yêu chân
chánh thúc đẩy chúng ta luôn đối xử tử tế với
tất cả mọi người, và nói những điều
tốt lành về người, dầu họ có mặt hay vắng mặt. Khi đã thực sự giác ngộ, bạn sẽ yêu
thương tất cả vạn vật trong vũ trụ không phân biệt. Tình thương yêu
đó không giới hạn, không biên giới.
Bao gồm không chỉ tất cả mọi chúng sanh có mặt trong hiện tại, mà ta còn
mong cho tất cả, không có sự phân biệt hay thiên vị nào,
được hạnh phúc trong tương lai vô cùng
tận. Hãy để tôi chia sẻ với bạn câu chuyện về
một hành động từ bi có ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều người.
Có một bà lão và con gái sống trong một ngôi nhà nhỏ ở Ấn
Độ. Gần
đó có một vị thiền sư sống trong một túp lều nhỏ. Do lòng mến mộ,
bà lão coi vị tu sĩ như là con trai của mình và dạy con gái phải
đối xử với vị ấy như là anh ruột của
mình. Mỗi sáng vị tu sĩ đều xuống làng
để khất thực. Ông không bao giờ quên
dừng lại ở ngôi nhà nhỏ đó để thọ lãnh
thực phẩm mà bà lão và con gái cúng dường cho ông với tất cả lòng ngưỡng
mộ và thành kính. Mỗi chiều ông lại xuống làng
để thăm viếng các vị thí chủ, khuyến khích họ
tu thiền và sống một cuộc sống an bình. Một buổi chiều trên đường xuống làng,
vị tu sĩ nghe được câu chuyện giữa bà
lão và con gái. Bà lão bảo con gái, "Con ơi, ngày mai anh con sẽ
đến nhà chúng ta khất thực.
Đây là bơ sữa;
đây là mật;
đây là gạo,
đây là gia vị;
đây là rau cải. Hãy chuẩn bị một bữa
ăn thiệt ngon cho anh con.”
Người con gái hỏi mẹ, "Thưa, ngày mai mẹ sẽ
đi đâu?”
"Mẹ định vào rừng
để tọa thiền cả ngày." "Nhưng mẹ sẽ ăn gì?" "Hôm nay còn lại một ít cơm, mẹ sẽ dùng để
nấu cháo. Thế cũng đủ cho mẹ rồi.
Nhưng con phải nhớ làm một bữa ăn thật
ngon cho anh con và cúng dường khi anh
đi ngang qua nhà." Nghe được cuộc đối thoại này, vị tu
sĩ nghĩ, "Bà lão này yêu thương và kính trọng ta
đến nỗi bà dạy con gái sửa soạn một
bữa ăn thật ngon cho ta trong khi bản thân bà
chỉ ăn một ít cháo nấu từ phần cơm thừa còn
lại. Ta không xứng đáng nhận được bữa cơm
ngon đó nếu ta không tu chứng được gì. Ta phải tu tập sao cho xứng
đáng với món quà
đầy tình thương của bà lão.
Đây là lúc ta phải cố gắng không ngừng
nghỉ để giải thoát bản thân khỏi những trạng
thái tâm bất thiện.”
Vị tu sĩ trở về cất y áo lại. Ông quyết không xuống làng khất thực cho
đến khi đã tu chứng,
đạt được tâm giải thoát. Ông ngồi xuống chiếu
thiền với những lời tự nguyện như sau: “Dầu cho máu tôi có khô đi. Dầu cho
da thịt tôi có tan rã. Dầu cho thân này chỉ còn là bộ xương. Tôi sẽ
không đứng dậy cho đến khi đạt được giác ngộ
hoàn toàn." Với lời nguyện đó, vị tu sĩ tọa thiền suốt
cả buổi chiều, cả đêm, và một phần của buổi sáng hôm sau. Chỉ trước
khi đến thời gian để ông đi khất thực, ông
đạt được mục đích của mình. Sau đó vị
tu sĩ lại đấp y và đi xuống làng
để khất thực. Khi đến trước ngôi nhà
nhỏ, người con gái đã cúng dường ông
một bữa ăn thịnh soạn.
Cô gái sốt ruột đợi mẹ về sau một ngày
tọa thiền. Buổi chiều đó, ngay khi người mẹ
về đến nhà, người con gái đã
chạy ra đón và bảo, "Mẹ ơi, con chưa
bao giờ thấy vị tu sĩ của chúng ta nghiêm trang,
đỉnh đạt, rạng rỡ, thanh tịnh, đẹp đẽ đến
thế!”
"Con ơi, có lẽ vị ấy đã
đạt được sự giải thoát, tự do thật sự khỏi
tâm tiêu cực. Chúng ta thật may mắn có
được một vị tu sĩ như thế ở cạnh nhà. Nhưng nếu thực sự kính trọng
người, chúng ta phải đi theo con đường của
người. Từ bây giờ, chúng ta phải hành thiền một cách tinh tấn
để chúng ta cũng có thể đạt được cùng
trạng thái đó.”
Từ đó cả hai mẹ con đều tinh tấn hành
thiền cho đến lúc họ cũng chứng được các tầng
thiền định. Nhiều dân làng noi theo gương họ và cũng chứng
đạt các tầng định. Đó là ảnh hưởng sâu
rộng của lòng từ bi của bà lão. (MA I 225) Lòng Từ Bi
Có người sẽ tự hỏi làm sao mà họ có thể từ bi
đối với kẻ thù. Làm sao mà họ có thể
nói một cách chân thật, "Cầu cho kẻ thù của tôi
được hạnh phúc, bình an, sức khỏe. Cầu
cho họ không bị những khó khăn hay hoạn nạn.”
Câu hỏi này phát khởi từ sự suy nghĩ sai lầm. Người với tâm
đầy phiền não có thể cư xử, hành
động xúc phạm hay làm hại
đến ta. Do
đó, ta coi họ là kẻ thù. Nhưng thực sự
ra không có ai là kẻ thù của ta cả. Chỉ có trạng thái tâm tiêu cực của
người đó gây ra vấn đề cho ta. Chánh niệm
giúp chúng ta thấy rằng các trạng thái tâm không thường hằng. Chúng chỉ
tạm bợ, có thể sửa đổi, có thể biến chuyển.
Cách tốt nhất để ta được an vui, hạnh phúc
là giúp kẻ thù của mình giải quyết các vấn
đề của họ. Nếu tất cả các kẻ thù của
ta đều được giải thoát khỏi khổ đau, bất mãn,
sân hận, nghi ngờ, căng thẳng, bực tức, thì
họ không có lý do gì để làm kẻ thù của
ta cả. Một khi đã không còn những khổ
đau, thì kẻ thù cũng giống như bao
người khác -một chúng sinh tuyệt vời. Chúng ta có thể thực hành tâm từ bi đối
với tất cả mọi người – cha mẹ, thầy cô, thân quyến, bạn bè, người
không thân thiện, người lạnh lùng, người gây khó khăn
cho ta. Không cần phải quen biết hay thân thiết với ai mới có thể
trải tâm từ bi đến với họ. Thật ra, đôi khi
không biết rõ về họ lại dễ dàng hơn. Tại sao? Vì nếu không biết họ,
chúng ta có thể đối xử với tất cả mọi người
giống như nhau. Chúng ta có thể xem bao chúng sinh trong vũ trụ như là
những đốm sáng trong không gian và ước
nguyện cho tất cả họ được hạnh phúc, bình
an. Mặc dù chỉ có ước muốn của chúng ta thì khó thể thành sự thật, nhưng
gieo trồng được ước nguyện rằng tha nhân có
thể hưởng thụ được tình thương yêu là một thiện ý có thể mang lại
hỷ lạc cho tâm ta. Nếu mọi người đều ước muốn cho người khác
được hạnh phúc, được thương yêu, thì chúng ta sẽ có
được hòa bình trên thế giới. Giả sử có
sáu tỷ người trên thế giới, và mỗi người đều
vun trồng ước nguyện này. Thì đâu còn
có ai để gieo hận thù? Sẽ không còn
tranh đấu, không còn
đánh nhau. Mọi hành
động đều đến từ tâm. Nếu tâm không trong
sạch, thì hành động theo sau tâm ý đó
sẽ không trong sạch và tai hại. Điều
ngược lại cũng đúng. Như Đức Phật đã dạy chúng ta, ý nghĩ trong
sạch về từ bi, tình thương thì mạnh mẽ hơn hận thù, mãnh liệt hơn vũ khí.
Vũ khí tàn phá. Nhưng tình thương giúp con người sống trong hòa bình và
hòa hợp. Vậy bạn thử nghĩ điều gì sẽ
mạnh mẽ hơn và sẽ tồn tại lâu hơn? Đối Trị Sân Hận Rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi
là sân hận. Khi lòng ta tràn đầy sân hận, thì
tâm không còn chỗ cho tình cảm thương yêu đối
với bản thân hay đối với người khác, không còn chỗ cho hòa bình hay
tự tại. Mỗi người phản ứng với sân hận theo cách riêng của mình. Người thì
cố gắng để bào chữa cho các cơn giận
của mình bằng cách tự nhủ, "Tôi có quyền được
giận.” Người khác thì chấp vào sự giận hờn của họ một thời gian
dài, đôi khi hàng tháng hay hàng năm.
Họ cảm thấy rằng sự sân hận đó khiến họ rất đặc biệt, rất nguyên
tắc. Cũng có người lại biểu lộ lòng hận thù ra ngoài bằng những hành
động chống báng lại kẻ mà họ giận
ghét. Không cần biết cách bạn thể hiện lòng sân hận như thế nào, bạn có
thể chắc chắn về một điều: tâm sân hận
rút lại làm hại bạn nhiều hơn là nó hại người bạn giận. Bạn có để ý mình cảm thấy thế nào
khi giận dữ không? Bạn có cảm nhận được
sự căng thẳng, khó chịu trong lồng
ngực, bụng nóng bừng, mắt mờ đi không? Có
phải là đầu óc bạn trở nên tối
tăm, lời nói trở nên cộc cằn, khó nghe
hơn không? Các bác sĩ bảo rằng thường xuyên biểu lộ sân hận mang
đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức
khỏe của chúng ta – máu cao, ác mộng, mất ngủ,
đau dạ dày, hay ngay cả
đau tim. Lòng sân hận cũng nguy hại
cho tâm không kém. Nói một cách thẳng thắng là sân hận khiến thân tâm ta
rất khổ sở. Sân hận cũng làm rạn nứt các mối liên hệ tương quan với người. Bạn
thường tránh gặp người bạn đang giận,
có đúng không? Ngược lại cũng thế, khi biết
bạn giận, người kia cũng tránh bạn. Không ai muốn quan hệ với người đang
trong cơn nóng giận. Người tràn đầy
sân hận có thể rất vô lý, nhiều khi còn nguy hiểm nữa. Hơn thế nữa, sân hận thường không tác hại nhiều đến người bị giận.
Trong nhiều trường hợp, ta nóng giận với người
đã xúc phạm ta, nhưng họ không hề hay
biết, nên không ảnh hưởng gì đến họ cả. Ngược
lại, chính ta là người phải đỏ mặt,
phải lớn tiếng và tạo ra một cảnh tượng khó coi, khiến ta cảm thấy
rất khổ sở. Kẻ kình địch còn có thể
diễu cợt sự giận dữ của ta. Có thái độ quen
giận hờn, oán trách có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, các mối liên
hệ, cách sống, và tương lai của chúng ta. Chính ta cũng có thể phải hứng
chịu những tai họa mà ta mong muốn xảy đến
cho kẻ thù của ta. Rõ ràng là sân hận có thể làm hại bản thân ta, vậy ta phải
đối phó với nó như thế nào? Làm sao ta
có thể buông bỏ sân hận và thay thế nó bằng tâm từ bi, tình thương yêu? Để đối phó với sân hận, trước hết chúng ta phải quyết định tự kiềm chế
không hành động theo bản năng sân hận. Bất cứ khi nào tôi nghĩ về sự kiềm
chế, tôi lại nhớ đến con voi của cậu tôi. Khi tôi còn nhỏ, cậu tôi có một
con voi rất to và rất đẹp. Bạn bè và tôi thường thích chọc phá con vật
này. Chúng tôi thường chọi đá vào voi
cho đến khi nó nổi xung lên. Con voi
rất to lớn, nó có thể giẫm nát chúng tôi nếu nó muốn. Nhưng thay vào
đó, nó đã
làm một điều rất đáng ngưỡng mộ.
Một lần kia khi chúng tôi chọi đá, con voi
dùng vòi để bẻ một cành cây nhỏ
khoảng cỡ độ một cây viết chì và
đánh chúng tôi với cành cây nhỏ
đó. Nó đã bày tỏ một sự kiềm chế không
lường được, chỉ làm những gì cần thiết
để khiến chúng tôi phải nể sợ nó. Vài
ngày sau đó con voi còn hận chúng tôi,
nên không để chúng tôi cưỡi nó. Cậu tôi bảo
chúng tôi dẫn nó ra một dòng suối lớn, lấy vỏ dừa chà da cho nó,
trong khi nó thư giãn và tận hưởng nguồn nước mát. Sau
đó, nó hoàn toàn buông xả sự giận hờn
đối với chúng tôi. Khi bạn cảm thấy mình
hoàn toàn đúng khi phản ứng một cách mạnh mẽ
trong cơn giận, tôi khuyên bạn, hãy nhớ
đến phản ứng đầy kiềm chế của con voi
to mà hiền lành của cậu tôi. Một phương cách khác để đối trị với sân
hận là quán sát kết quả của nó. Chúng ta biết rất rõ rằng khi giận
dữ, ta không thể thấy sự thật một cách rõ ràng. Do
đó, chúng ta có thể phạm vào những
hành vi bất thiện. Như chúng ta đã
biết, các hành động có chủ tâm trong quá khứ
là thứ duy nhất thật sự là của chúng ta. Cuộc sống tương lai còn
tùy thuộc vào những hành động cố ý của ngày
hôm nay, giống như là cuộc sống hiện tại là kết quả của những hành
động có chủ tâm trong quá khứ. Những hành
động có chủ tâm được thực hiện dưới ảnh hưởng
của tâm sân hận không thể dẫn ta đến một tương lai hạnh phúc.
Cách đối trị tốt nhất đối với sân hận là
lòng kiên nhẫn. Kiên nhẫn không có nghĩa là
để cho người khác lấn lướt ta. Kiên nhẫn có nghĩa là dùng chánh
niệm để kéo dài thời gian,
để ta có thể hành
động một cách đúng
đắn. Khi phản ứng lại với sự khiêu
khích bằng lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ nói lên
được chân lý vào
đúng thời điểm và dùng ngôn từ chính
xác. Ta dùng những lời nhẹ nhàng, tử tế, và chính xác như thể ta
đang nói với một em bé hay một người bạn thân
để ngăn cản họ không làm những gì có hại cho họ hay người khác. Dầu
bạn có thể lên giọng, điều đó không có nghĩa
là bạn đang giận dữ. Mà thật ra
là bạn đang bảo vệ một cách khéo léo một
người mà bạn quan tâm đến.
Có một câu chuyện rất nổi tiếng miêu tả sự kiên nhẫn và thông thái của
Đức Phật khi đối mặt với một người sân hận:
Có một người Bà la môn giàu có và quyền lực. Người này có thói quen dễ
nổi giận, đôi khi không vì lý do gì.
Ông ta thường gây gổ với tất cả mọi người. Nếu có ai
đó bị xúc phạm mà không nổi giận, ông
cũng sẽ tức giận vì điều đó.
Người Bà la môn này đã nghe rằng
Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận. Một ngày
kia ông ta đến gặp Đức Phật và dùng
lời lẽ thóa mạ Ngài. Đức Phật lắng nghe một cách kiên nhẫn và từ bi. Sau
đó Ngài hỏi người Bà la môn: "Ông có gia đình
hay bạn bè người thân gì không?" "Vâng, tôi có rất nhiều bạn bè và người thân," người Bà la môn trả lời. "Ông có đi thăm họ thường không?” Đức Phật
hỏi.
"Dĩ nhiên. Tôi thăm họ rất thường.”
"Ông có mang quà tặng cho họ khi ông thăm
viếng họ không?”
"Chắc chắn rồi. Tôi chẳng bao giờ đến gặp
họ mà không mang quà," người Bà la môn trả lời. Đức Phật lại hỏi, "Khi ông tặng quà, giả sử rằng họ không nhận. Ông sẽ
làm gì với những món quà đó?" "Tôi sẽ mang chúng về và chia sẻ với gia đình
tôi," người Bà la môn trả lời. Lúc đó Đức Phật nói, “Cũng thế, ông đã
cho tôi một món quà. Tôi không muốn nhận. Nó là của ông. Hãy mang nó về
nhà và chia sẻ với gia đình." Người Bà la môn rất xấu hổ khi ông hiểu và ngưỡng mộ lời khuyên từ bi
của Đức Phật. (S I.7.1 [2])
Sau cùng, để đối trị sân hận chúng
ta có thể nghĩ đến những lợi ích của tâm từ
bi. Theo Đức Phật, khi ta thực
hành tâm từ bi, ta sẽ "ngủ yên, thức dậy thoải mái, và có những giấc mơ
đẹp. Được thân cận với chúng sanh và
các loài khác. Chư thiên sẽ độ trì ta.
[Nếu ta đầy lòng từ bi, thì ngay lúc đó] khói
lửa, thuốc độc và vũ khí không thể làm hại ta. Ta thiền
định dễ dàng. Nét thanh tịnh hiện trên
gương mặt ta. Ta ra đi nhẹ nhàng và
được tái sinh vào cõi giới cao nhất."
(A V (11) II.5). Những viễn ảnh này không phải là dễ chấp nhận hơn là sự
khổ sở, sức khỏe kém, và ác nghiệp mà tâm sân hận có thể mang
đến cho ta sao?
Khi sự chánh niệm về các trạng thái tâm của ta tăng
trưởng, ta sẽ càng lúc càng nhanh chóng nhận ra lúc nào ta bắt
đầu nổi giận. Lúc đó, ngay khi tư
tưởng sân hận khởi lên, ta có thể bắt đầu áp
dụng các phương pháp đối trị sân hận bằng lòng kiên nhẫn và chánh
niệm. Chúng ta cũng cần tìm mọi cơ hội để sửa
đổi các hành động nóng nảy của mình.
Nếu ta đã nói hay làm gì đó với ai khi nóng giận, ngay sau khi giây phút
đó qua đi, ta nên nghĩ đến việc xin lỗi người
đó, dầu rằng ta nghĩ người kia sai quấy hay hành
động tệ hại còn hơn ta. Một vài phút
bỏ ra để xin lỗi người mà ta đã xúc
phạm sẽ mang đến sự giải tỏa tức thì và tuyệt vời cho cả hai người. Cũng trong tinh thần đó, nếu thấy ai sân
hận với mình, chúng ta có thể đến với
người đó và trao đổi trong sự bình
tĩnh để cố gắng tìm ra nguyên nhân của
sự giận hờn. Ta có thể nói: "Xin lỗi đã
làm bạn giận tôi. Tôi không giận gì bạn cả. Có thể chúng ta nên giải quyết
vấn đề này như là bạn bè với nhau." Ta cũng có thể mang một món quà
đến cho người mà ta nghĩ là đang giận
mình. Một món quà sẽ xoa dịu người đang chống đối ta và khiến kẻ thù trở
thành bạn. Một món quà có thể chuyển hóa những lời giận dữ thành từ ái và
sự cộc cằn thô lỗ thành nhẹ nhàng, êm thắm. Sau đây là một số phương cách thực
dụng bạn có thể sử dụng để chế ngự cơn giận
của mình: - Hãy ý thức về cơn giận của mình ngay lập tức. - Hãy chánh niệm về cơn giận của mình và cảm nhận
được sức mạnh của nó.
- Hãy nhớ rằng tánh nóng nảy là vô cùng nguy hại. - Hãy nghĩ đến những hậu quả tai hại của
tâm sân hận.
- Hãy thực hành sự kiềm chế. - Hãy nhận thức rằng sân hận và nguyên nhân của nó
đều vô thường.
- Hãy nhớ đến câu chuyện về lòng
kiên nhẫn của Đức Phật với người Bà la
môn. - Hãy thay đổi thái độ bằng cách trở nên
tử tế và hữu dụng. - Hãy thay đổi tình trạng căng
thẳng giữa ta và người mà ta đang giận bằng cách tặng quà hay làm
một điều gì tốt cho họ. - Hãy nhớ đến những ích lợi của việc thực
hành tâm từ bi. - Hãy nhớ rằng tất cả chúng ta một ngày kia sẽ ra
đi và chúng ta không muốn ra
đi với tâm sân hận.
TÂM TỪ BI Từ bi là tư tưởng thiện xảo thứ ba mà Đức
Phật khuyến khích chúng ta vun trồng. Từ bi là khi nghĩ
đến sự đau khổ của người khác, ta cũng thấy
xót xa. Đó là một phản ứng thiện, tự phát,
đi cùng với ước muốn làm giảm bớt sự
đau khổ của người khác.
Tâm từ bi đòi hỏi phải có một
đối tượng. Để vun trồng được tâm từ bi,
chúng ta cần quán tưởng lại những đau
khổ mà cá nhân chúng ta đã trải qua, cảm nhận sự khổ đau của người
khác, và tạo được mối tương quan trực giác giữa các kinh nghiệm
đau khổ của ta và của người. Thí dụ,
chúng ta nghe một đứa trẻ bị đánh hay bị lạm
dụng. Ta sẽ hướng tâm mình đến nỗi đau
của đứa trẻ kia có thể bằng cách nhớ lại những cảm giác đau đớn trong lòng
khi ta bị đối xử tệ. Rồi chúng ta phát
lời ước nguyện, "Nguyện cho những sự đau đớn
như thế không xảy ra cho bất cứ ai trên thế giới này. Cầu mong rằng
không có đứa trẻ nào bị ngược
đãi như tôi
đã từng bị ngược
đãi." Hay khi có ai
đó bị đau bệnh, ta hồi tưởng lại cảm
giác khó chịu và đau đớn như thế nào
khi bệnh hoạn, và chúng ta mong rằng không có ai nữa phải chịu những sự
đau đớn và lo lắng tương tự. Hoặc
chúng ta nhớ đến sự đau khổ khi phải chia lìa
người mà ta thương yêu. Ký ức này sẽ dẫn đến
tâm từ bi đối với bất cứ ai phải bị chia lìa với người thương yêu
vì tử biệt, chia ly, hay bị ruồng bỏ, và ta ước muốn rằng không ai phải
trải qua những sự đau khổ như thế.
Từ bi và tình thương yêu hỗ trợ lẫn nhau. Khi tâm chúng ta đầy lòng
thương yêu, thì lòng ta rộng mở và tâm ta trong sáng
đủ để nhìn nhận ra nỗi khổ của người
khác. Thí dụ có ai đó đã
đối xử với ta bằng thái
độ khinh bỉ hay cao ngạo. Bằng tình
thương, ta nhận ra rằng thái độ thô lỗ này
ắt phải xuất phát từ một người đang có nội
tâm đau khổ, vướng mắc. Vì chúng ta cũng
đã trải qua nhiều vấn
đề trong đời mình, lòng từ bi của ta
sẽ phát khởi, và ta tự nhủ, "Người này chắc hẳn
đang đau khổ. Làm sao tôi có thể giúp
họ? Nếu tôi giận dữ hay bực tức, tôi sẽ không thể nào giúp họ
được. Mà tôi còn có thể làm cho vấn
đề của họ thêm nghiêm trọng." Chúng ta
tự tin rằng nếu ta tiếp tục hành động một
cách thân thiện, khiêm hạ, thì người này có thể dần dần, hay ngay
lập tức, được lợi lộc. Có thể một lúc nào
đó sau này, người
đó sẽ ngưỡng mộ việc chúng ta làm thế
nào mà vẫn duy trì được sự tử tế, hòa
nhã, thân thiện dầu bị khiêu khích, xúc phạm và họ bắt
đầu bắt chước cách đối xử tử tế khi
giao tiếp với người khác. Là đệ tử của Phật thì lòng từ bi
của ta càng rộng lớn, như trong một câu chuyện kể của Kinh
Đại thừa:
Xưa có một vị tăng tu thiền tâm từ, muốn
có đủ công đức để được gặp Phật Di Lạc, Đức Phật của lòng thương
yêu. Sự tu tập của vị tăng này
đã làm tâm ông trở nên hiền dịu
đến nỗi ông không làm hại
đến bất cứ sinh vật nào. Một ngày kia, ông gặp một con chó nằm bên vệ
đường rên la
đau đớn. Một vết thương hở miệng trên
thân con vật khốn khổ này với đầy những dòi
bọ. Vị tu sĩ quỳ gối xuống trước con chó. Ý nghĩ
đầu tiên của ông là phủi những con dòi
bọ khỏi vết thương của con chó. Nhưng rồi ông suy nghĩ, "Nếu ta dùng một
cái cây để phủi những con dòi bọ này,
ta có thể làm chúng đau đớn. Nếu dùng
tay, ta có thể làm chúng chết vì chúng là những sinh vật rất nhỏ nhoi. Và
nếu ta bỏ chúng xuống đất, sẽ có người đạp
chúng.”
Rồi ông nghĩ ra điều ông phải làm.
Ông cắt thịt đùi của mình,
đặt xuống đất. Rồi ông quỳ xuống và lè
lưỡi ra để đỡ những con dòi bọ khỏi
vết thương của con chó và đặt chúng trên
miếng thịt của mình. Khi ông làm thế, con chó biến mất. Và thay vào chỗ nó là
đức Di Lạc, vị Phật của tình thương
yêu. Chúng ta có thể tự coi mình là những người từ bi, nhưng mức
độ từ bi của chúng ta không thể nào so
sánh với vị thánh tăng đó! Chung quanh
ta có bao nhiêu đau khổ. Mỗi ngày chúng ta có nhiều cơ hội để thực hành
tâm từ bi, tuy nhiên ta thường thấy việc đó khó làm. Tại sao? Câu trả lời
là đứng trước khổ đau -dầu là nỗi
đau của người- ta cũng khó chịu đựng nổi. Để
tránh né, chúng ta lãng ra chỗ khác, nhắm mắt lại, hay gồng mình
chịu trận. Thực tập chánh niệm giúp chúng ta thư giãn và nhu nhuyến trước
bất cứ hoàn cảnh nào mà cuộc đời trao cho ta.
Khi ta để tâm mình nhẹ nhàng và trái tim rộng mở, thì suối nguồn
của tâm từ bi có thể tự do tuôn tràn. Thực hành tâm từ bi đối với người thân,
chắc chắn là một thử thách, nhưng nó rất cần thiết cho hạnh phúc
của chúng ta ngay hiện tại và trong tương lai. Cha mẹ, người hôn phối, và
con cái rất cần đến lòng bi mẫn của
chúng ta. Chúng ta cũng cần có lòng bi mẫn
đối với bản thân.
Từ Bi
Có thể một số bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao
bạn phải thực hành tâm từ bi đối với
bản thân. Bạn có thể nói rằng “Lo cho bản thân là ích kỷ." "Nhu cầu
của tôi không quan trọng. Người tu chân chánh là phải có lòng bi mẫn
đối với người khác.” Nói vậy nghe cũng hay
nhưng có thể là bạn đang tự lừa dối
bản thân. Khi quán sát tâm mình thấu
đáo, bạn sẽ khám phá ra rằng không có ai trên cả vũ trụ này khiến
bạn quan tâm đến hơn là chính bản
thân. Không có gì sai với điều đó. Thật ra, có lòng
bi mẫn đối với bản thân là nền tảng
cho sự thực hành tâm từ bi đối với người. Như
Đức Phật đã nói: "Dùng tâm để quán sát
cả vũ trụ này, ta không thấy gì thân thiết với mình hơn là chính
bản thân. Vì bản thân là thân thiết hơn những người khác, người tự biết
thương yêu bản thân sẽ không bao giờ làm hại
đến người khác.” (Ud V.1).
Thật là sai lầm khi nghĩ rằng nếu chúng ta khắt khe với bản thân hay tự
coi mình là không xứng đáng thì tốt
hơn, hay như thế là hướng về tâm linh hơn.
Đức Phật đã nhận ra qua kinh nghiệm bản thân rằng sự tự hành xác
không đưa đến giác ngộ. Dĩ nhiên chúng
ta cần phải tập tự kiềm chế, nhưng ta làm thế là do quyết tâm hành
động vì lợi ích tốt nhất cho chúng ta
mà thôi. Nếu quán sát một cách rốt ráo, sự tự kỷ luật một cách vừa phải,
đúng ra là một biểu hiện của sự thực
hành tâm từ bi đối với bản thân của chúng ta.
Hơn nữa, ta không thể thực hành tâm từ bi chân thật
đối với người khác nếu không có lòng
từ bi đối với bản thân. Nếu chúng ta cố gắng
để hành động một cách bi mẫn với cảm
giác bản thân không xứng đáng hay nghĩ rằng người khác quan trọng hơn ta,
thì nguyên nhân thực sự của những hành
động của chúng ta là tự làm khổ mình, chứ không phải do lòng bi mẫn
đối với người. Tương tự, nếu chúng ta hành
động với sự tự tôn lạnh lùng
đối với những người ta giúp đỡ, thì
hành động của chúng ta thực sự có thể khởi
nguồn từ lòng tự đại. Tâm từ bi chân
chính phát sinh từ trái tim rung cảm vì những
đau khổ của bản thân, qua đó phản ảnh sự khổ
đau của người. Lòng bi mẫn dành cho bản thân,
đặt nền tảng trên tình thương yêu bản
thân một cách thiện hảo, thúc giục ta vươn tay
để giúp người khác một cách thành
khẩn. Những người lính cứu hỏa là một ví dụ thích hợp cho nguyện vọng này. Họ
được biết đến vì lòng can
đảm vĩ đại khi đánh đổi bản thân họ để cứu
những người đang bị kẹt lại trong những tòa nhà
đang bốc cháy. Tuy nhiên, không phải
là họ cố ý hy sinh bản thân. Họ không lao đại
vào ngọn lửa mà không có sự chuẩn bị
để đối phó với hoàn cảnh nguy hiểm. Trái lại, họ cẩn thận
đội mũ bảo hiểm, mặc đồ bảo vệ an toàn,
và đưa ra những tính toán cẩn thận, dựa vào
sự phán đoán và tay nghề của họ
để quyết định những phương cách tốt nhất để
có thể cứu người khác mà không nguy hại
đến bản thân. Cũng thế, chúng ta tự
trang phục bằng tâm từ bi và tình thương yêu
đối với bản thân, thanh lọc mọi động lực hành
động với hết khả năng
của mình và để tâm được trở nên
trong sáng rõ ràng. Từ trạng thái trong sáng rõ ràng
đó, chúng ta có thể giúp đỡ người khác một
cách hiệu quả và cũng khuyến khích sự tiến bộ tâm linh của chính
mình. Thật ra, trong tâm ta sự phân biệt giữa bản thân và người không rõ ràng
như ta thường nghĩ. Bất cứ thái độ nào
chúng ta quen sử dụng đối với bản thân,
ta sẽ sử dụng đối với người khác, và
bất cứ thái độ nào ta thường sử dụng
với người khác, ta sẽ sử dụng trên bản thân. Như thế cũng giống như chúng
ta ăn và
đãi người khác trong cùng một cái tô. Cuối cùng thì mọi người
đều dùng chung một loại thực phẩm. Vì
thế chúng ta phải cẩn trọng với những gì ta sắp dọn lên bàn
ăn.
Khi ngồi thiền, chúng ta cần phải quán tưởng về những phản ứng của ta
đối với bản thân cũng như với người khác như
thế nào khi có điều bất như ý hay lầm
lỗi gì xảy ra. Chúng ta phản ứng bằng cách đổ lỗi hay tha thứ? Lo
lắng hay buông xả? Cứng rắn hay nhẹ nhàng? Kiên nhẫn hay nổi trận lôi
đình? Dầu nhận biết được lỗi lầm của mình,
cảm nhận được hậu quả của chúng, và
nguyện phải sửa đổi, là quan trọng,
nhưng sự tự trách và các hình thức dằn vặt, khắt khe sẽ không
đem lại ích lợi gì. Không ai cảm thấy
hạnh phúc sau khi bị la rầy, trách mắng. Người ta thường phản ứng lại bằng
sự xa lánh, trở nên giận dữ, bào chữa lỗi hay ngoan cố. Thí dụ trường hợp
một người đang tập thể dục để giảm
cân. Nếu có ngày ông ta bỏ qua buổi tập thể dục thường xuyên của mình và
nhân lên sự thất bại đó bằng cách nghĩ:
"Đồ béo, đồ lười biếng, nhà ngươi sẽ
chẳng bao giờ thay đổi được!”. Như thế thì
việc ông ta sẽ tập lại ngày mai có thể xảy ra không? Tâm chưa giác ngộ là tâm chưa được rèn
luyện. Tâm đó rất vô minh. Tâm đó rất đau
khổ. Đó là lý do tại sao chúng ta làm những
điều đáng trách. Khi nhớ rằng chúng ta
lầm lỗi chính là do chúng ta đau khổ, sẽ giúp ta rãi tâm từ bi
đến với bản thân, hơn là những phán
xét nghiêm khắc, tự hành phạt mình. Điều quan trọng là chúng ta phải quán sát những nỗ lực của bản thân
để hành thiền và
đi theo con đường của Đức Phật với một thái
độ bi mẫn. Chúng ta thực hành Bát chánh
đạo của
Đức Phật là để giải thoát khổ đau. Nếu ta lại làm tăng
thêm nỗi khổ của mình bằng cách có thái
độ phán đoán, gượng ép sự thực hành
của mình, thì chẳng bao lâu ta sẽ nghĩ ta khó thoát khỏi khổ
đau! Do
đó có thể ta sẽ cảm thấy muốn bỏ việc hành thiền. Đặc biệt các thiền sinh Tây phương hay rơi vào cái bẫy tâm linh này.
Theo quan điểm phương Đông của tôi, họ thường có vẻ đầy tham vọng, chịu
nhiều áp lực, chạy theo mục đích, và không tự tin khi họ bắt đầu hành
thiền và khi khám phá ra trạng thái tâm lăng xăng,
họ cố gắng kiềm chế nó ngay lập tức. Họ đóng chặt tâm lại và cố
gắng buộc nó hành xử theo ý mình bằng sức mạnh của ý chí. Nhưng tâm không
nghe theo lời sai khiến của ai cả. Kết quả là họ thường trở nên bức xúc,
tự phán đoán bản thân một cách nghiêm
khắc. Điều tương tự cũng có thể xảy ra cho các thiền sinh
đã có kinh nghiệm tu tập, nhưng vẫn
chưa thể đạt được mục đích tâm linh, khiến họ
trở nên thất vọng. Điều quan trọng cần nhớ đối với bất cứ thiền
sinh nào đi theo con đường của Đức Phật là
quán sát tâm và làm chủ tâm, là hai điều khác
biệt. Quán sát tâm với một thái độ cởi mở, nhẹ nhàng sẽ giúp tâm
lắng đọng, an tĩnh. Nhưng cố gắng làm
chủ tâm, hoặc cố gắng để hướng kết quả
của sự thực hành tâm linh tới một cái gì đó,
chỉ khuấy động thêm đau khổ và
phiền não. Chúng ta có thể cởi mở, làm tâm nhẹ nhàng, thư thái. Không có gì phát
sinh trong lúc hành thiền là không phải là dấu hiệu của thất bại. Chỉ có
thất bại khi ta không quán sát tâm. Nếu các pháp bất thiện phát khởi, mà
ta không thể buông bỏ chúng, cũng đừng cố gắng chống cự lại chúng hay
trách móc bản thân. Thay vào đó ta cần bình
tĩnh áp dụng Chánh Tinh Tấn với tâm từ bi để
chế ngự chúng và phấn khích tâm. Không ai đặc biệt xấu. Tất cả chúng ta đều
có những uế nhiễm giống nhau. Mọi chúng sanh chưa giác ngộ đều có
các uế nhiễm: Tham, sân, ganh tỵ, cao ngạo, âu sầu, thất vọng, thiếu kiên
nhẫn, vân vân. Khi chúng ta tập được thói
quen đối mặt với các trạng thái vô thường của tâm bằng lòng bi mẫn,
thì tâm có thể dần lắng đọng. Lúc đó, chúng
ta có thể nhìn sự vật rõ ràng hơn, và trí tuệ ta sẽ tiếp tục phát
triển. Từ Bi
Đa số chúng ta có những tình cảm cứng rắn, hằn hộc đối với cha mẹ mình.
Có người cảm thấy rất khó tha thứ cho những việc mà cha mẹ họ đã làm khi
họ còn nhỏ. Sự lạm dụng trẻ em và những hành vi sai trái khác có thể đã
khiến chúng ta đau đớn, khổ sở vô cùng. Những hành
động xấu xa này không thể tha thứ
được; mà cũng không thể quên dễ dàng.
Những gì cha mẹ ta đã làm không thể thay đổi nữa. Nhưng những gì chúng ta
đang làm ngay giây phút này có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc trong hiện tại
hay tương lai của chúng ta. Một phương cách để phát triển tâm
từ bi là nghĩ về việc cha mẹ đã phải
khổ nhọc biết bao nhiêu khi sinh chúng ta ra
đời và nuôi dưỡng chúng ta. Đức Phật đã
dạy rằng nếu bạn đặt cha mẹ, mỗi người trên
một vai, suốt đời chăm sóc cho họ đủ điều,
bạn vẫn không thể đền trả những gì họ
đã làm cho bạn. Cha mẹ đã hy
sinh giấc ngủ, sự êm ấm thoải mái, lương thực, thời gian, và năng
lực trong bao ngày, bao tháng, bao năm.
Hãy nghĩ đến sự bất lực hoàn
toàn của một em bé, thì thấy các nhu cầu của nó là nhiều biết bao. Hãy
nghĩ đến những nỗi sợ hãi mà cha mẹ
bạn đã phải trải qua khi cố gắng bảo
vệ bạn. Họ đã chăm
sóc để bạn vượt qua bệnh tật như thế nào; lo lắng
đến thế nào khi bạn gặp khó khăn,
trắc trở. Do đó, thay vì trách
móc những hành động vô minh của họ, hãy
nghĩ đến những đau khổ và phiền não mà
tâm uế nhiễm đã tạo ra cho họ khi họ
phải tranh đấu với những thử thách của việc
chăm sóc một đứa trẻ. Thử tưởng tượng xem họ đã phải
đấu tranh quyết liệt như thế nào
để thoát khỏi những bám víu và các
hành động tai hại khác do tham, sân, và
si tạo ra. Sau đó hãy nhớ rằng cha mẹ người
đã nuôi dưỡng bạn không giống như bậc
cha mẹ mà bạn biết ngày hôm nay. Thời gian đã
trôi qua và vô thường biến đổi tất cả mọi
người. Khi cha mẹ bạn đã già hơn, có thể họ
đã chín chắn hơn hay có nhiều trí tuệ
hơn. Bạn cũng có thể đã trưởng thành.
Đừng đeo bám vào những mối liên hệ
trong thời thơ ấu. Khi cha mẹ đã nhiều
tuổi, có thể bạn còn phải cần hoán chuyển vai trò và phải hỗ trợ họ
đầy đủ vật chất, tình cảm, và tâm
linh. Quan tâm đến các nhu cầu của cha mẹ có
thể khơi mở trái tim bi mẫn của bạn. Ngay nếu như cha mẹ đã chẳng
tạo dựng được gì cho bạn ngoại trừ
cuộc sống này và sự đau khổ triền miên, thì ít nhất bạn cũng phải thương
xót họ và cầu mong cho họ được hạnh phúc:
“Tôi nguyện rằng tôi có thể giúp cha mẹ được có tâm bình an." Tâm
từ bi không có giới hạn, không có ranh giới. Từ Bi
Duy trì được một cuộc sống thăng bằng
dường như khó gấp bội khi bạn phải nuôi dưỡng con cái. Giáo dục con cái
với phong cách dung hòa, không thái quá, có thể ví như
đi trên một sợi dây mong manh, treo
cách mặt đất khoảng năm thước. Ngược
lại, nếu đối đãi với chúng bằng thái
độ độc đoán, cứng nhắc có thể khiến bạn trở
thành kẻ thù của con cái mình. Mặt khác, nếu không dạy bảo chúng
những điều cơ bản, có hiểu biết về đạo đức,
thì con cái sẽ không biết về những giới hạn hay hậu quả của việc
chúng làm. Nếu con cái được thương yêu, dạy
dỗ, rèn luyện và chăm sóc bằng sự tôn trọng mà
chúng đáng được có như là một con
người, thì chúng sẽ trưởng thành nên một người lớn có trách nhiệm,
đầy lòng thương yêu, và tử tế. Con cái
của chúng ta sẽ gánh vác trách nhiệm trong cuộc sống sau khi chúng ta
đã ra đi.
Chúng có thể mang hòa bình, hạnh phúc
đến cho bạn, cho các thành viên khác trong gia
đình, cho xã hội, và cho cả thế giới. Nhưng như bất cứ cha mẹ nào cũng biết, con cái có thể khiến cho người
giỏi chịu đựng nhất cũng phải mất bình
tĩnh. Khi bạn cảm thấy mình phải đối đầu với
chúng, hãy tự nhắc mình nhớ đến một
nơi không còn có cái ngã trong trái tim. Hãy buông bỏ ý muốn mọi
thứ phải xảy ra đúng theo ý mình. Hãy
cố gắng cảm thông với quan điểm, nhu cầu, sự
sợ hãi hay quan tâm của con bạn và khi bạn
đã hiểu rõ hơn về những
điều con bạn đang phải đối mặt, thì
tim bạn dường như mềm đi với lòng
thương cảm dành cho chúng. Với một tâm thức tràn
đầy bi mẫn, thì hành
động của bạn luôn mang dáng dấp của sự tử tế,
dịu dàng, là thứ rất cần thiết để chế
ngự xung đột đối với bất cứ ai, dầu là người lớn hay trẻ em. Nếu bạn thiếu lòng bi mẫn đối với con cái,
may mắn thay, bạn vẫn có thể vun trồng nó; chỉ cần nhiều thực hành.
Không ai sinh ra đã biết cách nuôi
dưỡng một đứa trẻ như thế nào
để nó trở thành một người lớn có sức
khỏe, đầy trách nhiệm và thương yêu.
Khả năng này cần phải
được tập luyện. Nếu bạn là bậc cha mẹ,
thì trách nhiệm của bạn là phải học hỏi càng nhiều càng tốt về cách nuôi
dạy con có đạo đức, chứ không dạy chúng tham,
sân, và si. Các thói xấu này đã
có quá nhiều trên thế giới. Quan trọng hơn cả là bạn có thể biểu lộ lòng
bi mẫn đối với con bạn khi bạn dạy chúng
buông xả, thương yêu, và từ bi. Từ Bi
Thực hành lòng bi mẫn đối với người bạn
đời đòi hỏi tâm rộng lượng và kiên nhẫn. Mỗi người chúng ta
đều có cách sống khác nhau. Có người rất dễ
biểu lộ tình cảm; họ thường cười và khóc dễ dàng. Người khác thì
thấy khó nói lên những gì họ cảm nhận bên trong và không bao giờ khóc. Có
người rất hạnh phúc khi được làm việc
và thích làm thêm nhiều giờ. Người khác lại làm cho xong việc nhanh chóng
và thích dùng thời gian rảnh rỗi để đọc sách,
hành thiền, hay thăm viếng bạn bè.
Không có cung cách nào là đúng hay sai. Người
thích làm việc cũng tận hưởng cuộc đời
nhiều như người thích du lịch. Cả hai đều cố gắng để tránh khổ đau và
để được hạnh phúc càng nhiều càng tốt.
Cả hai đều có thể là những người tốt
và tử tế. Hãy chú trọng đến những cá tính tốt
của người bạn đời của bạn. Đôi khi sau một sự tranh chấp, bạn cảm thấy khắc khe hơn đối với người
bạn đời. Tình cảm sân hận vẫn tràn đầy tâm,
khiến bạn càng bảo vệ mình và xét nét những thiếu sót của người bạn
đời . Lúc
đó, có thể bạn phải cần nhiều công phu tu tập nội tâm trước khi tâm từ bi
của bạn có thể phát sinh. Khi hành thiền, bạn có thể quán tưởng về
những hành động bất thiện nơi thân, khẩu và
ý, nhận biết thấu đáo trong những trường hợp
nào bạn đã tham lam, ích kỷ,
sân hận, tỵ hiềm, hay cao ngạo. Sau đó, với
tâm cởi mở, bạn có thể xét xem những hành
động này có thể ảnh hưởng
đến người bạn đời của mình như thế
nào. Nếu bạn là người hay nổi giận thì đó là
khuyết điểm của bạn, bất kể người bạn đời
của bạn đã làm gì. Bạn có cố chấp
không? Sự bám víu và tình yêu chân thật rất khác xa nhau. Nếu những xung khắc giữa bạn với người bạn
đời không thể sửa đổi, không thể chịu
đựng nữa, thì bạn cần phải chấm dứt tình trạng
đó. Nhưng hãy ra
đi trong hòa bình, chấp nhận các
khuyết điểm của bản thân và chúc lành
cho người kia. Tại sao phải làm người kia đau
đớn thêm với sự sân hận và trách móc? Điều quan trọng là bạn không nên so sánh hành động của mình với hành
động của người bạn
đời, hay phán xét hành
động của người kia như là bất thiện.
Tốt hơn, hãy quan tâm đến hành
động của bản thân, chịu trách nhiệm vì
chúng. Hãy nhớ đến những lúc khi bạn nhìn
vào mắt của người kia và nhận ra được nỗi đau
mà bạn đã gây. Hãy tự nhắc nhở
rằng chính mình đã
đem đến khổ đau cho người mình thương
yêu. Nếu bạn có thể nhận lỗi mình, nếu bạn có thể nhìn thấy hành
động của mình
đã gây
đau khổ thế nào cho người và quan tâm
đến hạnh phúc của người kia, thì lòng bi mẫn và thương yêu sẽ tuôn
tràn trong bạn. Thí dụ sáng đó bạn gây gổ với người
phối ngẫu. Sau đó người kia về nhà,
với vẻ lạnh lùng, giận dữ, và liếc chừng xem bạn có còn giận không. Nhưng
bạn đã quán sát lỗi mình, đã mở suối
nguồn thương yêu và tâm từ bi, vì thế bạn có thể nhìn trả lại người kia
với sự ấm áp, dịu dàng. Do lòng từ bi của bạn, mối liên hệ giữa hai người
đã được hàn
gắn. CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH TƯ DUY Khi ngồi thiền, có rất nhiều thứ khởi lên trong tâm ta. Chúng ta có thể
nghe tiếng động, cảm thấy ngứa ngáy và
suy nghĩ về rất nhiều việc. Chúng ta còn có thể quên trong chốc lát rằng
mình đang hành thiền và rằng mình
đang cố gắng trụ tâm vào hơi thở.
Chuyện đó cũng tự nhiên thôi; nó xảy ra cho tất cả mọi người. Khi đánh mất
sự chú tâm vào hơi thở, ta cần nhanh chóng nhận ra điều đó, nhận biết sự
vô thường của nó – nó đã phát khởi,
tăng trưởng, rồi hoại diệt như thế nào. Sau
đó chúng ta quay trở về với hơi thở.
Tuy nhiên có một số tư tưởng hay trạng thái tâm rất lắc léo, đòi hỏi
một sự quan tâm đặc biệt: đó là các tâm pháp bất thiện phát khởi từ tham,
sân, si, bất cứ khi nào chúng ta thiếu chánh niệm. Trí tuệ không thể phát
triển khi tâm chìm đắm trong các pháp bất thiện. Không chỉ là chúng ta đã
lãng phí thời gian, lại làm cho thân đau đớn,
mà ta còn làm mạnh thêm các tâm hành là nhân tạo ra mọi khổ
đau. Chúng ta phải chế ngự các tư tưởng bất
thiện ngay lập tức, nhanh chóng đẩy chúng ra khỏi tâm với chánh niệm trước
khi chúng chế ngự ta, phát triển, và chiếm trọn thời gian hành
thiền của ta. Đôi khi những tư tưởng như thế sẽ qua đi chỉ bằng một hành động đơn
giản là nhanh chóng nhận ra sự vô thường của chúng. Lại có khi ta phải
phát khởi tinh tấn mạnh mẽ để chế ngự chúng. Chúng ta sẽ bàn đến một vài
phương cách để thực hiện điều này trong chương về Chánh Tinh Tấn. Một khi
tư tưởng bất thiện đã bị chế ngự, ta
trở lại với hơi thở với một mức độ chú tâm
sâu lắng hơn. Nếu một tư tưởng tiêu cực khác phát khởi, ta lặp lại
những nỗ lực này. Mỗi lần một tâm pháp bất thiện bị chế ngự, là ta lại
tiến sâu hơn trong định.
Dần dần, ta nhận ra rằng sự chú tâm của mình
đã vững chãi
đến nỗi mọi tâm pháp khác đều không xuất hiện
nữa. Có thể phải cần rất nhiều công phu hành thiền trước khi
đạt được trạng thái định tĩnh này, hay
nó cũng có thể xảy ra một cách nhanh chóng. Một khi
đã đạt
được thiền định sâu lắng, chúng ta dùng trạng thái tâm mạnh mẽ này
để quay trở lại với sự thực hành chánh
niệm, lại quán sát các đối tượng khi chúng
khiến ta chú tâm đến. Vì các suy nghĩ
đã lắng đọng, ta quán sát các đối
tượng khác, như là thân thọ hay các
đặc tính tâm tích cực như hỷ hay xả. Chúng ta chú tâm vào tính chất
vô thường và các đặc tính liên quan
của những đối tượng này, giống như
trước đó, nhưng với tâm định mạnh mẽ, tuệ
giác sẽ phát triển một cách nhanh chóng. Khi nào mà trạng thái
định sâu lắng còn kéo dài thì không có
tư tưởng bất thiện nào phát sinh để ngăn trở
sự hành thiền của ta. Tuy nhiên, cho đến khi đạt được mức độ
định tĩnh đó, chúng ta phải đối phó một cách khôn khéo với các tâm pháp
bất thiện khi chúng phát sinh. Ta phải
đương đầu giải quyết các tâm pháp này bất cứ khi nào chúng phát
sinh, ngay cả những lúc không tọa thiền. Chánh niệm về chánh tư duy muốn
ám chỉ đến tất cả những nỗ lực này. Một trong những phương pháp để đối trị một
tư tưởng bất thiện là phân tích các hậu quả tai hại của tư tưởng
đó. Bạn có thể thấy là nó bại hoại tâm
bạn như thế nào. Bạn có thể thấy thói quen suy nghĩ tiêu cực khiến cuộc
sống bạn khó khăn như thế nào. Rồi thì
bạn mới có thể vun trồng điều ngược lại, một
tư tưởng thiện, như là cảm giác của lòng bi mẫn.
Đây là cơ hội tốt
để bạn nhìn lại mình và thay
đổi cuộc đời bạn bằng cách thay đổi cách suy
nghĩ.
Người ta thường hỏi tôi: "Làm sao chúng tôi có thể kết hợp việc hành
thiền vào cuộc sống hằng ngày?" Tôi thường trả lời bằng những câu hỏi tôi
đặt cho chính mình: "Ta
đã làm gì khi ngồi trên chiếu thiền?
Ta chỉ chú tâm vào hơi thở thôi sao?" Nếu đó
là tất cả những gì bạn làm, thì bạn
đang sống hai cuộc sống khác nhau: Cuộc sống trên gối thiền và cuộc
sống bình thường hằng ngày. Có rất nhiều việc phải làm khi bạn hành thiền. Cũng những trạng thái
tâm uế nhiễm tạo ra bao vấn đề trong cuộc
sống đời thường của ta – tham lam, sợ hãi, sân hận, ganh tỵ, tự
trách– chúng cũng có mặt khi ta hành thiền. Chúng có thể xuất hiện dưới
dạng của tư tưởng bất thiện bất cứ khi nào ta
để sự chú tâm hay chánh niệm lơ lỏng.
Đầu tiên chúng ta phải cố gắng để buông bỏ các tâm pháp này. Ta làm thế
vừa để thanh tịnh tâm ngay giây phút đó vừa để luyện tâm có thói quen tự
thanh tịnh hóa. Khi có tâm pháp nào quá mạnh
đến nỗi dầu ta nỗ lực đến bao nhiêu,
nó vẫn không lui bước, thì đó là dấu
hiệu cho ta biết ta còn phải tích cực nhiều hơn nữa. Ta phải quán sát thật
thấu đáo các tâm pháp này và mang
chúng ra thực hành để phát triển tuệ giác
trong cuộc sống.
Thí dụ khi đang hành thiền chúng ta
bị chìm đắm trong những tư tưởng sân hận về
việc bị một người lạ xúc phạm. Ta đã
thử nhiều cách để chế ngự các tư tưởng này,
nhưng chúng không qua đi. Vì thế ta
quán sát chúng. Đầu tiên, ta xét xem
tâm pháp này ảnh hưởng đến việc hành
thiền của chúng ta như thế nào, nó đã
tạo ra sự căng thẳng nơi thân và ảnh
hưởng đến huyết áp của ta như thế nào,
nó đã khiến ta vẫn còn ác cảm với
người kia như thế nào. Ta nhận thấy rằng những tư tưởng sân hận
đó không tốt, vì chúng tổn hại ta, ảnh
hưởng xấu đến tâm ta
đến nỗi ta có thể làm hại người khác.
Kế tiếp, có thể ta sẽ nghĩ về việc nếu người khác biết ta
đang suy nghĩ gì thì thật đáng xấu hổ
làm sao, và ta phát khởi một cảm giác xấu hổ vì
đã để
những tư tưởng như thế làm chủ tâm ta. Phương cách quán sát này
thường tạo ra đủ không gian để giải
thoát tâm khỏi các trạng thái tiêu cực. Một khi tâm đã lắng
đọng, ta có thể quán sát ý nghĩ của
mình một cách sâu lắng hơn, quán tưởng về nguyên nhân tạo ra chúng. Tại
sao ta vẫn còn bực bội sau khi đã bị
xúc phạm? Ta tự hỏi: "Tôi bám víu vào điều gì
khiến sự xúc phạm đó cứ hằn trong tâm trí?"
Chúng ta có thể khám phá ra rằng nguyên nhân chính là một
điều gì
đó đã xảy ra trong quá khứ, không liên quan gì
đến sự xúc phạm trong hiện tại. Kế tiếp ta nghĩ: Thôi được, đúng là
người đó đã xúc phạm ta nhưng ta
đã làm gì khiến anh ta nổi giận? Có
phải là ta quá vội vả hay quá tham lam? Quá cao ngạo? Có thể ta không có
ác ý, nhưng ta biết trước đây ta
đã từng làm người khác bực mình như
thế. Lần sau ta sẽ cư xử tốt hơn. Như vậy do quán tưởng về các động lực và
hành động bất thiện của mình, chúng ta quyết tâm sửa
đổi. Một khi
đã thấy
được phần lỗi của mình trong sự xung
đột này, ta có thể phát khởi tâm từ bi
đối với người đã rất đau khổ đến nỗi
anh ta cần phải trả đũa lại bằng cách xúc phạm ta. Phương cách tự quán sát này là một phần rất quan trọng trong việc hành
thiền. Trước khi đạt đến giác ngộ, chính Đức
Phật cũng đã thực hành bằng cách này, sử dụng các tâm pháp uế nhiễm
như là một phương tiện để nhìn vào nội
tâm và sửa đổi lỗi lầm. Khi tọa thiền
trong rừng trước khi giác ngộ, Đức Phật đã
tự nhủ, "Tôi có khuyết điểm này. Tôi
đã làm
điều kia trong quá khứ. Từ nay trở đi, hành
động của tôi phải khác đi.”
Bạn cũng có thể làm như thế. Nếu bạn nhớ lại một trường hợp nào
đó khi bạn nói lời cộc cằn với một em bé và
nhận thấy trong đôi mắt em sự tổn thương,
hoang mang, bạn có thể sửa đổi bằng cách xin lỗi và trong tương lai
cố gắng nói năng dịu dàng hơn. Hoặc
bạn có thể nhớ lại một cuộc trao đổi khi bạn
cố bám giữ lấy quan điểm sai lầm của mình một cách ngoan cố, thì
lần sau, hãy quyết tâm buông bỏ sự bám víu một cách nhẹ nhàng. Nếu một ham muốn phát sinh dai dẳng, như là muốn
ăn kem hay muốn mua một đĩa CD mới, bạn cũng
có thể dùng cơ hội này để vun trồng
điều ngược lại, đó là tâm bố thí. Bạn có thể nghĩ, "Thật sự tôi
chưa cần ngay bây giờ. Tôi có thể buông xả ham muốn này." Nếu bạn là người
có tấm lòng rộng rãi, cởi mở, thì dần dần sự ham muốn dục lạc
đó sẽ giảm dần. Lúc đó bạn có thể nhận ra
những ham muốn của mình nhỏ mọn hay
đầy chấp ngã như thế nào. Thực hành như thế, bạn sẽ hiểu về bản
chất của tham ái hơn. Sau khi dùng sự hiểu biết mới mẻ này
để sửa đổi cách suy nghĩ của bạn, hãy
trở về với hơi thở. Một phương cách hữu hiệu khác nữa là khi tư tưởng của bạn quay cuồng
không kiểm soát được và tâm bạn
đầy đau khổ, bồn chồn, lo âu, là dùng
chính cái khổ của bạn để vun trồng các tâm
pháp thiện của tâm từ bi. Thấy được cái khổ trong tâm, bạn quán tưởng xem
nỗi khổ này ảnh hưởng đến người khác
như thế nào: "Hoàn cảnh này không chỉ có tôi là phải chịu. Mọi
người cũng đã trải qua và hiện giờ còn
có nhiều người đang khổ hơn tôi nữa.”
Một thiền sinh đã kể rằng có lần
anh cảm thấy rất đỗi buồn nản. Một
ngày kia đang đi một mình trong công
viên, anh nhìn thấy một mảnh giấy báo. Anh lượm lên và
đọc về câu chuyện của một người đang bước
đi trong vô vàn
đau đớn vì anh ta chỉ có một chiếc
giày. Khi anh lê bước, bàn chân trần của anh lạnh cóng, nứt nẻ. Người
đàn ông chỉ có một chiếc giày
đi ngang qua một người chỉ có một chân. Lòng
biết ơn tràn ngập trái tim anh. "Ít nhất tôi cũng còn cả hai chân!" Người
đàn ông tự nhủ, và nỗi khổ của anh
biến mất. Đọc câu chuyện này, người
thiền sinh đó cảm thấy một làn sóng
của lòng bi mẫn dâng tràn cho những người
đang đau khổ hơn anh, và mọi buồn nản biến mất. Bạn cũng có thể sử dụng một phương cách tương tự bất cứ khi nào những
tư tưởng khổ đau, sân hận, khổ não
tràn đầy trong tâm bạn. Chỉ cần dừng lại và
tự hỏi mình: "Tại sao tôi phải than van? Đầu
óc tôi vẫn còn hoạt động. Tôi vẫn còn
tất cả các giác quan. Tôi được biết đến giáo
lý, và có thời gian cũng như một nơi chốn
để hành thiền. So với nhiều người trên
thế giới, tôi sống một cách đầy đủ. Hàng
triệu người không có nhà, không thực phẩm, không hy vọng. Thay vì cảm thấy
đau khổ, hãy
để tôi vun trồng tâm từ bi cho những người này."
Tâm từ bi làm lắng dịu sự suy nghĩ của ta, để
ta có thể trở về với hơi thở với một tâm an định và vững chãi hơn. Phương cách tu tập này không chỉ dành cho những thời khóa ngồi thiền
nghiêm túc. Khi tọa thiền chúng ta làm gì, thì ta cũng phải làm như thế
trong từng giây phút khác. Ta mang sự rèn luyện về chánh niệm vào cuộc
sống hằng ngày và ứng dụng nó trong mọi trường hợp: trên xe buýt, ở sở
làm, lúc bệnh tật, khi khỏe mạnh. Nếu không, thì ngồi trên gối thiền hằng
giờ liệu có ích lợi gì? Phải dùng mọi nỗ lực
để tránh hay buông bỏ những trạng thái tâm bất thiện và khuyến
khích tâm pháp thiện, giống như khi bạn đang
hành thiền. Thực hành bằng cách này ngoài những lúc tọa thiền là
một thử thách mạnh mẽ, vì mỗi ngày mang đến
cho chúng ta không biết bao nhiêu cơ hội
để lãng quên do những hành
động tham, sân, si đối với những điều mắt
thấy tai nghe.
Thí dụ bạn đang đi mua sắm ở một thương
xá và thấy vài món hàng rất đẹp mắt trong các
cửa tiệm. Do tâm chưa được rèn
luyện, bạn không thể rời mắt đi chỗ khác. Bạn
bước vào tiệm và ngắm nghía món đồ.
Bạn cảm thấy bạn không thể bước trở ra khỏi tiệm mà không mua một
hay hai món đồ. Có thể bạn không mang theo
tiền, nhưng bạn có thẻ tín dụng nên bạn vẫn mua hàng. Để thực hành Chánh Tư Duy, bạn phải tự dừng lại trong quá trình này,
giống như bạn vẫn làm khi nhận ra một tư tưởng bất thiện lúc tọa thiền.
Trước hết, hãy kiểm soát và xác định tư tưởng, cảm giác của bạn. Hãy tự
hỏi có phải do lòng tham, sợ hãi hay sự thiếu tự tin khiến bạn phải mua
sắm một cách không cần thiết. Rồi hãy lý luận với bản thân: "Tôi dùng thẻ
để trả tiền. Tôi có thực sự muốn mang thêm
nợ không?" Ngay nếu như bạn có rất nhiều tiền, cũng rất quan trọng
để thanh lọc sự tham đắm khỏi quá trình
tư duy của bạn. Hãy tự hỏi, "Món đồ này
có cần thiết không, hay tôi mua nó vì lý do gì khác? Có phải tôi chỉ muốn
gây ấn tượng với người khác? Không phải là tôi
đã có một vài thứ tương tự
đang nằm đóng bụi trong hộc tủ sao?” Bạn cũng
có thể hỏi, “Có cách nào sử dụng tiền này tốt hơn,
để giúp người khác được không?”
Nếu bạn không chắc chắn về động lực của mình,
có lẽ vì lòng tham và nhu cầu trộn lẫn vào nhau, hay vì lòng ham muốn quá
thôi thúc, hãy tự hỏi bạn: "Có cần phải mua ngay không? Tôi có thể bỏ qua
bây giờ và trở lại tuần tới không? Tôi có thể nhờ cô bán hàng giữ món
đồ đó trong khi tôi suy nghĩ lại không?” Cách
lý luận này áp dụng một cách khéo léo những thói quen tốt mà chúng
ta đã rèn luyện
được trên chiếu thiền. Những sự rèn luyện như thế chắc chắn sẽ rất hữu ích khi ta phải
đối đầu với những thử thách khó khăn hơn. Có
lần tôi đã phải sử dụng sự rèn luyện về Chánh Tư Duy
để chế ngự sự sợ hãi trong một hoàn
cảnh nguy hiểm thật sự. Đó là khi tôi nhận được tin mẹ tôi bị bệnh nặng. Trên đường từ
Washington D.C đi Tích Lan, tôi đổi máy bay sang một chiếc phản lực lớn ở
Hawaii. Một hay hai giờ sau khi máy bay rời khỏi Hawaii, tôi nhìn ra ngoài
cửa sổ và nhận thấy lửa bốc ra từ đầu máy bay. Lúc
đó người phi công loan báo trên loa
rằng đầu máy bay bị cháy và chúng tôi
phải quay lui. Ông bảo các cô tiếp viên hàng không hướng dẫn chúng tôi làm
thế nào ra khỏi máy bay nếu chúng tôi quay trở về Hawaii được. Người tiếp viên hàng không bảo chúng tôi ngồi im lặng với dây an toàn
được cài chặt. Khi máy bay dừng lại,
đèn dưới sàn máy bay dẫn chúng tôi ra
tám cánh cửa khẩn cấp. Cửa tự động mở và
những cầu thang cứu cấp phụt ra. Chúng tôi phải chạy ngay
đến chỗ cửa thoát hiểm, không được chần chứ
giây phút nào, tuột xuống cầu thang và chạy xa khỏi máy bay. Tôi nghĩ rằng ít người hiểu hết những lời hướng dẫn này. Ngay giây phút
người phi công thông báo rằng đầu máy bay bị
cháy, tất cả mọi người trong cabin đều có vẻ hoảng hốt vì sợ chết.
Người thì làm dấu thánh giá, các đôi vợ chồng
ôm chặt nhau, người thì khóc, người thì nhìn rất căng
thẳng và lo âu. Tôi đã nghĩ, "Nếu
đây là lúc tôi phải chết, thì cách gì
tôi cũng chết, dầu tôi có sợ hay không. Vì thế tôi phải giữ cho tâm thật
an tĩnh." Trước hết tôi hồi tưởng đến những
tri thức về cái chết là gì. Tôi coi cái chết là
điều không thể tránh, và
đây là thời
điểm tốt để tôi chết, vì tôi
đã làm những việc tốt và tôi không có
gì để ân hận. Sau
đó tôi nghĩ đến những cảnh tượng có thể xảy
ra. “Nếu máy bay rơi nhanh từ độ cao khoảng hơn mười ngàn mét thì
chúng tôi sẽ bất tĩnh trước khi máy bay rớt xuống biển." Tôi không biết
theo khoa học điều này có
đúng không, nhưng lúc đó tôi nghĩ như thế.
Tôi tự nhủ mình, "Ta phải giữ tâm thật trong sáng, thật thanh tịnh
trước bất tĩnh. Đây là lúc ta phải
dùng chánh niệm để chấp nhận cái chết không
thể tránh. Nếu ta chết một cách nhẹ nhàng với trạng thái tâm thức
trong sạch, thanh tịnh, thì kiếp sống trong tương lai sẽ tốt hơn. Có thể
ta sẽ đạt được trạng thái giác ngộ qua việc
thấy được chân lý của vô thường. Ta không nên
để sợ hãi hay hoảng hốt làm bấn loạn
tâm. Dầu sự bám víu vào cuộc sống của ta có mạnh mẽ tới
đâu, ta cũng phải buông xả sự bám víu đó ngay
bây giờ.” Như vậy là tôi đã nỗ
lực để cản trở bất cứ trạng thái tâm bất
thiện nào có thể phát sinh khi đối
diện với cái chết và khuyến khích những trạng thái tâm tích cực
phát sinh. Có thể tôi quá kinh ngạc để cảm thấy sợ hãi,
nên tôi không cảm thấy sợ. Tôi thật sự thích thú ngắm nhìn ngọn lửa bốc
lên từ đầu máy bay ở độ cao hơn mười một ngàn
mét! Ngọn lửa có màu xanh, vàng và đỏ. Rất ít
khi bạn thấy được một ngọn lửa xanh như vậy. Đôi khi chúng bùng
phát; đôi khi chúng lụi tàn. Trong
chúng giống như pháo hoa. Trong khi tôi tận hưởng sự kiện này, khoảng ba
trăm người khác trên máy bay
đang vô cùng
đau khổ. Thỉnh thỏang tôi quan sát các
vị hành khách khác và có thể thấy những khổ
đau mà họ phải chịu khi nghĩ đến cái
chết. Họ có vẻ như đã chết trước khi thực sự tắt thở. Tuy nhiên,
tôi để ý rằng các em nhỏ hình như
không bị ảnh hưởng. Chúng vẫn cười giỡn như trước khi có cuộc hỗn loạn xảy
ra. Tôi nghĩ, "Hãy thử đặt mình vào
chỗ của chúng, với tâm như trẻ con." Chúng tôi đến được Hawaii và máy
bay đáp xuống trong tình trạng khẩn
cấp. Chúng tôi ra bằng cửa khẩn cấp như đã
được hướng dẫn, tuột xuống cầu phao.
Đó là một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với
tôi. Có thể mọi người khác trên máy bay
đều ít nhất có lần chơi cầu tuột khi còn
nhỏ, nhưng tôi chẳng bao giờ có được điều đó
ở trong ngôi làng nghèo khó nơi tôi lớn lên. Do
đó cho tới lúc cuối tai nạn, tôi vẫn
còn hào hứng. TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH TƯ DUY Như chúng ta đã nhận biết, hành
trình trên con đường đưa đến hạnh phúc của
Đức Phật đòi hỏi ta phải áp dụng vào cuộc sống thực tại mọi bước
trong Bát Chánh Đạo. Chúng ta cần có đối
tượng để nhận lãnh những món quà hào phóng của ta. Chúng ta cần có
bạn cũng như kẻ thù để khơi động tình
bằng hữu. Chúng ta cần những con người đau
khổ để phát triển lòng nhân ái của ta. Xã hội loài người cung cấp
cho ta một môi trường hoàn hảo để thử nghiệm
những điểm chính yếu của Chánh Tư Duy:
- Khi Chánh Kiến đã
được phát triển, Chánh Tư Duy sẽ tự nhiên
tiếp nối theo sau. - Tư duy có thể khiến chúng ta hạnh phúc hay
đau khổ.
- Đức Phật đã hướng chúng ta đến ba tư
tưởng thiện xảo: buông xả hay bố thí trong ý nghĩa cao thượng nhất,
tình thương yêu và tâm từ bi. - Hãy bắt đầu thực hành bố thí bằng
cách cho đi những của cải vật chất.
- Bám víu vào bất cứ điều gì -sắc,
thọ, tưởng, hành, hay thức- đều đem lại đau
khổ.
- Khi tâm sợ hãi phát sinh, hãy quán sát nó phát triển, rồi qua
đi như thế nào. - Tình thương yêu, là cảm giác của sự tương quan với tất cả mọi chúng
sanh và là ước muốn chân thành mong tất cả được hạnh phúc, tạo ra những
ảnh hưởng rất sâu đậm. - Sân hận cuối cùng sẽ gây tổn hại cho ta nhiều hơn người khiến ta nổi
sân; hãy rèn luyện để chế ngự cơn giận của
mình. - Chánh niệm có thể giúp chúng ta giảm thiểu và dần dần
đoạn diệt sân hận.
- Lòng bi mẫn (tâm từ bi) là một cảm giác rung
động trong lòng khi thấy người khác
đau khổ, cộng với ước muốn giải thoát
nỗi khổ cho họ. - Phát khởi tâm từ bi đối với bản thân,
với cha mẹ, con cái và người phối ngẫu sẽ giúp bạn an tĩnh và làm
êm dịu trái tim bạn. - Trong lúc tọa thiền nếu có những tâm pháp bất thiện phát sinh, thì
chúng sẽ nhanh chóng qua đi, nếu bạn chỉ chú
tâm đến tính chất vô thường của chúng.
- Nếu dòng tư tưởng tiêu cực vẫn lảng vảng trong tâm, dầu chúng ta đã
cố gắng hết sức, thì đó là dấu hiệu để chúng ta quán sát nó thấu
đáo hơn -để phát triển tuệ giác đối
với các thói quen hằng ngày. - Quán tưởng về những tâm pháp bất thiện là một phần quan trọng trong
sự hành thiền. - Thực hành Chánh Tư Duy khi ngồi thiền có thể giúp chúng ta kiểm soát
được sự sợ hãi, sân hận, và tham luyến
trong cuộc sống đời thường.
-ooOoo- Bước 3
Hãy thử nghĩ xem bạn đã bao lần tự
nhủ như thế này, "Phải chi tôi đừng nói những
lời như thế,” hay “Nhìn nét mặt, tôi biết những lời tôi nói
đã xúc phạm
đến bạn.” Những lời nói không khéo, những lời
nói quá đáng mang đến cho ta bao phiền não. Khi nói dối, chúng ta
bị lộ tẩy. Nói xấu bạn, ta gây bao phiền phức cho bạn; nói năng
thiếu nghĩ suy, ta làm phật lòng khách hàng hay bè bạn; nói chuyện
phù phiếm, ta mất thời gian và không làm được
việc gì. Những thói xấu trong lời nói không phải là
điều mới lạ gì. Đức Phật đã coi
việc rèn luyện chánh ngữ rất quan trọng đến
sự phát triển cá tính và tâm linh đến
nỗi Ngài đã tạo ra một ngành
riêng biệt cho nó trong Bát Chánh đạo, con
đường đưa đến hạnh phúc. Đức Phật dạy rằng, Chánh Ngữ có bốn đặc tính:
Chúng là những lời chân thật, Chúng khiến người ta phấn khởi, không
phải là những lời ác độc hay cay đắng mà
đem lại niềm vui. Chúng nhẹ nhàng,
không thô lỗ hay cộc cằn. Chúng khiêm cung, không vô ích hay vô nghĩa. Đức Phật dạy rằng, người thường nói lời dịu dàng, tử tế, sẽ nhanh chóng
được tin cậy và tôn trọng. Người như thế sẽ được hưởng một trạng thái tâm
bình lặng và thanh tịnh và có thể giao tiếp với người khác một cách thân
thiện. Thí dụ, bạn có để ý rằng người ta
thường nói với bạn bằng cung cách mà họ nghe bạn nói không? Nếu ta
thường phóng đại hay nói dối, người
khác cũng thấy dễ nói dối lại với chúng ta. Nếu ta có thói quen nói xiên
xỏ, người khác cũng thấy dễ nói cộc cằn trở lại. Ngược lại cũng thế. Nếu
chúng ta thường nói lời chân thật, thì lời nói của ta
được người tin hơn. Nếu ta thường kín miệng,
người khác cũng khó nói xấu về ta. Nếu lời nói của ta luôn tử tế, dịu dàng,
người khác cũng thấy xấu hổ khi dùng lời thô tục hay cộc cằn trước mặt ta. Rõ ràng là lời nói tạo ra một môi trường để chúng ta vun vén cho hạnh
phúc hay phá hoại nó. Chúng ta biết như thế vì chính kinh nghiệm bản thân
cho ta thấy rằng ta hành động hay nghĩ suy
như thế nào là do ảnh hưởng nặng nề của những lời nói ở quanh ta.
Một trong những vị tỳ kheo ni đầu tiên
của Đức Phật đã có nhận xét bằng thơ
văn như sau: Nếu kết thân với thiện tri thức, Nếu muốn được trở nên khôn ngoan,
chúng ta không những phải tìm thiện hữu tri thức, mà còn phải là thiện tri
thức đối với người khác. Để làm
được như thế đòi hỏi chúng ta phải có
sự nỗ lực đầy chánh niệm trong việc thực hành
Chánh Ngữ. Một câu chuyện dân gian Phật giáo
đã minh họa lời nói có thể ảnh hưởng mạnh mẽ
đến hành
động của chúng ta như thế nào: Một vị tu sĩ trong tăng đoàn của
Đức Phật có thói quen dự những bữa ăn thịnh
soạn với một nhóm người do tu sĩ đầy ác hạnh, Bồ Đề Đạt Đa dẫn dắt. Bị cám
dỗ trước những món ăn ngon mà những người này cúng dường, vị tu sĩ
kia thường dành nhiều thời gian giao du với
đám bạn bất thiện này. Đức Phật đã
quở trách vị tỳ kheo vì đã chọn những
người bạn như thế và cảnh cáo ông về những hậu quả của hành
động đó. Để thuyết phục vị tỳ kheo đó thay
đổi thái độ, Đức Phật đã kể cho ông nghe câu chuyện về một sự kiện
đã xảy ra trong kiếp trước, trong
đó vị tỳ kheo đã bị
đi lầm lạc bởi những lời bất thiện, cộc cằn
của những người ở quanh ông. Đức Phật nói, trong một tiền kiếp, vị tỳ kheo là một con voi to lớn
thuộc dưới quyền nhà vua. Con voi này được biết đến vì dáng vẻ khoan thai,
dịu dàng của nó. Rồi một nhóm đạo tặc có thói quen tụ tập gần chuồng voi
mỗi đêm để bàn thảo về những âm mưu đen tối của họ. Họ nói với nhau một
cách cộc cằn và khuyến khích nhau phạm tội sát nhân cũng như các những
hành động độc ác khác. Con voi bắt đầu tin
rằng những lời thô tục kia cốt ý là để
dạy nó rằng nó phải hành động một cách
tương tự như thế. Kết quả là con voi dịu hiền trước
đây trở thành một con voi dữ, giết hại
bất cứ ai muốn đến gần nó.
Nhà vua là người chủ voi gửi một vị đại
thần – là vị Phật tương lai- đến để
xét xem điều gì đã làm hư con
voi hiền kia. Vị đại thần đã nghe
được những lời nói ác độc của bọn cướp và
nhận thấy chúng đã ảnh hưởng
đến con voi như thế nào. Ông khuyên
nhà vua hãy gởi những vị thánh hiền học cao hiểu rộng, có tiếng vì những
lời nói dịu dàng của họ, đến để nói chuyện
gần chuồng voi mỗi đêm. Những lời nói thân thiện và tốt
đẹp chẳng bao lâu ảnh hưởng đến con voi khiến
nó trở về với bản chất hiền lành và nó chẳng bao giờ ác
độc nữa. (J 26)
Chánh ngữ có thể cải thiện cuộc sống của ta về nhiều phương diện. Giá
như ta chẳng bao giờ phải hối hận về bất cứ
điều gì ta đã nói! Chúng ta sẽ trút
được bao gánh nặng.
Hãy phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính
của Chánh Ngữ, xét xem chúng có thể giúp ta như thế nào trên con
đường đi đến hạnh phúc.
NÓI SỰ THẬT Đặc tính đầu tiên của Chánh Ngữ là luôn nói sự thật. Đức Phật dạy chúng
ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích của bản thân, hay lợi ích của ai
đó, hay vì bất cứ sự lợi ích gì. Đức Phật đã tóm tắt những lời hướng dẫn
cho việc nói sự thật như sau: Khi (ai đó) được hỏi làm nhân
chứng, "Này bạn, hãy nói những gì bạn biết": khi biết, thì nói, "tôi
biết"; không biết, thì nói, "Tôi không biết"; không thấy, thì nói, "Tôi
không thấy"; nếu thấy, thì nói, "Tôi thấy"; không cố ý nói sai sự thật vì
ích lợi của mình hay của ai đó, hay cho những
lợi ích tầm thường trong thế gian. (M 41) Cũng có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi
mà thái độ im lặng cũng hàm ý
một sự trả lời gì đó. Nếu sự im lặng
của chúng ta sẽ phản ảnh một điều sai sự
thật, thì chúng ta phải lên tiếng. Thí dụ, một người cảnh sát
điều tra ở một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám
đông đứng quanh là họ có nhìn thấy gì không. Nếu mọi người
đều giữ im lặng, vị cảnh sát sẽ kết luận rằng
không có ai chứng kiến sự việc xảy ra. Nếu có ai đó trong đám đông là
nhân chứng, thì họ đã nói dối bằng
cách giữ yên lặng. Họ có thể cảm thấy rằng mình có
đầy đủ lý do để không nói gì như là sợ
bị trả thù, nhưng sự im lặng của họ dầu gì cũng là một sự dối trá. Chúng
ta cũng có thể nói dối bằng ngôn ngữ của thân.
Đôi khi một cái nhún vai hay nhíu mày
có thể bị lầm hiểu là "Tôi không biết", nhưng nếu bạn thực sự biết, thì
cái nhún vai của bạn là một sự lừa dối. Tuy nhiên cũng có những trường hợp, khi sự thật cần phải
được giữ kín vì nếu nói ra có thể làm
hại người khác. Trong những trường hợp như thế, chúng ta phải
đợi đến lúc thích hợp để nói lời thích hợp
cho người thích hợp. Chính Đức Phật cũng thường giữ yên lặng khi
câu trả lời của Ngài có thể làm tổn hại đến
ai đó. Có lần một người đã tham vấn với
Đức Phật rằng có đời sống sau khi chết không.
Đức Phật chỉ ngồi giữ im lặng cho đến khi người kia bỏ cuộc và
đi nơi khác. Sau đó, Ananda, thị giả của Ngài,
thưa hỏi vì sao Phật không trả lời. Đức Phật
giải thích rằng bất cứ câu trả lời nào cũng sẽ khiến người kia
đau khổ. Nếu Ngài trả lời rằng có một
đời sống sau khi chết, Đức Phật biết rằng
người đó sẽ suy luận rằng có một bản ngã hiện hữu bất diệt, là một
tri thức sai lầm đưa đến khổ đau. Nhưng nếu
Ngài trả lời rằng không, người kia cũng sẽ phát triển một sự hiểu
lầm khác, khi nghĩ rằng, "Nếu thế thì tôi sẽ không còn tái sinh nữa!" và
sẽ đau khổ vô cùng vì
điều đó. Để tránh làm người
đó đau khổ, Đức Phật quyết định giữ im lặng.
Đức Phật đã đặt ra những quy ước theo đó mà Ngài quyết định là sẽ trả
lời hay giữ yên lặng. Nếu Ngài biết điều gì đó không đúng, sai sự thật,
hay không ích lợi, thì Ngài sẽ không nói điều đó. "Những lời như thế [Đức
Phật] không nói". Nếu Ngài biết một điều gì
đó là
đúng, là có thật, là ích lợi, thì "[Đức
Phật] biết lúc để sử dụng lời nói.” Nếu lời nói của Ngài là
đúng, là sự thật, có ích lợi, và
đúng thời điểm, thì
Đức Phật sẽ nói dầu rằng những lời của Ngài
sẽ "bị người khác chống đối hay không đồng
ý,” hay “được người khác tiếp nhận và
đồng ý.” (M 58) Với lòng bi mẫn sâu xa và chú tâm hoàn toàn
đến lợi ích của người, Đức Phật chẳng bao giờ
nói để “làm vừa lòng người khác." Chúng ta có thể học rất nhiều từ
đức hạnh của Ngài. Khi tôi định nói những lời không đúng theo
quy ước của Đức Phật, tôi tự nhắc nhở rằng nếu mở lời, tôi không được ích
lợi gì, mà cũng không ai được gì,
hay mất gì bởi sự im lặng của tôi. Thí dụ, tôi
đang trao đổi với bạn bè, một trong
những người đó làm chủ câu chuyện. Tôi
cũng có điều để nói và cảm thấy mất
kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tôi quán tưởng những
điều tôi muốn nói và biết rằng chúng
đúng đối với các sự kiện đã qua, đúng
đối với các dữ liệu đang có và chúng sẽ ích lợi cho người nghe. Tuy
nhiên, nếu tôi nói ra ngay lập tức, tôi sẽ xúc phạm người
đang nói. Như thế là không
đúng thời điểm, nên tôi lại tự nhủ
rằng tôi sẽ không được lợi ích gì nếu
nói không đúng thời điểm, mà cũng
không có ai được ích lợi, hay mất mát gì
bởi sự im lặng của tôi. Tôi có thể nói những gì cần nói ở lúc khác. LỜI NÓI KHÔNG PHẢI LÀ VŨ KHÍ Tính chất thứ hai của Chánh Ngữ là tránh nói thâm
độc (tà ngữ). Như một câu nói dân gian
đã dạy rằng: "Lưỡi là một vũ khí không
có xương bị dính giữa hai hàm răng.” Khi
chúng ta nói lời cay độc, lưỡi tuôn ra những gươm đao. Những lời đó sẽ
khiến người ta mất danh dự, mất uy tín. Dầu điều mà chúng ta nói về
ai đó đúng sự thật, nhưng nếu mục đích nói là
để gây tổn hại cho người đó, thì là
thâm độc.
Đức Phật định nghĩa tà ngữ là những lời nói sẽ cắt đứt tình bằng hữu
giữa hai người. Đây là một thí dụ: Giả dụ trong một chuyến đi tôi gặp một
người quen của bạn tôi, đang sống ở xa. Tôi nhớ rằng vài tháng trước đó,
bạn tôi đã kể một câu chuyện chẳng hay ho gì về người này. Tôi có thể
không nhớ hoàn toàn câu chuyện, nên đã
thêm thắt một ít khi lặp lại câu chuyện. Tôi còn làm cho nó có vẻ như tôi
đang giúp người đó biết rằng bạn tôi
đã nói sau lưng anh ta. Người nghe đó phản ứng một cách nóng nảy. Khi về,
tôi lặp lại những lời nói của người đó với bạn tôi, lại thêm thắt một chút
để câu chuyện hấp dẫn hơn. Vì việc làm đó gây ra sự bất đồng và đổ vỡ một
tình bạn, thì những lời nói như thế là tà ngữ. Đôi khi chúng ta ngụy trang tà ngữ như là sự lo lắng, quan tâm về hành
động của người khác. Hay chúng ta tiết lộ một bí mật mà ai đó đã tin tưởng
nói cho ta nghe, tin rằng ta làm như thế "là vì lợi ích của họ." Thí dụ,
nói với một phụ nữ rằng chồng bà không trung thành vì "bạn không muốn bà
ấy là người cuối cùng khám phá ra", có thể gây ra nhiều
đau khổ hơn cho tất cả mọi người liên
quan. Khi bạn định nói trong cách đó, hãy
tự hỏi xem mục đích của bạn là gì. Nếu
là để tỏ ra hơn người khác, để được ai đó
mang ơn, cảm kích, thì lời nói của bạn là
để thỏa mãn tự ngã và thâm
độc hơn là
đạo đức.
Lời nói ở nơi công cộng cũng có thể thâm
độc như thế. Những tờ báo lá cải, các chương trình truyền thanh
trực tuyến hay các phòng chat (nói chuyện) trên internet, và ngay cả một
số những phương tiện truyền thông đáng tin
cậy dường như đều kiếm sống bằng cách sử dụng lời nói, ngôn ngữ như
là một vũ khí. Thí dụ những tin tức nóng hổi về những
điều mới xảy ra trong tuần là nhắm
đến việc làm tăng
thêm số lượng độc giả và số
tiền quảng cáo. Những lời thâm độc sẽ hạ
người này xuống để tâng bốc người kia
lên. Chúng khiến người nói này có vẻ bản lĩnh, thông minh, hay chịu
chơi không kể gì đến quyền lợi của người
khác.
Không phải tất cả các tà ngữ đều thô tục.
Đôi khi người ta sử dụng những lời có vẻ dịu dàng, êm ái nhưng mà ý
thì thâm độc. Những lời nói gươm giáo nguỵ
trang như thế thì còn nguy hiểm hơn là những lời ác
độc bộc trực vì chúng dễ
đi sâu vào tâm trí người nghe. Trong
ngôn ngữ hiện đại, chúng ta gọi cách nói đó là
"lời khen đâm sau lưng.” Thí dụ như
khi chúng ta nói với ai đó, “Bạn thiệt là
khôn ngoan khi sửa lại nhà cũ thay vì dọn đến
một khu dân cư sang trọng hơn,” hay “Tóc bạn bạc trông đẹp quá. Vẻ
già dặn thật thích hợp với nghề nghiệp của bạn." Chánh Ngữ không chỉ có
nghĩa là ta phải quan tâm đến những lời nói,
giọng nói mà còn đòi hỏi rằng
lời nói của ta phản ảnh lòng bi mẫn và sự quan tâm
đối với người khác và rằng chúng hỗ
trợ, chữa lành hơn là gây thương tích và hủy diệt. LỜI NÓI HÒA NHÃ Loại tà ngữ thứ ba là lời cộc cằn, thô lỗ. Xúc phạm bằng lời nói, nói
cay độc, xiên xỏ, nói lời kiêu căng,
chỉ trích nặng lời hay chửi rủa thậm tệ, tất cả đều là thí dụ của
lời nói cộc cằn, thô lỗ. Lời nói là một công cụ đầy quyền lực có
thể được dùng cho việc tốt hay việc xấu.
Đức Phật đã so sánh lời nói với một
cái búa: Mỗi người sinh ra đời Có lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cái búa như
một dụng cụ để chặt củi đốt. Nhưng trong thời Đức Phật, cái búa là
một dụng cụ sắc bén, và hiểm nguy. Nó được dùng
để xẻ các thân gỗ dài,
để chạm khắc, đục gỗ rất chính xác. Nó có thể
đốn hạ cây cao. Và nó là một vũ khí nguy hiểm, một phương tiện ghê
gớm có thể làm thương tật hay sát hại người. Có thể so sánh tương tự với
chiếc máy vi tính ở thời hiện đại. Máy vi
tính có thể dùng để làm nhiều
việc hữu ích -để trao đổi xuyên lục
địa, tạo ra âm nhạc, hay phóng hỏa tiển lên
hành tinh Mars. Nhưng chúng cũng được
sử dụng cho mục đích phá hoại. Người ta dùng
vi tính để bắn tên lủa và
điều khiển các loại vũ khí khác trong chiến
tranh.
Giống như khi phải chọn lựa sử dụng khả năng
của chiếc búa hay máy vi tính như thế nào, chúng ta cũng phải chọn
lựa sẽ sử dụng lời nói như thế nào. Ta có dùng lời nói
để cảnh tĩnh, an ủi, khuyến khích
người khác không? Hay là ta sẽ dùng lời nói
để hạ gục họ, và làm thương tổn bản thân trong quá trình
đó? Lời nói xiên xỏ,
đồn đại ác ý, nói dối, hay những câu nói đùa
thô tục, vô tâm không chỉ xúc phạm người khác mà cũng khiến cho bản thân
ta giống như những kẻ ngu không thể sử dụng cái búa trong miệng mà không
tự làm chảy máu bản thân. Chúng ta cũng là kẻ khờ nếu nghĩ rằng lời nói cộc cằn, thô lỗ có thể
làm được việc gì một cách tích cực.
Dầu ta có thể cảm thấy rất hài lòng khi hạ
được người nào -cho họ biết tay ta– nhưng
đó không phải là một chiến thắng tốt
đẹp gì. Như
Đức Phật đã dạy: Kẻ ngu nghĩ rằng mình đã thắng Dùng lời thô lỗ, xúc phạm để khiến người
khác phải im lặng là việc dễ dàng. Một người
đối đầu khôn ngoan thường sẽ rút lui khỏi một
sự chạm trán như thế và phản ứng lại bằng sự im lặng lạnh lùng. Ta
có thể tự khen mình và nghĩ, tôi đã
thực sự dạy chó hắn một bài học -hắn ta im ngay khi nghe nói. Nhưng sự
chiến thắng bên ngoài đó của ta rất nông cạn.
Người đối đầu với ta có thể đã thề chẳng bao giờ giao tiếp với ta
nữa, hay thề sẽ bí mật trả thù ta một lúc nào
đó trong tương lai. Ác tâm và những khổ thọ mà ta tạo ra cho người,
sẽ dội trở lại và ta sẽ hứng chịu hậu quả lúc không ngờ nhất. Không khó tìm ra các thí dụ khác về những ảnh hưởng tiêu cực của lời
nói thô lỗ. Thí dụ bạn có một đồng nghiệp rất
giỏi, rất thông minh về kỹ thuật, nhưng cách ăn nói của anh ta có nhiều
vấn đề. Anh ta gây hiềm khích với các bạn đồng nghiệp vì những lời
thô lỗ, cộc cằn, cao ngạo, cay độc, và
miệt thị. Vì thế, dầu công việc anh ta làm rất tốt, không ai có thể chịu
đựng nổi anh, kết quả là anh không có
đường tiến thân.
Một thí dụ khác đáng buồn hơn là
ảnh hưởng tiêu cực của lời nói thô lỗ, cộc cằn
đối với trẻ em. Chúng ta ai chẳng từng nghe
các bậc cha mẹ nói với con cái mình, "Mày thiệt là nhục," "Mày
không thể làm gì đúng,” “Mày sẽ không
làm nên tích sự gì." Có thể chúng ta cũng nhớ
đã từng bị nói như thế khi còn nhỏ. Sự xúc phạm bằng lời nói có thể
để lại những vết thương không bao giờ lành
trong tâm hồn đứa trẻ. Dĩ nhiên,
đôi khi cha mẹ cũng phải dùng lời lẽ
cứng rắn với con cái để chúng không làm
những chuyện nguy hiểm, như là chơi với diêm quẹt hay chạy chơi ngoài
đường. Nhưng những lời nói cứng rắn đó phát
xuất từ tình thương, lòng lo lắng, chứ không phải bằng chủ ý muốn
hạ nhục hay hăm doạ.
Ngay chính thú vật cũng bị ảnh hưởng bởi những lời cộc cằn. Cháu trai
tôi có một con chó Alaska, tên là Taurus. Taurus rất tò mò về những con
thú nò thấy trên ti vi. Nó còn định cắn chúng
nữa. Vì quá bự, nên khi Taurus bị cuốn hút bởi cái gì nó thấy trên
màn hình, là nó đứng che khuất tầm nhìn
của người ngồi sau nó. Bữa nọ, một người la lên, bảo Taurus tránh qua một
bên. Giọng nói của người đó rất bực dọc, nghiêm
khắc. Taurus phản ứng lại bằng cách bỏ đi
xuống tầng hầm dưới nhà. Nó ở đó suốt
tuần, không chịu ra, ngay cả để ăn. Thỉnh thỏang nó chạy ra ngoài
để giải quyết các vấn đề khác, rồi chạy ngay
xuống đó. Cuối cùng, gia đình
phải năn nỉ nó, dùng những lời nhẹ
nhàng, êm ái thì Taurus mới trở lên với họ. Những lời nhẹ nhàng của gia đình
cháu tôi đã giúp họ tìm lại
được sự thân thiện của con chó mà họ
yêu quí. Lời tử tế, như Đức Phật đã
dạy, luôn thích hợp và được hoan nghênh: Hãy nói lời tử tế Nói với ai đó, “Tôi thực sự cảm kích những
việc bạn làm," "Bạn đã giải
quyết vấn đề đó thật tốt đẹp,” hay “Thật vui
được gặp anh”. Những lời nói đó sẽ làm
ấm lòng người nói cũng như người nghe. Lời nói dịu dàng là mật ngọt trên
môi. Bày tỏ sự thán phục hay biết ơn sẽ khiến mọi người cảm thấy hạnh phúc
hơn. Chúng giúp ta tạo ra và giữ được tình
bằng hữu, vì ai cũng muốn liên hệ với người mà lời nói nhẹ nhàng, dịu dàng
khiến người nghe cảm thấy thư thái, dễ chịu. Lời nhẹ nhàng, dịu dàng giúp
trẻ em trưởng thành với cảm giác tự tin về giá trị bản thân. Những lời nói
như thế cũng giúp ta dễ học hỏi và tri ân giáo lý của
Đức Phật.
Nếu ta nói lời tử tế, khôn ngoan, thì hạnh phúc mà tacó thể ban trải
cho người chung quanh trở nên vô hạn. Nhưng hãy cẩn trọng: lời dịu dàng, tử tế phải thành thật và phát xuất
từ một mục đích cao thượng. Nói lời nhẹ nhàng,
êm ái trong khi suy nghĩ hay làm điều ngược
lại là giả dối, không phải là một đức
hạnh. Tất cả chúng ta đều biết có những vị lãnh
đạo tôn giáo dùng lời ngọt bùi
để truyền bá sự sợ hãi hay kêu dụ
người ta gởi tiền đến cho tổ chức của họ. Tôi
còn nhớ có một người Tích Lan đã
đi khắp xứ tuyên truyền chống lại sự
độc hại của rượu. Nhờ vào tài
ăn nói đó, người này
đã được
nổi tiếng, có quyền lực và được nhiều
người biết đến, lôi kéo được nhiều đám đông tin theo. Ông ta hô hào
chiến dịch để đóng cửa các quán bar,
hủy bỏ các quán rượu, và cấm bán rượu. Vào một ngày hè nóng nực, trong lúc
đang diễn thuyết một cách hùng hồn,
người kia cởi áo vest ra một cách vội vả. Một chai rượu nhỏ từ trong túi
áo của ông rớt ra và rơi xuống sàn sân khấu. Thế là chấm dứt chương trình
kêu gọi cấm uống rượu, và cũng chấm dứt luôn sự nghiệp chính trị của ông.
Mặc dầu những gì người đó nói về sự độc hại
của rượu là đúng, nhưng một khi người
nghe thấy được sự giả dối của ông, họ không còn muốn nghe ông nữa. TRÁNH NÓI CHUYỆN PHÙ PHIẾM Loại tà ngữ thứ tư là nói chuyện phù phiếm, mà
Đức Phật gọi là những lời nói vô nghĩa
hay u mê. Nói sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những gì chúng ta
nói về người đó có đúng hay không. Suy cho cùng
nếu ba người kể một câu chuyện với một người thứ tư, thì mỗi câu chuyện
lại khác nhau. Bản tánh con người thường tin vào bất cứ
điều gì chúng ta nghe trước, dầu
đó có thể chỉ phản ảnh quan điểm của
một người. Những điều nói đó có thể dựa trên
sự thật, nhưng lời nói sau lưng thường được
phóng đại, thêm thắt. Nói sau lưng thường dẫn đến tranh cãi
và hiểu lầm. Nó có thể làm tan vỡ những mối liên hệ. Trong những trường
hợp nghiêm trọng, nó có thể đưa đến khiếu
kiện vì đã mạ lỵ hay làm mất
danh tiếng người khác. Vào thời Đức Phật, hành
động này còn có thể lật
đổ cả một liên bang: Dân tộc Licchavi là một bộ tộc độc lập, kiêu
hãnh, một trong những thành viên có quyền lực và quan trọng nhất của một
liên bang hùng cường của tám dòng tộc. Thủ đô
của họ là thủ đô của liên bang.
Vua Ajatasattu, một vị đế vương đầy tham
vọng, người ủng hộ của vị tà sư Bồ Đề
Đạt Đa, dự định sẽ xâm chiếm và đánh
bại dân tộc Licchavi. Tuy nhiên, vị vua này cũng tham khảo ý kiến
của Đức Phật về dự định xâm chiếm này.
Đức Phật nói dân tộc Licchavi sống rất
hòa hợp, và khuyên nhà vua, "Ngài không thể xâm lấn, chế ngự họ khi họ còn
biết đoàn kết và hòa hợp với nhau."
Nhà vua hoãn lại việc xâm lăng và suy
nghĩ về lời của Phật. Sau đó vua Ajatasattu nghĩ ra một kế đơn
giản nhưng ác độc. Nhà vua truyền cho vị thủ tướng của mình nói nhỏ
điều gì
đó vào tai của một người Licchavi. Vị quan này
đến gặp một người Licchavi và nói nhỏ
một cách bí mật, "Có lúa trên ruộng đồng.” Đó
chỉ là một câu nói vô nghĩa, tầm thường. Ai cũng biết lúa có thể
được tìm thấy ngoài
đồng ruộng.
Nhưng khi thấy hai người thầm thì, một người Licchavi khác bắt
đầu suy đoán không biết thủ tướng của vua
Ajatasattu đã nói gì với bạn mình. Nên anh ta
đến hỏi, thì người kia lặp lại câu nói
là có lúa ngoài ruộng. Nghe vậy, người Licchavi thứ hai
đã nghĩ, "Anh ta
đang giấu sự thật. Anh ta không tin tôi. Anh
ta tự đặt ra câu nói xuẫn ngốc về ruộng lúa
để lừa dối ta.” Mang đầy nghi ngờ trong lòng,
người này lại đến nói với một người Licchavi
khác nữa rằng có người đã thầm thì với vị thủ tướng của vua
Ajatasattu. Người đó lại kể cho người khác
nữa nghe, và cứ thế, cho đến khi mọi
người tin rằng người đàn ông kia là gián
điệp và đã
có một hội kín được bí mật thành lập
trong cộng đồng của họ.
Vậy là hòa bình tan vỡ. Người Licchavi kết tội lẫn nhau, rồi sinh ra
tranh cãi, và chiến tranh bùng nổ giữa các gia
đình lãnh
đạo trong liên bang. Nhận thấy kẻ thù của mình
đang mất đoàn kết, vua Ajatasattu khởi
quân xâm lấn dân tộc Licchavi, và đã
thắng trận dễ dàng. Sau đó, nhà vua
lại tiếp tục xâm chiếm những bộ tộc còn lại. Tôi không cần nghe những câu chuyện như thế mới biết rằng lời nói sau
lưng người nguy hiểm thế nào. Chính bản thân tôi
đã kinh nghiệm
được điều đó. Hình như bất cứ khi nào
có ai đó cố gắng làm
điều gì tốt cho xã hội, thì là có
người cảm thấy phải chống lại sự nỗ lực đó.
Có thể họ cảm thấy bất an hay ganh tỵ với sự thành công của người
khác. Loan tin đồn là vũ khí của họ.
Họ không phải ra mặt và đưa ra bằng chứng gì.
Họ chỉ cần thầm thì những điều tai hại, rồi
dựa vào sự sẳn lòng tham gia của người khác vào những câu chuyện vô
ý thức để hoàn thành việc làm xấu xa
của họ. Lần đầu tiên khi chúng tôi cố gắng
gây quỹ để xây dựng trung tâm thiền, có người
đã loan tin đồn về hội Bhavana. Họ nói
rằng tôi lợi dụng các ân nhân, dự định sử dụng nguồn kinh phí mà
chúng tôi đã kêu gọi
được để bắt đầu một cuộc kinh doanh mờ ám
kiếm lợi. Những lá thư nặc danh được gởi đến những người có vai trò
quan trọng, bảo họ đừng nên
đóng góp. Những tin đồn đó được tạo dựng với
ác ý, nhưng chúng lại được loan truyền bởi những người không biết sự thật.
Cộng đồng Phật giáo nơi tôi sống, lúc ban đầu đã tỏ ra rất sốt
sắng, sau đó trở nên lung lay chia rẽ.
May mắn thay những người chống đối sự xây
dựng của hội Bhavana không tìm được
bằng chứng thực sự nào để phóng
đại lên, nếu không họ
đã hoàn toàn phá hoại
được nỗ lực của chúng tôi. Khi nào người ta còn sẵn lòng tin vào những gì người khác nói và lặp
lại những điều đó một cách vô tâm, thì
tin đồn sẽ còn loan truyền. Một lần
kia một thành viên người Mỹ trong Ban điều hành
của hội Bhavana đến Tích Lan. Khi ở đó, ông đã
gia nhập một nhóm những người hành thiền đến
từ nhiều xứ sở khác nhau, họ đã nói về các trung tâm thiền ở khắp
nơi. Có người nhắc đến Hội Bhavana trong buổi
họp mặt đó, và một phụ nữ đã
tuyên bố, "Ồ! Đó là trung tâm mỗi tối đều có tiệc trà!" Khi vị thành viên
trong Ban điều hành của chúng tôi phản
đối, thì bà ta nhất quyết là bà
đã nói sự thật. Cuối cùng, vị thành
viên phải nói, "Tôi đã biết Sư
Gunaratana từ 1971, và đã tham gia vào
việc thành lập Hội Bhavana từ những ngày bắt
đầu. Tôi biết chắc không hề có tiệc trà gì ở
đó cả.” Nếu không có người biết chuyện
có mặt, thì đã không có ai có thể phải
bác lại lời tuyên bố của người phụ nữ kia. có thể người khác lại còn thêm
thắt nhiều điều không đúng sự thật và
tai hại hơn nữa. Đó là cách mà tin đồn được tạo ra và nócó thể làm tổn hại
đến cá nhân cũng như các tổ chức như thế nào.
Nếu chúng ta nghe ai đó tung tin đồn hay
thông tin tai hại, ta có hai chọn lựa: hoặc là ta chấm dứt câu
chuyện hay là ta không tán đồng với tin đồn
thất thiệt, như vị thành viên trong ban diều hành của chúng tôi
đã làm. Nhưng trong lời dạy của Đức Phật khuyên
ta nên kiềm chế việc nói xấu, còn có khía cạnh sâu xa, mới mẻ hơn. Phần
đông chúng ta bỏ nhiều thì giờ nói về
những món ta đã
ăn mấy ngày hay mấy tháng trước
đó, hay nhớ đến những chi tiết trong
một bộ phim hay một chương trình truyền hình nhảm nhí nào
đó mà ta
đã xem. Chúng ta còn hoang phí thời gian
để nói những câu chuyện chọc cười thiên
hạ. Những câu chuyện này chẳng ích lợi gì cho sự phát triển trí tuệ của
ta. Khi ta nghĩ đến cuộc sống ngắn ngủi thế nào
và chúng bị cướp mất đi do tai nạn,
bệnh hoạn, thì ta có thực sự muốn lãng phí thời gian quí báu bằng những
cuộc chuyện trò phù phiếm không? Cũng đúng là có những câu chuyện
dường như không quan trọng hay vô bỗ nhưng thực ra chúng
được nói với một mục đích quan trọng.
Đôi khi chúng ta phải dùng những lời nhẹ nhàng vô nghĩa để an ủi ai đó hay
để nối kết tình thâm với con cái. Tất cả những lời nói chánh niệm xuất
phát từ tình thương yêu và lòng bi mẫn đều là một phần được chấp nhận của
Chánh Ngữ. Phương cách để xét đoán là
dừng lại và tự hỏi mình trước khi nói: "Điều
tôi sắp nói có đúng sự thật không? Có tử tế không? Có ích lợi không? Có
hại cho ai không? Đây có phải là thời
điểm để nói ra điều ấy không?”
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH NGỮ Chánh Ngữ không phải là điều mà bạn
có thể thực hành trên gối thiền. Nó xảy ra trong khi trò chuyện, không
phải lúc lặng thinh. Tuy nhiên trong lúc ngồi thiền, ta có thể quán tưởng
đến thói quen ăn nói của mình và cố
gắng chuyển hóa các tâm pháp bất thiện thành các tâm pháp thiện – xuất
phát từ tâm xả, tình thương yêu và lòng bi mẫn. Ta có thể phân tích những
hành động trong quá khứ và tự hỏi:
"Những điều tôi nói hôm qua có đúng không?
Tôi có dùng lời tử tế, dịu dàng, chân thật và có ý nghĩa không?"
Nếu nhận thấy rằng mình đã sai trên
một khía cạnh nào đó, ta phải nguyện
hoàn thiện tâm chánh niệm về Chánh ngữ. Cách tốt nhất là suy nghĩ trước khi nói. Người ta thường nói, "Hãy giữ
miệng!" Nhưng đúng hơn là phải giữ tâm
bạn. Miệng lưỡi không thể tự động làm
được gì. Chính là tâm
điều khiển nó. Trước khi mở miệng, hãy
quán sát lại tâm xem động lực hành
động có thiện không. Ta sẽ phải ăn năn hối
hận nếu có lời nào xuất phát từ tâm tham, sân, hay si. Ngoài ra cũng phải quyết tâm mạnh mẽ là không nói bất cứ
điều gì
để có thể tổn thương người khác. Chắc chắn rằng tâm nguyện này sẽ
giúp ta suy nghĩ cẩn thận trước khi nói. Khi nói với tâm chánh niệm, tự
động ta sẽ nói lời chân thật, dịu dàng,
êm ái. Chánh niệm sẽ giúp ta kiềm chế không sử dụng những lời nói như gươm
đao có thể làm người ta
đau đến tận xương tủy. Nếu tác ý muốn
nói lời ác độc khởi lên, thì lập tức
dùng chánh niệm và Chánh Tinh Tấn để ngăn cản
các tư tưởng đó không kéo dài. Lời nguyện không làm tổn thương người khác bằng lời nói trở nên
đặc biệt quan trọng khi phải nói với người mà
bạn ác cảm, hay khi tranh luận về những vấn
đề mà bạn ủng hộ mạnh mẽ. Hãy cẩn thận! Chỉ sử dụng những lời dịu
dàng, được chọn lựa kỹ càng. Trong
những trường hợp đó, lời nói nhẹ nhàng,
êm dịu giúp ta giữ được hòa khí và
giúp cho sự trao đổi, thảo luận được tiếp tục
trong bầu không khí thân thiện, mang lại ích lợi cho mọi người.
Nếu có ai đến bên bạn với thái
độ giận dữ -cằn nhằn hay nói xấu về một trong
những người bạn của mình, thí dụ như thế- khiến bạn cảm thấy bực
tức, thì tốt nhất là đừng nói gì. Hãy
tự thầm nhắc nhở, "Ta không được có phản ứng.
Ta không nên đánh mất chánh niệm như
người kia. Tranh cãi chẳng ích lợi gì. Tôi quyết chỉ tham gia vào
những câu chuyện có ích." Người kia sẽ phản ứng lại sự im lặng của bạn
bằng cách ngưng nói những điều làm bạn
bực mình. Bạn có thể nhân đó, hướng câu
chuyện đến một đề tài tốt hơn. Thật ra, là người Phật tử thì ngay giây phút ta biết câu chuyện bế tắt,
không đi đến đâu, ta phải có trách nhiệm để
chuyển hướng nó. Thật dễ bị quá đà
với những cuộc tranh cãi chuyện tình cảm, đưa
đến la hét. Những cuộc cãi vã, la lối
đều khiến mọi người trong cuộc đau khổ. Với tâm chánh niệm hãy hồi
tưởng lại bạn đã cảm thấy
đau đớn thế nào khi mất tự chủ. Hãy
nhớ rằng sau đó có thể phải mất nhiều giờ hay
nhiều ngày trước khi ta đủ bình
tĩnh trở lại để nói chuyện với người
kia. Rất nhiều tình cảm tốt đẹp sẽ bị đánh
mất, có thể là vĩnh viễn. Tuy nhiên, nhiều khi dầu ta đã cố
gắng hết sức, ta vẫn phải nỗi giận. Nếu người kia tiếp tục khiêu khích
bạn, tấn công bạn bằng những lời nói gươm
đao, bạn có thể trở nên hoàn toàn mất tự chủ. Lúc
đó thật dễ nỗi giận. Khi bạn nhận thấy
sự bực tức của mình đang tăng trưởng, hãy
nói "Đợi đã!" với người kia, với hy
vọng sẽ tìm được một giây phút để lắng lòng.
Nhưng nếu người kia trả lời rằng "Không, anh mới phải
đợi đã!" và tiếp tục tấn công – thì
phải làm sao? Trong những trường hợp này, khi cuộc đối
thoại đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát, nhiệm vụ của ta là phải
nhanh chóng đem chánh niệm trở lại và
sử dụng Chánh Tinh Tấn để chế ngự cơn giận.
Ngay nếu như cảm giác giận dữ khiến tim ta đập nhanh, thân xuất mồ hôi, và
tay chân run rẩy, sự chánh niệm về lời nguyện tránh nói lời thô lỗ, cũng
có thể giúp ta kiềm chế được mình. Chỉ
cần không để cơn giận khiến ta phải nói gì.
Chú tâm vào hơi thở để tái lập chánh niệm cho
tới khi cơn giận của ta hạ xuống.
Sự tự kiếm chế giúp cả hai, ta và người kia, một cơ hội
để mở lòng thân thiện. Khi lòng ta
đã lắng dịu, ta có thể nhìn thấy người
kia rõ ràng hơn và sẽ hiểu tại sao cả hai đều
bực tức. Lúc ấy ta cũng đã biết
một trạng thái tâm giận dữ khiến ta khó chịu
đến chừng nào. Khi sự quan tâm và tôn trọng
đối với người tăng lên, ta có thể
quyết định sử dụng giây phút đó để bắt đầu
một quan hệ mới trong sự tôn trọng, thương mến nhau hơn, để củng cố tình
bằng hữu giữa ta và người. Đó là những
gì ta nên luôn mong muốn làm được.
Khi nhận thấy rằng ta đã rèn
được tâm và kiềm chế
được lời nói để chuyển tình thế thành
hòa hợp hơn, hãy vui mừng về điều đó! Hãy
tự nhủ, "Đây là
điều tôi muốn. Tôi luôn muốn hành
động thế nào
để đem đến những điều tốt đẹp.” Hãy
luôn giữ trong tâm những suy nghĩ đó.
Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện khi bản thân tôi phải sử dụng
chánh niệm để thực hành Chánh Ngữ. Có
thể kinh nghiệm của tôi sẽ giúp bạn biết phải làm thế nào
để áp dụng tâm chánh niệm vào những
hoàn cảnh trong cuộc đời bạn -ở sở làm, ở nhà, và trong những mối liên hệ
cá nhân. Nhiều năm về trước, khi tôi đang điều hành
một ngôi chùa, một số người đã kêu gọi
một buổi họp các vị ân nhân hỗ trợ chùa lại. Họ chống
đối một số công trình tôi
đã khởi xướng và muốn dùng diễn
đàn này
để bày tỏ sự bực tức của họ. Một số trong những người này phản ứng
rất mạnh về các vấn đề được thảo luận. Họ đã
được sanh vào những gia
đình Phật giáo, nhưng họ không quan
tâm đến thiền. Thực ra họ coi việc hành
thiền là một điều điên rồ. Vì thế họ
không thể hiểu việc làm của tôi. Tôi cũng biết trong buổi họp này mình sẽ
là người được chỉa mũi dùi
đến, nhưng những gì xảy ra còn tệ hơn
bất cứ điều gì người ta có thể tưởng
tượng đến.
Có khoảng bốn mươi người dự buổi họp, bao gồm nhiều thân quyến, bạn bè
của tôi và những Phật tử khác đến để bày
tỏ sự ủng hộ của họ đối với các Phật sự của
tôi. Trước khi cuộc họp có thể được chính thức bắt đầu, ngay cả trước khi
có sự giới thiệu nào, một người đàn
ông cục mịt đứng dậy và bắt
đầu nói. Người này ít học, không khéo
léo, lại có khuynh hướng sử dụng lời thô lỗ. Anh ta không nói gì nhiều về
những vấn đề trong chùa
đang được thảo luận, nhưng nói rất nhiều thứ
về cá nhân tôi. Với những lời nói thiếu lịch sự, và lễ
độ, ông ta kết tội rằng tôi đã không
làm gì cho chùa bao năm nay, rằng tôi khiến
người ta không còn hỗ trợ cho chùa, vân vân. Ông ta dùng những ngôn
từ xúc phạm, khó được chấp nhận trong xã
hội để tấn công tôi trong suốt hai mươi phút.
Trong suốt cuộc tấn công bằng những lời lẽ gây sốc
đó, tôi phải đấu tranh với chính mình.
Tôi phải tự lý giải với bản thân để cản ngăn
sự tức giận có thể phát khởi. Tôi có thể thấy rằng người đàn ông
này đang ở trong trạng thái tâm bấn loạn, và
tôi đã tự nhủ, "Tôi biết người này có
bản chất hiền lành. Chúng tôi đã từng
có những liên hệ tốt đẹp. Chắc chắn là
ông ta đã bị những người chống
đối tôi đầu độc để nói năng như thế.” Tôi
cũng quán chiếu rằng tôi đã có nhiều cơ hội
để phát triển tâm linh và văn
hóa mà người kia thiếu sót. Tôi nhớ lại rằng ông ta chỉ có học vấn
tiểu học, rất ít khả năng và cũng ít
quan tâm đến sự rèn luyện tâm linh.
Bằng cách đó, tôi đã cố gắng trải tâm
từ bi đến cho ông và cũng
đầy lòng biết ơn rằng nhờ công phu tu
tập khiến tôi khó lòng nói năng hay hành
động giống như ông ta đang làm. Tôi cũng quán chiếu về nội dung của vấn đề
đang xảy ra. Tôi nghĩ rằng nếu tôi mở lời chống đối lại ông, thì
những người ủng hộ tôi sẽ đứng lên bênh vực tôi, và buổi họp có thể sẽ
biến thành một cuộc ấu đả lẫn nhau. Tôi thấy nhiều người trợn mắt lên, cau
có nhìn người kia và nhấp nhỏm trên ghế ngồi. Tôi cảm nhận
được sự đau lòng của họ,
đặc biệt là thân quyến tôi. Tôi là bậc
trưởng bối trong gia đình – là người
anh, cậu, ông chú, và ông cố - và tôi được
tiếng là một vị tu sĩ hiền từ. Dĩ nhiên, gia
đình tôi rất thương xót và cảm thấy
phải bảo vệ tôi. Tôi biết rằng nếu tôi tỏ vẻ bị tổn thương hay bực tức bởi
những gì người này nói, người thân của tôi sẽ khởi tâm sân hận cũng như
những trạng thái tâm bất thiện khác. Họ còn có thể tấn công người
đàn ông này. Vì thế tôi tự nhủ: "Giờ
tôi phải thực hành chánh niệm, kiên nhẫn và hiểu biết
để mang hòa bình
đến cho buổi họp này." Tôi thiết lập chánh niệm bằng cách chú tâm vào hơi thở. Khi những sự
đối đầu như thế này xảy ra,
điều quan trọng là ta cần dừng lại và
hít thở sâu trước khi phản ứng – có lẽ hai phút hít thở sâu, hoặc là ba
mươi cái hít vào và ba mươi cái thở ra. Sự dừng lại này cho ta thời gian
để bình tĩnh lại và thanh tịnh tâm,
để ta có thể nói một cách từ tốn, thay vì
nỗi nóng. Cuối cùng, người đàn ông hình như
đã dốc hết nỗi long nên ngưng nói. Mọi
người đều căng thẳng. Tất cả đều hướng về
tôi. Bằng một giọng nhẹ nhàng tôi nói, "Người này
đã từng là bạn của tôi. Ông là một thí
chủ luôn hỗ trợ cho chùa, đã làm
được nhiều việc tốt và ích lợi. Ông ấy
cũng biết tôi đã làm gì suốt bao năm
nay cho chùa. Tuy nhiên hôm nay, ông ấy hình như thất vọng, bực
tức, và có thể không cảm thấy bình tĩnh. Do
đó tôi cảm thấy cần cầu an cho ông và cho tất cả mọi người." Tôi yêu cầu tất cả chấp tay cầu nguyện để
tỏ lòng kính trọng Đức Phật bằng cách
nói ba lần, “Chúng con đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc chánh đẳng chánh giác, bậc
hoàn toàn giác ngộ." Đó là cách
chúng tôi thường làm khi bắt đầu các nghi lễ
nghiêm trang. Từ lúc đó, do uy lực của
truyền thống, không ai còn có thể mở lời tranh cãi hay bày tỏ bất
cứ ý kiến chống đối nào nữa, vì không
muốn tỏ ra bất kính đối với Đức Phật. Rồi tôi
hướng dẫn cả nhóm thọ năm giới, để phấn khích tinh thần họ lên và
để chắc rằng mọi người đều nhớ đến những lời
Phật dạy về hành động không tổn hại,
chân thật. Cuối cùng, tôi tụng một bài kinh cầu an dài, và khi chấm
dứt, tôi nói, "Giờ thì các bạn có thể về nhà. Cuộc họp
đã chấm dứt." Và
đó là kết thúc của câu chuyện. Nhiều năm
sau, người đàn ông đó vẫn giữ thái độ
lạnh lùng đối với tôi, nhưng sau này
tôi có cơ hội giúp đỡ ông khi ông trải
qua nhiều giai đoạn khó khăn trong đời. Từ đó
đến nay, ông ta vẫn thân thiện với tôi và luôn bày tỏ lòng biết ơn
và kính trọng. Chánh niệm chính là chìa khóa giúp tôi đối
phó một cách êm thấm với hoàn cảnh khó khăn
đó. Bạn cũng có thể dùng phương pháp này.
Đôi khi tôi nghe người ta biện minh rằng sự
việc xảy ra quá nhanh đến nỗi “ngay với tâm chánh niệm”, họ cũng không thể
kiểm soát được hành động hay lời nói
của họ. Nói rằng “ngay với tâm chánh niệm” mà vẫn hành
động như thế là không
đúng. Có lẽ tâm chánh niệm của họ quá yếu hay
đã bị chế ngự bởi lòng tham, sân, hay si. Vì theo
định nghĩa, chánh niệm giúp ta kiểm soát
những gì ta nghĩ, hành động như thế nào
và nói những gì. Bạn không thể chưởi mắng ai một cách
đầy chánh niệm, lạm dụng rượu chè một
cách đầy chánh niệm, hay phạm những tội tà
dâm một cách đầy chánh niệm. Nếu thực sự có
chánh niệm, ta không thể nào làm những việc như thế! Vì thói quen đã huân tập của chúng
ta quá mạnh, bất cứ khi nào ta mở miệng, lời nói dường như
đã tuôn trào. Có thể bạn không ý thức
rằng khi nói ta đã tổn hao biết bao năng
lượng. Với tâm chánh niệm, ta có thể dừng lại sự tổn hao này và
tìch trữ năng lượng. Và chúng ta có
thể sử dụng năng lượng được tích lũy này
để phát triển tuệ tri vào trong bản
chất của các thói quen của ta. Sử dụng năng
lượng này như là một nguồn nguyên liệu, chúng ta có thể tự soi lại
mình trong lúc hành thiền, xem xét lại các hành vi của mình, và nỗ lực rèn
luyện tâm thêm nữa. Tuy nhiên khi chúng ta để năng lượng bị
dồn nén này phát ra mà không có chánh niệm, thì chúng thường nổ
tung, giống như cái nút đậy bình. Tôi
thấy những điều này thường hay xảy ra
ở cuối các khóa tu thiền. Chỉ vài phút trước
đó thôi, mọi thiền sinh đều hoàn toàn im lặng, ngồi yên tĩnh hay di
chuyển nhẹ nhàng, chậm rãi. Rồi ngay giây phút giới giữ im lặng của khóa
tu được chấm dứt, thì bùng nổ bao
tiếng nói. Trận lũ chuyện trò, đối thoại tiếp
tục hàng giờ hay hơn nữa, cho đến khi
tất cả mọi năng lượng tích trữ được đã
tiêu hao hết. Khóa tu càng dài thì người ta càng trở nên ồn ào, càng dễ
dãi, trừ khi họ nỗ lực để duy trì sự
chánh niệm trong lời nói. Đối trị duy nhất cho tà ngữ phải là một liều thuốc chánh niệm cực mạnh
– không chỉ trong các khóa tu, hay khi bạn
đang ở trong một hoàn cảnh thử thách
đầy khó khăn, nhưng phải là suốt đời
bạn. Chánh niệm về Chánh Ngữ sẽ mang lại hạnh phúc cho bạn. Tôi bảo đảm
điều đó.
TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH NGỮ Đây là những điều tóm lược để ngăn cản khổ đau bằng phương cách của
Chánh Ngữ: - Chánh ngữ có nghĩa là không được nói
dối, không nói lời thô lỗ, cộc cằn và phù phiếm. - Nói dối bằng cách im lặng thì vẫn là nói dối. - Nói lời thâm độc là loại ngôn ngữ
phá hoại tình bằng hữu của người khác hay làm tổn hại
đến thanh danh họ.
- Tấn công bằng lời nói, nói mỉa mai, thô tục, giả dối, chỉ trích hạ
nhục quá đáng, tất cả đều thuộc loại lời nói
thô lỗ, cộc cằn. - Lời nói thô lỗ, cộc cằn làm tổn thương người khác và hạ thấp phẩm giá
của người nói. - Nói chuyện người khác, nói chuyện phù phiếm thường dẫn
đến tranh cãi, hiểu lầm, làm mất thời
gian và khiến tâm bấn loạn. - Tất cả mọi lời nói không xuất phát từ tâm xả, với tình thương, và
lòng bi mẫn đều tai hại.
- Một cách để xét xem bạn có sử
dụng Chánh Ngữ hay không, là dừng lại và tự hỏi trước khi nói: "Điều
này nói có đúng không? Điều này
nói có tử tế không? Điều này nói có
ích lợi không? Có làm hại ai không? Có đúng
lúc để nói điều đó không?”.
- Sử dụng chánh niệm để củng cố thêm
quyết tâm không nói điều gì gây tổn
hại và chỉ nói những lời nhẹ nhàng, đã
được chọn lọc có thể mang lại sự hòa
hợp cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn
nào. -ooOoo- Bước 4
Có người cần một bảng liệt kê các giới luật
để đảm bảo rằng mình hành
động một cách đạo đức, chân thật. Người khác
thì cần giới luật để cảm thấy chắc
chắn rằng họ đã đạt được mục đích tâm
linh, ở cõi trời hay được giác ngộ.
Đức Phật cũng đã chỉ bày cho ta những cách hành xử
để tránh khỏi đau khổ, nhưng hành
động đạo đức chân chính không chỉ nằm trong
các bảng điều lệ giới luật nào. Đúng
hơn, đó là các quy luật liên quan đến hành
động của ta, để cho ta biết chúng gây ra đau
khổ cho bản thân và tha nhân như thế nào -sự lựa chọn hành
động đạo đức của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến
tất cả như thế nào. N
Giới luật Phật giáo bắt đầu với năm quy
luật mà ta cần tuân giữ cẩn thận nếu muốn
đạt được sự tiến bộ tâm linh. Đó là: - Không sát sanh Các đệ tử của Đức Phật phải phát lời
nguyện để giữ các giới luật này, gọi là năm
giới. Tuy nhiên, các quy luật đạo đức
này không phải do Đức Phật chế đặt ra;
mà chúng là những đạo đức cơ bản, có
mặt ở khắp mọi nơi và không có giới hạn thời gian. Bốn trong số năm giới luật này
đã được
đề cập đến trong Bát Chánh Đạo. Chánh ngữ bao gồm việc không nói dối.
Chánh nghiệp được xem như là không
giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Giới cuối cùng trong năm
giới: không sử dụng các chất gây nghiện, cũng nằm trong chánh nghiệp. Vì
một người say sưa không thể kiềm giữ không phạm vào tà ngữ hay hành
động sai trái.
Ở giai đoạn đầu của việc phát triển đạo
đức, chúng ta cần đến những giới luật này, cũng như một
đứa trẻ cần được cha mẹ nhắc nhở với những
lời răn dạy như là "Đừng sờ vào
lửa nóng." Khi lớn lên, đứa trẻ nhận ra rằng
lời cha mẹ dạy là để tránh cho mình
khỏi bị nguy hiểm. Tương tự, khi chúng ta đã
hoàn thiện sự hiểu biết về hành động đạo đức,
chánh nghiệp sẽ trở thành tự động.
Chúng ta không thể nào muốn phạm vào năm
giới luật, mà ta cũng không cần phải dựa vào chúng mới
đi đúng đường.
ĐẠO ĐỨC TRONG HÀNH ĐỘNG Theo truyền thống chúng ta nói rằng Chánh Nghiệp bao gồm việc không
giết hại, không trộm cắp, và không tà dâm. Mặc dầu chúng ta dùng các thuật
ngữ tương tự trong ngũ giới và trong định
nghĩa về Chánh Nghiệp trong Bát Chánh Đạo, nhưng ý nghĩa của chúng hơi
khác nhau. Trong ngũ giới, ý nghĩa của các giới này rất
đơn giản và rõ ràng: chỉ là
đừng làm ba việc này. Giết hại, trộm
cắp và tà dâm là ba hành động tồi tệ nhất mà
ta có thể phạm phải, và nếu phạm các giới này, ta sẽ không thể có
được sự bình an. Vì thế, chúng ta lập
thệ nguyện mạnh mẽ, vững vàng và tuân giữ chúng một cách triệt
để.
Tuy nhiên, khi Đức Phật nói đến Chánh
Nghiệp trong Bát Chánh Đạo, trong ý nghĩa của việc tránh giết hại, trộm
cắp, và tà dâm, Ngài đã
đưa ra những thí dụ đơn giản nhất mà
người ta có thể vi phạm các giới này. Vì thế sự kiềm chế này phải
được hiểu không chỉ một cách hạn hẹp, trong ý
nghĩa là giữ giới, mà còn là những phương hướng mở rộng cho các
hành động đạo đức cao hơn.
Thí dụ, trong một bài thuyết pháp Đức Phật
đã khuyến khích mọi người phải hành
động đầy lòng từ bi đối với tất cả mọi
chúng sanh, bằng những lời dạy sau:
Ai cũng sợ gươm đao, Đức Phật giải thích rằng bất cứ hành động nào gây tổn hại cho người
khác – như là đập phá nhà cửa, gây hỏa
hoạn, hăm doạ bằng vũ khí– là sai,
ngay nếu như không có ai thiệt mạng. Có lần tôi
được nghe về một thanh niên không
thích những người bạn học cùng chỗ trọ của mình.
Để trả thù, anh ta khủng bố họ bằng
cách bí mật phá hoại đồ dùng cá nhân
của họ như là vứt quần áo họ vào cầu tiêu hay phá hỏng máy vi tính của họ!
Sự tị hiềm nhỏ mọn và những kiểu đùa
dai làm tổn thương người cũng là những hành
động thiếu đạo đức.
Ngoài ra còn có các hành động đạo đức ở
mức độ vi tế hơn. Thí dụ giới không sát sanh sẽ đạt đến ý nghĩa cao đẹp
nhất khi ta phát triển được một thái độ hoàn toàn vô hại và lòng
luôn mong ước mọi điều tốt lành cho
những chúng sinh khác. Chúng ta thực hành Chánh Nghiệp không chỉ vì ta muốn tránh phạm các
giới hay vì ta sợ ai đó sẽ trừng phạt nếu ta
phạm lỗi. Ta tránh những hành động tàn
nhẫn, ác độc vì ta thấy
được hậu quả của những hành
động như thế -chúng sẽ mang sự bất hạnh khôn
lường đến cho ta và cho mọi người quanh ta, ở hiện tại cũng như
tương lai. Chúng ta thực hành Chánh Nghiệp vì muốn cuộc sống của mình có
ích và hòa hợp, không phải để phá hoại hay
chống đối, và vì ta muốn tâm được
thanh tịnh, an lạc, không bị phiền não vì hối hận, ăn năn. Khi nói đến việc tuân giữ các giới luật,
tâm có rất nhiều trò. Có người tự nhủ rằng giới luật không dành cho
người trẻ tuổi. Họ nói, "Hiện tại tôi có quyền
được hưởng thụ và làm bất cứ
điều gì tôi muốn. Khi lớn tuổi hơn tôi
sẽ tu sửa lại." Tiếc thay, biết giữ gìn quy luật
đạo đức lúc cuối đời thì cũng giống
như trúng số khi bạn sắp từ giã cõi đời. Nếu
chờ đợi quá lâu, ta sẽ không thể hưởng thụ được lợi ích mà một
đời sống đạo đức có thể mang đến –
không bị nghiện ngập, có những mối liên hệ lành mạnh, một lương tâm trong
sáng, và một tâm bình lặng. Tốt nhất là được
hưởng những thành quả tốt đẹp của một
đời sống đạo đức khi bạn còn trẻ, có sức khỏe và mạnh mẽ. Lúc tuổi
già, ta không còn cần các giới luật đạo đức
để kiềm chế ta khỏi hành động sai
trái!
Một ngụy biện khác mà chúng ta thường sử dụng là tự nhủ, "Các quy luật
đạo đức này có ích lợi gì cho tôi?
Cuộc đời tôi như thế này cũng tốt
đẹp rồi.” Nếu đó là thái
độ của bạn, thì tốt nhất là bạn cần
phải xét lại tư duy đó một cách kỹ lưỡng. Nếu
cuộc đời bạn tốt đẹp, thì tại sao bạn phải nói dối,
ăn cắp, rượu chè, hay giết hại? Việc
phạm giới nhanh chóng trở thành một thói quen khó bỏ. Hơn thế nữa, những
hành động này không thể tránh khỏi
đưa đến những hậu quả tiêu cực. Không
có chuyện chạy trốn khỏi luật nhân quả. Phạm vào các nguyên tắc
đạo đức, thì bạn có thể bị mất mát tài
sản, suy kiệt sức khoẻ, giảm thiểu lòng thương yêu của người thân, và
nhiều thứ khác nữa mà bạn hằng coi trọng. Hơn thế nữa, bạn sẽ phải
đối mặt với lo âu, mặc cảm tội lỗi và
ngay cả việc đau khổ hơn. Hãy nhớ rằng
chúng ta gìn giữ các nguyên tắc đạo đức là
để cho mình
được hạnh phúc, không phải đau khổ.
Ngay cả những hành động thiếu đạo đức có
vẻ nhỏ mọn, tầm thường cũng có thể gây ảnh hưởng tai hại. Tôi được nghe có
một người đã phải mất quyền đấu thầu
trong một công ty cổ phần hàng triệu
đồng -chỉ vì đã giết một con
bọ. Anh ta là một nhà kinh doanh rất tài giỏi, am tường. Anh
đã có hẹn
để gặp đối tác có thể hùn vốn để thảo
luận về việc đó. Khi họ đang chuyện trò, một con bọ rớt xuống
đậu trên miệng ly nước giải khát của
nhà kinh doanh. Anh ta dùng chiếc muỗng đang
quậy để nhấn con bọ xuống đáy ly. Khi con bọ bò trở lên miệng ly,
anh ta lại đẩy nó trở xuống. Trong khi đang
thảo luận công việc đáng hàng triệu đô
la mà anh ta vẫn đùa giỡn với
con bọ, cứ đẩy nó xuống cho đến khi nó kiệt
sức chết dưới đáy ly.
Người đối tác của anh sau này cho
tôi biết rằng, khi nhìn thấy những việc như vậy, anh ta tự nghĩ, "Người
này quá ác độc. Có thể anh ta sẽ làm
bất cứ điều ác độc gì
để được có tiền. Tôi không muốn hợp tác kinh
doanh với người như thế.” Vì thế người
đó rút lui khỏi cổ phần.
Bạn có thể tự hỏi tại sao các điều luật
trong Chánh Nghiệp được diễn tả bằng
những từ ngữ tiêu cực – không giết, không trộm cắp, vân vân. Lý do
rất đơn giản. Chúng ta không thể tìm
thấy niềm vui của các hành động thiện cho đến
khi ta buông bỏ được cái sai trái. Chúng ta có khuynh hướng hành
động với một tâm đầy tham ái, dẫn đến đủ loại
khổ đau. Trước tiên chúng ta phải biết cưỡng lại khuynh hướng bản năng
này. Sau đó ta mới có thể thấy được là
ta sẽ cảm thấy dễ chịu, bình tĩnh, tự tại, và hạnh phúc biết bao khi ta
hành động một cách có đạo đức. Không thể nấu
một bữa ăn ngon trong một cái nồi đầy bụi, hay tạo dựng được một khu vườn
đẹp trên mảnh đất đầy cỏ dại. Kiềm chế
không hành động bất thiện, tức là
chúng ta đã tạo ra môi trường thích
hợp cho thiện pháp được nở hoa. Thí dụ, tránh
không giết hại hay sân hận tạo ra môi trường thích hợp cho tình
thương yêu và lòng bi mẫn được phát khởi khi
giao tiếp với người. Tương tự, tránh không trộm cắp – không lấy của
không cho, dầu đó là của cải vật chất
hay công sức, tư tưởng, sáng kiến của người khác- sẽ khiến
điều ngược lại được phát sinh – đó là
tâm xả. Hành động đạo đức tách sự chú tâm của ta
khỏi những lợi ích cá nhân, vị kỷ để hướng đến những ích lợi cho người và
cho ta. Khi đắm chìm trong dục vọng
của bản thân, chúng ta bị lòng tham, sân, si, và những tâm lý ích kỷ khác
chế ngự. Do đó, ta sẽ không thể tự kiềm chế
hay có đủ tuệ giác để hành động đúng
đắn. Nhưng khi chúng ta kiềm chế được các pháp bất thiện, thì những
màn sương u ám trong tâm ta sẽ tan đi một ít
và ta bắt đầu nhận thấy rằng chính tình
thương yêu, lòng bi mẫn và độ lượng thật sự
mới mang đến cho ta hạnh phúc. Tâm sáng suốt này giúp chúng ta hành
động đạo đức và tiến bước trên con
đường theo dấu chân Phật.
Không Giết Hại Khuynh hướng muốn làm tổn hại, gây đau đớn
cho chúng sanh khác thường xuất phát từ lòng sân hận hay sợ hãi.
Khi chúng ta cố ý giết một sinh vật, dầu là nhỏ nhoi như là sâu bọ, là ta
đã làm giảm thiểu lòng tôn trọng
đối với tất cả mọi sự sống – trong
đó có bản thân chúng ta. Chánh niệm giúp ta
nhận biết được các hành động sai trái
của bản thân và chịu trách nhiệm về chúng. Khi quán sát các trạng
thái tâm của mình, chúng ta nhận thấy rằng sân hận và sợ hãi dẫn ta luân
chuyển trong vòng xoay của bạo lực và sự nhẫn tâm, khiến ta có những hành
động hại người và hủy diệt tâm thanh
tịnh của bản thân ta. Tránh không giết hại giúp tâm ta
được bình an và giải thoát khỏi sân
hận. Tuệ giác này giúp chúng ta biết kiềm chế, không hành
động sai trái và sẵn lòng
đón nhận những hành
động xuất phát từ lòng bi mẫn và tâm
độ lượng.
Một đệ tử của tôi bảo rằng cô thuờng cảm
thấy sợ và phản ứng mạnh mẽ đối với
một số sinh vật nhỏ giống như là chuột, chí, hay
đỉa. Vì những cảm giác này, cô sẵn
sàng giết chúng. Khi sự tu tập chánh niệm giúp cô trở nên hiền hòa hơn, cô
nguyện không giết những sinh vật này nữa. Kết quả là các cảm giác sợ hãi,
xa lánh chúng cũng giảm thiểu trong lòng cô. Gần
đây, cô còn thu hết can
đảm để cầm một con gián trong tay, mang thả
ra ngoài cửa chứ không giết nó. Khi chúng ta kiềm chế không giết hại, lòng tôn trọng cuộc sống
được tăng trưởng và ta bắt
đầu hành
động đầy lòng bi mẫn đối với tất cả
mọi chúng sanh. Cũng người đệ tử này kể với tôi về việc
đi thăm một người bạn đang sống ở một trung
tâm thiền nào đó. Khi đến, cô
nhận thấy trước cửa nhà các nhân viên trong trung tâm, có treo các bẫy sâu
bọ. Có cả chục con ong vàng đã bị rơi vào bẫy bởi mùi thơm ngọt ngào của
dĩa nước táo. Một khi đã chui vào cái lỗ nhỏ của bẫy, chúng không thể ra.
Cuối cùng, khi đã mệt mỏi vì phải bay trong một không gian nhỏ bé, chúng
rơi xuống đáy dĩa nước táo, rồi
chết đuối trong đó. Cô
hỏi bạn mình về cái bẫy. Anh ta đồng ý rằng
một công cụ như thế thật không nên có ở một trung tâm thiền, nhưng
anh nói rằng mọi người đã
đặt những cái bẫy này ở
đây lâu rồi và anh không thể làm gì
được hơn.
Mặc dầu cô gái cố gắng không để ý đến
tiếng những con ong kêu trong bẫy, cô không thể nào tách hình ảnh
chúng đang đau khổ ra khỏi tâm trí. Cô
cảm thấy mình phải làm điều gì
đó để giúp một vài con có cơ hội trốn
thoát. Cô lấy con dao, khoét một lỗ nhỏ ở phía trên bẫy, và cắm dao ở
đó. Một vài con ong vàng
đã bò lên theo cán dao và bay thoát ra
ngoài. Sau đó cô khoét cái lỗ bự hơn, và
thêm một số con nữa cũng chạy thoát. Cuối cùng, cô nhận ra rằng cô không
thể nào chịu đựng được cho dù chỉ một
con phải chết trong bẫy. Mặc dầu lo lắng về hành
động của mình, nhưng cuối cùng cô
đã đem cả
mấy cái bẫy đến một khu vườn bên cạnh, tháo chúng ra, giải thoát
tất cả những con còn sống. Khi làm như vậy, cô thầm nhủ, "Nguyện cho tôi
được giải thoát khỏi các tâm và hành
động bất thiện giống như những con vật này
được giải thoát khỏi các bẫy rập.”
Cô gái nói rằng từ đó trở đi, cô không còn
sợ các con ong nữa. Mùa xuân năm rồi, một tổ
ong vàng đã xuất hiện dưới cổng
vào của Hội Bhavana. Nhiều người đi qua cửa
đó bị chúng chích, và khu vực đó bị rào
lại. Tuy nhiên, cô đệ tử vẫn tiếp tục đi qua
lối đó, mà không làm hại sinh vật nào. "Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu
còn bị con ong vàng nào chích nữa," cô nói. "Nhưng nếu có
đi nữa, tôi vẫn lo chúng
đã bị sợ hãi hay có thể
đã bị thương khi
đốt tôi.”
Như bạn đã thấy từ kinh nghiệm của
người đệ tử này, kiềm chế không giết
hại tạo ra một môi trường thích hợp để các hành
động bi mẫn có thể tăng trưởng trong cuộc
sống. Đó là điều thật tuyệt vời và
là một phương cách hữu hiệu giúp ta tiến bộ trên con
đường tu tập. Nhưng chúng ta cũng
không nên quá cứng rắn trong việc ủng hộ cho sự không giết hại! Chánh niệm
đòi hỏi ta phải tự quyết
định về hành
động đạo đức của mình, không phải
để khăng khăng buộc tất cả mọi người khác đều
phải theo gương của ta.
Thí dụ vấn đề ăn mặn. Dầu bản thân tôi
không ăn mặn, tôi không bắt mọi người phải ăn chay. Vì nhìn một
cách toàn diện hơn, tôi thấy ngay chính những người
ăn chay cũng góp tay một cách gián tiếp vào
việc giết hại. Thí dụ ở một làng có khoảng một ngàn người
ăn chay, và ở làng kế bên, có những
người nông dân trồng rau cải, trái cây, và lúa mạch
để nuôi một ngàn dân làng kia. Khi họ
đào xới
đất hay giữ cho côn trùng không phá hoại mùa màng, thì họ cũng phải
giết nhiều sinh vật nhỏ bé. Rồi nhiều sinh vật và côn trùng khác nữa lại
bị giết bởi các loại máy móc trong mùa thu hoạch. Những người
ăn chay ở làng kế bên cảm thấy rất
thoải mái. Mặc dầu nhiều sinh vật đã
bị giết hại, họ không bị lương tâm cắn rứt, vì họ không cố ý muốn giết
hại. Bạn có thể thấy từ thí dụ này rằng việc
ăn rau củ và việc giết hại côn trùng trong quá trình trồng trọt rau
củ là hai vấn đề khác nhau. Tương tự, lý luận
đó cũng có thể áp dụng cho việc ăn mặn. Vì
ăn thịt và giết hại chúng sanh
để có thịt là hai
điều hoàn toàn khác nhau. Ngay chính
Đức Phật đôi khi cũng ăn thịt khi được cúng
dường. Những người chỉ ăn thịt cũng không có ý muốn giết hại.
Vì mục đích giữ giới không giết hại, Đức
Phật đã định nghĩa việc giết hại rất rõ
ràng rằng đó là hành
động cố ý muốn cướp đoạt mạng sống. Trong các
giới luật dành cho tăng ni, Đức Phật
nói rõ ràng hơn về những điều kiện cần
có trong một hành động giết hại:
- Phải có một sinh vật. - Ta biết rằng có sinh vật đó.
- Ta có ý muốn giết hại. - Ta dự tính phương cách giết hại. - Ta thực hiện hành vi giết hại với phương cách
đã dự tính. Người ăn mặn không phạm vào bất cứ
trường hợp nào kể trên. Họ biết những gì họ
ăn là thịt và thịt đó là của
thú vật. Tuy nhiên họ không có ý muốn giết thú vật
đó, mà họ cũng không tham gia vào việc
giết thú vật. Nếu không có sẵn thịt, ta không nên đi tìm
kiếm, săn bắn hay giết mỗ cầm thú để ăn mà
nên ăn cái gì khác. Nhưng ta cũng
không nên đặt nặng vấn đề tránh tất cả mọi
thứ góp phần vào việc giết hại một cách gián tiếp. Trong cuộc sống
hiện đại, có rất nhiều thứ có thể góp phần
một cách gián tiếp vào việc giết hại. Thí dụ, khi lái xe hay
đi qua vườn cỏ, ta cũng có thể giết hại côn
trùng. Một số loại thuốc ta dùng để
trị bệnh đã
được thí nghiệm trên thú vật -bằng
cách giết chúng, hủy hoại chúng, hay làm cho chúng bệnh. Sử dụng các loại
thuốc này không phải là hành động giết hại.
Đức Phật đã dạy rõ ràng rằng chính là ý muốn, là chủ tâm làm
điều gì
đó mới là đáng kể.
Còn nói về sự phát triển tâm linh, thì không có gì khác biệt giữa một
người ăn chay và
ăn mặn. Khi một người ăn chay nỗi lòng
tham, lòng nghi, họ cũng hành động giống như
người ăn thịt vậy. Nếu bạn muốn trở thành một người
ăn trường chay, thì bằng mọi cách hãy
thực hiện đi. Những bữa ăn chay lạt rất tốt
cho sức khoẻ. Cá nhân tôi là người ăn
chay vì lòng bi mẫn đối với thú vật.
Tuy nhiên, đừng cảm thấy bó buộc phải
tránh ăn thịt mới có thể đạt được hạnh phúc tuyệt vời nhất.
Nhiều vị cư sĩ hỏi tôi phải làm thế nào
đối với những côn trùng trong nhà hay ngoài vườn của họ. Họ muốn
làm người Phật tử tốt, không giết hại, nhưng bông của họ sẽ bị tàn úa hay
nhà họ trở nên dơ bẩn vì họ không dám đụng
đến các côn trùng. Tôi bảo họ rằng việc giết sâu bọ côn trùng, dầu
là vì mục đích tốt, cũng vẫn là giết
hại. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi sự giết hại
đều có cùng một nghiệp quả. Thông
thường việc giết một côn trùng không cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta
giống như khi ta giết một con vật, như là con chó. Tương tự, giết một con
chó sẽ không khiến tâm bất an như giết một con người. Không có hành
động giết hại nào
đem đến nhiều tai họa cho bản thân hơn là
giết cha mẹ mình hay giết một bậc giác ngộ. Loại giết hại này sẽ cản trở
kẻ sát nhân không thể đạt được giác ngộ trong
kiếp này và sẽ đưa đến một sự tái sinh
tồi tệ nhất. So với sự giết hại này, giết côn trùng không phải là
một vấn đề lớn lao. Nên hiểu rằng có
nhiều loại nghiệp quả, chúng ta tự chọn lựa hành
động và chấp nhận hậu quả của chúng. Không Lấy Của Người Trộm cắp là một biểu hiện của lòng tham hay ganh tỵ. Lấy của không
thuộc về mình là một thói quen xấu khó bỏ. Nhiều người không có chút kiềm
chế nào trong lãnh vực này đến nỗi ngay khi
họ đi dự khóa tu thiền để cố gắng đạt được chút hạnh phúc và thanh
tịnh, họ vẫn duy trì thói quen ăn cắp. Ở Hội
Bhavana, chúng tôi biết có nhiều trường hợp người ta lấy cắp tọa cụ. Tôi
không biết có ai đã đạt được giác ngộ
khi thực hành thiền trên một chiếc tọa cụ
được ăn cắp! Thư viện của chúng tôi cũng gặp
phải những vấn đề tương tự. Vì Hội Bhavana nằm trong một khu rừng,
không có đường đến các tiệm sách lớn dễ dàng,
nên chúng tôi lưu giữ các bộ sưu tập kinh
điển của Hội. Qua thời gian, một số sách đã biến mất. Thật là buồn
cười khi người ta đến trung tâm này
để thiền và học hỏi về những
điều Phật dạy, vậy mà họ không thể
thấy rằng lấy những thứ không phải của mình không thể nào giúp tâm họ
đạt được an bình. Thực tập Chánh nghiệp trong việc không lấy cắp có nghĩa là nỗ lực
để sống chân thật và tỏ lòng tôn trọng
tài sản của người khác. Điều đó có nghĩa là
nhắc cho cô thu ngân biết rằng cô đã
quên tính tiền một món đồ mà bạn
đã mua hay cô
đã thối lại cho bạn quá nhiều tiền.
Điều đó có nghĩa là bằng mọi cách phải
trả lại cho người những gì không phải của bạn, mà không mong
đợi sự khen thưởng nào cho hành
động của mình. Dĩ nhiên, đôi khi sự chân thật cũng đưa
đến những phần thưởng vật chất. Tôi nhớ về một câu chuyện được đưa lên
báo về hai đứa bé nhặt được một túi tiền
trong nhà vệ sinh của tiệm Sears. Chúng mang túi về nhà và khám phá
ra trong đó có hơn ba mươi sáu ngàn
đô! Với sự hỗ trợ của cha mẹ chúng, những đứa
trẻ này quyết định đem tiền giao lại
cho cảnh sát.
Người ta khám phá ra là số tiền đó thuộc
về một khách hàng trên đường đến ngân
hàng đã ghé qua Sears, và bỏ
quên túi tiền trong nhà vệ sinh. Hẳn là vị khách
đó đã đau
khổ xiết bao khi bị mất tiền và sung sướng dường nào khi có người
trả lại tiền. Lòng tin vào chân lý và vào bản tánh thiện của con người hẳn
phải phát khởi trong lòng anh. Anh đã
bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tặng cho hai
đứa trẻ một phần thưởng xứng đáng, và cộng
đồng cũng khen ngợi chúng có lòng chân
thật. Xâm chiếm tài sản hay tiền bạc của người là
ăn cắp, điều đó ai cũng biết. Nhưng ta
thường chứng kiến những hiện tượng ăn cắp vi
tế hơn. Thí dụ việc tự coi ý kiến của người là của mình cũng là
ăn cắp. Cũng như lấy những vật nhỏ mọn ở sở làm,
như là viết, giấy, hay đĩa vi tính, và
đem về nhà
để dùng cho cá nhân mình. Chúng ta
thường ngụy biện cho những hành động như thế
bằng cách tự nhủ, “Tôi cũng có thể nghĩ ra điều đó,” hay “Công ty phải
trang bị cho tôi những thứ này. Họ đã
trả lương ít quá." Gian dối trong việc khai thuế, viết ngân phiếu không
tiền bảo chứng, hối lộ, hay tham gia vào các công việc kinh doanh nhằm mục
đích lừa dối cũng là
ăn cắp. Ngay như lấy đồ trong siêu thị
ăn khi bạn đói cũng bị coi là
ăn cắp. Hãy nhớ, không bao giờ nên
phục vụ cho thân bằng chi phí của tâm. Mục đích của chúng ta trong việc tuân giữ
các giới luật đạo đức trong Chánh nghiệp là
để cuộc sống của ta được hạnh phúc. Nếu ta
phạm giới, đau khổ chắc chắn sẽ theo sau, trong kiếp sống này hay
trong tương lai. Muốn được hạnh phúc, tâm
phải bình an và lương tâm trong sạch.
Đừng nghĩ rằng bạn kiềm chế không ăn cắp là
để làm vừa lòng thế giới. Bạn làm thế
là vì sự tự tại của bản thân, ngay ở hiện tại và trong tương lai. Khi đã vượt lên mức
độ thô thiển của việc đấu tranh chống lại bất
cứ hình thức nào của việc lấy của không cho, chúng ta mới có thể
xem xét lại sự quan tâm của ta đối với nhu
cầu của người khác và trở nên bớt chấp vào vật chất hơn. Dùng giới
luật không trộm cắp như là một người chỉ
đường, chúng ta sẽ trở nên bớt ganh tỵ với những sở hữu hay các sự
may mắn của người khác. Thay vào đó chúng ta
khám phá ra được niềm vui của sự thông cảm và tâm hoan hỷ cho hạnh
phúc của người khác. Không Tà Dâm Giới luật này của Đức Phật thường được
diễn giải như là sự kiềm chế không "phạm vào hành
động tình dục sai trái", nhưng thực ra
giới này được áp dụng cho nhiều hành
động hơn là chỉ trong phạm vi tình
dục. Đức Phật thực sự muốn khuyên
chúng ta phải kiềm chế không "sử dụng các giác quan bừa bãi" -tất cả các
giác quan. Tà dâm là một hình thức sai phạm
đặc biệt tai hại của sự lạm dụng đó. Vì giới luật này, người ta thường nghĩ rằng khi nói
đến “lạm dụng các giác quan,” Đức Phật chỉ
muốn nói đến việc kiềm chế các hành
động sai trái trong tình dục. Các hành
động này bao gồm hiếp dâm, buộc người khác phải quan hệ tình dục mà
không có sự đồng ý của họ. Ngoài ra,
giới này cũng ám chỉ việc lạm dụng tình dục với trẻ em, thú vật, vợ/chồng
hay người tình của kẻ khác hoặc người không thể tự bảo vệ. Nếu một người
bạn tình, dầu không cưới nhau, nhưng đã
chung sống mà phản bội người kia, thì cũng bị coi là hành
động tà dâm. Quan hệ tình dục với
người đã trưởng thành, thích hợp và có
sự đồng ý thì không bị coi là sai
phạm. Ngoài những điều đã nêu ra, người
ta thường gặp nhiều vấn đề vì lòng ham
muốn dục vọng. Oái oăm là dục vọng
không bao giờ có thể hoàn toàn được
thỏa mãn. Dầu phải trải qua bao rủi may, bao phiền não, khổ
đau khi cố gắng thỏa mãn dục vọng của
mình, nhưng ước vọng muốn thỏa mãn ái dục không bao giờ mất. Một số người
hướng đến thiền vì sự khổ
đau dằn vặt do các ham muốn tình dục
của họ mang đến. Tiếc thay là thường
ngay trong lúc họ nỗ lực để đạt được thiền
định và tâm bình an, lòng ham muốn nhục dục vẫn quấy phá họ. Giải pháp duy nhất cho vấn đề này
là bắt đầu bằng việc kiềm chế các hoạt động tình
dục của bạn. Nếu bạn không thể kiềm chế chút nào, thì con
đường đến hạnh phúc sẽ mãi mãi xa vời.
Một số thiền sinh tinh tấn đã có thể
tiến những bước dài trong việc từ bỏ các tánh xấu như là rượu chè hay nói
dối, vậy mà họ không nhận ra được tại sao họ
phải kiềm chế các hoạt động tình dục của họ. Họ nói, "Tôi không
thấy gì là sai khi chỉ muốn vui vẻ một chút." Theo sự phân loại từ trước
tới nay về những điều không nên phạm
trong phạm vi hoạt động tình dục thì
hình như vẫn còn thiếu sót. Nhiều người biện luận rằng giới luật không nói
gì đến việc liên hệ với nhiều người
tình miễn là họ độc thân, phù hợp;
giới luật cũng không chống đối lại việc tìm
kiếm những khóai lạc tầm thường. Nhưng những khóai lạc tầm thường làm hạ
nhân phẩm của bạn, làm hèn mọn con người bạn. Sự quan hệ tình dục bừa bãi
mang lại tai hại cho bạn và cho cả người khác. Vậy thì mục đích của loại vui vẻ này
là gì? Để mang đến cho bạn khóai lạc?
Để thỏa mãn ham muốn của bạn? Tuy
nhiên, chúng ta đã nói từ trước tới
giờ rằng dục vọng – lòng ham muốn– chính là gốc rễ của khổ
đau. Diệu đế thứ hai của Đức Phật dạy rằng
tất cả mọi khổ đau đều xuất phát từ lòng tham ái. Hoạt
động tình dục bừa bãi là một trong
những cách dễ nhất để tâm ta rơi vào
trong vòng xoáy của tham và sân. Dục lạc thì chóng qua, nhưng cái giá phải
trả -sự nhục nhã, ê chề, lo lắng, ghen tuông,
ăn năn, sợ hãi, cô đơn, và mong
muốn được dục lạc nhiều hơn– thì không
thể kể xiết đến nỗi ta phải đuổi theo nó
không ngừng nghĩ.
Vấn đề là dục vọng không thể
được thỏa mãn bằng phương tiện vật
chất. Làm như thế cũng giống như gãi vào chỗ ngứa bằng những ngón tay tẩm
thuốc ngứa. Mặc dầu khi gãi có thể mang đến
cho ta một cảm giác giải thoát ngắn ngủi, nhưng hành
động đó lại làm chất
độc lan rộng thêm, khiến cho sự ngứa
ngái càng trở nên tệ hại hơn. Cách chữa trị cho căn
bệnh đó đòi hỏi bạn phải biết kiềm chế, không làm những gì chỉ
để tăng thêm phiền não cho bạn sau
này. Đức Phật đã dùng một ảnh dụ mạnh mẽ để diễn tả những sai phạm mà người
ta thường mắc phải trong vấn đề tình dục. Vào thời Đức Phật, những người
bệnh phong thường ngồi quanh đống lửa, đốt vết thương của họ. Bệnh phong
khiến họ bị ngứa ngái không thể chịu nổi. Bằng cách dí ngọn lửa vào vết
thương đem đến cho họ cảm giác giải thoát tạm
thời. Nhưng ngọn lửa không làm họ hoàn toàn hết ngứa hay chữa lành
bệnh họ. Thay vào đó là họ tự làm
phỏng mình. Một khi cảm giác dễ chịu tạm thời qua
đi, vết thương sẽ sưng lên và bưng mủ
vì phỏng. Những kẻ khốn khổ này cuối cùng phải chịu nhiều khổ sở và ngứa
ngái hơn trước đó nữa. Vì thế, những
người bệnh phong này lại ra đống lửa và
đốt mình nữa. Đức Phật bảo rằng chúng ta cũng như thế khi tìm cách thỏa mãn dục vọng
của mình. Khi ta tìm đến đống lửa của thú vui thể xác, ta có thể tìm được
cảm giác giải thoát tạm thời khỏi những đau khổ và thất vọng của dục vọng.
Nhưng đắm chìm trong đó không chữa lành được
ta, trái lại ta chỉ làm phỏng mình. Như thế thì lòng ham muốn, sự
ngứa ngái còn tăng lên
đến mức độ nào nữa? Đức Phật giảng tiếp, nếu có một vị y sư đến, mang theo thuốc chữa cho
người bị bệnh phong. Người bệnh xức thuốc và hoàn toàn
được chữa khỏi. Giờ thì anh ta nghĩ gì
về đống lửa? Không có quyền lực gì
trên trái đất này có thể khiến anh
muốn tự đốt mình nữa. Những người bạn
cũ có thể gọi anh đến bên
đống lửa. Nhưng anh nhớ lại những gì
đã xảy ra -sự
điên cuồng của lòng ham muốn và sự
giải thoát ngắn ngủi của ngọn lửa. Không có gì có thể khiến anh quay trở
lại đó. Anh cảm thấy lòng
đầy trắc ẩn đối với những người bạn cũ và
đối với những đau khổ của bản thân anh trước
đó. (M 75) Đức Phật thường nói về mình như là một bậc y sư và về giáo lý của Ngài,
Pháp, như là thuốc chữa. Đối với tất cả các thuốc trên thế
gian, Nghe như thế, có thể bạn tự hỏi "Vậy thì tôi phải chọn giữa người tình
và con đường đạo sao?” Ý nghĩ sai lầm này
đã khiến nhiều người lo ngại. Hoạt
động tình dục giữa hai người trưởng
thành, có trách nhiệm thì không cản trở gì
đến việc tu hành của họ. Thật ra, mối liên hệ hỗ trợ này có thể là
một tài sản quý báu để tiến bước theo tám
bước đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật.
Giới không phạm tà dâm có thể được giữ
bằng những phương cách vi tế hơn, vượt xa sự kiềm chế giới luật một cách
máy móc. Ở mức độ cao nhất, chúng ta coi tất cả mọi phụ nữ như là
chị, em gái của mình và tất cả mọi người nam như là em, anh trai, những
người lớn tuổi như cha mẹ mình, và những người nhỏ tuổi như con cái mình.
Được thế thì lòng ham muốn sẽ biến
mất. Vì đơn giản là ta không còn nhìn
người khác phái như một đối tượng của ham
muốn tình dục. Tất cả những thái độ
trước kia đều biến mất, ngay cả những ham muốn vi tế cũng tan vào
trong lòng bi mẫn bao la và sự quan tâm cho an toàn của người khác. Hơn thế nữa, để hoàn thiện Chánh
nghiệp trong Bát Chánh Đạo, Đức Phật khuyên
chúng ta không nên lạm dụng bất cứ giác quan nào của mình. Bên cạnh việc
phạm giới tà dâm, thì điều đó còn có
nghĩa gì? Đó là khi ta thỏa mãn lòng
ham muốn bằng cách kích thích bất cứ giác quan nào
đó đến độ nó rã rời,
đó là lạm dụng các giác quan. Lãnh vực nào chúng ta còn bỏ qua, chưa xét
đến trong các hành động của mình,
những hoạt động nào mà qua
đó ta thúc đẩy thân và tâm mình vượt
quá mức hợp lý vì mục đích khóai lạc
hay trốn tránh, lãng quên? Hãy tự hỏi mình: "Tôi có cho phép mình xem
truyền hình hằng giờ liền không? Hay bỏ thì giờ làm những công việc giấy
tờ không cần thiết mãi đến tận khuya? Ăn
nhiều hơn những gì cần thiết để duy trì
cuộc sống? Có đến các tụ điểm mà âm
nhạc quá ồn ào đến nỗi dường như tai ta muốn
vỡ tung ra? Có tìm cách thỏa mãn dục lạc
đến độ thân thể mệt mỏi, rã rời, không
còn sức để lao động ngày hôm sau? Có
sử dụng internet để đem lại lợi ích cho cuộc
sống và cộng đồng hay tôi chỉ lo giải
trí cho đến lúc mắt mờ đi và tâm đông
cứng lại?”
Các hoạt động này không thích hợp
cho thân, không thích hợp cho con đường tâm
linh. Nhưng buông bỏ chúng thì ta sẽ cảm thấy thế nào? Thì thay vào
đó, lòng tự trọng sẽ
được tăng trưởng. Ngã chấp xuất phát
từ các hoạt động này có thể
được phá bỏ, nhường chỗ cho một trái tim rộng
lượng, hướng về tâm linh, không còn là nô lệ cho tiếng gọi của dục
vọng. Không Sử Dụng Chất Gây Nghiện Giới luật cuối cùng trong năm giới dạy ta
phải tránh dùng rượu, ma tuý, hay những chất gây nghiện khác và
giới luật này cũng được hàm chứa trong
Chánh Nghiệp. Khi đưa ra giới luật này,
Đức Phật dùng các thuật ngữ có
điều kiện. Ngài không khuyên các cư sĩ
phải tránh tất cả mọi chất làm say, mà chỉ nói những thứ có thể khiến ta
"cuồng dại, vô tâm và bất cần." Nói cách khác, việc sử dụng chừng mực các
loại thuốc giảm đau có chất gây nghiện
(narcotic) được bác sĩ cho toa không vi phạm giới luật này. Việc
thỉnh thỏang dùng ít rượu nhẹ, cũng không thành vấn
đề. Tóm lại chúng ta phải sử dụng trí
thông minh của mình. Dầu được phép uống ít rượu, ta cũng không
nên làm. Vì ly này thường dẫn đến ly
kia. Có người chỉ sau một ly, cũng bị say, và không thể kiềm chế
được mình. Do
đó, lúc tốt nhất để thực hành việc tự
kiềm chế là trước ly rượu đầu tiên,
không phải sau đó. Người thì qua thời
gian mới trở nên nghiện ngập, mỗi lần uống tửu lượng của họ lại tăng
thêm một ít, nên họ không biết rằng việc uống rượu thường xuyên
đã trở thành một vấn
đề nghiêm trọng. Hơn thế nữa, việc trữ
rượu trong nhà cũng dễ khiến người ta mượn rượu
để giải sầu hay giảm căng thẳng. Chúng
ta có thể sống hoàn toàn khỏe mạnh mà không cần
đến rượu, nên tốt hơn hết là
đừng tạo cơ hội để rượu có thể hủy hoại cuộc
đời ta.
Với thời gian tôi đã
được nghe nhiều câu chuyện thương tâm do rượu
mang đến cho con người như thế nào. Thí dụ một thiền sinh ở Hội
Bhavana kể rằng, nhiều năm trước cô không
thích thú gì việc uống rượu và chỉ uống một ít khi bị mời ép. Ở các
bữa tiệc có rượu, cô không bao giờ uống hết một chai bia. Cô chỉ cầm chai
bia suốt buổi tối để hòa
đồng với những người uống rượu. Sau khi ra
trường, cô dọn đến một cộng đồng khác. Những người bạn mới ở nơi này
thường xuyên uống rượu và cô nhiễm thói quen thỉnh thỏang uống rượu cho
vui, một thói quen thành hình một cách chậm chạp. Cô kể rằng một
đêm kia, khi có chuyện phiền muộn, cô
đã uống một loại rượu mạnh hết ly này
đến ly khác. Khi bạn bè tỏ vẻ lo ngại,
ngăn cản thì cô nguyền rủa họ, bảo họ
hãy lo chuyện của họ. Bỗng nhiên, một cảm giác rất lạ xuyên qua cơ thể.
Sau này cô mới biết đó là một sự biến
đổi hóa chất. Từ lúc đó trở đi, cô trở thành
nghiện rượu. Suốt hai năm, mỗi ngày cô
đều uống rượu và mỗi tuần say xỉn ít
nhất vài lần. Cá tính của cô thay đổi theo
hướng tiêu cực, khiến cô rất đau khổ.
Cuối cùng, cô tìm đến các trung tâm cai
nghiện rượu để nhờ giúp đỡ và giờ cô đã
bỏ được rượu nhiều năm rồi. Có nhiều lý do khiến người ta tìm đến các
chất gây nghiện. Các bạn trẻ thì muốn làm người lớn hơn hay tỏ vẻ
trí thức; người nhút nhát, hoặc thiếu bình tĩnh, muốn thư giãn hay
được người chung quanh chấp nhận hơn; những
kẻ có vấn đề thì muốn tìm quên lãng. Tất cả mọi
động lực đều phát khởi từ khổ -từ việc muốn
thoát khỏi thực tại của những gì đang
xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Tuy nhiên, khi quán tưởng về vấn đề này,
ta thấy rằng việc chạy trốn không bao giờ có thể giải quyết bất cứ vấn
đề gì hay làm giảm bớt bất cứ khổ
đau nào. Nghiện rượu hay nghiện các
chất ma túy chỉ khiến cho ta càng thêm đau
khổ. Nó khiến ta đánh mất lòng tự trọng, căn
bản đạo đức của mình, sống thiếu kiềm chế. Ta có thể dễ dàng nói
dối, phạm vào tà dâm, trộm cắp hay những điều
tệ hơn thế nữa. Ta còn có thể hủy hoại sức khoẻ, tài sản, hôn nhân,
gia đình, công việc, kinh doanh của
mình. Ta có thể đánh mất sự kính nể của người
khác và lòng tự trong của mình. Cuối cùng ta sẽ bị bỏ rơi, ngập
ngụa trong khổ đau để tự hỏi tại sao
những việc ghê gớm này có thể xảy đến cho ta.
Tóm lại, thuốc chữa tốt nhất cho việc nghiện ngập là trước hết hãy
đừng sử dụng các chất gây nghiện!
Để có thể thực hành Bát Chánh Đạo tốt hơn, chúng ta có thể xét rộng hơn
ý nghĩa của giới luật thứ năm này ở mức độ cao hơn trong việc kiềm chế
không sử dụng các chất gây nghiện. Chúng ta tự sử dụng thuốc trong những
trường hợp nào khác và tại sao? Sử dụng khía cạnh này của Chánh Nghiệp như
là một hướng dẫn tổng quát, hãy chất vấn động
lực của bạn, tự hỏi có phải bạn đang cố gắng để không phải chánh niệm. Bạn
trốn tránh vấn đề của mình như thế nào? Bằng cách
đọc báo? Hay tham gia vào các cuộc nói
chuyện phù phiếm? Chánh niệm có thể giúp ta xác
định được những thứ ta bày ra
để tránh phải luôn đối mặt với thực tại.
Những Giới Luật Cao Hơn Dành Cho Cư Sĩ Hằng ngày chúng ta cần tuân giữ năm giới.
Tuy nhiên nếu muốn tiến nhanh hơn trên đường
tu, ta có thể tự nguyện tuân theo một số điều luật trong một thời gian nào
đó. Các giới luật này bao gồm năm
giới căn bản và một vài giới khắt khe hơn. Một số thiền sinh nguyện
tuân giữ các giới này vào những dịp đặc biệt,
như là khi họ dự một khóa tu thiền hay khi họ
đến sống ở các trung tâm thiền, các tu viện.
Có tám giới luật: - Không giết hại - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói dối - Không dùng các chất gây nghiện - Không ăn sau ngọ
- Không nhảy múa, hát ca, nghe nhạc hay xem hát, và không dùng nữ
trang, mỹ phẩm hay hương thơm - Không dùng giường nệm hay chỗ ngồi cao và rộng – (những thứ xa xỉ) Thỉnh thỏang tuân giữ tám giới này có thể giúp cho sự hành thiền của ta
được tốt hơn. Khi lương tâm trong sáng, ta
không có lý do gì để ăn năn hối hận,
thì tâm định của ta sẽ phát triển mạnh
mẽ hơn.
Vào thời xa xưa, người dân ở các quốc gia theo Phật giáo tuân giữ tám
giới luật cả ngày, một tháng bốn lần. Những ngày ấy, họ
đến chùa hay thiền viện ở trọn cả
ngày, hành thiền, đọc tụng kinh sách, nghe
thuyết pháp và tham vấn giáo lý. Đôi
khi họ hành hương từ chùa hay thánh
địa này đến nơi khác. Bất cứ ở đâu khi
tụ họp lại, họ đều hành thiền, nghe pháp do các vị cư sĩ hay tu sĩ
thông thái thuyết giảng. Hôm sau, họ lại trở về với những hoạt
động thường nhật.
Ngày nay rất ít người thực hành nghi lễ tôn giáo (Bát quan trai) này.
Phần đông chúng ta khi không phải kiếm sống
hay chăm sóc con cái, thì làm công việc nhà, coi truyền hình, dự
tiệc tùng, xem hát, đi ăn hay đến các quán
bar. Khi đã chán tất cả các hoạt động
này thì ta đi du lịch. Thông thường là
chúng ta phải làm việc rất cực nhọc để có
tiền đi du lịch, nhưng nó lại bao gồm một cuộc chạy đuổi khác theo các
hoạt động hầu mang đến khóai lạc. Khi trở về nhà,
đôi khi ta cảm thấy cần một kỳ nghỉ khác để
lấy lại sức từ kỳ nghỉ trước! Rồi ta lại phải tiếp tục làm việc vì
nếu không có tiền thì sẽ không có kỳ nghỉ nào nữa, mà nếu không làm việc
cật lực thì cũng không có tiền. Có lẽ bạn cũng
đã nhận ra cái vòng lẩn quẩn của khổ
đau này. Tuy nhiên, việc tu Bát quan trai để tuân
giữ tám giới luật này giúp ta có một chọn lựa khác. Việc tu Bát
quan trai trong một ngày, một cuối tuần, hay lâu hơn có thể mang
đến cho chúng ta một sự nghỉ ngơi thật sự
khỏi những công việc thường nhật và khiến ta
được tươi mát hơn, đầu óc trong sáng hơn,
không mệt mỏi, cáu kỉnh. Ta không cần phải đến chùa mới trì
được tám giới luật này, mà có thể thực
hành ngay tại nhà. Khi nhà có trẻ nít, cơ hội
để có được những giờ phút yên tĩnh và tự do có thể rất hiếm. Vì thế
mà để có thể sử dụng những thời gian quý báu
này vào việc giúp ta vun trồng được
nội tĩnh, là điều rất quan trọng. Ích
lợi ngay trước mắt của việc tu tập này là cảm giác bình an, tự tại,
thư giãn, cải thiện sức khoẻ, cũng như giúp ta có một cái nhìn
đúng đắn hơn về cái chết. Sự kỷ luật không
thường xuyên này có thể xoa dịu, mang lại thoải mái cho cả thân và
tâm. Thí dụ, những người thường ăn ba hay bốn
bữa một ngày có thể thấy rằng việc nhịn
ăn một ngày một tuần là một việc làm
tốt. Rồi họ có thể bắt đầu một ngày
chỉ ăn hai bữa và nhịn sau
đó. Hai bữa ăn này phải là một bữa
điểm tâm thật đầy đủ và một bữa
ăn trưa nhẹ. Họ nên bỏ qua bữa tối. Vì
nếu không có nhiều hoạt động sau một bữa ăn
nặng vào buổi tối, tiến trình tiêu hóa rất chậm, và
đồ ăn sẽ ở trong bao tử cho đến sáng hôm sau.
Khi ta không ăn gì buổi tối, ta sẽ cảm thấy khá
đói sáng hôm sau. Vậy thì ta có thể
ăn một bữa điểm tâm thật đầy đủ. Có thể hầu
hết các ngày, do nhu cầu của gia đình
và công việc không cho phép ta ăn bữa điểm
tâm đầy đủ và ăn nhẹ (hay không ăn gì)
vào buổi tối. Vì thế nếu chúng ta có một ngày
đặc biệt để tu theo Bát quan trai, thì nó sẽ giúp ta có cơ hội
để thử phương cách ăn uống này. Thời gian mà ta tiết kiệm được vào
buổi tối khi ta không phải chuẩn bị bữa ăn,
ăn uống, rồi dọn dẹp từ một bữa ăn nặng nề có thể dùng
để làm nhiều việc ích lợi khác, như là
hành thiền hay đọc kinh sách Phật. Dầu việc
thực hành này lúc đầu không phải dễ,
nhưng nó là một thói quen tuyệt vời cần
được huân tập. Hãy nhớ rằng, không có
gì dễ lúc ban đầu. Sau khi đã quen
không ăn nhiều, bạn có thể cố gắng không ăn
trọn một ngày. Đừng ăn bất cứ thực
phẩm gì, nhưng uống thật nhiều nước và nước trái cây. Hãy dành ngày
đó cho riêng mình,
đọc sách và hành thiền. Một ngày như
thế là một kỳ nghỉ ngắn tuyệt vời cho thân và tâm. Thọ Bát quan trai một cách chính thức giúp ta giữ tâm chánh niệm. Khi
ta bắt đầu làm
điều gì phạm một trong các giới luật
đó, tâm ta sẽ nói, “Chờ một chút, hãy
nhớ …!" và ta sẽ nhớ lại, "Ồ, tôi không được
…” Giới luật cũng giống như ngọn roi mà người
đánh xe dùng
để nhẹ nhàng nhắc nhở con ngựa chạy
đúng hướng, hay là tiếng kèn xe
để nhắc nhở bác tài không sai lệch
đường.
Người cư sĩ cũng có thể nguyện thọ suốt
đời một số các giới luật gọi là bát giới. Các giới này bao gồm năm
giới căn bản cộng với ba giới phụ thêm về Chánh Ngữ: không nói lời
ác độc, không nói lời cộc cằn, và
không nói xấu. Năm 1998, khi làm lễ kỷ
niệm mười năm ngày thành lập Hội
Bhavana, các thành viên trong Hội được mời
tham dự trong buổi lễ thọ nhận bát giới suốt đời. Việc này do một
trong những thành viên ban chấp hành đề nghị,
vì chính bà cũng muốn thọ bát giới. Những người tham gia
được yêu cầu dự một khóa tu hai ngày
trước buổi lễ để chú tâm vào ý nghĩa
của việc thọ nguyện. Lời mời này được đón
nhận rất nhiệt tình. Ba mươi sáu người
đã tham dự khóa tu, nguyện suốt đời
nương tựa Phật và thọ nhận tám giới luật suốt
đời. Từ đó hằng năm chúng tôi đều thực hiện
nghi lễ này. Chuẩn bị tinh thần để thọ nguyện bát giới
đối với một số thiền sinh không phải dễ. Một số tỏ vẻ lo sợ, số
khác lại cảm thấy khó tuân giữ. Đúng là thật khó khi ta phải phát lời thệ
nguyện! Buổi lễ thọ giới chính ra rất đơn giản. Người thọ giới đọc lại thọ
nguyện trong kinh, chung cả nhóm. Rồi mỗi người nhận một pháp danh mới
theo ngôn ngữ cổ truyền Pali. Nghi lễ đơn giản này để lại ấn tượng tốt
đẹp trong đời của người thọ giới, ảnh hưởng
nhiều đến cách họ nói năng. Sau khi thọ nguyện, khi tuôn ra những lời cộc
cằn, cay độc, họ sẽ ngay lập tức nhận ra lỗi lầm của mình. Giới
luật như một lời nhắc nhở của lương tâm, khiến họ dừng lại. Cứ thế, dần
dần họ sẽ không còn sử dụng tà ngữ nữa. Sự chuyển hóa
đơn giản này giúp họ có thể thấy giới
luật vận hành như thế nào để tạo ra hạnh
phúc.
Nhiều người sau khi thọ bát giới đã
viết thư cảm ơn tôi. Họ nói rằng đó là
một bước ngoặt trong đời họ. Nhưng tại sao họ
phải cám ơn tôi? Tôi đâu có yêu cầu họ phát lời thọ nguyện. Chính
họ tự nguyện. Họ phát lời thọ nguyện không phải cho tôi, cho người thân
của họ, hay cho ai khác, mà cũng không phải vì luật pháp
đòi hỏi hay vì ích lợi toàn cầu. Họ tự
nguyện thọ trì các giới luật này cho bản thân, cho cuộc sống riêng của họ,
cho hạnh phúc ở hiện tại và trong tương lai của họ. Bạn không nên sợ phải phát nguyện thực hành theo Chánh Nghiệp hay tu
Bát quan trai, hay thọ trì bát giới suốt đời.
Trái lại, bạn phải vui mừng rằng mình đã
quyết định hành
động để sống tốt đẹp hơn. Những người nghiện
rượu, ma túy, cờ bạc, hay có một số những hành vi bất thiện khác
rất khó quyết định dừng lại. Họ trì
hoãn và luôn có nhiều lý do để thoái thác.
Nhưng một khi đã quyết định chuyển đổi
và tuân giữ giới luật được một thời
gian, họ nhận thấy tâm trí họ trở nên trong sáng hơn,
ăn ngủ tốt hơn, dành dụm
được tiền bạc, và những mối liên hệ
với gia đình, với xã hội phát triển
tốt đẹp hơn. Vì thế, họ
đầy lòng mang ơn và tự hào về bản
thân, vì đã chọn
đi đúng hướng.
Tương tự, chúng ta có thể cũng đã
gặp khó khăn khi phát nguyện từ bỏ các bất
thiện pháp. Nhưng một khi ta đã
thọ nguyện và kiên trì tu tập, thực hành, ta sẽ
được hạnh phúc, tự tại, và hoan hỷ
rằng mình đã có một quyết
định mang đến sự chuyển hóa tốt
đẹp cho cuộc đời mình. CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH NGHIỆP Đức Phật dạy rằng, "Tất cả mọi lời nói, hành động, và ý nghĩ thiện đều
xuất phát từ tâm chánh niệm." Nói cách khác, Chánh Nghiệp phát xuất một
cách tự nhiên từ tâm chánh niệm. Hãy quán sát kỹ hơn tại sao là như thế. Mọi hành
động có chủ tâm của thân, khẩu và ý,
đều có tác động mạnh mẽ đối với chúng ta. Khi
gây thương tổn cho ai hay hành động
sai trái, ta thường trải qua những bức xúc vật lý (nơi thân), đưa đến
trạng thái tâm bối rối, đau khổ. Chánh niệm giúp chúng ta thấy được những
ảnh hưởng tai hại này một cách rõ ràng. Ta thấy rằng một hành
động bất thiện dẫn đến cảm giác ăn năn, cảm
giác này lại dẫn đến lo âu, phiền muộn
khiến tâm không được thanh thản. Khi tâm bứt rứt, chúng ta không còn
khả năng định tĩnh. Hành
động càng tiêu cực, thì tâm càng bấn
loạn, lo âu. Vòng ác nghiệp đã thành
hình, qua đó các hành vi bất thiện này
lại ảnh hưởng, sai khiến ta phạm thêm các tội lỗi khác nữa. Ngược lại cũng thế. Với tâm chánh niệm, chúng ta thấy rằng khi ta hành
động với tình thương yêu, tâm ta trở
nên nhẹ nhàng, an tĩnh. Tâm thanh tịnh sẽ giúp ta thêm hoan hỷ và giúp ta
chú tâm định tĩnh sâu lắng hơn. Biết được
điều này, ta sẽ cảm thấy hăng hái theo
đuổi các thiện pháp. Thân và tâm ta trở nên mạnh khỏe, trong sáng
hơn. Kết quả tích cực này giúp ta tiến bước trên con
đường đạo.
Tôi còn muốn nói rộng hơn, là chánh niệm trong việc trì giới -dầu
đó là năm,
tám hay nhiều giới hơn nữa– cũng đều
khiến ta thêm vẻ trang nghiêm, đẹp đẽ!
Khi ta nói hay hành động với tâm chánh
niệm về các giới luật, ta sẽ cảm thấy tự tại, bình an. Và khi tâm
không vướng bận, vẻ mặt bạn sẽ sáng láng, vui tươi. Khi nghĩ về những việc
thiện đã làm, ta sẽ cảm thấy rất hoan
hỷ. Tâm an lạc này tỏa sáng trong mắt và trên vẻ mặt của bạn. Người ta sẽ
cảm thấy dễ gần gũi với những người như thế. Khi ta chánh niệm về Chánh Nghiệp, tâm không vướng bận cũng giúp ta chú
tâm vào mỗi giây phút qua đi, nhưng không
phải trong tâm trạng buồn nản, thụ động. Ta dồn hết mọi khả năng và
trí lực vào nhiệm vụ vừa ý thức được những gì
đang diễn ra trong tâm và vừa giao
tiếp khéo léo với thế giới quanh ta. Bằng cách
đó chúng ta phát triển được sự tĩnh
giác về các hành động của mình. Tâm chánh niệm như thế càng trở nên thiết yếu hơn khi sức chịu
đựng của chúng ta bị thử thách. Khi
không bị ai thách thức, quấy rầy thì cũng dễ giữ gìn giới luật và hành
động một cách hòa nhã. Nhưng khi có ai
đó nói điều gì làm tổn thương hay chọc
giận bạn, thì tâm bạn có thể bị xáo trộn ngay trong giây phút
đó. Tuy nhiên nếu có chánh niệm, tâm
sẽ xuất hiện đúng lúc để nói, “Hãy
dừng lại trong giây lát để tâm bình
tĩnh trở lại. Tốt hơn hết không nên nói hay làm
điều gì khiến ta ân hận." Nếu ta giữ được ý thức chánh niệm trong
mọi hoạt động, thì khi bị khiêu khích, ta cũng sẽ nhớ
để giữ bình tĩnh. Thí dụ, khi
đang đau khổ vì mất người thân hay một
tài sản quí giá, thì chỉ một kích động nhỏ
cũng có thể khiến ta trở nên giận dữ. Lúc
đó, ta phải cẩn thận gấp bội khi giao tiếp
với người, giống như người không có giày
đi nhẹ nhàng, cẩn trọng tránh miểng
vỡ. Khi ta bệnh hoạn, mệt mỏi, đói khát, cô
đơn, đau khổ, bực bội, cũng quan trọng như thế. Những lúc ấy, giữ được
chánh niệm trong từng giây phút giúp ta nhớ đến trạng thái yếu đuối, dễ
phản ứng hiện tại để tránh những hành
động có thể khiến ta hối hận.
Một trường hợp khác khi bạn phải hết sức chánh niệm là khi bạn cảm thấy
mình đang ở trong một môi trường mà
những thói quen trong quá khứ có thể lôi cuốn bạn vào việc phạm giới luật
đạo đức. Một người đã từng
ăn cắp dễ dàng phải lập tức trở nên
chánh niệm khi thấy cái bóp của ai đó nằm
trong tầm tay. Một người từng nghiện rượu phải lập tức chánh niệm trước
những ly bia miễn phí được trao tận tay. Một người đàn ông
đã có gia
đình từng phải đấu tranh với dục vọng,
bị một phụ nữ quyến rũ bằng cách trao cho anh tấm danh thiếp, anh ta phải
tự nhủ, “Nếu tôi cầm lấy số điện thoại này, nó sẽ khiến tôi muốn
phạm tội. Tâm tôi sẽ không còn được bình
an. Tôi yêu vợ con và không muốn làm tổn hại gia
đình. Tốt hơn hết là tôi không nhận
hay vứt nó đi ngay lập tức.”
Trước khi ta đạt được giác ngộ và
tâm đã
được trui rèn kỹ lưỡng, ta sẽ còn có thể phạm nhiều
điều bất thiện khác nữa. Trước khi làm
điều gì mà ta biết là sai, ta nên dừng
lại và quán tưởng một cách đầy chánh niệm về
việc hành động này có thể gây
tai hại cho ta như thế nào. Thí dụ, nếu ta cảm thấy bị cám dỗ muốn
ăn cắp tiền của chủ, ta cần phải quán sát về
hậu quả của hành động ăn cắp: ta sẽ
phải sống trong sự sợ hãi bị bắt. Nếu bị bắt gặp, chắc chắn rằng ta
sẽ mất việc, mất danh dự và ngay cả sự tự do. Ngay nếu như ta không bị
luật pháp trừng trị, thì lương tâm ta cũng sẽ trừng trị ta ngay lập tức.
Ngay chính ý nghĩ muốn thực hiện một hành
động như thế cũng khiến tâm không được an, thì tâm ta sẽ còn bị xáo
trộn biết bao nếu ta thực hiện hành động đó?
Khi một ý nghĩ bất thiện vẫn còn chỉ là một tư tưởng thoáng qua, ta
còn có thể sống với nó. Nhưng một khi đã
thành ra hành động, chắc chắn ta sẽ chẳng bao
giờ được sống trong bình an. Ta cũng phải cân nhắc hạnh phúc ngắn ngủi mà một hành vi bất thiện có
thể đem đến, so với sự đau khổ dài lâu
mà nó gây ra. Thí dụ bạn có cảm giác muốn
đánh ai đó. Ý nghĩ này có thể xuất hiện vì bạn tin rằng bạn sẽ
được hả dạ sau đó: “Tôi đã trả
được thù, tên này lần sau sẽ không dám
làm vậy nữa!" Nhưng bạn không thể đoán được
kết quả một cách chính xác. Người kia có thể cũng trở nên giận dữ
và đánh trả lại bạn mạnh hơn. Anh ta cũng có
thể đem lòng oán hận và âm thầm dự
định tấn công bạn. Một phản ứng không khôn ngoan có thể dẫn đến những cuộc
tranh cãi lâu dài và đắng cay.
Tôi biết một người ở Tích Lan có hiềm khích lâu
đời với hàng xóm.
Để trả thù họ, anh ta xây một căn
chòi cạnh bên giếng nước của nhà hàng xóm. Người hàng xóm than
phiền, yêu cầu anh dỡ bỏ căn chòi,
nhưng anh ta từ chối. Sau đó, những người
trong nhà hàng xóm đều ngã
bệnh. Việc tranh chấp giữa hai gia đình
trở nên nghiêm trọng cho đến khi một người
phạm tội sát nhân. Pháp luật điều tra và người
đàn ông kia cuối cùng phải vào tù. Cả
hai gia đình
đều đau khổ. Nhưng họ sẽ còn tiếp tục
thù hằn nhau qua nhiều thế hệ nữa! Sự tranh cãi giữa hàng xóm ở
đâu cũng có. Có hàng tỷ những cuộc
tranh cãi như vậy. Nếu có những sự tranh cãi như thế xảy ra cho ta, ta
phải ngưng ngay lập tức và cố gắng làm dịu tình hình. Những cuộc tranh cãi
không kiềm chế sẽ làm tổn hại tất cả mọi người liên quan. Chánh nghiệp không phải do Đức Phật chế
ra. Mà sự thật luôn là các hành vi bất thiện sẽ mang
đến khổ đau và gây ra hận thù. Như
Đức Phật đã diễn tả ý tưởng này như
sau: Hận thù không thể xóa bỏ hận thù. Đức Phật không nói luật đó do Người chế. Nó không chỉ áp dụng cho người
Phật tử mà cho tất cả mọi người. Với tâm giác ngộ,
Đức Phật có thể thấy rõ ràng các hậu
quả xấu ác là do các hành vi sai trái gây ra. Ngài
đã dạy, Nếu hành động hay nói với tâm uế nhiễm, Nếu hành động hay nói với tâm trong sáng, Chánh Nghiệp không chỉ giúp tâm ta được
thanh tịnh mà nó cũng ảnh hưởng tích cực
đến mọi người quanh ta. Có lần tôi được nghe
một câu chuyện về một vị tăng đã thể hiện cho người khác thấy sự
chánh niệm về chánh nghiệp có thể giúp người khác như thế nào. Ngôi chùa
nơi vị tăng ấy sống có một cây mít đang ra
trái. Mít rất ích lợi cho cuộc sống ở tu viện. Mỗi trái mít lớn, với những
hạt to đầy chất protein và những múi mít dầy có thể dùng
để nấu ra nhiều món. Những gia đình
nghèo khó không đủ khả năng mua thực phẩm, có
thể sống nhờ vào cây mít. Mặc dù mít không phải là loại trái cây có
giá, nhưng việc hái trộm mít trong những khu vực nghèo khó
đôi khi khiến kẻ trộm phải mất mạng.
Một đêm kia vị sư nhận biết có kẻ
trộm đang hái mít trong chùa. Kẻ trộm
đang ở tít trên cành cây cao, và thả
từng trái xuống bằng một sợi dây thừng để nó
không rơi xuống đất gây ra tiếng động, và gây sự chú ý. Kẻ trộm có
cách thắt sợi dây quanh trái mít sao cho khi nó vừa chạm
đất, thì sợi dây giãn ra. Sau
đó, kẻ trộm sẽ kéo sợi dây lên
để buộc trái kế tiếp. Vị sư ra đứng im lặng
dưới gốc cây mít. Khi mỗi trái mít chạm mặt đất, ông giúp tháo dây ra.
Cuối cùng kẻ hái mít trộm cũng leo xuống
đất. Anh ta gần té xỉu khi thấy một vị sư vui vẻ đứng chờ. Vị sư nói với
anh một cách dịu dàng, không giống như là một nạn nhân của kẻ trộm,
mà giống như một bậc cha mẹ lo lắng, hỏi han ân cần, "Con
đã hái đủ
mít chưa? Con có cần thêm không?" Không cần phải làm ồn ào la lối,
khiến cho kẻ trộm có thể bị những người khác trong chùa gây khó khăn.
Thái độ ôn tồn và rộng lượng của vị sư khiến kẻ trộm quá xấu hổ
đến nỗi anh ta lủi đi nhanh chóng và
không bao giờ còn trở lại để trộm cắp trong
chùa nữa. Bạn sẽ làm gì nếu bạn phạm một trong những giới luật
đạo đức của chánh nghiệp? Câu trả lời rất đơn
giản: Hãy thực tập chánh niệm. Trước hết, hãy ý thức ta
đã làm gì. Sau
đó, nếu có thể thì sửa
đổi. Cuối cùng, quyết chí giữ giới về
chánh nghiệp trong tương lai. Nếu bạn đã
phạm giới nào, thì phải lập lại lời thọ nguyện. Sau
đó hãy buông xả hành vi sai trái
đi. Ăn năn, hối hận hay lo âu về những hậu
quả vượt quá tầm kiểm soát của ta, cũng không giúp được gì cho ta.
Hãy chấp nhận những sai trái trong quá khứ với thái
độ rộng lượng và từ bi như vị sư
đã làm
đối với cho kẻ trộm mít ấy. Hành động
như thế sẽ giúp ta tăng thêm tinh tấn tu tập chánh nghiệp. TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH NGHIỆP - Bất cứ ai quan tâm đến sự phát triển tâm
linh cần phải tuân giữ năm giới: không giết hại, không trộm cắp, không nói
dối, không tà dâm, và không sử dụng ma túy hay rượu. - Việc ăn thịt theo định nghĩa không phải
là sát sanh. - Sự giết hại hay sát sanh đòi hỏi
phải có chủ đích, có ý thức, có kế hoạch, và
hành động theo kế hoạch.
- Khi chúng ta không sát hại, là ta thực hành tâm từ bi và ta không
đe dọa mạng sống của chúng sanh nào. - Trộm cắp nghĩa là lấy của không cho, kể cả tư tưởng, sáng kiến của
người khác. - Khi chúng ta không trộm cắp, chúng ta phát triển lòng tôn trọng
đối với nhu cầu của người khác và thực
hành tâm hoan hỷ. - Giới không tà dâm bao gồm cả việc không hãm hiếp, không bắt buộc
người khác phải giao hợp khi họ không đồng ý,
không lạm dụng tình dục với trẻ em, thú vật, vợ/chồng người khác
hay với người không thể tự bảo vệ; kể cả việc gian dối trong một mối liên
hệ. - Khi chúng ta không phạm tà dâm, thì những dục vọng thấp hèn có thể
được tiêu diệt. Sự liên hệ tình dục
với người phối ngẫu hay bạn tình không bị coi là tà dâm. - Chúng ta cần tránh tất cả mọi sự cố ý lạm dụng các giác quan. Làm
được thế sẽ giúp ta buông xả được lòng
tham ái, và qua đó, phát triển được tâm rộng
lượng đối với người.
- Nghiện rượu hay ma túy, có thể nhanh chóng xảy mà cũng có thể do tập
dần trở thành thói quen; nghiện ngập rất tai hại, tốt nhất là
đừng thử sử dụng các chất gây nghiện.
- Khi chúng ta tránh sử dụng các chất gây nghiện, ta có thể duy trì
được tâm sáng suốt và tu tập
để đoạn diệt các vọng tưởng. Chúng ta
có thể phát triển tâm chánh niệm và rèn luyện
để hành động đúng theo thực tại.
- Thọ thêm các giới luật khác, hoặc là bát quan trai luật hay tám giới
luật trọn đời, có thể là một công cụ
hữu hiệu giúp ta thiền định và tiến
hơn nữa trên con đường đạo.
- Chánh niệm có thể giúp chúng ta chế ngự
được cám dỗ, tránh tranh cãi, và hành
động đầy từ bi với những sự vô đạo đức của người cũng như của bản thân ta.
-ooOoo- Chân thành cám ơn
Đạo hữu Diệu Liên đã gửi tặng bản vi tính (Bình
Anson, 09-2007) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Theo Dấu Chân Phật
Walking the Buddha’s Path
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
Thì kẻ ngu cũng thành khôn. (Thig 213)
được sinh ra với cái búa trong miệng.
Kẻ ngu dùng những lời thô tục
là tự làm mình và người khác bị thương
bằng cái búa đó. (Sn 657)
với những lời nói cộc cằn thô lỗ.
Nhưng biết làm thế nào để tự kiềm chế
Chỉ việc đó đã là chiến thắng. (SI.7.1
[3])
những lời làm người ta vui vẻ đón nhận,
những lời không ác ý với ai;
hãy luôn nói lời từ ái với người khác. (Sn 452 [do Thượng Tọa S.
Dhammika dịch])
- Không trộm cướp
- Không nói dối
- Không tà dâm
- Không dùng rượu hay các chất say khác
Ai cũng sợ sự chết.
Suy ta ra lòng người,
Chớ giết, chớ bảo giết. (2) (Dh 129)
Đa dạng và
đa loại,
Nhưng không có thứ nào giống thuốc của Pháp.
Do đó, này hỡi các tỳ kheo, hãy uống
thuốc này.
Đã uống thuốc Pháp này,
Ta sẽ không còn già, và chết.
Đã tu tập và đã thấy được chân lý,
Ta sẽ dập tắt, giải thoát khỏi ái dục. (Miln 335 [5] [Hòa Thượng S.
Dhammika)
Chỉ có tình thương mới xóa được hận thù.
Đó là luật thường hằng. (Dh 5)
đau khổ sẽ theo sau ta,
như bánh xe theo dấu chân con bò.
hạnh phúc sẽ theo ta
như bóng theo hình. (Dh1-2)
last updated: 10-09-2007