BuddhaSasana Home Page Bát Chánh
Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc
Eight Mindful Steps to Happiness Hòa thượng Henepola Gunaratana Bước 5
Một đệ tử của tôi kể rằng có một nữ doanh
nhân thành đạt rất quan tâm đến các
giới luật đạo đức theo Phật giáo. Một lần bà tìm
được một mối kinh doanh mới, có một số tiệm
rượu đang rao bán. Bà biết nếu nhân cơ hội này mua các tiệm ấy, thì
bà có thể được nhiều lợi lộc. Tuy nhiên
có điều gì
đó đã ngăn
cản bà lại. Khi bà quán xét về việc kinh doanh bán rượu, bà nhận
thấy rằng một số khách hàng của tiệm rượu có thể bị tổn hại. Họ có thể
uống rượu rồi làm những điều tai hại! Họ có
thể trở thành những kẻ rượu chè trác táng, hoặc tệ hơn nữa là những
kẻ nghiện ngập. Để bảo vệ sự phát triển tâm
linh của mình, bà từ chối không mua, bỏ qua mối kinh doanh
đó.
Câu chuyện này đã nói lên
được một chân lý rất minh bạch: phương cách
kiếm sống không nên ảnh hưởng đến sự
phát triển tâm linh. Chúng ta không thể liệt kê ra một danh sách
đầy đủ những nghề nghiệp hay công việc được
coi là Chánh Mạng, nhưng Đức Phật đã
cho chúng ta một hướng dẫn căn bản: bất cứ
công việc/nghề nghiệp nào cũng có thể
được coi là chánh mạng nếu nó không
đem lại tai hại cho bản thân người làm công việc
đó hay cho bất cứ ai khác. Dĩ nhiên,
không có việc gì là hoàn hảo. Phương cách kiếm sống hoàn hảo duy nhất là
công việc được làm bởi một người hoàn
hảo - người đã hoàn toàn
đoạn diệt được tất cả tham, sân, và
si. Nhưng những người như chúng ta, còn đang
trên đường tiến đến sự hoàn hảo
đó, vẫn có thể làm
được nhiều thứ để hòa hợp công việc
làm với cuộc sống tâm linh. Như với hầu hết những câu hỏi về đạo đức
Phật giáo, lý do tại sao ta phải quan tâm đến Chánh Mạng có hai mặt. Việc
làm mà tổn hại đến người khác thì
tự nó đã sai vì nó vi phạm căn
bản đạo đức. Nhưng nó cũng sai vì nó gây tổn hại cho bản thân người
làm công việc đó. Lý do là vì chưa
giác ngộ, chúng ta không thể hoàn toàn tránh việc bị kích
động trở nên giận dữ hay
đau khổ. Trong khi đó công việc phải làm
khiến ta phải tranh đấu với lòng tham
và sân. Tuy nhiên chúng ta có quyền lựa chọn
để tránh những công việc có thể cản trở sự tiến bộ tâm linh của ta. Nếu
nghề nghiệp của ta gây ra quá nhiều sân hận, thì tâm không thể an
tịnh để hành thiền. Hãy lấy một thí dụ rất hiển nhiên. Thí dụ công việc của một người
đòi hỏi anh ta phải giết thú vật. Anh
ta có thể là nhà nghiên cứu phải thí nghiệm một loại thuốc mới trên những
con chuột trong phòng thí nghiệm. Hay anh ta có thể là người bán cá hay
bán thịt heo. Khi người đó hành thiền,
tâm anh ta có thể bị xáo trộn. Hằng ngày anh phải chứng kiến các thú vật
đau khổ dưới tay anh. Anh nhìn thấy
nỗi sợ hãi trong mắt chúng và sự cố gắng vùng vẫy
để thoát khỏi hiểm nguy của chúng; anh nghe
được tiếng kêu rên và cảm nhận được
nỗi đau của chúng. Những hình ảnh này luôn ám ảnh anh khi trở về
nhà. Để làm
được công việc này, anh phải tự lừa
dối mình rằng thú vật không có cảm giác, chúng không thực sự là những sinh
vật biết đau đớn như anh. Trong tâm, anh biết
rằng suy nghĩ này là không đúng, nhưng
anh tiếp tục giết hại vì đó là
công việc của anh. Sự dằn xé nội tâm khiến tâm anh bấn loạn và các hình
ảnh ghê rợn lại hiện ra trong lúc anh hành thiền. Anh không thể thực hành
tâm từ bi; anh cũng không thể thư giãn. Rõ ràng công việc của người này
không thể là Chánh Mạng. Đối với một số công việc, như là giết súc vật, ta có thể dễ dàng biết
là xấu. Còn lại, đôi khi việc đánh giá thế nào là một việc làm/nghề nghiệp
được coi là Chánh Mạng thì phức tạp hơn nhiều. Một số công việc có thể
được chấp nhận ở một số nơi nhưng lại không
được chấp nhận ở chỗ khác tùy vào hoàn cảnh, thí dụ như là người
chủ có đòi hỏi nhân viên hành
động một cách vô đạo đức hay không. Sự quán
sát ở ba mức độ sau đây sẽ giúp
chúng ta quyết định rằng một công việc có
được coi là Chánh Mạng hay không. CÁC CÂU HỎI
Chúng ta có thể quyết định xem một công
việc có được coi là Chánh Mạng hay không bằng cách tự hỏi ba câu
hỏi tương quan nhau. Trước hết, công việc của tôi tự nó có xấu không? Đó là, qua định nghĩa, công việc đó có xấu không? Nó có liên quan đến
việc sản xuất, mua bán, quảng cáo, hay sử dụng súng hoặc các loại vũ khí
khác không? Nó có liên quan đến chất độc hay chất gây nghiện không? Nó có
gây tai hại hay giết sinh vật không? Chính
Đức Phật đã dạy rằng những nghề nghiệp liên quan
đến vũ khí, chất độc, hay giết hại thì
rõ ràng không phải là Chánh Mạng. Có nhiều nghề nghiệp rõ ràng rơi vào loại này. Thí dụ, việc nghiên cứu,
phát triển những vũ khí hóa học, hạt nhân, sản xuất hay buôn bán thuốc trừ
sâu, thiết lập những hệ thống mạng hướng dẫn việc phóng tên lửa, hay bốc
lột lao động rẻ tiền thì rõ ràng là
sai. Tôi cũng có thể thêm rằng viết lách cho những tờ báo rẻ tiền làm hại
đến danh dự của những người nổi tiếng hay làm
việc cho những chương trình trực tuyến để rao
truyền những lời nói đầy sân hận cần bị coi là một loại "thuốc
độc” mà
Đức Phật đã nhắc đến như là một
cách kiếm sống sai trái. Lời dạy của Đức Phật cũng có thể áp dụng
rộng rãi hơn để bao gồm những nghề
không truyền thống. Kiếm sống từ những trò chơi thể thao bạo lực
khiến người ta bị thương tổn, như là đánh võ
đài, là một cách kiếm sống sai trái.
Làm chủ hay làm việc ở những casino hay những chỗ cờ bạc cũng thế. Giống
như rượu, cờ bạc cũng khiến người ta nghiện ngập. Nó xuất phát từ lòng
tham, thường dẫn đến việc phạm tội hay làm
tổn hại người vô tội. Không cần phải nói, những hoạt
động tội phạm dưới bất cứ hình thức
nào cũng là một cách kiếm sống sai trái, kể cả việc
đầu cơ, những loại giao dịch bất hợp pháp,
lừa đảo, gian dối, và các loại tội phạm trong các công ty. Nghề
nghiệp gây nguy hiểm cho sức khỏe của bản thân cũng là một cách kiếm sống
sai trái. Buôn bán ma túy thì rơi vào loại buôn bán các "chất
độc”. Những người buôn bán ma tuý nổi tiếng
về các hành vi bạo lực và hối lộ để
bảo vệ lãnh địa, mua bán mà
không bị bắt. Chắc chắn là việc làm của họ
đem lại tai họa cho những người yếu đuối sa ngã vào việc mua và sử
dụng ma tuý. Người sử dụng ma tuý cũng gây ra tội ác
để có được tiền mua thuốc. Các thành
viên vô tội trong gia đình cũng phải
đau khổ: từ bạo lực trong gia đình, từ
việc thiếu thốn, đói nghèo, và từ nỗi
mất mát khi người thân bị tù đày, bị
hãm hại. Tuy nhiên, vì chế độ kinh tế của chúng ta
đã trở nên quá phức tạp, nên đôi khi
việc xét đoán xem những nghề nghiệp nào bị coi là cách kiếm sống
sai trái cũng không được rõ ràng, dứt
khóat lắm. Thí dụ, làm việc cho quân đội có
phải luôn là xấu? Điều đó còn
tùy. Nếu công việc đặt người đó vào vị
trí phải sử dụng vũ khí, kể cả dùng máy vi tính
để phóng tên lửa, thì có thể
đó là cách kiếm sống sai trái. Nhưng
là một bác sĩ hay một người đầu bếp thì
bản chất công việc không có gì là sai. Tôi khó tin rằng có người
đầu bếp nào, dầu ở trong quân
đội, lại nghĩ, "Tôi nấu cho những
người lính này ăn để họ có thể đi giết giặc!”
Nhiều hoàn cảnh công việc khác cũng phải
được xét lại. Thí dụ, việc chế tạo những
đầu đạn hạt nhân rõ ràng là một trong
những công việc bị cấm đoán theo sự liệt kê
của Đức Phật, nhưng việc đào mỏ
uranium để dùng trong vũ khí hạt nhân
thì sao? Hoặc làm việc trong những cửa hàng tạp hóa, bản chất của công
việc đó có sai không, nếu như doanh thu của
các cửa hàng đó phần lớn nhờ vào
việc bán súng? Hoặc làm việc với số lương ít ỏi trong các tiệm bán thức
ăn nhanh thì sao? Ta có thể nghĩ
đến nhiều hoàn cảnh công việc
đem lại tai hại một cách gián tiếp cho người
khác. Một vị giáo sư đại học có thể cảm thấy không an lòng khi kết
quả các công trình nghiên cứu khoa học của ông có thể
được sử dụng cho mục đích quân sự. Sản phẩm
của một công nhân ngành thép cũng có thể
được sử dụng để làm súng săn.
Trong những trường hợp như thế, ta cần phải tự hỏi, "Công việc của tôi
có liên quan trực tiếp đến vũ khí, chất độc,
hay giết hại không? Tôi có cố ý đem
lại tai họa cho người khác hay cho bản thân?” Tóm lại, ta có thể sử dụng
quy luật chung sau đây: Nếu sự tách biệt giữa công việc ta làm và
những nguy cơ mà nó có thể xảy ra cho người khác càng lớn, thì nó càng khó
có thể là một công việc không phù hợp với Chánh mạng. Thứ hai, công việc của tôi có khiến tôi phải phạm năm
giới?
Nếu một nghề nghiệp đã qua
được bước khảo sát thứ nhất thì hãy
xét xem công việc làm đó có khiến ta dễ phạm
bất cứ giới nào trong năm giới của
chánh nghiệp không. Nguyên tắc đạo đức
ở nơi ta làm việc cũng có thể biến một công việc bình thường thành
một cách kiếm sống sai trái. Thí dụ, trong một công ty luật, luật sư có
thể được khuyến khích duy trì những
mẫu mực đạo đức cao nhất trong nghề nghiệp.
Trái lại, ở một công ty luật khác, đồng
nghiệp của họ có thể bị áp lực phải ngụy tạo các chứng cứ, gian dối bồi
thẫm đoàn, hay tính giá cao đối với
khách hàng. Phạm vào những hành động
vô đạo đức như thế khi làm việc khiến cho tâm ta trở nên xáo trộn,
cản trở con đường tiến bộ tâm linh của ta.
Tôi nhớ về một vị luật sư thường đến Hội Bhavana. Trong quá trình
hành thiền, ông cứ khóc mãi. Tôi tự hỏi không biết ông bị
đau khổ như thế có phải vì ông
đã làm
điều gì sai trái để thắng kiện ở tòa
án. Tương tự, cũng có trường hợp mà công việc thì tốt nhưng người làm công
việc đó biến nó thành xấu. Thí dụ, một
viên chức làm nhiệm vụ thẩm định trước khi
cho bằng lái xe có thể làm việc với lương tâm, nghiêm khắc, chu
đáo, từ chối không nhận hối lộ. Nhưng một
người khác cũng công việc đó, trong cùng một văn
phòng, có thể trở nên tham nhũng, hối lộ. Một cán bộ tham nhũng thì
không thể có Chánh Mạng, nhưng người chân thật thì có thể. Bất cứ công
việc hay nghề nghiệp nào, dầu tốt cũng có thể bị biến chất thành xấu. Tôi
biết một bác sĩ ở Malaysia chuyên làm những tờ chứng nhận bệnh giả cho
công nhân để họ đưa cho chủ; ông tính khoảng
năm đô la cho một ngày được nghỉ việc.
Việc làm này đã thành thói quen
đến nỗi khi một bệnh nhân bước vào
phòng khám, câu đầu tiên ông hỏi sẽ
là, "Bao nhiêu ngày?" Một câu chuyện tiền thân rất nổi tiếng về
Đức Phật và người anh bà con có tâm
địa xấu, Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), nói
về hai người trong cùng một ngành nghề nhưng chỉ có một người là
tuân theo Chánh Mạng: Theo truyện kển, vị sẽ thành Đề Bà
Đạt Đa đầu tiên có chuyện hiềm khích
với Đức Phật trong một kiếp quá khứ, khi sự
kinh doanh chân thật của Bồ Tát -vị Phật tương lai- đã khiến cho
Đề Bà Đạt
Đa bị mất một chuyến làm ăn.
Trong kiếp sống quá khứ đó, vị Đề Bà
Đạt Đa tương lai và Bồ Tát là hai
người buôn bán phế liệu rong cạnh tranh nhau, cùng
đi buôn bán nồi niêu. Ở mỗi thành phố,
họ sẽ chia tuyến đường, rồi quyết định ai sẽ
đi đến đâu trước. Sau đó, hai người tách ra đi riêng, rao lên, "Ai
bán nồi! bán niêu!" Lần nọ, ở một thành phố có một quả phụ sống với con
gái, trước kia họ giàu có nhưng giờ rất nghèo. Họ có một cái tô lớn bằng
vàng, bên ngoài mạ đồng xám xỉn. Hai người
phụ nữ này không hề biết được giá trị
thực của cái tô. Khi Đề Bà Đạt Đa xuất
hiện ở cửa nhà họ, người con gái bảo mẹ hãy
đổi cái tô lấy một món đồ khác. Đề Bà
Đạt Đa tham lam nhận ngay ra được cái tô đáng
giá cả một gia tài, nhưng quyết định
lừa dối hai mẹ con người đàn bà khốn khổ kia. Anh ta vứt cái tô
xuống đất, bảo nó chả có giá trị gì,
và bỏ đi với ý định sẽ quay trở lại để mua
với giá chẳng đáng gì. Không lâu sau, Bồ Tát cũng ghé đến nhà
đó, hai người phụ nữ e dè ngã giá cái
tô để lấy một món đồ khác. Bồ Tát chân thật
bảo cho họ biết về giá trị thực của cái tô và nói rằng ông không
đủ sức để trả họ tiền dù chỉ là một
phần nhỏ giá trị của cái tô ấy. Hai người phụ nữ rất vui mừng và hết lòng
kính trọng Bồ Tát vì lòng chân thật của ông. Họ bảo ông
đưa cho họ bất cứ gì mà ông có thể
đưa. Bồ Tát đã
đưa cho họ tất cả tiền và tất cả nồi
niêu. Đổi được chiếc tô vàng, Bồ Tát
vội vã qua sông vì ngài đoán được ý đồ của Đề
Bà Đạt Đa.
Sau khi Bồ Tát ra đi, Đề Bà
Đạt Đa quay trở lại căn nhà kia. Bà
quả phụ chạy ra trách mắng ông đã có ý
muốn lừa dối họ. Bà báo cho ông biết rằng có một người buôn bán phế liệu
khác, rất thật thà, đã mua chiếc tô và
đã trả tiền cho họ rất hậu hĩnh. Biết
mình đã thất bại,
Đề Bà Đạt
Đa kêu than và trở thành giống như người mất trí. Ông ta xé áo
quần, vứt đồ đạc qua một bên và chạy
đuổi theo Bồ Tát, la mắng rằng Bồ Tát đã
cướp chiếc tô vàng của ông. Khi đến bờ sông,
ông thấy Bồ Tát đã được người chèo
đò đưa
qua được nửa sông. Ông lớn tiếng gọi người chèo
đò dừng lại, nhưng Bồ Tát lặng lẽ bảo
người chèo đò cứ
đi tới. Khi hình bóng Bồ Tát khuất
dần, hận thù trong lòng Đề Bà
Đạt Đa trào dâng. Máu nóng tuôn tràn
ra cửa miệng. Tim ông bể làm đôi và
ông ngã xuống chết. Như thế là Đề Bà
Đạt Đa đã bị hủy diệt bởi chính sự
kinh doanh không chân thật của mình. Bồ Tát trở nên giàu có từ việc bán
được chiếc tô vàng mà người
đã mua một cách chân thật. Ngài sống
cuộc đời còn lại làm các việc thiện và
luôn bố thí giúp người. Khi mất đi, sự trung
thực của Bồ Tát đã giúp ngài có được những kiếp sống tương lai tốt
đẹp, dần dần ngài đạt được quả vị Phật. Trái lại, những hành động bất
thiện của Đề Bà Đạt Đa cũng đưa ông ta đến những cuộc sống tương lai tương
ưng. Đề Bà Đạt Đa tiếp tục là kẻ kình chống, tranh chấp với Đức Phật.
Trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật, sau
khi Ngài đã giác ngộ,
Đề Bà Đạt
Đa còn cố gắng âm mưu giết Phật. Có lời kể rằng khi
đó mặt đất mở ra và ông rơi xuống
địa ngục. (J 3) Câu hỏi cuối cùng là, có khía cạnh nào của công việc khiến tôi không
cảm thấy thoải mái, và tâm tôi không an tĩnh? Nếu một nghề nghiệp đã không phạm
vào hai điều đầu tiên vừa nêu trên,
thì ta cần xét đến những khía cạnh khác có
thể ảnh hưởng đến sự tiến bộ tâm linh của ta. Việc này không
đơn giản. Vì không có công việc nào là
hoàn hảo, mỗi chúng ta phải tự quyết định
xem yếu tố nào là không thể khắc phục
được. Đồng nghiệp bất chánh? Khách hàng thô lỗ? Hóa chất hại phổi?
Sản phẩm làm ô nhiễm môi trường? Có liên hệ gián tiếp với những công ty
bóc lột nhân công? Theo ý tôi, cách tốt nhất để xét xem một
nghề nghiệp có được coi là chánh mạng hay không là
đo lường mức ảnh hưởng của nó đối với tâm.
Thí dụ một công ty đổ các chất độc hại xuống
sông, làm ảnh hưởng đến cá tôm và
các sinh vật hoang dã khác. Sau đó công nhân
trong công ty mới được biết về việc trút đổ bừa bãi này. Hai trong
số những công nhân này rất quan tâm đến việc
thực hành chánh mạng. Vậy họ có phải bỏ việc làm ở công ty này
không? Một công nhân tràn đầy lòng ghê tởm
với những gì đã xảy ra. Tâm anh cứ nhớ
đi nhớ lại những hình ảnh từ bản tin
trên truyền hình về sự kiện này. Anh nghĩ đến
tính cách bất thiện của những người đã quyết
định làm thế và tâm anh tràn ngập
những lời buộc tội theo cách nhìn của anh. Người công nhân thứ hai vẫn
tiếp tục làm việc với lòng đầy trắc ẩn đối
với những ai bị ảnh hưởng, kể cả những người chịu trách nhiệm cho quyết
định đó. Cô vẫn hy vọng rằng những người có quyền trong công ty sẽ nhận
thức được hành động sai trái của họ và
có biện pháp để sửa đổi và ngăn
chặn những vấn đề tương tự như thế có thể xảy ra trong tương lai. Suy nghĩ
như thế khiến tâm cô yên ổn. Có người cho rằng cả hai công nhân này
nên nghỉ việc vì họ làm cho một công ty không có lương tâm. Kẻ khác thì
nói chỉ có người công nhân với lòng bất mãn công ty nên nghỉ việc, vì công
việc này đem đến những ảnh hưởng không tốt
cho tâm anh.
Chúng ta cần sử dụng trí tuệ và sự hiểu biết Phật pháp
để suy ra điều gì là
đúng. Các căn
bản đạo đức cũng góp phần giúp ta biết điều phải trái. Ta không muốn tham
gia hay ủng hộ những hành động thiếu
đạo đức. Hơn nữa, phớt lờ tiếng nói của lương tâm cũng là thiếu
đạo đức. Nếu chúng ta tự nhủ, “Tôi không thể
thay đổi được gì, hơn nữa, những gì xảy ra thực sự không ảnh hưởng
đến cá nhân tôi.” Suy nghĩ như thế là
chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng thế
giới. Giáo lý của Đức Phật về tình thương yêu khuyên chúng ta phải
quan tâm không chỉ đến bản thân, người thân
thích, mà còn cả đến bà con
hàng xóm, cộng đồng -tất cả mọi người!
Mỗi chúng ta chỉ là một tế bào riêng lẻ nhỏ bé, nhưng tụ họp lại với hàng
tỷ tế bào khác, chúng ta trở thành là một bộ phận của thế giới. Vì thế
chúng ta có bổn phận phải bảo vệ cho công lý. Nhưng – và
đây là một
điều rất quan trọng– khi làm thế,
chúng ta phải cẩn thận để không ác cảm với
người khác hay kết tội họ một cách đầy hận thù. Bất cứ hành
động gì mà chúng ta có chủ tâm, ngay
cả hành động cố ý để sửa đổi một điều sai
trái, cũng phải bắt nguồn từ lòng thương yêu, bi mẫn
đối với người cũng như đối với tất cả mọi
chúng sanh. Với tâm niệm này và với lòng tràn
đầy bi mẫn, lúc đó chúng ta hãy hành
động.
Trở lại câu hỏi rằng hai công nhân của công ty gây ô nhiễm
đó có nên nghỉ việc không, chúng ta
không thể đưa ra một kết luận vội vàng.
Tùy thuộc vào trình độ tâm linh của chúng ta, mà việc bỏ làm có thể là
đúng hay sai. Nhưng có một điều chắc chắn: việc cần làm là luôn bảo vệ,
nuôi dưỡng thiện tâm của mình. Thái độ bàng quan đối với cái ác không phải
là thiện. Tuy nhiên sự bực tức, giận dữ hay hận thù cũng không phải là
thiện. Ngay nếu như ta quyết định bỏ việc để
duy trì Chánh Mạng, nhưng bỏ việc trong tâm trạng sân hận cũng không ích
lợi gì cho con đường tu của mình. Ta
phải giữ tâm bình tĩnh, không oán hận và đầy
chánh niệm. Phải luôn nhớ rằng mục đích tối thượng của ta là
để giải thoát tâm khỏi tất cả mọi tham, mọi
sân và mọi si. Ảnh hưởng sâu sắc nhất mà ta có thể tạo ra trên thế
giới này là đối mặt với mọi hoàn cảnh
bằng tâm trong sáng, bi mẫn, và thương yêu. Với trạng thái tâm tĩnh lặng
và buông xả, chúng ta có thể hành động hay từ
chối hành động, hay làm bất cứ
điều gì
để có thể vun trồng và biểu hiện được tình thương yêu và lòng bi
mẫn của chúng ta một cách tốt nhất. Dựa vào những điều vừa nói trên,
tốt nhất là các công nhân của công ty ô nhiễm
đó nên tu tập để tâm mình
được bình an. Rồi với trạng thái tâm
trong sáng, bình lặng, họ xét đến những điều
kiện của cá nhân và xã hội, rồi quyết
định có nên tiếp tục liên hệ với công ty
đó hay không. Đó là hành động đầy tình
thương và bi mẫn nhất mà các công nhân này có thể làm. Họ có thể xét xem
sự kiện đó quan trọng thế nào, nó có tính cách cá biệt hay là chủ trương
chung của công ty, cá nhân họ có liên quan trực tiếp đến việc đó hay
không, họ có thể tiếp tục làm việc ở công ty
đó mà không cảm thấy quá áy náy hay không. Một công nhân nhạy cảm
dầu không liên hệ gì đến việc quản lý công
ty, cũng có thể cảm thấy bức xúc hơn là một vị quan chức vô tâm.
Nếu hành vi thiếu đạo đức của công ty gây khó
chịu cho người công nhân, khiến tâm lý họ bất an, không thể chú tâm làm
việc thì chắc chắn là họ phải có thái độ
quyết định.
Nghỉ việc chỉ là một lựa chọn, còn có nhiều phương cách khác nữa. Thí
dụ công nhân có thể kiến nghị với công ty để
ngăn chặn việc làm sai trái đó hay báo
với các cơ quan có thẩm quyền về hoạt động này của công ty, hoặc
giúp đỡ các nạn nhân, viết bài gợi ý
với công ty về những việc cần làm để tránh
phạm thêm lỗi lầm hay chuyển đến một
bộ phận khác trong công ty. Nếu người công nhân trên quyết
định bỏ việc, thì cũng không cần vội
vã. Người đó có thể bắt đầu bằng cách thăm dò
kín đáo về khả năng tìm
được việc làm khác. Ở mỗi giai
đoạn, anh ta phải tự hỏi, “Tôi có thể làm
gì để thể hiện tâm buông xả, tình
thương, từ bi và sự quan tâm đến mọi chúng
sanh? Những hành động nào có
thể hỗ trợ cho tánh bổn thiện của tâm?" Ngoài việc quan tâm đến khía cạnh đạo đức
của công ty, nếu ta còn phải lo lắng
đến những vấn đề khác nữa thì nghề nghiệp
đó khó thể là chánh mạng. Thí dụ, một
nghề nghiệp bình thường có thể là rất lý tưởng nhưng ta không thể chấp
nhận khi ông chủ ở đó có thói quen sàm
sỡ, hay lúc nào cũng nóng giận, hoặc nhiều
đồng nghiệp ở chỗ làm có thói quen uống rượu lúc
ăn trưa, có những “bữa tiệc sau cánh cửa
đóng,” sử dụng ma túy trong phòng làm việc. Dầu rằng bạn có thể duy trì được sự độc
lập của mình trong các môi trường như thế. Bạn phải tự quyết
định xem những đồng nghiệp như thế có ảnh
hưởng đến tâm hay cản trở sự phát triển tâm linh của bạn không. Đánh giá
được một công việc có là Chánh Mạng hay không tùy thuộc vào mỗi cá
nhân. Cùng một hoàn cảnh mà có thể khiến người này sa vào các bất thiện
pháp, còn người khác thì coi đó là một
cơ hội để thực hành lòng kiên nhẫn và
bi mẫn. TUÂN GIỮ CHÁNH MẠNG Đến lúc này, có thể một số người cảm thấy buồn lòng khi nhận ra công
việc họ đang làm không phải là chánh mạng. Có thể họ tự hỏi, "Tôi phải làm
gì bây giờ?" Câu trả lời là có rất nhiều chọn lựa, kể cả những phương cách
để thay đổi hoàn cảnh mà không phải bỏ
công việc làm. Như tôi đã nói phía
trên, có thể trước hết, ta phải cố gắng nhắc nhở công ty sửa
đổi sai trái.
Nếu ta cảm thấy không thoải mái với công việc làm là do hành vi của các
bạn đồng nghiệp, thì
đừng quên áp dụng lời Phật dạy về từ
bi (metta). Tình thương, lòng từ bi có thể chinh phục cả những trái
tim cứng rắn nhất. Người ta thường nói không có gì có thể làm hại một
người tràn đầy lòng từ bi -kể cả súng
đạn hay lửa, nói gì
đến việc bị phiền hà ở sở làm! Nếu mỗi
ngày trước khi bắt đầu làm việc, ta
dành đôi phút để quán tưởng về tình
thương yêu, thì biết đâu sẽ có nhiều đổi
thay? Ngay chính những kẻ thường làm
điều bất thiện, đôi khi cũng thay đổi nếu như có ai đó, ở nơi nào
đó, mỗi ngày
đều hướng tâm từ, tình thương trong
sạch, mạnh mẽ đến cho họ. Trước khi
đầu hàng trước một công việc khó khăn,
có thể ta cũng nên thử áp dụng phương pháp này. Ngay nếu như các
đồng nghiệp của ta không thay đổi, thì
tâm ta chắc cũng sẽ được thanh tịnh hơn. Có
thể ta sẽ bắt đầu cảm thấy có lòng tử tế và bi mẫn
đối với những người mà trước
đây họ thường khiến ta khó chịu, bực bội.
Tuy nhiên có một số công việc hay hoàn cảnh không thể sửa
đổi được và chúng ta
đành phải bỏ việc.
Đôi khi ta phải chấp nhận hy sinh để đi theo
con đường của Đức Phật. Ngài đã
dạy rằng ta không nên tìm lợi nhuận bằng những phương tiện sai trái: Khi, không phải vì lợi lộc cho ta hay cho người, Đối với người có khả năng đặc biệt hay quen biết nhiều, việc nghỉ làm
hay thay đổi nghề nghiệp có thể là một quyết định dễ dàng, không phải hy
sinh nhiều. Nhưng đối với người không có nhiều chọn lựa, họ có thể cảm
thấy rất sợ hãi khi nghĩ đến việc mất đi đồng lương cố
định, nhất là khi họ còn phải lo cho
con cái. Tuy nhiên, khi đó là một vấn
đề liên quan
đến phẩm cách con người, chúng ta bắt buộc
phải hành động. Ở đây tôi không nói
đến những hành động theo bản năng,
thiếu chín chắn, mà trước hết phải tính toán hết sức cẩn thận, với
tất cả khả năng của mình. Kế tiếp, sau
khi đã hoạch
định mọi thứ, thì hãy hành
động với niềm tin. Đã có lời nói rằng,
"Những người bảo vệ chánh pháp, sẽ được chánh
pháp bảo vệ.” (Thag 303) Điều đó có nghĩa là khi ta dựa vào những
gì ta tự biết trong tâm là chân thật, thì mọi việc đều có kết quả tốt,
mang đến nhiều hạnh phúc cho ta. Tôi đã
thử nghiệm điều này trong cuộc
đời mình và luôn thấy rằng nó rất
đúng. Đây là câu chuyện của bản thân
tôi về việc tuân theo Chánh mạng với đầy tín
tâm.
Trước khi thành lập Hội Bhavana, tôi trụ trì một ngôi chùa nhỏ nhưng
khá nổi tiếng ở Washington D.C trong hai mươi năm.
Tôi đã có vị trí trong cộng đồng, với
một địa vị vững vàng, có một ban chấp hành năng
nổ, có bạn bè và gia đình ở bên
cạnh. Tuy nhiên trong lòng tôi vẫn mơ đến
việc thiết lập một trung tâm thiền, nơi mọi người có thể đến để học hỏi
Phật pháp và hành thiền. Đức Phật luôn
nhắc nhở đến việc học Pháp và hành thiền như là những
điều quan trọng nhất, tuy nhiên tôi
thấy nhiều người không có chỗ nào để đến khi
họ muốn hành thiền một khoảng thời gian. Ý
định của tôi là tốt và niềm tin của
tôi mãnh liệt. Bạn bè và gia đình can ngăn
tôi, “Sư đang giữ một vị trí cao ở ngôi chùa Nguyên Thủy
đầu tiên ở Mỹ, ngay tại trung tâm thủ
đô. Sư không nên rời bỏ nơi này." Ở
một mức độ nào
đó dĩ nhiên là họ
đúng. Rời bỏ Washington D.C để thiết lập một
trung tâm tu thiền ở vùng quê là nhảy từ một vị trí
được nhiều người ngưỡng mộ xuống một nơi đầy
bất trắc.
Miếng đất mà bạn tôi, Matthew
Flickstein và tôi tìm được để xây trung tâm
thiền nằm sâu trong những cánh rừng của miền tây Virginia. Cánh rừng biệt
lập, yên tĩnh và thanh vắng, có vẻ là một môi trường lý tưởng
để truyền dạy Phật pháp và hành thiền.
Mảnh đất rất đẹp, rất xa sự náo nhiệt của
Washington, nhưng nằm trong một vùng của người Kitô giáo bảo thủ mà
lại xa các thí chủ của chúng tôi. Vùng đất đó
hoàn toàn xa lạ đối với tôi và
chúng tôi bắt đầu tạo dựng trung tâm ở nơi đó
mà không quen biết một ai. Hội mới của chúng tôi chưa có thành
viên. Chúng tôi không biết làm thế nào để
trường tồn. Gia đình và bạn bè lo lắng về việc
ăn uống của tôi. Người khác thì lại lo
về sự an toàn của tôi, nhưng tôi nghĩ rằng với thiện tâm của mình, thì dầu
cho người trong vùng này bảo thủ đến đâu, họ
cũng biết là chúng tôi không làm hại họ, cũng không chống lại tôn
giáo họ, thì họ không thể hại chúng tôi. Ngay sau khi mua
được đất, chúng tôi hăng hái dựng lên
một tấm biển gần đường đề “Làng (Phật)
Pháp (Dhamma)." Không lâu sau thì ai
đó đã xóa một số chữ để đọc thành,
"Làng Bị Nguyền Rủa (Dam)". Sau nữa thì tấm biển báo
đó đã bị tháo xuống. Không màng những sự nguyền rủa và các chướng ngại , chúng tôi bắt tay
vào dự án của mình. Gần như tất cả bạn bè đều
khuyên tôi đừng làm nữa, còn
khuyến khích thì chưa đến năm người.
Nếu có gì xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, chúng tôi sẽ không có ai
đến giúp. Người thân và bạn bè tôi ở
Washington, cách nơi này cả trăm cây số.
Tôi không thể kể cho bạn nghe hết những khó khăn
buổi ban đầu. Trong khoảng thời gian đó, ngay chính người bạn đã
giúp tôi khởi đầu trung tâm cũng có vẻ hoang
mang. Nhưng chính là niềm tin ở Phật pháp
đã bảo vệ tôi. Ước muốn của tôi là
truyền bá Phật pháp qua việc hoằng pháp và viết sách, hoàn toàn miễn phí
cho mọi người. Ngay khi còn là một chú sadi, tôi cũng không nhận sự cúng
dường để được nghe pháp của các cư sĩ.
Khi lớn lên, tôi được biết là
Đức Phật cấm việc buôn bán Pháp. Ngài
khuyên: "Đừng làm một kẻ buôn bán
Pháp." (Ud VI.2) Qua thời gian, mọi việc từ từ ổn
định và chúng tôi
đã tạo ra
được một trung tâm thiền từ trong rừng. Rất nhiều việc lạ kỳ đã xảy
ra – nhiều sự hỗ trợ đến từ những nguồn không
đoán trước được, vào khi chúng
tôi cần được giúp đỡ nhất, và những
liên hệ bất ngờ cũng mang đến kết quả.
Bằng cách nào đó chúng tôi đã phát
triển, lớn mạnh. Kinh nghiệm bản thân đã dạy tôi
rằng khi tôi đi theo tiếng gọi an bình
và hạnh phúc của trái tim, chấp nhận hy sinh
để giữ phẩm cách, và hết lòng vì chân lý, thì phần thưởng của chánh
mạng sẽ tiếp nối theo sau. Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng các điều
kiện kinh tế có thể khiến cho sự chọn lựa của ta thêm khó khăn,
nhất là đối với những người mà
học vấn và khả năng hạn chế hay quá chuyên
môn. Phải làm gì đây nếu chỉ có một loại công
nghiệp trong vùng? Nếu bạn đông con,
lại có cha mẹ ốm đau, hay một đứa con luôn bệnh hoạn cần
được chăm sóc mà công việc tiện lợi
duy nhất là làm việc ở tiệm bán rượu gần nhà, thì phải làm sao? Hoặc bạn
sống ở một vùng mà chỉ có săn bắn và
câu cá để sinh tồn thì sao? Chánh mạng
có nghĩa gì đối với những người sống trong
những điều kiện kinh tế quá khó khăn hay bị những người có quyền lực ép
buộc phải tham gia vào những hoạt động
bất hợp pháp, như là trồng các loại cây
để sản xuất ma túy một cách bất hợp pháp? Nếu
bạn ở trong những hoàn cảnh như thế, hãy tự an ủi với ý thức rằng
khi bạn không cốt ý để hại ai, thì bạn
không phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả tai hại mà bạn không phải là
nguyên nhân trực tiếp. Một câu chuyện từ thời
Đức Phật sẽ làm rõ hơn điểm này. Con gái của một nhà kinh doanh giàu có đã
được nghe pháp và
đã đạt
được đến giai đoạn đầu của giác ngộ. Một ngày kia, một người thợ săn
đẹp trai buôn bán ngà voi, đi ngang
qua làng, và cô gái đem lòng
yêu người đó. Không một lời từ giã gia
đình, cô
đi theo người thợ săn về nhà và họ trở thành vợ chồng. Là vợ của
người thợ săn, cô phải lau chùi và
chuẩn bị cung tên, lưới bẫy mà anh ta dùng để
săn. Cô làm những bổn phận này một cách cam chịu. Họ có với nhau
bảy người con và cũng đến lúc con cái đều lập
gia đình. Một ngày kia khi Đức Phật quan sát thế
giới với tâm nhãn thông, Ngài thấy rằng cả gia
đình này có thể
được giác ngộ, vì thế Ngài
đến thăm họ. Đức Phật đầu tiên
đến bên cái bẫy trống
được người thợ săn gài. Ngài
để lại dấu chân cạnh bên cái bẫy rồi
đợi bên bụi cây. Khi người thợ săn
đến và nhìn thấy cái bẫy trống trơn, với những dấu chân bên cạnh,
anh ta nghĩ rằng ai đó đã
đánh cắp con mồi trong bẫy của anh.
Nhìn thấy Đức Phật bên bụi cây, anh ta
nhắm cung và chĩa mũi tên vào Đức Phật và
rồi trở nên bất động trong tư thế đó. Bảy đứa
con đến tìm cha, và nhìn thấy cha đứng
đó, cung tên đã giương ra,
nhưng không chuyển động được. Họ cũng
nhắm cung tên vào Đức Phật và cũng trở
nên bất động. Cuối cùng người vợ
đi tìm cả gia
đình. Cô thấy tất cả mọi người
đều chỉa mũi tên vào
Đức Phật. Cô la lên, dang hai tay ra,
"Đừng giết cha ta!" Khi gia
đình cô nghe những lời này, họ nghĩ
rằng người đó phải là cha của bà,
người mà họ chưa bao giờ gặp. Người chồng nghĩ, "Đây
là cha vợ tôi!" Những đứa con nghĩ,
“Đây là ông ngoại của chúng tôi!" Trong tim họ tràn
đầy tình thương yêu dành cho người
đó và vì thế họ bỏ vũ khí xuống và
chào hỏi. Sau đó Đức Phật ban cho họ một bài
pháp, và tất cả đều đạt được sơ thiền.
Sau đó, khi Đức Phật trở về tu viện, các
vị đệ tử của Ngài rất ngạc nhiên, họ hỏi
Đức Phật, “Làm sao có thể như thế? Làm
sao người đàn bà này có thể chuẩn bị
cung tên và bẫy để giúp giết các con thú khi
bà đã thông hiểu Phật pháp?"
Đức Phật giải thích rằng người phụ nữ kia
không tham gia vào việc giết hại thú vật. Hơn thế nữa cô cũng không
muốn làm hại thú vật. Cô chỉ làm bổn phận của mình như là vợ của người thợ
săn. (DhA124)
Sau đó Đức Phật giải thích rộng hơn:
Bàn tay không thương tích Khi tay không bị thương thì ta có thể tiếp xúc với chất
độc mà không sợ nguy hiểm. Cũng thế,
những hành động sai trái không thể ảnh
hưởng đến ta, nếu ta không chủ ý thực hiện
các hành động đó. Mặc dầu vợ
người thợ săn chuẩn bị các dụng cụ để săn
thú, nhưng bà làm do phải vâng lời chồng, vì trong nền văn
hóa đó, ở vào thời ấy, người vợ không có nhiều lựa chọn về bất cứ
điều gì. Nhưng sự không có chủ ý muốn
sát hại của người vợ đã che chở tâm bà
khỏi những hậu quả tiêu cực. Vì bà không muốn làm hại
đến thú vật, hành
động của bà là vô tội. Nếu bạn cảm thấy cách kiếm sống của mình không tốt, nhưng không có cách
gì khác hơn để giúp bạn và gia
đình sinh sống, bạn có thể vẫn giữ
công việc cũ, nhưng dần dần cố gắng tìm việc làm tốt hơn. Trong thời gian
hiện tại, hãy quán từ bi, gửi tình thương đến
tất cả những ai có thể bị ảnh hưởng bởi công việc của bạn, và hãy
giữ tâm thanh tịnh bằng cách duy trì chủ tâm vào các thiện pháp. Nếu chúng ta chấp nhận Chánh Mạng là mục
đích của mình, thì ta có thể dần dần tiến
đến đó khi sự thực hành tâm linh của
ta đã tiến bộ. Cuối cùng là công việc
của ta phải mang đến sự thoải mái tinh
thần cho tất cả những người liên quan, vì hành
động của ta ảnh hưởng đến người khác. Tôi
biết một đôi vợ chồng kinh doanh trong gia đình bằng cách làm những
món đồ chơi bằng gỗ rất đẹp, đặc biệt rất an
toàn cho trẻ em. Sau đó, họ phát triển
kinh doanh đến những cộng đồng khó khăn, tạo công ăn việc làm cho
nhiều người. Thay vì đòi hỏi người
công nhân phải làm việc tại xưởng, họ cung cấp vật liệu, huấn luyện tay
nghề và cho phép công nhân được làm
đồ chơi tại nhà, trả công theo sản
phẩm. Phương cách này cho phép người thợ có thể tập trung cuộc sống quanh
gia đình, và có thể làm việc hay nghỉ
ngơi tùy ý. Đôi khi người ta hỏi tôi, "Làm sao có thể tìm được nghề nghiệp theo
chánh mạng?" Vì từ mười hai tuổi đến giờ, tôi chỉ làm có một công việc là
tu, tôi không phải là người có thể giúp bạn chọn nghề hay cách tìm việc.
Tuy nhiên tôi có thể khẳng định như thế này: Phương cách
để tìm Chánh Mạng cũng giống như khi
bạn bắt đầu một nhiệm vụ to lớn, mới mẻ nào.
Đừng quan trọng thái quá. Chỉ thực
hiện từng bước cho đúng.
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH MẠNG Chấp nhận rằng công việc ta làm là một khía cạnh của việc thực hành tâm
linh thì không dễ dàng. Nhiều người tách bạch công việc họ làm ra khỏi
đời sống tâm linh của họ. Tuy nhiên,
khi ngồi xuống gối thiền, quán sát những hành
động trong quá khứ, chúng ta phải thừa nhận rằng công việc ta làm
chính là hành động của ta, ngay cả khi đó là
theo lệnh chủ hay do công việc đòi
hỏi. Nói dối thì vẫn là nói dối, dầu ta được
trả tiền để làm điều đó. Chúng ta phải
chịu trách nhiệm về những gì ta nói hay làm ngay trong kiếp sống
này hay trong tương lai. Vì thế chúng ta phải tuân giữ
đạo đức trong công việc làm cũng như
đối với các hành
động khác. Như với Chánh Ngữ và Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng cũng đòi hỏi chúng
ta phải luôn thanh lọc hành động của mình,
dầu là ở nhà hay ở sở làm. Ngay cả khi công việc của chúng ta được
coi như là Chánh Mạng, mỗi ngày làm việc, ta cũng cần luôn quan tâm
đến những vấn đề đạo đức khi chúng phát sinh.
Ta phải ý thức rõ ràng về năm giới và
cẩn thận gìn giữ để đừng bao giờ phạm giới.
Những vấn đề đạo đức không nằm trong năm giới, đòi hỏi chúng ta
phải suy xét xem ta có thể chịu đựng được hậu
quả hành động của chúng không.
Khi sự thực hành thiền chánh niệm của ta đã
tiến bộ nhiều, ta có thể trở nên kiên nhẫn và bình tĩnh hơn
đối với những hoàn cảnh mà trước
đây ta không thể chấp nhận, và ta có
thể bằng lòng đối với bất cứ công việc chân
chính nào. Điều quan trọng nhất cần ghi nhớ là công việc làm không
được ảnh hưởng đến khả năng tiến bộ tâm linh của chúng ta. Khi chúng ta
không gây não hại cho bản thân bằng cách phạm giới hay tham gia vào những
hoạt động ảnh hưởng đến đạo đức, thì tâm ta sẽ được bình an, tự tại. Với
tâm bình an, tự tại, dĩ nhiên là ta có thể tiến bộ trên
đường đạo. Khi
đã dẹp
được các chướng ngại, ta chỉ cần bước tới.
Điều này có thể được so sánh với cách chúng ta sinh tồn. Khi
đói, ta ăn. Khi khát, ta uống. Ta mặc áo ấm
khi trời lạnh. Ta phòng ngừa bệnh hoạn. Ta tránh những hành
động và hoàn cảnh
đem lại nguy hiểm cho thân. Nhưng
chúng ta không rêu rao: "Tôi phải sống, tôi phải sống!" Nếu ta
đã cung cấp
đủ các nhu cầu căn bản, thì thân tự
động sẽ duy trì
được cuộc sống. Tương tự, trong Chánh
Mạng, trách nhiệm duy nhất của chúng ta là tránh làm hại cho bản thân và
cho người, để ta có thể giữ được tâm bình
an, thanh tịnh. Với tâm tự tại, chúng ta có thể hành thiền và tiến bước
trên con đường đến hạnh phúc, theo dấu chân
Phật.
Nếu muốn tiến nhanh hơn nữa, ta có thể tìm những việc làm hay nghề
nghiệp có thể vun trồng, giúp ích thêm cho sự tu tập của ta, và thúc
đẩy ta thêm tinh tấn. Một công việc
như thế sẽ tạo ra những hoàn cảnh để thử
thách các khuyết điểm của ta, qua đó ta có thể tu sửa nhưng không tạo ra
quá nhiều áp lực và tránh đặt ra những
vấn đề mà trước mắt chúng ta không chuẩn bị
để đối phó. Thí dụ, một người đang cố gắng để
vun trồng các trạng thái tâm định vi tế hơn, thì công việc thích
hợp nhất là làm những việc cố định, dễ dàng,
không phải động não nhiều. Trái lại,
người muốn vun trồng kiên nhẫn có thể phát triển trong một công việc
đòi hỏi phải
đối đầu với người khó tính hay hoàn
cảnh khó khăn.
Trong lúc tọa thiền, hãy dành chút thời gian áp dụng phương pháp tự vấn
ba bậc như đã nói ở trên để đánh giá
xem công việc hiện tại của ta góp phần như thế nào vào Chánh Mạng. Từ đó,
ta có thể quyết định xem công việc ấy có cần sửa đổi gì thêm cho tốt hơn.
Hãy tự hỏi xem hiện tại ta có thể làm gì để công việc của ta trở nên ích
lợi hơn cho bản thân và cho người. TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH MẠNG Đây là những điểm chánh yếu cần ghi nhớ về Chánh Mạng: - Phương tiện kiếm sống của chúng ta không
được ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm linh của ta.
- Chúng ta có thể đánh giá xem một nghề
nghiệp có được coi là chánh mạng không bằng phương pháp khảo sát ba
cấp bậc. - Ở bậc đầu tiên, ta xét xem nghề
nghiệp đó tự nó có tai hại cho người hay cho
bản thân không.
- Ở bậc thứ hai, ta xét xem công việc đó
có khiến ta phải phạm vào một trong năm
giới luật không.
- Cuối cùng, ta xét xem các yếu tố khác liên quan
đến công việc có làm cho tâm khó an
tịnh không. - Tâm từ bi có thể đem lại ảnh hưởng tốt
cho một hoàn cảnh công việc khó khăn.
- Nếu ta không chủ tâm làm hại ai, tâm ta sẽ không bị uế nhiễm bởi
những hậu quả tiêu cực của công việc. - Chánh Mạng là mục tiêu tối hậu phải đạt
được khi công phu tu tập của ta đã tiến triển. -ooOoo- Bước 6
Chúng ta chọn lựa giữa cái thiện và cái ác trong từng giây phút sống.
Chúng ta không phải là những nạn nhân khốn khổ, thúc thủ trước số mệnh.
Chúng ta không phải là những con rối được
điều khiển bởi những quyền lực nào đó,
và những gì xảy ra cho chúng ta cũng không phải do tiền
định. Ngay giây phút này chúng ta chọn
lựa hành động, rồi giây phút kế tiếp ta phải
nhận lãnh kết quả của sự lựa chọn đó,
cùng với bất cứ ảnh hưởng nào còn lại của những sự chọn lựa trong
quá khứ. Một sự khéo chọn trong giây phút này sẽ tạo nên một môi trường
tâm linh tốt đẹp cho hỷ lạc trong giây phút
kế tiếp. Nếu sự chọn lựa trong giây phút vừa qua khá trong sạch và
thanh tịnh, thì giây phút hiện tại cũng sẽ
được như thế. Với hàng tỷ của những giây phút khá trong sạch, chúng
ta sẽ có được những giây phút của hỷ
lạc. Với sự phát triển của những thói quen tâm linh cao thượng, từ giây
phút này qua giây phút khác, những giây phút này sẽ tích lũy
để tạo nên những giây phút hỷ lạc dài
lâu hơn. Cuộc sống của chúng ta được tạo dựng
từ những sự chọn lựa nhỏ nhặt này, hằng tỷ sự chọn lựa như thế xảy
ra trong giây phút. Nhưng những tinh tế này của tâm không phải là nơi
để ta bắt đầu thực tập. Ta phải bắt đầu ở nơi
ta có thể thấy rõ ràng, qua các hành
động bên ngoài. Trước hết, hãy giữ năm
giới và dừng lại những hành động nguy
hại đến sự tiến bộ tâm linh. Một khi tâm không còn bị xáo trộn bởi
ảnh hưởng của các bất thiện pháp, ta sẽ có thể dễ dàng thấy
được những gì
đang xảy ra trong tâm. Lúc đó ta có thể đủ
thong dong để nhìn thấy được dòng
tư tưởng của mình. Sau này, khi ta rèn luyện
được khả năng có thể nhìn thấy tâm chuyển
động như thế nào, ta có thể thấy những
giây phút tâm phát sinh, dâng trào, và rồi tàn lụi. Tuy nhiên
để bắt đầu, chỉ cần chánh niệm về khuynh
hướng chung của các dòng tư tưởng khi chúng phát sinh là
đủ.
Với ý thức đó, chúng ta có thể sử dụng
Chánh Tinh Tấn để tạo ra những lựa chọn mới. Đức Phật khuyên tất cả
chúng ta nên chọn các tâm thiện để thay
cho các tâm bất thiện và vun trồng các tâm thiện trong từng giây phút, cho
đến khi các tâm bất thiện không còn
xuất hiện nữa. Theo như Đức Phật dạy, chúng
ta thực hiện điều đó bằng cách luôn tự thúc giục, “tinh tấn, tạo ra năng
lực, và khơi dậy tâm." (D 22) Trong bước thứ sáu của Bát Chánh Đạo,
Chánh Tinh Tấn, Đức Phật đã giải thích một cách cụ thể làm thế nào
để điều khiển nỗ lực của chúng ta, phân chia
quy trình đó thành ra bốn phần.
Đầu tiên, với sự quyết tâm và năng lực mạnh mẽ, chúng ta làm bất cứ điều
gì có thể để ngăn chặn sự phát khởi của các tâm bất thiện, như là hờn
giận, ghen tỵ, hay tham. Tuy nhiên vì ta chưa giác ngộ, một số các tâm
tiêu cực vẫn sẽ len lỏi vào, không kể ta cố gắng
đến mức nào. Sau
đó ta sẽ nỗ lực lần thứ hai, thúc giục bản
thân phải chế ngự bất cứ tâm bất thiện nào đã
phát sinh. Ba là, chúng ta thay thế các tâm bất thiện với các tâm thiện,
như là những tư tưởng thương yêu, độ lượng,
hay những tình cảm của lòng bi mẫn. Cuối cùng, chúng ta khơi dậy
lòng tinh tấn để vun trồng sâu xa hơn
nữa các tâm thiện. Ta càng tinh tấn, thì kết quả tất nhiên là tâm ta càng
trở nên trong sáng, bớt khổ đau, và ta
càng cảm thấy an lạc, tự tại hơn. Muốn thành tựu được bất cứ điều gì
cũng đòi hỏi sự nỗ lực.
Điều này
đúng đối với những sinh hoạt đời thường như là sơn nhà, kinh doanh
buôn bán; đời sống tâm linh còn
đòi hỏi ta nhiều nỗ lực tinh tấn hơn
nữa. Ở từng bước của Bát Chánh Đạo luôn tiềm
ẩn sự có mặt của Chánh Tinh Tấn. Khi chúng ta thực hành lời dạy của
Đức Phật về bốn loại tinh tấn, khiến tâm
thiện toàn, trong sáng và có khả năng
hiểu biết, là ta đã
đạt được Chánh Kiến về con đường đạo.
Rồi khi ta áp dụng bốn tinh tấn này vào ý nghĩ, lời nói, và hành
động, ta sẽ đạt được kết quả trong Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, và Chánh Nghiệp. Và khi ta
đem bốn tinh tấn này ứng dụng vào các
quy luật đạo đức trong công việc, là
ta đạt được Chánh Mạng. Cuối cùng khi
ta tinh tấn trong việc thực hành thiền, là ta có
được Chánh Niệm và Chánh
Định. Chúng ta có thể kết luận một cách chính
xác rằng Chánh Tinh Tấn là năng lượng
cần có để thúc đẩy sự thành công của chúng ta trên từng bước của
Bát Chánh Đạo. Thật ra, có được một sự nỗ lực
mạnh mẽ để tự kìm chế bản thân là đã
thắng được nửa chiến trận. Không có sự
nỗ lực mạnh mẽ này để đạt được trạng thái tâm
thiện toàn, chúng ta sẽ khó thể tiến xa trên con
đường đi đến hạnh phúc tối thượng.
Chúng ta rất muốn tin rằng chỉ cần chú tâm là có thể
đi trọn con đường đạo. Chắc chắn là sự
chú tâm nghe có vẻ dễ thực hiện hơn là phải nỗ lực tinh tấn. Tiếc thay chỉ
có sự chú tâm bình thường, đơn giản thì
không đủ. Chúng ta cần phải rèn luyện
sự chú tâm đầy chánh niệm -cả trong khi ta
tọa thiền hay tham gia vào các sự thực hành tâm linh khác và khi ta
sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Đức Phật
đã biết rằng chúng ta cần có sự nỗ lực
đầy chánh niệm để diệt bỏ các tâm tiêu
cực và vun trồng tâm tích cực trong mọi khía cạnh của
đời sống, nếu không tâm ta sẽ chẳng
bao giờ được an tịnh để ta có thể tiến xa hơn
trên con đường đạo.
Đến lúc này, bạn có thể nghĩ, "Tôi biết là không dễ mà. Sao nghe khó khăn
quá!” Dĩ nhiên, bạn nói đúng.
Chắc chắn là việc để các tâm tiêu cực
nằm yên trong tâm thức ta còn dễ hơn là buông bỏ chúng. Tham, sân, si, dễ
duôi, cao ngạo, hãnh tiến, cay độc, cố chấp,
sợ hãi, có thể đã trở thành
những thói quen hằng ngày của chúng ta. Chúng ta không muốn nỗ lực buông
bỏ chúng. Tuy nhiên, ta vẫn muốn được an nhiên,
tự tại và đạt được mục đích tâm linh của mình.
Chánh Tinh Tấn là lòng kiên trì để khiến
cho cuộc hành trình trên con đường đạo
có thể khả thi. Đó là sự can đảm để
nói: “Phải dứt bỏ những thói xấu của ý nghĩ và hành
động, ngay bây giờ!”. Đó là trí tuệ để
thấy rằng phải vun trồng ý nghĩ, lời nói và hành động tích cực, thiện
toàn, thì ta mới có thể hy vọng đạt được hỷ lạc, hạnh phúc. MƯỜI KIẾT SỬ Để buông bỏ được những thói quen của tâm uế nhiễm, chúng ta cần phải
nhận diện được chúng. Nói chung, những gì chúng ta muốn trừ diệt là bất cứ
tâm sở nào ngăn cản tâm được tự tại, an nhiên. Nếu muốn nhổ cỏ dại trong
một khu vườn, ta phải biết phân biệt giữa cỏ dại và bông hoa. Với tâm cũng
thế. Lúc đầu, chúng ta sẽ cảm thấy khu vườn
tâm đầy cỏ dại. Chúng ta nhận diện và nhổ bỏ các tâm sở bất thiện
như là sân hận, và thay thế chúng với các tâm sở thiện toàn, hữu ích, như
là tình thương yêu. Nếu dành chút thời gian để suy nghĩ về vấn
đề này, ta có thể liệt kê một danh sách của các loại cỏ dại tâm
linh. Ta cũng biết khi đang trong trạng thái
giận dữ, sân hận, ganh tỵ, hay ham muốn, ta không thể cùng lúc cảm
thấy hạnh phúc. Bên dưới các tâm sở tiêu cực này, dầu chúng biểu hiện ở
bên ngoài như thế nào, tất cả đều đến từ các
cội rễ căn bản: tham, sân (mặt khác của tham), và si (hay vô minh). Tham, cùng với vô minh, là gốc của mọi loại cỏ dại tâm linh. Tham thể
hiện trong mười uế nhiễm tâm linh sâu xa mãnh liệt
được gọi là "kiết sử." Chúng khiến ta
có tri kiến lệch lạc, ảnh hưởng đến sự suy
nghĩ của ta, cũng giống như dòng kênh ảnh hưởng
đến lưu lượng nước chảy. Các kiết sử thường
mang đến cho ta khổ đau. Không phải một thời thơ ấu khó nhọc hay
quá khứ đau buồn nào tạo ra các kiết
sử, mà chúng đã theo ta từ rất nhiều
kiếp quá khứ. Chúng là nhân của mỗi kiếp sống và những khổ
đau trong kiếp sống đó. Sự có mặt của các
kiết sử bảo đảm ta còn phải luân hồi nhiều kiếp nữa, và ngăn
cản ta được giác ngộ. Kiếp sống này cũng do các kiết sử tạo nên. Chúng tôi thường liệt kê mười kiết sử để
phản ảnh những giai đoạn ở đó chúng phải được chế ngự trên con
đường đến giác ngộ.
Các kiết sử cần được chế ngự để đạt được
giai đoạn đầu của giác ngộ:
- tin vào sự hiện hữu của một cái ngã hay linh hồn thường hằng (thân
kiến) - nghi ngờ giáo lý của Đức Phật (nghi)
- tin tưởng rằng ta có thể chấm dứt khổ
đau bằng cách chỉ tuân theo các luật lệ và nghi lễ (giới cấm thủ) - Các kiết sử cần được chế ngự để đạt đến
giai đoạn thứ hai và thứ ba của giác ngộ: - lòng ham muốn dục lạc (tham dục) - sân - Các kiết sử cần được chế ngự để đạt đến
giai đoạn thứ tư của giác ngộ:
- dục tham vi tế muốn được hiện hữu trong
sắc giới (sắc ái)
- dục tham vi tế muốn hiện hữu trong vô sắc giới (vô sắc ái) - tự phụ, hay nhận thức tiềm ẩn về ngã (mạn) - trạo hối - vô minh Tâm người chưa giác ngộ luôn tràn đầy các
kiết sử này, ít nhất là trong trạng thái ngủ ngầm. Thỉnh thỏang một
trong các kiết sử này sẽ phát khởi trong tâm, khiến cho ta có cái nhìn rất
sai lạc về thực tại, và phải khổ đau. Mỗi sát
na tâm đều hàm chứa ít nhất kiết sử của dục tham và vô minh vi tế,
nhưng các kiết sử khác đôi khi cũng xuất hiện
chung với chúng.
Khi công phu tu hành của ta dần tiến bộ, ta có thể làm suy yếu các kiết
sử này, để rồi cuối cùng chế ngự và
hủy diệt được chúng ở từng giai đoạn thiền
định. Sau mỗi giai đoạn chúng ta đạt đến một tầng cao hơn của giác ngộ.
Khi chế ngự được ba kiết sử đầu tiên, hành giả
đạt được sơ thiền. Làm suy yếu
được hai kiết sử kế tiếp, hành giả
đạt đến nhị thiền. Tuy nhiên dư phần
của dục tham và sân vi tế hơn tất cả những gì
đã được diệt bỏ. Khi hành giả
cuối cùng vượt qua được các dư phần này,
thì đạt đến tam thiền. Năm
kiết sử cuối cùng rất vi tế. Khi diệt trừ
được chúng, hành giả
đạt đến tầng thiền thứ tư và là tầng
cuối cùng của giác ngộ (final stage of enlightenment). Thân Kiến Kiết sử đầu tiên, thân kiến là tin
vào một cái ngã hay linh hồn thường hằng, khiến ta tin rằng các uẩn phần
nào có liên hệ đến một cái ngã hay
linh hồn. Kiết sử này có thể biểu hiện qua lòng tin rằng thân, thọ, tưởng,
hành, và thức là một và cũng là linh hồn, và rằng chúng giống nhau.
Cũng có khi kiết sử này tạo ra niềm tin rằng các uẫn có linh hồn
(hay linh hồn sở hữu các uẫn này.) Chúng ta có thể cũng tin rằng linh hồn
tạo ra sự kết hợp của các uẫn (hay các uẫn
đã tạo ra linh hồn). Cuối cùng, kiết
sử này cũng có thể biểu hiện qua lòng tin rằng linh hồn hay ngã là một, và
thân, thọ, tưởng, hành, và thức là một cái gì hoàn toàn tách biệt, không
liên quan gì đến linh hồn.
Nhưng kiết sử này thể hiện thông thường nhất là qua niềm tin rằng chúng
ta có một linh hồn trong kiếp sống trước, và linh hồn
đó đã đến
kiếp sống này, đang sở hữu các uẫn, và
nó sẽ rời bỏ thân này để đi đến một sự hiện
hữu khác sau khi ta chết. Nói tóm lại, niềm tin này dựa vào ý nghĩ
rằng có một linh hồn thường hằng, bất biến, và bất diệt. Nghi Kiết sử thứ hai, nghi, đặc biệt muốn nói
đến lòng nghi hoặc rằng sự thực hành giới,
định, và tuệ theo giáo lý của
Đức Phật sẽ mang đến hạnh phúc lâu dài.
Kiết sử nghi sẽ phát khởi khi ta lạc bước khỏi những gì ta thực sự biết
trong giờ phút hiện tại và dại dột nghĩ tưởng
đến những vấn đề có khuynh hướng khơi động tâm nghi hoặc. Ai cũng biết đến
khả năng khơi động và củng cố thêm kiết sử nghi của một số "vấn
đề không thể nghĩ bàn". Đó là những
câu hỏi suy đoán về vũ trụ xuất hiện như thế nào, tại sao và những vấn đề
đại loại như thế. Một số các đề tài
đem lại lòng hoài nghi là những câu
hỏi về quá khứ và tương lai: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không
có mặt trong thời quá khứ? Những kiếp quá khứ của ta như thế nào? Có
đời sống sau khi chết hay không? Ta có bị
đoạn diệt không? Có thiên đàng
hay địa ngục không? Ta có tái sinh không? Đời
sống mới sẽ như thế nào?" Hiện tại cũng có thể đem đến cho chúng ta
nhiều nghi hoặc: “Ta có hiện hữu? Hay ta không hiện hữu? Ta có bình
thường không? Ta là ai? Ta từ đâu đến?”
Một số những suy tư tương tự cũng thường phát khởi trong tâm, khiến ta
sinh lòng nghi hoặc: "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã" hay "Do tự
mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã? Chính tự ngã của ta nói, cảm giác,
hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã
làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng,
hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại." (M 2) Tất cả các câu hỏi và suy tư này thường
đưa chúng ta đi sâu vào những ngõ tối, sâu dầy lòng nghi hoặc,
hoang mang. Chìm đắm trong đó sẽ ngăn trở
chúng ta chú tâm chánh niệm đến những gì thực sự quan trọng. Những
loại câu hỏi này không bao giờ có thể được
trả lời một cách thỏa đáng mà chỉ làm chúng ta phân tâm. Nhưng cho
đến khi chúng ta đạt được sơ thiền, chúng vẫn
còn lảng vảng trong tâm. Đức Phật khuyên
chúng ta chỉ nên quán sát những câu hỏi này khi chúng phát sinh và hoại
diệt. Đừng lo lắng hay chạy đuổi theo chúng.
Ngay trong hiện tại, cứ tiếp tục với những cố gắng tìm hiểu, dựa
trên những gì ta có thể biết được qua kinh
nghiệm bản thân, chứ không chỉ bằng lý luận.
Hãy có lòng tin vào con đường đưa đến hạnh
phúc của Phật giáo, vì đã có
bao người tin theo và đạt được giác ngộ.
Tín tâm, theo thuật ngữ Phật giáo, có nghĩa là lòng tin – dựa trên những
gì ta đã chứng kiến và những gì ta
nghĩ là đúng dựa trên kinh nghiệm
đó. Thí dụ, ta có thể tự quan sát rằng bất cứ
khi nào tâm ta đầy các tâm sở bất
thiện, thì ta cảm thấy đau khổ. Ngược
lại, khi nào tâm ta tràn đầy các tâm
sở thiện, thì ta cảm thấy hạnh phúc. Khi tất cả các tâm sở này thay
đổi, ta nhận ra được trạng thái vô thường của
chúng. Đây là sự thật. Ta có thể tin tưởng như thế. Lòng tin này
giúp ta tiến bước cho đến khi ta đạt được
nhận thức sâu xa về chân lý khiến tâm ta không còn chỗ cho kiết sử
nghi. Giới Cấm Thủ Kiết sử thứ ba là một động thái đầy bản
năng của tâm để tìm các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài, hơn là từ sự
thanh lọc nội tâm. Điều đó thể hiện qua sự
tin chấp vào hiệu lực của những luật lệ, nghi lễ sẽ
đem đến giác ngộ. Từ đó, ta nghĩ rằng hạnh
phúc tuyệt đối có thể đạt được bằng cách thực hành các nghi lễ,
tham gia vào các sự tế tụng, thiết lập các đàn
tràng, cúng dường cho Phật hay cho các vị thần thánh, tụng kinh, cầu
nguyện, và niệm chú, hơn là hành thiền và áp dụng những lời dạy của
Đức Phật vào cuộc sống hằng ngày. Sự
tin chấp này làm tổn phí thời gian và cản trở khả năng
nhận biết chân lý của ta. Do đó ta tự
làm trì trệ sự tiến bộ của mình trên con
đường tâm linh.
Dục Tham Dục tham kiết sử là lòng ham muốn các dục lạc. Nó bao gồm lòng ham muốn
đối với bất cứ cảnh tượng, âm thanh, mùi
vị, và sự xúc chạm dễ chịu nào, kể cả thân xác này. Nó cũng bao gồm tất cả
những tư tưởng, ý nghĩ, quan niệm, và ý kiến mà mình ưa thích. Sân Kiết sử sân là sự ghét, ác cảm đối với bất
cứ những gì khó chịu, bất cứ những gì mà ta không thích. Ước Muốn
Ước muốn vi tế để được hiện hữu trong sắc
giới hay vô sắc, lòng tự cao, và những kiết sử của trạo hối và vô
minh là những hình thức vi tế nhất của lòng tham dục. Năm
kiết sử này hợp thành những chướng ngại cuối cùng của sự giác ngộ
viên mãn. Lòng ham muốn vi tế để được hiện
hữu trong sắc giới hay vô sắc ám chỉ đến ý muốn được sống, được hiện hữu
dưới hình thức nào đó, bất cứ hình
thức nào. Ước muốn được hiện hữu “trong” thân xác
vật lý này biến mất khi ta đoạn trừ
được lòng tham dục ở mức độ thô lậu
hơn. Tuy nhiên, ước muốn được hiện hữu
trong một hình thức tốt đẹp hơn, “siêu
trần" hơn vẫn còn đó, như là ước muốn
được hiện hữu trong những thân xác như thần
tiên. Người ta coi đó là hình
tướng của các vị trời trên cao. Ngay cả khi không
được có thân, ta vẫn ước muốn được hiện hữu.
Người ta tin đó là sự hiện hữu vị lai
của các bậc đã
đạt các quả vị thiền định cao nhất; họ đã
trở thành các vị trời cao cả nhất. Mạn Mạn kiết sử ám chỉ đến đặc tính coi mình
hiện hữu như là một ai đó. Kiết sử này
là sự cảm nhận từng giây phút về "cái tôi" để
từ đó sinh ra quá nhiều hiểu lầm, hoang mang. Tâm luôn nghĩ "Ta…,
Ta…, Ta…," mà không hiểu rằng sự cảm nhận về "cái tôi" cũng chỉ là một
trạng thái tâm vô thường và vô ngã trong quá trình tư duy. Thí dụ, tâm có
thể nói, "Tôi nghe âm thanh," nhưng với trí tuệ là chân lý, là sự
hiểu biết rằng chỉ có âm thanh. Trạo Hối Kiết sử trạo hối (trạo cử và lo lắng) rất vi tế, không giống như chướng
ngại có cùng tên. Lo lắng là tâm trạng bức rứt do tác
động của các lậu hoặc vi tế nhất còn
sót lại trong tâm. Lo lắng đưa đến trạo cử,
khiến tâm không thể an trụ vào điều gì.
Kiết sử trạo hối khiến tâm lay động giống như
một tấm biển treo trước gió, vì thế nó không thể dừng lại
để nhận biết sự thật về tính vô thường của
bản thân. Tâm dường như
luôn lo lắng vì sợ không được hiện hữu. Kiết
sử này sẽ không bao giờ hoàn toàn mất
đi cho đến khi hành giả đạt được Giác
Ngộ viên mãn. Vô Minh Kiết sử vô minh ám chỉ sự mù quáng triền miên
đối với bản chất của khổ, nguồn gốc của khổ,
khả năng có thể đoạn diệt của khổ và phương cách
để đoạn diệt khổ. Nói cách khác là vô
minh về Tứ Diệu Đế.
Mười kiết sử này mạnh mẽ không thể tưởng
được. Khi ta cảm nhận được sự có mặt của chúng, thì chúng
đã sùng sục nóng như một nồi nước sôi,
lúc đó ta cần nhiều nỗ lực để làm
chúng nguội đi. Tại sao chúng
được gọi là kiết sử? Vì giống như
những sợi dây xích sắt cứng rắn chúng trói buộc ta vào khổ
đau trong kiếp sống này và vào những
sự tái sinh luân hồi không dừng dứt trong tương lai. Chức năng của các sợi dây xích này
rất vi tế, lắc léo, nhưng với tâm chánh niệm, chúng ta có thể biết nó vận
hành như thế nào. Hãy thử quán sát kiết sử thứ tư: dục tham. Ta biết mình
có các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Chúng ta cũng biết các
căn này tiếp xúc với thế giới bên
ngoài. Vì sự tiếp xúc không dừng giữa các căn
và các trần, dục lạc có thể phát sinh, rồi lòng ham muốn hưởng thụ
các dục lạc này phát khởi trong ta. Với tâm chánh niệm, ta có thể cảm nhận
được sự phát khởi của ái dục. Nếu, vì
lý do gì đó, ái dục không phát sinh, thì
ta cũng nhận biết được sự thiếu vắng lòng
ái dục. Ái dục khiến ta muốn thứ này hay thứ kia, thích lúc này hay lúc khác,
yêu người này hay người kia – hay môi trường, cảnh vật, âm thanh, mùi
hương, vị nếm, xúc chạm, ý nghĩ. Vì tất cả những sự thích hay không thích
này, tâm ta luôn hoặc là bám víu hoặc là ghét bỏ. Đáng nói hơn cả là chúng
khiến ta luyến ái cuộc sống này, bám víu vào đó hay chán ghét nó. Do đó,
lòng ham muốn đối với các dục lạc làm tăng thêm sức mạnh cho sợi dây xích
trói buộc ta vào vòng luân hồi không dừng dứt. Bất cứ kiết sử nào cũng có thể phát khởi ngay khi có sự tiếp xúc. Hãy
xét về kiết sử thân kiến. Khi có sự tiếp xúc, một cảm thọ phát sinh mà có
thể là dễ chịu, khó chịu, hay trung tính. Ngay lúc
đó, ý thức về một cái ngã thường hằng
phát sinh: Đó là ‘cái tôi’ khiến cho ‘tự ngã’ cảm nhận. Và ‘cái tôi’ này ở
trong ‘tự ngã’ một cách thường hằng, bất biến và bền chắc. Thân kiến kiết
sử trói buộc ta vào việc tìm kiếm các đối
tượng dễ chịu và chống đối các đối
tượng khó chịu. “Cái tôi” không hạnh phúc. Nó không thể chỉ tiếp
xúc với các đối tượng dễ chịu, theo
như ý nó muốn. Cảnh trần bao bọc quanh ta, và không phải tất cả chúng
đều dễ chịu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể thực sự thấy rằng một cảm thọ phát sinh
là vô thường -nếu ta có thể ý thức về sự phát khởi và hoại diệt của nó– ta
sẽ không bám víu vào đó. Ta sẽ bước tới. Nếu
ta có thể nhận thức được rằng bản chất của sự vật là vô thường,
để buông xả khi chúng hoại diệt, thì
tâm ta sẽ thoát được khỏi sự căng thẳng của
việc phải luôn tìm kiếm các đối tượng
đem lại sự dễ chịu. Nếu ta có thể duy trì chánh niệm vế tất cả các
pháp sinh khởi, biết rằng chúng sẽ qua đi, thì
thân kiến kiết sử sẽ không có mặt. Hãy xét về một kiết sử khác: giới cấm thủ. Có lẽ bạn có một nghi lễ là
mỗi sáng phải đốt đèn cầy và cầu
nguyện để được thoát khổ. Mỗi sáng thức dậy,
bạn nghĩ, “A, tôi phải thực hiện nghi lễ của mình." Nhưng bạn không
cố gắng để giảm thiểu tâm uế nhiễm bằng cách
vun trồng trí tuệ, thiền định, hay các thiện pháp như là tình
thương yêu. Thay vào đó, bạn bám víu vào
niềm tin rằng thực hiện nghi lễ này mỗi buổi sáng chắc chắn sẽ mang
đến hạnh phúc. Làm thế thì bao năm
sau, dầu bạn chẳng bao giờ bỏ qua một ngày thiếu ‘nghi lễ’, thì bạn
cũng không đến gần hơn với Giác Ngộ.
Khi quán sát tâm với chánh niệm, ta có thể thấy các kiết sử phát sinh
khi các giác quan tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cho
đến khi ta đạt được giác ngộ, mỗi lần một
trong sáu giác quan này tiếp xúc với
đối tượng của chúng, các kiết sử sẽ phát khởi. Chánh niệm có thể giúp ta
phân biệt giữa các giác quan, đối tượng của giác quan, và các kiết
sử khi chúng phát khởi. Khi các kiết sử xuất hiện, ta cần sử dụng sự tinh
tấn đầy chánh niệm để chế ngự chúng. Khi
chúng hoại diệt, ta cũng cần chánh niệm về trạng thái này, và khi
chúng không có mặt, ta cũng phải nhận thức về trạng thái
đó nữa.
N
Từ mười kiết sử đó sinh ra một số các
trạng thái tâm vô cùng bất thiện, cản trở ta tiến bộ trong việc
hành thiền hay làm được điều gì tốt
đẹp trong cuộc đời. Chúng ta gọi các trạng
thái tâm đó là các chướng ngại (triền cái). Nếu kiết sử giống như
là ngọn gió, thì chướng ngại là trận cuồng phong. Chướng ngại thật sự gây
khó khăn cho các hành giả mới bắt
đầu tu thiền.
Năm chướng ngại đó là tham, sân,
hôn trầm thùy miên, trạo hối và nghi. Chúng phát sinh từ các kiết sử trên
tùy theo điều kiện, bùng phát lên
giống như những ngọn lửa từ các đống than rực
nóng. Nhưng, cũng giống như các ngọn lửa, chướng ngại có thể được dập tắt
với Chánh Tinh Tấn, nếu áp dụng đúng cách.
Các chướng ngại có thể được ngăn chặn bằng
thiền định hay bằng sự kiên trì chánh niệm. Chánh niệm hay
định tĩnh sẽ làm hạ nhiệt các chướng
ngại và chế ngự chúng khi chúng phát khởi. Khi tâm không chất chứa bất kỳ
chướng ngại nào, tâm tự động sẽ trở nên
sáng suốt, thanh tịnh. Nhờ đó, tâm dễ nẩy
sinh các trạng thái tâm thiện, đưa đến thiền định, đến khả năng nhận biết
rõ ràng bản chất vô thường của vạn pháp. Bất cứ ai trong chúng ta
cũng có thể loại trừ các chướng ngại này, ít nhất là một cách tạm thời.
Bao giờ mà mười kiết sử cốt yếu vẫn còn hiện hữu thì các chướng ngại vẫn
còn có thể quay trở lại để quấy nhiễu tâm,
không lúc này thì lúc khác. Nhưng với sự thực hành bốn loại Chánh
Tinh Tấn (tứ chánh cần), ta có thể giảm bớt và làm ngắn
đi những sự xuất hiện của chúng. Khi ta trở nên
nhuần nhuyễn hơn trong việc áp dụng Chánh Tinh Tấn, các chướng ngại không
thể gây nhiều khó khăn cho việc hành
thiền hay trong cuộc sống hằng ngày của ta. Tham Chướng ngại tham hay ái dục là ước muốn
được chiếm hữu. Khi hành thiền, chướng ngại này xuất hiện như những
ham muốn về đồ ăn hay vật chất mà ta
muốn sở hữu, hay dục vọng. Những tư tưởng đó
làm mất rất nhiều thời gian hành thiền của ta, và nếu ta
để bị lôi cuốn theo chúng, thì
điều đó có thể trở thành một thói quen
khó bỏ. Cái bẫy của lòng tham này thì không khác lắm với phương cách bẫy khỉ ở
một số nước. Người đặt bẫy sẽ vạt một khoảng
nhỏ ngang đầu trái dừa và đổ nước dừa ra. Sau
đó anh ta cắt một ít thịt dừa và
đặt chúng dưới đáy trái dừa, rồi cột chặt
trái dừa vào cây. Con mồi, ở đây là
các chú khỉ, sẽ thò tay vào trong cái lỗ nhỏ trên
đầu trái dừa để lấy mấy miếng dừa. Nhưng bàn
tay nắm đầy dừa sẽ không thể đi lọt qua được
cái lỗ nhỏ này. Khi người đặt bẫy trở
lại, anh ta sẽ dễ dàng bắt được chú
khỉ tham ăn, quá bám víu vào mấy miếng dừa trong tay
đến nỗi không thể buông chúng ra để thoát
thân. Chúng ta cảm thấy thương hại cho chú khỉ. Nhưng tất cả chúng
ta đều đã từng bị mắc bẫy của lòng
tham như thế. Sân Sân chướng ngại, bao gồm cả sự hằn thù, giận dữ, và hờn trách,
đều bắt nguồn từ lòng muốn trốn tránh
những gì mà ta không ưa thích. Sân được so
sánh với nước sôi. Khi nước đang sôi, chúng ta không thể nhìn thấy
đáy nồi, và nếu chạm tay vào thì không
khỏi bị phỏng. Nói cách khác, sân sẽ đốt cháy
bản thân chúng ta chứ không phải người khiến ta sân, và ta cũng sẽ
khó tìm được nguyên nhân
đích thực (‘thấy được đáy nồi’) của cảm giác
nóng nảy khi sân hận đang sôi sục bên trong ta. Do sân, nhận
định của ta cũng méo mó và tâm an lạc
bị hủy diệt. Nó giống như một loại bệnh khiến cho các món
ăn ngon cũng trở thành vô vị
để ta không thể hưởng thụ được. Tương tự, khi
tâm tràn đầy lòng thù hằn, ta
không thể cảm nhận được các đức tính cao đẹp
của những người ở quanh ta.
Hôn Trầm Thụy Miên Trong lúc tọa thiền, hành giả thường phải tranh
đấu với tâm tham, sân. Khi các chướng
ngại này đã
được chế ngự, hành giả vừa
được có đôi giây phút bình an, thì sau
đó lại cảm thấy uể oải, buồn ngủ (thụy miên,
hôn trầm). Chướng ngại này phát sinh từ kiết sử vô minh. Thụy miên là
trạng thái tâm ù lì, đờ đẫn, trong khi hôn
trầm là một trạng thái thân vật lý uể oải, buồn ngủ. Khi cảm thấy
uể oải, buồn ngủ, ta không thể chú tâm hay làm
được công việc gì. Cũng không thể thực
hành chánh niệm hay tham thiền. Chướng ngại hôn trầm thụy miên
được so sánh với tình trạng bị tù tội.
Khi bị giam giữ, ta không thể biết việc gì
đang xảy ra ở thế giới bên ngoài. Cũng thế, khi ta
để thân tâm uể oải, muốn ngủ, ta không biết
điều gì đang xảy ra chung quanh hay bên
trong ta. Trạo Hối Lo lắng khiến ta không thể yên ổn (trạo cử), vì thế hai trạng thái tâm
này đi chung với nhau. Cả hai (lo lắng và
trạo cử) đều khiến tâm không có sự suy nghĩ
sáng suốt hay sự hiểu biết, trí tuệ sáng suốt. Chướng ngại này
được so sánh với sự bị nô lệ. Kẻ nô lệ làm
việc vất vả để phục vụ người chủ độc ác của mình,
luôn phải lo lắng, căng thẳng vì sợ bị
hành phạt. Càng căng thẳng, bức rứt, thì
họ càng khổ sở. Họ chẳng bao giờ được hưởng
tâm an lạc.
Nghi Hoặc Chướng ngại nghi hoặc khiến hành giả bấn loạn, không biết phương hướng
hay ngã rẽ nào để theo. Tâm nghi phát
sinh do suy nghĩ về những điều khác hơn là
những gì mà ta có thể quan sát xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Nghi
được so sánh với người đi trong sa mạc mà
không có bản đồ hay phương hướng gì.
Khi đi qua sa mạc, ta dễ bị lúng túng vì
rất khó phân biệt các cảnh quang. Bất cứ phương hướng nào cũng có thể là
sai hay đúng. Cũng thế, khi khởi tâm nghi ngờ
về chân lý trong những điều Phật dạy, hành giả sẽ trở nên hoang
mang, khó thể quyết định phải làm gì. Người đó sẽ suy nghĩ, “Người ta có thực sự
được giác ngộ? Không biết phương cách tu này có thực sự hữu ích? Ta
tu hành có đúng không? Người khác hình
như tu tốt hơn. Có thể ta phải làm cái gì đó
khác đi, hay thử tìm một vị thầy khác, hay khám phá
điều gì
đó hoàn toàn khác hẳn." Những mối nghi này làm tàn lụi nhiệt tâm,
khiến ta hoang mang, không thể phán xét điều
gì rõ ràng. TỨ CHÁNH CẦN Giờ chúng ta có thể xét xem phải đối phó
với những thứ cỏ dại triền cái và kiết sử trong tâm như thế nào,
để vun trồng các trạng thái tâm tích cực hơn.
Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta một phương cách để rèn luyện tâm
được như thế. Ta cần áp dụng Chánh
Tinh Tấn để:
- ngăn chặn các trạng thái tâm tiêu
cực - chế ngự các trạng thái tâm tiêu cực - vun trồng các trạng thái tâm tích cực - duy trì các trạng thái tâm tích cực Ng
Cách đề phòng
đầu tiên là ngăn
chặn các trạng thái tâm tiêu cực hay các bất thiện pháp không
để chúng phát sinh. Bằng cách nào?
Bằng cách duy trì tâm chánh niệm không ngừng nghỉ. Chỉ có vậy. Chánh niệm đòi hỏi sự thực hành, và
sự thực hành đòi hỏi nỗ lực. Có năm
điểm trong việc rèn luyện tâm chánh niệm: giới, chánh niệm, trí
tuệ, lòng kiên nhẫn, và tinh tấn. Tinh tấn
được áp dụng với từng điểm nêu trên. Ta bắt
đầu với giới luật (đạo đức tốt), và
việc này đòi hỏi phải có sự nỗ lực,
như ta đã biết trong các chương trước
về các bước trong Bát Chánh Đạo. Với giới
luật làm nền tảng vững chắc, ta phải nỗ lực
để thực hành bất cứ chánh niệm nào mà
ta có thể nhớ. Một khía cạnh của chánh niệm là "nhớ," và
điều này cần phải
được duy trì luôn luôn. Lần này
đến lần khác, ta cần luôn nhớ hướng tâm đến
giờ phút hiện tại. Dần dần ta sẽ tích lũy
được nhiều giây phút chánh niệm. Không
có giây phút chánh niệm nào là giây phút bị lãng phí. Sau đó ta sử dụng tri kiến của mình,
đem sự hiểu biết ngày càng sâu sắc vào
các nỗ lực của mình. Ta dừng lại và suy nghĩ, "Vấn
đề này lần trước
đã xảy ra như thế nào?" Cảm nhận
được hậu quả của những sai lầm trong quá khứ
khiến ta có nhiều động lực hơn để tránh chúng xảy ra trong tương lai. Quán
tưởng đến những trải nghiệm của mình
để không lặp lại các sai lầm đó. Bằng cách đó, ta nhanh chóng sửa đổi được
cách cư xử của mình. Khi đã có
thể nhìn thực tại sâu sắc hơn, ta sẽ luôn tự nhắc nhở mình về những gì là
mục đích trước mắt và không
để một giây phút nào qua
đi một cách không chánh niệm, sáng suốt. Nếu
thất bại, ta sử dụng lòng kiên nhẫn: chấp nhận hậu quả và rồi kiên
trì nỗ lực lập lại tâm chánh niệm. Phát triển tâm chánh niệm vững chãi có thể là một quá trình lâu dài, vì
thế Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta
các phương cách để bảo vệ tâm. Đức Phật khuyên
chúng ta thực hành "như lý tác ý" (‘wise attention’) và
để tránh “phi lý tác ý" (‘unwise
attention’) (M 2). Ngài dạy rằng ta cần phải trụ vào những gì ta biết là
đúng, qua năm uẩn, ngay hiện tại. Đó
là lãnh địa của riêng ta, ngôi nhà thực sự của ta. Tư duy có thể dẫn dắt
ta xa rời nơi an toàn đó. Thí dụ, trong lúc đang tọa thiền, nếu nghe một
tiếng động, chỉ cần biết đó là "tiếng động," thay vì thắc mắc ai gây ra
tiếng động và tiếng động đó có ý nghĩa gì. Khi
đang làm việc, cảm thấy lạnh, chỉ cần
quán sát cảm giác này, không suy nghĩ, có ý kiến về hệ thống máy
điều hòa trong tòa nhà. Hãy xem dòng
suy tưởng của ta giống như những chuyến xe buýt
đi qua trạm đỗ, không dừng lại,
đừng leo lên xe
đi theo chúng.
Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài chịu đựng những điều bất như ý nhỏ
mọn trong cuộc sống mà không lập tức cố gắng sửa đổi chúng. Nếu ta luôn
muốn thay đổi mọi thứ theo ý mình, thì
tâm luôn bực bội, khiến cho các bất thiện pháp có thể dễ dàng phát sinh.
Thí dụ bạn nhận thấy thiền đường quá nóng,
nhưng thay vì đứng dậy để điều chỉnh
nhiệt kế hay mở cửa sổ, chỉ ý thức cảm giác nóng. Quán sát sự thay
đổi vật lý bên ngoài và các phản ứng
thay đổi của tâm. Rèn luyện chịu
đựng những việc nhỏ mọn. Tuy nhiên, có
một số người tuân theo lời khuyên này một cách cứng nhắc. Dĩ nhiên, trong
trường hợp khẩn cấp, ta phải lập tức lo giải quyết chúng một cách có chánh
niệm! Đức Phật cũng khuyên chúng ta tránh xa những kẻ ngu khờ, không có chánh
niệm, dại dột, vì tất cả chúng ta thường có thói bắt chước theo người
khác. Hãy giao tiếp với những người có các đức tính mà bạn muốn học tập.
Hãy tìm một thiện hữu tri thức, có tánh thẳng thắn, kỷ luật biết kiềm chế,
có chánh niệm, và cư xử điều độ. Hãy
gần gũi và nghe theo lời khuyên của người này khi cần thiết. Đức Phật cũng nhắc nhở thêm cho các đệ tử của Ngài là đừng để ý đến
"dấu hiệu và đặc điểm" của bất cứ các tác động ngoại tại nào mà có thể
khiến các bất thiện pháp phát sinh. "Dấu hiệu" ám chỉ
đến cạm bẫy, những thứ bắt mắt chúng
ta khiến chúng ta muốn quán sát chúng kỹ càng hơn
để khơi dậy bất thiện pháp. “Đặc điểm” ám chỉ
những tính chất cá biệt của đối tượng chú ý của ta mà chúng có thể
khuấy động tâm bất thiện. Thí dụ, một người đàn
ông đã có gia
đình có thể
được khuyên
đừng để ý hay vấn vương hành
động quyến rũ hay nét đặc biệt hấp dẫn nào
đó của người đàn bà mà anh ta có thể
say đắm. Tương tự, người phụ nữ
đã có gia
đình cũng được khuyên là không
nên để ý xem người đàn ông
đẹp trai trước mắt mình có
đeo nhẫn không hay dừng lại ngắm nụ cười của
anh ta. Một câu chuyện từ thời Đức Phật có thể minh họa rõ hơn
điều này. Có một vị tu sĩ mà lời nguyền sống độc
thân của ông bị đe dọa bởi những ám ảnh về tình dục. Vị tu sĩ này
quán chiếu thân như là một bộ xương để tự
giải thoát mình khỏi những ý nghĩ xấu xa. Một ngày kia ông
đi trên một con
đường qua cánh rừng. Một phụ nữ đẹp cũng đi cùng
đường, ngược hướng về nhà cha mẹ cô
sau khi gây gổ với chồng. Khi thấy vị tu sĩ, bà mỉm cười chào ông. Sau đó, người chồng trên
đường đi tìm vợ mình, gặp vị tu sĩ.
Anh ta bèn hỏi, "Thưa sư, sư có thấy một người phụ nữ trẻ
đẹp đi ngang đường này không?" "Tôi không biết đó là
đàn ông hay
đàn bà," vị tu sĩ trả lời, "nhưng tôi
có thấy một bộ xương đi ngang qua.”
(Vsm 1[55]) Vị tu sĩ đã ngăn
chặn dục vọng của mình phát sinh bằng cách áp dụng Chánh Tinh Tấn
trong việc hành thiền của mình. Do đó ông đã
bảo vệ được tâm khỏi các uế nhiễm.
Nếu ta có thể duy trì tâm chánh niệm liên tục, không có gì có thể kích
động ta. Ta sẽ không giận dữ hay bực
tức. Ta có thể kiên nhẫn dầu ai đó nói gì
hay làm gì. Ta có thể vẫn giữ được sự bình
tĩnh và hạnh phúc. Một trạng thái tâm bất thiện, uế nhiễm không thể phát
sinh cùng lúc với giây phút của chánh niệm. Có thể bạn cũng thấy rằng việc kiềm chế các trạng thái tâm tiêu cực khá
dễ dàng khi bạn không gặp phải người khó chịu hay hoàn cảnh khó xử. Khi
mọi thứ đều xuôi buồm thuận gió, thì
rất dễ giữ tâm chánh niệm không bị lung lay. Bạn còn có thể tự khen mình
đã giữ
được bình tĩnh và đón nhận lời khen về
sự tự kiềm chế, kiên nhẫn của bạn, từ gia
đình, bạn bè,
đồng nghiệp. Nhưng khi sự việc xảy ra không
như ý muốn, thì lòng kiên nhẫn và chánh niệm của ta có thể bắt
đầu đổ vở. Một câu chuyện
được Đức Phật kể lại để minh chứng điều này
có thể xảy ra một cách dễ dàng như thế nào. Xưa có một phụ nữ rất giàu, có một người
đầy tớ rất giỏi giang và biết vâng lời. Người
đầy tớ luôn dậy sớm và bắt
đầu công việc trước khi bất cứ ai trong nhà
thức dậy. Cô ta làm việc cả ngày cho đến tận
khuya. Mỗi đêm cô chỉ ngủ một vài tiếng. Cô thường nghe hàng xóm ca tụng về người chủ của mình. Họ nói, "Vị mệnh
phụ kia rất tử tế với người giúp việc. Bà rất kiên nhẫn. Chúng tôi chưa
bao giờ thấy bà giận dữ. Chúng tôi không biết làm thế nào mà bà có thể trở
nên là một người tuyệt vời như thế." Người đầy tớ nghĩ ngợi, “Những người này
ca tụng chủ ta hết lời. Họ không biết ta đã
làm việc cực nhọc thế nào để gìn giữ
ngôi nhà này. Ta phải tự kiểm chứng xem chủ ta tử tế và kiên nhẫn
đến đâu.”
Hôm sau, người đầy tớ thức giấc trễ hơn
mọi khi. Khi người chủ thức dậy thấy người giúp việc cho mình vẫn
còn ngủ. Bà la rầy cô, "Đồ hư! Mày ngủ
cho tới khi mặt trời lên sao? Thức dậy đi làm
việc ngay!" Người đầy tớ thức dậy. Cô không
có ngủ. Cô chỉ giả bộ ngủ. Cô ngồi dậy, xin lỗi bà chủ và bắt
đầu làm việc. Hôm sau nữa, người đầy tớ cố tình
thức dậy trễ hơn ngày hôm trước. Bà chủ giận dữ. Bà rầy la người
đầy tớ, dùng những lời thô tục, và
đe dọa rằng nếu người đầy tớ dậy trễ lần nữa
bà sẽ đánh cô.
Ngày thứ ba, người đầy tớ vẫn còn
ngủ dậy trễ. Bà chủ quá giận đến nỗi bà
lấy cây chổi và đánh người đầy tớ cho đến khi
đầu cô ta chảy máu ra. Người đầy tớ chạy ra khỏi nhà với cái
đầu đầy máu và la khóc lớn lên, "Ôi,
bà con hãy nhìn đi! Bà chủ
đánh tôi vì hôm nay tôi ngủ dậy hơi
trễ. Đêm hôm qua tôi phải làm việc tới
tận nửa đêm, nên tôi bị nhức
đầu. Vì thế, bữa nay tôi dậy hơi trễ." Những người hàng xóm đã khen tặng
bà chủ có lòng kiên nhẫn và thương người, nhanh chóng thay
đổi ý kiến. (M 21)
Có thể bạn cũng đã trải qua một sự
thay đổi nhanh chóng như thế sau một
kỳ nghỉ dường dài hay khi bạn vừa trở về từ một khóa an cư. Trong thời
gian đó, sân hận, bực dọc, ganh tỵ hay sợ hãi
dường như đang ngủ yên, nên bạn cảm
thấy rất bình an và hạnh phúc. Nhưng ngay khi về
đến nhà, bạn nhận
được một tin nhắn trên
điện thoại với lời lẽ cộc lốc, hay một hóa
đơn phạt tiền vì bạn quên trả bảo hiểm, hay ai
đó dẫm lên chân bạn; thì ngay lập tức
tâm sân hận lại trổi lên, tâm bình an biến mất. Lúc
đó bạn tự hỏi, “Làm sao
để tôi có thể duy trì cảm giác như
đang nghỉ hè hay cảm giác như
đang tu thiền trong đời sống hằng ngày?" Câu trả lời là phải luôn chánh niệm. Ta cần nhớ rằng không phải là tha
nhân hay hoàn cảnh bên ngoài đem lại phiền não
cho ta, mà chính là những duyên nghiệp trong quá khứ. Ngoài việc cố gắng
để luôn duy trì chánh niệm, việc rèn
luyện để nhận ra các khuyết điểm của thói
quen tâm lý cũng có thể giúp ta ngăn chặn những phản ứng tiêu cực
phát sinh. Thí dụ, bạn đi mua một đôi bao tay trong
một cửa hàng sang trọng, và người bán hàng rất cộc cằn. Dựa trên
kinh nghiệm trong quá khứ, bạn biết rằng mình sẽ nỗi giận khi người bán
hàng thiếu lịch sự. Vì thế bạn cố gắng giữ chánh niệm thật kỹ, xua
đuổi bất cứ ý nghĩ sân hận nào nỗi
lên. Bạn tự lý giải với mình bằng cách suy nghĩ: "Thì người bán hàng này
cũng là con người. Có lẽ đêm qua anh
ta không ngủ được. Hay anh ta có những lo
lắng về tiền bạc hay vấn đề gì đó
trong gia đình. Có thể anh ta cảm thấy bất an
đối với những người khác màu da hay
quốc tịch. Hay hôm nay anh không được khỏe.
Đó có thể là lý do khiến anh ta thiếu kiên nhẫn
đối với khách hàng." Phương cách này nghe có vẻ dễ, nhưng không dễ thực hành. Tâm chúng ta
chưa được rèn luyện
để ngăn chặn các thói quen suy nghĩ tiêu
cực. Nổi giận thì rất dễ, phê bình người khác cũng rất dễ, lo lắng về
tương lai cũng dễ, ham muốn vật chất cũng rất dễ. Những thói quen này của
tâm cũng giống như là các loại thức ăn vặt.
Một khi ta đã bắt đầu mở một gói khoai
tây sấy để ăn, thì ta rất khó dừng lại nửa chừng. Kiềm chế không
cho các tư tưởng tiêu cực khởi lên cũng rất khó. Một khi ta
đã dính vào
đó, thì rất khó buông bỏ. Như
Đức Phật đã dạy: Người tốt dễ làm tốt, Rất dễ làm những việc tự hại (cho) mình. Tuy nhiên, ta cần ý thức rõ ràng rằng phòng bệnh luôn tốt hơn chữa
bệnh. Chánh niệm đi đôi với chánh tinh tấn có
thể ngăn chặn những suy nghĩ và hành
động tiêu cực phát khởi trong tương lai. Việc phòng hộ các thói
quen xấu nơi thân, khẩu và ý không phải là khó, nếu ta có thể tự rèn bản
thân luôn chánh niệm. Tuy nhiên, nếu bạn đã
cố gắng hết sức mà vẫn không ngăn chặn được
các tư tưởng và hành động bất thiện thì
cũng không nên thất vọng hay nản lòng. Không có nghĩa rằng bạn là người
xấu, chỉ có nghĩa là bạn cần phải tu tập thêm. Hãy vui mừng trong ý thức
rằng ta luôn có người phụ tá bên mình: sự nỗ lực
để chế ngự các trạng thái tâm tiêu
cực. Chế Ngự Các Trạng Thái TâmTiêu Cực Trước khi đạt được giác ngộ viên
mãn, chúng ta không thể chọn lựa tư tưởng nào sẽ phát khởi, vì thế không
cần phải xấu hổ hay phản ứng chống lại những gì
đã xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta có thể
chọn lựa để tư tưởng nào
được phép phát triển. Các tư tưởng
tích cực và thiện hỗ trợ tâm. Chúng cần được
vun trồng. Các tư tưởng tiêu cực và bất thiện, như là năm
chướng ngại (triền cái) và mười kiết sử, chỉ làm hại tâm. Chúng cần
phải được tấn công và chế ngự ngay
bằng Chánh Tinh Tấn. Đó là lời khuyên
của Đức Phật.
Chế Ngự Các Chướng Ngại Chúng ta phản ứng như thế nào đối với một
chướng ngại tùy thuộc vào mức độ chấp
thủ của ta. Khi vừa phát
khởi, chướng ngại còn yếu ớt. Chúng bắt đầu
bằng một sát na tâm tiêu cực lẻ loi, rồi dần tăng
trưởng. Ta càng ý thức được dòng
chảy này càng sớm, thì càng dễ ngăn chặn nó.
Bất cứ khi nào chướng ngại có mặt, ta không thể có tiến bộ trong
chánh niệm hay thiền định.
Bước đầu rất đơn giản. Khi một chướng ngại
phát sinh, ta chỉ cần ý thức được sự có mặt của nó. Thí dụ ta ý thức rằng
tâm tham, sân, hay nghi đang khởi lên; hoặc tâm ta
đang bị rơi vào trạng thái bất an,
trạo cữ, hay trầm cảm, chán chường. Ở giai
đoạn khởi đầu, các chướng ngại này rất yếu, vì thế phương pháp
để chế ngự chúng cũng nhẹ nhàng thôi.
Ta chỉ cần nhận biết sự có mặt của chúng. Chỉ ý thức không thôi, triền cái
vừa phát khởi, sẽ tàn lụi, khiến ta ý thức
được sự vắng mặt của nó và sự vắng mặt này cho phép các thiện pháp
như từ bi, lòng thương yêu, và tri kiến có thể phát khởi như thế nào. Nếu một chướng ngại đã phát triển
vượt khỏi giai đoạn khởi đầu, ta cần sử dụng
những biện pháp mạnh hơn. Trước tiên, hãy quán sát chướng ngại
đó với tâm hoàn toàn chánh niệm. Dồn
tất cả chú tâm vào đó. Nhận biết ảnh hưởng
của triền cái đó trên thân và tâm, biết rằng nó cản trở sự phát
triển tâm linh của ta như thế nào. Nhận biết tính chất vô thường của nó.
Sự vô thường của hoàn cảnh, hình tướng, mùi vị, cảm giác và nhiều những
điều kiện khác nữa đã khiến cho chướng
ngại này phát sinh. Quán chiếu về những tai hại mà ta có thể mang
đến cho bản thân nếu ta dung dưỡng bất thiện
pháp này, và nguy hiểm hơn nữa nếu ta hành
động, phản ứng theo sự
điều khiển của triền cái đó.
Bây giờ, hãy lý giải với bản thân. Hãy tự nhắc nhở rằng tất cả mọi thứ
đều vô thường và hoàn cảnh làm phát
sinh chướng ngại này hay trạng thái tâm phát sinh chắc chắn sẽ không kéo
dài. Thí dụ, nếu ai đó đã nói
điều gì khiến ta nổi giận, hãy nghĩ
đến những vấn đề mà ta phải
đối mặt trong cuộc sống – lo lắng về
tiền bạc, sức khỏe, ưu tư về công việc hay gia
đình. Có thể người
đó cũng đang phải đối phó với những vấn đề
giống như ta. Ta thực sự không thể biết điều gì
đang diễn biến trong tâm người khác. Đúng
hơn, ta còn chưa biết điều gì
đang xảy ra trong tâm mình vào bất cứ
lúc nào. Trạng thái tâm của ta tùy thuộc vào rất nhiều
điều kiện. Thật ra, bất cứ điều gì xảy
ra cũng tùy thuộc vào nhiều nhân duyên. Quán chiếu theo cách
đó có thể khiến cho trạng thái tâm tiêu
cực của ta qua đi.
Thí dụ, một buổi sáng kia bạn thức dậy với tâm trạng không vui. Bạn
không biết lý do tại sao bạn cảm thấy buồn bực, trầm cảm, căng
thẳng, hay quạu quọ. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ lại, bạn có thể nhớ rằng buổi
tối hôm trước bạn đã ăn nhiều chất cay
hay xem truyền hình hàng giờ trước khi
đi ngủ. Nhưng chúng không phải là lý do khiến bạn bực bội như thế
sáng nay. Chính chúng là kết quả của những nguyên do khác. Có thể ngày hôm
trước đó bạn đã cãi vã với chồng,
không vừa lòng với con cái, hay lo lắng điều
gì đó, khiến bạn xem truyền hình
lâu hơn hay ăn nhiều hơn. Rồi bạn lại
nhớ bạn cãi vã với chồng là do bạn bực mình với người bạn
đồng nghiệp ở sở làm, mà chuyện bực
mình này, tự nó lại là kết quả của những nguyên nhân và
điều kiện khác. Tóm lại, tất cả mọi thứ mà
chúng ta trải nghiệm đều có nguyên
nhân, hoàn cảnh đằng sau đó – nhiều
hơn những điều mà ta có thể suy
đoán hay biết đến. Tất cả các nhân duyên
liên hệ chồng chéo lên nhau. Không có một lý do duy nhất nào có thể khiến
bất cứ điều gì xảy ra. Do
đó không cần phải làm cho tâm thêm não
phiền bằng cách tự trách mình – hay đổ lỗi cho người khác! Hơn nữa, chúng ta nên nhớ rằng, may mắn thay, tất cả mọi hoàn cảnh, mọi
tâm trạng đều thay đổi. Không có gì
mãi mãi trường tồn. Khi đang ở trong một
hoàn cảnh tuyệt vọng hay hạnh phúc quá sức, ta có thể nghĩ rằng sẽ
không có gì thay đổi. Tuy nhiên, nếu
suy nghĩ thấu đáo, ta có thể thấy rằng niềm
tin này là sai lệch. Con người thay
đổi. Hoàn cảnh thay đổi. Bản thân ta
thay đổi. Không có gì là không thay
đổi. Do đó, với thời gian, trạng thái trầm cảm hay tâm sân hận gì
cũng không còn. Cảm nhận về một người hay một hoàn cảnh bất như ý cũng
thay đổi. Thái độ của ta, của người cũng thay
đổi. Khi đã nhận thức
được như thế, ta sẽ cảm thấy thư giãn
hơn, và các tư tưởng tiêu cực của ta bắt đầu
qua đi.
Loại tư tưởng tiêu cực khó chế ngự nhất là loại mà ta không ý thức
được cho đến khi gốc rễ của nó đã
ăn sâu trong tâm. Các vọng tưởng này
che mờ tâm trí và ngăn cản nó phát triển. Bạn
có thể nhận biết sự có mặt của chúng khi bạn ngồi thiền, rèn luyện
tâm chánh niệm hay thiền định. Khi vọng tưởng
luôn khởi lên trong tâm, ta không thể chú tâm vào hơi thở. Trong
những trường hợp như thế, ta cần phải nỗ lực mạnh mẽ hơn. Đây có thể là cơ hội để ta phát triển tri giác bằng cách quán sát các
vọng tưởng đó. Nếu thế, tạm thời ta sẽ để qua một bên dự định chú tâm hành
thiền hay quán sát sự phát khởi, tăng trưởng và hoại diệt của các trạng
thái, cảm giác nơi thân và tâm, mà để tâm quán sát thật thấu
đáo những gì
đang xảy ra. Phương pháp cần sử dụng cho sự
quán sát này được nêu ra ở bước
thứ hai trong phần về chánh niệm của Chánh Tư Duy. Tuy nhiên, nếu ta thích
tiếp tục với sự thực hành như đã
định, có vài phương cách ta có thể sử
dụng. Chúng được liệt kê dưới
đây theo thứ tự của cường độ nỗ lực. Nếu một
phương cách thất bại, hãy thử cái kế tiếp. - Đừng chấp theo vọng tưởng. - Hãy hướng tâm đến điều gì khác. - Hãy thay thế chướng ngại đó bằng đối lực
của nó.
- Hãy quán chiếu về sự thật rằng tất cả mọi chướng ngại phát sinh từ
rất nhiều nguyên nhân, điều kiện và
chúng luôn thay đổi.
- Cắn răng lại và ép sát lưỡi vào
vòm trên, dùng tất cả sức lực để chế ngự
chướng ngại đó.
Thí dụ, bạn cứ tức giận không nguôi sau khi tranh cãi với một người
bạn. Bạn quán chiếu về sân triền cái không kết quả. Tự lý giải cũng thất
bại. Bạn cũng đã cố gắng không chấp
theo chướng ngại đó. (Như
Đức Phật đã dạy: "Tất cả mọi thứ chỉ
phát khởi trong tâm khi bạn chú tâm đến nó.”
(A IV (Tám) IX.3) Khi bạn không để ý đến bất cứ tư tưởng nào, thì
nó sẽ qua đi.) Tuy nhiên, nếu phương
cách này cũng không thể giúp bạn chế ngự tâm sân của mình. Lúc hành thiền,
cuộc tranh cãi lại lởn vởn trong đầu, khiến
bạn thêm tức giận và tâm bạn không thể nào an. Ta có thể làm gì trong trường hợp đó?
Ta có thể cố gắng hướng tâm đến một điều gì
hoàn toàn khác. Thí dụ về những công việc hữu ích mà ta sắp thực hiện ngày
mai. Nếu thất bại, hãy hướng tâm đến tình
cảm đối nghịch với sân hận là tình
thương yêu. Hãy nghĩ đến những tình
cảm thân thiết mà ta và bạn đã chia
sẻ. Hãy để những kỷ niệm tốt đẹp này
tràn đầy tâm ta. Sau đó cố gắng hướng những
tư tưởng thương yêu đến người bạn đó.
Nếu điều này có vẻ quá khó, hãy hướng tình cảm thương yêu
đến con của ta hay một vị thầy nào mà
ta kính ngưỡng. Khi trái tim tràn đầy những tình
cảm thương yêu, thì không còn có chỗ cho sân hận. Tuy nhiên, nếu sân hận vẫn chưa qua đi, thì
hãy quán sát nó thật thấu đáo. Nhận
biết những chuyển biến của nó: phát khởi, tăng
trưởng hoại diệt, có mặt, rồi biến mất như thế nào. Hãy nghĩ
đến những tổn hại ta tự gây cho tâm và
sự tiến bộ tâm linh, khi ta tiếp tục dung dưỡng trạng thái tâm tiêu cực
này. Nếu tất cả đều thất bại, ta phải dồn hết
sức lực của mình để hủy diệt chướng
ngại đó – nói theo lời Đức Phật, “như
là một kẻ mạnh có thể đàn áp
người yếu hơn." Tóm lại, ta không bao giờ để
các chướng ngại (triền cái) có thể thắng. Bạn có thể nghĩ rằng phương pháp
cắn răng lại, gồng mình lên, để diệt sát một trạng thái tâm tiêu
cực có vẻ quá thô bạo, quá khác với những lời dạy mà bạn đã được nghe qua.
Bạn cũng có thể nghĩ rằng phương cách này có vẻ không thích hợp với bản
chất hiền hòa của Phật giáo. Nhưng sự nỗ lực mạnh mẽ này hoàn toàn phù hợp với giáo lý của
Đức Phật. Ngài luôn dạy chúng ta phải
tinh tấn. Chánh Tinh Tấn chính là nguồn năng
lượng dung nạp để giúp ta hoàn tất các bước trên con
đường đến hạnh phúc. Với Chánh Tinh
Tấn chúng ta cẩn trọng, tránh các ý nghĩ, lời nói, và hành
động bất thiện. Với Chánh Tinh Tấn
chúng ta chế ngự lo âu, căng thẳng, sợ hãi,
và oán hận. Với Chánh Tinh Tấn chúng ta thực hành chánh niệm
để vun trồng những đặc tính tuyệt vời bên
trong ta mà ta có thể chưa từng biết đến.
Hãy đánh thức các đặc tính tuyệt vời đó và
làm chúng hiển lộ trong tâm. Với Chánh Tinh Tấn, duy trì và không xao lãng
chúng, luôn thực hành chúng. Như Đức Phật đã
tuyên thuyết: "Dầu cho máu ta có khô đi! Dầu
cho da thịt ta có tan rã! Dầu cho thân ta có trở thành một bộ xương
khô! Ta cũng không đứng lên khỏi chỗ
ngồi thiền nếu không đạt được giác ngộ.” (M
70) Kể từ lúc chứng đắc cho đến khi nhập diệt, Đức Phật luôn nhắc
nhở chúng ta cũng phải tinh tấn như thế trong nỗ lực tâm linh. Trái với những lời dạy này, đôi khi người
ta nói sự phát triển tâm linh chỉ cần “sự tinh tấn không gắng sức”
(effortless effort). Tôi rất tiếc phải làm các bạn thất vọng, nhưng
không có sự tinh tấn nào mà không cần nỗ lực. Sự tinh tấn cần phải cân
bằng, điều độ. Quá nhiều nỗ lực hay nỗ lực
không đúng chỗ có thể khiến tâm căng thẳng hơn và dẫn
đến sự thôi chuyển vào các bất thiện
pháp. Tuy nhiên nếu lơ là tinh tấn, ta sẽ trở nên chán nản, mệt mỏi hay
mất hứng thú. Lúc đó ta phải có những nỗ lực
mạnh mẽ để cân bằng tinh tấn trở lại với các thiện pháp khác.
Sự thật là ta không bao giờ có thể đạt
được bất cứ điều gì đáng kể mà
không cần có sự nỗ lực. Tất cả mọi phát minh vĩ
đại đều cần đến sự nỗ lực. Bóng đèn
điện, xe hơi, và máy vi tính không thể
có nếu người ta chỉ lo nghỉ ngơi, thư giãn. Các nhà phát minh
đã phải nỗ lực mạnh mẽ trong công
trình nghiên cứu, tìm tòi của họ. Nếu bạn muốn thọ lãnh một
đại nguyện như là tu thiền, thì bạn
phải có ý muốn nỗ lực mạnh mẽ để đạt được mục
đích của mình, cũng như một sự tự kỷ luật cao, nếu cần. Có câu
chuyện kể về Đức Phật có thể làm rõ
hơn điểm này. Một người nài ngựa thưa hỏi Đức Phật,
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn huấn luyện các đệ tử của Ngài như thế nào?" Đức Phật hỏi lại anh ta, "Thế người huấn luyện ngựa như thế nào?" Người nài ngựa trả lời, "Con áp dụng những phương cách nhẹ nhàng. Nếu
không kết quả, con sử dụng bie pháp cứng rắn. Nếu cũng không kết quả, con
sẽ giết lấy thịt mấy con ngựa đó.”
Đức Phật đáp, "Ta cũng làm như thế. Ta dùng một phương pháp nhẹ nhàng.
Nếu không kết quả, ta cũng sẽ dùng biện pháp cứng rắn. Nếu ta không thể
rèn luyện họ bằng các phương pháp cứng rắn, ta giết họ." Lúc đó người nài ngựa nói, "Bạch
Thế Tôn, Thế Tôn thường dạy những sự bất bạo
động! Sao Ngài có thể giết hại?" Lúc đó Đức Phật giải thích phương cách
"giết" của Ngài. Ngài "giết" một người có lỗi bằng cách tảng lờ hay
hoàn toàn không để ý đến người đó, sau cùng
thì người đó sẽ bị loại khỏi cộng đồng tăng
già. (A II (Bốn) XII.1) Các kinh kể về một sự kiện rất nổi tiếng trong
đó Đức Phật đã sử dụng phương pháp
này: Đức Phật có một người hầu tên là Channa. Ông là người
đánh xe trong cung và từng chơi
đùa với
Đức Phật khi họ còn là những đứa trẻ.
Ông chính là người đánh xe đưa thái tử
Siddhattha rời khỏi kinh thành để sống
cuộc đời của một vị sa môn. Khi luống tuổi, ông cũng trở thành một
sa môn. Vì vai trò của ông trong cuộc đời Đức
Phật, Channa coi tất cả những sự thành tựu của
Đức Phật như là do công sức của ông và
trở nên rất cao ngạo. Sau khi xuất gia, ông thường tỏ thái
độ bất kính đối với tăng đoàn. Thí dụ,
khi các vị trưởng lão tăng thăm viếng, ông
không tuân thủ các nghi lễ như là đứng
dậy chào hỏi, mời họ ngồi hay đem nước
rửa mặt, rửa chân cho họ.
Đức Phật quở rằng thái độ của Channa rất ngạo mạn. Ngài
đã khuyên, "Ông phải kính trọng các vị
tỳ kheo này." Nhưng Channa chẳng bao giờ tuân lời
Đức Phật.
Cuối cùng, khi Đức Phật sắp nhập diệt, đại
đức Ananda hỏi Đức Phật ông phải đối xử thế nào với Channa. Đức
Phật bảo tăng đoàn hãy đừng để ý đến Channa nữa, và đạo đức Ananda được
giao nhiệm vụ tuyên bố điều này với tăng đoàn. Khi Đức Phật nhập diệt, Channa quá đỗi sốc
và đau đớn đến nỗi ông bắt đầu suy
nghĩ, “Tất cả tiếng tăm, quyền lực, và can
đảm của ta đều dựa vào
Đức Phật. Giờ Ngài
đã ra đi,
ta không còn ai che chở nữa. Giờ cả thế giới
đều trống vắng. Ta đã xúc phạm bao vị
sa môn, và họ không còn là bạn ta nữa." Khi đại đức Ananda thông báo việc Channa
bị tẩy chay, Channa lại bị sốc lần thứ hai và ông ngất xỉu. Khi
tĩnh lại, ông trở nên rất khiêm tốn. Đức Phật
biết rằng Channa sẽ phản ứng như thế. Channa
đã hành thiền miên mật và rất vâng lời
tăng đoàn. Dần dần, ông
được giác ngộ. Đôi khi phương pháp cứng rắn
cũng cần thiết. Đôi khi sự cứng rắn đem lại kết quả. (D 16; V ii
292) Ta cũng có thể dùng phương pháp này để đối
trị với các triền cái (chướng ngại). Bắt đầu bằng một phương pháp nhẹ nhàng,
nhưng cũng phải biết sử dụng phương pháp cứng rắn hơn, nếu cần. Thí dụ, khi ta bị cám dỗ muốn mua một cái áo ấm
đẹp, mặc dầu trong tủ còn
đầy áo ấm, hãy chế ngự tâm theo các
phương cách mà chúng ta đã học
được. Không theo
đuổi ý muốn đó; hướng tâm đến
điều gì khác; thay thế tâm tham bằng
tâm xả; quán chiếu với chánh niệm về tính vô thường của cái áo, cũng như
của tất cả các vật chất khác. Nếu tâm vẫn kiên trì kêu gào
đòi chiếc áo
đó, ta cần phải cứng rắn với bản thân hơn. Hãy
nhắc nhở tâm phải dừng lại ngay, nếu không, mùa
đông này, hay cả năm
này, sẽ không được có chiếc áo mới nào.
Giải pháp cuối cùng là đe dọa trong năm năm
tới sẽ chỉ mua áo sida để mặc. Sau đó
phải thực sự thực hiện lời đe dọa đó. Tâm dần dần sẽ được rèn luyện
để biết buông bỏ.
Trong trường hợp đặc biệt cần phải áp dụng
biện pháp thực sự cứng rắn. Thỉnh thỏang khi ta ngồi thiền, tâm
hoàn toàn điên
đảo. Có thể do một việc gì
đó đã xảy ra trước thời khóa thiền,
như là trong ngày đó ta quá phấn khích hay có
việc gì khiến ta quá lo lắng. Tâm bị kích
động dữ dội với những hình ảnh và xúc
cảm dồn dập phát khởi, đến nỗi ta khó lòng
ứng phó với tư tưởng tiêu cực này thì tư tưởng khác
đã tiếp nối. Có thể lúc
đó bạn đang trải nghiệm một hiện tượng mà
tôi nghe các thiền sinh gọi là "cuộc tấn công của
đa triền cái”. Đó là khi một số chướng
ngại cùng phát khởi, cái này tiếp nối cái kia, để chế ngự tâm. Nếu ta chấp
nhận để tâm chạy rong như thế đó, thì nó sẽ trở nên một thói quen khó bỏ.
Tốt hơn hết là dồn tất cả nội lực để kiềm chế tâm. Trong trường hợp này nếu tất cả các phương pháp thông thường
đều thất bại, thì có một phương pháp
khác: đếm hơi thở. Đây là một cách để
giữ tâm trụ trên một đối tượng. Trước hết đếm hơi thở từ một đến mười rồi
từ đếm ngược lại mười đến một. Kế tiếp, đếm
từ một đến chín, rồi từ chín đến một. Tiếp tục đếm đến số tám, số bảy, và
cứ thế, cho đến khi ta đạt đến từ một tới hai
và từ hai tới một. Cái khó là nếu tâm thất niệm
đếm sai dầu chỉ một lần trong lúc đang đếm,
ta cũng phải bắt đầu trở lại. Cứ tiếp tục cách đếm này cho tới khi
ta có thể hoàn tất trọn vẹn quy trình đếm mà
không một phút lơ là; sau đó ta có thể trở về
phương cách hành thiền bình thường.
Đây là một thử thách cho tâm. Phải bắt
đầu trở lại với mỗi sự lo ra khiến tâm trở nên mỏi mệt với việc
phóng tâm, trở nên biết kiềm chế. Dầu phương pháp này khá khắt khe, đối với
một số người, tâm họ quá điên đảo đến
độ không thể nào tập trung để đếm.
Trong trường hợp đó, hãy lấy ngay sự
điên đảo, lăng xăng làm
đối tượng thiền quán. Quán sát các
trạng thái tâm lăng xăng đó.
CHẾ NGỰ CÁC KIẾT SỬ Sử dụng các phương pháp trên, chúng ta có thể tự rèn luyện
để nhận diện các kiết sử khi chúng phát sinh
và có biện pháp để chế ngự chúng. Với
sự chú tâm đầy chánh niệm và các biện pháp tích cực, các kiết sử
đang quấy nhiễu tâm bạn – tham, sân,
nghi, trạo hối- sẽ dần dần yếu đi và
phai mờ khỏi tâm trí. Một kiết sử nào đó khi
đã qua đi, có thể không phát sinh trở
lại trong một thời gian. Tâm đã được
giải thoát khỏi kiết sử đó. Nhưng rồi, tùy thuộc vào tính chất và
điều kiện sống của bạn, một kiết sử khác lại
có thể xuất hiện.
Khi ta quán sát chu trình của các kiết sử: phát sinh, hoại diệt, rồi
xuất hiện trở lại dưới trạng thái khác, ta bắt
đầu nhận ra các kiết sử này mạnh mẽ
đến thế nào, chúng trói buộc ta vào
khốn khổ, đau thương chặt chẽ đến thế nào.
Không kể rằng bạn đã thường xuyên chế
ngự các kiết sử này một cách tạm thời bao nhiêu lần, chúng vẫn tiếp tục
hiện hữu trong bạn, để luôn trói buộc, bẫy
rập bạn. Như thể bạn đang mang một nhà tù bên trong bạn. Khi chánh
niệm đã
được phát triển, ta sẽ nhận thấy rằng các trạng thái tâm tiêu cực
này – như là tham, sân, si– không chỉ bóp méo cái nhìn của ta mà chúng còn
khiến cho mọi khía cạnh của cuộc sống trở nên khổ sở hơn,
đau đớn hơn. Tâm luôn quay về với những tiêu
cực đã
được huân tập. Ta cảm thấy như mình bị bẫy rập – trói buộc– vào
vòng sinh tử luân hồi chẳng dừng dứt. Sự thật là chánh niệm chỉ có thể giúp ta chế ngự các kiết sử này một
cách tạm thời. Chỉ khi ta đạt đến mức độ cao
hơn trên đạo lộ, ta mới có thể hủy
diệt được chúng, qua bốn giai đoạn. Bằng cách nào? Bạn buông bỏ
chúng qua năm ứng dụng của tinh tấn, được
biết đến như là đè nén, thay
thế, hủy diệt, tàn lụi, và giải thoát. "Đè nén" nghĩa là
đẩy lùi tất cả các trạng thái tâm bất
thiện lại phía sau, giữ chúng nằm yên bằng chánh niệm hay
định. Bất cứ khi nào ta có thể giữ
chánh niệm, hay đi sâu vào thiền
định, thì các kiết sử ngủ yên. Khi ta
đã tạo
được thói quen đẩy lùi các kiết sử này xuống, thì chúng sẽ yếu
đi. Chúng không còn tạo ra nhiều vấn
đề, và bớt ảnh hưởng
đến quá trình tư duy của ta. Các
chướng ngại cũng sẽ trầm lắng xuống chút ít, do
đó tạo ra nhiều cơ hội cho tri kiến có thể
nảy sinh, mà khi đã có tri kiến
thì ta có cơ hội để hủy diệt một số kiết sử.
"Thay thế" là nỗ lực chống lại một bất thiện pháp nào
đó bằng cách vun trồng điều ngược lại. Ta
thay thế lòng sân hận bằng cách vun trồng lòng thương yêu. Niềm tin
rằng vạn vật bất biến được thay thế bằng cách
quán chiếu về vô thường. Bạn đối nghịch lại với niềm tin bản năng vào
một cái ngã bằng cách quán sát những yếu tố luôn biến chuyển, tạo thành
thân và tâm của bạn. Khi sự đè nén và thay thế
đã phát triển tốt
đẹp, thì ta có thể chế ngự một số kiết
sử đã bị suy yếu. "Hủy diệt" là giây
phút khi bất cứ kiết sử nào cũng phải chào thua, giống như một thân cây
đã bị sét
đánh tét cành. "Tàn lụi" ý chỉ sự biến mất của các kiết sử ngay sau
khi chúng bị hủy diệt. "Giải thoát" ý chỉ đến
sự nhẹ nhõm của tâm tiếp theo sau sự hủy diệt của bất kỳ nhóm kiết
sử nào. Sự giải thoát ấn tượng nhất xảy ra ở giai
đoạn đầu trong bốn giai đoạn giác ngộ khi ta
chuyển hóa từ cuộc sống bình thường và trở nên phần nào giác ngộ. Giả sử bạn đã nhắm
đến ba kiết sử đầu tiên – thân kiến,
nghi và giới cấm thủ- và đã quán tưởng
sâu sắc về các pháp đối nghịch. Khi
ngồi thiền, bạn theo dõi hơi thở với sự chú tâm mạnh mẽ thì tuệ giác có
thể phát sinh. Sự quán sát của bạn về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã
của hơi thở cho phép bạn, trong một giây phút
đại ngộ, thấm thía thêm sự thật rằng tất cả vạn pháp
đều mang ba tính chất này. Nhìn thấy
được tính vô thường một cách rõ ràng
nơi vạn vật, bạn sẽ với trực giác nhận biết rằng không thể có một thứ
thường hằng, bất biến gọi là "ngã" hay "linh hồn". Do
đó bạn phá vỡ được kiết sử thứ nhất.
Bạn cũng nhận thức rằng phải có bậc Giác Ngộ nào
đó đã chứng giác
được tất cả những điều này khi tu tập
trên con đường đạo, do đó đạo lộ này
nhất định sẽ giúp bạn bứng rễ được tất cả các
tâm cấu uế. Như thế là bạn đã
trừ được kiết sử thứ hai, tâm nghi.
Giờ thì bạn biết rằng không có gì có thể giải thoát tâm bạn trừ việc vun
trồng tuệ giác qua con đường của giới, định và
tuệ. Biết thế thì bạn không còn tin rằng chỉ có các nghi lễ cúng bái (giới
cấm thủ) mới có quyền lực cứu bạn, có nghĩa là bạn
đã rũ bỏ
được kiết sử thứ ba.
Một khi đã chế ngự
được ba kiết sử này, là bạn
đã đạt
đến giai đoạn đầu tiên của giác ngộ. Giờ không có chuyện bạn sẽ
thôi chuyển trở lại trạng thái cũ. Bạn không còn nghi ngờ khả năng
đạt được giác ngộ của mình nữa hoặc lo lắng không biết làm sao
để đạt được giải thoát. Đảm bảo là bạn
sẽ đạt được mục đích của mình. Bạn sẽ trở thành một "dự lưu," vì sức hút
của dòng chảy tâm linh sẽ đưa bạn đến giác
ngộ, giống như một nhánh cây được cuốn chảy theo dòng nước. Từ lúc này trở đi, tâm trở nên phấn
khởi lạ, ta có cảm giác rằng, dầu bề ngoài cuộc sống có khó khăn
thế nào, bên trong nó tất cả mọi thứ
đều bình an. Ta biết, một cách chắc chắn rằng, tất cả vạn pháp
đều vô thường, và
điều đó mang lại niềm an ủi trong lòng
ta. Ta không còn có thể phạm vào bất cứ hành
động bất thiện nghiêm trọng nào, vì ta hiểu rõ luật nhân quả. Với
thái độ đạo đức như thế, ta không có gì
phải ăn năn hối hận; do đó ta được giải thoát
khỏi gánh nặng đó. Thí dụ nếu ta phạm một lỗi nhỏ, như là nói dối,
ta sẽ không thể nào an lòng cho đến khi ta
nhận lỗi. Ta vẫn còn có thể rơi vào những cơn bùng nổ của giận dữ,
khổ đau, hay tham đắm, nhưng tất cả những tình
huống đó không thể khiến ta gục ngã
như trước đây, và chúng sẽ qua
đi nhanh chóng. Ta biết rõ ràng con
đường phải đi và ta tràn
đầy tin tưởng vào sự tu tập của mình.
Nói chung ta trở nên tự tin hơn, bớt ngã chấp, và tử tế rộng lượng hơn, có
thể hành thiền tốt hơn, và có nhiều khả năng
hơn đối với bất cứ điều gì ta làm. Các
đồng nghiệp và thân hữu của ta sẽ nhận ra
được những sự thay đổi nơi ta, họ sẽ thấy ta
trở nên dịu dàng hơn, cởi mở hơn, và thư giãn hơn. Ánh mắt lấp lánh
của ta sẽ mở cửa trái tim của tha nhân, và họ bắt
đầu hỏi về suối nguồn của sự tự tại của ta.
Để diễn tả mức quan trọng của việc đạt được tầng dự lưu, Đức Phật đã
nhúm ít đất cát lên tay và nói, "Này các tỷ kheo, nhúm đất cát này hay tất
cả đất cát trên thế gian, cái nào nhiều hơn?" Dĩ nhiên các vị tỷ kheo trả
lời rằng đất cát trên thế gian thì nhiều, rất nhiều lần hơn một nhúm cát
đất trên tay Phật. Sau
đó Đức Phật tuyên thuyết, "Cũng thế,
này các vị tỷ kheo, số lượng cấu uế, nhiễm ô mà một người
đã đạt
đến quả dự lưu có thể hủy diệt thì cũng nhiều như cát
đất trên thế gian. Và những cấu uế còn
lại mà người đã
đạt được quả dự lưu phải hủy diệt thì
cũng ít như đất cát trên tay ta." (S
V.56.6 [1]) Vì lý do đó, Đức Phật nói, đạt
được quả dự lưu thì còn vĩ đại hơn trở
thành "vị chúa tể" thống lãnh mọi vương quốc khác. Điều đó còn vĩ
đại hơn là được lên cõi trời làm một chư thiên; vĩ đại hơn cả việc trở
thành một vị trời. Sau khi đã vượt qua
được chặng đường này, ta bắt
đầu đối phó với chướng ngại kế tiếp: kiết sử
của tham và sân. Khi đã vượt
qua được ba kiết sử đầu tiên, ta cũng
đã làm nhẹ
đi sức nặng của các kiết sử còn lại.
Do đó, tham và sân mà giờ ta phải
đối mặt đã bớt nặng nề hơn nhiều so
với những gì ta đã trải qua khi là một
chúng sanh bình thường. Ta phòng hộ tham sân và sử dụng Chánh Tinh Tấn
để tiếp tục đối trị lại với hai kẻ thù
này. Ta phát triển tâm độ lượng và
tình thương yêu. Ta trở nên hoàn toàn nhàm chán với sự bám víu,
đòi hỏi, than vãn của tâm. Khi ta phát
triển chánh niệm về vô thường một cách sâu sắc, nhìn thấy rõ ràng hơn bản
chất đổi thay của tất cả những điều dễ chịu,
khó chịu, và trung tính, ta sẽ thấy sự vô ích của việc cố gắng
khiến mọi việc phải theo ý mình. Ta sẽ buông xả ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng sẽ có một ngày khi tâm tham sân thô lậu
được giảm đi một cách đáng kể. Một số tâm
tham sân vi tế, khó nhận biết hơn vẫn còn, khiến cho cá tính của ta
dường như không thay đổi, nhưng thực ra ta đã
thành tựu được rất nhiều. Khi bạn trở thành
một "nhất lai," có nghĩa là bạn có thể phải tái sanh trở lại thế tục này
một lần nữa trước khi đạt được hoàn
toàn giác ngộ. Khó thể diễn tả được sự thanh tịnh mà
tâm có được lúc ấy. Tất cả những âu
lo, bổn phận, phiền muộn đều được buông bỏ, mãi
mãi. Không có sự sỉ nhục hay bất hạnh nào có thể làm bạn xao
động. Bạn
đã vượt lên trên mọi phiền não. Những người quanh bạn có thể nhận
thấy được sự thanh thoát, lòng từ ái
bao la của bạn và bắt đầu nghĩ đến bạn như là
một vị thánh. Vậy mà lúc khởi đầu bạn cũng
không tốt hơn ai. Đó là một quá trình không dành cho riêng ai, một
sự chuyển hóa tự nhiên trong tâm, mà ta có thể
đạt được khi miệt mài
đi theo con đường Đức Phật đã hướng
dẫn. Dầu ta không còn nuối tiếc hay khổ đau
đối với những mất mát của bản thân, nhưng vì trái tim ta
đầy từ ái và vẫn chưa hoàn toàn dứt
sạch mọi bám víu, ta vẫn còn có thể quan tâm một cách thái quá và
đau buồn vì những bất hạnh của người
khác. Vẫn còn phải tu tập, rèn luyện thêm nữa. Những gì còn lại của sân
tham cần phải được quét sạch.
Khi kiết sử của tham và sân thô lậu cuối cùng bị hủy diệt, là ta
đạt được bước thứ ba của giác ngộ. Vị
hành giả đạt đến giai đoạn này
được gọi là "bất lai," chẳng bao giờ
phải sanh trở lại trong thế giới này, nhưng có thể tái sinh trong cõi vô
sắc. Một khi công việc tháo gỡ tâm tham và sân thô lậu
đã hoàn tất, thì nhóm kiết sử cuối
cùng, những kích thích tâm lý vi tế nhất – năm
kiết sử cuối cùng- phải được đối phó.
Các tâm uế nhiễm này quá vi tế đến nỗi
không có chúng sanh bình thường nào có thể nhận ra chúng, nói gì
đến việc cảm thấy muốn hủy diệt chúng. Bậc
nhất lai tiếp tục cảm nhận, thí dụ, tâm trạo cử bởi lòng lo lắng về
một sự tái sinh trong tương lai. Tuy nhiên
đối với một vị đã đạt được đến mức độ
vi tế này, các kiết sử còn lại giống như những mẫu
đồ ăn lấm tấm trên một chiếc áo hoàn
toàn trắng sạch. Tiếp tục tu tập, vị bất lai tháo gỡ mọi ham muốn vi tế còn lại
đối với bất cứ loại hiện hữu nào. Vị
ấy diệt trừ được “mạn,” đặc tính cố hữu của
niềm tin dường như có một cái ngã. Trạo cử
được tháo gỡ, như là một mảng cuối
cùng còn lại của vô minh. Trong một sát na
đại ngộ, tất cả các kiết sử cuối cùng này bị diệt trừ, và tại đó
xuất hiện một vị hoàn toàn giác ngộ -một vị A La Hán. Vị này không bao giờ
có thể thực hiện bất cứ hành động nào
dựa trên tham, sân, hay si, vì tất cả những uế nhiễm này
đã mãi mãi bị bứng khỏi tâm. Như
Đức Phật đã nói nhiều lần, một bậc A
La Hán là người đã "bỏ xuống gánh
nặng." Ta có thể nghĩ rằng một bậc A La Hán cũng có thể rơi xuống một tầng
thấp hơn và bị cám dỗ bởi tà dâm, trộm cắp, hay một vài hành vi thế tục
nào khác. Nhưng nếu ta nhớ lại bản chất của các kiết sử -chúng dẫn dắt
hành động của chúng ta sai lạc như thế nào
và chúng đã bị
đánh bại như thế nào– thì ta sẽ không
có những suy nghĩ như thế về các bậc đã
hoàn toàn giác ngộ. Bậc A La Hán biết rằng ngay việc thụ hưởng các dục lạc
đã là
điều không thể nghĩ đến – nói gì đến
những hành động vô đạo đức. Bậc A La
Hán không bao giờ có thể làm điều gì
sai trái nữa. Họ tiếp tục thụ hưởng niềm hạnh phúc tối thượng, và giữ
được tâm họ luôn thanh tịnh.
Khi đã giác ngộ, hành giả sẽ thấy
rõ ràng rằng tất cả những gì họ cần liễu tri
đã được chứa đựng trong Tứ Diệu Đế.
Hành giả được giải thoát khỏi bất cứ các suy
đoán, lý luận hay lý thuyết về thực tại, về quá khứ, hiện tại, và
tương lai, về sự hiện hữu của ngã và về vũ trụ. Hành giả biết thân vật
chất là gì, phát sinh và hoại diệt như thế nào. Hành giả biết thọ là gì,
phát sinh và hoại diệt như thế nào. Với tưởng, hành và thức cũng như thế. Hành giả hoàn toàn thoát khỏi mọi ý kiến và suy luận, tất cả các xu
hướng muốn chứng tỏ hay cảm nhận các yếu tố cá biệt của "cái tôi" và "cái
của tôi". Tất cả những lý thuyết, quan điểm,
và niềm tin dựa trên ngã chấp đã
biến mất. Được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả mười kiết sử này là trạng
thái của sự giác ngộ viên mãn. Vun Trồng Các Thiện Pháp Hầu hết chúng sanh đều phải khổ công tu
luyện mới có thể hy vọng đạt được giác ngộ. Chế ngự được các chướng ngại và
đè nén
được các kiết sử là điều tiên
quyết. Nhưng ngay cả khi việc ta cố gắng chế ngự chúng có tạm thời thành
công, thì tâm ta vẫn còn đầy lậu hoặc. Nó có
thể lại thối chuyển trở vào các trạng thái
đau đớn, chướng ngại, giống như một chiếc máy
bay hạ cánh xuống các tầng mây. Vì thế, một khi ta
đã tạm thời giải thoát tâm khỏi các
bất thiện pháp này, ta phải sử dụng Chánh Tinh Tấn
để phấn khích, làm hoan hỷ và nạp năng
lượng cho tâm để ta có thể tiến bộ hơn nữa.
Khi một trạng thái tâm bất thiện đã
được chế ngự, tâm sẽ chuyển sang trạng thái
trung tính. Nhưng nó không ở trạng thái đó lâu. Nó rất giống như một hộp
số xe, có số de (chạy thụt lùi), số chạy tới và số dừng (trung
tính). Ta không thể từ số de thẳng sang số chạy tới mà không
đi qua số dừng (trung tính). Từ vị thế trung
tính, ta có thể gài số xe chạy tới hay chạy lùi. Tương tự, tâm
không thể chuyển thẳng từ thiện sang bất thiện hay ngược lại; nó phải
đi qua một trạng thái trung tính ở giữa hai
thái cực này. Hành giả có thể sử dụng giai đoạn trung
tính này để vun trồng các thiện pháp.
Thí dụ ta đang ngồi thiền thì một trạng thái tâm tiêu cực phát
khởi. Chánh niệm được kích hoạt, và ta
nhận ra trạng thái tâm bất thiện đó.
Ta cố gắng chế ngự nó, có thể do thấy được
tác hại của nó, và trở về với hơi thở. Vì hơi thở là một
đối tượng trung tính, tâm ta giữ được sự
trung hòa khi ta theo dõi hơi thở. Nhưng chẳng lâu sau, khi ta
buông lơi chánh niệm, thì một trạng thái tâm cấu uế khác lại phát sinh. Và
quy trình trên lại tái diễn, hết lần này đến
lần khác. Nếu cứ tiếp tục như thế, ta sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Chánh niệm khiến
ta ý thức rằng ta cần dừng quy trình tiêu cực
đó lại. Khi chú tâm, ta có thể nhận biết được tiến trình của tâm
hành. Ta thấy rằng thay vì để cửa mở cho tiêu
cực len lỏi vào chế ngự tâm, ta cần lợi dụng thời
điểm khi tâm ở trạng thái trung tính để phát
khởi một trạng thái tâm thiện. Rồi trở về với hơi thở và thư giãn.
Hít một vài hơi thở sâu, rồi bắt đầu vun
trồng trạng thái tâm tích cực khác nữa. Có rất nhiều cách để phát khởi các trạng
thái tâm tích cực. Một trong những cách hữu hiệu nhất có thể sử dụng trong
lúc tọa thiền là quán tưởng đến bất cứ
hành động thiện nào mà ta
đã làm trong quá khứ và trạng thái tâm
hạnh phúc, dễ chịu do hành động đó mang lại.
Thí dụ có thể bạn đã có lần giúp một người già qua
đường. Bà lão phải mang nặng mà xe cộ
lướt qua rất nhanh khiến bà sợ, không dám qua
đường. Bạn không biết bà ấy, mà cũng không có ý muốn
được khen thưởng hay ngay cả lời cám ơn nào.
Với tâm hoàn toàn không vụ lợi về bất cứ điều
gì, không chấp thủ, bạn bước xuống
đường và cẩn thận ra hiệu cho xe dừng lại, giúp bà lão qua
đường an toàn. Lúc
đó tâm bạn cảm thấy nhẹ nhàng, thư
thái, và sung sướng. Giờ khi hồi tưởng lại chuyện
đó, bạn cảm thấy thế nào? Lần nữa bạn
lại cảm thấy nhẹ nhàng, thư thái, và hạnh phúc. Từ
đó, bạn nghĩ, “Đây là trạng thái tâm
ta cần vun trồng." Vì thế bạn dùng ký ức này
để khơi dậy và làm tăng trưởng các
thiện pháp.
Ta có thể sử dụng ký ức của bất cứ hành
động thiện nào mà ta đã thực
hiện trong quá khứ, miễn là ta không đem lòng
chấp vào đó. Những hành
động thiện này
đã mang
đến cho ta cảm giác hạnh phúc khi ta thực hiện chúng, và khi hồi
tưởng lại, tâm ta vẫn tràn đầy niềm vui.
Có thể bạn đã giúp một em bé
đi lạc tìm
được mẹ ở một siêu thị, hay bạn
đã giúp băng
bó cho một con vật bị thương trên
đường. Có thể bạn thấy hai người đang tranh cãi quyết liệt về một
vấn đề nhỏ mọn nào
đó, và bạn giúp họ giải quyết
được vấn đề. Có thể trong công việc, bạn đã
khiến cho các đồng nghiệp trẻ cảm thấy muốn
học theo gương bạn, vân vân. Một phương cách khác nữa là hồi tưởng
lại với lòng biết ơn đối với những điều tốt
đẹp mà người khác đã làm cho
ta, hay quán tưởng đến những việc thiện của
người khác mà ta được biết đến. Ta làm
những điều này với tâm tràn
đầy hoan hỷ, thiện hạnh, thì ta cũng
thấy thư thái, tự tại và hạnh phúc. Ta cũng có thể vun trồng các thiện pháp bằng cách quán tưởng
đến những lúc ta đã có thể chế ngự
được tham, sân, hay si. Thí dụ bạn nhớ đến
một thời điểm khi con trai bạn hư quấy, khiến bạn cảm thấy muốn đánh phạt
nó. Nhưng tâm chánh niệm kịp thời xuất hiện, bạn nhớ lại rằng biểu hiện sự
giận dữ ra ngoài không phải là điều nên
làm. Do đó, cơn giận của bạn dịu xuống, bạn bình
tĩnh lại và tâm bạn lắng đọng hơn. Hãy
nhớ đến sự thay đổi lớn lao từ việc phát khởi
tâm giận dữ đến trạng thái bình tĩnh dễ chịu khi bạn kiềm chế
được cơn giận và bạn quán chiếu rằng
cảm giác đó dễ chịu như thế nào. Bạn
tự nhủ, "Trạng thái tâm này là điều mà
ta muốn vun trồng." Sự hồi tưởng này giúp ta thư giãn, mang
đến cho tâm ta một niềm vui thầm lặng.
Ta có thể tự góp nhặt các hoàn cảnh thích hợp
để vun trồng các thiện pháp. Thí dụ,
khi nhìn con chập chững những bước đi đầu
đời, lòng ta tràn đầy tình cảm
yêu thương. Hãy lưu giữ ký ức đó vào
một góc tâm hồn. Trong tương lai ta có thể sử dụng cảm xúc
đó làm chất xúc tác
để vun trồng cho các trạng thái tâm thiện.
Phương pháp của sự tinh tấn chánh niệm để
vun trồng các trạng thái tâm tích cực không chỉ lợi ích trong lúc hành
thiền. Ta còn có thể sử dụng nó trong khi ăn,
đi, đứng, làm việc, chuyện trò. Ta không còn phải dựa vào hy vọng rằng cuộc sống sẽ mang
đến cho ta lý do để cảm thấy hạnh
phúc. Phải có kế hoạch sử dụng tâm để xét xem
những hành động nào tạo nên các
trạng thái tâm khiến cuộc đời ta dễ chịu hơn.
Hãy hồi tưởng lại những thành công và thất bại trong quá khứ. Khám
phá ra nguyên nhân và hậu quả của những quá trình tâm linh
đơn giản này. Sau
đó vun trồng các thiện pháp trong tất cả mọi
việc ta làm. Thí dụ, trong khi rửa chén, ta có thể hướng tâm từ
đến cho những ai sẽ sử dụng các chén đĩa này.
Trước khi trao đổi, trò chuyện, ta có
thể giữ gìn bằng cách chánh niệm về những hậu quả có thể xảy ra của lời
nói tiêu cực hay tích cực. Đó sẽ là
một cuộc trò chuyện "có khởi đầu tốt đẹp.”
Bằng thái độ bình tĩnh và cố gắng mang từng tế bào của lòng kiên
nhẫn, thương yêu, bi mẫn, và trí tuệ vào trong một cuộc trao
đổi, ta sẽ khiến nó trở nên trôi chảy
hơn, đem lại lợi lộc cho bản thân ta cũng như
người khác.
Lường trước những vấn đề có thể xảy bằng
cách tự nhận biết các thiếu sót của mình là một phần của quá trình
này. Thí dụ, nếu bạn nóng tính, và bạn biết
điều đó, thì nhận thức đó cũng là
thiện pháp. Sau đó bạn có thể vun trồng tâm
từ ái để kiềm chế tánh nóng của bạn không phát khởi. Khi một tình
huống khó xử xảy ra, như là sự viếng thăm bất
ngờ của một vị lãnh đạo khó tính đến
công ty, bạn có thể tự nhắc nhở về hậu quả tốt hay xấu từ hành
động của mình. Rồi bạn lập quyết tâm
sẽ giữ bình tĩnh, và vun trồng tâm từ đối với
vị ấy. Do đó khi vị lãnh
đạo nói hay làm
điều gì khó chịu, thay vì biểu lộ thái
độ giận dữ, khó chịu, bạn tận hưởng trạng
thái tâm dễ chịu mà mình đã tạo
lập. Cũng thế, nếu bạn biết mình thường hay lo lắng, thì hãy tự chuẩn bị.
Thí dụ, trước khi cháu cưng của bạn đáp
chuyến phi cơ đầu tiên đi xa nhà,
hãy làm bất cứ điều gì bạn
đã làm trong quá khứ
để chế ngự sự lo âu và mang lại những
cảm giác dễ chịu. Rồi bạn không cần phải khổ
đau vì chuyến bay của cháu bạn. Thay vào
đó bạn có thể hưởng thụ trạng thái tâm dễ
chịu.
Đó là một kỹ năng có thể tự rèn luyện. Chúng ta càng có chủ tâm phát
khởi các trạng thái tâm thiện, thì tâm càng trở nên dễ thích ứng và ta
càng hiểu nó nhiều hơn. Chúng ta có thể vun trồng tâm thương yêu không
giới hạn, tâm hoan hỷ, lòng bi mẫn sâu xa, và tâm buông xả rộng lớn trong
từng ngày, từng giây phút. Bốn tâm vô lượng này
đưa tâm đến các trạng thái lâng lâng, tuyệt
diệu đến nỗi chúng được gọi là "thiên trú." Những ai biết làm thế
nào để chúng phát sinh có thể thọ hưởng thiên
đàng trên trái
đất này bất cứ lúc nào. Duy Trì Trạng Thái Tâm Thiện Một khi trạng thái tâm thiện đã
phát khởi, ta sẽ cố gắng duy trì, không để
tâm đó qua đi. Ta biết rằng nếu để
trạng thái đó qua đi, tâm ta sẽ trở về trạng thái trung tính và rồi
nó có thể rơi vào trạng thái bất thiện. Vì thế bằng mọi giá, ta phải giữ
trạng thái tâm tốt đẹp luôn có mặt.
Tâm thiện của giây phút này phải là trạng thái thiện của giây phút kế
tiếp, và giờ, ngày, tuần kế tiếp. Chúng ta cố gắng
để luôn duy trì trạng thái tâm tích
cực, giống như người ta cố gắng để giữ một
ngọn đèn đặc biệt nào
đó không bao giờ tắt.
Điều đó không dễ thực hiện. Đã bao lần bạn tự hứa với bản thân những điều tốt đẹp? Hãy nhớ đến
những lời cam kết mỗi đầu năm hay những lời thệ nguyện ở đám cưới của bạn
trước vị thầy tâm linh hay trước bạn bè? Bạn đã có bao ước nguyện đầy ấp
hy vọng vào những lần sinh nhật? Nhưng bạn đã
giữ được bao nhiêu lời hứa
đó? Có thể bạn đã tự hứa với mình:
"Tôi sẽ không bao giờ đụng đến điếu thuốc nào
nữa, không bao giờ uống thêm ly rượu nào nữa, không bao giờ nói dối, nói
lời cộc cằn hay sỉ nhục bất cứ ai. Tôi sẽ không bao giờ
đánh bạc nữa, không bao giờ trộm cắp, không
bao giờ giết hại bất cứ sinh vật nào." Hoặc sau một thời khóa thiền
hay một khóa tu đầy kết quả, có thể bạn đã
nghĩ, "Khóa tu này thật tuyệt vời. Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng việc hành
thiền lại có thể dễ đến vậy. Tôi đã
được bình an và hạnh phúc biết chừng
nào trong suốt khóa tu này! Tôi quyết phải luôn hành thiền trong tương
lai." Tất cả đều là những tư tưởng tích
cực. Nhưng có bao nhiêu lời hứa này vẫn được
bạn tiếp tục thực hiện mỗi ngày? Những tư tưởng này phát khởi lên
trong tâm bạn giống như bọt nước trong một ly sô
đa. Sau một vài giờ, chúng lặn tăm.
Bạn đánh mất lòng sốt sắng và trở về
với thói quen cũ của mình. Để duy trì
sự tinh tấn ban đầu, bạn phải phát triển tâm
chánh niệm mạnh mẽ.
Hãy nhớ rằng không có việc quan trọng gì có thể
được thực hiện một cách hoàn hảo với
chỉ một lần thử nghiệm. Ta phải lặp đi lặp
lại một ý nghĩ hay hành động tích cực
cho đến khi chúng trở thành một thói quen. Chúng ta tán thán những
khả năng thiện xảo của các vận động viên
Olympic – nhưng họ đâu có hoàn thiện
các khả năng này trong chỉ vài lần
tập? Khi mới tập đi xe đạp, ta đã phải
té ngã biết bao lần? Muốn hoàn thiện tâm ý cũng phải như thế. Chúng ta
phải thực hành rất tinh tấn. Bất cứ khi nào sự tinh tấn của ta hơi chùn
xuống, hãy nghĩ đến những trường hợp khi ta đã
nỗ lực không ngừng cho đến khi ta đạt được
mục đích của mình. Dĩ nhiên, có những việc ta có thể thực hiện
để hỗ trợ cho sự thực tập Chánh Tinh Tấn. Ta
có thể kết bạn với thiện tri thức và tránh xa những kẻ ngu si. Ta
có thể sống ở những nơi thích hợp, đọc các
sách hướng thiện, giữ mối liên lạc với các
đạo tràng. Ta cũng có thể thực hành
chánh niệm một cách siêng năng. Những hành
động này có thể giúp duy trì các thiện
pháp. Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện về một vị sư
đã lập thệ nguyện lớn và nỗ lực vĩ
đại.
Ở Ấn Độ thời xa xưa, có một vị tỷ kheo lớn
tuổi là một bậc đại sư. Một vị tỷ kheo
trẻ phạm lỗi không làm tròn bổn phận. Vì thế, vị
đại sư phạt người này bằng cách yêu
cầu ông đến khất thực ở một gia đình
kia, để tạo một mối liên hệ tốt với
gia đình
đó. Vì vợ chồng nhà ấy vừa sinh được
một em bé mà các vị thầy tiên đoán sẽ
trở thành một nhà lãnh đạo Phật giáo tài
giỏi. Chủ nhà này nổi tiếng là người keo kiệt và thường tỏ thái
độ hằn hộc khi có người đến khất thực. Lần
đầu tiên, khi vị tỷ kheo trẻ xuất hiện, người chủ nhà rất tức bực.
Anh ta ra lệnh cho vợ con, và đầy tớ của mình
không được cho vị tu sĩ kia bất cứ điều gì
– và không được nói chuyện hay ngay cả nhìn
vị tu sĩ đó. Vị tỷ kheo trẻ trở về chùa
và không nhận được đồ khất thực gì từ
nhà đó.
Lần thứ hai, khi vị tu sĩ trở lại gia đình
đó cũng thế. Không ai cúng dường cho
ông. Không ai nói chuyện hay ngay cả nhìn ông, nhưng vị tu sĩ này không hề
nản chí. Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua
tháng khác, và năm này qua năm
khác trong suốt bảy năm dài như thế, vị tỷ kheo trẻ vẫn trở lại
ngôi nhà đó.
Sau đó người chủ nhà mướn một người
giúp việc mới. Cô ta không biết gì về quy
định không cúng dường cho vị tu sĩ đó. Một ngày trong năm
thứ bảy đó, khi vị tỷ kheo trẻ đến nhà, cô giúp việc mới nói với
ông rằng, "Hãy đi chỗ khác đi. Chúng tôi
không có gì để cúng dường thầy cả.”
Vị tỷ kheo trẻ rất hoan hỷ vì cuối cùng người ta cũng biết
đến sự có mặt của ông. Trên
đường trở về chùa, ông
đi ngang qua chỗ người chủ nhà hạ tiện
đang cưỡi ngựa về nhà. Bằng giọng kiêu
hãnh, người chủ nhà hỏi, "Này, thầy có nhận
được gì từ nhà tôi không?" "Thưa có, cám ơn ông," vị tu sĩ trả lời. "Hôm nay tôi
đã nhận
được một thứ.”
Người chủ nhà keo kiệt kia rất tức giận. Ông ta hối hả trở về nhà, nhảy
xuống ngựa, chạy vào nhà, và hét lớn, "Ai đã
cho gì cho kẻ trọc đầu kia? Có ai cho hắn thứ
gì không?" Mọi người trong nhà đều trả lời không,
nhưng người chủ nhà vẫn không vừa lòng. Ông tra hỏi từng người. Khi
đến lượt cô giúp việc mới, ông hỏi cô, “Cô có
cho người ấy thứ gì không?" "Không có, thưa ông," cô ta trả lời. "Cô có nói chuyện với người đó không?”
"Dạ có." "Cô đã nói gì với hắn?" "Dạ, tôi nói, ‘Đi chỗ khác. Chúng tôi
không có gì để cúng dường cho thầy
cả.’”
Người đàn ông keo kiệt nghĩ rằng vị
tu sĩ đã lừa dối ông. Suy nghĩ này
càng khiến ông giận dữ hơn. Ông nói, "Hãy để
kẻ lừa dối đó đến đây ngày mai, ta sẽ trách mắng hắn vì
đã lừa dối ta." Ngày hôm sau, vị tỷ kheo lại xuất hiện ở ngôi nhà
đó như thường lệ. Người chủ nhà keo
kiệt đi ra và nói với vị ấy một cách
giận dữ, "Hôm qua thầy bảo rằng đã
nhận được một thứ gì
đó từ nhà tôi. Tôi
đã tra hỏi mọi người. Tôi biết rõ
không có ai cho thầy một thứ gì cả. Thầy đã
nói dối với tôi. Thầy cho tôi biết đã
nhận được gì nào." "Thưa ngài, trong bảy năm qua, mỗi ngày
tôi đều ghé qua ngôi nhà
đẹp đẽ của ngài mà không nhận
được thứ gì. Nhưng hôm qua, một phụ nữ
tử tế đã bước ra và nói, ‘Hãy
đi đi. Chúng tôi không có gì
để cúng dường cả.’ Đó là những gì tôi
đã nhận
được từ ngôi nhà của ngài." Người đàn ông keo kiệt cảm thấy quá
xấu hổ. Trong giây phút đó, ông thấy trong
ông bùng lên tia sáng của tình thương và tâm bố thí. Vị tu sĩ này
chắc là một vị thánh, ông suy nghĩ. Vị tu sĩ này
đầy lòng biết ơn khi chỉ nhận
được những lời từ chối của người hầu của ta.
Ông ta sẽ biết ơn đến chừng nào nếu ông ta nhận
được một ít đồ ăn từ nhà của ta? Người chủ nhà lập tức thay đổi quy định, và
bảo mọi người trong gia đình ông phải
cúng dường thực phẩm cho vị tu sĩ. Sau đó, vị
tỷ kheo vẫn tiếp tục nhận được sự cúng dường từ gia đình
đó. Lòng quyết tâm, sự Chánh Tinh Tấn
của ông để duy trì tâm kiên nhẫn và
tâm tích cực cuối cùng đã
được đền bù.
Đứa trẻ sơ sinh trong gia đình
đó sau này trở thành một vị A La Hán
và là một trong những người lãnh đạo Phật
giáo quan trọng nhất vào thời đó.
(Mhvs V) Có thể bạn tự hỏi tại sao chúng ta phải bỏ nhiều công sức tu tập và lo
liệu cho cuộc sống, khi mọi thứ dầu gì cũng là vô thường và ngay cả các
trạng thái tâm cao thượng nhất cũng dần qua
đi. Dĩ nhiên là bạn nói rất đúng. Vạn
pháp đều vô thường. Hơn thế nữa, không có một “cái tôi’ nào luôn
hiện hữu để trải nghiệm mọi thứ. Tuy nhiên
đau khổ và hạnh phúc vẫn có mặt. Nếu
bạn đụng đến một chú ong và bị chích,
bạn không nghĩ, "tôi" đang đau. Chỉ có tiếng
kêu ui! Mặc dù trong giây phút
đó, không có sự nhận thức về ‘cái tôi”, sự đau đớn vẫn có mặt.
Một số người cảm thấy khó hiểu khi họ nghe về thuyết vô ngã. Họ thường
nghĩ rằng để đau khổ có thể xảy ra thì
phải có "một ai đó” chịu khổ đau. Tuy nhiên
cách hiểu như thế là sai lầm. Một khi còn có những chướng ngại nơi thân và
tâm, thì không thể tránh được việc đau khổ có
mặt – cho đến khi đạt được giác ngộ.
Có lời nói rằng,
Chỉ có đau khổ phát sinh, Một tà kiến khác nữa là có ý nghĩ rằng, vì không có ai
để cảm nhận đau khổ, thì
đau khổ không quan trọng. Sự thật là
dầu ngã có hiện hữu hay không, ta vẫn khổ
đau. Có ai thích khổ đau không? Đó có
phải là mục đích sống không? Dầu có
một cái ngã hay không, bạn vẫn không muốn phải
đau khổ! Do đó, việc bạn có đau khổ hay
không, là một vấn đề rất quan trọng.
Chính đau khổ là lý do tại sao, sau
khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã
dành trọn cuộc đời còn lại
để truyền dạy cho các chúng sanh khác phương
cách thoát khỏi khổ đau. Vì lòng từ bi vô hạn,
Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta những
phương cách rèn luyện tâm để thoát khỏi khổ
đau.
Các trạng thái tâm cao thượng, thanh tịnh và vi tế hơn, tới một lúc nào
đó cũng phải qua đi;
điều đó cũng đúng. Đó là lý do tại sao
ta cần phải sử dụng tâm thiện mà ta đã
vun trồng được ngay khi chúng còn có
mặt trong ta. Tâm thiện là phương tiện cần thiết
để bứng rễ khổ đau, và duy trì
được các trạng thái tâm thiện này mang
lại lợi ích dài lâu hơn bất cứ những niềm vui hay giải thoát tạm thời nào.
Những trạng thái tâm thiện hảo, sáng suốt, là nền tảng cho việc phát triển
tuệ giác đối với vô thường, để chúng ta có
thể bứng rễ tham, và vô minh một lần và mãi mãi. CÁI NHÌN TOÀN DIỆN Dùng Chánh Tinh Tấn để đem tâm ra khỏi các
bất thiện pháp và để vun trồng các
thiện pháp là một phần quan trọng trong Bát Chánh
Đạo – không kém quan trọng hơn chánh
niệm. Tuy nhiên, ít ai quan tâm đến điều này.
Họ thường quên cái nhìn toàn diện, để chỉ bám
vào một số chi tiết hấp dẫn trong Phật giáo. Những người như thế
chỉ hiểu được một phần nào
đó của con đường đạo. Họ chỉ lấy đôi ý tưởng
họ nghe được và chấp chặt vào đó, đôi
khi đến độ thái quá, để rồi tự thực hiện những việc không thiện xảo, tự
hại mình. Do đó, thay vì trở
nên hạnh phúc hơn, họ lại đau khổ hơn.
Tôi biết một phụ nữ trẻ, ý thức được tâm
tham ẩn chứa trong mọi hành động của mình,
nhất là trong việc ăn uống. Nhưng thay vì
trở nên chánh niệm, cô cố gắng đè nén
các cảm xúc của mình. Ở các bữa ăn, cô kiềm
chế để không cảm thấy tham ăn. Cô còn cố gắng
để ăn ít hơn nhu cầu và bù
đắp bằng các thức uống có chứa protein. Vì
thế thay vào tâm tham bình thường, cô phát triển một sự dị ứng thần kinh
và trở nên trầm cảm. May thay cô được một
thiện hữu nhắc nhở cô nên có một cái nhìn toàn diện và vun trồng
các trạng thái tâm thiện. Người bạn hướng dẫn những phương cách
để thoát khỏi sự trầm cảm: đọc sách, đi dã
ngoại, làm điều thiện, hay bận rộn với công
việc. Nhưng cô phản ứng quyết liệt, “Tôi không muốn trốn tránh thực tại!”
Làm những gì cần thiết để thoát khỏi gọng kìm
của bất thiện pháp không phải là trốn tránh thực tại.
Đó là trốn tránh một nỗi
đau lớn hơn.
Nếu cuối cùng bạn còn tạo thêm nhiều phiền não, khổ
đau hơn, thì liệu tất cả mọi cố gắng
của bạn để đi theo con đường của Phật có ý
nghĩa gì? Bạn phải luôn quán chiếu về hành
động và hậu quả của những hành
đông đó. Bạn phải không ngừng tự vấn, “Ngay
giây phút này tôi đang vun trồng điều
gì?" Một lần kia người dì của Đức Phật, tỳ kheo
ni Maha Pajapati Gotami, xin Đức Phật cho bà những lời khuyên ngắn
để hướng dẫn sự tu tập của bà.
Đức Phật dạy bà hãy làm bất cứ gì bà
biết từ kinh nghiệm bản thân, từ sự hiểu biết thông thường, từ những
đức tính nơi bà. Đức Phật dạy những
việc cần làm phải đưa đến: - không tham ái - không vướng mắc - buông bỏ (các nhân của khổ đau), không
chấp chứa
- thiểu dục, không ham muốn nhiều - tự tại, không bất mãn - độc cư an tịnh, không tụ họp, đàn đúm - tinh tấn, không lười nhác - dễ được hỗ trợ, không đòi hỏi,
lựa chọn (A IV (Tám) VI.3) Những điều kể trên là một bảng
hướng dẫn tiện ích để đảm bảo rằng các nỗ lực
của ta phù hợp với giáo lý nói chung. Đây là một nguyên tắc khác mà ta có thể dùng để đánh giá sự nỗ lực của
mình. Như Đức Phật đã tuyên thuyết, lời dạy cốt yếu của tất cả chư Phật
luôn là, "Làm điều thiện, không làm điều ác, và thanh tịnh tâm." (Dh 183) CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH TINH TẤN Khi tâm bị uế nhiễm bởi các bất thiện pháp, thì việc hành thiền rất khó
khăn. Một số hành giả khi ngồi tọa
thiền, không thể nào giữ được yên
tĩnh. Họ cựa quậy, ho, gãi, xoay trở, quay bên này, bên kia, theo dõi các
thiền sinh khác, hay thường thay đổi thế
ngồi. Số khác thì lại hay ngáp và họ cảm thấy không thể nào tĩnh
thức. Những người có thói hay sân giận, có thể cảm thấy bất mãn, phàn nàn
trong tâm khi họ cố gắng để thiền. Người khác
nữa lại có thể bị chế ngự bởi ái dục, hay nghi hoặc.
Qua bao năm tu tập, thiền giả đã
phát triển được những phương cách được coi
như là có năng lực đặc biệt để chế ngự
các chướng ngại cản trở việc thực hành thiền chánh niệm. Khi ái dục quấy nhiễu tâm ta, hãy mổ sẻ
đối tượng của ái dục trong tâm. Thí dụ nếu bạn
đang thèm một miếng bánh chocolate.
Hãy nhắc nhở bản thân rằng miếng bánh đó được
tạo nên bởi nhiều yếu tố và nó sẽ bị hư hoại. Sau khi
ăn, nó sẽ trở thành gì. Hãy cứ quán
tưởng những điều này cho
đến khi lòng ham muốn của bạn không
còn nữa. Phương thức này cũng hữu hiệu nếu
đối tượng của lòng ham muốn của bạn là một con người. Hãy tưởng
đến những thành phần cấu tạo của thân
– xương, ruột và các nội tạng khác, máu mủ và các chất lỏng khác trong
thân. Hãy cứ quán tưởng những điều này,
hay thử hình dung xem người đó sẽ như thế nào
nếu là một bộ xương khô, cho đến khi lòng
ham muốn của bạn qua đi. Nhưng nếu phương
pháp này lại làm tăng thêm lòng
ham muốn của bạn, thì phải dừng ngay lập tức và chú tâm vào hơi thở. - Khi sân nổi lên, ứng dụng những cách đối
trị mà chúng ta đã bàn qua, như
là ý thức về tâm sân của ta, nhận biết tính chất vô thường của mọi cảm
thọ, quán chiếu về những lợi ích của lòng kiên nhẫn, hãy tự lý giải
để có một cái nhìn khác, và vun trồng
tình cảm thương yêu. - Khi hôn trầm hay buồn ngủ kéo đến, hãy
hình dung ra một nguồn ánh sáng chói lọi. Nếu không thành công, hãy thử
những cách sau đây: kéo lỗ tai, mở to mắt ra,
đảo mắt trong vài giây, và nhắm mắt trở lại. Hãy hít vào thật sâu
và giữ lại càng lâu càng tốt, sau đó thở ra
chậm rãi; nếu cần, lặp lại hành động này
vài lần, cho đến khi mạch tim đập mạnh, và
bạn có thể đổ mồ hôi. Không nhắm kín mắt.
Đứng dậy và thực hành thiền đứng, hay thiền hành. Rửa mặt với nước lạnh.
Nếu không có điều gì hữu hiệu, thì hãy đi ngủ. - Khi trạo cử hay lo âu phát khởi, quán chiếu về trạng thái tĩnh lặng,
thanh tịnh, hay bình an. Đem tâm trở về với
hơi thở và trụ vào đó. Hít thở sâu và
cảm nhận hơi thở ở mũi, vào trong thân. Hãy thở một hơi thở nữa. Hướng sự
chú tâm đến phần mông hay lòng bàn
chân và cảm nhận sức nặng của thân. - Khi nghi phát khởi, hãy quán chiếu về sự giác ngộ của
Đức Phật, về tính chất vô thời hạn của Phật
pháp và sự đạt được giác ngộ của các
đệ tử của Đức Phật. Nếu bạn đắm chìm
trong một suy tưởng nào đó, hãy buông
bỏ việc làm vô ích đó và quán tưởng
đến một khía cạnh nào
đó trong giáo lý của Đức Phật. Chú
trọng vào những gì bạn biết là đúng về vô
thường, về khổ đau, về sự không có khả năng làm chủ
được bất cứ điều gì. Hãy chú tâm vào
giây phút hiện tại. Khi tâm ái dục đã qua
đi, bạn cảm thấy như mình
đã trả
được một món nợ. Khi sân hận đã tàn lụi, bạn cảm thấy như vừa thoát
khỏi một căn bệnh. Khi cơn buồn ngủ không còn,
bạn cảm thấy như được giải thoát khỏi ngục tù.
Khi trạo hối hoại diệt, bạn cảm thấy như được
giải thoát khỏi kiếp nô lệ. Và khi tâm nghi hoặc không còn nữa, bạn
cảm thấy như đã
đến được một nơi an toàn, chắc chắn,
không còn lạc lối giữa sa mạc. Không những bạn cảm thấy hạnh phúc ngay giây phút tâm bất thiện biến
mất, mà cả sau này khi bạn nghĩ đến sự vắng
mặt của chúng. Khi nhớ đến bao khổ đau mà các chướng ngại và kiết
sử đã mang
đến cho bạn trong quá khứ, bạn sẽ cảm thấy
thật hạnh phúc khi nhận ra rằng chúng không phiền nhiễu bạn nữa.
Tâm bạn thư thái, thanh tịnh. Bạn đã
đi tìm trạng thái tâm này. Giờ bạn
đã đạt
được, và bạn rất hạnh phúc. Khi các tâm hành ác đã mờ nhạt, tâm
sẵn sàng để vun trồng các tư tưởng tích cực.
Khi tâm hành thiện phát sinh trong lúc tọa thiền, hãy quán sát
chúng một cách đầy chánh niệm mà không
bám víu vào chúng. Những tâm thiện cần được
vun trồng, tưới tắm trong thiền quán bao gồm tình thương yêu, bi
mẫn, hỷ, xả, sự thông cảm, chịu đựng, hòa
nhã, kiên nhẫn và phục vụ đối với tất cả mọi
chúng sanh. Khi các tâm hành thiện này qua
đi, hãy nỗ lực
để vun trồng chúng trở lại, hãy nhớ lý
do trước hết tại sao chúng có mặt. Nguốn gốc của mọi thiện pháp
đều ở trong tâm ta. Chỉ là chúng
thường bị các hoàn cảnh tiêu cực che lấp. Dùng Chánh Tinh Tấn để ngăn cản, chế ngự
các tâm hành bất thiện, và để vun
trồng, duy trì tâm hành thiện thì cũng giống như ta
đang leo núi. Trước khi bắt đầu vào
cuộc, ta phải cẩn thận để tránh những vấn đề
phát sinh trên đường. Ta phải chắc
rằng cơ thể và tâm lý ta thích hợp cho hành
động này. Ta cần mang theo một ít
thuốc phòng trường hợp bị bệnh bất thình lình. Ta phải mang giày thể thao,
mang theo dây, gậy, thức ăn, nước uống, và
y phục thích hợp. Những phương tiện này thì cũng giống như Chánh Tinh Tấn
để ngăn trở các trạng thái tâm tiêu
cực không phát sinh. Mặc dầu đã chuẩn bị chu
đáo như thế, vẫn sẽ có vấn đề xảy ra. Khi đói
khát, ta dừng lại để ăn uống; khi cần đi nhà vệ sinh, ta cũng làm
thế. Khi mỏi mệt, ta nghỉ ngơi. Khi bị sốt cao, ta phải uống thuốc
đã mang theo người. Những hành
động này thì giống như là cách ta chế
ngự các tâm hành bất thiện khi chúng phát sinh. Ta duy trì năng lượng bằng cách nghỉ ngơi,
ăn uống điều độ, uống nhiều nước, và tránh làm việc gì quá
độ. Các hoạt động tích cực này cũng
giống như là vun trồng các thiện pháp. Sau muôn vàn khó khăn, ta cũng lên
đến đỉnh, ta cảm thấy thật sự giải thoát, vui
mừng, hài lòng. Ta vui mừng vì đã
đạt được mục đích của mình, với nhiều
nỗ lực. Ta có thể nói, " Tôi rất mừng là mọi việc
đã qua rồi" hay "Tôi rất mừng là tôi
đã có thể chiến thắng
được mọi chướng ngại.” Tương tự, khi bạn vun
trồng thiện pháp và duy trì được
chúng, bạn vui mừng vì cuộc chiến đấu
của mình đã kết thúc và bạn sẽ
không bao giờ phải chiến đấu với bất thiện
pháp nữa. Chánh Tinh Tấn có thể mang đến niềm vui như thế đó.
Khi ta nỗ lực để đạt được hạnh phúc, là
nó đã có mặt. Hãy nhớ
đến mục đích của mình, và
đừng bao giờ lơ là tinh tấn cho
đến khi ta đạt được hạnh phúc tuyệt
đối. Hãy tự nhủ: Hạnh phúc thay ta được sống an ổn giữa
những oán thù. TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH TINH TẤN - Chánh Tinh Tấn rất quan trọng trong việc phát triển tâm linh, dầu ít
được nhấn mạnh đến.
- Chánh Tinh Tấn có bốn (Tứ chánh cần): Ngăn
cản tâm bất thiện sanh khởi, chế ngự tâm bất thiện nếu đã sanh
khởi, vun trồng tâm thiện, và duy trì tâm thiện. - Kiết sử là những khuynh hướng bất thiện
đã hằn sâu trong tâm, sanh khởi do tham và khiến những người bị uế
nhiễm sống trong đau khổ. Mười kiết sử là
thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân, ước muốn
được tái sinh trong cõi sắc giới, ước
muốn được tái sinh trong cõi vô sắc
giới, kiêu mạn, trạo hối, và vô minh. - Chướng ngại là biểu hiện của kiết sử dưới dạng thô tháo, cao
độ. Ta cần sử dụng Chánh Tinh Tấn
để kiềm chế và
điều phục năm chướng ngại là: tham,
sân, thùy miên hôn trầm, trạo cử lo âu và nghi. - Các phương cách để chế ngự một chướng
ngại là: đừng chủ ý đến nó, hướng sự
chú tâm đến chỗ khác, thay thế chướng ngại bằng một đặc tính trái ngược
với nó, tự lý giải, và cuối cùng, nếu tất cả mọi các cách
đều thất bại, thì phải hủy diệt nó với
tất cả sức lực của mình. - Ta chỉ có thể đè nén
được các kiết sử, nếu không thể hủy diệt
chúng. Các kiết sử có thể bị làm yếu
đi bằng tâm chánh niệm và định; hay sự
phát triển của các đặc tính đối nghịch với chúng cũng sẽ làm chúng
yếu hơn nhiều. Khi các kiết sử cuối cùng bị phá vỡ, là ta
đạt được giác ngộ.
- Duy trì chánh niệm để ngăn cản tâm bất
thiện phát sinh. Chánh niệm được phát
triển qua giới luật, sự thực hành chánh niệm, tri giác, kiên nhẫn,
và nỗ lực. - Để chế ngự tâm bất thiện đã sanh khởi, chỉ nhận biết chúng. - Nếu ta không thể nhận diện được tâm bất
thiện một cách nhanh chóng, thì chúng sẽ tích lũy thêm sức mạnh;
lúc đó, ta phải buông bỏ tất cả, để dồn mọi
sự chú tâm vào chúng. Cố gắng quán chiếu về sự nguy hại mà chúng có
thể mang đến và tính vô thường của bất
cứ nhân duyên gì đã phát sinh ra
chúng, hay thay thế chúng với các tâm thiện. - Khi tâm bất thiện đã qua
đi, hãy vun trồng tâm thiện bằng cách
hồi tưởng lại các tâm thiện này hữu ích như thế nào và bằng cách chủ tâm
tạo ra các tâm về tình thương, kiên định,
bi mẫn, vân vân. Hãy sử dụng bất cứ phương pháp nào ta biết
để phát triển tâm thiện. - Đừng lạc vào trong các chi tiết của việc thực hành mà quên đi cái
nhìn toàn diện. Phải luôn đảm bảo rằng sự nỗ
lực của ta thực sự mang lại nhiều thiện pháp hơn.
- Hãy điều chỉnh cách sống để hỗ trợ cho
việc duy trì thiện pháp, nên làm những việc như là kết bạn với
thiện hữu tri thức, học hỏi, tham khảo kinh sách Phật. - Không có chánh niệm mạnh mẽ, tâm ta sẽ nhanh chóng trở về với những
thói quen cũ; do đó ta phải luôn nỗ lực duy
trì tâm thiện hầu giúp ta được hạnh
phúc.
-ooOoo- Bước 7
Chánh niệm là sự ý thức, chú tâm từng giây từng phút
đến những gì
đang xảy ra quanh và trong ta. Một
cách vô thức, chúng ta cảm nhận bản thân và thế giới chung quanh qua những
định kiến hẹp hòi, theo thói quen, tạo
ra bởi vọng tưởng, do đó tư duy, ý
thức tâm linh của ta đối với thực tại rất tản
mạn, rối rắm. Chánh niệm giúp chúng ta tạm thời dừng lại mọi suy tưởng, hình
ảnh, phán đoán giá trị, nhận xét nội tâm, ý
kiến, và suy diễn. Tâm chánh niệm chính xác, sâu lắng, cân
đối, và không rối rắm. Tâm
đó giống như một tấm gương phản chiếu mà
không làm sai lệch bất cứ gì ở trước gương. Đức Phật thường khuyên đệ tử "Hãy giữ tâm chánh niệm trước mặt." "Trước
mặt" có nghĩa là ngay giây phút hiện tại. Điều này không chỉ có nghĩa là
phải biết rõ tâm đang làm khi ta hành thiền; mà có nghĩa là ta phải biết
rõ ràng mọi chuyển động vật lý và tâm lý mà chúng ta thực hiện trong suốt
những giờ phút thức tĩnh trong ngày. Nói cách khác, nó có nghĩa là có mặt
ở đây, ngay bây giờ.
Giây phút hiện tại thay đổi quá nhanh đến
nỗi chúng ta thường không để ý đến sự có mặt của nó chút nào. Mỗi
sát na tâm giống như một chuỗi hình ảnh chiếu trên màn hình. Một số hình
ảnh đến từ ấn tượng giác quan. Số khác đến từ
ký ức của quá khứ hay viễn ảnh của tương lai. Chánh niệm giúp chúng ta giữ
màn hình đứng yên
để chúng ta có thể trở nên ý thức về
các cảm xúc và kinh nghiệm như chúng thật là, không có sự tô vẽ méo mó của
các phản ứng do các điều kiện xã hội
hay thói quen tạo ra. Một khi chúng ta đã tập nhận biết
mà không phán xét những gì đang thực
sự xảy ra, là ta có thể quán sát cảm xúc, tư tưởng của mình mà không vướng
mắc, mà không bị lôi cuốn theo các phản ứng của thói quen. Do
đó chánh niệm cho chúng ta thời gian cần
thiết để ngăn chặn và chế ngự những thói quen suy nghĩ và hành
động tiêu cực,
để vun trồng và duy trì các thói quen
tốt. Chánh niệm giúp ta thoát khỏi sự bộc phát tự
động, giúp ta kiểm soát được tư tưởng, hành
động, và lời nói của mình. Hơn thế nữa, chánh niệm đưa đến tri giác,
“cái thấy nội tâm” rõ ràng đối với bản
chất của sự vật như chúng thực sự là, không lệch lạc. Với sự thực
hành thường xuyên, trong các thời khóa hành thiền chính thức, cũng như
trong sinh hoạt hằng ngày, chánh niệm giúp chúng ta nhìn thế giới bên
ngoài và bản thân với con mắt của trí tuệ nội tâm. Tri giác là vương miện
của tuệ. Mở được con mắt tuệ là mục
đích cốt yếu của chánh niệm, vì tuệ
tri về bản chất thực sự của thực tại là bí mật tối thượng của thanh tịnh
và hạnh phúc vững bền. Chúng ta không cần phải tìm kiếm nó ở bên ngoài;
mỗi chúng ta đều có khả năng
nội tại để vun trồng giác tri. Một câu chuyện cổ xưa sẽ làm rõ hơn
điểm này. Thuở xưa có một vị thiên nhân muốn giấu kín một bí mật quan trọng – bí
mật của hạnh phúc. Đầu tiên ông nghĩ
đến việc giấu bí mật đó ở dưới đáy biển.
Nhưng rồi ông tự nhủ, "Không, ta không thể giấu bí mật của ta ở
đó. Con người rất thông minh. Một ngày
kia họ sẽ tìm ra nó." Kế tiếp, vị ấy nghĩ đến việc giấu bí mật
trong một hang động. Nhưng rồi ông cũng từ bỏ ý định đó. “Có nhiều người
thăm viếng các hang động này, họ sẽ tìm ra bí mật ở
đó.” Sau đó ông nghĩ đến việc giấu bí mật trên
đỉnh núi cao nhất. Nhưng rồi ông cũng
nghĩ, "Ngày nay con người rất tò mò. Một ngày kia sẽ có người leo lên
đỉnh núi và khám phá ra nó." Cuối cùng vị thiên nhân tìm ra được một
giải pháp hoàn hảo nhất. "À! Ta biết một nơi mà không có ai
đến đó để tìm kiếm. Ta sẽ chôn giấu bí
mật này trong tâm của chúng sanh." Vị thiên nhân này đã giấu sự thật
trong tâm con người. Giờ hãy để chúng ta đi tìm
nó! Chánh niệm không nhằm mục đích tìm
hiểu điều gì ở bên ngoài. Mục
đích của nó là
để tìm ra sự thật ẩn chứa bên trong
chúng ta -ở ngay tâm trí này. Theo Đức Phật tâm ta sáng láng tự nhiên.
Trong mỗi sát na, khi thức đầu tiên
phát khởi, nó chói lòa ánh sáng. Tuy nhiên,
đối với tâm chưa giác ngộ, ánh sáng đó bị che mờ bởi sự nhiễm ô của tham,
sân, và si. Những nhiễm ô này cản trở sự trong sáng của tâm, khiến
tâm u tối, khổ đau.
Nhưng chúng ta không thể nói rằng tâm đã
sẵn thanh tịnh thì ta không cần phải làm gì cả. Chúng ta phải tu tập
để khiến nó luôn được như thế. Chúng ta phải
chùi rửa tâm trong sáng này để ánh
sáng tự nhiên đó không bị bất cứ nhiễm
ô nào làm mờ đục. Trí tuệ được vun
trồng với chánh niệm sẽ thiêu đốt
chướng ngại của tham, sân, và si. Chúng ta càng tháo gỡ
được nhiều chướng ngại, thì tâm càng
trở nên tự tại, hạnh phúc, và chiếu sáng. Chánh niệm cũng ngăn
trở không để cho các lậu hoặc lại phát khởi. Do đó, bí mật thâm sâu của
hạnh phúc được giấu kín là chân lý này
đây: hạnh phúc đến từ bên trong bản tâm của ta qua việc sử dụng
chánh niệm để dẹp bỏ tham, sân, và si.
Bí mật của hạnh phúc được hiển lộ khi các lớp
vỏ của nhiễm ô được lột bỏ bởi trí tuệ.
Chánh niệm đưa đến giác tri như thế nào,
và giác tri giúp ta buông bỏ các chướng ngại như thế nào? Khi hành giả
quay vào quán sát nội tâm, cố gắng để hiểu sự
thật về hạnh phúc, hành giả ý thức và quán sát năm
uẩn của thân tâm. Khi hành giả quán sát một cách có chánh niệm,
hành giả bắt đầu thấy mỗi uẩn phát sinh, tăng
trưởng, sung mãn, suy yếu, rồi hoại diệt
đi như thế nào. Thí dụ, tấm thân đẹp đẽ này mà ta
luôn cẩn thận gìn giữ sức khỏe cho nó đang
thay đổi từng giây phút. Khi ta đang đọc những dòng này, mỗi tế
bào, mỗi mô và những phần nhỏ nhất của thân vật lý
đang thay đổi – tăng
trưởng, hư hoại. Trái tim đang đập, phổi, thận, gan, óc, vân vân đang hoạt
động. Trong khi các bộ phận vật lý này
đang thay đổi, thì thọ, tưởng, thức và các
đối tượng tâm linh cũng phát sinh rồi qua đi.
Chánh niệm trong giây phút hiện tại tạo cho ta tri giác về những sự thay
đổi này – vào tính chất vô thường không thể tránh
được của tất cả vạn pháp.
Nhận thức được tính chất vô thường của vạn
pháp sẽ cho ta cơ hội để nhận biết khổ
do vô thường tạo ra. Thí dụ, hãy hồi tưởng lại những cảm thọ tuyệt
vời mà bạn đã trải qua trong quá khứ.
Giờ đây các cảm thọ đó có hoàn toàn
giống như trước không, dầu bạn có thể tạo dựng lại hoàn cảnh, môi trường
như xưa? Biết được rằng những gì thuộc
về quá khứ đã qua
đi mãi mãi khiến ta cảm thấy buồn. Khi
chúng ta có thể thấy mọi thứ đều qua đi như
thế nào – thân, thọ, con người và vật chất mà ta thương yêu, trân
quý– không chỉ trong từng giây phút mà rất nhiều lần trong những giây phút
đó, là ta thấy
được nguyên nhân của khổ: tâm bám víu
vào các pháp luôn biến chuyển không dừng dứt. Cuối cùng, chánh niệm tạo cho chúng ta tri giác về sự hiện hữu thực sự
của vạn pháp, kể cả con người. Tri giác về vô thường và khổ giúp ta thấy
rằng thực tại không phải là cái gì "ở bên ngoài", tách biệt khỏi chúng ta.
Đúng ra, thực tại là sự trải nghiệm
luôn thay đổi của chúng ta đối với thế giới
không ngừng biến chuyển -thế giới nội tại và thế giới mà ta cảm
nhận được qua các giác quan.
Tu tập chánh niệm giúp ta thấy việc không chấp nhận, chống
đối lại với những gì xảy ra trong cuộc
đời là vô ích. Chúng ta không chặt tay
mình khi nó làm điều gì xấu. Tương tự,
nếu ta xa lánh những người hành xử khác ta, thì thật dại khờ, vì tất cả
chúng ta đều là một phần của thế giới
luôn biến chuyển, luôn khổ đau này.
Tranh chấp với thế giới thì cũng giống như bàn tay này
đánh đấm với bàn tay kia, hay con mắt
bên phải đối nghịch với con mắt trái.
Chúng ta khám phá ra cuộc đời không phải là
một cái gì bất biến. Nó là một dòng chảy mãnh liệt của những biến
đổi không dừng. Khi đi tìm kiếm ý
nghĩa của cuộc đời, tất cả những gì ta
có thể tìm thấy là sự thay đổi này.
Khi chúng ta tiếp tục quán tưởng về khía cạnh nổi bật này, ta sẽ không
thấy bản chất vững bền hay thường hằng trong
đó – không có cái ngã hay linh hồn bền vững, thường hằng nào ở bên
trong để ta có thể bám víu vào, và
cũng không có cái ngã hay linh hồn bền vững, thường hằng nào ở tha nhân
để ta tranh cãi với. Do đó, chánh niệm mang đến cho ta tri kiến
về ba tính chất của vạn pháp: vô thường, khổ, và vô ngã. Quay vào
nội tâm, tự quán sát mình, ta sẽ thấy thân vật chất này biến
đổi nhanh chóng đến dường nào, và
những sự thay đổi này khiến ta
đau khổ biết bao. Ta
đã ước muốn mãnh liệt
đến thế nào
để không còn phải tái sinh, không phải
già, bệnh, không phải trải qua những khổ đau,
thất vọng, hay sầu não nữa. Ta biết khổ khi bám víu vào người hay
vật mà ta ưa thích, hoặc tránh né người hay vật mà ta không ưa thích. Ta ý
thức rằng bất cứ ham muốn nào, dầu vi tế hay cao cả
đến đâu, cũng mang đến khổ đau. Ngay chính lòng
ham muốn chế ngự dục tham -dầu là thiện và cần thiết cho sự tiến bộ- cũng
là khổ. Cuối cùng, chúng ta thấy rằng cảm nhận về cái ngã, sự xác tín cá
nhân (personal identification) mà ta bảo vệ một cách mãnh liệt, cũng chỉ
là ảo tưởng, vì chúng ta là một quá trình, một dòng chảy không ngừng của
vật chất, tình cảm, và những biến động tâm
linh mới mẻ trong từng phút giây. Ấn Độ giáo đã diễn tả chân lý này
một cách sống động khi họ nói đến ba vị thần
-vị thần sáng tạo Brahma, vị thần bảo vệ Vishnu và vị thần hủy diệt
Shiva. Vị sáng tạo là giai đoạn phát khởi; vị
bảo vệ là giai đoạn sung mãn;
và vị hủy diệt là giai đoạn hoại diệt. Mỗi
giây phút một pháp nào đó phát khởi;
mỗi giây phút một pháp nào đó sung mãn;
và mỗi giây phút một pháp nào đó bị hoại
diệt. Không có giây phút nào ngưng
đọng, vì không có gì, ngay chỉ trong một tích tắc thời gian, là còn
nguyên vẹn. Quá trình này tiếp diễn không ngừng nghỉ. Khi đã
đạt được tri kiến này, ta có thể để
cho các xúc cảm, cảm thọ, suy tưởng đi qua tâm mà không níu giữ lại
bất cứ thứ gì, dầu rằng chúng dễ chịu, thoải mái thế nào. Trái lại, khi
các trạng thái khó chịu, đau đớn, hay không
thể chịu đựng xuất hiện, ta cũng để chúng qua đi mà không trở nên
bực bội. Chúng ta chỉ để sự việc xảy ra mà
không cố gắng ngăn chặn chúng, không bám víu
chúng mà cũng không tránh né chúng. Chúng ta chỉ nhận biết sự vật
như chúng là. Chúng ta thấy, không chỉ với con mắt của trí tuệ mà ngay cả với sự tĩnh
thức hằng ngày, rằng tất cả mọi vật, mọi chúng sanh hiện hữu dựa vào những
nhân duyên luôn biến đổi. Vì không có
gì thường hằng để bám víu vào và không
có gì thường hằng để xua đẩy đi, chúng ta tự
tại với một tâm hoàn toàn an tĩnh, hoàn toàn hạnh phúc. BỐN LÃNH VỰC CHÁNH NIỆM Chánh niệm là sự ứng dụng thiền trong cuộc sống. Những phương pháp thực
hành chánh niệm được nói đến sau đây dựa vào
bài pháp do Đức Phật giảng với các đệ tử của
Ngài về bốn nền tảng của chánh niệm, (Maha-Satipatthana Sutta,
Kinh Đại Niệm Xứ, D 22). Trong bản
kinh đó, Đức Phật dạy nhiều phương pháp thiền
định. Ngài bắt đầu với sự giải thích
mỗi phương pháp bằng những lời, “Lại nữa, này các tỳ kheo …". Với
những lời này Đức Phật muốn truyền dạy rằng
cần đem các phương pháp này ra thực hành. Ngài tuyên thuyết rõ ràng
rằng bất cứ ai thực hành chánh niệm theo các phương pháp này chắc chắn sẽ
đạt được hạnh phúc lâu bền trong giác ngộ.
Tuy nhiên với nhiều phương pháp như thế, làm sao chúng ta có thể
thực hành tất cả? Sự khác biệt trong các phương pháp mà Đức
Phật đã dạy chỉ gây khó khăn cho những
ai chưa quen với giáo pháp. Thực ra, các phương cách thực hành
đều dựa trên các sinh hoạt hằng ngày
của chúng ta. Hơn nữa, các phương pháp của
Đức Phật đều dựa trên trí tuệ siêu việt của Ngài về cách mà tâm
chúng sanh vận hành. Lấy thí dụ một em bé. Bé rất dễ thương và tuyệt vời nhưng cũng rất
đòi hỏi. Em bé
đòi ăn, đòi
tả sạch, đòi không khí trong lành,
đòi ngủ, và nhiều thứ khác nữa, trong
khi sự chú tâm em bé rất ngắn. Bậc làm cha mẹ có bổn phận giữ cho em bé
bận rộn và khuyến khích bé bằng cách chắc chắn rằng bé có một số
đồ chơi hữu ích và những hoạt
động khác nhau. Tâm chúng ta cũng đòi
hỏi tương tự như thế, và sự chú tâm của chúng ta
đôi khi cũng ngắn ngủi như của một em bé. Đức
Phật hiểu điều này. Ngài liệt kê cho chúng ta cả một danh sách
những việc cần làm. Chúng ta có thể bắt đầu
với bất cứ đối tượng nào của thiền quán. Hơi thở, cảm thọ, một
trạng thái tâm, một trong những chướng ngại hay kiết sử – không quan trọng
là gì- vì bất cứ cái gì chúng ta chú tâm vào, không lâu sau sẽ thay
đổi. Khi tâm hướng đến điều gì
đó bất thiện, ta lập tức thay nó với điều gì
đó tốt hơn, giống như khi cha mẹ đưa cho em
bé một quả bóng để lấy cất cái kéo mà bé vừa cầm
được. Khi tâm hướng đến điều thiện, ta sẽ
khuyến khích nó.
Bất cứ điều gì phát khởi trong tâm
sẽ trở thành đối tượng của thiền chánh niệm.
Chúng ta có thể dùng bất cứ đối tượng
nào để phát triển thêm trí tuệ
của chúng ta về ba tính chất của mọi hiện hữu: vô thường, khổ, và vô ngã.
Khi một tư tưởng nào đó hoại diệt đi một cách
tự nhiên, chúng ta chuyển tâm trở lại với
đối tượng thiền quán ban đầu.
Có thể bạn sẽ tự hỏi, "Nếu tâm tôi không trụ vào
đối tượng thiền quán đầu tiên thì sao?
Nếu tôi chọn quán chiếu trên ba mươi hai phần của thân, nhưng trong một
tiếng đồng hồ tôi chỉ mới quán được năm phần
đầu tiên thì sao?" Nếu các đối tượng
thiền quán khác sinh khởi nơi tâm và bạn sử dụng chúng
để quán chiếu về ba đặc tính của thực tại, thì
đâu có vấn đề gì? Bất cứ phương pháp
thiền nào mà có thể giúp bạn nhận ra được
chân lý, thì đó là một phương
cách hữu hiệu. Đừng hy vọng rằng tâm sẽ trụ trên đối tượng này hay đối
tượng kia. Bản chất tự nhiên của tâm là biến đổi. Nó
đi từ đối tượng này
đến đối tượng khác.
Nhưng không nên cố ý nhảy từ đối tượng này
sang đối tượng khác. Bắt
đầu với sự chú tâm vào một
đối tượng thiền quán, như là thân, và
chỉ chuyển đến đối tượng khác khi nó tự nhiên sinh khởi. Thí dụ ta
đang chú tâm vào hơi thở, bỗng nhiên
một tư tưởng phát khởi khiến ta nghĩ về bệnh da của mình. Khi tư tưởng
đó qua đi, tâm sẽ trở về với hơi thở kế tiếp.
Nếu không thể dứt chú tâm về da, ta nên quán tưởng về sự vô thường
của da – nó mong manh như thế nào, luôn chuyển
đổi như thế nào, và sẽ trở nên nhăn
nheo như thế nào. Ta cũng nên quán về việc chấp vào da sẽ vô ích và
phiền não như thế nào, vì dầu ta cố gắng thế nào, nó cũng sẽ phải thay
đổi, mà ta càng bám víu vào nó, ta
càng khổ đau. Ta cũng nên nghĩ
đến tính vô ngã của da – không có "cái
ta" nào trong đó để làm chủ nó. Sau
đó ta quán sát khi các tư tưởng này
qua đi. Ta cũng nhận thấy rằng hành
động quán sát là sự nhận thức
đầy chánh niệm về các luồng tư tưởng, chính
nó cũng vô thường. Khi tất cả mọi tư tưởng đã lắng dịu, ta hãy
để tâm trở về với hơi thở. Rồi khi bất cứ tư
tưởng mới nào phát sinh, ta cũng quán sát chúng theo cách như thế.
Thực hành theo phương cách này, dần dần các tư tưởng sẽ dừng bặt và tâm
đạt được định.
Các phương pháp thiền quán của Đức Phật
giống như một tủ đựng đầy thuốc. Bạn không thể uống tất cả các loại thuốc
cùng lúc, cũng như bạn không thể thực hành mọi thứ trong bốn lãnh
vực chánh niệm (Tứ niệm xứ) cùng một lúc. Hãy bắt
đầu với bất cứ lãnh vực nào bạn cảm
thấy thoải mái. Rồi trong quá trình thiền quán, bạn có thể quán về một
lãnh vực khác, tùy thuộc vào đối tượng thiền
quán phát sinh. Hiện tại tâm của ta có vẻ lăng
xăng, lộn xộn, nhưng nó sẽ dần lắng xuống. Khi tâm chánh niệm đã
trở nên mạnh mẽ, sắc bén, tự nhiên tâm sẽ bắt
đầu quán xét các khía cạnh sâu sắc hơn trong giáo lý của Đức Phật.
Bốn lãnh vực của Chánh Niệm là: - Chánh niệm về thân
Chúng ta bắt đầu với sự chánh niệm về
thân, đặc biệt là về hơi thở. Thiền quán dựa trên hơi thở tạo cho
tâm và thân thời gian để lắng xuống. Sau đó,
khi các lãnh vực chánh niệm khác phát sinh, ta có thể ý thức về
chúng. Dầu đối tượng nào phát khởi,
dầu cho đó là sắc pháp hay tâm pháp,
ta cũng phải quán về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của nó. QUÁN THÂN Cho đến giờ, chúng ta chỉ nói đến hơi thở
như là một đối tượng của thiền quán
– và thật thế nó có thể đưa ta đi trọn
con đường đến hoàn toàn giải thoát. Nhưng ta cũng có thể sử dụng
các đối tượng khác. Theo truyền thống chúng
ta có thể kể đến bốn mươi loại đối tượng thiền quán chánh yếu, kể cả thân
và các bộ phận của thân. Ba trong các phương cách hữu hiệu nhất
để vun trồng chánh niệm về thân là:
chánh niệm về hơi thở, chánh niệm về các tư thế và chánh niệm về các bộ
phận cơ thể. Chánh Niệm Về Hơi Thở Đức Phật khuyên chúng ta nên bắt đầu hành thiền minh sát với chánh niệm
dựa trên hơi thở. Hơi thở là một đối tượng vừa luôn có mặt, vừa luôn biến
đổi theo một cách mà tự nhiên sẽ khiến
ta phải chú tâm. Khi tâm hòa hợp theo hơi thở vào ra, ta có thể chú tâm
vào giây phút hiện tại một cách tự nhiên. Ta có thể nhận biết cảm giác
phát khởi từ sự tiếp xúc của hơi thở ở bờ mũi. Ta có thể nhận biết hơi thở
vào dài hay hơi thở ra dài. Ta cũng có thể nhận biết khi
độ dài của hơi thở thay
đổi, và hơi thở vào ra nhanh chậm hơn
trước đó. Ta cũng có thể nhận biết khi
một dọc hơi thở ngắn bị gián đoạn bởi một hơi
thở dài sâu. Ta cũng có thể nhận biết sự căng
phồng hay xẹp xuống nơi lồng ngực, bụng, và bụng dưới. Quán sát
được các trạng thái này của hơi thở
khiến tâm luôn có mặt trong giây phút hiện tại. Quán sát hơi thở với chánh niệm có thể giúp ta biết nhiều
điều về việc tâm vận hành như thế nào.
Khi hít vào, ta cảm nhận được sự an tĩnh ở
một mức độ thấp. Khi thở ra, ta cảm nhận
được sự an tĩnh ở một mức độ thấp. Sự
an tĩnh mà ta có được do kết quả của việc hít
vào bị gián đoạn bởi sự thở ra, và
ngược lại. Tuy nhiên, nếu ta giữ hơi thở vào lâu hơn bình thường một chút
để kéo dài cảm giác an tĩnh, ta sẽ cảm
thấy căng; tương tự, nếu ta đợi một lúc lâu
hơn bình thường trước khi hít vào lại
để kéo dài cảm giác an tĩnh, ta cũng cảm thấy căng
thẳng. Nếu giữ hơi thở vào hay ra lâu thái quá còn có thể tạo ra
cảm giác đau đớn.
Qua sự quán sát này, ta thấy rằng mình muốn
được an tĩnh, giải tỏa căng thẳng và
muốn tránh sự khó chịu của việc chờ đợi quá
lâu trước khi hít vào hay thở ra. Ta thấy rằng ta muốn sự an tĩnh
do quy trình hít thở tạo ra, sẽ kéo dài hơn và sự căng
thẳng sẽ sớm qua đi. Vì cảm giác căng
thẳng không qua đi nhanh như ta muốn, cũng như sự an tĩnh không kéo dài
như ta mong, ta trở nên bực bội. Do đó chỉ
với việc quán sát hơi thở, ta cũng thấy rằng ngay chính với một ước muốn
nhỏ về sự thường hằng trong một thế giới vô thường, cũng có thể đưa đến
khổ. Hơn thế nữa, vì không có một bản ngã nào
để làm chủ tình thế, ước muốn
được an tĩnh và giải tỏa căng
thẳng sẽ luôn khiến ta cảm thấy bất lực. Tuy nhiên, nếu ta thư giãn
tâm để quán sát hơi thở mà không mong
cầu sự an tĩnh hay tránh né căng thẳng đã
phát sinh, chỉ trải nghiệm sự vô thường, khổ, và vô ngã của hơi thở, tâm
sẽ trở nên bình an, thanh tịnh. Trong khi ta đang thực hành chánh
niệm về hơi thở, tâm không trụ hẳn vào hơi thở vào, ra. Tâm còn
đi đến các đối tượng giác quan như là
âm thanh, hay đối tượng tâm thức như là
ký ức, tình cảm hay tưởng. Khi điều đó xảy
ra, ta cần phải quên hơi thở một lúc và chủ tâm vào các
đối tượng này -từng
đối tượng một. Khi các đối tượng qua đi, hãy
để tâm trở về với hơi thở, là ‘căn
cứ’ của tâm sau những chuyến du hành dài, ngắn
đến các trạng thái khác nhau của thân và
tâm. Mỗi khi tâm trở về lại với hơi thở, nó trở về với một tri giác sâu lắng
hơn về vô thường, khổ và vô ngã. Như thế, qua sự quán sát không phân biệt,
không chấp vào các sự kiện này, tâm đã
nhận thức được rằng các uẩn này – sắc,
thọ, tưởng, hành, và thức– chỉ hiện hữu vì mục
đích để đạt được tuệ giác sâu xa vào
trong thực tại của thân và tâm. Chúng không phải có mặt ở
đây để ta bám víu vào chúng. Chánh Niệm Về Các Tư Thế Chánh niệm về các tư thế có nghĩa là đi,
đứng, nằm, ngồi với sự chú tâm đầy chánh niệm. Có lẽ bạn sẽ hỏi,
"Có gì trong các hoạt động này
để ta phải chánh niệm đến? Khi đi, ta đi.
Khi ngồi, ta ngồi. Khi nằm xuống, ta nằm xuống. Ta biết ta
đang làm gì. Vậy, ta có thể
đạt được tri kiến hay tuệ giác đặc biệt gì
khi chú tâm vào các hành động này?"
Khi chánh niệm về các oai nghi của thân, ta sẽ nhận thấy rằng các chuyển
động vật lý luôn biến đổi ngay nếu như ta
đang cố giữ thân yên. Tim vẫn đập,
nhiệt tỏa đi khắp cơ thể, phổi phình lên, xẹp xuống. Hãy chánh niệm
về sự vô thường của chúng. Ta có thể nhận thấy rằng,
đối với các chuyển động bên ngoài
thân, ta còn có chút ít kiểm soát, nhưng hoàn toàn không thể làm gì
đối với các chuyển động vi tế bên
trong thân. Sự bất lực này khiến ta bức xúc. Nhận thức
được như thế, ta vun trồng tuệ giác về bản
chất khổ và vô ngã của các chuyển động
nơi thân.
Ta cũng cần quán sát các yếu tố vật lý cấu tạo nên thân và những vật
chất mà ta tiếp xúc – thí dụ, sự nặng nề, cứng chắc của yếu tố
đất. Quán sát xem tất cả các yếu tố
vật lý này luôn biến đổi như thế nào.
Quán sát xem tất cả những trải nghiệm vật lý của ta vô thường ra làm sao.
Tuy nhiên, cũng giống như khi ta chánh niệm về hơi thở, không nên chỉ chú
tâm vào những thay đổi vật lý. Khi bất cứ yếu
tố tâm linh nào trở thành nổi bật, hãy hướng sự chú tâm
đến chúng. Thọ và tưởng tạo ra bởi
những chuyển động vật lý luôn thay đổi; hãy
nhận biết tính vô thường của chúng. Nếu trong khi ngồi,
đứng, đi hay nằm, ta nhận biết có những tư
tưởng về tham, sân, hay nghi – hay về tâm bi mẫn, thương yêu, hoan
hỷ- hãy quán sát khi chúng sinh khởi và hoại diệt. Ta không thể tạo dựng
hay cản trở được những sự sinh khởi, hoại
diệt tự động nơi thân, thọ, tưởng, hành và thức. Hãy nhớ những
điều này khi ta
đi, đứng, nằm ngồi, hãy quán sát tính
vô thường, khổ, và vô ngã của tất cả các pháp. Trong mọi tư thế và trong
mọi hoạt động, như là khi ta
đưa tay mở cửa, đi trong siêu thị, hay
nằm xuống để ngủ, tiếp tục vun trồng tuệ giác
đối với các tính chất này của năm uẩn.
Hành giả có thể hoàn thiện khả năng nhận
biết các tính chất này của các uẩn bằng cách thực hành thiền bằng
những chuyển động thật chậm chạp. Hãy
nghĩ đến một cuộn video quay chậm trở lại của
một trò chơi thể thao. Khi chuyển động
ở mức độ bình thường, chúng ta không thấy những chi tiết vi tế,
nhưng khi quay chậm trở lại, ta có thể thấy những tiểu xảo, những lối chơi
xấu nhau của các vận động viên. Cũng
thế khi chúng ta di chuyển một cách chậm chạp, như khi thiền hành, chúng
ta có thể nhận biết được những sự thay đổi
của tư thế để tạo nên một hành động
-giở gót, đưa tới, đặt chân, và chạm mặt sàn nhà. Nếu bạn đã thực hành việc ngồi
thiền chú tâm vào hơi thở được một
thời gian và quyết định thực hành
chánh niệm về thiền hành một cách chậm rãi, thì
đây là
điều bạn phải làm: Từ từ đứng dậy, tiếp tục chú tâm vào
hơi thở vào, ra. Khi bạn đang đứng, hãy
ý thức đến những sự thay đổi trong các cảm
giác vật lý và các tưởng. Hãy biết rằng mọi bộ phận trên cơ thể
phải liên kết với nhau để bạn có thể đứng
được. Trong lúc đứng, tiếp tục quán sát hơi thở.
Giờ, trong lúc hít vào, hãy nhón một gót chân lên, và trong lúc thở ra,
hãy đặt chân xuống trên mấy
đầu ngón chân. Kế tiếp, trong lúc hít vào,
hãy đưa cả bàn chân lên và bước tới,
và trong khi thở ra, từ từ hạ nó xuống và đặt
bàn chân xuống sàn nhà. Lập lại quy trình
đó với bàn chân bên kia. Khi bạn
đi một cách có chánh niệm như thế, chú tâm vào
hơi thở, bạn sẽ bắt đầu thấy tất cả mọi phần
của thân từ đầu đến chân đều chuyển đổi, liên kết,
ăn nhịp với nhau như thế nào, trong
quá trình đi. Thí dụ, ta thấy rằng các cử
động vật lý tạo ra bước đi bắt đầu với những chủ đích nơi tâm. Ta
thấy chủ đích để giở bàn chân lên, chủ
đích đưa nó ra phía trước, và chủ
đích đặt nó xuống, chạm sàn nhà. Cùng
lúc với các chủ đích này, các cử
động được thành hình. Ý và hành xảy ra
cùng lúc với nhau rất nhanh đến nỗi ta không
còn kịp thấy sự liên kết của chúng. Dĩ nhiên, không ai nghĩ đến tất cả những
bước này trong quy trình thiền hành. Họ chỉ
đi tới! Tất cả mọi thứ xảy ra trong tíc tắc
của giây. Tuy nhiên, khi bạn làm chậm lại tiến trình và quán sát
từng cử động một cách chánh niệm, bạn sẽ thấy
rằng nhiều cử động khác nhau phải cùng kết hợp lại
để việc bước đi tới có thể xảy ra. Khi ý muốn
đi tới phát khởi trong tâm, thì năng
lực được tạo thành, lan tỏa khắp thân qua hệ thần kinh. Rất nhiều
tế bào thần kinh khác nhau kết hợp để chuyển
tải thông điệp đó, và nhiều bộ phận khác của thân tạo ra những cử
động cần thiết. Các cơ co duỗi, các
khớp đàn hồi, và sự cân bằng lại
được đảm nhiệm bởi nhiều cơ cấu phức tạp khác
nữa.
Thực hành theo như trên, ta có thể thấy rất rõ về tính vô thường. Thí
dụ, bạn có ý giở chân mặt, nhưng khi bạn vừa giở nó lên, ý thức
đó đã qua
đi và cảm giác mà bạn có trước khi bàn chân
được giở lên cũng
đã qua
đi. Khi tỳ trên các ngón chân, bạn có một cảm giác, và khi bước
tới, cảm giác đó cũng mất đi, và một
cảm giác mới lại phát sinh. Tương tự, tâm cũng luôn thay đổi. Khi
trọng lượng thân được chia đều thăng bằng, tâm ta sẽ có cảm giác dễ chịu,
thăng bằng. Nhưng khi trọng lượng thân di chuyển (bước tới), thì
cảm giác đó cũng thay đổi. Do đó tâm chờ đợi
một giây phút dễ chịu khác phát sinh. Nhưng khi giây phút dễ chịu, thăng
bằng kế tiếp phát sinh, nó cũng qua đi. Mỗi lần từ một giây phút dễ chịu
chuyển sang khó chịu, tâm cảm thấy thất vọng. Sự lặp đi lặp lại của những
giây phút dễ chịu, rồi khó chịu, khiến ta mệt mỏi. Mệt mỏi là một
trạng thái thất vọng kéo dài bị dồn nén tích lũy qua những lần thay
đổi lặp đi lặp lại.
Trong khi chú tâm đến những chuyển động
của đi, ta cũng nhận biết được các dòng tư tưởng thay
đổi không dừng. Khi đang đi, ta có thể cảm
thấy sợ hãi, lo lắng, căng thẳng, ham
muốn, giận dữ, ghen tức, hay tham đắm. Trong đầu ta có thể phát khởi ý
nghĩ, “Ta đang kinh hành rất chánh niệm. Ta mong là mọi người
đều nhận thấy ta đang tiến bộ thế nào."
Những suy nghĩ như thế phát xuất từ lòng tự hào hay lòng ham muốn
được chấp nhận. Ta cũng đã học cách
đối phó với chúng. Trước tiên ta phải
trở nên chánh niệm đối với chúng. Nếu chúng
không qua đi, ta áp dụng những phương pháp dùng
để chế ngự các trạng thái tâm bất thiện mà
ta đã thực hành trong lúc ngồi thiền.
Sau đó ta tiến tới việc làm tăng
trưởng các hoạt động tâm linh thiện bằng cách buông bỏ lòng tham và
sân và bằng cách vun trồng tình thương, lòng hoan hỷ và xả. Điều quan trọng là ta phải có biện pháp để ngăn chặn các trạng thái tâm
tiêu cực phát sinh. Có một thiền sinh trẻ đã thú nhận với tôi về những gì
đã xảy ra trong tâm, khi anh đi kinh hành ở phía sau một phụ nữ trẻ đẹp.
Anh buồn bã nói, "Thưa Sư, có một cô gái đi
trước mặt con. Và suốt thời gian kinh hành, con không thể dứt tâm
ra khỏi cô ấy". Vài năm sau, tôi đã
gặp lại người thiền sinh ấy. Tiếc thay, tâm anh ta vẫn còn loạn
động, không thể kiềm chế. Đó là vì anh
ta không thể áp dụng các phương pháp chế ngự tâm bất thiện. Chúng trở ngại
sự tu tập của anh, khiến anh không thể tiến bộ. Đi một cách có chánh niệm còn có thể giúp ta nhận thức rằng các hoạt
động phức tạp của thân-tâm này, không có một chủ thể thường hằng nào ở
phía sau đó để điều hành chúng. Không có một thứ gì mà ta có thể gọi là
"ngã" hay "cái tôi" điều khiển những dòng tư tưởng và hành
động phức tạp trong tất cả mọi thứ ta làm. Làm thế nào mà thiền hành có thể đưa đến
tuệ giác này? Trong khi đi, bạn quán
sát một cách đầy chánh niệm về tư thế và sự chuyển
động của thân. Bạn cũng ý thức về các cảm
thọ, tưởng và các trạng thái tâm thức khác nhau khi chúng phát
khởi. Bất cứ khi nào ý nghĩ "Tôi đang đi”
khởi lên, hãy tự hỏi, "Gì là ‘cái tôi’ này? Có phải là thân này? Nó
có giống hay khác với thân? Nó ở trong hay ở ngoài thân? Thân có ở trong
‘tôi’ hay ‘tôi’ ở trong thân?" (Đây là
những câu hỏi không có chủ thể để tìm
hiểu thực tại, không giống như những câu hỏi từ tâm nghi như là "Tôi là
ai?", hàm ý rằng ngã hiện hữu.) Ta sẽ không thể nào trả lời thỏa đáng cho
các câu hỏi này. Tâm sẽ nói rằng "tôi" là người
đang giở chân lên,
đưa nó ra trước, và
đặt nó xuống sàn. Nhưng cũng chính
"tôi" đang đứng, thở, nhìn, nghe,
nghĩ, hồi tưởng, cảm nhận, và tham dự vào nhiều hoạt
động khác nhau trong từng giây phút. Những
chuyển động và hoạt động này
biến đổi quá nhanh đến nỗi ta không
thể để ý đến tất cả. “Tôi thở vào" thì
khác với "Tôi đi,” mà cũng khác với
"Tôi thấy," "Tôi hồi tưởng" hay "Tôi cảm thấy buồn". Ta không thể tìm
được một “cái tôi” nào không tùy thuộc
vào những việc ta đang làm, trong bất
cứ hoạt động nào. Bạn sẽ bắt đầu thấy rằng “tôi” chỉ là
một khái niệm chúng ta sử dụng cho tiện lợi
để chỉ cho một dòng trải nghiệm không dừng
đổi thay. Không có một chủ thể độc lập duy
nhất nào hiện hữu trong thân hay tâm. Ý niệm về "cái tôi" thay
đổi nhiều lần trong ngày tùy thuộc vào
hoạt động mà "tôi"
đang tham dự. Nó không có một sự hiện hữu độc
lập nào dầu chỉ trong phút giây. "Cái tôi" chỉ hiện hữu khi bạn
nghĩ đến nó. Do đó sự có mặt của “tôi” cũng
do duyên hợp như mọi thứ khác. Do đó bước chậm rãi và
đầy chánh niệm là một cách hành thiền
hoàn toàn có thể biểu lộ cho ta thấy tự tính vô thường, khổ và vô ngã có
mặt trong từng phút giây như thế nào. Phương pháp này cũng có thể áp dụng
cho các tư thế ngồi, đứng và nằm. Dĩ
nhiên đây không phải là cách ta cử
động bình thường, mà là một phương
cách đặc biệt chúng ta dùng
để rèn luyện tâm. Chủ yếu không phải
chỉ để đặt thân vào các chuyển
động chậm rãi mà là
để phân tích cách mà thân và tâm kết
hợp với nhau để tạo ra một tư thế, và
để thấy sự vô thường, khổ và vô ngã
của thân và tâm. Trong khi theo dõi các tư thế của thân, ta có cơ hội tốt
để quán sát những gì
đang xảy ra trong tâm, để xem các trạng thái
như tham, sân, ganh tỵ, hay sợ hãi có phát sinh không. Khi tâm
không tán loạn, ta dễ nhận biết sự sinh khởi của chúng. Một khi bạn
đã tự rèn luyện
để quán sát các trạng thái tiêu cực
này trong khi hành thiền chánh niệm về các oai nghi khác nhau – đi, đứng,
nằm, ngồi- thì bạn cũng có thể đem tâm tinh tấn đó áp dụng cho tất cả mọi
hoạt động khác trong đời sống hằng ngày. Chánh Niệm Về Các Bộ Phận Của Thân Quán sát các bộ phận của thân giúp ta chấm dứt mọi quan niệm sai lầm về
thân. Khi ta phân chia thân thành nhiều bộ phận trong tâm, ta sẽ thấy thân
và các bộ phận của thân đúng như chúng thật là. Thường chúng ta không nhìn thân với cái nhìn phân tích như thế. Chúng
ta ít khi nghĩ đến các bộ phận của thân trừ
khi có điều gì trục trặc hay khi chúng ta bị
đau nhức. Đức Phật đã nói đến phương
pháp thiền này bằng một từ Pali có nghĩa "đi ngược dòng." Nói như thế Đức
Phật muốn ám chỉ rằng khi thực hành phương pháp thiền này, chúng ta đi
ngược lại với cách mà ta thông thường nghĩ về thân. Người ta thường có cảm giác ghê tởm khi nghĩ về một số bộ phận trong
thân. Họ không nề hà mang các bộ phận này trong thân và coi chúng rất quý
báu. Nhưng khi nghĩ về chúng, họ cảm thấy tởm nhờm. Người khác thì lại
chấp vào các bộ phận nào đó của thân, coi
chúng như là đẹp đẽ, thường hằng, hoặc
họ cảm thấy kiêu hãnh về vẻ ưa nhìn của mình, về sức khỏe tốt hay
về sức lực của họ. Phương pháp thiền này có thể giúp ta bỏ
được những ảo tưởng đó. Nó giúp ta xem
thân như nó là mà không gớm ghiếc hay bám víu vào
đó.
Đức Phật khuyên thiền giả hãy chia thân ra làm ba mươi hai phần trong
tâm. Trong đó, hai mươi là chất rắn hay là những bộ phận thuộc về đất và
mười hai là nước. Hai mươi bộ phận rắn chắc là tóc trên đầu, lông trên
thân, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, lá lách,
lồng ngực, ngực, ruột già, ruột non, thực phẩm chưa tiêu hóa, phân, và óc.
Mười hai bộ phận chất lỏng là mật, đờm, dãi,
mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước miếng, nước nhầy, nước nhờn ở các
khớp, và nước tiểu. Ngoài ra, Đức Phật liệt kê mười quy
trình (process) thuộc về thân liên quan đến
lửa và gió. Bốn quy trình thân liên quan với lửa là nhiệt do sự
tiêu hóa thực phẩm, nhiệt do lão hóa, nhiệt do lòng sân hận, và thân
nhiệt. Sáu quy trình liên quan đến gió là
ợ, xì hơi, khí trong bộ máy tiêu hóa, gió trong lỗ chân lông, hơi thở vào
và hơi thở ra. Có thể nói phương pháp thiền này rất giống với cách một nhà sinh vật
học quán sát thân. Nhà sinh vật học sau khi mổ xẻ một con vật không bỏ
chạy khi ruột gan con vật phơi bày ra. Trái lại, người ấy muốn nhìn xem
các bộ phận ấy là gì, hoạt động ra sao. Sự
khách quan khoa học này giúp cho nhà sinh vật học nhìn các bộ phận
này như chúng là, mà không thêm vào đó bất cứ
ý niệm tình cảm hay sự lãng mạn nào. Chúng ta cần vun trồng tình
cảm buông xả này khi chúng ta hành thiền. Để thực hành phương pháp thiền này, hãy chú tâm vào từng bộ phận của
thân, bắt đầu với những phần dễ thấy nhất. Thí dụ khi nghĩ đến tóc trên
đầu, hãy tự hỏi, "Lúc năm tuổi, tóc ta có như thế này không?" Dĩ nhiên câu
trả lời là không. Sau đó tự hỏi điều gì
đã xảy ra. Ta sẽ nhận ra ngay rằng,
tóc đã
đổi thay, cũng giống như các bộ phận thân khác như là móng tay, da,
răng, vân vân. Thiền quán này
đưa ta đến kết luận rằng không có gì
bền vững về thân và các bộ phận của thân. Tất cả mọi thứ
đều vô thường. Đó là thực tại. Thiền quán về thân như là một tập hợp của những bộ phận luôn thay
đổi cũng giúp ta chế ngự được kiết sử tham
hay sự chấp thân. Không có nghĩa rằng bạn muốn vứt bỏ thân này
trước khi chết! Ta vẫn muốn duy trì thân, tắm rửa, trang phục, và chăm
sóc, bảo vệ nó. Nhưng ta có thể làm những việc này mà không hoang
tưởng, không có sự bám víu quá sức. Khi ta đã
ý thức về sự phân hủy của thân -sức mạnh của nó trở nên lung lay, vẻ
đẹp của nó trở nên suy giảm, xa, sức
khỏe của nó trở nên sa sút – ta thấy rằng những sự thay
đổi này xảy ra cho tất cả mọi thân
người. Ta sẽ thấy rằng không có gì thường hằng, bền vững về cái thân mà ta
lâu nay vẫn hằng bám víu. Thay vì thất vọng, bực tức, ta trở nên khiêm hạ khi
đối diện với thực tại này. Sự thật về
tính vô thường của thân quá mãnh liệt, quá
đau đớn, quá dữ dội đến nỗi ta phải tự động đầu hàng. Ta còn có thể
làm được gì chứ? Ta có thể chạy trốn
sự thật này được không? Không. Bạn không có
lựa chọn nào khác ngoài việc phải chấp nhận nó. Do
đó phương pháp thiền này cũng giúp ta
chế ngự kiết sử thân kiến, khiến ta tin rằng có sự hiện hữu của một cái
ngã thường hằng. Hơn thế nữa, ta nhận ra rằng tất cả mọi chúng sanh
đều phải đối mặt với cùng một nỗi sợ
hãi về tuổi già, bệnh hoạn, và cái chết. Nhận ra
được tính chất phổ quát của điều này
giúp ta chế ngự được những nỗi sợ hãi
riêng tư và phát triển được lòng bi
mẫn đối với những đau khổ của tha nhân.
Từ đó, ta có thể suy ra rằng nếu bất cứ bộ
phận nào của thân bị hư hoại, bị cắt bỏ, hay không còn hoạt
động nhịp nhàng với các bộ phận khác
thì thân ta sẽ vận hành khác đi. Nhận thức này
cho ta tri giác về tính tùy thuộc, duyên hợp của tất cả mọi hiện hữu. Khi so sánh thân mình với thân của người, ta thấy tất cả thân
đều giống nhau. Thân ta sẽ già
đi, bệnh hoạn, và trở nên yếu
đuối. Thân của tất cả
đều như thế. Những gì xảy ra cho thân
bạn do sự thay đổi hormon, tai nạn, hay lý do
gì đó, thì chúng cũng xảy ra
cho thân của mọi người khác. Do đó, không
quan trọng là thân bạn nhìn bên ngoài
đẹp hay xấu, mập hay ốm, có tóc hay hói đầu như thế nào, tất cả mọi
thân đều vận hành, phát triển, già
đi, trở bệnh, hoại diệt, chết, và tan
rã trong những cách rất giống nhau. Về khía cạnh này, bạn và tha nhân hoàn
toàn không khác nhau. Tuệ giác này giúp bạn vun trồng tâm xả và
đối xử với tất cả mọi chúng sanh bằng lòng
bi mẫn và thương yêu. CHÁNH NIỆM VỀ THỌ Chúng ta thường nói, "Tôi cảm thấy," mà không ý thức rằng cảm thọ là
một hiện tượng không có tự tính. Chúng đến và
đi tùy theo duyên khiến chúng phát
sinh. Khi ta biết về các loại cảm thọ khác nhau và cách chúng vận hành,
thì ta có thể ngăn chặn các yếu tố dẫn đến
những trạng thái tâm đau khổ, phiền muộn chỉ bằng cách thư giãn và
thay đổi thái độ của chúng ta. Như
thế, tâm ta sẽ giữ được sự dễ chịu và
trong sáng. Nhưng đó chỉ là bước khởi
đầu. Ngoài ra, do nhìn thấy
được bản chất thật của cảm thọ, ta trở nên
buông xả hơn và ít phản ứng lại với bất cứ cảm thọ gì có thể sinh khởi.
Đó là cách thực tập buông bỏ tham và
sân. Khi đã biết buông xả, chúng ta có
thể đào tận gốc rễ của khổ
đau để tiến đến hoàn toàn Giác Ngộ. Chúng ta thường đổ cho ngoại cảnh hay tha
nhân khiến ta cảm thọ thế này hay thế kia. Tuy nhiên, nếu chúng ta
quán sát các cảm thọ dễ chịu hay khó chịu của mình một cách
đầy chánh niệm, ta sẽ thấy rằng chúng không
đến từ đối tượng mà ta cảm nhận nhưng
đến từ chính trạng thái tâm hay quan điểm, thái độ của chúng ta. Một thí
dụ điển hình: Nhiều người cùng xem một cuốn phim, nhưng mỗi người
lại có một số cảm giác, phản ứng khác nhau về cuốn phim. Do
đó, chúng ta có thể dừng sự trách móc
người khác về những nỗi buồn khổ của mình để
bắt đầu nhìn vào bên trong – nơi chúng ta thực sự có quyền lực
để thay đổi sự việc. Đó là ý
Đức Phật muốn khuyên nhủ chúng ta khi
nói "Hãy đến để thấy”.
Khi đã trở nên quen thuộc với các
cảm thọ của bản thân, bạn có thể dễ dàng so sánh cảm thọ của mình với cảm
thọ của người khác. Bạn nhận thấy rằng khi bạn phát khởi các loại cảm thọ
khác nhau tùy theo hoàn cảnh, thì người khác cũng thế. Rồi khi cảm xúc của
bạn qua đi, thì cảm xúc của người khác
cũng thế. Tri thức mà bạn có được từ việc
chánh niệm về chính các cảm xúc của mình
được gọi là "trực giác" (direct
insight). Tri thức bạn có được từ việc so
sánh kinh nghiệm của mình với của người khác
được gọi là "tri giác do suy diễn"
(inferential understanding). Mặc dầu không có cách gì
để có thể biết chắc chắn người khác nghĩ thế
nào, nhưng sự hiểu biết do suy diễn có thể giúp bạn
đạt được nhiều tri kiến về thực tại.
Khi ta biết rằng tất cả mọi chúng sanh đều
có cảm thọ, rằng tất cả đều trải qua những đau đớn thể xác và tinh
thần, khổ vì đói lạnh, buồn bã khi cô
đơn, chúng ta trở nên bớt ích kỷ và
bớt có khuynh hướng bảo vệ cho rằng cảm xúc của mình luôn
đúng. Chúng ta có thể lắng nghe một cách bình
tĩnh sự than thở của người khác mà không thấy khó chịu. Khi chúng ta chánh
niệm rằng tất cả mọi chúng sanh đều có cảm
xúc như nhau, thì làm sao ta có thể nói hay làm
điều gì
đó để gây thương tổn cho người khác?
Từng giây, từng phút quy trình khổ đau lại
được tăng thêm sức mạnh bởi những phản ứng vô minh của tâm
đối với các cảm thọ. Tất cả chúng sanh, không
có ngoại lệ, đều có cảm xúc và tất cả các chúng sanh chưa giác ngộ
đều khổ đau từ phản ứng của họ đối với các
cảm xúc của bản thân. Cảm thọ phát sinh ở ngoại vi thân từ sự tiếp xúc với
thế giới bên ngoài và cũng từ sâu thẳm trong tâm do sự tiếp xúc với
các sự kiện tâm linh. Do đó khi nói về cảm
xúc trong phạm vi của Tứ Niệm Xứ, chúng ta không phân biệt giữa các cảm
xúc vật lý (“Tôi cảm thấy trời nóng”) và tình cảm ("Tôi cảm thấy
buồn"). Từ lúc tế bào thần kinh bắt đầu phát
triển, chúng ta đã kinh nghiệm được
các cảm xúc. Cảm xúc có mặt ngay khi
đứa trẻ còn trong bụng mẹ. Khi người mẹ di chuyển,
đứa trẻ trong bụng cũng cảm nhận được sự
chuyển động. Khi người mẹ hát, đứa bé cũng nghe được và
được ru ngủ. Khi bà tức giận,
đứa bé cũng cảm nhận được sự căng thẳng và
giận dữ của bà. Khi bà cười, đứa bé cảm nhận
được sự vui vẻ của bà. Trong khi chúng ta có thể không nhớ
được những cảm giác này, chúng ta
đã kinh qua chúng. Hơn thế nữa, mọi khía cạnh của cuộc đời ta
– sự tranh đấu, thành
đạt, tư duy, sáng kiến, công việc, và
ngay cả sinh tồn– đều tùy thuộc vào
việc chúng ta cảm thấy như thế nào. Nhu cầu
được có thực phẩm, quần áo, thuốc men, chốn nương thân, tình dục,
và sự thoải mái vật chất cũng tùy thuộc vào cảm xúc. Con người
đã khám phá, sản xuất, hay phát triển
nhiều thứ nhờ vào cảm xúc. Khi cảm thấy lạnh, chúng ta tìm cái ấm. Khi cảm
thấy đói, ta tìm thực phẩm. Chúng ta
sản sinh cũng tùy theo các cảm xúc của mình. Ngay cả sự suy nghĩ của ta,
thường cũng bắt đầu bằng một cảm xúc. Chúng
ta lý giải phản ứng tình cảm đối với
một hoàn cảnh bằng cách nói, "Tôi có
đủ mọi lý do để cảm thấy bất bình về những gì
đã xảy ra." Khi có một cảm thọ dễ chịu, tâm tham phát khởi; ta muốn thêm nữa. Khi
có một cảm thọ khó chịu, ta phản ứng bằng sự giận dữ, chống
đối nó. Khi cảm thọ trung tính, ta có khuynh
hướng lờ nó đi. Như ta đã biết
tham, sân, và si là nguồn gốc của mọi khổ
đau. Chánh niệm về cảm thọ là một cơ hội
để ta quán sát nguồn gốc này, nơi ta
có thể buông bỏ mọi khổ đau.
Thí dụ bạn ngồi với ý định quán sát sự ra,
vào của hơi thở -cùng với thọ, tưởng, hành, hay thức– trong vòng
bốn mươi lăm phút. Nhưng sau khoảng hai mươi
lăm phút, lưng bắt đầu đau, và tâm chuyển sang quán sát cái
đau. Đôi khi các cơn đau nhẹ này nhanh
chóng qua, nhưng có trường hợp cơn đau tăng
gấp bội.
Nếu ta tiếp tục ngồi yên, quán sát cơn
đau, nó dần dần bộc phát đến tột đỉnh và rồi vỡ tan. Khi
đó, một cảm giác dễ chịu sẽ hiện ra. Ta có
thể quán sát cách tâm bám víu vào cảm thọ dễ chịu
đó, muốn được có nhiều hơn. Rồi một vài
loại cảm thọ khác thay thế cảm giác dễ chịu
đó. Khi các cảm thọ phát sinh và qua
đi, ta có thể nhận ra rằng chúng mong manh đến thế nào. Một cảm
giác dễ chịu chỉ dễ chịu trong chốc lát, rồi qua
đi, và
được thay thế bằng cảm giác khó chịu, ngược lại cũng thế.
Khi tâm không còn chú ý đến các cảm giác này
nữa, thì ta lại trở về với hơi thở. Bạn có thể thấy rằng ta không cần một phương pháp tọa thiền
đặc biệt nào
để quán niệm cảm thọ. Đúng hơn, ta vẫn
sử dụng thiền chánh niệm bình thường để quán sát sự sinh khởi và hoại diệt
của cảm thọ giống như cách ta quán sát dòng tư tưởng qua đi trong đầu.
Chúng ta tiếp tục thực hành như thế trong cuộc sống
đời thường. Dầu khi ngồi thiền hay
tham gia vào các hoạt động thường ngày,
bất cứ khi nào một cảm thọ phát sinh đủ mạnh
để tâm phải hướng đến, thì ta quán sát nó. Khi chúng ta trở nên chánh niệm về các cảm thọ của mình, thì chúng ta
không còn phản ứng một cách thiếu chánh niệm
đối với chúng. Chúng ta trở nên khéo léo hơn. Nếu một lạc thọ phát
sinh, chúng ta có thể kiềm chế yếu tố tiềm ẩn của lạc thọ - tham. Khi một
khổ thọ phát sinh, chúng ta cũng có thể kiềm chế yếu tố tiềm ẩn của loại
cảm thọ đó – sân hay sự chống
đối. Nếu một cảm thọ trung tính, chúng ta có
thể ghi nhận điều đó và không cho phép yếu tố tiềm ẩn của cảm thọ
trung tính – si – xuất hiện. Đức Phật diễn tả hai loại cảm thọ chính: "thế tục" và "xuất thế". Các
cảm thọ thế tục là những cảm thọ với các yếu tố tiềm ẩn của lòng tham,
sân, hay si tác động ở một mức độ nào đó. Những cảm thọ này đưa ta thẳng
đến tham, sân, hay si. Các cảm thọ thế tục phát khởi một cách tự nhiên khi
ta theo đuổi cuộc sống tầm thường, thế tục
như là thụ hưởng dục lạc, chạy theo tiền bạc,
địa vị, người yêu, tạo ra quyền lực,
danh tiếng. Cảm thọ phát sinh từ các hoạt
động này luôn khơi dậy phần nào tham, sân, hay si. Đức Phật luôn cảnh báo đệ tử của Ngài rằng những cuộc chạy đuổi theo
thế tục và các cảm thọ thế tục là nguy hiểm do các yếu tố tiềm ẩn của
chúng. Ngài khuyên chúng ta nên ý thức về sự nguy hiểm này để buông bỏ
chúng. Với chánh niệm chúng ta tự kiềm chế bản thân không
để tham, sân, hay si cuốn hút. Chúng ta cố
gắng giảm thiểu các yếu tố này -bằng cách quán sát chúng. Chúng ta
chú tâm đến chúng với một tâm thư giãn,
không cố gắng để áp đặt bất cứ điều gì,
ngoại trừ buông xả. Ngay giây phút ta làm điều đó, ta trải
nghiệm được các cảm thọ xuất thế. Các cảm thọ xuất thế phát sinh khi ta
theo đuổi con đường giải thoát tâm linh. Những cảm thọ này
đi kèm với các yếu tố tiềm ẩn
đã hoàn toàn
được điều phục hay trong trường hợp của vị
giác ngộ - hủy diệt. Bất cứ khi nào chúng ta chuyển hóa
được một cảm thọ thế tục, là ta có
được một cảm thọ xuất thế.
Giờ hãy xét đến các khía cạnh dễ chịu, khó
chịu, và trung tính của cả hai cảm thọ thế tục và xuất thế. Các lạc
thọ thế tục rất quen thuộc với chúng ta. Dục lạc
đem đến cho chúng ta bao nguồn lạc thọ thế
tục. Thí dụ, một bữa an ngon, một chương trình TV hấp dẫn, một
chiếc xe hơi đời mới bóng lộn, thường dễ kích
hoạt các lạc thọ thế tục. Trừ khi ta có thể giữ tâm chánh niệm mạnh mẽ,
nếu không các cảm giác dễ chịu nơi thân và tâm sẽ thuộc về thế tục,
vì chúng ta thích những thứ này và muốn được
tận hưởng chúng nhiều và nhiều hơn nữa. Các lạc thọ xuất thế có thể ít quen thuộc hơn. Chúng sinh khởi khi nào
ta làm được điều gì có thể giúp ta
tiến bước trên con đường giải thoát. Thí dụ,
cảm giác bình yên và hạnh phúc mà chúng ta có
được từ thiền định sâu xa. Cảm giác an bình,
dễ chịu, mà ta có được khi sự thực hành
thiền chánh niệm phát triển tốt cũng là những cảm giác xuất thế. Khi chúng ta thực hành chánh niệm để buông
xả các cảm thọ thế tục như là lạc thọ
đến từ việc thưởng thức những đồ ăn
ngon miệng, thì các cảm thọ xuất thế sẽ phát khởi. Tuy nhiên, hãy
cảnh giác đối với những ai nói rằng bạn có
thể tận hưởng dục lạc một cách có chánh niệm. Đó không phải là Pháp
của Đức Phật. Trái lại,
Đức Phật dạy chúng ta chánh niệm để buông bỏ
dục lạc và thụ hưởng các cảm thọ xuất thế
đến từ hạnh xả ly. Khi buông xả, chúng ta vẫn
giữ được chánh niệm về tính vô thường của các dục lạc này. Do
đó chúng ta duy trì
được tâm không bám víu, và sự không
bám víu này khiến các cảm thọ xuất thế được
phát khởi.
Bất cứ khi nào chúng ta buông xả được phần
nào tâm tham, sân, hay si, thì các cảm thọ xuất thế dễ chịu sẽ phát
sinh. Thực ra, mọi hành động dựa trên
Bát Chánh Đạo đều có thể khiến cho các lạc
thọ xuất thế sinh khởi. Khi chánh niệm phát triển, ta cảm nhận
được các lạc thọ xuất thế thường xuyên
hơn. Giả thử rằng bạn bám víu vào vật gì đó, có
thể là vật kỷ niệm của một người bạn đã
mất. Bất cứ khi nào nhìn thấy đồ vật ấy, cảm
giác tiếc nuối hay buồn bã sẽ phát sinh, khiến bạn
đau khổ. Khi đã có thể buông xả sự bám
víu, thì đó thật là một giải thoát
lớn, vì các khổ thọ sẽ dừng lại, không sinh khởi nữa. Bạn cảm thấy thư
giãn và một cảm giác dễ chịu phát sinh. Điều
đó giống như khi bạn đang nắm chặt một vật gì mà càng nắm chặt thì
tay càng bị đau. Rồi khi mở tay ra bạn sẽ cảm
thấy thật dễ chịu. Tương tự, các lạc thọ xuất thế phát khởi vì bạn
đã buông xả sự bám víu. Khổ thọ có thể là xuất thế hay thế tục. Khổ thọ thế tục dễ
đưa ta đến sự phản kháng. Thí dụ cảm
giác đau đớn của sân hận có thể phát khởi khi
tham vọng của ta bị cản trở, như khi ta không được tăng lương, hay thăng
chức. Ta có thể thực hành các phương pháp chế ngự sân hận khi các
khổ thọ thế tục này xuất hiện. Các khổ thọ xuất thế cũng có thể phát khởi khi chúng ta thực hành theo
con đường của Phật. Thí dụ bạn đã thực
sự hiểu những lời dạy của Đức Phật và
rất muốn giải thoát tâm khỏi tham, sân, và si. Do
đó, bạn đã hành thiền, tuân giữ tất cả
các giới luật, và thực hành theo mọi lời chỉ dẫn. Tuy nhiên, bạn cảm thấy
mình không thể tiến bộ trên con đường tiến
tới mục đích. Cảm giác đau đớn và thất vọng mà bạn trải nghiệm là
có tính chất xuất thế. Tuy nhiên, không giống như các loại khổ thọ khác, khổ thọ xuất thế là
thiện. Nó không phát sinh từ tham, sân, hay si. Thí dụ, bạn có thể tự hỏi,
"Ta đã làm gì sai? Tại sao ta không
đạt được mục đích mong đợi như người khác? Có
thể ta đã thiếu sót điều gì; ta
phải bắt đầu lại từ đầu.” Khổ thọ xuất
thế thôi thúc ta tiếp tục tu hành, tiếp tục thử nghiệm. Khổ thọ xuất thế
không dẫn ta đến sân hận mà tạo thêm
động lực thúc đẩy ta thêm tinh tấn,
thúc đẩy ta tiến bước đến giải thoát.
Các cảm thọ trung tính cũng có thể được
chia làm hai loại thế tục hay xuất thế.
Đối với những mục đích thế tục, khi không có
mặt của khổ thọ hay lạc thọ, một cảm giác ù lỳ, thờ ơ sẽ có mặt.
Tuy nhiên, tâm si có thể phát triển trong các cảm thọ trung tính thế tục
này. Thí dụ, khi một cảm giác trung tính phát khởi, ta có thể nghĩ, "À!
Đây là linh hồn; linh hồn sẽ cảm thấy
như thế này trong trạng thái trung tính, khi nó không bị chi phối bởi
những thứ gì khác." Khi chánh niệm đưa ta đến chỗ nhận thức
được rằng những gì ta gọi là "ngã" hay "linh hồn" luôn biến
đổi, luôn chịu ảnh hưởng của vô thường thì
cảm giác mà ta có được là trung tính
và xuất thế. Cảm giác đó toàn vẹn,
không phân biệt và không si mê. Ta cảm thấy tĩnh giác, quan tâm muốn biết
điều gì sẽ xảy ra kế tiếp. Ta sẽ không
rơi vào trong cái bẫy của tình cảm như thế này hay như thế nọ -không ham
muốn cũng không ghét bỏ- mà duy trì chánh niệm và tâm xả. Bạn càng có thể
duy trì trạng thái đó lâu, thì tâm
chánh niệm càng trở nên mạnh hơn. Hãy trở lại với thí dụ về cái lưng đau khi
ta đang hành thiền. Đầu tiên ta cảm thấy khó chịu với cái đau, tiếp
theo là cảm giác dễ chịu khi cái đau qua đi, và sự bám víu vào cảm giác dễ
chịu. Nếu ta tiếp tục quán sát các cảm thọ này, ta sẽ thấy chúng thay đổi
luôn. Dần dần, khi thấy được tính vô thường của chúng, ta buông bỏ sự phản
ứng bám víu hay ghét bỏ. Sau đó tâm xả đối
với các cảm thọ này sẽ phát sinh. Trạng thái tâm xả này là một
trạng thái trung tính xuất thế. Để thực tập chánh niệm về các cảm thọ, khi một cảm thọ phát khởi, trước
hết ta xét xem nó thuộc thế tục hay xuất thế, để ta quyết định có nên
buông bỏ hay theo đuổi nó. Nếu chúng ta đang trải qua một cảm thọ
xuất thế, hãy nỗ lực để vun trồng cảm
thọ này. Chúng ta ghi nhận nguyên nhân tạo nên cảm thọ
đó để có thể lập lại chúng trong tương lai.
Rồi ta cố gắng để tái tạo những điều kiện thích hợp. Chúng ta tiếp tục tìm
tòi những điều kiện và hành
động khác nhau, để tạo nên cảm thọ
xuất thế này. Chúng ta chú tâm phát triển thói quen làm phát sinh loại cảm
thọ này. Trái lại, nếu ta thấy rằng mình có một cảm thọ thế tục ẩn chứa trong
yếu tố tiềm ẩn của tham, sân, hay si, ta phải nỗ lực mạnh mẽ
để chế ngự các yếu tố tiềm ẩn của cảm thọ này.
Chúng ta phải rất chánh niệm để không bị lôi
cuốn theo trạng thái bất thiện phát sinh từ cảm thọ này. Chúng ta
quán sát một cách đầy chánh niệm cảm thọ thế
tục này mà không phản ứng, cho đến khi
nó dần dần qua đi. Trong quá trình chúng ta có thể thấy tính vô
thường của tất cả mọi thứ liên quan: sự vô thường của các
đối tượng được ham muốn (hay bị ghét bỏ), của
ý kiến cá nhân đối với hoàn cảnh đó,
của bản thân ta, và của khả năng thụ
hưởng các dục lạc liên quan, và trạng thái chóng qua của chính các
cảm thọ này. Bằng cách quán sát vô thường như thế, chúng ta có thể buông
xả. Khi chúng ta buông xả, cảm thọ thế tục
được thay thế bằng một lạc thọ xuất thế, và chúng ta trở nên
đầy chánh niệm về sự vắng mặt của tham, sân,
và si ngay lúc đó. Sau đó tâm có thể
trở về với hơi thở, hay tiếp tục quan sát sự thay đổi không dừng của các
cảm thọ xuất thế. An lạc sinh khởi. Tâm lắng
đọng, trở nên thanh tịnh, bình an và
hạnh phúc. Niềm an lạc, hạnh phúc đưa ta đến
một tầng sâu hơn của định.
Giả dụ một buổi sáng thức dậy, bạn cảm thấy rất buồn. Thay vì trở nên
bực bội, bạn hãy ngồi xuống một nơi yên tĩnh, nhắm mắt lại, và bỏ ra một
ít thì giờ quán sát nỗi buồn của bạn mà không phán xét hay lo âu gì, chỉ
dồn tất cả sự chú tâm vào khổ thọ thế tục này. Nếu bạn cho phép mình bám
víu vào nguyên nhân của nỗi buồn của bạn, thì khổ thọ sẽ kéo dài hơn.
Nhưng nếu bạn quán sát cảm thọ của mình, bạn sẽ nhận ra sự thật về nỗi
buồn đó. Từ
đó bạn tu tập để giảm bớt tham, sân, và
si. Khi bạn chấp nhận thực tế về sự biến đổi
không dừng dứt của cảm thọ trong từng giây phút, bạn được nhắc nhở rằng
may mắn thay, ngay cả những khổ thọ cũng vô thường. Nhờ đó lạc thọ xuất
thế phát sinh. Trạng thái tâm bạn chuyển đổi từ buồn bã sang tĩnh
lặng, hạnh phúc, bình an. Giờ thì tâm đã
trong sáng và có thể dễ dàng đạt được định.
Giả sử vào một ngày khác, bạn lại cảm thấy thảnh thơi, vui vẻ. Bạn quán
sát lạc thọ xuất thế này như nó là, dốc tất cả sự chú tâm vào nó khi nó
còn có mặt. Nhưng bạn không mong mỏi cảm giác
đó sẽ kéo dài mãi. Khi nào tâm bám víu không phát sinh, cảm giác
này sẽ tiếp tục làm chủ, đôi khi vài
ngày. Khi nó bắt đầu phai đi, bạn sẽ để nó
qua. Khi tiếp tục chánh niệm về các cảm thọ của mình, bạn sẽ nhận
thấy rằng bạn không thể kéo dài lạc thọ theo ý mình muốn. Ngược lại, bạn
càng cố gắng để duy trì một lạc thọ,
thì nó càng nhanh chóng qua đi. Nếu bạn chỉ
quán sát các cảm thọ khi chúng đến và
đi, thì tâm bạn thư giãn và trở nên dễ chịu hơn. Bạn cũng duy trì
được sự thăng bằng tình cảm dễ dàng
hơn. Khi ta quán sát một cách có chánh niệm bất cứ cảm xúc gì, thì nó sẽ tăng
trưởng, rồi hoại diệt. Cảm thọ này thay thế cảm thọ kia, cùng một
quy trình như thế. Có thể bắt đầu là
một lạc thọ, kế tiếp là khổ thọ hay trung tính, hay một khổ thọ khác nữa.
Các loại cảm thọ ta trải nghiệm thay đổi liên
tục, trong từng giây phút. Các khuynh hướng cảm thọ thay
đổi từ giờ này qua giờ khác, ngày này
qua ngày khác, vân vân. Quán sát bất kỳ một trong những sự thay
đổi này sẽ
đem cho chúng ta tuệ giác về bản chất thực sự
của bản thân.
CHÁNH NIỆM VỀ TÂM Chánh niệm về tâm ý chỉ sự quán sát những trạng thái tâm khác nhau phát
khởi và qua đi – tâm tham hay không
tham, tâm sân hay không sân, tâm vô minh hay sáng suốt, hẹp hòi hay cởi
mở, tâm vọng tưởng hay chánh niệm, tán loạn hay
định tĩnh, tâm phát triển hay ù lỳ,
ràng buộc hay giải thoát. Ta quán sát các trạng thái này khi chúng xuất
hiện và qua đi cùng với thức xuất
hiện, và qua đi.
Không thể tách thức ra khỏi các trạng thái tâm và
đối tượng tâm vì chúng phát sinh và
qua đi cùng với nhau. Tuy nhiên, bạn
có thể ghi nhận khi thức bị chi phối bởi các trạng thái tâm tiêu cực như
là tham, sân, si, hôn trầm, trạo cử, hay các trạng thái tích cực như là bi
mẫn, kiên nhẫn, hay từ ái. Bạn dành cho mỗi trạng thái sự chú tâm toàn vẹn khi nó phát khởi, mà
không làm bất cứ điều gì
đặc biệt về nó và không
để bạn bị vướng mắc hay bám đuổi theo dòng
tư tưởng hay cảm xúc. Bạn chỉ đơn giản quán
sát khi mỗi trạng thái phát sinh và qua
đi. Sự sinh khởi, rồi hoại diệt là bản
chất của tâm. Mỗi giây phút -thật sự, nhiều lần trong mỗi giây phút- trạng
thái tâm sinh khởi, viên mãn, rồi hoại diệt. Tâm chúng sanh ở khắp mọi nơi
đều giống nhau. Bạn càng quán sát sự
sinh khởi và hoại diệt của tất cả mọi trạng thái tâm, bạn càng biết chúng
mong manh, biến chuyển thế nào. Nhận ra được
sự chuyển biến này là bạn đạt được tuệ
giác về một pháp vô thường gọi là "tâm." Do đó, càng chú ý
đến tâm bao nhiêu, thì ta càng thấy nó
ít bền vững bấy nhiêu. Giống như vạn pháp, tâm luôn biến
đổi. Hơn thế nữa, ta sẽ khám phá ra rằng
không có một tự tính thường hằng nào; không có ai
đang điều hành bộ máy cả. Tất cả
đều chuyển biến, tất cả đều như dòng
chảy, tất cả đều ở trong một quy trình.
Trong thực tế, bạn chỉ là dòng chảy không dừng của từng sát na tâm thức
biến chuyển. Vì không thể kiểm soát quy trình này, ta không có chọn lựa
nào hơn ngoài việc buông xả. Khi buông xả, ta trải nghiệm
được niềm vui, và có thể trong một
giây phút thoáng qua nào đó ta sẽ nếm trải
được sự giải thoát và hạnh phúc là mục
đích của con đường đạo. Lúc đó ta sẽ
biết rằng tâm này cũng có thể dùng để
đạt được tuệ.
CHÁNH NIỆM VỀ
Chánh niệm về đối tượng của tâm có thể
nghe giống như một phương pháp hành thiền khác, nhưng
đó chỉ là một cách diễn tả khác của
thiền minh sát mà bạn đã thực hành
qua. "Đối tượng tâm” ý chỉ tư tưởng -ở
đây có nghĩa là tất cả các hoạt
động tâm thức. Có nhiều loại tâm thức:
kiết sử, chướng ngại, ngũ uẩn, những yếu tố của sự giác ngộ, và Tứ Diệu
đế. Chúng có thể sinh khởi theo bất cứ trật
tự nào. Khi ngồi thiền, trong lúc hướng đến một
đối tượng thiền, như là hơi thở, ta nhanh chóng trở nên chánh niệm
đối với bất cứ tư tưởng nào phát sinh,
như là chướng ngại về nghi hay một khía cạnh của một trong các uẩn.
Đối tượng tâm – ý nghĩ- trở thành một
đối tượng thiền quán mới, tạm thời. Ta ghi
nhận đối tượng tâm đó và quán sát cho
đến lúc nó qua đi. Nếu như nó là tâm bất thiện và cứ lẩn quẩn trong
đầu, ta phải làm bất cứ
điều gì cần thiết
để loại trừ nó. Khi nó qua đi, ta ghi nhận
tính vô thường, khổ, và vô ngã của nó. Rồi ta lại trở về với hơi
thở hay đối tượng thiền quán đã chọn.
Khi ý nghĩ khác phát sinh, ta lặp lại quy trình trên. Hãy nhớ rằng ta không tiên đoán được loại
đối tượng tâm nào sẽ sinh khởi trong khi hành thiền. Mà cũng không
cần phải đặt tên cho
điều gì đã
phát khởi như, "Ta đang quán sát một kiết
sử.” Khi quán sát các đối tượng tâm thiện như là hỷ, ta sẽ làm bất
cứ điều gì có thể
để khuyến khích đối tượng đó tiếp tục xảy ra,
dầu ta vẫn tiếp tục ghi nhận tính vô thường, khổ, và vô ngã của nó.
Như ta đã biết, sự thực hành thiền
chánh niệm không chỉ giới hạn trong lúc ta tọa thiền. Dầu
đang làm gì, bạn cũng có thể ý thức về
bất cứ hoạt động tâm linh nào khi nó
phát khởi. Khi bạn cố gắng để duy trì
chánh niệm liên tục trong ngày, các hoạt động
tâm linh bất thiện dần dần ít xảy ra hơn, và các trạng thái tâm
thiện thường xảy ra hơn. Vì bạn không phải mất nhiều thời gian
đắm chìm trong những suy nghĩ tiêu
cực, bạn càng dễ nhận biết mọi hoạt động của
tâm.
Khi đã có thể tự rèn luyện mình trở
nên chánh niệm trong hầu hết các hoạt động
trong ngày, dần dần ta sẽ thấy tâm chánh niệm của mình trở nên mạnh
mẽ và vững chãi hơn. Với tâm trong sáng, ta có thể nhận thấy rằng tất cả
những gì ta đã trải nghiệm tương ưng
với Tứ Diệu đế như thế nào. Khi
điều này xảy ra, Tứ Diệu
đế trở thành
đối tượng chánh niệm của ta. Một thí dụ về
việc quán sát Tứ Diệu đế đã được nói
đến trong bước 2, trong phần “Chánh niệm về chánh tri kiến”. Khi tâm chánh niệm đã tiến bộ, ta
bắt đầu quán sát các yếu tố của giác ngộ -đặc
tính tâm cần thiết để đạt được mục đích trên
đạo lộ. Đức Phật đã trải qua nhiều
kiếp tu chứng trước khi đạt được sự
hoàn hảo tuyệt đối của các yếu tố Giác Ngộ để
trở thành một vị Phật. Bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi) là niệm,
trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và
xả. Ta đã vun trồng các yếu tố này từ
lúc bắt đầu. Khi tâm chánh niệm của ta phát
triển, các yếu tố này tiến lên một trình
độ cao hơn. Theo truyền thống, thất giác chi
được trình bày theo thứ tự mà các chi phần phát khởi, vì sự phát
triển của chi phần này đưa đến một chi
phần khác. Khi tâm chánh niệm trở nên mạnh mẽ, vững chãi, ta ghi nhận sức mạnh của
nó, và nó trở thành đối tượng thiền quán của
ta. Ta biết rằng mình có chánh niệm. Do
đó chánh niệm trở thành một
đối tượng tâm của chánh niệm. Sự ý thức của
tâm chánh niệm soi rọi các trải nghiệm của ta về sắc, thọ, tưởng, hành,
và thức, do đó ta có thể thấy chúng rõ
ràng hơn. Ý thức này giúp ta tiếp tục rèn luyện tâm chánh niệm. Từ khi
bước theo con đường của Phật, ta đã
thực hành tâm chánh niệm. Chánh Niệm là một trong bảy yếu tố Giác Ngộ. Dần
dần, sau rất nhiều công phu tu tập, ta sẽ đạt
đến một mức độ ở đó tâm chánh niệm trở nên sâu sắc hơn, rõ ràng
hơn, mạnh mẽ hơn và ta biết rằng tâm chánh niệm của ta
đã viên mãn. Lúc
đó, tâm chánh niệm đã
được phát triển tới mức độ của một chi của
giác ngộ.
Với tâm chánh niệm ta đã phân biệt
được các pháp thiện và bất thiện. Ta
đã quán sát
được các đặc tính của những đối tượng mà
ta tiếp xúc, đó là vô thường, khổ, và
vô ngã. Qua các nỗ lực này, ta đã phát
triển được thói quen luôn tìm kiếm sự
thật. Với tâm chánh niệm mạnh mẽ, ý hướng thiện sinh khởi
để quán xét trọn vẹn từng kinh nghiệm mà
ta đã trải qua. Ta ý thức
được điều này. Rồi
đối tượng tâm của ta quán xét tất cả mọi sự
kiện trong cuộc sống. Tâm chánh niệm đã
được nâng cao, hoạt động như một ánh đèn
soi sáng đồ vật trong bóng đêm. Với ánh sáng của tâm chánh niệm mạnh mẽ chiếu rọi vào sự trải nghiệm
của bạn đối với một đối tượng, bạn xét thấy
rằng tự tính của đối tượng đó là
vô thường. Khi đối tượng đó biến mất, một đối
tượng khác lại hiện ra, phơi bày cùng một sự thật về vô thường,
khổ, và vô ngã. Khi bạn tiếp tục đi tìm
chân lý và tiếp tục nhận ra rằng mọi kinh nghiệm
đều chia sẻ ba đặc tính này, thì sự
quán sát của bạn (trạch pháp) trở thành một chi của giác ngộ. Khi tất cả mọi đối tượng quán sát tiếp
tục phơi bày chân lý này, thì nhiệt tâm muốn khám phá thêm nữa phát sinh.
Tâm tràn đầy năng lượng. Lúc đó tâm chánh
niệm mạnh mẽ, như thể nó đã hóa đá kim
cương. Xuyên suốt quá trình tu tập, ta nỗ lực nhiều -để
phát triển chánh niệm, để tháo gỡ các trạng thái bất thiện, để khuyến
khích thiện pháp, và để công phu tu
tập tất cả chi trong Bát Chánh Đạo. Giờ thì sự nhiệt tâm nỗ lực của
bạn đã kết quả:
đó là yếu tố giác ngộ của tinh tấn. Ta cảm nhận được sự tràn
đầy tinh tấn của tâm để đảm nhận bất cứ trách
nhiệm gì và tinh tấn trở thành đối
tượng tâm thức của chánh niệm. Tâm vẫn hoạt động nhưng rất thư giãn.
Thiện ý phát khởi để tâm đầy nhiệt huyết luôn
nẩy sinh. Bạn càng đầy nhiệt huyết để
khám phá sự thật, bạn càng cảm thấy tự tại, gần như là hỷ lạc. Bạn
cảm thấy tự tại vì bạn không còn chống đối
thực tại nữa. Do đó yếu tố hỷ của giác ngộ trở thành
đối tượng chánh niệm mới.
Hỷ mang đến sự tự tại, rồi tự tại đưa đến
hạnh phúc. Hạnh phúc mang lại khinh an. Do đó khinh an phát sinh như là
một yếu tố của giác ngộ. Tiếp tục nhận ra
được cùng một chân lý, ở mọi cấp độ,
trong mọi kinh nghiệm mà bạn có thể trải qua, bạn trở nên thư giãn.
Cái tâm đã từng luôn ở trong dòng
chuyển động xung đối giống như lá cờ
trên đỉnh núi. Giờ sự xao động đã lắng
xuống. Thanh tịnh đã có mặt. Định mạnh
mẽ và sâu lắng phát khởi. Trước đó có thể bạn cũng đã đạt định sâu xa,
mãnh liệt; ở đây cũng vậy. Nhưng giờ thì tâm đã chín muồi, và bạn có thề
sử dụng định này để đạt đến các tầng giải thoát. Do đó định trở thành một
yếu tố của giác ngộ. Tất cả các yếu tố đều hoàn toàn hòa
hợp – niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an,
định và xả. Ở giai
đoạn này, yếu tố xả của giác ngộ chiếm
ưu thế. Nhìn bất cứ điều gì phát sinh
trong một trạng thái tâm không phân biệt, ổn
định, xả, sẽ thanh tịnh hóa từng chi phần. Trước đây, lúc nào trong
ta cũng có một vài ước muốn vi tế rằng sự vật phải khác hơn chúng là. Thí
dụ, bạn nghĩ, "Tôi muốn điều tốt đẹp này
sẽ kéo dài." Ước muốn vi tế đó chấm dứt khi
tâm ở trong trạng thái xả ly.
Khi tự tính vô thường của vạn pháp đã
trở nên rất rõ ràng, ta không còn hy vọng rằng giây phút kế tiếp sẽ khác
đi. Khi bản chất không như ý, khổ của
pháp bắt đầu trở nên rõ ràng, ta không
còn ước muốn rằng giây phút kế tiếp sẽ được
như ý. Khi bản chất vô ngã, không thể kiềm chế, không có cá thể của
vạn pháp trở nên rõ ràng, ta không mong đợi
rằng giây phút kế tiếp có thể khác. Do biết xả ly, tâm không còn
dấu vết nào của lòng ham muốn, muốn nhìn mọi vật bằng cách nào khác hơn
như chúng là. Tâm hoàn toàn thể nhập với chân lý.
Đó là cách Tứ Diệu
đế và thất giác chi vận hành cùng
nhau. Bạn nhìn thấy khổ như nó thực sự là. Bạn nhìn thấy nguồn gốc của khổ
đúng hệt như nó thực là. Bạn cũng nhìn
thấy sự đoạn diệt khổ đúng như nó là.
Và con đường giải thoát khổ mà bạn
đã tiến bước cho
đến bây giờ -con đường đó, bạn cũng thấy đúng
như nó thực là. Bất cứ khi nào một yếu tố giải thoát không phát sinh, ta ý thức về
điều đó. Bất cứ khi nào chúng phát
sinh, ta cũng ý thức về điều đó và
dung dưỡng chúng, cho đến khi ta đạt đến mức
độ hoàn hảo. Khi tất cả mọi chi phần của thất giác chi
đã được
viên mãn, là bạn đạt đến niết bàn,
hạnh phúc tuyệt đối, an tịnh tuyệt đối. Chúng
ta có thể đạt được mục đích này ngay trong cuộc
đời này. Khi
được như thế, tất cả khổ đau chấm dứt. Tất cả
mọi câu hỏi đều kết thúc. Tất cả mọi lo âu, sợ hãi, căng
thẳng, bất an đều biến mất, không bao giờ trở lại nữa. Không còn có
sự ham muốn, bám víu vào bất cứ điều gì.
Chúng ta sống trong một sự hòa hợp toàn vẹn, hoàn toàn thăng
bằng. Tất cả mọi giác quan của chúng ta
đã được rèn
luyện, mài dũa. Chúng ta vẫn ăn, uống, nói,
đi, và sử dụng thân tâm, nhưng với tâm
đầy chánh niệm, đầy ý thức. Giới hạnh của chúng ta không khiến ta nghĩ mình
hơn kẻ khác. Thiền định của chúng ta không
khiến ta tự khen mình và chê bai người khác. Tuệ giác tạo cho chúng
ta tình thương yêu, lòng bi mẫn, và tâm hoan hỷ vẹn toàn. Hãy tận hưởng sự
hoàn toàn xả ly, chúng ta không bao giờ còn bị những thăng
trầm của cuộc đời làm ta xao động nữa.
TÓM LƯỢC VỀ SỰ THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM - Chánh niệm là sự chú ý trong từng giây phút
đến việc gì
đang xảy ra. Tâm chánh niệm rất chính
xác, thâm sâu, vững chãi, không tán loạn. Nó giống như một tấm gương phản
chiếu trung thực bất cứ vật gì ở phía trước nó. - Chánh niệm cho ta có được tri giác thể
nhập vào ba đặc tính của tất cả mọi
hiện hữu: vô thường, khổ, và vô ngã. - Ta có thể sử dụng bất cứ đối tượng nào
để phát triển tâm chánh niệm, miễn là
nó sẽ giúp ta đạt được tuệ giác đối với ba
đặc tính (tam tướng) trên. - Mục đích sâu xa của chánh niệm là
để khai mở con mắt tuệ, vì tuệ giác về
bản chất thực sự của thực tại là bí mật cuối cùng của hạnh phúc và hòa
bình vĩnh cửu. - Tứ niệm xứ là phương pháp quán niệm về thân, thọ, tâm, và
đối tượng của tâm.
- Ba cách thực hành chánh niệm căn bản nơi
thân là quán niệm về hơi thở, về tư thế, và về các bộ phận của
thân. - Quán niệm về hơi thở có thể giúp ta rèn luyện sự chú tâm, vì ta dễ
quán sát hơi thở và lúc nào nó cũng có mặt. - Hòa hợp tâm với hơi thở là đặt tâm vào
giây phút hiện tại. Hơi thở cũng hoạt động
như một căn cứ địa để tâm có thể quay về sau khi quán sát các hiện tượng
khác.
- Kinh hành, đi từng bước rất chậm rãi
và đầy chánh niệm có thể là một phương
pháp hành thiền hoàn chỉnh, chứng minh cho ta thấy các tính chất: vô
thường, khổ, và vô ngã có mặt trong từng giây phút như thế nào. Phương
pháp thiền này cũng có thể được dùng
cho các tư thế khác, như là nằm, ngồi, đứng.
- Duy trì chánh niệm về tư thế suốt ngày rèn cho tâm có thể thấy rõ
ràng những đặc tính của năm uẩn.
- Quán niệm về thân như là một tập hợp của bốn mươi hai bộ phận và quy
trình luôn thay đổi cho ta thấy rằng không có
gì thường hằng về cái thân mà ta quá bám víu. - Lạc thọ hay khổ thọ là do thái độ của
bản thân ta, do đó chúng ta có thể dừng lại việc trách móc người khác đối
với việc ta cảm thấy thế nào. - Cả quá trình của khổ đau được dung dưỡng
bằng các phản ứng vô minh của tâm đối với ba loại cảm thọ -bám víu vào
lạc thọ, tránh né khổ thọ, và trải qua ảo giác về "ngã" trong trạng thái
trung tính. - Các "cảm thọ thế tục" sinh khởi từ việc ta theo
đuổi những mục đích tầm thường, chứa đựng các
khuynh hướng tiềm ẩn đối với tham, sân, hay si. Các “cảm thọ xuất thế”
phát sinh từ tuệ giác, không chứa đựng bất cứ khuynh hướng tiềm ẩn nào. - Quán niệm về thọ là một phần của sự thực hành thiền minh sát. Thấy
được sự vô thường của các cảm thọ, chúng ta
tập buông bỏ các trạng thái tiềm ẩn của tham, sân, và si và vun
trồng các cảm thọ xuất thế. - Đức Phật không hề dạy chúng ta "thụ hưởng một cách chánh niệm" các
dục lạc. Ngài dạy chúng ta chánh niệm buông xả những ham muốn đối với các
dục lạc thế tục và tận hưởng các lạc thọ xuất thế được tạo ra bởi sự buông
xả này. - Khi ta vun trồng chánh niệm về tâm, ta ghi nhận sự phát sinh và qua
đi của các trạng thái của tâm như là
tham, vô tham, trạng thái tâm hẹp hòi hay cởi mở, vân vân. - Quán niệm về đối tượng của tâm nghĩa là
ghi nhận sự phát khởi và qua đi của năm
chướng ngại, mười kiết sử, năm uẩn, tứ diệu đế, và các yếu tố giác
ngộ. - Ta có thể xem các yếu tố giác ngộ như là quả của sự thực hành chánh
niệm. Khi chánh niệm của ta sâu sắc, chúng phát khởi theo thứ tự sau
đây: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh
an, định, và xả. - Khi tất cả các yếu tố giác ngộ đã
được viên mãn, ta
đạt được niết bàn, hạnh phúc tuyệt
đối, thanh tịnh tuyệt đối. Chúng ta có thể
đạt được mục đích này ngay trong kiếp sống này. -ooOoo- Bước 8
Chánh định là bước quan trọng cuối
cùng trên con đường đưa đến hạnh phúc (Bát
Chánh Đạo) của Đức Phật. Khi tâm đã khinh an,
định tĩnh, thì những chướng ngại cản
trở hạnh phúc không thể phát khởi. Hơn thế nữa, khi ngồi thiền, chúng ta
có thể trụ tâm định tĩnh trên
đối tượng tâm phát sinh cùng với thức.
Định giúp chúng ta phá vỡ được vẻ bề ngoài
giả tạo của các đối tượng này
để có cái thấy rõ ràng về tính vô
thường, khổ và vô ngã của chúng. Với chánh
định, ta càng tinh tấn hành thiền, và chúng ta
đạt được nhiều tiến bộ trên
đạo lộ.
Thông thường khi chúng ta nói rằng ai đó
đang “định tâm”, ta muốn chỉ đến bất cứ điều gì từ việc
đắm chìm trong một chương trình truyền
hình, đến đăm chiêu trong một ván cờ,
đến hoạch định một tội ác. Nhưng loại định mà
Đức Phật dạy như là một chi phần của
Bát Chánh Đạo có ba đặc tính đặc biệt: thiện,
nhất tâm và sử dụng chánh niệm để phát
triển trí tuệ.
Loại định này không dễ có
được. Cũng giống như các khả năng
khác, ta phải tu tập từng bước mới có được. Tâm phải được rèn
luyện. Có thể phải mất từ vài thời tọa thiền
đến vài năm tinh tấn nỗ lực để phát
triển loại định có tính thiện, nhất tâm, và chánh niệm này. Một khi
đã đạt
được thiền định này, thiền giả phải tiếp tục tu tập các bước cho
đến khi thiền giả có thể đạt được định dễ dàng,
theo ý muốn. Từ lúc đầu, chúng ta đã nói
đến sự quan trọng của việc tìm
được một vị thầy tốt để hướng dẫn ta tu tập.
Một vị thầy có thể dành cho ta nhiều sự giúp
đỡ lớn lao khi ta tu tập để phát triển thiền
định. Khi ta cố gắng để hoàn thiện khả năng
của mình, nhiều câu hỏi có thể phát sinh. Nếu không có thầy tốt,
thì nguồn hỗ trợ kế tiếp là những quyển sách thuần về chủ
đề này. Hơn thế nữa, rất khó cho tâm
an định đủ để đạt được thiền định nếu như ta
tiếp tục phải đối mặt với những vấn đề của cuộc sống đời thường mỗi ngày.
Chúng tôi khuyên quý vị hãy dành một khoảng thời gian nào
đó để thực hành thiền
định, ví dụ như là suốt một tuần khi
quý vị không bị các bổn phận làm gián đoạn.
Dự một khóa tu chuyên sâu về thiền có thể là cách tốt nhất
để bắt đầu.
THIỀN
Không phải tất cả các định đều thiện. Thí
dụ một chú mèo đang chờ đợi để bắt
mồi, đặt tất cả chú tâm vào con mồi. Chú mèo có sự chú tâm rất mãnh
liệt, nhưng nó hoàn toàn không thiện. Tâm
định thiện thì không có tham, sân, hay si. Trong đời sống thường ngày, chúng
ta có thể sử dụng sự chú tâm cao độ để giải
một bài toán, để sửa một chiếc xe, hay
để chuẩn bị cho một món ăn cầu kỳ. Loại chú tâm này có thể là thiện
pháp nếu nó được kích thích bởi những ý nghĩ
thiện như là từ bi, tình thương, hay bi mẫn. Nó sẽ bất thiện nếu
xuất phát từ những trạng thái bất thiện như tham, sân, hay ác
độc. Các trạng thái bất thiện, kể cả năm chướng
ngại, đều có mặt trong sự chú tâm hằng ngày của chúng ta, nhiều hơn
chính ta có thể ý thức được. Thí dụ, khi bạn
cố gắng để giải bài toán đố, có thể do
bạn bị bám víu vào việc muốn có điểm
cao trong kỳ thi; khi sửa xe, bạn có thể ngại công việc dơ bẩn; lúc nấu
bữa ăn cầu kỳ đó, bạn có thể suy nghĩ một cách đầy bực tức về một thành
viên trong gia đình, người sẽ
được hưởng thụ món ăn đó. Loại thiền định do
Đức Phật dạy không có mặt của các chướng ngại này. Khi ngồi thiền cũng thế, nếu ta đạt định
khi có mặt của bất cứ chướng ngại nào, thì
đó cũng là bất thiện. Thí dụ, bạn có
thể phần nào được định khi trải qua chướng
ngại của hôn trầm, thụy miên. Bạn có thể ở trong trạng thái nửa mê,
nửa tĩnh, mơ màng nghĩ đến những điều dễ
chịu. Sau đó bạn có thể ảo tưởng rằng mình
đã ngộ
được điều gì lúc tọa thiền. Đó là
si, không phải là thiện định.
Hành thiền khi tâm đang hờn giận cũng là
bất thiện. Bạn có thể biết việc hành thiền của mình lúc
đó đã sai vì bạn sẽ cảm thấy căng
thẳng, lo lắng, kiệt lực. Có thiền giả còn bị nhức
đầu vì đã
cố ép tâm trụ vào đối tượng thiền quán, mặc
dầu tâm đang sân hận hay bực bội. Những lúc như thế, bạn cần thực
hành chánh tinh tấn để chế ngự các chướng
ngại đó và để tạo nên một trạng
thái tâm thiện trước khi bắt đầu. Lỗi lầm tệ
nhất mà một thiền giả có thể làm là bỏ thì giờ thiền
để nghiền ngẫm về một nỗi mất mát hay những
tâm bất thiện khác. Dĩ nhiên, đem ý
thức chánh niệm đến với các trạng thái này là thiền minh sát tuệ. Do đó bước đầu tiên trong việc
thiết lập chánh định là phải chắc chắn
rằng sự thực hành của ta là thiện bằng cách ngăn
chặn các chướng ngại tấn công tâm. Sau
đây là những điều cần thực hiện thêm
nếu bạn muốn đạt được định khi tọa thiền.
- Trong thời gian ngồi thiền, hãy buông xả tất cả mọi ý nghĩ bám víu
vào hoàn cảnh, tư tưởng, con người, và các thói quen.
Đừng nghĩ đến gia đình, bạn bè, quyến
thuộc, nghề nghiệp, lương bổng, thuế má, sở hữu, hay trách nhiệm. Hãy tự
nhủ: "Ta muốn dành thời gian đặc biệt này
để hoàn thiện bản thân. Ta không muốn
ngồi trên gối thiền này để suy nghĩ về tất cả
những điều bình thường ta vẫn nghĩ. Ta sẽ sử dụng thời gian này
thật tốt." - Đừng lo lắng về những điều gì bạn làm còn dang dở, về những thứ mà
bạn đã làm sai, hay về những lỗi mà bạn có thể phạm với người khác. Hãy
nhớ rằng quá khứ đã qua, và
điều gì đã
làm, không thể làm lại được.
- Hãy dành đôi phút để phát triển những ý
nghĩ về tình thương yêu để khiến tâm
cảm thấy dễ chịu, sảng khóai để có thể
chú tâm hành thiền. Sau đó hít vào
ba hơi thở sâu. - Trụ tâm trên đối tượng thiền quán mà
bạn đã chọn như là hơi thở. - Hãy giữ tâm ở giây phút hiện tại. - Luôn kiên trì nỗ lực để giữ tâm không
tán loạn.
- Nếu một trong năm chướng ngại có mặt,
chế ngự nó bằng cách sử dụng những phương pháp ta đã học. Vun trồng
tâm thiện đối nghịch với bất cứ chướng ngại nào
đang có mặt. Thí dụ, nếu tham có mặt, thì
hãy vun trồng tâm xả. Hãy để tâm trở nên
nhẹ nhàng và trong sáng. - Một khi chướng ngại đã
được chế ngự, hãy hướng tâm trở về với
đối tượng thiền quán đã
được chọn như là hơi thở. - Hãy nhớ, mục đích của thời khóa này
là để thực hành phương pháp thiền. Ở
thời điểm này bạn không nên
đi vào chi tiết của những gì bạn
đã trải nghiệm, mà chỉ giữ tâm trụ
trên đối tượng thiền quán một cách đầy chánh
niệm.
- Sau mỗi lần đạt được thiện định, bạn sẽ
cảm thấy dễ dàng hơn và hăng hái lên.
Không cần biết tâm định thiện đó ngắn ngủi
hay mong manh, yếu ớt dường nào, chính yếu là bạn
đã đạt
được một điều gì đó bằng cách vượt
thắng được những thói quen cũ và chuyển
đổi được tâm.
Trong lúc đang tu tập thiền quán để rèn
luyện tâm, ta nên bằng lòng với bất cứ tầng thiện
định nào mà ta có thể
đạt được. Khi ngồi thiền, tâm định tĩnh nạp
thêm cho ta năng lượng, khiến ta cảm
thấy thăng bằng và bắt đầu có niềm tin
trong việc hành thiền. Hỷ phát sinh vì tâm
định chế ngự các chướng ngại.
Ngay chính trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng phần nào cần
đến tâm thiện định để có thể sống một cách
đạo đức. Tâm thiện định giúp ta trụ vào những ý nghĩ, lời nói, và
hành động thiện và tránh xa
điều bất thiện. Tâm thiện định giúp ta giải
quyết những vấn đề hằng ngày một cách công bằng, với một trạng thái
tâm xả. Điều ngược lại cũng đúng. Ta có thành
công trong việc phát triển tâm định hay
không, tùy thuộc vào một nền đạo đức
vững chắc. Khi cảm nhận của ta về đạo đức tiến bộ hơn, thì tâm
định của ta cũng thế.
Loại thiền định mà chúng ta
đã nhắc
đến từ trước cho đến giờ, có thể gọi “thiện định bình thường." Loại
thiền định này thì tương
đối dễ đạt được. Tuy nhiên, tuệ giác
phát sinh từ thiện định bình thường
này cũng có thể chuyển hóa cuộc sống. Nó giúp bạn tránh xa những ý nghĩ,
lời nói, và hành động bất thiện. Bạn không
muốn làm việc gì có thể cản trở sự giải phóng tâm.
Đó là lý do tại sao
Đức Phật nói rằng tâm thiện định bao trùm
tất cả các trạng thái tâm thiện. Khi Đức Phật còn là thái tử
Siddhattha Gotama, thân phụ của Ngài, nhà vua, ngăn
cản không cho Thái tử thấy bất cứ điều gì khiến Ngài
đi theo con đường tâm linh. Cuối cùng
khi Thái tử nhìn thấy bốn hình ảnh -một người già, một người bệnh, một xác
chết, và một tu sĩ– đó là một bước
ngoặc cho Thái tử. Quán tưởng trên bốn thứ này, Thái tử Siddhattha
đạt đến một trạng thái định. Tuệ tri phát
khởi đối với sự thật về khổ. Vì thế Ngài quyết
định không trở về với cuộc sống đầy dục lạc
nơi cung điện của vua cha mà đi tìm
một giải pháp để giải thoát chúng sanh khỏi
đau khổ.
Điều đó cũng có thể đúng đối với chúng ta. Khi ta quán sát sự vật với
tâm thiện định, thì những thứ bình thường trong đời sống hằng ngày cũng có
thể kích động tâm suy nghĩ sâu xa hơn. Tuệ tri xuất phát từ tâm định tĩnh
này có thể thuyết phục ta rằng ta đã trôi lăn
trong vòng khổ đau đủ lâu rồi và
đây là lúc bắt
đầu một trang mới của cuộc đời ta. Ta
đã có một cái nhìn và tri giác mới về
khổ trong cuộc đời. Ta thấy
được sự mù quáng trong việc chạy
đuổi theo hạnh phúc qua dục lạc; ta thấy
những sự thỏa mãn vật chất phải trả bằng khổ
đau, lo lắng. Ta không còn cố gắng
để biện giải cho sự khổ sở của mình
như là hạnh phúc. Con đường thoát ra khỏi khổ đau cũng trở nên
rõ ràng. Vì tâm định giúp ta nhận ra chân lý
trong lời dạy của Đức Phật, ta cảm thấy có thêm
động lực để phát triển các trạng thái định
sâu sắc hơn để ta có thể đạt được tuệ giác thâm sâu hơn.
CÁC TẦNG THIỀN
Tâm định sâu xa có thể dẫn đến những sự
chứng ngộ sâu sắc nhất được gọi là "thiền
định” hay jhana. Thiền
định thì luôn thiện và nhất tâm. Tuy
nhiên hãy nhớ rằng tâm định này vẫn
chưa phải là chánh định nếu chánh niệm không
có mặt. Với tâm định viên mãn, mức tiến triển
đến giác ngộ của ta được tăng tốc.
Ở đây chúng ta nói về định với một ý nghĩa
rất đặc biệt. Mỗi khi tâm trụ trên bất cứ
đối tượng nào, dầu không quan trọng,
định cũng phát sinh. Nhưng thường ta chỉ nhìn
thấy bức tranh toàn cảnh, chứ không để ý đến
từng chi tiết làm nên cảnh ấy. Thí dụ, khi
đọc sách, mắt nhìn vào một chữ rồi chữ
kế tiếp, hay từng câu, rồi câu kế tiếp, sau
đó những thông tin này được chuyển lên
não. Chúng ta không đọc từng chữ cái một.
Tâm quá nhanh và khả năng chú tâm quá mãnh
liệt đến nỗi chúng ta nhìn
được cả câu hay cả dòng một lúc. Nếu làm chậm quy trình đó lại, chúng ta có
thể ý thức về từng sát na của định. Mục đích của công phu tu thiền là
để duy trì sự tĩnh thức
để tâm định có thể chuyển vào từng sát
na tâm kế tiếp, liên tục không gián đoạn. Tuy
nhiên mức độ tĩnh giác này rất
khó. Từng sát na tâm quá nhỏ đến nỗi gần như
ta không thể tưởng tượng ra.
Có người xin Đức Phật cho một thí dụ về
sát na của tâm. Ngài trả lời rằng Ngài không thể cho một thí dụ
nào. Ngài nói rằng không thể diễn tả được sự
nhanh chóng, thoáng chốc của từng sát na. Tuy nhiên, giả sử có một
màng nhện rất nhỏ, rất mong manh, và bạn muốn mang cây nến
đến đốt. Bạn cần bao lâu
để đốt màng nhện
đó? Gần như cây đèn vừa
được đưa đến gần, màng nhện
đã cháy.
Đức Phật dạy rằng trong chỉ một khoảng thời gian ngắn như thế, hàng
ngàn sát na tâm có thể phát khởi, tăng
trưởng, rồi qua đi. Với thí dụ này,
Đức Phật muốn diễn tả rằng sự nhanh nhạy của tâm thì gần như không
thể nghĩ bàn. Mỗi sát na tâm thoáng qua này bao gồm ba sát na còn ngắn ngủi hơn nữa:
giây phút phát khởi, giây phút viên mãn, và giây phút hoại diệt. Ngay sau
giây phút hoại diệt, một sát na tâm khác lại phát khởi, theo cùng một quy
trình như thế. Ba tích tắc sát na ngắn này tạo nên một sát na tâm toàn
vẹn. Tâm định phát sinh với chỉ một số sát na
tâm – có thể là một trong cả tỷ sát na. Tâm
định viên mãn có thể nhìn xuyên suốt
đến tận mức độ khi mỗi sát na tâm phát khởi,
viên mãn, rồi hoại diệt. Một khi ta đã
quán sát trực tiếp được sự phát khởi và
qua đi của từng sát na tâm, chúng ta không còn
nghi ngờ sự thật về tính vô thường của vạn pháp, và chúng ta phải buông xả
thôi. Đó là lý do tại sao chúng ta cần
một tâm định viên mãn
để có thể nhìn thấy thực tại rõ ràng
để đạt được giác ngộ.
Thiền định viên mãn gồm có một số
giai đoạn hay tầng lớp. Đúng ra, có tám tầng
thiền định (bát định) hay jhana mà người chưa giác ngộ có thể
đạt được, và bất cứ tầng thiền
định nào cũng có thể
được sử dụng để đạt được giác ngộ. Tuy nhiên
để đơn giản hóa, chúng ta sẽ chỉ nói về bốn
tầng thiền định đầu tiên. Ít nhất phải đạt được tầng thiền định thứ
nhất mới có thể phát triển tâm lực cần thiết để tuệ giác mọi thứ như chúng
thật sự là. Với sự chứng đạt được từng
bậc của ba tầng định kế tiếp, ta sẽ dễ dàng nhận ra chân lý hơn. Ở
tầng thứ hai, tâm định được cải thiện hơn do
sự vắng mặt của quá trình suy tưởng. Ở tầng thứ ba mức
độ chánh niệm trở nên mãnh liệt hơn,
và ở tầng thứ tư càng nhiều hơn nữa, tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh với
sự có mặt của xả. Tầng Thiền Thứ Nhất Để đạt được sơ thiền, tâm phải không còn chướng ngại và thiết lập được
thiện định. Sau đó năm yếu tố tâm thức (thiền chi) phải cùng có mặt:
‘tầm", "tứ", hỷ, lạc và định. Bất cứ một trong năm thiền chi này
có thể phát khởi, đơn độc hay cùng với
nhau, tùy theo những điều kiện khác nhau.
Thí dụ, lạc phát khởi khi vắng mặt sân. Khi hôn trầm qua
đi, “tầm” có thể phát sinh. Khi trạo
hối không có mặt, ta có hỷ. Bất cứ khi nào ta có
được giây phút của thiện định, hỷ sẽ phát
sinh do sự vắng mặt của năm chướng ngại, và một vài thiền chi khác
cũng có thế xuất hiện. Thật là một cảm giác tuyệt vời với sự có mặt của một trong năm
thiền chi này. Bạn có thể tưởng rằng mình
đang ở cực lạc. Nhưng cảm giác tuyệt
vời này không phải là thiền chứng, ngay cả khi tình cờ các yếu tố này cùng
phát khởi, từng cái một. Phải tuân theo một hệ thống nhất
định mới có thể chứng được sơ thiền.
Phương pháp này bắt đầu bằng thiện định bình
thường. Niềm vui bạn tìm được trong trạng
thái này sẽ đưa đến lạc. Hỷ và
lạc là hai tình cảm khác nhau. Hý phát khởi trong sự chờ
đón đầy hy vọng về lạc. Lạc phát sinh
từ sự hài lòng là niềm hy vọng của mình đã
thành sự thật. Đây là một ẩn dụ có thể giúp ta phân biệt giữa hỷ và lạc.
Bạn đang đi trên một sa mạc. Không
có nước hay bóng cây -chỉ có cát. Bạn bước tới, mệt mỏi và khát. Bỗng thấy
một người đang đi tới tóc tai ướt đầm nước.
Quá vui mừng, bạn hỏi, “Nước ở đâu vậy?”
"Có một ốc đảo ngay phía trên kia." Bạn tiến về ốc đảo. Đầu tiên khi
nhìn thấy nước từ xa, bạn cảm thấy rất mừng (hỷ). Càng
đến gần hơn, niềm vui (hỷ) của bạn tăng
trưởng. Rồi bạn nhảy vào nước. Bạn uống nước. Bạn nhảy nhót dọc
theo bờ nước, cảm thấy thật mát mẻ, sảng khóai. "Ôi thiệt là lạc thú! Lạc
chính là đây.”
Người ta thường đồng hóa lạc (happiness)
với sự hưng phấn (excitement). Thí dụ, ai đó vừa trúng số độc đắc. Người
đó sẽ biểu lộ sự phấn khởi bằng cách la hét, nhảy lên nhảy xuống,
ôm nhau, khóc, cười. Người đó nghĩ “Ta cảm
thấy thật (hỷ) lạc!” Nhưng cảm giác đó không phải là lạc thật sự.
Đó là sự phấn khích. Khi an lạc thật
sự phát sinh, niềm hưng phấn sẽ biến mất và bạn cảm thấy thư giãn, bình
an. An lạc thật sự dẫn đến định tĩnh. Khi tâm
đã trầm lắng, dĩ nhiên nó trở nên định
tĩnh hơn. Khi tâm định của bạn sâu lắng hơn bạn có thể tiến tới việc rèn
luyện để tâm đạt đến an chỉ định với những
bước sau đây:
- Giữ tâm luôn trụ nơi hơi thở hay bất cứ
đối tượng thiền quán nào. Không nên, ở thời
điểm này, quay ra quán sát các
đối tượng khác khi chúng phát sinh như là
âm thanh hay tư tưởng. Hãy buông bỏ bất cứ thứ gì phát sinh, và trở lại
với hơi thở. Hãy lặp đi lặp lại điều này,
cho đến khi tâm không còn quan tâm
đến thứ gì khác và trụ nơi
đối tượng thiền quán.
- Dần dần hơi thở hay một đối tượng thiền
quán nào khác mà ta đã chọn có
vẻ qua đi và
được thay bằng một bản sao của nó.
Hình ảnh tâm linh hay cảm thọ đó –
được gọi là "định tướng" (sign of concentration), trở thành một đối tượng
thiền quán mới của bạn, và bạn trụ vào đó. - Khi hình ảnh tâm linh đó cũng qua đi và
tâm trú vào chính nó, là bạn đã
đạt được đến tầng thiền định thứ nhất (sơ
thiền).
- Điều này xảy ra như thế nào? Khi thiện định sâu lắng hơn, tâm dần dần
không còn quan tâm tới gì khác, mà chỉ trụ vào đối tượng thiền quán, như
là hơi thở. Khi ta tiếp tục chú tâm vào đối
tượng này, nó trở nên quá vi tế đến
nỗi ta không còn để ý đến nó chút nào.
Nhưng ở điểm của sự chú tâm, như là
đầu mũi, sự ghi nhớ về hơi thở hay đối tượng
thiền quán khác vẫn tiếp tục. Sự ghi nhớ này trở nên là một cảm thọ
rất dễ chịu được gọi là "định
tướng”. Tướng này có thể xuất hiện như là một hình ảnh, ánh sáng,
hay như một sự xúc chạm nhẹ nhàng. Hình ảnh tâm linh này xuất hiện như thế
nào tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Dầu tướng đó hiện ra như thế nào,
hãy trụ vào đó. Hãy sử dụng cùng một
tướng mỗi khi bạn thiền quán. Đừng chia sẻ
với ai về tướng đó. Tướng của mỗi người
đều khác, và ta có thể khiến người
khác hoang mang. Lúc bắt đầu hành
thiền, hơi thở vào, hơi thở ra của bạn là đối
tượng thiền quán. Giờ bạn sử dụng tướng kia như là
đối tượng thiền quán. Đức Phật đã
khuyến khích đệ tử của Ngài "thực
hành, phát triển, và sửa đổi,” tướng. (A IV
(9) IV.4) Thực hành để đạt được định
tướng nhiều lần, cho đến khi bạn hoàn toàn có thể kiểm soát nó,
để bất cứ khi nào bạn muốn chứng
nghiệm nó, thì tướng đó sẽ xuất hiện và
bạn có thể hòa hợp tâm bạn vào đó. Khi định tướng lần đầu tiên xuất
hiện trong lúc ta đang hành thiền, thì
nó có vẻ tĩnh tại. Do đó định có thể phát
sinh dựa trên đó. Nhưng khi đặt tất cả
sự chú tâm vào tướng đó, ta bắt đầu
thấy rằng tướng đó tự nó thay đổi từng phút giây. Dần dần, giống như tất
cả mọi hiện tượng tùy duyên khác, tướng tự nó sẽ hoại diệt. Khi
tướng cũng biến mất, tâm không còn đối tượng
nào khác ngoài chính nó để trụ vào,
vì thế tâm trú định trong chính nó. Vào
giây phút đó, “tầm” xuất hiện một cách ngắn
ngủi. Đó là sự bắt đầu của sự nhất tâm
thiện.
Khi tầm được duy trì khoảng vài
giây, "tứ" có thể phát khởi. Giờ thì tâm trụ vững chãi vào
đối tượng. Vì tâm không còn lang thang
đây đó, một trạng thái hỷ vi tế hơn xuất
hiện, và tiếp ngay sau đó bởi một
trạng thái lạc vi tế hơn. Bốn thiền chi này khởi
động thiền định. Giờ năm thiền chi của sơ
thiền -tầm, tứ, hỷ, lạc, và định- cùng
vận hành với nhau như một. Người ta thường hỏi tôi, "Làm sao tôi biết là tôi
đã đạt
được sơ thiền?” Câu trả lời rất đơn giản: như chúng ta đã nói trước
đó, chỉ khi nào tất cả năm
thiền chi cùng vận hành nhịp nhàng với nhau thì lúc
đó ta mới có thể nói rằng ta đã chứng
được tầng thiền thứ nhất hay Jhana.
Hãy tưởng tượng rằng bạn đang tìm kiếm
một cầu vòng. Trước khi tìm được cầu vòng,
bạn có thể thấy màu đỏ ở đây, màu xanh
đằng kia, hay một màu hỗn hợp. Chúng
có thể là những gam màu đẹp tuyệt vời. Nhưng
đó không phải là hiện tượng của một cầu vòng. Chỉ
đến khi đúng lúc ánh sáng mặt trời phản chiếu
vào mây, tạo nên một vòng cung xuất hiện với tất cả các màu sắc xếp
đặt theo một cách mà chúng phải là,
thì bạn mới có một cầu vòng. Tương tự, chỉ
đến khi ta có đủ duyên, và tất cả năm
thiền chi đều xuất hiện, nếu không ta chưa chứng được thiền.
Một số người có ý nghĩ rằng tâm định phải
trống rỗng. Họ tưởng tượng tâm của thiền giả phải không có cảm giác -giống
như một hòn đá. Không có gì sai
sự thật hơn thế. Tâm chứng thiền không ngưng
động mà sôi động. Trong sơ thiền, tâm
có được đặc tính mãnh liệt sau đây:
- Xả, một cảm giác cân bằng, không khó chịu mà cũng không dễ chịu. - Thanh tịnh, không quan tâm với bất cứ
điều gì trên thế giới, như là chính trị hay tình yêu. - Nhất tâm. - Các trạng thái tâm của xúc, thọ, tưởng, hành và thức. - Tinh tấn, quyết định, năng lực và
chú tâm. Tâm định trú trong chính nó tạo ra một nội
lực mạnh mẽ. Giống như một hồ nước xoáy, tạo ra một cột nước mạnh
hơn bao giờ hết bằng cách vận hành trên chính nó. Nội lực mạnh mẽ này
được gọi là "định
lực”. Hãy nghĩ đến, thí dụ, nguồn năng
lượng của thủy điện. Khi một
lượng lớn nước chảy qua một lỗ thoát nhỏ, lực nước bị dồn nén rất mãnh
liệt đến nỗi nó có thể làm chuyển
động trục quay để tạo ra đủ năng lượng thắp
sáng một thành phố. Đó là do
dòng nước đó không chảy lan tõa
đến các đối tượng bên ngoài, thì năng
lượng của nó được tích tụ bên trong. Tương tự, khi tâm không bị chi
phối bởi một đối tượng ở bên ngoài hay
bên trong, tâm sẽ thâu tụ năng lực vào
chính nó. Sau đó tâm cũng giống như nước bị
đẩy ra một lỗ thoát nhỏ. Lực định của tâm lớn đến nỗi nó có thể quán sát
trực tiếp tính vô thường ở mức độ cơ bản nhất, chi tiết nhất, vi tế nhất,
của thân và tâm. Tâm chứng thiền là một trạng thái thiện của sự
nhất tâm như thế. Tâm định mãnh liệt này không giống
như khi tâm bị "dính" vào đối tượng thiền
quán. Đó sẽ là bám víu, sẽ khiến tâm dao
động. Tâm định đó không phải là tâm
hòa hợp với đối tượng; đó là tâm hòa
hợp với chính nó. Đối tượng chỉ được dùng
như là một đòn bẩy
để vào tâm. Nếu tâm chấp vào một
đối tượng, đó không phải là thiện;
đó là tâm
định với sự bám víu. Tiếc thay, đó là
loại thiền mà một số thiền giả thực hành, nhưng nó không thể mang
đến sự giải thoát.
Lần đầu tiên khi bạn chứng
được sơ thiền, bạn sẽ tràn
đầy niềm hỷ lạc đến nỗi các trạng thái tích
cực này có vẻ như là một bộ phận không thể tách rời của thân. Giống
như muối hòa tan hoàn toàn vào nước đến nỗi
ta không còn có thể phân biệt muối và nước. Tương tự, khi toàn thân
ta tràn đầy hỷ lạc, ta không thể tách biệt
các cảm giác này và cảm giác nơi thân. Cảm giác an tĩnh thật tuyệt
vời đến nỗi bạn muốn ở trong trạng thái định
này mãi mãi! Tầng Thiền Thứ Hai Sau khi đạt được tầng thiền định thứ nhất
(sơ thiền), tôi khuyên bạn không nên cố gắng
đạt được tầng thiền định thứ hai (nhị thiền)
ngay lập tức. Đó là một việc làm khá dại dột, là một tham vọng tâm
linh vô ích. Trước khi đạt được nhị thiền,
bạn phải hoàn thiện sơ thiền. Nếu quá nôn nóng thì chắc rằng bạn sẽ
không đạt được nhị thiền mà còn có thể
đánh mất khả năng chứng sơ thiền trở lại.
Đức Phật đã so sánh một thiền giả quá nôn nóng như thế với một con bò
khi vẫn còn chưa quen thuộc với cánh đồng cỏ này, đã đi sang các cánh đồng
khác. Vì thế, con bò dại khờ này bị lạc trong các hang núi, không có
đồ ăn, nước uống và không thể tìm
đường trở về nhà.
Đây không phải là lúc
đi tìm niềm hưng phấn mới.
Đây là lúc phải kiên nhẫn rèn luyện
tâm. Do đó, khi bạn chứng được tầng thiền thứ
nhất, bạn cần nhớ lại mình đã
làm gì để đến được đó. Đây là nơi bạn
cần đến tâm chánh niệm của mình. Chánh niệm giúp bạn nhớ lại những bước
bạn đã thực hành. Nếu tâm
định ấy xảy ra cho bạn một cách bất ngờ, bạn
không nhớ mình đã tu tập, thực
hành như thế nào, thì đó thực sự không phải là
thiền chứng. Có thể một vị thầy nào đó cho là
bạn đã chứng
được một trong các tầng thiền. Hãy tự
mình thử nghiệm lại điều này.
Đừng dễ dãi nghe theo những ý kiến mà
người khác có thể tự do tuyên bố. Sau khi đã quán xét lại các bước tu
tập, sau đó bạn quyết định với tâm chánh niệm
chứng sơ thiền lần nữa, quyết định duy trì trạng thái tâm
định này lâu hơn, và quyết
định khi nào trạng thái này sẽ chấm
dứt. Sau khi đã lập ra ba quyết
định này, bạn sẽ thực hành theo các
bước cần thiết để chứng được sơ thiền nhiều
lần.
Khi lặp đi lặp lại quá trình này
nhiều lần, ta sẽ không còn quan tâm đến tầm và
tứ nữa. Sự thay đổi này có thể xảy ra
trong một hay nhiều thời khóa thiền. Thí dụ, bạn
đã chứng
được sơ thiền năm chục lần, mà mỗi lần chứng thiền bạn lại thấy bớt
quan tâm đến tầm và tứ. Rồi, trong lần
chứng thiền thứ năm mươi mốt, bạn hoàn
toàn bỏ qua hai yếu tố này, không chú tâm gì
đến chúng vì bạn đã hoàn toàn
đánh mất sự hứng thú đối với chúng. Ngay giây
phút điều này xảy ra, hai chi thiền đó
biến mất, có nghĩa là bạn đã
chứng tầng thiền thứ hai (nhị thiền). Trong nhị thiền, không còn có những suy nghĩ khiến tâm bị quấy nhiễu và
cản trở sự nhất tâm. Các thiền chi còn lại là nhất tâm, hỷ và lạc mạnh mẽ
hơn. Hỷ và lạc trong nhị thiền ít hào nhoáng và nhiều vi tế hơn, vì nó
không còn dựa vào việc tâm cảm thấy tự tại vì
đã loại trừ được các chướng ngại.
Giờ hỷ và lạc được dựa trên
định. Một cảm giác tự tin mới mẻ cũng có mặt
do thành quả mà bạn đã
đạt được cho tới giây phút ấy -tự tin vào
khả năng có thể tiến bộ của mình, tự
tin vào phương pháp, và tự tin vào giáo lý của
Đức Phật. Định cũng được tăng thêm sức
mạnh. Hãy tưởng tượng một hồ nước mát mẻ do nước từ một mạch suối ngầm trong
lòng đất trào lên. Dòng nước trong
lành từ mạch suối hòa lẫn với dòng nước mát lạnh của hồ, làm nước hồ luôn
sạch mà không bị xáo trộn. Tương tự, trong nhị thiền, niềm hỷ lạc thanh
cao do định mang tới tiếp tục dâng trào
trong tâm. Tâm được tưới tẩm và thân
hoàn toàn ngập tràn trong hỷ lạc. Tầng Thiền Thứ Ba Sử dụng cùng một quy trình như trên, hành giả tái lập tầng thiền
định thứ hai nhiều lần. Lần đầu tiên
khi đạt được nhị thiền, niềm hoan hỷ mà
ta cảm nhận được thật tuyệt vời và mới
mẻ. Tuy nhiên sự lặp đi lặp lại khiến niềm
vui trở thành đơn điệu. Dần
dần, ta bắt đầu lơ là với nó. Vì thế
chi thiền hỷ cũng dần qua đi. Ngay
giây phút hỷ rời khỏi tâm ta, ta chứng tam thiền. Xả và định trở nên mạnh mẽ hơn.
Điều này khiến tâm chánh niệm của ta trở nên vững chãi, mạnh mẽ hơn. Tâm
ta tràn ngập lạc ở một mức độ sâu xa và
vi tế hơn. Thí dụ hãy nghĩ đến một hồ đầy hoa
lục bình nở trong nước. Những bông hoa này sinh ra trong nước, sống
dưới nước và được nuôi dưỡng bởi độ sâu của
nước. Chúng hoàn toàn thấm đẫm nước, bên
trong cũng như bên ngoài, mọi tế bào của chúng chứa
đầy nước. Tương tự, ở tầng thiền thứ ba, thân
ta hoàn toàn thấm đẫm và tràn
ngập lạc. Trong nhị thiền, phần nào có sự hoạt
động, sự phấn khích, giống như sự di chuyển
của dòng nước suối tươi mát đổ vào
hồ. Nhưng ở tầng thứ ba này, ta không cảm thấy có nhu cầu phải
được tưới tẩm bởi lạc đến từ bên
ngoài. Tâm lạc vi tế có đặc tính của tĩnh
lặng vì lạc đã hoàn toàn tràn
ngập thân tâm. Tầng Thiền Thứ Tư Giống như các lần trước, hành giả lập lại tầng thiền
định thứ ba nhiều lần, cho đến khi hành
giả cũng không còn quan tâm đến lạc nữa. Khi
lạc đã qua đi, tâm chánh niệm trở nên
càng trong sáng hơn do sự có mặt của xả -cảm giác không khổ cũng không lạc
của một sự cân bằng tình cảm hoàn hảo. Hành giả sẽ nhận thấy rằng chánh
niệm và xả còn thanh tịnh hơn là lạc. Và khi
đã hoàn toàn buông bỏ lạc, hành giả bước vào tầng thiền
định thứ tư (tứ thiền), nơi chánh niệm được
thanh lọc bởi năng lực của xả. Ta nhớ lại rằng trong tam thiền cũng có mặt
của xả, nhưng vì ta chưa buông bỏ được
lạc, nên xả chưa đủ mạnh để thanh lọc
chánh niệm.
Ở tầng thiền định thứ tư (tứ thiền), tâm
hoàn toàn lắng đọng, an định và
vững chãi. Vì tất cả các trạng thái tâm tiêu cực
đã được
chế ngự, tâm không còn bị lay động.
Tâm trong sáng, rõ ràng bao phủ toàn thân ta như một tấm vải trắng,
sạch, mềm mại quấn quanh thân. Tấm vải sạch ấy mềm mại
đến độ ta gần như không cảm nhận được nó;
nhưng nó che chở ta khỏi nóng, lạnh, gió, côn trùng. Tương tự khi
tâm trong sạch, rõ ràng, thì không có gì có thể khiến nó trở nên bám víu
hay sân hận. Tâm duy trì được trạng thái xả
ly. Ngay nếu như thân có bị côn trùng cắn rứt, bị nóng, hay bị
lạnh, tâm vần không bị ảnh hưởng. Ngay cả khi có ai
đó kéo áo ta, bắt chuyện, tâm vẫn không quan
tâm đến sự phá rối này, vẫn giữ được
định và không lay động.
Vào thời điểm này, hành giả
đã biết
được sức mạnh thực sự của định. Tâm đã
được củng cố, trở nên trong sạch, rỡ
ràng, thoát khỏi chướng ngại và vững chãi. Tâm nhu nhuyến nhưng bình tĩnh,
mạnh mẽ và sắc bén trong nhiệm vụ quan trọng nhất của nó. Khi hành giả chú
tâm định đó vào một
đối tượng, hành giả sẽ nhín thấy nó
như nó thực là. Nói một cách khác, tâm an
định viên mãn đó có thể nhìn
xuyên suốt vào bản chất thực sự của thực tại. Bốn tầng thiền định quá tuyệt vời đến nỗi
ta có thể muốn đắm chìm trong đó để
tận hưởng an lạc, mà không màng đến
việc hướng tâm đến tuệ giác. Tuy nhiên, nếu hành giả chỉ lo ‘an
lạc’ mà không phát triển các phương cách để
sử dụng tâm định, thì hành giả đã
hạn chế sức mạnh của định. Tâm
định của hành giả vẫn là thiện, và
không có gì sai trái với điều đó.
Nhưng nếu hành giả không sử dụng tốt tâm định
của mình thì cũng giống như được tặng
một con ngựa đua nhanh nhất thế giới đã
được huấn luyện chu toàn, mà chỉ dùng
nó để đi dạo quanh khu phố. Tâm thiền
chứng cũng là một công cụ quá quý giá, không nên uổng phí. Nếu trong
định, hành giả sử dụng chánh niệm
để quán sát thực tại, định lực ấy có thể giúp
hành giả đạt được giải thoát.
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH ĐỊNH
Có ba thái độ tốt nhất khi hành
thiền. Đầu tiên là bắt đầu thời thiền bằng nỗ lực để chứng thiền. Một khi
đã đạt
được điều đó, hành giả sử dụng định để
hành minh sát. Đó là hành giả sử dụng định để quán sát về tính vô
thường, khổ và vô ngã (tam tướng) của sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Phương cách thứ hai là bắt đầu thời khóa
thiền với minh sát quán. Khi hành giả hành thiền minh sát thì bất
cứ khi nào một đối tượng phát khởi, hành
giả sẽ quán sát cho đến khi nó qua đi, quán
sát tính vô thường, khổ và vô ngã của nó. Sau
đó hành giả thư giãn rồi trở về với
đối tượng thiền quán ban đầu, như là
hơi thở. Mỗi lần trở về với hơi thở, thì tâm lắng sâu hơn. Nếu chướng ngại
có sinh khởi, hành giả chế ngự nó, điều đó
cũng giúp tâm lắng sâu. Khi tâm loạn
động dần yên tĩnh, hành giả sẽ không còn quan tâm
đến những đối tượng mà trước
đây vẫn lôi kéo tâm chạy theo chúng.
Các đối tượng này nhẹ nhàng qua
đi trong tâm thức. Dần dần tướng
định xuất hiện, theo sau bởi tầm và
tứ, rồi cuối cùng định xuất hiện theo như đã
diễn tả ở trên. Trong trạng thái định đó, hành
giả tiếp tục minh sát, quán sát tính vô thường, khổ và vô ngã của sắc,
thọ, tưởng, hành và thức. Phương cách thứ ba là bắt đầu hoặc bằng
thiền minh sát hoặc nỗ lực đạt định, và chuyển qua, chuyển lại giữa
hai cách này. Thí dụ, ta bắt đầu bằng cách
chú tâm vào hơi thở, không quan tâm
đến các đối tượng khác trong nỗ lực đạt định. Nếu không thành công,
tâm trở nên bực bội, và ta sử dụng thiền minh sát
để quán sát những chuyển đổi trong cảm xúc
bực bội. Khi cảm giác này qua đi, ta
xét xem có chướng ngại nào khác xuất hiện. Khi tâm
đã vừng chãi, ta trở về quán sát hơi
thở sâu lắng hơn, không quan tâm đến các đối
tượng nếu chúng phát khởi, và lại nỗ lực
để đạt định. Do
đó trong phương cách thứ ba này, sự
chú tâm và chánh niệm kết hợp nhuần nhuyễn với nhau
để dần mang đến định sâu lắng và khiến
tuệ giác thêm sắc bén. Rồi có một ngày, khi tuệ giác hầu như
đã hoàn thiện khả năng
thấy biết, và định gần như đã
viên mãn, cả hai sẽ hòa nhập. Do đó dầu bạn hành thiền bằng
phương cách nào, niệm và định, được sử dụng
một cách thiện xảo, rồi cũng hòa hợp, vận hành cùng nhau. Nếu khi
ngồi xuống chiếu thiền, bạn thấy rằng các chướng ngại có thể dễ dàng
được điều phục và tâm không tán loạn,
thì bắt đầu bằng thiền chỉ tốt hơn.
Trái lại, nếu tâm loạn động, không thể bắt nó
yên ngay lúc đầu, thì bạn không
nên cố gắng phát triển định mà nên bắt
đầu bằng thiền minh sát. Hay chuyển
đổi hai phương cách này qua lại. Bắt
đầu bằng phương cách nào tùy thuộc vào
trạng thái tâm của bạn lúc đó.
Dầu bạn bắt đầu bằng phương cách nào,
một khi niệm và định đã kết hợp với
nhau, bạn cần sử dụng chúng để diệt trừ ba
kiết sử đầu tiên. Đã biết được mọi vật đều không có tự ngã, bạn
không còn tin vào một cái ngã thường hằng, bất biến. Bạn sẽ thấy giới cấm
thủ thật vô nghĩa lý. Nhận chân được Tứ Diệu
Đế rõ ràng hơn bao giờ hết và không còn nghi ngờ gì vế con
đường đến giác ngộ của Đức Phật.
Hãy sử dụng tâm định giống như tia laser
để đốt cháy một vật cứng. Để nhắm tia laser chính xác, bạn phải
dùng đến mắt nhìn. Nếu chỉ lo nhìn quanh quất, bạn không thể nhắm chính
xác, cuối cùng thì vật không cần đốt bị đốt,
hoặc là không có gì bị đốt cả.
Và dĩ nhiên là nếu bạn không bật nút laser lên, thì dầu bạn có ngồi cả
ngày cũng không đốt được vật gì! Trong ẩn dụ này, đôi mắt giống như tuệ
giác. Tia laser là tâm định.
Tuệ và định vận hành cùng nhau. Không
có tuệ, thì tia sáng của định cũng sẽ vương
vải, hoặc nhắm sai đối tượng. Không có tia sáng của
định, thì con mắt tuệ dầu có nhìn thấy
đối tượng cũng không thể đốt cháy nó được.
Chúng ta muốn đốt cái gì? Uế nhiễm.
Tâm bất thiện. Chúng ta cần phải nhìn thấy chúng bằng con mắt tuệ và hủy
diệt chúng bằng tâm định.
Như thế, một khi bạn đã
đạt được chánh định, bạn sẽ nhắm vào
đối tượng nào? Bạn nhắm nhất tâm thiện
vào sự biến đổi không dừng của các thành
phần cấu tạo nên thân và tâm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bạn chú tâm
đến tính vô thường, khổ và vô ngã của
các thành phần này. Khi bạn chú tâm đến một
trong các thành phần này, bạn nhận ra rằng tất cả
đều biến đổi. Bạn thấy
được sự liên hệ giữa vô thường và khổ
do sự bám víu của bạn vào các dục lạc chóng qua. Nhận ra được tính vô thường, khổ và
vô ngã của sắc, thọ, tưởng, hành và thức là nhiệm vụ chính yếu của thiền
minh sát. Khi nhiệm vụ đó hoàn thành,
bạn sẽ được giải thoát khỏi việc bám víu vào
các uẩn hợp thành thân và tâm. Không còn gì
để bám víu vào, bạn được giải thoát.
Khi các thiền giả vun trồng đủ định và
niệm. Họ có thể lần trở lại trong tâm những hình ảnh của các sự kiện, thời
gian, suy nghĩ, và hành động trong quá khứ
cho đến khi họ nhận ra được sự kết nối giữa dòng chảy không dừng
dứt trong hiện tại và các sự kiện, suy nghĩ, và hành
động trong quá khứ. Sợi dây nối kết này
là tham ái và vô minh. Họ tự nhận ra sự liên hệ giữa vô thường, lòng tham
ái đối với vật chất vô thường, và khổ.
Tuệ giác thậm sâu của vị thiền giả cũng nhận biết
được tất cả mọi tiêu cực trong mọi
khía cạnh và chúng phát sinh thế nào và tại sao. Tuệ giác nhận thức
được rằng tất cả mọi tiêu cực
đều đến từ sự bám víu; và sự bám víu
này có thể chấm dứt, bằng cách chấm dứt chính tâm tham của mình. Qua tuệ kiến này, thiền giả hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp nơi
bản thân rằng mọi thứ đều vô thường,
rằng bám víu vào bất cứ thứ gì vô thường đều
mang đến khổ, và rằng tất cả vạn pháp hiện hữu
đều không có một bản thể thường hằng. Hiểu
được như thế là chúng ta thấy được
cánh cửa đi vào giác ngộ. Ứng Dụng Tâm
Vào đêm giác ngộ,
Đức Phật phát triển thiền định mạnh mẽ không
phải để rồi thôi mà Ngài mang nó ra ứng dụng. Trong một sát na mãnh
liệt, đầy uy lực, ba chứng ngộ về vô thường,
khổ, và vô ngã, tất cả đã cùng
bùng vỡ và Đức Phật đã
đạt được mục đích của mình. Mang sự chứng thiền ra để sử dụng là
chìa khóa. Alarakarama và Uddaka Ramaputta, hai vị thầy trước kia của thái
tử Sidhattha Gotama (Đức Phật trước khi Ngài
giác ngộ), đã
đạt được định. Tuy nhiên họ
đã không tự rèn luyện
để hướng sự chú tâm của họ vào sắc,
thọ, tưởng, hành, và thức để có thể nhìn
thấy được bản chất thực sự của chúng. Thay vào
đó họ trở nên bám víu vào sự an lạc
của định và nghĩ rằng cảm giác an lạc
đó là giác ngộ. Thái tử Siddhattha Gotama bảo rằng các vị thầy trước
đó của Ngài, giống như Ngài, cũng có
lòng tin, tinh tấn, chánh niệm, định, và
tuệ. Giống như Ngài, tuệ giác đã giúp
họ hiểu được sự nguy hiểm của các chướng
ngại, và sự cần thiết phải chế ngự chúng. Nhưng không giống như
thái tử Siddhattha Gotama, các vị thầy này không biết rằng họ chỉ sử dụng
tâm định để đè nén chướng ngại, không
phải để hủy diệt chúng. Họ không khám phá ra
các kiết sử tiềm ẩn -nguồn lực trói buộc chúng sanh vào vòng sinh
tử không dừng dứt. Chỉ riêng thái tử Siddhattha Gotama
đã sử dụng thiền
định của mình
để thấy rõ ràng rằng các chướng ngại
và kiết sử trói buộc chúng ta như thế nào. Đức Phật đã đạt được sự hiểu biết gì? Như chúng ta đã biết, năm chướng
ngại – tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, và nghi- cản trở thiền giả
được chứng thiền. Do
đó, lúc tu tập để phát triển định, thiền giả
cố gắng gạt chúng qua một bên. Tuy nhiên các kiết sử, mà từ
đó các chướng ngại nẩy sinh, tiếp tục hiện
hữu trong tiềm thức của ta. Mười kiết sử là: tin rằng có một cái
ngã hay linh hồn thường hằng (thân kiến), nghi, tin vào sự hữu hiệu của
các nghi lễ (giới cấm thủ), tham, sân, ước muốn
được tái sinh trong cõi sắc giới, ước
muốn được tái sinh trong cõi vô sắc
giới, ngã mạn, trạo hối và vô minh. Những huân tập bất thiện của tâm vẫn
ngủ yên đó trong lúc ta tọa thiền. Vì
các kiết sử tiềm ẩn này vẫn ngủ ngầm trong tâm thức, khi ta xả thiền, các
chướng ngại trở lại. Lúc ta muốn chứng đạt
trở lại một tầng thiền định, ta lại phải gạt các chướng ngại qua một bên,
do đó dầu ta rèn luyện tâm, ta cũng
gạt bỏ được các chướng ngại dễ dàng
hơn. Giống như khi chúng ta quét bụi trên mặt sàn bằng
đất. Mặc dầu ta vừa quét xong, không
lâu sau, bụi lại xuất hiện. Mặt sàn tiếp tục nứt, tường nứt, thế là ta lại
có một đống bụi. Để thoát khỏi bụi ta có thể
quét cả nhà, vẫy nước trên mặt sàn, hay
đổ vài thùng nước
để biến mặt đất thành bùn. Tuy nhiên,
rồi bụi cũng sẽ trở lại. Nhưng nếu ta đào
sâu xuống tận lớp đá, đổ bỏ tất cả cát bụi,
rồi đổ cement vào đó thì bụi
đất không còn là một vấn
đề. Đào tất cả cát
đất lên thì giống như thiền minh sát
chế ngự các chướng ngại và kiết sử. Đổ cement
tượng trưng cho việc bước vào giác ngộ -khiến cho tâm
được cứng rắn, không thể lay chuyển bởi những
cám dỗ thế gian. Một khi đã làm được
điều đó, không có gì có thể lay chuyển tâm ta. Các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, Alarakarama và Uddaka
Ramaputta, cũng có trí tuệ. Họ biết được sự
nguy hiểm của dục lạc và ích lợi của thiền
định, vì thế họ tạm thời xua
đuổi được tất cả mọi chướng ngại và
được chứng thiền. Tuy nhiên, các chứng
ngộ này không đủ để giải thoát họ ra khỏi
những kiết sử trói buộc họ với luân hồi sinh tử không dừng dứt. Chỉ
thuần có định không thể hủy diệt các kiết sử.
Để có thể hủy diệt chúng, ta phải kết hợp định, niệm và sự chú tâm.
Nếu không, ta sẽ bám víu niềm hỷ lạc của
định, giống như các vị thầy của thái tử Siddhattha Gotama, và không
đi đến đâu cả.
Tuệ giác của Đức Phật rất đặc biệt. Với
tuệ giác này Ngài không những thấy
được sự nguy hiểm của dục lạc, ích lợi của thiền định, mà Ngài còn
sử dụng tuệ giác này để vượt xa hơn thiền
định. Ngài sử dụng trí tuệ của mình để
khám phá rằng các chướng ngại mà Ngài
đã chuyển hóa được trong trạng thái
định chỉ là dấu hiệu của một vấn đề
sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn: các kiết sử. Ngài thấy các kiết sử
đã quấy nhiễu tâm như thế nào, tạo các
ảo tưởng về thực tại, đưa đến cảm giác khổ về
ngã. Với tâm chánh niệm thanh tịnh trong
định, Ngài tìm ra
được phương cách để chuyển hóa các kiết sử:
nhìn thấy được tính vô thường, khổ, và
vô ngã trong tất cả các pháp hữu vi. Khi chúng ta nhìn thấy
được ba tính chất này ở mọi khía cạnh
của hiện hữu, thì tham, sân, và si cùng với các kiết sử khác, sẽ mãi mãi
không còn. Đừng Tự Lừa Dối Mình! Khi chúng ta cố gắng đem giáo lý của Đức
Phật ra thực hành, chúng ta phải cẩn thận
đừng tự lừa dối mình. Một số người bảo
rằng khi họ vào sâu trong định, họ không cảm
thấy gì, không nghe gì hay không có bất cứ suy nghĩ nào. Họ nói
rằng họ chìm sâu trong định đến nỗi họ không
còn nhớ tới thời gian đã qua. Ở
các khóa tu thiền do chúng tôi tổ chức, tôi đã
được gặp các vị ấy lắc lư giống như những
thân cây mong manh trước gió. Sự bất thình lình rơi vào trạng thái
vô thức không được gọi là
định. Nó được gọi là ngủ! Một số vị
còn ngáy nữa. Ngay khi chúng tôi đánh chuông
để chấm dứt thời khóa thiền, thì các vị thiền giả này ra khỏi "định
sâu xa” của họ và nói, "Tôi đã
có một buổi tọa thiền tuyệt vời. Hôm nay tôi
đã có thể đạt được tầng thiền thứ tư.”
Đừng tự lừa dối mình! Đó chỉ là một ảo tưởng. Nếu thiền giả thực sự đạt
được bất cứ tầng thiền định nào, thì hôn trầm buồn ngủ biến mất, tâm sẽ có
tất cả những tính chất tích cực như đã được nhắc tới ở trên. Thiền định
chỉ có thể đạt được với chủ tâm. Ta sẽ thấy biết rõ ràng các bước mà ta
đã trải qua
để đạt được thiền chứng. Do đó ta có thể lặp
lại các bước đó sau này khi ta muốn. Thiền
định xuất hiện qua nhiều giai đoạn, và
chỉ khi tâm định đó kết hợp với chánh niệm
mới có thể giúp ta tiến trên con đường
đến giác ngộ.
Ngoài ra, cũng đừng tự dối gạt mình
với suy nghĩ rằng định cũng giống như là
giác ngộ. Sự giác ngộ không quá dễ dàng và nhanh chóng như thế. Hành giả
phải trải qua các quá trình chế ngự các chướng ngại, phải
đạt được định và kết hợp tâm
định tĩnh đó với tuệ để hủy diệt các chướng
ngại và kiết sử. Không cần biết bạn đã
ngồi thiền bao lâu – ngay cả khi bạn ở trong tầng thiền cao cả nhất– mà
không hủy diệt được các kiết sử thì
bạn cũng không thể đạt được giác ngộ, dù
chỉ là giai đoạn đầu của giác ngộ.
Cuối cùng, đừng tự lừa dối mình với
suy nghĩ rằng chỉ có tâm chánh niệm thôi cũng
đủ để đưa ta đến giác ngộ. Chúng ta không thể nói, "Ta không quan
tâm đến định hay giới. Tôi chỉ cần thực hành
chánh niệm." Không thể tách chánh niệm ra khỏi các bước khác trên
đạo lộ. Những người không thực hành
các bước khác trong Bát Chánh Đạo thường nhận
ra là họ không thể tận diệt được tham,
sân, si, do đó không thành công trong sự thực hành chánh niệm của
họ. Hãy Kiên Nhẫn Những người cố gắng đạt được an chỉ định
để giúp họ thực hành thiền minh sát
đôi khi lo lắng rằng họ không thể làm
được điều đó. Đừng nản chí! Đôi khi phải mất hàng năm mới có thể
đạt được định. Nếu hành thiền với sự dẫn dắt của chánh niệm, thì hành giả
sẽ cảm thấy tự tại dầu hành giả có chứng thiền hay không.
Đừng cố gắng để cố tạo ra định. Mỗi
khi ta hành thiền, là ta tiến gần đến định
hơn. Phải mất bao lâu tùy theo ta có hành thiền thường xuyên không
và ta thực hành các ngành khác của Bát Chánh
Đạo như thế nào. Có ngày bạn chú tâm tốt, và có ngày thì chánh niệm tốt hơn. Nếu bạn
đã từng
đạt được định trong quá khứ nhưng không hành thiền mỗi ngày và
không thực sự làm chủ được tâm định đó, thì
khi cố gắng chứng thiền trở lại, bạn có thể gặp khó khăn.
Tệ hơn nữa, nếu bạn để các chướng ngại tưởng
đã ngủ yên, hoạt động trở lại, hoặc
bạn đã làm điều bất thiện, thì
việc đó gần như bất khả thi. Vào những
ngày khi việc chú tâm hành thiền có khó khăn,
bạn chỉ cần chánh niệm đến tâm đang hoạt động của mình chứ
đừng tỏ ra quá lo lắng hay nói lên
rằng bạn không thể hành thiền. Sự quán sát một cách
đầy chánh niệm những gì
đang xảy ra làm tăng
thêm sự sắc bén của minh trí sâu sắc của bạn
đối với thực tại mà bạn
đang trải nghiệm. Khi nào bạn còn tiếp
tục thực hành tất cả các bước trên đạo lộ
(Bát Chánh Đạo) và tiếp tục cố gắng -mà không cố chấp-
để đạt được định, thì bạn có thể tin
rằng Chánh định sẽ dần xuất hiện, và
bằng cách sử dụng công cụ đa năng này,
bạn sẽ đạt được hạnh phúc tuyệt đối.
TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH
- Những điểm chánh yếu để đạt được hạnh
phúc qua Chánh Định là: - Chánh định có ba đặc tính: thiện, nhất
tâm, và nó vận hành với chánh niệm. - Đức Phật đã truyền dạy cho chúng ta một phương pháp tu tập dần dần,
từng bước, để đạt được chánh định. - Thiện định là loại
định giải thoát ta khỏi tham, sân, si. Không
còn có năm chướng ngại.
- Để phát triển được chánh định, trước hết phải thực hành thiện định
bằng cách chế ngự các chướng ngại. Chú tâm vào hơi thở hay các
đối tượng thiền quán đã chọn khác và
không để tâm đến các đối tượng vừa mới phát
sinh.
- Sau khi bạn đã thực hành thiện
định một thời gian, hơi thở của bạn trở nên
rất vi tế, gần như là biến mất. Sự ghi nhớ về hơi thở ở nơi ta
đặt chú tâm, như là ở chóp mũi, sẽ
được chuyển sang một cảm giác dễ chịu gọi là
"định tướng” (sign of concentration).
- "Nhất tâm" ám chỉ tâm trụ vào chính nó sau khi
định tướng đã biến mất. Nhất tâm là
một yếu tố của thiền định hay
jhana.
- Tầng thiền định thứ nhất (sơ thiền) được
đánh dấu bằng tầm, tứ, hỷ, lạc, và
định vận hành với nhau. - Ít nhất phải đạt được sơ thiền thì
mới đạt được giác ngộ.
- Một khi bạn đã biết cách
để đạt được sơ thiền, hãy quyết tâm
để đạt được thiền chứng này lần nữa,
quyết định xem bạn sẽ ở trong tầng thiền này
trong bao lâu, và khi nào bạn muốn xuất định.
- Thực hành đạt được sơ thiền nhiều lần
cho đến khi bạn hoàn toàn làm chủ nó. - Nhị thiền (tầng thiền định thứ hai) phát
khởi khi bạn đã đạt được sơ thiền quá
nhiều lần đến nỗi bạn không còn quan tâm
đến tầm và tứ nữa, khiến cho các chi
thiền này biến mất. - Tam thiền (tầng thiền định thứ ba) xuất
hiện khi sự lặp lại thường xuyên của nhị thiền khiến tâm không còn
quan tâm đến hỷ. Khi hỷ qua đi, lạc trở nên
vi tế, lắng đọng và xả niệm trở nên rõ
ràng hơn. - Tứ thiền (tầng thiền thứ tư) phát khởi khi bạn không còn quan tâm
đến lạc và tâm niệm của bạn trở nên
thanh tịnh bằng sự buông xả sâu lắng. - Trong trạng thái định, tâm đầy ấp các
tính chất thiện, mạnh mẽ, quyết liệt, không trơ ra như đá hay giống như ai
đó đang ngủ.
- Thiền định tạo ra chất lượng và
sức mạnh cần thiết để thực hành thiền
minh sát. - Không cần biết bạn đã ở trong
tầng định mạnh mẽ nhất trong bao lâu, nhưng
nếu chỉ có thế, sẽ không mang đến giác ngộ cho bạn. Để đạt được
giác ngộ, bạn phải hủy diệt được các kiết sử. - Bạn có thể bắt đầu một thời khóa tọa
thiền bằng phương pháp thiền chỉ, vun trồng an chỉ định hay bằng sự thực hành
chánh niệm, tùy thuộc vào sự ổn định của tâm
bạn ngày đó. Hay bạn có thể chuyển qua
chuyển lại giữa hai phương pháp này. - Không cần biết bạn đã bắt
đầu một thời khóa thiền như thế nào,
định và niệm phải
đi với nhau để tạo thành một trí tuệ
viên mãn. - Bạn cần có một tri giác sắc bén để nhận
ra được tính vô thường, khổ và vô ngã của tất cả mọi hiện hữu. Tuệ
giác cho phép ta thấy được vai trò của
tham trong việc mang đến khổ, để ta có thể
buông bỏ nó.
- Chỉ có định hay chỉ có niệm không thể
đưa ta đến giác ngộ. Giác ngộ chỉ có thể xảy ra khi định kết hợp với niệm
để hủy diệt các kiết sử qua tuệ giác.
- Có thể chỉ cần vài ngày hay rất nhiều năm
mới đạt được thiền định. Đừng nản chí nếu nó chậm đến và cũng
đừng cố gắng để áp đặt nó.
-ooOoo- Lời Kết Lời Hứa Khả Của
Sự phân chia con đường đạo của Đức Phật ra
tám bước không có nghĩa là ta phải bước từng bậc. Không cần phải
làm chủ được bước này trước khi tiến
đến bước khác. Đạo lộ đó giống như một vòng
xoắn ốc. Khi đã bắt
đầu bước trên
đường, là bạn
đã có một số hiểu biết về tất cả tám
bước. Khi bạn tiếp tục thực hành, các bước này ngày càng trở nên rõ ràng
hơn trong tâm bạn, và bạn có thể tiến lên giai
đoạn kế tiếp.
Tuy nhiên, có một số phương cách có thể giúp ta nghĩ về
đạo lộ đó như là một tổng thể. Rõ ràng
là tham, sân, và si, là ba pháp bất thiện độc
hại nhất và là nguồn gốc của tất cả mọi khổ
đau. Đối nghịch với chúng là ba ngành
quan trọng nhất của đạo lộ: Chánh Kiến về
giáo lý của Đức Phật; Chánh Tinh Tấn để chế ngự tham, sân, si; và
sự thực hành Chánh Niệm như là phương tiện để
chế ngự các pháp bất thiện này. Ba ngành này – Chánh Kiến, Chánh
tinh tấn và Chánh niệm- hỗ trợ lẫn nhau, vận hành cùng nhau
để giúp ta tiến bước trên
đạo lộ.
Muốn thấu hiểu được giáo lý của Đức Phật,
hành giả cần có nhiều nỗ lực. Chắc chắn sẽ dễ dàng hơn nếu ta không
phải cố gắng, không cần thay đổi, cứ sống dễ
dãi và tiếp tục suy nghĩ, hành động
theo như các thói quen mà ta đã
huân tập. Tuy nhiên Đức Phật đã dạy
rằng một khi chúng sanh không nhận biết chân lý, họ sẽ nghĩ rằng họ không
có vấn đề gì hoặc vấn
đề của họ không thể giải quyết được.
Tuy nhiên, nếu bạn có nỗ lực, bạn sẽ hiểu nhiều hơn. Chánh niệm có thể
hỗ trợ bạn. Thật ra, nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ hiểu gì
hết! Bạn có thể nỗ lực; bạn có thể tranh đấu;
nhưng nếu không có chánh niệm, bạn sẽ không bao giờ tiến bộ trong sự hiểu
biết của mình. Với chánh niệm, bạn có thể nhận biết chân lý về khổ,
nguồn gốc của nó, sự tận diệt của nó và con
đường dẫn đến sự tận diệt đó. Hơn thế nữa khi thực hành chánh niệm,
bạn sẽ nỗ lực để giải thoát tâm khỏi tham,
sân, và si. Do đó thực hành
chánh niệm đòi hỏi phải có nỗ lực, và
sự kết hợp của chánh niệm và nỗ lực giải thoát tâm khỏi tà kiến. Các chi ngành khác trong Bát Chánh Đạo
cũng dựa trên ba yếu tố này. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng và chánh định chỉ có thể được vun
trồng với sự hỗ trợ của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm.
Không có chánh kiến, bạn sẽ không thể hiểu tại sao việc tu tập
để chuyển hóa cuộc đời bạn là quan
trọng. Không có chánh tinh tấn, bạn sẽ không thể nào tiến
đến mục đích chuyển đổi tích cực. Và
chánh niệm là công cụ hoàn hảo bậc nhất của ý thức và chú tâm
để giúp bạn chế ngự tâm bất thiện, và
phấn đấu đến giải thoát.
Một cái nhìn khác về cách mà tám bước của Bát Chánh
Đạo vận hành với nhau như thế nào là
chia chúng thành ba nhóm: giới, định, và
tuệ. Mỗi nhóm thúc đẩy bạn tiến đến việc thực
hành nhóm kế tiếp tới và tiến đến sự
thông suốt hơn về Bát Chánh Đạo như là một tổng thể. Làm thế nào
để được như thế?
Nhóm đầu tiên bắt
đầu với một số hiểu biết nào
đó. Thí dụ, ta hiểu rằng tham khiến ta thất
vọng như thế nào, vì thế ta bắt đầu
thực tập xả. Ta cũng hiểu sân hận mang đến đau khổ cho ta và người
khác như thế nào, vì thế ta quyết định thực hành
thương yêu và bi mẫn. Ba tư duy này - xả, tình thương, và lòng bi mẫn- là
chánh tư duy. Muốn vun trồng những tư duy tích cực này, ta phải có trí
tuệ. Trí tuệ này phát xuất từ chánh kiến. Do
đó, chánh kiến và chánh tư duy kết hợp với nhau như là một khía
cạnh trí tuệ của Bát Chánh Đạo.
Nhóm thứ hai phát sinh từ nhóm thứ nhất. Khi quán sát cuộc
đời mình với con mắt trí tuệ, ta sẽ
thấy hạnh phúc và an bình biết bao khi ta biết suy nghĩ và hành
động thiện. Trí tuệ cũng giúp ta hiểu
rằng những đau khổ mà ta phải hứng
chịu là do tham ái, bám víu mà ra, và rằng khi ta hủy diệt
được những nguyên nhân này thì khổ sẽ
chấm dứt. Sự hiểu biết này thúc đẩy ta sửa
đổi hành động của mình. Vì ta
thấy rằng nói dối, nói lời ác độc, nói lời
thô tục và nói xấu đem lại đau khổ, ta
tránh các loại ác ngữ và quyết định
chỉ nói những lời lễ phép và đầy ý
nghĩa. Vì ta thấy rằng đau đớn và
thương tâm là do các hành động giết, trộm
cắp, sử dụng các chất gây mê, và tà dâm, ta tránh những hành
động tiêu cực này. Thay vào
đó, ta tôn trọng sự sống của những chúng sinh
khác và cố gắng để cứu họ; ta tôn
trọng tài sản của người khác; ta tránh sử dụng những chất gây mê và
không quan hệ tình dục bừa bãi. Vì ta hiểu có những khổ
đau, tai họa gây ra do các phương tiện
kiếm sống không lành mạnh, ta cố gắng kiếm sống một cách lương thiện
để hỗ trợ cho sự tu tập tâm linh của mình.
Những sự thay đổi bên ngoài do ảnh
hưởng của chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng
được nhóm lại với nhau như là một khía
cạnh đạo đức (giới) của đạo lộ.
Nhóm thứ ba dựa trên sự hiểu biết rằng nếu chỉ có những sự thay
đổi bên ngoài thôi, ta sẽ không thể
chấm dứt được khổ. Ta cũng biết rằng
hành động bắt đầu bằng ý nghĩ và những
ý nghĩ bất thiện tự chúng sẽ đem đến cho ta
rất nhiều khổ đau. Do đó ta cố gắng để rèn luyện, kỷ luật tâm. Khi
bắt đầu quán sát tâm mình, ta thấy
rằng dầu ta có ý hướng thiện, nhưng các bất thiện pháp như tham, sân, si,
và nghi vẫn khởi lên trong tâm thức ta. Ta cũng nhìn thấy xa hơn nữa rằng
phương cách duy nhất để chống lại các cạm bẫy
của tâm là áp dụng sự tinh tấn miên mật và thành khẩn
để tránh các thói quen suy nghĩ tiêu
cực, để chế ngự chúng khi chúng phát khởi, và
để gieo trồng, duy trì các thiện pháp.
Hơn thế nữa, ta thấy rằng chánh niệm rất cần thiết cho sự chuyển hóa tích
cực, ở ngoại tại cũng như nội tâm. Nếu không có
định, ta khó phát triển được tâm chánh niệm,
vì chính định giúp ta nhìn thấy
sự việc như chúng thật sự là. Ba yếu tố này – chánh tinh tấn, chánh niệm,
và chánh định– kết hợp lại với nhau
như là khía cạnh định Bát Chánh Đạo.
Vì thế, hết lần này tới lần khác, chúng ta luôn thực hành tám bước của
con đường đạo này. Với mỗi lần thực
hành, lòng tham, sân, và si của ta lại giảm bớt. Với mỗi lần thực hành, sự
hiểu biết của ta về sự thật của khổ, nguyên do của khổ và cách
để tận diệt khổ sẽ thâm sâu hơn. Không cần
biết lúc bắt đầu, trình độ hiểu biết
của bạn ra sao, kết quả của con đường đạo vẫn không khác -chấm dứt khổ
đau, và cuối cùng, là mức độ cao nhất
của hạnh phúc và bình an. GIÁC NGỘ Nhiều người không tin có giác ngộ. Trên các diễn
đàn trong Internet (chat room) thảo
luận về Phật pháp, tôi nhận thấy có một số người dùng lời lẽ mạ lỵ - những
lời thô tục, giận dữ - để nói về giác ngộ.
Có thể họ đã hiểu sai về giác ngộ.
Giác ngộ không gì hơn là sự đoạn diệt niềm
đau cháy bỏng do tham, sân, si tạo nên. Giác Ngộ dập tắt
đi một lần và mãi mãi ngọn lửa của
sinh, già, bệnh, chết, buồn, khổ, đớn đau, và
thất vọng. Có thể người ta chế diễu sự giác ngộ vì sợ rằng khi họ dập tắt ngọn lửa
đó, họ sẽ không còn gì
để sống tiếp trong bóng tối lạnh lẽo của thất
vọng. Có thể họ đã lẫn lộn ngọn lửa nội tâm
đau đớn với ngọn lửa đã khơi dậy nền văn
minh, hay với ngọn lửa của điện lực. Nhưng khi ngọn lửa khổ đau của ảo
tưởng được dập tắt, những gì hiện ra sau
đó không phải là không khí lạnh lẽo
của một đêm
đông đen tối. Đó không phải là một
trạng thái u ám, thiếu sinh khí. Không như thế chút nào. Khi ngọn lửa của
tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, đau
đớn, khóc than, phiền não . . . đã
được dập tắt, kết quả là sự an bình
trọn vẹn, thanh tịnh trọn vẹn, và hạnh phúc không thể diễn tả, trong khi
tâm và các giác quan, cùng lúc, một trăm phần
trăm trong sáng, thanh cao, đầy sinh lực. Giác ngộ là ánh sáng của
nội tâm, sự chiếu sáng, sự ấm áp của nội tâm. Khi đã
đặt xuống gánh nặng của tất cả mọi phiền não trong tâm – tham, sân,
si– thân và tâm sẽ cảm thấy thật khỏe khoắn. Chúng ta không quen với cảm
giác nhẹ nhàng này. Chúng ta đã quen
có một cái đầu đông cứng, một trái tim trĩu
nặng, một thân thể phục phịch. Viễn ảnh có được một trái tim thanh thoát
như thế khiến chúng ta e dè. Chúng ta sợ rằng sự nhẹ nhàng thanh
thoát đó sẽ khiến đầu ta lơ lửng. Sự
nặng nề, sự đau khổ đã quá quen thuộc
đến nỗi chúng ta sợ rằng mình sẽ cảm
thấy mất phương hướng nếu ta buông bỏ chúng. Điều này đã xảy ra cho một người bạn của tôi. Do công việc anh ta phải
chuyển nhiệm sở và dọn đến một căn hộ cạnh
một ga xe lửa ồn ào. Lúc đầu, anh
không thể ngủ được vì sự ồn ào nơi nhà ga. Một vài năm
sau anh lại phải dọn nhà lần nữa. Căn
hộ mới của anh rất yên tĩnh. Lần nữa, trong nhiều
đêm, anh ta không thể ngủ. Anh
đã trở nên quá quen thuộc với tiếng
động, với sự ồn ào mà anh thực sự cần
để thư giãn và
đi vào giấc ngủ! Tương tự, chúng ta
cũng đã quá quen thuộc với tâm phiền
não, khổ đau đến nỗi chúng ta sợ sự thay đổi.
Điều này cũng khiến tôi nhớ đến câu chuyện về một người mà tôi đã đọc
được trong báo khi tôi sống ở Washington D.C. Người này phải chịu án chung
thân vì tội giết người. Nhờ chấp hành kỷ luật nghiêm túc, sau mười năm,
anh ta được ân xá. Một phóng viên phỏng vấn anh. "Chắc ông rất hạnh
phúc khi biết mình được ân xá?”
"Không. Đừng nói với tôi về việc ân xá," người đàn ông trả lời một cách
bực bội. Anh nói rằng anh đã cảm thấy rất thoải mái với cuộc sống trong
tù. Anh ta tận hưởng những quyền lợi như được
coi ti vi, và cuộc sống trong tù không có những sự bất an như bên
ngoài. Nhưng, tôi tự hỏi, có phải anh đã
thực sự trở nên quá quen thuộc với sự bạo
động trong tù, sự hà khắc, sự tàn nhẫn của những người cai tù? Có
phải anh đã quên niềm vui
được sống bên ngoài bức tường tù tội,
cảm giác của không khí mát mẻ, không gian rộng mở thông thoáng, những món
ăn ngon, sự tự do được gặp gỡ những người tự
do khác, có phải anh đã trở nên quá bám víu vào những
điều kiện bên trong tù
đến nỗi được tự do có vẻ xa lạ và
không hấp dẫn? Những người chế diễu, mạ lỵ giác ngộ hẳn cũng giống như người
đàn ông trong tù kia. Họ bám víu vào
những gì họ đang có. Họ không muốn xa
rời sự quen thuộc dễ chịu của khổ đau.
Nhưng họ không biết họ thiếu sót, mất mát
điều gì. Giác ngộ không phải là một điều gì
đó ta muốn là có
được. Đó là một trạng thái mà bạn có
được khi tất cả mọi ham muốn đã không
còn. Như Đức Phật đã dạy, Nếu nước ở khắp nơi, Khi biết mình còn thiếu thốn điều gì
đó, ta sẽ luôn đi tìm. Trái lại, khi
đã có tất cả mọi thứ mình mong muốn,
ta sẽ thôi không tìm kiếm. Vì đã
đạt được hạnh phúc tuyệt đối, sự hòa
hợp hoàn toàn, bạn cảm thấy bằng lòng để cho
mọi người khác cũng được sống trong hạnh phúc và hòa hợp. Ở cuối bài kinh Đại Niệm Xứ (Maha Satipatthana Sutta),
Đức Phật đã
đảm bảo rằng bất cứ ai thực hành thiền
chánh niệm theo lời chỉ dạy của Đức Phật thì
người đó chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ ngay
trong kiếp sống này. Nếu không được
hoàn toàn giác ngộ vì còn một số kiết sử vi tế cản trở, thì người
đó ít nhất cũng trở thành một vị Bất
lai (non-returner), đạt được Tam
thiền. (D 22) Đức Phật không hàm ý rằng vị hành giả chỉ thực hành một phần giới hạn
của đạo lộ mà có thể đạt được Giác Ngộ. Muốn
được giác ngộ bạn phải phát triển toàn vẹn mọi khía cạnh của giới,
định, và tuệ. Hơn thế nữa, trong lời
hứa khả đáng ngạc nhiên này,
Đức Phật không chủ ý nói rằng một sự tu tập
dễ dãi, không thường xuyên – lúc có lúc không – là
đủ. Trái lại, Ngài có ý dạy rằng
để đạt được giác ngộ, ta phải tu tập một cách
tinh tấn, kiên trì và tự nguyện. Để đạt được định, sự nỗ lực của
bạn phải được hỗ trợ bằng giới đức hoàn toàn trong sáng. Thiền chứng của
bạn phải thiện và nhất tâm. Tâm định mãnh
liệt này phải được vun trồng bởi tâm chánh
niệm cũng mãnh liệt không kém. Rồi thì trí tuệ giải thoát sẽ xuất
hiện với sự hỗ trợ của giới luật thanh tịnh và chánh
định.
Tuy nhiên, một số người vẫn còn nghĩ rằng những lời của
Đức Phật là những lời hứa không thực
tế. Tôi không biết họ dựa vào đâu để nghi ngờ
nó. Họ có giống như người ghét xuống nước lại nghi ngờ rằng làm gì
có ai lội nhanh như các vận động viên
Olympic? Hay giống như người chưa bao giờ chạy một bước lại nghi ngờ rằng
làm sao có ai chạy được hai mươi sáu dặm
marathon? Dĩ nhiên lời hứa khả của Đức
Phật có vẻ không thực tế đối với những kẻ chưa từng ngồi trên gối
thiền hay cố gắng quán sát hơi thở mình trong một phút! Và lời hứa
đó cũng không chắc chắn đối với những ai đã
ngồi thiền nhiều năm nhưng chẳng bao giờ thực
hành cả tám bước của Bát Chánh Đạo bao
gồm giới, định, và tuệ. Thực hành thiền quán đòi hỏi những
giới luật khắt khe. Bạn chấp nhận các giới luật này không phải
để gây ấn tượng đối với ai, mà là
để giải thoát tâm khỏi những đau khổ gây ra
bởi chính những sự bất thiện của bạn. Nếu bạn đến với đạo lộ như một thú
tiêu khiển, hay một sự sưu tầm, thì bạn sẽ không bao giờ thành
công. Tám ngành của Bát Chánh Đạo không phải
là những điều mà bạn chỉ nghiên
cứu, tìm hiểu, rồi chỉ đem ra thực hành
khi cần. Đúng là bạn chỉ thực hành Bát Chánh Đạo khi cần – nhưng bạn cần
đến chúng mỗi giây phút trong cuộc đời bạn!
Tuy nhiên, sự chánh niệm của bạn về tám bước trên con
đường của Phật, không cần phải hoàn
thiện trước khi bạn có thể bắt đầu thực tập.
Nếu sự chánh niệm của bạn về Bát Chánh Đạo có thể bị suy giảm, đừng lo
lắng. Chỉ cần chánh niệm về sự không chánh niệm đó ngay khi bạn có thể. Sự
thành công trên bước đường tu tập của
bạn tùy thuộc vào việc bạn có giữ được
ý chí mạnh mẽ để luôn chánh niệm, chứ không phải là việc bạn thực
sự có khả năng làm
được như thế hay không. Khi bạn tiếp tục nhắc
nhở bản thân phải chánh niệm, thì sự xao lãng càng ngày càng ít
hơn, cho tới một ngày, sự chánh niệm về con
đường đạo trở nên tự động. Nếu bạn có
được sự nỗ lực như thế, bạn sẽ tiến bộ rất nhanh. Lúc đó bạn sẽ là
loại đệ tử mà
Đức Phật đã nghĩ
đến trong tâm khi Ngài lập lời hứa khả
này. HÃY
Quyển sách này chỉ đưa ra những lời hướng
dẫn căn bản để giúp bạn đi theo con đường đạo. Khi đã tiến bộ trong
việc thực hành, nếu bạn thỉnh thỏang xem lại, bạn có thể thấy là nó vẫn
còn hữu ích cho bất kỳ trình độ hiểu biết nào.
Nhưng quyển sách này không thể giải thích tất cả những
điều bạn muốn biết về Phật pháp, về sự tu
tập, về kinh nghiệm của bạn và về những gì bạn sẽ
đạt được. Mỗi cá nhân sẽ có căn bản giáo dục,
ý thức, sự hiểu biết về Pháp, và những trình
độ tiến bộ tâm linh khác nhau. Hơn thế nữa,
ngày mai các câu hỏi của bạn sẽ rất khác với những câu hỏi của ngày
hôm nay. Ngay chính Đức Phật cũng không thể trong
một bài kinh có thể nói hết về mọi khía cạnh cho mọi người.
Đó là lý do tại sao Ngài
đã có hàng ngàn bài pháp. Quyển sách
này chỉ là một bảng tóm tắt của những điều này
và một vài giải thích về những điểm quan
trọng nhất của chúng. Những gì còn lại bạn sẽ phải thêm vào qua sự
thực tập của mình. Giây phút hiện tại là thầy của bạn. Hãy biến nó thành
một phòng thí nghiệm cho chính cá nhân bạn. Hãy chú tâm. Hãy quán sát. Chỉ
có bạn mới có thể mang lại trí tuệ cho bản thân. Bạn thực hiện
được điều đó bằng cách theo đuổi các thiện
pháp.
Những thính giả có lòng nghi hoặc đã
có lần hỏi Đức Phật rằng tại sao họ cần phải
tin Ngài, khi họ đã nghe quá
nhiều những vị đạo sĩ khác, ai cũng tự nhận mình
nắm được chân lý. Đức Phật trả lời rằng họ
không nên tin bất cứ điều gì
chỉ vì một ai đó, ở đâu đó, đã nói
rằng đó là chân lý. Những nguồn tin
được nghe qua, được báo cáo, những niềm tin
lưu truyền qua nhiều thế hệ, kinh sách được coi là thánh
điển, lời của một vị thầy được kính tin, và
giáo huấn từ một ai đó mà bạn nghĩ là
rất thông thái -tất cả đều không có sự bảo
đảm của chân lý. Đức Phật đã dạy rằng tất cả những
điều này không nên
được chấp nhận chỉ dựa trên lòng tin.
Đức Phật cũng dạy rằng ta không thể chỉ dùng lý trí để khám phá ra chân
lý. Ngài thuyết rằng không nên tin một điều gì đó chỉ vì nó có vẻ logic,
hoặc dường như mang ta đến gần với mục đích của mình hơn, hoặc thích hợp
với chí hướng của ta hay có vẻ đúng sau khi ta
đã suy nghĩ về nó. Tại sao? Vì Pháp
vẫn còn một khía cạnh mà không có gì, ngay cả sự suy luận quán chiếu, có
thể nắm bắt được: sự trải nghiệm của bản thân
ta.
Đức Phật đưa ra một quy luật tổng quát đối với những gì chúng ta nên
chấp nhận. Quy luật này không dựa trên bất cứ loại lòng tin hay lý luận
nào. Đúng hơn, Đức Phật dạy, khi quán chiếu một hành động, hãy tự hỏi, dựa
vào kinh nghiệm bản thân, rằng một hành động như thế có tổn hại cho ai
không, kể cả bản thân ta. Nếu nó tổn hại, bất thiện, thì hành động đó
không nên làm. Nếu nó hữu ích cho mọi người, kể cả bản thân ta, và nếu
người trí cũng chấp nhận thì nó là thiện. và hành động đó nên làm. (A I
(Ba) VII.65) Sau đó Đức Phật dạy thêm rằng ta
cần phải quán sát lại sau mỗi hành động đã
thực hiện. Ta nên tự hỏi, "Hành động đó thực
sự xảy ra như thế nào? Nó có thiện xảo không?" Nếu không, và ta
"phải nhận lãnh hậu quả với nước mắt," thì hành
động đó cần phải được tránh trong tương lai.
Trái lại, nếu hành động đó thiện xảo,
và ta "gặt được kết quả với niềm vui
trong mắt,” thì hành động
đó cần phải được làm lặp lại (Dh
67-68). Nếu ta chú tâm đủ và thành
thật với bản thân về những gì ta biết là
đúng, thì – không cần phải tin vào bất cứ
điều gì người khác nói – ta có thể
chọn lựa hành động để phát triển tâm thanh
tịnh và trí tuệ, và điều đó mang đến
nhiều hạnh phúc cho ta. Chỉ có ta là người giữ chìa khóa
đi vào cửa giải thoát của mình. Chìa
khóa đó là lòng quyết tâm
để quán chiếu nội tâm và quyết
định hành
động nào là thiện, mang đến cho ta
những kết quả tốt đẹp.
Bạn có muốn được thấy Pháp
không? Hãy quán chiếu những trải nghiệm của mình. Hãy sử dụng kinh nghiệm
bản thân như là một tấm gương phản chiếu Pháp. Tất cả bản tánh của mọi
chúng sanh cũng phản chiếu qua đó. Trong cuộc
sống hằng ngày và trong từng giây phút hiện hữu, ta có thể thấy tất
cả những gì ta cần thấy ở bất cứ nơi đâu:
nhân quả, vô thường được biểu hiện qua dòng chuyển
đổi không dừng ở mọi mức độ, đau khổ có mặt ở
bất cứ nơi nào có tham ái, chấp ngã, và sự thật rằng dầu ta có cố
gắng để tìm kiếm tự ngã một cách khổ
sở như thế nào, ta cũng không thể tìm thấy gì. Bạn có muốn biết về kinh nghiệm của mình không? Hãy quán tưởng Pháp.
Qua đó bạn sẽ thấy tất cả các thành
phần và mẫu mực chung, không của riêng ai để
tạo ra “con người bạn.” Ở đó bạn cũng thấy rằng những gì bạn
đã trải qua, trên căn
bản, cũng giống như những gì mà mọi chúng sanh khác
đã trải qua. Pháp có mặt ở khắp mọi
nơi. Thí dụ, ngay cả khi quán sát một con bọ
đang vẫy vùng trong tô nước, có thể cũng bừng lên trong tâm trí bạn
về thực tại của sự sợ chết mà bạn cũng như tất cả mọi chúng sanh khác
đều cảm thấy. Vạn pháp đều hiển lộ trong tất
cả mọi mặt của cuộc sống, trong từng giây phút, từng ngày. Nó có
mặt ngay đó để ta nhận dạng, không cần có một
niềm tin mù quáng hay một lý thuyết luận giải nào. Từ việc quán sát
rốt ráo này, ta có được tự tin trong việc tu
tập và tiến bước trên con đường đạo.
Nếu ta không trở nên quen thuộc, thành thạo với
đạo lộ và nhận ra
được chân Pháp từ chính kinh nghiệm bản thân,
thì tri thức ta thu thập được từ quyển
sách này sẽ chỉ là lý thuyết suông. Nếu tôi chỉ về hướng sao Bắc
Đẫu, bạn có thể trố mắt nhìn tôi và tự
hỏi, "Tại sao ông ta chỉ về hướng đó? Lý ra
ông phải chỉ về hướng kia mà?" Làm sao ta có thể giải thích một
ngôi sao với người chẳng bao giờ ngước mắt nhìn lên trời vào ban
đêm? Cho
đến khi bạn có thể ngửa đầu để nhìn các ngôi sao và theo dõi các
phương hướng để quán sát bầu trời, hay cho
đến khi bạn có thể chỉ ra sao Bắc Đẫu,
thì nghi hoặc vẫn còn trong tâm bạn. Tâm nghi hoặc sẽ dẫn
đến đủ loại câu hỏi. Nhưng khi bạn
đã nhìn ra
được sao Bắc Đẫu và tự quán sát cách
mà mọi thứ khác vận hành quanh nó, thì bạn không còn nghi ngờ gì nữa cả. Tương tự, trước khi đến đích của con
đường, bạn sẽ còn nhiều câu hỏi về đạo
lộ, về giáo lý, về sự thực hành của bạn, và về lý do tại sao tôi
đã nói một số
điều như thế trong quyển sách này. Làm
sao có thể dùng từ ngữ để diễn giải được Niết
bàn là như thế nào, khi Niết bàn không phải là
điều có thể thử nghiệm được? Kinh
nghiệm ta có được qua các giác quan, mà
khi dùng bất cứ tên gọi nào để diễn tả những
trạng thái không thể trải nghiệm được, cũng đều sai lạc, vì chúng
dựa vào kinh nghiệm giác quan. Chúng ta đành
phải bước theo các bước của Bát Chánh Đạo đến
tận cùng, để tự mình
được thấy.
Bạn đã từng thử chỉ cho con mèo
thấy một vật gì từ xa chưa? Bạn càng cố đưa
tay chỉ, con mèo càng muốn gậm ngón tay bạn, và không bao giờ muốn
nhìn xa hơn ngón tay chỉ. Nếu bạn đọc xong
quyển sách này và nói, "Chỉ có vậy thôi sao? Còn chân lý tuyệt
đối thì ở
đâu? Quyển sách này không giúp được gì
cho tôi", thì bạn cũng đã làm giống
như chú mèo rồi. Hãy nhìn xa hơn những gì đã
được nói trong sách. Hãy hành
động theo lời Đức Phật dạy để tìm ra
một cách để hiểu khác. Hãy tự mình
bước trên đạo lộ. Đạo lộ này trải dài
xuyên suốt mọi kinh nghiệm sống của bạn khi bạn gieo trồng sự thiện xảo
ngày càng nhiều hơn trong ý nghĩ, lời nói và hành
động.
Khi bạn đã bước những bước vững
chãi, khéo léo trên đạo lộ để thanh tịnh hóa
tâm, cuối cùng bạn sẽ nắm bắt được
chân lý về tính vô thường của vạn pháp, về khổ do tâm bám víu vào
các pháp vô thường, và về sự thiếu vắng một tự ngã trong tất cả những gì
vô thường và khổ. Bạn sẽ thấy tham ái sâu kết mọi khổ
đau như thế nào. Lúc
đó bạn sẽ tự mình thấy, và tất cả mọi
nghi hoặc đều chấm dứt.
Nếu bạn không tin vào những mục đích lớn
hơn được nói đến trong sách, cũng chẳng sao; quyển sách vẫn có thể ích lợi
cho bạn. Hãy sử dụng quyển sách này để nó có thể giúp bạn tự vấn về
những trải nghiệm trong đời mình. Bất cứ điều
gì xảy ra cho bạn cũng đem lại một bài
học. Đức Phật thường dạy, "Hãy đến để
thấy!" Qua đó, Ngài muốn khuyên
ta hãy tự quán sát thân và tâm để tìm
ra chân lý, đó là Pháp. Bạn sẽ không
thể tìm được ở bất cứ nơi nào khác. -ooOoo- Hiệu
A: Anguttara Nikaya, Gradual Sayings, Kinh Tăng
Chi Bộ, Chương 7, Số 65. Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu,
NXB Tôn Giáo. D: Dighta Nikaya The Long Discourses of the Buddha, Trường Bộ
Kinh (Thí dụ: D 22 ý chỉ Kinh số 22). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh
Châu, NXB Tôn Giáo. Dh: Dhammapada, hay Word of the Doctrine, Kinh Pháp Cú. (Thí
dụ: Dh 5 ám chỉ Kệ số 5). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn
Giáo. DhA: Dhammapada Atthakatha, hay Dhammapada Commentary, Chú Giải
Pháp Cú. (Thí dụ: DhA 124 ý chỉ phần 124 của Chú Giải, giải thích Kệ
số 124). J: Jataka, hay Jataka Story, Chuyện Tiền Thân
Đức Phật. (Thí dụ: J 26 ý chỉ
chuyện số 26). M: Majjhima Nikaya, hay The Middle Length Discourses of the
Buddha, Kinh Trung Bộ ( Thí dụ: M 80 ý chỉ Kinh số 80). Việt dịch: Hòa
Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn Giáo. MA: Majjhima Nikaya Atthakatha, hay Commentary to the Middle Length
Discourses Buddha, Chú Giải Tăng Chi Bộ
Kinh. (Thí dụ: MA i 225 ý chỉ Bộ 1, trang 225 Bản Kinh Pali). Mhsv: Mahavamsa, hay the Great Chronicle of Ceylon (Bộ Ký của
Ceylon). (Thí dụ: Mhvs V ý chỉ Chương 5). Miln: Milindapanho, hay The Questions of King Milinda, Kinh Na
Tiên Vấn Đáp. (Thí dụ: Miln 33
[V], ý chỉ trang số 33; Chương 5 được thêm
vào để giúp tìm ra câu kệ). S: Samyutta Nikaya, hay The Connected Discourses of the Buddha
(Tương Ưng Bộ Kinh). Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, NXB Tôn
Giáo. Sn: Sutta Nipata, hay the Group of Discourses II (Thí dụ: Sn
657 ý chỉ câu số 657). Thag: Theragatha, hay Poems of Early Buddhist Monks, (Các
Bài Kệ Của Các Trưởng Lão Tăng).
(Thí dụ: Thag 303 ý chỉ câu số 303). Thig: Thergatha, hay Poems of Early Buddha Nuns (Các Bài
Kệ Của Các Trưởng Lão Ni). (Thí dụ: Thig 213 ý chỉ câu số 213). Ud: Udana, hay Verses of Uplift. (Thí dụ: Ud VI.2 ý chỉ
Chương 6, chuyện số 2). V: Vinaya, hay Book of the Discipline (Luật Tạng). (Thí dụ:
V ii 292 ý chỉ Bộ số 2, trang 292, bản kinh tiếng Pali). Vsm: Visuddhimagga, hay The Path of Purification, Thanh Tịnh
Đạo. (Thí dụ: Vsm I [55] ý chỉ
chương 1, đoạn số 55). (1) Mindfulness In Plain English (Chánh Niệm - Thực Tập Thiền
Quán, dịch giả Nguyễn Duy Nhiên). (2) Kinh Pháp Cú, Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên chuyển
dịch (Lưu hành nội bộ). (3) Con Đường Thiền Chỉ và
Thiền Quán (Path Of Serenity & Insight, Thiền Sư Henepola
Gunaratana), Tỳ kheo Pháp Thông dịch, NXB Văn
Hóa Sài Gòn 2002. -ooOoo- Chân thành cám ơn
Đạo hữu Diệu Liên đã gửi tặng bản vi tính (Bình
Anson, 09-2007) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Theo Dấu Chân Phật
Walking the Buddha’s Path
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
không phải cho con cái, tài sản, ngôi vị,
hay cho lợi nhuận bằng những phương tiện sai trái,
Chỉ khi đó thì người ta mới có
đạo đức, trí tuệ và chân chánh.
(Dh 84)
Có thể tiếp xúc với chất độc mà vẫn an
toàn;
Không có thương tích, chất độc không thể thấm
vào,
Cũng thế, uế nhiễm không thể thấm vào
Tâm trong sạch. (Dh1 24)
Người xấu khó làm tốt,
Người xấu dễ làm xấu,
Người tốt khó làm việc xấu. (Ud V.8)
Rất khó làm những việc lợi cho mình. (Dh 163)
Đau khổ kéo dài, và đau khổ qua đi.
Không có gì ngoài sự đau khổ có mặt,
Và không có gì ngoài sự đau khổ chấm dứt.
(S I.5.10)
Giữa những kẻ hung ác, ta không có oán thù.
Hạnh phúc thay ta được sống (với tâm) không
bệnh giữa những bệnh tật.
Giữa những người đau yếu, ta thoát khỏi
bệnh hoạn.
Hạnh phúc thay ta sống không tham đắm giữa
bao ham muốn.
Giữa những kẻ san tham, chúng ta thoát khỏi san tham.
(Dh 197-199) [Tỳ kheo Bhikkhu Buddharakkhita])
- Chánh niệm về thọ
- Chánh niệm về tâm
- Chánh niệm về đối tượng của tâm
ta cần gì đào giếng?
Nếu đã bứng sạch rễ tham,
ta còn tìm kiếm gì? (Ud VII.9 [Do Ireland dịch])
last updated: 10-09-2007