Mục lục
[01]
LỜI NGƯỜI DỊCH
LỜI TỰA
XIN CHÀO CÁI CHẾT XIN GIÃ BIỆT CUỘC
ĐỜI
HAI QUYẾT TÂM
Nói chuyện với cả đóa hoa
ĐƯƠ NG ĐẦU VỚI BỆNH TẬT
- THÁI ĐỘ
ĐÚNG
ĐẮN
Chúng ta có thể hành thiền
VINH DANH CHỊ KUAI CHAN
CHÚNG TA PHẢI LÀM PHẦN VỤ CỦA MÌNH
Giảm bớt sự khổ
THƯƠNG YÊU LÀ THÔNG CẢM
Người đàn ông và con bò cạp
Ngũ giới
[02]
CHÚNG TA LÀ ĐẤNG CỨU RỖI CỦA
CHÍNH CHÚNG TA
Tái sinh xảy ra tức khắc
Trợ công đức bằng cách nào
Đám tang Phật giáo là một
đám tang
đơn giản
Chúng ta có thể học từ những người khác
Ta không đè nén tiếc thương,
nhưng nhìn nhận tiếc thương và phân tán nó qua tỉnh giác và thông
hiểu
Về phần tôi
CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA NÊN THẬT THANH THẢN
Những giọt nước mắt vui sướng
Tạo không khí thật thanh tịnh
Khoảnh khắc ý niệm cuối cùng
SUY NGHIỆM VỀ CÁI CHẾT
Khi bốn ngọn núi lăn
đến
Một cảm giác khẩn cấp
Suy nghiệm dẫn đến hiểu biết
và chấp nhận
Không lời than khóc nào có thể động
đến
đống tro của kẻ chết
Cái chết không xa lạ với chúng ta
Cái chết khoảnh khắc
Vài điều
để suy nghĩ
MỘT THẾ GIỚI ĐẦY BẤT BÌNH
THƯỜNG
NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT |
-ooOoo-
LỜI NGƯỜI DỊCH
Chúng tôi xin dịch cuốn sách nhỏ này với hy vọng giúp cho những
đồng bào Phật tử,
đặc biệt là những người già yếu,
đau bệnh, hoặc những ai có người thân
sắp hoặc vừa qua đời,
được hiểu thêm phần nào về sự sống và
sự chết theo quan điểm của
đạo Phật. Ai ai rồi cũng phải chết, và
khi cái chết đến với chúng ta, chúng
ta sẽ đối diện với nó như thế nào?
Chúng ta có thể nào mỉm cười chào đón
cái chết một cách thanh thản không? Chúng ta có thể nào chấp nhận cái chết
đến với người thân một cách hiểu biết
không?
Như tác giả, một nhà sư Mã lai, đã
viết, nói cho cùng chúng ta không ai xa lạ gì với cái chết, vì chúng ta
đã sống và chết vô vàn lần rồi, tái
sinh hết kiếp này đến kiếp khác trong
vòng luân hồi sinh tử. Tác giả cho chúng ta thấy làm sao chúng ta có thể
sống thiện, làm đẹp cuộc sống với
những giá trị tốt đẹp về tình thương
yêu, trí tuệ, từ bi, và chính cuộc sống đó
sẽ đem đến
một kết cuộc đẹp, một cái chết
đẹp và bình yên.
Chúng tôi cũng ước ao không những chỉ người già yếu, bệnh tật gần
đất xa trời mới thấy cuốn sách này hữu
ích, mà ngay cả những người còn trẻ cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách
này một vài chỉ nam cần thiết về sống, thương yêu, và chết.
Sau cùng, chúng tôi xin thành thật cảm ơn các bạn Không Bát Nhã, Phổ
Hành, Tâm Đạo, Tâm Hiền, Tâm Hoa,
Thuần Minh, và Thuần Chánh Trí đã dành
thì giờ đọc bản thảo và phê bình
đóng góp nhiều ý kiến quý báu với
chúng tôi trong việc chỉnh đốn bản
dịch này
California, Hoa Kỳ, tháng 7 năm
2004.
Không Tuệ
Cũng như mình nhìn bong bóng nước
cũng như mình nhìn một ảo hình --
nếu mình nhìn cuộc đời như vậy
Thần Chết sẽ không nhìn ra mình
-- Dhammapada 170
[01]
LỜI TỰA
Tôi viết cuốn sách này để chia xẻ
vài suy nghĩ về cái chết cho bất cứ ai muốn
đọc những ý nghĩ đó. Những ý
nghĩ về việc chúng ta nên đối diện với
cái chết như thế nào - với sự can đảm
và bình thản. Với phẩm cách con người. Và với một nụ cười, nếu bạn thích
vậy. Những ý nghĩ về việc làm sao chúng ta có thể
đương đầu
với sự khổ đau, có thể sống với trí
tuệ và từ tâm, hoặc với mức độ từ tâm
mà chúng ta có thể chia xẻ được, cho
đến khi chúng ta lìa
đời.
Nhưng con người thường không muốn nói đến
cái chết. Khi chủ đề này
được đề
cập đến thì người ta bắt
đầu thấy mất tự nhiên. Ðặc biệt người
ta kỵ nói đến cái chết trong những dịp
vui như là sinh nhật hoặc Tân niên, như thể là hễ nhắc
đến chữ chết trong các dịp này
thì làm mất vui và đem
đến sự xui xẻo hoặc chết sớm! Dĩ nhiên
tôi không đồng ý với những quan niệm
như vậy. Ðối với tôi, đó chỉ là tin dị
đoan. Dầu tôi thông cảm với những ai
cho rằng nói về cái chết trong những dịp vui là không tế nhị, tôi vẫn tin
việc suy nghĩ thường xuyên về cái chết là điều
tốt và sáng suốt, kể cả vào những dịp như là sinh nhật hoặc Tân niên, có
thể càng nên làm hơn nữa vào những dịp đó.
Tại sao? Bởi vì chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta không trẻ hơn chút
nào mà lại càng già hơn, và mỗi năm
mang chúng ta đến gần
đến nghĩa
địa hơn. Trong những lúc ngẫm nghĩ như vậy chúng ta có thể duyệt
lại cuộc đời của mình, lượng giá cái
vị trí của chúng ta và xét xem chúng ta có đang
đi đúng
hướng không - cái hướng của trí tuệ và từ tâm.
Là một thầy tu, lúc nào tôi cũng suy nghiệm về cái chết. Nó nhắc tôi
sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn,
không bỏ uổng một ngày nào, mặc dù tôi phải thú nhận là thỉnh thoảng tôi
cũng lãng phí thì giờ quí báu của mình, vì như các bạn biết, cái tâm thức
nhiều khi cũng rất bướng bĩnh và lười biếng. Tuy vậy, nhờ suy niệm thường
xuyên về cái chết, tôi được nhắc nhở
là mình phải dành nhiều thời giờ hơn để
thực hành thiền định
để rửa sạch những ô uế trong
đầu về tham, sân, si.
Ðức Phật khuyên chúng ta nên suy nghĩ thường xuyên về cái chết, nếu
không hàng ngày thì cũng thảng hoặc. Nó sẽ khởi dậy trong chúng ta niệm
samvega - một cảm giác khẩn cấp phải cố gắng nhiều hơn
để tiêu diệt sự khổ phát sinh từ cái
tâm si mê ô uế. Tôi thích nói về cái chết. Ðó là chủ
đề tâm đắc
nhất của tôi. (Tôi có bệnh hoạn không? Ðược, không sao, bạn cứ gọi tôi là
bệnh hoạn hoặc gì đó nếu bạn muốn. Ðối
với tôi không sao cả. Con người ta, nghĩa là cả tôi lẫn bạn, phải có quyền
căn bản của con người
được diễn
đạt quan điểm và cảm xúc của
mình một cách chính đáng, tế nhị,
không áp đặt và không bạo
động. Không ai có quyền tức giận với
một người khác chỉ vì họ bày tỏ quan điểm
của họ như vậy, mặc dù rất tiếc là nhiều khi chúng ta quên mất và nổi
nóng). Nhưng để trở lại
đề tài, tôi luôn luôn suy tư, tôi luôn
luôn thắc mắc, và vẫn còn thắc mắc: Tại sao chúng ta sống? Tại sao
chúng ta chết? Tất cả những điều
đó có nghĩa gì? Ðể làm gì? Với mục
đích gì? Ðể nhằm vào cứu cánh gì?
Chắc chắn là đã có nhiều câu trả
lời đã
được đưa ra. Và tôi tin chắc sẽ
có nhiều người sẵn sàng giải đáp cho
tôi những thắc mắc này, những thắc mắc đã
được nêu ra từ khi con người bắt
đầu biết suy nghĩ. Nhưng tôi không thể
nói là tôi thỏa mãn với tất cả những giải đáp
đã được
đưa ra từ trước tới nay. Tôi vẫn
đang đi
tìm kiếm. Hiện nay tôi đã là một tu sĩ
Phật giáo và đã hành thiền. Tôi
đã nguyện nghiêm trì ngũ giới của
đức Phật là không giết hại, không cướp
gạt, không phạm tà dâm như là ngoại tình, không nói dối, và không uống
rượu hoặc dùng thuốc. Ngoài ra, vì là tu sĩ nên tôi còn phải sống
độc thân và giữ các giới khác dành cho
tu sĩ.
Tôi không thể nói là tôi đã tìm
được mọi trả lời cho những thắc mắc
của tôi, nhưng tôi đã tìm
được phần nào an ủi và thoải mái qua
lời giảng của đức Phật. Tôi có thể dựa
vào lời dạy của đức Phật về tỉnh giác
và từ bi tâm. Và tôi vẫn hành thiền. Có thể một ngày nào
đó tôi sẽ tìm ra mọi câu trả lời. Nếu
được như vậy thì tốt quá. Nhưng nếu
tôi không tìm ra được thì cũng không
sao. Ðiều quan trọng là tôi có cố gắng. Ngay cả nếu tôi chết trong lúc
đang cố tìm câu giải
đáp thì tôi vẫn mừng, là vì tối thiểu
tôi cũng đã cố gắng. Nếu
được như vậy thì cuộc
đời tôi vẫn có ý nghĩa, ít nhất ở một
mức nào đó. Và dĩ nhiên, cho tới lúc
chuyện đó xảy ra tôi sẽ cố truyền bá
niềm vui và hạnh phúc trong khả năng
và cách thức của tôi.
Trong cuốn sách này tôi cố chia xẻ sự hiểu biết giới hạn của tôi về sự
sống và sự chết. Tôi cảm thấy mình cần bàn về cái chết một cách thẳng
thắn. Chúng ta không nên sợ sệt đề cập
đến chủ
đề này. Nếu không vậy thì làm sao chúng ta có thể bàn bạc và học
hỏi? Khi chúng ta có thể bàn thảo, học hỏi và thông hiểu, thì
đó là điều
tốt, bởi vì chúng ta đã có thể chấp
nhận cái chết. Chúng ta sẽ biết rõ hơn nên đối
diện với nó như thế nào. Ðây là điều
rất quan trọng, bởi vì tất cả chúng ta ai cũng phải chết. Không có cách gì
thoát được hết. Và nếu chúng ta không
thể nghĩ đến cái chết ngay từ bây giờ,
thì làm sao chúng ta có thể nghĩ đến
nó khi chúng ta nằm sắp chết trên giường, chờ trút hơi thở cuối cùng? Lúc
đó liệu chúng ta có thoát
được sự sợ hãi và hoang mang rối rắm
không? Cho nên tốt hơn hết là chúng ta tìm hiểu tất cả về cái chết ngay
bây giờ. Chắc chắn nó sẽ có lợi cho chúng ta. Và rồi chúng ta không sợ hãi
nữa. Chúng ta sẽ có tự tin, và khi cái chết
đến chúng ta sẽ ra đi với một
nụ cười. Chúng ta có thể nói, "Này cái Chết, cứ làm cái gì tệ nhất mà
ngươi có thể làm đi. Ta biết ngươi rồi
và ta có thể mỉm cười."
Tôi viết cuốn sách này với mức thẳng thắn và lôi cuốn nhất mà tôi có
thể làm được. Tôi ráng không quá lý
thuyết hoặc cứng nhắc. Tôi muốn bạn thích thú khi
đọc quyển sách này, cười khúc khích ở
những đoạn nào làm bạn khúc khích, và
thu thập được một hai
đìều bạn thấy hữu ích trong cuộc sống,
trong tình thưong yêu, và trước cái chết. Ngoài ra, không phải tôi viết
như là một thầy tu cho người thường đọc,
nhưng là như một con người viết cho một con người. Do
đó tôi viết hơi phóng khoáng với mục
đích truyền
đạt, vươn tới con tim. Tuy nhiên tôi
không biết là mình đã thành công hay
thất bại đến mức nào; chỉ có bạn là
người phán đoán chính xác nhất.
Vì tôi là một tu sĩ Phật giáo, người đọc
sẽ nhận ra rằng nội dung chứa đụng
nhiều quan điểm và khái niệm nhà Phật.
Dĩ nhiên vài giá trị như lòng thương yêu và từ tâm là trùm khắp, không
thuộc vào một tôn giáo nào mà là của tất cả mọi tôn giáo. Tôn giáo nào
cũng dạy thương yêu và từ tâm. Tôn giáo nào cũng tốt hết, nhưng chính
chúng ta không làm theo đúng tôn giáo
của mình. Cho nên chúng ta nhân danh tôn giáo
để giết chóc, tàn hại và gây đau
khổ. Chính chúng ta là người phải gánh chịu trách nhiệm chứ không ai khác!
Trách nhiệm không phải ở các tôn giáo hoặc các nhà khai sáng tôn giáo vì
các vị đó chỉ toàn là dạy thương yêu,
trí tuệ, khoan dung, tha thứ, và từ tâm. Nếu chúng ta thoát ra sự u mê của
chúng ta thì chúng ta có thể thương yêu thật sự. Chúng ta có thể sống
chung như anh chị em ruột thịt bằng sự lượng thứ, kiên nhẫn và thông cảm,
với lòng thương yêu và từ tâm.
Tôi viết cuốn sách này chủ yếu cho Phật tử. Nhưng những người không
phải đạo Phật cũng có thể
đọc và tìm ra vài lợi ích, vài lãnh
vực chung có thể đồng ý, hiểu biết và
thông cảm với nhau được. Tối thiểu, họ
sẽ biết về quan điểm Phật giáo, góc
cạnh nhìn và hiểu biết của Phật giáo. Biết
được quan điểm của mỗi bên là
điều tốt, vì
điều đó
sẽ đem tới thêm sự chấp nhận, cảm
thông và hiểu biết về cách tiếp cận vấn đề
và niềm tin của mỗi bên. Tôi hoàn toàn không có ý
định muốn thuyết phục ai theo
đạo mình.
Điều đó cần phải thật rõ ràng.
Cần phải để mỗi người theo
đạo của họ và theo một cách thuần
thục, vì như đức
Đạt Lai Lạt Ma, người
được giải Nobel Hòa Bình,
đã từng nói, từ tâm tựu chung là tinh
túy của mọi tôn giáo.
Tôi cố gắng chia xẻ sự hiểu biết của tôi trong phạm vi khả năng
của tôi. Nhưng tôi biết chắc là sẽ có những thiếu sót không chỗ này thì
cũng chỗ khác. Hoặc giả có những chỗ mà người
đọc có cách diễn dịch hoặc hiểu biết khác. Bạn có thể không thích
hoặc bất đồng ý với một số
điều tôi nói. Hoặc bạn có thể không
thích cách thức tôi nói. Bạn có thể cho rằng cách tôi nói là không thích
hợp, xúc phạm, thiếu tế nhị, quá nặng tình cảm, thô lỗ, méo mó, vô lý,
hoặc gì đó.
Điều đó
cũng không sao, cũng tự nhiên thôi. Chỉ cần có hai người với nhau là
đã có vài bất
đồng ý kiến. Bạn chỉ việc từ khước
những điều bạn không
đồng ý, coi như vất ra ngoài. Bạn
không cần phải chấp nhận tất cả những điều
tôi nói. Vả lại, tại sao bạn phải chấp nhận? Lẽ dĩ nhiên bạn có
đầu óc tốt
đẹp riêng của mình, và bạn có thể (và
phải) suy nghĩ và quyết định cho bản
thân bạn. Chúng ta có thể đồng ý về
việc chúng ta không đồng ý với nhau và
vẫn còn là bạn tốt với nhau. Như vậy có được
không? Vì tinh hoa cốt lõi của sự trưởng thành về tinh thần là
điều tuyệt vời nhất. Chỉ có mỗi người
chúng ta mới có quyền định
đoạt chân thành và trung thực cho
chính chúng ta những điều gì chúng ta
có thể cảm thông và những gì chúng ta không thể chấp nhận.
Chính đức Phật
đã nói rằng tốt hơn cả là chúng ta
phải xem xét, điều tra và xác minh cho
chính mình trước khi chúng ta chấp nhận bất cứ
điều gì. Ngay cả lời nói của
đức Phật cũng cần phải
đem ra cứu xét kỹ càng như vậy. Nói
cho cùng, đức Phật không cho phép một
ngoại lệ nào. Ngài không bao giờ tin vào lòng tin mù quáng. Ngài không bao
giờ bảo chúng ta chỉ việc tin vào lời ngài nói và chỉ việc từ khước những
gì người khác nói. Ngược lại ngài bảo chúng ta phải
điều tra, thực hành và xác minh cho
chính chúng ta. Nếu chúng ta thấy lời giảng dạy nào
đó là tốt, lành mạnh và
đưa đến
sự tiệt trừ tham, sân, si, thì chúng ta có thể chấp nhận, bằng không chúng
ta nên từ khước. Đấy là lời khuyên dạy
tuyệt vời. Do đó, theo hướng Phật chỉ,
tôi luôn luôn ưa nói: Đừng tin gì hết.
Mà phải suy nghĩ, thực hành, và xác minh cho chính mình.
Đối với tôi
đó là cách tiếp cận hay nhất và an
toàn nhất. Nhưng nếu tôi có các sai lầm nào khi viết cuốn sách này, tôi
xin lỗi và xin tha thứ.
Xin cầu mong tất cả mọi người được
vui sướng. Xin cầu mong tất cả chúng ta đều
tìm được trí tuệ và hạnh phúc, theo
cách riêng của mỗi người. Và xin chúc bạn đọc
sách vui vẻ!
---*---
XIN CHÀO CÁI CHẾT
XIN GIÃ BIỆT CUỘC
ĐỜI
Một ngày nào đó khi tôi chết, vì
tôi chắc chắn sẽ chết, tôi muốn chết với một nụ cười trên môi. Tôi muốn ra
đi một cách bình an, muốn chào
đón cái chết như một người bạn, muốn
đươc nói một cách thật vui vẻ: "Xin
chào cái Chết, xin giã biệt cuộc Ðời."
Tôi có thể tưởng tượng tôi nói chuyện với cái Chết. Có lẽ cuộc
đối thoại sẽ diễn ra như sau: "Xin
chào cái Chết! Ngươi có khỏe không? Ta đã
chờ đợi ngươi từ lâu lắm rồi. Ta
đã trông
đợi ngươi suốt cuộc đời ta. Ðến
bây giờ ngươi mới đến
đón ta đó
ư? Ðã đến lúc ta phải
đi rồi chăng?
"Vâng, vâng, cái Chết ơi ta ra đi
đây. Xin kiên nhẫn một chút. Ta sẵn
sàng rồi. Bộ ngươi không thấy ta đang
cười đây sao? Ðã từ lâu ta dự
định chào mừng ngươi bằng một nụ cười.
Vâng, cái Chết, ta hiểu. Ngươi không cần phải xin lỗi. Ta biết ngươi làm
bổn phận của mình mà thôi. Ta không trách móc ngươi gì hết. Không có oán
giận gì hết. Ta hiểu, đây không phải
là chuyện thù cá nhân.
"Như ta đã nói, cái Chết ơi, ta
đã chờ giây phút này suốt
đời rồi. Chờ
để xem ta có gặp ngươi với một nụ cười
không. Chờ để xem tối thiểu ta có thể
cảm hứng được trong cái chết hay
không, nếu chưa cảm hứng trong cái sống. Giờ
đây ngươi cho ta cái cơ hội này, và ta xin cảm ơn ngươi.
"Vâng, ta đã nghe nói nhiều về
ngươi. Rằng ngươi không chờ đợi ai
hết. Rằng ngươi sẽ đến như một tên
trộm giữa đêm. Rằng ngươi không mặc cả
với ai hết. Rằng ngươi sẽ không bao giờ để
ai trả lời không với mình.
"Cái Chết ơi, không sao đâu. Ta sẽ
ra đi với ngươi một cách hân hoan. Ta
mệt lắm rồi. Cái cơ thể này giống như một cái vỏ bị bể. Nó
đã không còn tốt như trước. Nó
đã sống quá mức xử dụng và thời hạn
của nó rồi. Như ngươi thấy đó ta cũng
gần chết rồi. Và ta đã chịu
đựng tất cả sự
đau đớn
này, cố cười với bao nhiêu người đến
thăm. Cái Chết ơi, ta nói thật với
ngươi nghe, ngươi lẽ ra nên đến sớm
hơn. Sau bao nhiêu cơn đau, ta thấy
đón mừng ngươi như một vị cứu tinh từ
trời xuống. Nhưng nãy giờ nói đủ rồi.
Cái Chết ơi, thôi đừng dây dưa nữa.
Chúng ta hãy đi. Hãy tới cầm tay ta."
Và tôi sẽ ra đi, như tôi
đã từng luôn mơ ước, với một nụ cười
trên môi. Còn có cách chết nào đẹp
hơn! Những người đến
đứng chung quanh tôi không cần phải
khóc. Họ có thể sung sướng vì thấy tôi đang
mỉm cười. Họ biết rằng tôi không sao cả. Cái chết không là gì phải sợ cả.
Đối xử với cái chết như
đối xử với một người bạn. Lúc nào ta
cũng phải sẵn sang để chào
đón cái chết và giã biệt cuộc
đời.
*
Dĩ nhiên là không ai tránh khỏi cái chết. Tất cả chúng ta
đều phải chết. Như
đức Phật
đã nói: Cuộc sống thì vô định
nhưng chết thì nhất định. Khi
chúng ta còn sống thì chúng ta chịu đựng
sự chia lìa khi một người thân qua đời.
Cả ông bà nội của tôi đều quá cố. Tôi
không còn nhớ gì về ông nội tôi. Ông chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhưng tôi
còn nhớ bà nội tôi. Bà rất tử tế với tôi. Bà cũng rất nghèo. Bà thích sống
ở nhà quê khi cha mẹ tôi còn sống ở thành phố. Tôi nhớ có một lần bà vào
thăm chúng tôi, tôi xin bà năm
xu. Bà tức thì lấy bóp lục ra năm xu
đưa cho tôi. Vào thời
đó năm
xu cũng lớn, có thể mua được một cục
đá bào hoặc một ly nước
đá ngọt. Nếu bạn uống nước dừa do
người Ấn bán thì với năm xu bạn có
được tới hai ly! Và với năm
xu bạn cũng có thể mua được năm
cục kẹo.
Cha tôi chết khi tôi được 10 tuổi.
Tôi còn nhớ đến thăm
ông lần chót một buổi tối ở Tổng Y Viện trong khi ông nằm chờ chết vì bịnh
lao và các biến chứng khác. Tôi nhớ mẹ tôi nói với ông: "Ah Beh, thằng
Johnny con mình vào thăm mình
đây." Cha tôi không nói
được tiếng nào. Mũi ông có ống dẫn
dưỡng khí đút vào. Ông có vẻ nhìn tôi
một cách yếu đuối. Tôi còn quá nhỏ.
Lúc đó tôi không biết chết là gì, mặc
dù bây giờ thì tôi biết rõ hơn. Người mẹ tội nghiệp của tôi chịu
đựng nhiều nhất. Bà
đã thấy quá nhiều cái chết và cuộc
đời bà khổ từ lúc nhỏ.
Đối với bà cuộc
đời dứt khoát không phải là màu hồng.
Một trong những người anh của tôi chết lúc còn sơ sinh. Một người anh
khác chết cùng với hôn thê của anh vào năm
23 tuổi. Thật là một thảm nạn, hai người đều
chết đuối. Tôi vẫn còn nhớ nhìn thấy
xác hai người trong nhà quàng. Mẹ tôi kêu khóc thảm thiết. Bà quá
đau đớn
mất một người con yêu quí một cách thê thảm như vậy. Tôi thật sững sờ và
không biết phải nghĩ thế nào về mọi chuyện đã
xảy ra. Lúc đó tôi mới 16 tuổi. Tôi
ráng làm ra vẻ thờ ơ, tự nhiên. Tôi nín khóc. Tôi nói và xử sự như thể
không có chuyện gì xảy ra, như thể chết là chuyện hàng ngày
đối với tôi, không việc gì phải thương
tiếc. Tôi coi nhẹ chuyện đó, cố làm ra
vẻ thản nhiên bên ngoài.
Nhưng trong lúc ở một mình thì tôi khóc. Tôi khóc tức tưởi. Và sau
đám tang tôi quay lại nghĩa trang. Tôi
đi xe đạp
ra đó, mang theo một cái cuốc. Tôi xới
đất lên và trồng hoa chung quanh mộ
của anh tôi và người yêu của anh. Tôi khắc lên thánh giá gỗ của anh dòng
chữ: Không có tình yêu nào vĩ đại
hơn khi một người xả mình cứu bạn, bởi anh chết vì cố cứu hôn thê của
mình. Và tôi nói chuyện với Chúa. Tôi hỏi Ngài: "Thưa Chúa, tại sao Chúa
lại làm như vậy đối với con? Tại sao
Chúa lấy anh của con đi? Có phải
đó là ý Chúa, mong muốn của Chúa
không? Nếu phải vậy, thì con xin theo ý Chúa. Con chấp nhận." Lúc
đó, bạn biết không, tôi là một người
Ki tô giáo ngoan đạo. Và ý Chúa phải
trên hết mọi sự, không được thắc mắc.
Tuy nhiên, nay là một người theo đạo
Phật, tôi tin rằng tôi đã hiểu hơn một
chút. Vâng, không có Chúa nào lấy anh của tôi
đi đâu cả. Nếu chúng ta chấp
nhận sống thì ta cũng phải chấp nhận chết. Chết là một phần, một mảnh của
đời sống. Như
đức Phật
đã nói, chính sự vô minh đã làm
cho thế giới của đau khổ xoay vòng, và
chúng ta chịu nghiệp từ kiếp này qua kiếp khác tùy theo hành
động của chúng ta. Làm tốt thì
được tốt và làm xấu thì bị xấu. Tôi
phải thú nhận là tôi dễ cảm thông với cách nhìn của
đức Phật hơn.
Khi càng sống tôi càng thấy nhiều người chết hơn. Vốn là một nhà báo,
tôi đã thấy nhiều xác chết - những
người chết vì tai nạn, băng
đảng đánh
nhau, tự tử, ngộ độc, v.v… Tôi
đã từng viết nhiều bài báo thương tâm,
cảm động, hoặc thê thảm về chuyện
người ta chết. Có một người đàn ông nọ
hôn đứa con gái nhỏ của mình xong rồi
bắn vào đầu mình. Rồi có một cặp tình
nhân trẻ cùng nhau tự vận trên giường khách sạn. Cô gái chết vì thuốc
độc, còn chàng trai thì
được cứu sống. Và có một tên cướp khét
tiếng bị cảnh sát bắn chết vào ngày đầu
năm. Anh ta bị truy nã, và không kịp
sống đến hết ngày tết. Nhưng
đối với tôi thì
đó chỉ là thêm một chuyện
đăng báo. Lúc
đó tôi không suy nghĩ sâu xa gì về cái
chết. Tất cả những chuyện đó làm tôi
mất hết cảm giác. Tôi chỉ cần biết làm sao để
có bài hay nhất đăng trang nhất. Tôi
ít có tình cảm hoặc thương hại gì cho các nạn nhân xấu số cả. Lúc
đó tôi khá cứng rắn và ích kỷ, chỉ
biết lo cho bản thân tôi.
Sau này, là một thầy tu, tôi lại gặp nhiều chuyện chết chóc - lần này
thì có cảm xúc và từ tâm hơn. Khi tôi viếng người bệnh, tôi thấy thương
cảm cho họ. Tôi ráng hết sức mình để
an ủi họ. Nếu người bệnh là Phật tử, tôi đọc
kinh Phật cho họ. Tôi nhắc nhở họ lời của đức
Phật: Cơ thể có thể bệnh nhưng đừng
để tinh thần bị bệnh. Chúng ta có
thể không làm được gì cho cơ thể chúng
ta nhưng ta có thể làm đươc cho tinh
thần. Chúng ta có thể giữ vững tinh thần dù đang
bị bệnh. Chúng ta có thể giữ tỉnh giác minh mẫn. Chúng ta có thể theo dõi
cơn đau lúc lên lúc xuống, thấy nó
đến và đi
từng đợt. Chúng ta có thể hiểu
được bản chất của sự khổ. Chúng ta có
thể chạm trán nó và học hỏi từ nó. Nó có ở đó
như là một sự thử thách - xem ta có hiểu bản chất của cuộc sống là như thế
nào, có hiểu rằng không có một cái ngã vĩnh cửu ở
đây mà là một thay
đổi liên tục của sinh và tử, giống như
dòng sông chảy không ngừng; xem ta có hiểu
được rằng chính sự si mê, ham muốn, dính mắc, giận dữ, sợ hãi,
v.v…là nguyên nhân của sự khổ của chúng ta.
Với sự hiểu biết như vậy, chúng ta có thể vùng lên
đương đầu
với cơn đau. Chúng ta có thể vượt qua
nó một cách dễ dàng. Chúng ta có thể thấy bình tĩnh và êm dịu, mà chẳng có
chút chán nản nào. Vâng, chúng ta có thể cười, ngay cả với cơn
đau. Chúng ta có thể nói: "Này cơn
đau, thật là ngươi ráng làm ta kiệt
sức. Có phải vậy không? Một người khác thì có thể chịu thua, nhưng ta thì
không. Ta đã tập tành và tôi luyện
để chịu
được ngươi. Đức Phật
đã dạy rằng ta nên
đối đáp
lại ngươi không một chút tức giận ác cảm nào. Cho nên giờ
đây ta đang
đối đáp
với ngươi không tức giận, không ác cảm. Ta hiểu rằng với sự sáng suốt và
bình an trong con tim, ta có thể vượt lên trên ngươi. Ta có thể mỉm cười
với ngươi. Ngươi dạy ta rằng đời là
khổ. Nhưng ngươi cũng dạy ta rằng ta có thể vươn lên trên ngươi." Và bạn
có thể mỉm cười với cơn đau. Bạn sẽ
lập tức thấy đỡ hơn.
---*---
HAI QUYẾT TÂM
Lúc tôi đang viết
đây, tôi chợt nhớ rằng mới ngày hôm
qua có một thầy tu khác đã chết. Thầy
bị ung thư giai đoạn cuối trong suốt
tám tháng. Khi tôi đến thăm
thầy ở bệnh viện vài ngày trước khi thầy chết, thì thầy
đang trong cơn
đau. Tôi ráng
đút thầy chút nước canh nhưng thầy
không ăn vô
được. Thầy trông thật hốc hác và xuống
sắc. Thầy nói không ra hơi. Chứng ung thư đã
tàn phá cơ thể thầy và tinh thần thầy không dễ gì chịu
đựng nổi. Tôi khuyên thầy nên chú ý
hay quan sát cơn đau như là thầy
thường làm khi ngồi thiền, và nên càng giữ bình an thanh tịnh càng tốt.
Thầy là một người thiền quán rất chuyên và tôi tin rằng thầy
đã thiền quán cho
đến phút cuối.
Tôi nhớ một dịp khác khi tôi viếng một ông già tử tế bị ung thư máu.
Ông cũng bị đau
đớn nhiều, lộ ra trên nét mặt. Trán và
mặt ông đẫm mồ hôi hột. Tôi lấy một
cái khăn và dịu dàng lau mồ hôi cho
ông. Tôi nói nhỏ bên tai ông và cố làm ông dịu
đau. Ông này cũng là một người hành
thiền nên tôi cũng nhắc ông ráng giữ sự sáng suốt, quan sát cơn
đau càng thanh tịnh càng tốt. Tôi rất
vui mừng khi thấy vẻ đau khổ biến mất
trên mặt của ông. Sau đó một chút,
thân nhân ông đến và tôi ra về. Ông từ
trần vài giờ sau đó. Tôi vui lòng
đã có thể giúp
được ông một chút trước khi ông tắt
thở.
Tuy trong cuộc sống có hạnh phúc, nhưng cũng có khổ nữa. Hạnh phúc có
vẻ quá phù du - biến mất thật nhanh, thay vào là sự khổ não và thất vọng.
Bản thân cuộc sống, vì nó chấm dứt bằng cái chết, là một thảm kịch. Một
người nào đó có lần nói rằng
đời giống như củ hành: mình vừa lột nó
vừa khóc. Đức Phật nói sinh là khổ vì
nó chắc chắn dẫn tới suy tàn và chết. Chúng ta nên hiểu
điều này thật rõ. Nếu chúng ta chấp
nhận sống thì chúng ta phải chấp nhận chết. Nếu chúng ta muốn khóc khi có
ai chết thì chúng ta cũng nên khóc lúc người
đó chào đời, vì khi một
đứa nhỏ vừa chào
đời thì cái hột giống chết
đã có sẵn trong nó. Nhưng chúng ta lại
vui mừng khi một đứa bé ra
đời. Chúng ta cười vang và chúc mừng
cha mẹ nó. Nếu chúng ta hiểu được cái
sinh - rằng nó sẽ dẫn đến cái chết -
thì khi cái chết đến chúng ta nên
đối diện nó bằng một nụ cười.
Sau khi thấy người ta chết trong đau
đớn như thế nào, cơ thể họ bị bệnh tật
làm suy tàn, và sau khi thấy mọi cuộc đời
đều chấm dứt bằng cái chết (một sự
thật mà tôi nhận ra rõ nhất mỗi lần tôi đi
tụng đám tang), trong
đầu tôi nảy ra hai quyết tâm: Thứ
nhất, khi tới phiên tôi chết, tôi muốn chết với một nụ cười trên môi. Tôi
muốn được rất sáng suốt và thanh tịnh.
Nói cách khác tôi muốn giữ minh mẫn về phần mình. Tôi muốn
được mỉm cười với cơn
đau cho dù nó
đau cùng cực
đến đâu.
Tôi muốn được mỉm cười với tất cả
những người đến viếng tôi. Tôi muốn
được mỉm cười với tất cả các bác sĩ và
y tá tử tế săn sóc cho tôi. Tôi muốn
được mỉm cười với các bệnh nhân cùng
điều trị và giúp họ bằng mọi cách tôi
có thể làm tại bệnh viện, để làm gương
cho họ hoặc để an ủi họ.
Thay vì các bác sĩ và y tá hỏi tôi cảm thấy thế nào, tôi muốn hỏi họ:
"Bác sĩ có khỏe không? Cô có khỏe không? Hôm nay quý vị thế nào? Quý vị
biết không, quý vị làm việc rất tốt. Chúng tôi rất may mắn có quý vị săn
sóc. Xin tiếp tục làm tốt như vậy nhé. Xin cám ơn rất nhiều!" Và với các
người Phật tử thăm tôi, tôi sẽ giảng
pháp. Tôi sẽ nói: Nhìn tôi đây. Tôi
sống dở chết dở. Thế là hết! Quý vị biết không, không dễ gì thiền quán khi
mình đang sống dở chết dở. Cho nên khi
quý vị còn khỏe mạnh, cố tận dụng cuộc sống. Hãy tập ngồi thiền! Thực hành
đạo pháp!
Đừng tiếc nuối sau này. Đừng
chờ tới khi quý vị bệnh gần chết, vì lúc đó
sẽ quá muộn. Nhưng nếu quý vị tập thiền bây giờ, thì khi quý vị bị bệnh
việc đối diện với cơn
đau sẽ không quá khó. Quý vị có thể
quan sát nó và ngay cả vượt lên trên nó.
Quý vị biết không, đức Phật nói với
chúng ta rằng mọi thứ đều vô thường.
Nếu chúng ta thiền quán chăm một chút
thì chúng ta có thể hiểu sự thật về lẽ vô thường một cách sâu xa hơn,
đến mức chúng ta sẽ không quá dính mắc
quyến luyến với cái tâm thức và thân xác này. Chúng ta sẽ biết chắc rằng
cái thân xác này không phải của chúng ta; cái tâm thức này cũng không
phải của chúng ta. Hiểu được như
vậy, chúng ta sẽ có thể buông ra. Chúng ta sẽ không quá dính mắc vào những
cái ái dục thô tục của cuộc đời. Chúng
ta có thể sống khôn ngoan hơn. Chúng ta có thể già nua một cách thanh nhã.
Và chúng ta không phải sợ chết.
Đú c Phật nói rằng cái khổ gắn liền với cuộc
đời. Và chúng ta phải học cách
để sống với cái khổ và vượt lên trên
cái khổ. Chỉ cần áp dụng tỉnh giác trong cuộc sống hàng ngày và bằng cách
hành thiền chúng ta có thể nắm vững sự thật của cái khổ. Khi chúng ta
đã thấu hiểu sự khổ, chúng ta sẽ nỗ
lực dứt bỏ nguồn gốc gây ra sự khổ, đó
là lòng ham muốn, sự dính mắc vào cuộc sống, vào cám dỗ dục lạc của thị
giác, thính giác, khứu giác, vị giác, và xúc giác. Chúng ta sẽ cố thanh
lọc mọi ô uế ra khỏi tâm thức và con tim của chúng ta.
Theo đức Phật, khi tâm thức chúng
ta đã sạch tham, sân, si, chúng ta sẽ
vượt thắng mọi sự khổ. Chúng ta sẽ không bao giờ còn bị dính mắc hoặc
định kiến về một thứ gì. Thay vào
đó chúng ta chỉ có trí tuệ và từ bi.
Ðây là sự kết thúc mọi sự khổ. Nếu chúng ta không bám víu nữa thì chúng
không bao giờ bị khổ. Ngay cả cơn đau
thể xác cũng không làm chúng ta khổ về tinh thần vì tâm thức chúng ta
không đáp trả bằng sự tức bực hoặc
giận dữ. Tâm thức chúng ta có thể thanh tịnh và bình an. Chúng ta chấp
nhận và thông cảm. Và khi chúng ta chết với sự sáng suốt và bình an như
vậy, đức Phật nói
điều đó
sẽ chấm dứt sự khổ. Sẽ không còn tái sinh, sẽ không còn trở lại với cái
vòng sinh tử. Nếu chúng ta không phải tái sinh, chúng ta sẽ không bị suy
tàn chết chóc với cái khổ đi kèm. Chấm
dứt! Hạ màn! Cái khối khổ này bị triệt tiêu. Lúc
đó chúng ta có thể nói, như các vị
thánh xưa đã nói, Cái gì cần làm
nay đã làm xong.
Đã sống một cuộc sống trong sạch.
Dĩ nhiên bây giờ chúng ta còn quá xa cái mục
đích đó.
Nhưng như người ta nói, một cuộc hành trình ngàn dặm bắt
đầu bằng một bước một. Cho nên tôi là
người lạc quan. Vâng, tôi là một người theo
đạo Phật và một người lạc quan (Ai nói người theo
đạo Phật là bi quan ?) Và tôi tin rằng
mỗi bước ta đi trên con
đuờng trí tuệ sẽ mang chúng ta một
bước gần đích hơn - cái
đích Niết bàn, nơi chấm dứt của mọi sự
khổ. Và vì là người lạc quan, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ
đạt đến
đích sớm chứ không muộn.
Nói chuyện với cả
đóa
hoa
Và như vậy, khi tôi nằm trên giường bệnh, tôi thích giảng pháp cho
những người đến viếng tôi, hoặc bất cứ
ai muốn nghe. Ngoài ra, tôi có thể gửi hoa tặng bạn bè bên ngoài. Tôi có
thể gửi kèm theo một tấm thiệp với lời nhắn
đại khái như vầy: "Chào bạn! Bạn có khỏe không? Bạn có thích hoa
này không? Hoa đẹp lắm phải không? Bạn
có thì giờ nghỉ một chút để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của hoa và hít ngưởi mùi
thơm của hoa không? Và khi bạn nhìn vào một
đóa hoa, bạn có thấy ánh mắt long lanh của người thân hoặc của con
bạn không? Hay là bạn đang quá bận
rộn, quá lo lắng với các kế hoạch và tham vọng ngoài
đời, theo
đuổi tiền tài và danh vọng?
"Bạn tôi ơi, bạn có suy xét kỹ cái bản chất của lẽ vô thường, không có
gì vĩnh cữu chưa - mọi sự đều phai mờ
và chết hết? Và khi chúng ta còn sống, chúng ta cần sống một cách có ý
nghĩa để sau này không hối tiếc. Như
đóa hoa đang
héo, tôi cũng sắp chết. Nhưng tôi gửi đến
bạn lời chúc lành. Cầu mong bạn được
khỏe và hạnh phúc! Tôi hy vọng bạn có đủ
thì giờ cho người thân và cho việc thiền tập. Bạn biết không, làm ra tiền,
mua đồ đạc
sang trọng, hưởng thụ lạc thú không phải là tất cả. Những chuyện
đó có thể làm bạn thấy thích thú
được một thời gian, nhưng thật ra có
lòng tốt và thương yêu thì quan trọng hơn : nó sẽ cho bạn nhiều toại
nguyện và hạnh phúc hơn. Tha lỗi tôi đã
giảng thuyết những chuyện tẻ nhạt này nhưng xin lắng nghe lời nói của
người sắp từ trần. Cho phép ông ta nói hết ý.
Đúng vậy, giờ bạn còn đang
sống, bạn nên ban phát niềm vui và hạnh phúc càng nhiều càng tốt. Tha thứ
tất cả mọi người. Đừng ghim gút hoặc
thù hằn ai. Luôn luôn nhớ rằng cuộc đời
rất ngắn ngủi và sớm muộn gì ai cũng chết cả. Và thương yêu là cho, chứ
không nhận. Tình thưong yêu cho mà không đính
kèm một điều kiện nào. Tình thưong yêu
không chờ được
đáp lại. Bạn cố nuôi dưỡng loại tình
thưong yêu đẹp
đẽ này. Bạn vui luôn nhé!" Và tôi sẽ
kết thúc với một lời tái bút - "Bạn giữ mình nhé. Bạn không cần phải
đi thăm
tôi. Nhưng bạn có thể vui dùm cho tôi, vì tôi
đang mỉm cười và mừng rằng tôi có thể chết với một nụ cười trên
môi. Xin giã biệt và chúc bạn may mắn!"
Và nếu tôi không nói nên lời vì tôi bệnh quá nặng, tôi vẫn sẽ nở nụ
cười để cho thấy rằng mọi việc
đều tốt cả, rằng cơn bệnh chỉ chiếm
được cơ thể tôi chứ không chiếm
được tâm thức tôi. Như thế một người
có thể tạo niềm tin cho người khác ngay cả lúc mình
đang bị bệnh. Lúc
đó nguời ta càng thấu hiểu
đạo pháp hơn và tu tập nhiều hơn. Dĩ
nhiên, nếu tôi nói chuyện với các người bạn không theo
đạo Phật của tôi thì tôi không buộc họ
phải theo quan điểm tôn giáo của tôi.
Bởi tôi không muốn họ bắt tôi theo quan điểm
của họ, tôi không muốn bắt họ theo quan điểm
của tôi. Chúng ta phải tôn trọng quan niệm tôn giáo lẫn nhau và chỉ từ bi
lẫn nhau. Nếu được vậy thì ai cũng có
thể sống chung trong hòa bình.
---*---
ĐƯƠ NG
ĐẦU
VỚI BỆNH TẬT -
THÁI ĐỘ
ĐÚNG
ĐẮN
Chúng ta không nên nhìn bệnh tật và khổ não như là một cái gì
đó sẽ tiêu diệt chúng ta hoàn toàn,
khiến cho chúng ta bó tay trong sự tuyệt vọng và chán nản. Ngược lại,
chúng ta (nếu là Phật tử) có thể xem đó
như là một sự thử thách xem chúng ta hiểu lời dạy của
đức Phật như thế nào, xem chúng ta áp
dụng cái hiểu biết mà chúng ta học được
như thế nào. Nếu chúng ta không thể đương
đầu bằng ý chí, nếu chúng ta suy sụp,
thì điều
đó chứng tỏ rằng mức hiểu biết đạo
pháp, sự luyện tập của chúng ta, vẫn còn yếu. Do vậy,
đây là một thử thách và một cơ hội cho
chúng ta xem chúng ta thấu triệt sự tu tập của chúng ta
đến mức nào.
Lại nữa, bệnh tật là một cơ hội cho chúng ta trau dồi
đúc kiên nhẫn và bao dung. Làm sao
chúng ta có thể thực hành và phát triển những
đức ba la mật * (đức
toàn hảo) như là tánh kiên nhẫn nếu chúng ta không bị thử thách, nếu chúng
ta không bị đặt vào những
điều kiện khó khăn
và nặng nề? Theo cách này thì chúng ta xem bệnh tật như là một cơ hội cho
chúng ta trau dồi kiên nhẫn.
* Mười đức
ba la mật là bố thí, trì giới, hy sinh, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục,
thành thực, quyết tâm, từ bi, và thanh tịnh. Mọi bồ tát (tức là những ai
muốn thành Phật) đều phải trau dồi
các đức tính này. Mọi Phật tử cũng
phải trau dồi các đức tính này tới
một mức nào đó trước khi có thể
đạt giác ngộ do Phật dẫn dắt.
Chúng ta cũng có thể xem sự khỏe mạnh không phải như là không có bệnh,
ngược lại xem khỏe mạnh như là cái khả năng
có thể bị bệnh, và khả năng
để học tập và phát triển từ
đó. Vâng, sự
định nghĩa tân kỳ này về sức khỏe phát
xuất từ một số chuyên gia y học, như là Bác sĩ Paul Pearsall thuộc bệnh
viện Sinai ở Detroit, Hoa Kỳ. Vì biết bệnh tật sẽ không bao giờ bị loại
trừ hoàn toàn và biết trước sau gì ai cũng bị bệnh chết cách này hay cách
khác, các vị bác sĩ này đã tìm ra một
định nghĩa cho sự khỏe mạnh
để giúp chúng ta
đươ ng đầu với bệnh tật khi
bệnh tật đến với chúng ta. Cho dù
chúng ta có tạo ra bao máy móc, phương pháp, thuốc men tân kỳ, con người
vẫn chịu khuất phục trước bệnh ung thư, AIDS, bệnh tim và hàng
đống bệnh khác, có phải
đúng vậy không? Rốt cuộc rồi thì không
có lối thoát. Chúng ta phải hiểu và chấp nhận sự thật này,
để mà khi chuyện phải
đến và chúng ta phải ra
đi, chúng ta có thể ra
đi một cách thanh thoát. Dĩ nhiên
chúng ta sẽ cố chữa bệnh hết sức mình, nhưng khi chúng ta thất bại và cơn
bệnh tiếp tục phát triển mặc dù chúng ta đã
cố gắng tối đa, chúng ta phải chấp
nhận và thích nghi với điều không
tránh được.
Phân tách cho cùng, điều quan trọng
không phải là chúng ta sống thọ bao lâu mà là chúng ta sống khỏe
được bao nhiêu, kể cả cách chúng ta
chấp nhận bệnh tật một cách dễ dàng đến
mức nào, và cuối cùng là cách chúng ta có thể chết một cách nhẹ nhàng như
thế nào. Về điểm này, Bác sĩ Bernie S.
Siegel đã viết như sau trong cuốn sách
An bình, Yêu thương & Lành bệnh của ông:
Các bệnh nhân hiếm có, vượt hơn mức tầm thường là những người không
cố tránh chết. Họ cố sống trước khi chết. Do
đó họ là những người thành công, bất
kể kết cục cơn bệnh của họ như thế nào, vì họ
đã chữa lành cuộc
đời của họ, cho dù họ không chữa
lành căn bệnh của họ.
Và ông cũng nói như sau:
Một cuộc đời thành công không
tính bằng cái chết, mà tính bằng cách sống có tốt
đẹp đến
mức nào. Tôi biết có những em bé hai tuổi và chín tuổi
đã từng thay
đổi người khác và thay
đổi được
cả nhiều cộng đồng nhờ vào khả năng
thưong người của các em, và cuộc đời
của các em được xem là thành công dù
ngắn ngủi. Mặt khác, tôi biết nhiều người khác sống lâu hơn nhiều nhưng
chẳng để lại gì ngoài sự trống rỗng.
Vậy rốt cuộc lại thì thật là tuyệt khi cuộc
đời của chúng ta có thể chữa lành
được cho dù bệnh tật của chúng ta
không thể cứu chữa được. Tại sao? Bởi
vì sự khổ là một vị thầy và nếu chúng ta học kỹ bài học thì chúng ta có
thể thành một con người tốt hơn một cách bất ngờ. Chẳng phải chúng ta
đã từng nghe nhiều câu chuyện về những
người chịu qua nhiều đau khổ, rồi
thoát qua được
để trở thành một người thay
đổi và tốt
đẹp hơn? Nếu những người
đó trước kia ít nhẫn nại, ích kỷ, kiêu
ngạo và thiếu suy nghĩ, họ đã trở
thành kiên nhẫn, tốt bụng, tử tế và nhún nhường hơn.
Đôi khi họ nói rằng cơn bệnh là
điều tốt cho họ - nó cho họ một cơ hội
xem xét lại cách sống và những giá trị quan trọng hơn trong
đời. Họ trở nên quý trọng gia
đình và bạn bè hơn, và biết
đánh giá cao thời gian họ dành cho
những người thân yêu. Và nếu họ được
lành bệnh, họ sẽ dành nhiều thời gian cho người thân hơn và làm những
điều thật sự quan trọng và có ý nghĩa.
Nhưng ngay cả nếu chúng ta bị khuất phục trước cơn bệnh chúng ta vẫn có
thể học hỏi để từ
đó vươn lên. Chúng ta có thể hiểu sự
mong manh của cuộc đời và thấy lời dạy
của đức Phật
đúng như thế nào - rằng cuộc
đời có một vết hỏng cơ bản. Chúng ta
có thể trở nên tử tế hơn và quý trọng sự tử tế chúng ta nhận từ người khác
hơn. Chúng ta có thể tha thứ những người đã
làm khổ chúng ta. Chúng ta có thể thương yêu mặn mà hơn, sâu sắc hơn. Và
khi cái chết đến, chúng ta có thể chết
với sự chấp nhận và an bình. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng cuộc
đời chúng ta
đã đươc
chữa lành bởi vì chúng ta cảm thấy chan hòa với thế giới và chúng ta
được thanh thản.
Chúng ta có thể hành thiền
Khi chúng ta bị bệnh và nằm một chỗ, chúng ta không cần phải tuyệt
vọng. Chúng ta có thể hành thiền ngay cả khi
đang nằm trên giường. Chúng ta có thể quan sát tinh thần và cơ thể
của chúng ta. Chúng ta có thể lấy được
sự yên tĩnh và sức mạnh bằng cách thiền theo hơi thở. Chúng ta có thể quan
sát hơi thở vào và hơi thở ra, biết rõ từng cơn hít thở.
Điều này có thể cho chúng ta một tác
dụng lắng dịu. Hoặc chúng ta có thể quan sát sự phồng xẹp của cái bụng khi
chúng ta hít vào thở ra. Tâm trí chúng ta có thể theo dõi sự phồng xẹp này
và khi đó trở thành chính sự phồng
xẹp. Điều này cũng cho chúng ta sự
thanh tịnh. Và trong sự thanh tịnh như vậy, sự hiểu biết có thể hiện lên.
Chúng ta có thể thấy cái bản chất nhất thời và tan biến của mọi hiện
tượng, và có thể chấp nhận sự kiện vô thường, khổ và vô ngã. Nếu chúng ta
có học về tỉnh giác và thiền Minh sát * , chúng
ta có thể thấy thời gian trôi qua một cách dễ dàng. Có nhiều
đối tượng mà chúng ta có thể quan sát
từ bất cứ oai nghi nào, nằm, ngồi, đi,
đứng. Chúng ta biết mình
đang ở tư thế nào, và nhận biết những
cảm giác đang nổi lên trong cơ thể.
Chúng ta có thể quan sát những cảm giác đó
với một tinh thần vững chãi và yên tĩnh. Và dĩ nhiên, tâm thức chúng ta
cũng là một đối tượng
để quan sát. Như vậy chúng ta có thể
quan sát các trạng thái của tâm thức. Tất cả mọi thứ
đều có thể
được quan sát - buồn bã, chán nản, ray
rứt, lo âu, suy nghĩ - và tất cả rồi sẽ đi
qua, nhường lại cho sự thanh thản, bình an, và trí tuệ. Các trạng thái
thiện hay bất thiện sẽ đến rồi
đi. Chúng ta sẽ có thể nhìn thấy tất
cả với sự hiểu biết và thanh tịnh.
* Thiền Minh sát là thiền Vipassana hay là
thiền Quán. Trong thiền Minh sát, người thiền dùng chánh niệm tỉnh thức
để quan sát bản chất của hiện tượng
tâm linh và thân xác, cuối cùng nhận chân các
đặc tính của vô thường, khổ và vô
ngã.
Đô i khi chúng ta có thể thể hiện từ bi tâm. Lần này qua
lần khác chúng ta có thể chúc mọi người :
Mong mọi người được khỏe mạnh và
hạnh phúc.
Mong họ không bị tác hại và nguy hiểm.
Mong họ không bị đau khổ về tinh
thần.
Mong họ không bị đau khổ về thể xác.
Mong họ lo cho bản thân một cách vui vẻ.
Với cách này chúng ta có thể dùng thì giờ một cách hạnh phúc ngay cả
khi chúng ta nằm liệt giường. Chúng ta có thể biểu hiện từ bi tâm với các
bác sĩ, y tá, và các người cùng nằm viện. Chúng ta cũng có thể gửi từ bi
tâm đến người thân thương, bà con và
bạn bè. Ngoài ra, thỉnh thoảng chúng ta có thể nằm ngẫm nghĩ về
đạo pháp, nhớ lại những gì chúng ta
đã đọc,
đã nghe hoặc
đã hiểu. Với sự suy niệm như vậy,
chúng ta có thể đáp ứng với sự
đau khổ bằng trí tuệ và lòng an tịnh.
Lời chỉ dẫn của đức Phật là trau
dồi tinh thần, hành thiền, và làm như vậy ngay cả lúc chúng ta bị bệnh.
Thật ra, chính những lúc đó mới là lúc
chúng ta càng phải nỗ lực vận động
tỉnh giác. Biết đâu, chúng ta có thể
đạt đến
Niết bàn tức là tuệ giác cao nhất khi chúng ta trút hơi thở cuối cùng!
Trong kinh, đức Phật có thuật trường
hợp một người bị bệnh - cơ thể bị hành hoành bởi cảm giác
đau đớn,
nặng nề, buốt giá, hủy hoại, mất tỉnh táo và khó chịu, làm cạn dần sức
sống. Nhưng người đó không chán nản.
Ông ta cảm nhận được samvega -
một cảm giác thôi thúc mình phải vươn lên ngay cả trong những giờ phút
cuối cùng. "Ông đã nỗ lực
đúng mức,"
đức Phật nói. "Với tâm thức hướng về
cõi Niết bàn, ông đã thể nhập chơn
như, ông chứng đắc
được bằng tuệ giác trực chỉ."
---*---
VINH DANH CHỊ KUAI CHAN
Tôi xin kể cho bạn nghe về một thiền sinh can
đảm bị ung thư phổi
đã chết bình an với chữ Niết bàn trên
môi. Tên chị là Kuai Chan và chị mất ngày 18 tháng Chạp năm
1992 tại nhà riêng ở Kuala Lumpur. Lúc đó
chị được 48 tuổi. Chồng chị, anh
Billy, nói cho tôi nghe chị đương
đầu với cơn bệnh như thế nào. Thấy câu
chuyện rất khích lệ, nhất là cho các thiền sinh, tôi xin phép anh
được thuật lại trong cuốn sách này, và
tôi xin cảm ơn anh đã
đồng ý.
Chị Kuai Chan bắt đầu phát giác ra
bệnh ung thư ngực vào tháng Tư năm
1989. Vào lúc đó chị
đã tập thiền Minh sát
được một năm.
Chị nhận tin về căn bệnh một cách
điềm tĩnh. "Vợ con chấp nhận rằng
đó là nghiệp của mình," anh Billy nói
như vậy. "Cô ấy không đổ thừa cho bất
cứ ai hoặc bất cứ cái gì. Cô ấy không cay đắng
hoặc bị buồn chán. Cô ấy rất vững vàng và giữ như vậy tới khi chết." Chị
Kuai Chan có đi mổ
để cắt phần ngực bị ung thư. Rồi sau
đó ba tháng chị phải mổ nữa khi người
ta phát hiện tế bào ung thư vẫn phát triển ở chỗ
đó. Sau
đó thì chị chữa bằng quang tuyến và hóa chất mà không bị phản ứng
phụ nhiều. Trong suốt thời gian điều
trị bệnh ung thư ngực, và trong sáu tháng sau cùng của
đời chị sau khi người ta tìm ra chị bị
ung thư phổi thời kỳ cuối, chị từ chối không dùng thuốc giảm
đau nữa. "Cô ấy không muốn dùng bất cứ
thuốc giảm đau nào cả," anh Billy nói.
"Ngay cả khi cơn đau lên
đến tột cùng, cô ấy từ chối không uống
một thuốc trị đau nào, kể cả panadol.
Cô ấy là một người rất can trường, rất mạnh mẽ và
đáng phục."
Quyết định của chị không chữa trị
bằng thuốc giảm đau là vì chị muốn giữ
tinh thần của chị càng rõ ràng sáng suốt càng tốt. Chị là một thiền sinh,
và mọi thiền sinh đều quý trọng tỉnh
giác của mình. Họ không muốn thuốc men nào làm sờn lụt tinh thần và gây
rối cho sự hành thiền. Do đó nếu họ
chịu đựng
được cơn đau họ sẽ làm vậy
ngay. Chị Kuan Chan đã sẵn sang
đối diện với cơn
đau, nên chị từ chối thuốc giảm
đau. Lúc
đầu chị chịu trị quang tuyến và hóa chất là vì có cơ may chữa lành
bệnh. Nhưng khi bị ung thư phổi và được
cho biết ở giai đoạn cuối, chị từ
khước việc trị quang tuyến và hóa chất mà bệnh viện khuyến cáo nên làm
để giảm bớt sự ngộp thở. Và khi một
bác sĩ đề nghị tiêm thuốc giảm
đau như là morphine, chị cũng từ chối
luôn.
Anh Billy nói rằng trong lần bị ung thư ngực
đầu tiên, chị Kuan Chan không bị
đau nhiều sau khi mổ. Vốn là một thiền
sinh, chị có khả năng quan sát cơn
đau khá dễ dàng và sự
đau đớn
rồi biến mất. Nhưng bệnh ung thư ngực là một thử thách
đích thực cho chị. Nhiều khi cơn
đau hoành hành dữ dội nhưng chị vẫn từ
chối thuốc men. Có những lúc chị gục ngã và nằm phục dưới sàn nhà khi cơn
đau tấn công, nhưng chị vẫn kiên trì.
Chị cũng bị ho dữ dội kéo dài nhiều ngày đêm.
Anh Billy luôn ở cạnh chị và khi chị mất ngủ
đêm này qua đêm khác, anh cố
làm dịu cơn đau và ho bằng cách bôi
dầu, xoa bóp và dùng các cách chữa dân gian. Anh
đưa chị đi
thầy thuốc Bắc xem mạch và mua nhiều thuốc thảo mộc sắc lên cho chị uống.
Anh Billy nói chính lòng tin và thiền tập
đã giúp chị Kuai Chan đương
đầu được
sự đau khổ với một mức
độ thanh thản và bình tĩnh
đáng nể. Cả hai anh chị trước
đây đã
học thiền với Hòa thượng Sujiva ở Taiping vào năm
1988. Sau đó chị Kuai Chuan tiếp tục
đi dự các buổi chuyên tu
định kỳ tại thiền viện của Hòa thượng
Santisukharama tại Kota Tinggi tỉnh Johor.
Khi định bệnh chị bị ung thư phổi
sau một đợt ho dài vào tháng Bảy năm
1992, bác sĩ nói chị chỉ sống được một
tháng nữa thôi. Ông chỉ chị Kuai Chan và anh Billy tấm hình quang tuyến X
cho thấy ung thư đã lan ra khắp hai lá
phổi. Ông còn tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy với hai lá phổi bị ung thư tàn phá
như vậy mà chị Kuai Chan vẫn đi
đứng bình thường và trông khá khoẻ
mạnh. Nhưng vị bác sĩ không biết rằng chị có một tinh thần sắt
đá. Chị sống
đến sáu tháng. Ðối với chị
đây không phải là một cuộc chiến
để được
sống sót mà là để chết với phẩm giá
con người. Khi chị và anh Billy gặp tôi tại Trung tâm Tuệ Giác ở Petaling
Jaya là nơi tôi đến viếng hồi tháng
Bảy, anh chị hỏi tôi họ còn làm được
cách gì nữa không. Tôi bảo: một thiền sinh thì biết làm gì khác hơn là
hành thiền! Tôi nói rằng tôi sẽ tiếp tục thiền quán cho
đến phút cuối nếu tôi là chị ấy. Hai
người rất phấn khởi và chị Kuai Chan lúc đó
đã quyết tâm dành những ngày cuối cuộc
đời để
thiền quán tại nhà. Anh Billy nói anh sẽ hỗ trợ chị
đến cùng.
Nhưng chị không ngờ cơn đau có thể
kinh khủng như vậy. Chị nói với anh Billy rằng chị không bao giờ tưởng
tượng con người có thể bị đau
đến mức như vậy. Ðặc biệt cơn
đau rất nặng ở phía lưng dưới,
đau như thiêu
đốt cắt da cắt thịt. Chị lấy hết sức
mạnh tinh thần để quan sát cơn
đau nhưng vẫn chịu không nổi vì
đau quá sức. Có những lúc chị nằm bất
lực không đủ sức theo dõi cơn
đau nữa. Chị chỉ biết cắn răng
chịu đựng. Nhưng chị không chịu uống
thuốc giảm đau. Chị hỏi thiền sư của
chị là Hòa thượng Ven Sujiva, và Hòa thượng khuyên chị thiền từ bi tâm và
theo dõi hơi thở để làm dịu bớt cơn
đau khi chị không chịu nổi
được nữa. Phương pháp này
đỡ cho chị
được phần nào, và khi nào cảm thấy
đỡ như vậy thì chị tiếp tục thiền Minh
sát. Một ngày nọ sau khi đấu tranh cơn
đau dai dẳng suốt ba tuần, chị chợt
trải qua một kinh nghiệm độc
đáo. Chị nói với anh Billy rằng trong
lúc theo dõi một cơn đau buốt, chị
quan sát thấy cơn đau nhỏ dịu lần lần
rồi rõ ràng biến mất. Chị nói chị cảm thấy như thể tất cả giác quan
đều dứt rời, như thể lúc
đó không còn có tâm thức và thể xác
nữa, cả tâm thức và thể xác đều biến
mất cùng với cơn đau. Chị nói với anh
Billy rằng chị thấy giống như mình chứng đắc
được Niết bàn, và thấy một niềm vui vĩ
đại trùm khắp lên mình. Sau kinh
nghiệm đó, chị không bao giờ bị lại
kiểu đau
đớn cùng tột đó nữa.
Mười ngày trước khi chị ra đi, anh
Billy đưa chị vào một bệnh viện tư vì
chị thấy khó thở. Các bác sĩ để chị
thở bằng dưỡng khí. Phim quang tuyến X cho thấy tế bào ung thư
đã lan rộng ra hơn, làm sự khó thở
càng tệ hơn. Lúc đó người ta mới gợi ý
là nên chữa bằng quang tuyến và hóa chất, không phải
để chữa dứt bệnh mà chỉ là
để làm tình trạng
đỡ hơn một chút. Nhưng chị Kuai Chan
không muốn tinh thần mình mất sáng suốt, nên
đã bác bỏ đề nghị
đó. Năm
ngày sau chị bảo anh Billy đưa chị về
nhà vì chị thấy không còn lý do gì nằm lại ở bệnh viện. Anh Billy
đặt một bình bơm dưỡng khí ở nhà, rồi
đưa chị về và cho chị thở dưỡng khí
để giúp chị thở. Trong năm
ngày kế tiếp từ ngày 13 tháng Chạp đến
lúc chị chết ngày 18 tháng Chạp, chị có vẻ như nằm mê ngủ, thỉnh thoảng
thức giấc một chút. Hai ngày trước khi chị chết, chị vẫn còn nhớ sinh nhật
thứ 17 của con gái chị, nhằm vào ngày 17 tháng Chạp. Chị nhắc anh Billy
luộc hai trứng cho con gái và cho con một bao lì xì
đỏ, và anh có làm
đúng theo chị dặn.
Vào ngày 18 tháng Chạp chị thức giấc vào lúc 9 giờ sáng với một nụ
cười. Chị hỏi: "Em ngủ li bì phải không?" Anh Billy
đáp: "Phải,
đã năm
ngày rồi. Bộ em không biết sao?" Chị ngạc nhiên. Chị có vẻ vui vẻ và mỉm
cười. Chị nói chị không cần uống thuốc thảo mộc nữa. Một lần nữa chị nhớ
sinh nhật của con gái, và mặc dù anh Billy đã
nói anh đưa cho con phong bì
đỏ rồi, chị lại nói với anh: "Anh thay
em cho con thêm một cái nữa đi."
Ðến khoảng 2 giờ chiều, anh Billy nói, chị Kuai Chan cố nói với anh một
điều gì
đó nhưng chị quá yếu không nói được.
Anh Billy nhắc chị giữ tinh thần cho thảnh thơi,
đừng nên lo cho anh và các con quá, và
cứ việc ra đi bình an. Anh nói hai
người đã bàn chuyện này rất nhiều lần
rồi, là nếu chị khỏi bệnh thì là điều
rất tốt, nhưng nếu không được thì cũng
không sao: chị nên ra đi nhẹ nhàng, vì
biết theo nghiệp con người, một ngày nào đó
ai cũng phải xa nhau.
Ðến 3 giờ chiều khi con trai chị, tuổi 15,
đi học về và thưa với mẹ: "Mẹ ơi, con về rồi," chị có hiểu cho dù
chị nói không được. Chị gật
đầu cho thấy là chị biết.
Ðến khoảng 3 giờ rưỡi chiều, anh Billy kể là chị Kuai Chan ráng nói
giọng Quảng đông rất rõ, "Em nhập Niết
bàn," ý muốn nói chị tin rằng chị đã
chứng đắc
được cõi Niết bàn. Và chị chỉ vào bụng mình. Ðó là câu nói cuối
cùng của chị, và chị từ trần một cách an bình khoảng 45 phút sau
đó. Anh Billy nói chị Kuai Chan, khi
hành thiền, thường theo dõi sự phồng xẹp của cái bụng mỗi khi hít vào thở
ra. Chị nhận ra rằng cái bụng phồng xẹp là một
đối tượng tốt
để gá ý vào, và chị vẫn thường khuyên
các thiền sinh khác cũng gá ý vào đó.
Nếu chúng ta dùng tỉnh giác và tập trung tư tưởng vào bất cứ hiện tượng
nào trong tâm thức hoặc thể xác chúng ta, cuối cùng rồi chúng ta sẽ thấy
những hiện tượng đó trổi dậy rồi tan
biến, từ đó chúng ta hiểu
được cái vô thường, khổ và vô ngã của
chúng. Một sự thấu triệt như vậy có thể lên
đến đỉnh cao là
đạt đến
Niết bàn, một trạng thái chấm dứt mọi sự khổ. Mọi ô uế tham, sân, si sẽ bị
triệt diệt khi chứng đắc Niết bàn ở
cảnh giới A la hán * .
* Khi khái nghiệm sự chấm dứt các hiện tượng hữu vi trong khi hành
thiền, người ta có thể chứng quả Niết bàn ở bốn tầng chứng thánh quả.
Mặc dù chứng quả Niết bàn hiểu theo nghĩa là sự chấm dứt các hiện tượng
hữu vi đều ngang nhau ở bốn giai
đoạn này, tức là Niết bàn chỉ có một
"vị nếm" duy nhất, đó là "vị nếm" về
sự an lạc, nhưng kết quả về mặt loại trừ các ô uế tâm thức thì khác nhau
tùy từng giai đoạn một.
Ở giai đoạn thứ nhất chứng sơ quả
sotapana (Tư Đà Hườn - Dự Lưu) tham
và sân đã bị suy yếu trầm trọng
nhưng chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Hai tât xấu này bị suy yếu
đến mức Tư
Đà Hườn không thể phạm ngũ giới
được nữa: không giết (dù là một côn
trùng), không trôm cắp và lường gạt, không tà dâm, không nói dối, và
không uống rượu hoặc dùng thuốc. Ở giai đoạn
thứ hai chứng quả sakadagami (Tư Đà
Hàm - Nhất Lai) các tật xấu càng bị làm suy yếu
đi. Vào giai
đoạn thứ ba chứng quả anagami (A Na
Hàm – Bất Lai), ái dục và sân hoàn toàn bị loại bỏ, nhưng vẫn còn chút
xíu dấu vết về si và lòng ham không có tính cách ái dục, thí dụ như muốn
tái sanh vào cõi trời. Ở giai đoạn
thứ tư chứng quả arahant (A La Hán – thánh quả thực thụ), mọi tham và si
đều bị loại trừ. Bậc A La Hán sống
cuộc đời cuối cùng của mình, cho nên
không còn tái sinh cho bậc này.
Nhớ lại cuộc đời của hai người, anh
Billy nói chị Kuai Chan là người vợ tuyệt vời nhất mà anh có thể mong ước:
"Chúng con lấy nhau được 22 năm
và nàng sát cánh với con qua mọi thăng
trầm, thử thách. Nàng có tính khí vui vẻ và tươi sáng. Nàng luôn luôn
thương yêu và quan tâm tới mọi người. Ngay cả khi
đang bị bệnh nàng vẫn tuyệt vời. Nàng
không bao giờ phàn nàn, chán nản. Người nàng không chứa một chút tức giận
cay đắng nào. Nàng giữ sự trầm lặng và
vững vàng, vẫn có thể cười mỉm hoặc cười to. Nàng chấp nhận mọi sự
đau khổ của mình một cách thanh nhã.
Nàng vẫn nói chỉ có cơ thể nàng bị bệnh chứ
đầu óc nàng thì không. Đầu óc
nàng vẫn tốt và khỏe mạnh. Sự quan tâm của nàng cũng vậy, chỉ lo cho người
khác chứ không lo cho mình. Nàng nói nếu được
sống thêm mười năm nữa thì nàng cũng
sẽ chỉ lo thực tập đạo pháp thêm. Nàng
cũng rất lo cho con và các con của con.
"Nói cho đúng nàng
đối đầu
cái khổ của mình còn giỏi hơn con. Con không thể chịu nổi khi thấy nàng bị
đau đớn
nhiều như vậy. Con cố tìm ra mọi thứ thuốc thảo mộc tốt nhất hy vọng có
thể chữa dứt hoặc đỡ bệnh
đôi chút.
Đôi khi con tự hỏi tại sao mọi việc này lại xảy
đến với nàng. Và con nghĩ: xin cho
nàng được sống thêm 10 năm
và con sống bớt 10 năm. Hãy
để con cho nàng 10 năm
của đời con. Nhưng dĩ nhiên
điều này không do ý của mình
đuợc. Nghiệp mới là tiếng nói cuối
cùng.
"Nàng vẫn thường nói với con: 'Đây
là nghiệp của em, Billy à. Được thôi.
Em không biết em đã làm gì trong các
kiếp trước. Em phải chấp nhận nghiệp báo của em.'
Đôi khi nàng lại nói: 'Billy, em xin
lỗi đã mang lại cho anh quá nhiều rối
rắm, tất cả sự khổ ải này. Anh biết không Billy, kiếp này em mắc nợ anh
nhiều lắm.' Con bảo nàng đừng nói
những lời như vậy. Con nói nàng không nợ con cái gì hết. Chúng con là vợ
chồng, chẳng phải vậy sao ? - và nàng luôn là một người vợ rất tốt
đối với con. Chúng con
đã trải qua bao thăng
trầm với nhau, và bây giờ trong giây phút nàng cần con nhất, con sẽ ở cạnh
nàng. Con nói với nàng, trấn an nàng rằng mình sẽ chìm chung hoặc bơi
chung với nhau.
"Vào những lúc khác nàng nói với con: 'Billy,
đây là chánh giáo, chánh
đạo, em rất chắc như vậy,' và nàng
nhắc con chớ nên xao lãng việc hành thiền, phải thực hành nhiều chứ không
được lơ là tự mãn. Trước
đây chúng con
đã mất một thời gian
đi tìm một
đạo pháp mà mình có thể nương tựa
được, và khi chúng con biết
được Phật giáo và thiền Minh sát năm
1988, chúng con theo ngay. Thầy biết không, chúng con thường vừa uống trà
vừa bàn về đạo pháp hàng
đêm. Chúng con có một mối liên hệ vô
cùng thân thiết."
Em bà con của chị Kuai Chan, tên Sati, có một lần hỏi là chị có sợ bệnh
ung thư không, và chị nói không, chị không sợ bệnh
đó. Chị sẵn sàng
đương đầu
với cơn đau mà không cần dùng thuốc.
Chị quả là một thiền sinh dũng cảm, đối
diện bao bất lợi mà vẫn kiên trì trong việc thực hành
đạo pháp. Chị làm tôi tự hỏi nếu mình
là một nhà sư mà nằm trong trường hợp của chị, bị ung thư như vậy, thì tôi
có đủ sức cưu mang
đến mức
đó, có đủ can
đảm và chịu
đụng như vậy không? Chị quả là một thí
dụ đầy khích lệ, một người thầy dạy
bằng thí dụ cho tất cả chúng ta. Tôi phải cảm ơn anh Billy
đã vứt bỏ mọi riêng tư
để chia xẻ với chúng ta câu chuyện
đầy cảm kích này
để chúng ta thấy khích lệ trong việc
tu tập và quyết tâm cố gắng hơn nữa.
Anh Billy yêu cầu tôi công khai ghi nhận lòng biết ơn của anh
đối với Hòa thượng Ven Sujiva và các
vị sư và thiền sinh khác vì sự giúp đỡ
tử tế dành cho anh và chị Kuai Chan. Đặc
biệt các bạn thiền sinh cùng học ở Trung tâm Tuệ Giác Phật giáo ở PJ
đã hỗ trợ và khuyến khích tinh thần
rất nhiều cho chị Kuai Chan trong suốt thời gian chị bị bệnh. "Con không
biết làm sao để bày tỏ lòng biết ơn
đến tất cả mọi người
đã giúp chúng con. Xin thầy nói với
mọi người rằng con muốn cảm ơn họ, và nói: 'Xin cảm ơn. Cảm ơn rất nhiều
về mọi việc các vị đã làm cho Kuai
Chan'."
---*---
CHÚNG TA PHẢI LÀM PHẦN VỤ CỦA
MÌNH
Ở phần trước tôi có nói là khi tôi gặp người bệnh, người sắp chết và
người vừa chết, trong đầu tôi nảy lên
hai quyết tâm. Một là phải nhận cơn đau
và cái chết với một nụ cười, phải tiếp tục tỉnh giác và
điềm đạm
cho tới lúc cuối. Giờ đây tôi xin
được nói về quyết tâm thứ hai của tôi.
Vâng, nhận thấy được việc loài người
chúng ta và đúng ra là tất cả muôn
loài đều phải chịu quá nhiều sự khổ,
tôi nghĩ việc tối thiểu mà chúng ta có thể làm
được khi còn sống là góp phần vào việc
giảm bớt khổ ở chung quanh chúng ta.
Nhiều người đã phục vụ nhân loại
qua nhiều cách tuyệt vời. Mẹ Theresa chẳng hạn,
đã hiến trọn
đời ngài
để chăm sóc giới thiếu thốn
cùng đinh. Nhiều người và tổ chức cung
cấp dịch vụ xã hội cho người bệnh, người tàn tật, người nghèo
đói, người già, người sắp chết và
những người khác. Tất cả những bậc khai sáng tôn giáo
đều dạy môn
đệ phải làm từ thiện.
Đức Chúa Giê Su Ki Tô nói: "Thương yêu
người hàng xóm như thương yêu chính mình." Và Ngài ca tụng những ai cho
người đói
ăn, cho người khát uống, cho người ở trần quần áo, cho người cùng
khổ chỗ ở, thăm người bệnh và người bị
tù tội, nói rằng "Ngươi làm giúp cho một trong những người anh em khổ nhất
này của ta, chính là ngươi đã làm cho
ta vậy." Trong kinh Koran có một câu nói tương tự khi nhà Tiên tri
Muhammad tuyên bố rằng đức Chúa Trời
có thể nói với một người nào đó trong
ngày Phán xét: "Ta bị đói mà ngươi
không cho ta ăn. Ta bị bệnh mà ngươi
không thăm viếng ta." Và khi người
đó hoang mang hỏi làm sao việc
đó có thể xảy ra
được, đức
Chúa Trời phán rằng: "Có một người xin bánh mì mà ngươi không cho. Có một
người bị bệnh và ngươi không đi thăm."
Bên Phật giáo tuy chúng ta không tin vào một
đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào
lòng tốt và được dạy không
được làm hại hoặc giết cả con vật hoặc
sâu bọ. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả - làm tốt thì
được tốt và làm xấu thì bị xấu. Do
đó chúng ta
được dạy bảo phải luôn luôn làm tốt:
tránh sát sanh, ăn cắp, lừa gạt, tà
dâm, nói láo và uống rượu hoặc dùng thuốc. Chúng ta phải luyện mình
để đạt
tới mức mình làm việc tốt là vì đó là
việc tốt, chứ không phải vì sợ xuống địa
ngục hoặc sẽ được ân thưởng về sau.
Chúng ta sẽ làm tốt vì chúng ta vui thích làm tốt và tự nhiên có khuynh
hướng làm tốt. Nói cách khác, chúng ta không còn biết làm gì hơn là làm
thiện, làm tốt. Thiện và chúng ta là một.
Đứ c Phật kêu gọi tín đồ phải
có lòng thiện và quan tâm đến người
khác. Khi bố thí, ngài nói bất cứ một nỗ lực nhỏ nào cũng quý. Ngay cả ném
vụn bánh mì xuống nước để cho cá
ăn cũng
được đức Phật khen ngợi. Có một
lần nọ khi vài Tỳ kheo không chăm sóc
một Tỳ kheo bị bệnh đức Phật
đã tự tắm cho vị Tỳ kheo
đó và khiển trách các Tỳ kheo kia, nói
rằng : "Ai chăm sóc người bệnh chính
là chăm sóc cho Như Lai vậy."
Đức Phật khuyến khích các bậc vua chúa
nên trị vì với lòng nhân ái. Ngài khuyên họ nên diệt nạn nghèo
đói vì nó góp phần vào nạn
ăn cắp và các tội ác khác. Vốn là một
người yêu chuộng hòa bình, đức Phật
đã từng
đứng ra can thiệp khi hai quốc gia định
gây chiến tranh chỉ vì tranh giành một khúc sông.
Đức Phật hỏi hai bên: Cái gì quan
trọng hơn - nước lã hay máu người đổ
xuống vì chiến tranh. Hai bên nhận ra sự phi lý của cuộc tranh chấp và rút
lui không đánh nhau nữa.
Một trong những nhà vua nhân từ nhất đã
chịu ảnh hưởng giáo huấn của đức Phật
là vua A Dục (Asoka), trị vì Ấn độ vào
thế kỷ thứ ba trước Thiên chúa giáng sinh, tức khoảng 200 năm
sau khi đức Phật nhập diệt. Vốn nức
tiếng về lòng nhân đạo, vua A Dục còn
dành sự rộng rãi từ tâm đến cả loài
thú. Ngài đã từng phái y sĩ chữa bệnh
cho cả người lẫn thú. Ngài xây công viên, nhà nghỉ cho người lữ hành và
dưỡng đường cho người nghèo và người
bệnh. Mặc dù là một Phật tử thuần thành, vua A Dục cho phép nhân dân
được theo bất cứ
đạo nào và còn hỗ trợ cho các giáo
phái khác. Một trong những chiếu chỉ danh tiếng của nhà vua khắc trên
đá có nói là ngài "muốn tín
đồ của mọi tín ngưỡng
đến sống bất cứ nơi nào trong nước của
ngài…(Ngài) vinh danh tín đồ của bất
cứ tôn giáo nào, tu sĩ cũng như thường dân, bằng cách cho quà hoặc bằng
những cách bày tỏ lòng quý mến khác." Ngài muốn mọi tôn giáo
đều được
vinh danh bởi vì "khi vinh danh mọi tín ngưỡng, một người có thể tán dương
tín ngưỡng mình và đồng thời
đóng góp cho tín ngưỡng của những
người khác…Do đó rất nên có sự hòa
đồng…(và vua A Dục) muốn tín
đồ mọi tín ngưỡng biết về giáo lý của
người khác và để thu thập những giáo
lý tốt…"
Vua A Dục xem vai trò của mình là một người cha nhân từ và xem thần dân
như con, nói rằng ngài muốn dân có được
"mọi kiểu thịnh vượng và hạnh phúc." Nếu đức
Phật chứng kiến được triều
đại của vua A Dục chắc sẽ vui sướng
khi thấy lời dạy của mình được vị vua
vĩ đại này theo sát một cách tận tình.
H.G. Wells, trong cuốn sách Lược Sử của ông, nói rằng trong số
những vị vua trên thế giới, "tên tuổi vua A Dục sáng chói, và hầu như sáng
một mình, như một vì sao sáng." Chắc chắn mọi chính quyền sẽ thành công
nếu biết nghiên cứu và áp dụng phương thức nhân
đạo của vua A Dục trong việc cầm
quyền.
Và chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta theo lời Phật dạy chúng ta sẽ hành
động theo cách riêng của chúng ta như
vua A Dục để làm dịu bớt sự
đau khổ và mở rộng hòa bình và hạnh
phúc. Chính đức Phật
đã tự làm một thí dụ tốt
đẹp nhất
để chúng ta theo, vì ngài đã
dâng hiến cuộc đời của mình
để cho mọi người thấy con
đường thoát khỏi sự khổ. Vâng,
đức Phật không chỉ muốn làm giảm khổ
mà là diệt khổ hoàn toàn. Và sau khi đã
chứng ngộ ngài dùng trọn 45 năm còn
lại của đời mình
để dạy người ta cách diệt khổ. Ngài
dạy con đường tỉnh giác.
Đứ c Phật nhận ra rằng chỉ bằng một cách thật triệt
để thì người ta mới có thể diệt khổ.
Mặc dù việc săn sóc người
đau ốm, chữa lành bệnh tật, cung cấp
thực phẩm và giúp đỡ vật chất cho
người thiếu thốn là một phần của việc cứu khổ,
đức Phật muốn làm hơn là chỉ chữa
những triệu chứng: ngài tìm một sự chữa dứt hoàn toàn cơn bệnh khổ.
Do đó ngài chiêm nghiệm về toàn bộ vấn
đề sinh và tử. Và ngài thấy
để giải quyết vấn
đề ở tận gốc rễ của nó, chúng ta cần
hoàn toàn thay đổi tâm thức. Sự
đau khổ chủ yếu là do tâm thức. Khi
một người bị đau về thể xác, người
đó thường phản ứng bằng
đau buồn, sợ hãi và chán nản. Nhưng
đức Phật nói nếu là một người biết
thiền thì người đó có thể chịu
đuợc cơn
đau thể xác mà không bị đau về
tinh thần. Nói cách khác, người đó
không phản ứng với cơn đau bằng
đau buồn, lo âu, chán nản, thù oán,
tức giận, v.v…Ngược lại người đó có
thể đáp ứng với sự yên tĩnh và bình
thản. Người đó còn có thể vui vẻ và
ngay cả an ủi khuyến khích những người khác!
Vậy thì đức Phật thấy vấn
đề chủ yếu là do tâm. Nếu chúng ta có
thể loại trừ được tham, sân, si (si
đây là không thấy rõ thực chất của
cuộc đời) ra khỏi tâm thức chúng ta,
đức Phật nói chúng ta có thể hoàn toàn
chế ngự và tiêu diệt được sự khổ não
về tinh thần, như là băn khoăn
và lo lắng, sầu não và than van. Về sự đau
khổ thể xác, chúng ta phải thừa nhận là điều
đó không tránh khỏi khi chúng ta có
cái thân xác này. Tất cả mọi chúng ta đều
biết sự thật là không ai có thể thoát khỏi lão, bệnh, tử. Nhưng
đức Phật nói một khi tâm thức chúng ta
được gạn sạch không còn mọi bợn nhơ
của tham, sân, v.v…, thì cơn đau thể
xác không còn làm chúng ta sợ hãi nữa. Không gì lay chuyển chúng ta
được nữa. Không gì làm chúng ta tức
bực được nữa, dù
đó là cơn
đau xé người nhất mà những loại bệnh như ung thư có thể mang tới.
Tâm thức chúng ta có thể vẫn giữ điềm
nhiên. Thế cho nên có lần ngài Anurudda đệ
tử của đức Phật
được hỏi là làm sao ngài có thể giữ sự
điềm nhiên khi bị bệnh quá nặng, ngài
Anurudda trả lời rằng đó là vì ngài
đã làm chủ
được tâm thức của mình qua việc thực
hành tỉnh giác do đức Phật dạy.
Và cuối cùng, đức Phật cũng dạy là
nếu người nào đã
đạt đến
mức độ diệt
được tham, sân, si, thì sẽ không còn
phải tái sinh nữa. Khi người đó chết,
đó là kiếp cuối. Người
đó đã
đạt đến
cõi Niết bàn cực lạc. Nếu không phải tái sinh người
đó không bao giờ phải trải qua lão,
bệnh, tử. Đức Phật nói,
đó mới là diệt khổ.
Giảm bớt sự khổ
Trên con đường nỗ lực chấm dứt hoàn
toàn sự khổ, chúng ta nên giúp cứu khổ bằng mọi cách trong khả năng
của chúng ta. Đúng vậy, rõ ràng là
trên thế giới không thiếu gì khổ ải. Nhiều người chịu khổ bằng nhiều cách
khác nhau. Nếu chúng ta đọc báo chúng
ta sẽ thấy cái khổ ở mọi nơi. Người ta cãi nhau,
đánh nhau, giết nhau, cướp bóc, dối
trá, lừa đảo, và gây khổ cho nhau bằng
đủ mọi cách. Chúng ta làm khổ nhau vì
sự mê muội của chúng ta. Ngoài ra, còn biết bao thiên tai, tai nạn, rủi
ro, đói khát, bệnh tật. Và lão, bệnh,
tử luôn luôn theo sát chúng ta từng bước.
Vâng, thế giới tràn đầy khổ ải. Tại
sao chúng ta lại đổ thêm khổ ải vào
đó? Chúng ta chẳng nên làm giảm bớt
khổ ải ư? Ngay cả nếu chúng ta không làm được
nhiều chúng ta cũng có thể làm được
chút ít. Mọi nỗ lực nhỏ bé đều tốt cả.
Như là có người đã nói: Không có
cái sai lầm nào lớn hơn cái sai lầm mình không chịu làm gì hết vì nghĩ
mình chỉ có thể làm được quá ít.
Mỗi chúng ta đều có thể làm
được một chút gì
đó tùy theo khuynh hướng và khả năng
của mình. Trước hết chúng ta có thể bắt đầu
bằng cách đối xử tử tế hơn. Chẳng hạn
như chúng ta có thể kiểm soát cơn giận của chúng ta. Mỗi lần chúng ta giận
dữ chúng ta gây khổ não cho chính chúng ta và người khác. Nhưng nếu chúng
ta chỉ cần kiểm soát sự giận dữ và nuôi dưỡng lòng bao dung và nhẫn nại,
tình thương và từ tâm, chúng ta có thể trở thành những người tử tế hơn, và
điều đó
sẽ giúp rất nhiều cho việc quảng bá niềm vui và hạnh phúc.
Nói cách khác, chúng ta phải bắt đầu
bằng cách rửa sạch tâm thức chúng ta khỏi những nội dung bất thiện và tiêu
cực của tham, sân, si. Dựa vào khả năng
kiểm soát được các trạng thái bất
thiện này, chúng ta sẽ phát triển tình thương và từ tâm. Chúng ta có thể
tử tế hơn trong quan hệ với những người ở gần và ở chung quanh chúng ta.
Chúng ta có thể cố gắng nói chuyện một cách thương yêu và dịu dàng hơn, và
tránh mọi phát ngôn cộc cằn lỗ mãng. Chúng ta có thể trở nên quan tâm và
chăm sóc hơn. Nếu chúng ta chỉ lo cho
chính quyền lợi của mình thì chúng ta sẽ không thể thương yêu nhiều
được. Muốn thương yêu
được nhiều chúng ta phải quan tâm
đến người khác chứ không phải bản thân
chúng ta. Vậy chúng ta phải tự hỏi, mình có thưong yêu
đủ chưa? Mình có quan tâm
đủ chưa? Nếu chưa thì chúng ta chưa
thể làm gì để giảm bớt sự khổ . Bởi
chính từ tình thương yêu thật sự mà chúng ta có thể hành
động.
Một thiền sư có lần nói nếu chúng ta muốn biết mình có yêu thương nhiều
không, một ngày nào đó chúng ta nên
đến cạnh người yêu, người vợ của mình
và nhẹ nhàng cầm tay nàng. Nhìn sâu vào mắt nàng và hỏi : "Em thương,
trước giờ anh có yêu em đúng mức
không? Anh có yêu em đủ không? Anh có
làm em hạnh phúc không? Nếu không, em có thể vui lòng nói cho anh biết anh
thiếu sót những gì để anh có thể thay
đổi và yêu em nhiều hơn?" Nếu bạn hỏi
nàng dịu dàng với tình yêu và quan tâm thật sự, nàng có thể sẽ bật khóc.
Và điều
đó, vị thiền sư nói, là một dấu hiệu tốt. Vì
điều đó
có nghĩa bạn đã chạm
đúng chỗ rung
động của tim nàng. Và giữa hai người
có thể có đối thoại thông cảm với nhau
được.
Và rồi nàng có thể vừa khóc vừa nói với bạn rằng có những lúc bạn rất
vô tâm đối với nàng. Chẳng hạn, nàng
có thể nói: "Anh không còn mở cửa xe cho em nữa. Hồi trước khi anh mới
theo đuổi em và ngay cả trong năm
đầu tiên mới lấy nhau anh vẫn còn mở
cửa cho em. Anh thường coi kỹ xem em ngồi đàng
hoàng chưa rồi nhẹ nhàng đóng cửa lại
cho em. Bây giờ thì anh không còn làm như vậy nữa. Anh vào xe trước tiên
và lo mở máy xe. Em phải tự mở cửa xe và lo chui vào xe thật lẹ, nếu không
anh phóng xe đi trước khi em kịp
đóng cửa! Em cảm thấy muốn khóc khi
anh hành động như vậy. Chuyện gì
đã xảy đến
cho con người nhẹ nhàng và quan tâm mà em lấy làm chồng?"
Và rồi nàng có thể nói tiếp: "Anh không còn nắm tay em khi mình băng
qua đường. Anh chỉ việc
đi trước và coi như em phải theo sau.
Khi vào tiệm ăn cũng vậy. Anh không mở
cửa mời em vào trước. Anh không kéo ghế cho em ngồi. Anh không hỏi em muốn
ăn gì mà cứ việc kêu những món anh
thích. Anh không còn mua áo quần đẹp
cho em. Anh không mua quà cho ba má em, ngay cả vào những dịp vui. Và tuy
anh còn nhớ cho em quà sinh nhật, anh không còn kèm theo những thiệp sinh
nhật dễ thương với những thông điệp
tuyệt đẹp và chân tình. Nói tóm lại,
anh không còn làm tất cả những điều dễ
thương nho nhỏ mà anh thường làm khi mới tán và lấy em. Nếu em biết anh sẽ
thay đổi như vầy, em có thể
đã nghĩ lại về việc lấy anh. Lâu nay
em tự hỏi không biết anh có thật sự yêu và quan tâm tới em nữa không!" Và
nàng có thể nói dài dài theo kiểu này, liệt kê những sự buồn bực của nàng.
Nàng có thể khóc to hơn và bạn sẽ giật mình, vì bạn không biết nàng
đã để
bụng những việc như vậy, đã nhớ tiếc
những cử chỉ dễ thương mà bạn đã vốn
thường làm cho nàng, nhớ tiếc những sự biểu lộ thương yêu chăm
sóc tuy nhỏ nhoi nhưng quan trọng đó.
Dĩ nhiên, chính bạn cũng có thể có vài điều
phàn nàn chính đáng.
Đây sẽ là lúc nói ra, nhưng nói một
cách dịu dàng. Bạn có thể nói: "Ồ, em yêu, anh xin lỗi về cách thiếu tình
cảm, thiếu suy nghĩ mà anh đã xử sự
với em. Em tin anh đi, anh thật sự hối
lỗi. Em tha lỗi cho anh nhé. Từ nay trở đi
anh sẽ đền bù cho em. Anh hứa anh sẽ
không còn vô tâm nữa. Anh sẽ săn sóc
em. Anh sẽ làm trở lại tất cả những điều
nhỏ nhặt mà anh đã ngừng làm cho em.
Anh không biết rằng em nhớ tiếc những điều
đó.
"Nhưng em yêu, xin đừng nổi giận vì
những điều anh sắp nói ra
đây. Mặc dù anh có lỗi, em cũng nên
biết rằng bây giờ em cũng không còn làm những
điều mà em đã từng làm cho anh
trước đây. Chẳng hạn như, em biết anh
thích ăn món kangkung chiên mà em
thường nấu cho anh. Nhưng sau này em không bao giờ nấu món
đó nữa,
đó là chưa kể món canh tôm chua cay và mấy món khác. Em biết không,
câu tục ngữ nói con đường
đến con tim của một người
đàn ông là qua ngã bao tử vẫn còn
đúng đó.
"Hồi trước em thường đánh thức anh
dậy bằng một nụ cười và một cái hôn nhẹ lên má nhưng bây giờ em không còn
làm nữa. Đôi khi em thức dậy khá trễ
và anh phải tự làm đồ
ăn sáng hoặc
ăn ở sở. Ngày xưa em thường chờ anh ở
cửa khi anh đi làm về và hỏi anh có
một ngày suông sẻ không. Em thật sự muốn biết và em rất quan tâm an ủi khi
anh trải qua một ngày không vui. Nhưng dạo này em có vẻ không cần biết anh
đi làm như thế nào, có một ngày ưng ý
hay khó khăn. Em lo xem ti vi, la lối
con cái, hoặc đi
đến tiệm uốn tóc hoặc làm gì khác. Khi
anh nói lên: "Em ơi, anh về rồi," đôi
khi em la ngược lại anh và nói những điều
không được thân thiết lắm." Vân vân và
vân vân.
Và như vậy cả hai người có thể ngồi trao
đổi một cách chân tình. Sự trao đổi
đối thoại là rất quan trọng trong quan
hệ hai người. Có phải vậy không? Các quan hệ bị tan vỡ khi không có
đối thoại, hai bên giữ kín sự bất mãn
của mình, nuôi dưỡng chúng trong tim. Nhưng khi có trao
đổi thì mới có thông cảm. Khi hai bên
bày tỏ những gì mình giữ trong lòng thì sẽ dẫn tới cảm thông và tình yêu.
Nếu hai người cùng quan tâm và quý trọng tình cảm của mình thì họ có thể
đối thoại và sửa
đổi nếu cần. Như thế quan hệ hai người
càng ngày càng trở nên vững mạnh và cao đẹp
hơn.
*
Mỗi người chúng ta cần đóng góp
theo cách riêng của mình, theo bất cứ cách nào mà mình biết. Chẳng hạn,
trong trường hợp của tôi, vì là một nhà sư nên tôi
đóng góp bằng cách chia xẻ chút kiến
thức về Phật pháp mà tôi biết, cho dù sự hiểu biết của tôi rất hạn chế.
Tôi có thể khuyến khích mọi người ngồi thiền và hướng dẫn họ chút ít trên
đường tu học. Tôi có thể kêu gọi mọi
người thương yêu quan tâm đến nhau
hơn, tử tế và kiên nhẫn với nhau hơn, v.v. và v.v…Dĩ nhiên chúng ta không
hoàn toàn và có những lúc chúng ta không làm tròn vai trò của mình. Có câu
tục ngữ nói rất đúng, rằng nói thì dễ
nhưng thực hành lời mình nói là rất khó. Vì vậy tôi nên là người
đầu tiên
đứng ra nhìn nhận những nhược điểm
của mình và chấp nhận sửa sai. Tuy nhiên khi ai phán xét tôi hay những
người khác thì xin nghĩ tới những yếu tố giảm khinh chẳng hạn như có ý
định tốt. Chúng ta thường có ý tốt và
không định hại ai. Nhưng do sự sơ hở,
yếu kém, thiếu nhẫn nại, thiếu bao dung, tự kiêu tự
đại v.v…chúng ta có thể làm khổ người
khác cho dù chúng ta có ý tốt. Nhưng một người cao thượng có thể thông cảm
và tha thứ. Khả năng tha thứ là một
tính chất tuyệt vời, vì vậy mới có câu làm sai là người, tha thứ là
thánh.
Bạn cứ sẵn sàng cho và chỉ có bạn mới biết cách nào mình có thể
đóng góp hay nhất. Tất cả chúng ta
đều có sở trường, tài nghệ và năng
khiếu khác nhau. Điều kiện và hoàn
cảnh mỗi người một khác, cho nên mỗi chúng ta có thể
đóng góp theo cách riêng của mình, tùy
theo điều kiện và khuynh hướng của
mình. Điều quan trọng là chúng ta có
cố gắng; chúng ta làm theo khả năng
của mình. Như chúng ta đã nói, bất cứ
một đóng góp nhỏ nhặt nào cũng tốt, và
sau một thời gian thì chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta
đã làm khá nhiều. Và
đó là dịp
để ta hoan hỉ. Dĩ nhiên điều
đó không có nghĩa là chúng ta nên
ngừng nghỉ trên sự hoan hỉ đó. Còn rất
nhiều việc phải làm, nên chúng ta phải tiếp tục cố gắng, tiếp tục tiến
lên.
---*---
THƯƠNG YÊU LÀ THÔNG CẢM
Muốn chết lành, chúng ta phải sống tốt. Nếu chúng ta
đã sống tốt thì chúng ta có thể chết
lành. Sẽ không có hối tiếc. Chúng ta có thể ra
đi bình yên, hài lòng rằng mình
đã làm tất cả những gì mình có thể làm
được, rằng trong
đời mình
đã phân phối sự cảm thông và hạnh phúc, rằng mình
đã sống theo những nguyên tắc của mình
và theo lý tưởng yêu thương và từ tâm.
Thưong yêu là thông cảm. Tình thưong yêu không phán xét hay lên án.
Tình thưong yêu lắng nghe và thông hiểu. Tình thưong yêu quan tâm và thiện
cảm. Tình thưong yêu chấp nhận và tha thứ. Tình thưong yêu không có ranh
giới. Tình thưong yêu không phân biệt, không nói: Tôi theo Tiểu thừa, anh
theo Đại thừa hoặc Phật giáo Tây Tạng.
Tình thưong yêu không nói: tôi theo Phật giáo còn anh theo Thiên chúa
giáo, Hồi giáo, hoặc Ấn độ giáo. Hoặc
tôi là người Hoa, chị là người Mã lai, người Ấn, người Âu. Hoặc tôi là
người Đông phương còn ông là người Tây
phương; hoặc tôi là người Mã, anh là người Nhật, người Mỹ, người Miến,
người Thái, vân vân.
Tình thương yêu vượt khắp mọi rào cản. Tình thương yêu thấy và cảm nhận
được chúng ta
đều cùng một giống,
đó là nhân loại. Nước mắt chúng ta
đều như nhau, chúng
đều mặn, và máu chúng ta
đều đỏ.
Khi đã có tình thương yêu và từ tâm,
chúng ta có thể thông cảm với một người khác. Chúng ta có thể thấy rằng
chúng ta cùng đi trên một con thuyền
trong cơn sóng gió biển cả cuộc đời.
Chúng ta là bạn khổ đồng hành trong
biển trầm luân, cái vòng lẩn quẩn sinh tử. Chúng ta là anh chị em lẫn
nhau.
Một khi chúng ta đã thấy và cảm
nhận điều này, thì mọi rào cản về
chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ, v.v…sẽ sụp đổ.
Chúng ta có thể vươn ra với một con tim yêu thương thuần khiết. Chúng ta
có thể hiểu và cảm nhận được cái khổ
của người khác. Từ tâm sẽ bao trùm lồng ngực của ta. Và trong lời nói hoặc
hành động của chúng ta, người khác sê
cảm nhận được tình thương yêu và từ
tâm này. Nó sẽ làm dịu và chữa lành khổ ải. Nó sẽ góp phần vào hòa bình và
cảm thông.
Người
đàn ông và con
bò cạp
Tình thưong yêu đi
đôi với từ tâm. Khi chúng ta có một
con tim thương yêu, từ tâm sẽ nổi lên dễ dàng trong chúng ta. Mỗi lần thấy
một người chịu khổ, chúng ta thấy có nhu cầu vươn tới
để làm giảm sự khổ cho người
đó. Từ tâm cho ta một
đức tính muốn loại trừ hết sự khổ.
Đặc biệt chúng ta có thể nhận ra ngay
một khi chúng ta hành động bộc phát
để chấm dứt hoặc giảm bớt nỗi khổ của
một người khác. Câu chuyện sau đây sẽ
giúp ta hiểu rõ hơn: Một người đàn ông
nọ thấy một con bò cạp sắp chết đuối
trong một vũng nước. Tự nhiên thấy lòng muốn cứu nổi lên, ông ta không
chần chừ chút nào và vươn tay ra vớt con bò cạp khỏi vũng nước,
đặt nó xuống chỗ khô ráo. Con bò cạp
liền chích ông ta. Và vì muốn qua đường,
nó đi tiếp và lại lọt vào vũng nước!
Thấy nó sắp chết đuối, người
đàn ông lại vớt nó lên lần thứ hai và
lại bị nó chích nữa. Một người bên đường
thấy vậy bèn hỏi: "Tại sao ông ngu quá vậy? Bây giờ ông thấy ông bị chích
chẳng những một lần mà tới hai lần! Thật là điên
đi cứu một con bò cạp." Người
đàn ông trả lời: "Thưa ông, tôi không
thể không làm được. Ông thấy không,
đặc tính của con bò cạp là chích. Còn
đặc tính của tôi là cứu. Tôi không thể
làm khác hơn là cứu con bò cạp."
Đú ng vậy, người đàn ông nọ
có lẽ nên dùng trí khôn và lấy một que cây để
vớt con bò cạp. Nhưng có thể ông ta nghĩ rằng ông ta có thể vớt nó bằng
tay với một cách nào đó khỏi bị chích.
Hoặc ông ta có thể nghĩ rằng một con bò cạp trong cơn hoạn nạn như vậy sẽ
không chích ông. Trong bất cứ trường hợp nào, bài học của câu chuyện này
là phản ứng tức thời của người đàn ông
muốn cứu một sinh mạng khác, dù đó chỉ
là một côn trùng. Nó cũng cho thấy người này có từ tâm cao
đến độ
dù mình chỉ nhận sự vô ơn của người mình giúp,
điều đó
cũng không sao. Tính chất con người của ông là giúp
đỡ, và nếu phải giúp nữa thì ông cũng
làm. Ông không biết ghim gút trong lòng sự cay
đắng thù hận nào!
Do đó từ tâm là ngôn ngữ của con
tim. Khi chúng ta đã
được tình thương yêu và từ tâm thúc
đẩy, chúng ta vươn ra giúp
đỡ người khác bất kể màu da, tôn giáo,
quốc tịch. Khi đã có từ tâm thì việc
xác định màu da, tín ngưỡng v.v…trở
thành thứ yếu, trở thành không quan trọng nữa. Ngoài ra, lòng từ tâm
đó không chỉ dành cho con người mà cho
cà mọi sinh vật kể cả thú vật và côn trùng.
Nhân dịp nói về chủ đề từ tâm là
ngôn ngữ của con tim kể trên, tôi xin hiến bạn một bài thơ:
NGÔN NGỮ CỦA TỪ TÂM
Đại, Tiểu thừa, Mật tông
Đạo Chúa, Phật, Hồi, Ấn
Người Hoa, Ấn, Á-Âu
Người Mã, Nhật, Mỹ, Phi
Da trắng, vàng, đen, nâu
vân vân và vân vân
chọn người nào cũng được
Điều đó
quan trọng gì?
Ngôn ngữ của từ tâm
là ngôn ngữ con tim!
Khi con tim lên tiếng
Ngàn đóa hoa
đua nở
Và thương yêu tràn trề
như ánh sáng ban mai
chiếu xuyên qua cửa sổ
Không cần nói lên lời
chỉ cái nhìn, vuốt nhẹ
sẽ đủ
để nói lên
điều ngàn lời không nói
Và Từ tâm sáng rực
như vì sao rạng rỡ
trong bầu trời đêm
đen
Rào cản sẽ sụp đổ
thành kiến sẽ ngả nghiêng
Quyền tối cao lấy lại
Thương yêu và Từ tâm
chế ngự mọi ngờ sợ
làm lành các vết thương
sẽ ngự trị tất cả
Tôi nghĩ nếu chúng ta đã cố nuôi
dưỡng loại tình thương yêu và từ tâm như vậy, thì khi
đến lúc chúng ta phải từ trần, chúng
ta sẽ ra đi một cách bình yên. Ngay cả
nếu chúng ta chưa thành công một trăm
phần trăm trong nỗ lực thương yêu toàn
hảo, chúng ta vẫn có thể vui sướng và hài lòng là mình
đã cố hết sức. Và chắc chắn là chúng
ta đã thành công tới một mức nào
đó.
Ngũ giới
Nếu chúng ta đã cố gắng nuôi dưỡng
loại tình thương yêu như vậy, thì việc giữ năm
giới sẽ không phải là quá khó. Giới thứ nhất, như chúng ta
đều biết, là không
được sát sinh, ngay cả giết thú vật
hoặc côn trùng. Đây là một giới rất
tốt đẹp. Nó có nghĩa là chúng ta tôn
trọng đời sống. Chẳng những chúng ta
tôn trọng đời sống, chúng ta còn yêu
thưong đời sống nữa.
Đời sống quý giá cho tất cả mọi loài.
Khi chúng ta tạo một đời sống, chúng
ta cho một món quà quý giá nhất. Khi chúng ta giữ giới này, chúng ta trở
nên tử tế hơn. Chẳng những chúng ta giữ mình không sát sinh, chúng ta còn
giữ mình không làm hại một sinh vật nào.
Đú ng vậy, trong cái thế giới bất toàn này khi mà cái mạnh săn
cái yếu, việc sát sinh là đầy dẫy.
Chúng ta có thể thấy điều này trong
thế giới loài thú, cách con cọp ăn
thịt con nai, con rắn ăn con ếch, con
ếch ăn con ruồi, con chim
ăn con sâu, và cá lớn
ăn cá bé. Và chính loài người chúng ta
giết thú vật và cá và cả giết lẫn nhau. Nhưng chúng ta không phải ở
đây để
phán xét hoặc lên án. Chúng ta hiểu cái bất toàn của con người và cái tính
chất bất toàn của sự sống. Ðức Phật cũng hiểu như vậy.
Đức Phật nói một khi chúng ta thanh
lọc được tâm và
đạt đến
Niết bàn, chúng ta có thể vượt ra khỏi cái kiếp sống bất toàn, cái vòng
sinh tử này. Chính chúng ta phải xác minh xem chúng ta có làm
được việc
đó không. Khi chúng ta đã tẩy
sạch mọi tham sân si ra khỏi tâm thức, chúng ta qua kinh nghiệm trực tiếp
của mình sẽ biết đức Phật nói có
đúng hay không. Trong khi chờ tới lúc
đó, tôi tin rằng chừng nào tôi chưa
làm được
điều đó thì cách hay nhất là
theo con đường Phật dạy, con
đường thanh lọc tâm thức của mình.
Mỗi người chúng ta phải theo con đường
phát triển riêng của mình. Mỗi chúng ta hãy cố gắng giữ giới thứ nhất hết
sức mình. Chúng ta không nên sát sinh, chúng ta nên tha cái chết, nên tạo
cái sống.
Giới thứ hai là không ăn cắp lừa
đảo, không lấy một thứ gì với ý
định bất hảo. Chúng ta phải ngay thẳng
và kiếm sống một cách ngay thẳng. Có những người cho rằng một người ngay
thẳng không thể thành công hoặc làm giàu được.
Tôi không đồng ý với quan niệm
đó. Tôi tin chắc có những người ngay
thẳng sống đúng theo nguyên tắc sống
của mình mà vẫn thành công. Và thêm nữa họ hưởng
được niềm hạnh phúc của một lương tâm
trong sạch và một tâm hồn bình thản. Ngược lại những người lừa lọc cuối
cùng rồi cũng thường bị lật tẩy và trừng trị. Ngay cả khi họ thoát bị phát
giác, họ vẫn bị khổ não do sợ bị phát giác và sự dằn vặt của lương tâm tội
lỗi, và khi họ chết, cái khổ của một kiếp tái sinh
đau buồn sẽ chờ họ. Do
đó, sống trung thực vẫn là và sẽ luôn
luôn là chính sách tốt nhất. Xin đừng
nghe theo những ai nói ngược lại. Người ngay thẳng có thể thành
đạt hơn. Ngay cả khi chúng ta
đối đầu
với bao chướng ngại, chúng ta không nên lừa
đảo để
đạt đến
thành công. Chúng ta thà ngay thẳng mà nghèo, còn hơn giàu mà thiếu thật
thà. Không có gì hạnh phúc hơn là có được
một lương tâm trong sạch, nhất là lúc chúng ta
đối diện với cái chết.
Giới thứ ba là phải có trách nhiệm về vấn
đề ái dục. Nếu một đôi lứa xem
mối quan hệ của mình là quan trọng, quan tâm, thương yêu và chung thủy lẫn
nhau, thì tình yêu của họ đã
được gắn bó vĩnh viễn. Không có một
người thứ ba nào có thể chen vào. Trách nhiệm về ái dục rất quan trọng.
Nếu không có trách nhiệm, có những ngưòi sẽ trở thành nạn nhân. Những tay
ma cô đã hủy diệt
đời của biết bao thiếu nữ, và những
người đàn ông chạy theo ái dục thường
tiếp tay vào những chuyện xằng bậy. Nhưng chúng ta chẳng phải là người
phán xét ai, mà chỉ kêu gọi lòng từ tâm và tình thưong yêu thật sự. Nếu
chúng ta thật sự thanh lọc tâm thức và kiềm chế ái dục, thế giới này sẽ
bớt đau khổ và bóc lột. Và căn
bệnh AIDS dễ sợ vốn đã trở thành một
thảm họa toàn cầu cũng có thể được
khống chế.
Giới thứ tư là không nói dối mà phải nói sự thật. Một lần nữa xin
đừng nghe lời những người nói rằng ai
không nói dối hoặc không trình bày sai sự thật thì không thành công
được. Nói sự thật là một trong 10
đức ba la mật mà một bồ tát (một người
có ý nguyện thành Phật) phải theo. Mọi Phật tử cũng phải tu tập ba la mật
thật sâu nếu muốn đắc quả A la hán
(giải thoát khỏi vòng sinh tử). Ðức Phật muốn chúng ta phải trung thực
hoàn toàn đến
độ ngài không muốn chúng ta nói dối
ngay cả khi đùa. Do
đó chúng ta cần phải cố gắng tối
đa để
giữ giới cao cả là không nói dối này. Hơn nữa, mặc dù chúng ta không cố ý
tìm nhưng tiếng tăm của một người
trung thực sẽ vang xa. Ngay cả những người không ưa người
đó cũng phải nhìn nhận và nể nang.
Giới thứ năm là không
được uống rượu và dùng thuốc vì chúng
làm tinh thần mê muội. Và chúng cũng có hại cho cơ thể. Vài người cho rằng
giới này cho phép uống rượu chút ít khi xã giao, nhưng tôi không nghĩ vậy.
Ðức Phật không muốn chúng ta làm tổn thương tỉnh giác vì nó sẽ dẫn
đến các sự phạm giới khác. Hơn nữa
rượu rất có hại cho sức khoẻ. Về dùng thuốc thì ai cũng biết các loại
thuốc nặng như bạch phiến thì dứt khoát không dùng. Nhưng một số người
nghĩ rằng hút thuốc lá không tính là phạm giới này (trong thời của
đức Phật có lẽ thuốc lá chưa
được khám phá.) Tuy nhiên theo bằng
chứng rõ ràng của y khoa ngày nay về cái hại của thuốc lá và dựa trên nỗ
lực của chính phủ khắp thế giới cấm hoặc giảm hút thuốc lá, chúng ta có
thể nói một cách mạnh dạn rằng nếu đức
Phật có mặt ngày hôm nay ngài cũng mạnh mẽ khuyên không nên hút thuốc, vì
ngài sẽ không muốn chúng ta tổn thương đến
sức khoẻ và bị ghiền một chất thuốc tuy nhẹ nhưng có tiềm năng
gây hại.
Còn nhiều điều
đáng nói về những thiệt hại lớn lao mà
rượu và thuốc lá đã và
đang mang lại cho xã hội, nhưng
đây không phải là chỗ
để đi
sâu vào vấn đề này. Chỉ cần nói là
quan điểm của chúng ta là dù uống rượu
hay hút thuốc xã giao cũng có phạm phần nào vào tinh thần của giới thứ năm.
Tốt hơn hết là hoàn toàn cử rượu và thuốc, đặc
biệt là rượu, sau khi suy nghiệm những lời dạy sau của
đức Phật: "Này các Tỳ kheo, nếu xử
dụng các chất say độc khi tu tập, sẽ
đưa mình vào
địa ngục, vào thế giới của súc sinh,
thế giới của ma đói; có khá lắm thì
nếu tái sinh cõi người cũng sẽ bị khùng điên."
Khi chúng ta giữ năm giới này,
chúng ta mang hạnh phúc và sự an toàn đến
người khác. Bằng cách nào? Là vì không ai phải lo lắng về chúng ta. Họ
không phải sợ chúng ta. Họ có thể cảm thấy rất an toàn và thoải mái với
chúng ta. Bởi họ có thể an tâm là chúng ta sẽ không làm hại họ, cướp họ,
hoặc lừa dối họ. Chúng ta sẽ không dan díu với vợ chồng của họ. Chúng ta
sẽ không nói dối với họ. Hơn nữa, nếu chúng ta không uống rượu hút thuốc,
họ không phải lo chuyện con cái họ bắt chước thói quen uống rượu hút thuốc
của chúng ta, hay mối nguy hiểm phải hít hơi thuốc lá của chúng ta. Họ sẽ
cảm thấy họ có thể tin tưởng chúng ta vì chúng ta không uống rượu. Chúng
ta sùng đạo và theo sát con
đường đi
thẳng. Chúng ta vô hại. Những người ham muốn thú vui cảm giác mạnh có thể
nghĩ chúng ta có một cuộc đời nhàm
chán, và chúng ta là điên rồ. Nhưng
điều đó
không quan trọng. Chúng ta vui vẻ chấp nhận con người chúng ta. Và sự thật
là người nào hiểu biết sẽ ca ngợi chúng ta.
Vậy thì việc chúng ta giữ năm giới
là điều tốt. Hơn nữa chúng ta còn thực
hành lòng rộng rãi và tử tế. Chúng ta quan tâm và chia xẻ những gì chúng
ta có thể cho được. Chúng ta cũng vun
xới cái tỉnh giác mà đức Phật
đã dạy. Chúng ta cố sống một cuộc sống
trong tỉnh giác. Chúng ta thiền để
hiểu rõ hơn cái bản chất của sự hiện hữu của chúng ta, những
đặc tính của vô thường, khổ và vô ngã.
Cho nên khi chúng ta đã làm hết mọi
việc đó, khi chúng ta
đã sống một cuộc
đời tốt
đẹp, chúng ta có gì để sợ khi
chúng ta chết? Chúng ta có gì để ân
hận?
Chính vì vậy nên chúng ta nói muốn có một cái chết tốt thì phải có một
cuộc sống tốt. Và khi chúng ta đã sống
đẹp, chúng ta có thể chết
đẹp. Chúng ta có thể ra
đi bình yên, hài lòng rằng mình
đã làm tất cả những gì mình có thể làm
được. Đúng
thế, chúng ta có thể phạm vài lỗi lầm trong cuộc sống. Nhưng có ai không
phạm lỗi lầm? Đức Chúa Giê Su Ki Tô có
nói: "Kẻ nào không phạm tội thì hãy ném viên
đá đầu tiên." Vậy trước khi
chúng ta tu tập và hiền lành, chúng ta có thể
đã làm một số điều sai.
Điều đó
dễ hiểu, vì không ai hoàn toàn cả. Nhưng điều
đáng nói là một khi chúng ta nhận ra
những sai lầm đó, chúng ta bắt
đầu vun trồng tình thưong yêu và từ
tâm, chúng ta bắt đầu giữ giới và
thanh lọc tâm thức chúng ta. Chúng ta có thể vui sướng vì chúng ta có thì
giờ đổi qua con
đường đúng
đắn. Như người ta thường nói, trễ còn
hơn không. Chúng ta có thể đến trễ hơn
nhiều người khác, nhưng tối thiểu chúng ta vẫn
đến được.
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 | 02
Bản Anh ngữ:
Loving and Dying |