BuddhaSasana Home Page Yêu và Chết Nguyên bản: Loving and Dying
Bản dịch Việt ngữ của Không Tuệ [02]
CHÚNG TA LÀ Là một thầy tu đôi khi tôi
được mời
đến tụng kinh đám chết. Tôi
thấy thương xót cho những người có tang nhưng
đôi khi tôi cảm thấy vô vọng vì có quá nhiều ngộ nhận về vai trò
của người thầy tu trong việc tụng kinh đám
chết. Hôm nọ có một cô gái đến gặp tôi.
Cha cô vừa chết sáng hôm đó. Cô van
nài tôi: "Xin thầy đến tụng kinh cầu
nguyện. Xin mở con đường cho cha con."
Tôi nhìn cô với tất cả từ tâm mà tôi có thể có
được. Tôi có thể cảm nhận
được sự hoang mang và
đau khổ của cô. Tôi nghĩ cô chừng
khoảng 20 tuổi, và là một người con hiếu thảo. Trong tim tôi tôi tự nhủ:
"Chao ôi, làm sao mà mình có thể mở đường
cho ai đây. Mình phải vẽ trên không
cái lộ trình tưởng tượng nào cho cái trí tưởng tượng của cô ấy
đi theo
đây? Làm sao mình có thể nói với cô gái
đáng tội nghiệp
đang trong tình trạng bị tang chế bối
rối này biết rằng không có cách nào giống như cô nghĩ ra như vậy." Đứ
Đứ Đứ
Đứ Chàng thanh niên bấy giờ đã hiểu.
Anh ta sửa đổi cái quan niệm sai lầm
của mình và không còn đi xin xỏ một
việc không thể được. Câu chuyện ví von
của đức Phật
đã làm sáng tỏ một
điều: Không ai có thể cứu chúng ta,
nhất là sau khi chúng ta đã chết. Theo
luật nghiệp, chúng ta là sở hữu chủ của mọi việc làm của chúng ta, là
người thừa kế mọi việc làm của chúng ta. Hành
động của chúng ta là vật sở hữu thật sự của chúng ta. Chúng là chỗ
nương tựa và quyến thuộc thật sự của chúng ta. Chúng là nơi sinh trưởng
chúng ta. Khi chết chúng ta không đem
theo đuợc một xu con nào hay một của
cải vật chất gì. Ngay cả một trong những người thân yêu nhất của chúng ta
cũng không thể đi theo. Cũng như chúng
ta đã đến
một mình do nghiệp của mình, chúng ta phải ra
đi một mình. Nếu chúng ta hiểu rõ luật nghiệp thì chúng ta sẽ cảm
nhận được tầm quan trọng phải sống một
cuộc đời cao
đẹp khi chúng ta còn sống. Vì nếu chờ
đến khi chết thì quá trễ, không có gì
có thể thay đổi
được nữa. Tái sinh xảy ra tức khắc Dù sao thì có một vai trò mà một vị thầy tu có thể
đóng trong việc tụng kinh
đám ma.
Đó là cách trợ duyên của Phật giáo. Việc trợ duyên xảy ra như thế
nào? Trước khi giải thích điều này
trước tiên chúng ta cần phải hiểu chuyện gì xảy ra khi một người từ trần.
Theo đức Phật, việc
đầu thai tái sinh xảy ra ngay tức
khắc sau khi chết, vì ý thức có cái đặc
tính sinh tử liên tục không ngừng. Giữa lúc chết và lúc tái sinh không có
một khoảng cách nào *. Chúng ta vừa chết là đi
đầu thai ngay, hoặc là trong cõi
người, cõi thú, cõi ma đói, cõi ngạ
quỷ, cõi địa ngục, hoặc cõi trời. * Phật giáo Tây tạng tin rằng có một giai
đoạn chuyển tiếp 49 ngày giữa lúc
chết và lúc đầu thai;
điều này
đi ngược với Phật giáo nguyên thủy,
vốn cho rằng việc tái sinh là tức thời ngay sau khi chết. Người ta đi
đầu thai tùy theo nghiệp của mình. Nếu
sống một cuộc đời tốt lành thì nói
chung sẽ được
đầu thai tốt. Tâm thức lúc chết phải ở
một trạng thái lành để
được đầu
thai tốt. Người tốt có thể đầu thai
làm người hoặc thánh ở một trong những cõi trời.
Đức Phật với tuệ nhãn có thể thấy
được nhiều cõi khác nhau, và biết
được con người khi chết
đi đầu
thai lập tức tùy theo nghiệp mỗi người. Đức
Phật và nhiều vị sư thời của ngài có thể nhớ lại những kiếp trước của
mình. Nếu một người sống một cuộc đời
độc ác, thì việc
đầu thai xấu khó tránh khỏi - vào một
trong bốn cõi đau khổ là
địa ngục, ma
đói, súc sinh, hoặc ngạ quỷ. Nhưng dù
bị đầu thai vào bất cứ cõi nào, không
ai ở đó vĩnh viễn. Lúc cuối
đời, cái chết lại
đến và lại
đi đầu
thai kiếp khác. Do đó không ai ở cõi
địa ngục hoặc ma quỷ muôn
đời. Luôn luôn có hy vọng là mình có
thể vươn lên, mặc dù điều này có thể
vô cùng lâu. Cho nên tốt hơn là không nên để
mình lọt vào các cõi đau khổ
đó, vì đã
lọt vào đó rồi không ai biết phải ở
đó đến
bao giờ. Có thể cảm thấy như thiên thu! Cũng vậy, sự hiện hữu ở cõi trời không phải vĩnh cữu. Vào lúc cuối
đời ở đó,
có người tái sinh ở cõi thấp hơn. Chỉ có bậc A La Hán không còn muốn tái
sinh, không còn một chút tham sân si, mới không
đầu thai nữa. Lúc chết bậc A La Hán sẽ
không còn phải đến một trong 31 cõi
sống. Ngài sẽ không còn ở trong vòng luân hồi sinh tử. Ngài
đạt đến
Diệt thọ tưởng, sự diệt khổ. Nhưng cho tới khi trở thành A La Hán thì ai
cũng phải tiếp tục tái sinh. Trợ công
Nếu muốn trợ công đức
được mỹ mãn, người nhận
đức phải biết rõ
điều đó.
Người đó phải hiện diện và có khả năng
chấp nhận công đức người khác làm dùm
cho mình. Nếu chấp nhận, thì sự chấp nhận hoặc lòng hoan hỉ là một tâm
lành. Nói cách khác người đó tự tạo
nghiệp tốt cho mình bằng cách hoan hỉ đón
nhận công đức người khác làm vì mình.
Do đó không phải là chúng ta chuyển
trao công đức mình cho người
đó, vì chuyện
đó không thể nào có
được. Sự thật là người
đó tự hoan hỉ và sự hoan hỉ
đó là một
điều phước làm giảm sự đau khổ
và tăng niềm hạnh phúc cho người
đó. Nếu sau khi chết đi
đầu thai vào cõi người hay cõi súc
sinh, người chết không còn đó nữa nên
sẽ không biết việc gì xảy ra, - chẳng hạn như chỉ là một bào thai trong
bụng mẹ. Trong trường hợp đó người
đó không thể hoan hỉ và chia xẻ công
đức đó. Nếu người đó tái sinh vào tầng
địa ngục, người
đó cũng không thể biết chuyện gì xảy
ra trên thế giới vì người đó
đang chịu khổ ở
địa ngục. Nếu
được tái sinh vào cõi trời, người
đó cũng không còn liên hệ gì với thế
giới này, vì đang quá sung sướng và
bận tìm hiểu cõi mới nên không để ý gì
đến trần gian nữa. Thời gian là tương
đối và một ngày trên thiên
đàng được
biết là tương đương 100 năm
ở trần thế! Cho nên khi bậc thánh kịp nhìn xuống trần gian thì chúng ta
đã chết hết rồi! Hơn nữa, chúng ta
không biết chắc bậc thánh sẽ đương
nhiên có thiên nhãn để nhớ lại kiếp
trước, mặc dù trong kinh có ghi một số trường hợp các bậc thánh nhớ mình
đã làm gì trong kiếp trước
để được
lên cõi trời. Cho nên trong kinh Tirokutta, đức
Phật nói với một đạo sĩ Bà la môn rằng
chỉ có ngạ quỷ Rồi vị đạo sĩ Bà la môn hỏi
đức Phật chuyện gì sẽ xảy ra nếu người
chết đã
được tái sinh vào cõi tốt. Đức
Phật trả lời rằng việc người khác làm điều
thiện dùm cho người chết vẫn là điều
tốt, vì trong cõi ta bà vô thủy này chắc chắn sẽ có những thân bằng quyến
thuộc trong những kiếp trước bị tái sinh vào cõi ngạ quỷ. Và vì kiếp ngạ
quỷ kéo dài rất lâu nên họ có thể vẫn còn lẩn quẩn. Do
đó chúng ta chia xẻ công
đức với những người thân nhân
đó và với mọi sinh linh. Cạnh
đó, đức
Phật cũng vạch rõ rằng người nào làm công đức
dùm cho người khác cũng sẽ được phước
đức. Trợ công đức là một truyền thống
Phật giáo. Người Phật tử làm việc thiện chẳng hạn như dâng quả và cúng
dường cho các nhà sư, bảo trợ việc ấn hành kinh sách và
đóng góp cho các công tác từ thiện,
chẳng hạn như viện dưỡng lão, nhà thương thí và trại người tàn tật. Rồi
người Phật tử mời người quá cố và mọi sinh linh hoan hỉ chia xẻ công
đức đó.
Đây là một phước tốt, và người làm
phước không "mất" đi chút phước
đức nào mà còn hưởng thêm phước nhờ
chia xẻ công đức
đó, vì hành
động chia xẻ bản thân nó cũng là một
phước đức. Do vậy người sống làm việc
thiện hai lần - trước là làm phước và sau là chia xẻ công
đức đó. Sự hiện diện của chư tăng
để tụng kinh Phật và giảng pháp cho
tang quyến trong lúc tang chế cũng là một sự hỗ trợ tinh thần lớn lao. Chư
tăng có thể nhắc nhở với tang quyến
lời dạy của đức Phật về lẽ vô thường,
khổ và vô ngã. Chư tăng có thể khuyên
tang quyến chấp nhận sự khổ với trí tuệ và càng kiên trì hơn
để tiến
đến Niết bàn, nơi chấm dứt mọi sự khổ. Nếu chúng ta hiểu và chấp nhận ý niệm của Phật giáo rằng tái sinh là
tức thời, thì chúng ta sẽ hiểu rằng điều
quan trọng là phải làm việc thiện trong lúc còn sống. Khi làm việc thiện
chúng ta tạo nghiệp tốt. Nghiệp là vật thừa kế thật sự của chúng ta, bởi
chỉ những điều thiện
đó hoặc nghiệp là có thể theo chúng
ta. Sau khi chết, việc đốt vàng mã,
tiền giấy, xe nhà giấy v.v…không giúp ích gì cho người chết. Việc
đó là trái với luận lý của nghiệp. Hơn
nữa, chúng ta có thể tự nhận ra rằng - làm sao những vật
đốt ở đây
lại có thể thành hình ở một thế giới khác, hoặc ở bất cứ
đâu khác. Cái gì
đốt thì cháy hết. Theo quan niệm
nghiệp thì việc cúng cơm cho người chết cũng là vô nghĩa. Khi
đã tái sinh thì sinh linh mới sẽ sống
bằng thực phẩm thích hợp của cõi mới. Cho nên chúng ta thấy
đức Phật không hề yêu cầu chúng ta
cúng cơm cho người chết hoặc đốt vàng
mã v.v… Rõ ràng là những nghi thức đám tang
đã được
truyền từ đời này qua
đời khác mà không ai nghĩ tới căn
bản và ý nghĩa của những nghi thức đó.
Điều mà
đức Phật dạy, như đã giải thích
trước đây, là làm phước dùm cho người
chết và chia xẻ công đức
đó bằng cách niệm rằng: Cầu xin
người quá cố hoan hỉ và chia xẻ công đức
này.
Đá
Con đường Phật giáo rất là có ý
nghĩa và giản dị. Nếu chúng ta thấu hiểu con
đường Phật giáo, thì một đám
tang Phật giáo là một đám tang rất
giản dị không có những nghi thức dị đoan,
không có sợ hãi, lo lắng hoặc hoang mang. Không cần phải
đốt cái này cái nọ, thực hiện những
nghi lễ kỳ quái và kiêng cử đủ chuyện,
tất cả những chuyện vô nghĩa và làm hoang mang tang quyến, vốn thường làm
theo chỉ vì lo sợ, vì áp lực xã hội hoặc vì thiếu hiểu biết. Chúng ta
không cần phải mời thầy cúng và làm lễ với tiền công rất lớn, hoặc mướn
ban nhạc cho dù là chơi nhạc trang nghiêm. Là Phật tử, chúng ta chỉ nên mời chư tăng
đến tụng kinh không quá dài dòng. Tốt
nhất là nếu tụng kinh tiếng Phạn mà có thầy thông dịch kinh ra ngôn ngữ mà
mọi người tham dự tang lễ đều hiểu
để suy nghiệm về lời kinh
đã tụng, về lời dạy của
đức Phật về bản chất của sinh và tử.
Đặc biệt quan trọng là lời nguyện giữ
năm giới - lập lại theo vị sư. Việc
tuân hành ngũ giới là việc tu tập căn
bản của người Phật tử. Sau khi nguyện ngũ giới, nhà sư có thể giảng pháp
nhằm tạo niềm an ủi, thoải mái và sức mạnh cho tang quyến. Theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, chư tăng
không nhận tiền thù lao. Chư tăng
đến tụng là do tâm từ bi,
để hỗ trợ tinh thần cho Phật tử trong
lúc cần thiết. Do đó chư tăng
sẽ không nhận tiền thù lao vì điều này
đi ngược với tinh thần
đạo pháp. Tuy nhiên, Phật tử
đôi khi dâng phong bì cúng dường chư tăng
để mua vật cần thiết như áo cà sa hay
thuốc men. Nếu có lòng dâng hiến như vậy, thì số tiền này chỉ là tượng
trưng thôi. Thật ra chư tăng không
được chờ
đợi người ta đưa phong bì, và
nếu có đưa là hoàn toàn do ý nguyện
của tang gia. Số tiền nhỏ nhoi đó là
tiền cúng dường chứ không phải tiền công. Thường thì tiền công
đám tang rất lớn do nhà quàn quy
định trước khi làm tang lễ
đình đám.
Đó không phải là việc làm của một nhà
sư. Tang quyến dĩ nhiên có thể cúng dường thực phẩm cho chư tăng
tại chùa. Những người khá giả hơn có thể đóng
góp vào việc in kinh sách biếu không. Họ cũng có thể
đóng góp cho các hội từ thiện, cho
người nghèo khổ, và các công đức khác.
Thay vì đặt vòng hoa, thân bằng quyến
thuộc nên cúng dường vào những cơ quan từ thiện. Những công
đức này có thể
được san sẻ với người quá cố. Tất cả
những việc đó sẽ làm
đám tang có ý nghĩa hơn - loại bỏ mọi
lễ nghi khó hiểu và phí phạm. Chúng ta có thể học từ những người khác Người chết nên đem thiêu hoặc chôn
ngay - trong cùng ngày hoặc vào ngày hôm sau. Về mặt này tôi nghĩ các gia
đình người Hoa có thể học vài
điều từ một
đám tang Hồi giáo, mà tôi
được biết là rất giản dị, thực tế và
ít tốn kém. Một người bạn Hồi giáo của tôi nói rằng người Hồi giáo chôn
người chết ngay hôm từ trần, hoặc trễ nhất là ngày hôm sau. Cho nên nếu
một người Hồi giáo chết lúc 2 giờ chiều thì có thể
được chôn trước khi mặt trời lặn ngày
hôm đó. Nếu người
đó chết vào buổi xế chiều hoặc vào
buổi tối thì sẽ được chôn ngày hôm
sau. Đá Tôi tin rằng ở đời chúng ta không
bao giờ ngừng học hỏi. Luôn luôn có cách hay hơn, có ý nghĩa hơn
để làm bất cứ việc gì. Nếu chúng ta có
đầu óc cởi mở không thành kiến chúng
ta có thể học lẫn nhau. Đức Phật dạy
chúng ta trong kinh Kalama rằng chúng ta nên luôn luôn suy nghĩ và tự tìm
hiểu cho mình. Nếu chúng ta tìm thấy thủ tục gì hay ho và có ý nghĩa hơn
thì chúng ta nên theo; nếu chúng ta thấy điều
gì xấu hoặc dở, chúng ta không nên theo, và nếu chúng ta
đã lỡ theo thì chúng ta phải mạnh dạn
và sáng suốt đủ
để bỏ. Đức
Phật nói chúng ta không nên mù quáng theo bất cứ
điều gì nếu chưa tìm hiểu và nghi vấn
trước. Đức Phật khuyến khích chúng ta
nghi vấn và điều tra. Ngay cả lời
đức Phật cũng phải
điều tra và chỉ nên theo một khi
đã thấy là
đúng. Đức
Phật không muốn chúng ta có lòng tin mù quáng mà là lòng tin dựa vào kiến
thức có kinh nghiệm trực tiếp. * Do đó, nếu chúng ta tìm thấy những
thủ tục tốt và đơn giản nơi các tôn
giáo hoặc truyền thống khác, chúng ta có thể thích ứng và làm theo, miễn
là những thủ tục này không đi ngược
lại tín ngưỡng của chúng ta. Về mặt này, chúng ta có thể học hỏi các tôn
giáo khác về việc làm đám tang nhanh
gọn và ít tốn kém. Chúng ta cũng nên gạt bỏ mọi thủ tục dị
đoan không có tính cách Phật giáo. Về
chuyện dị đoan, tôi biết có rất nhiều
trong nghi thức tang lễ người Hoa, và tôi đã
thấy tận mắt khi đi tụng kinh
đám tang. Tôi không biết phải làm thế
nào và đành chứng kiến trong im lặng.
Không ai có thể làm gì hơn, vì truyền thống là
điều khó sửa
đổi nhất, ai muốn thay
đổi thường bị chống
đối và kể cả lên án quyết liệt. Có những lúc tôi do dự không muốn đi
tụng kinh đám tang vì tôi không biết
sự có mặt của tôi ở đó phục vụ cho mục
đích gì. Nhưng thường thì tôi nhận lời
và cố hết sức giảng một bài pháp và giải thích rõ lập trường của
đạo Phật. Tôi nghĩ
đã đến
lúc những Phật tử người Hoa xét lại các tục lệ
đám tang truyền thống Trung Hoa và
giản dị hóa cho đúng với trí tuệ Phật
giáo. Tôi có thể bị chỉ trích vì quan điểm
này nhưng tôi nghĩ nếu chúng ta không lên tiếng nói thì có hại cho cộng
đồng Phật giáo. Nếu tôi được phép gợi ý về một
đám tang Phật giáo
đơn giản, tôi sẽ
đề nghị đem
thiêu trong cùng ngày nếu có thể được,
còn nếu không thì thiêu ngày hôm sau. Tuy nhiên một số người có thể cần
giữ người chết thêm vài ngày để thân
bằng quyến thuộc ở xa có thể đến viếng
thăm một lần cuối, hoặc vì những lý do
riêng tư. Cho nên quyết định về việc
này là một quyết định riêng tư của
tang quyến. Tôi đề nghị thiêu thay vì
chôn bởi nhiều lý do thực tiễn, chẳng hạn như thiếu
đất, dân
đông, và tiết kiệm phí tổn đám
tang, dùng tiền đó làm nhiều việc có ý
nghĩa hơn như giúp từ thiện chẳng hạn. Người chết cần được người nhà tắm,
lau sạch và mặc đồ thay vì
để người ngoài làm.
Đây sẽ rất có ý nghĩa vì thân xác của
người thân chúng ta, và điều tối thiểu
chúng ta có thể làm được là chăm
sóc một cách dịu dàng với tình thương yêu và lòng kính trọng. Người chết
nên mặc quần áo không cần sang hay trịnh trọng, nhưng là bộ
đồ mà người ấy thích mặc lúc còn sống.
Người chết đàn ông thì do thân nhân
phái nam tắm rửa mặc đồ, còn người
chết đàn bà thì thân nhân phái nữ làm.
Chúng ta không nên sợ một xác chết, nhất là thân xác của người thân chúng
ta. Cũng không có lý do gì phải mang nữ trang cho người chết. Có một lần,
khi đang tụng kinh
đám tang, tôi thấy người nhà quàn mang
cho người chết các chiếc nhẫn và bông tai làm riêng cho những người quá
cố. Điều này càng trớ trêu và vô
nghĩa, vì khi đi
đầu thai kiếp khác người chết không
mang theo được gì ngoài tổng số những
điều thiện và ác mà người
đó đã
làm suốt cuộc đời. Khi di chuyển người chết, như khiêng từ giường và
đặt vào quan tài, người nhà cũng có
thể đứng ra làm. Và mọi người phải
luôn luôn nhẹ nhàng và tôn kính khi di chuyển người chết. Cái tục lệ quay
lưng lại không nhìn người chết khi xác được
đặt vào quan tài, hoặc khi quan tài
được đặt
vào xe tang, đối với tôi là một
điều kỳ lạ. Người chết là người thân
của chúng ta và chúng ta lẽ ra phải dịu dàng
đặt xác vào quan tài hoặc quan sát với lòng tôn kính khi người khác
làm dùm chúng ta. Đối với tôi quay
lưng lại người chết là một biểu hiện thiếu tôn trọng! Tôi không thể không
nghĩ rằng nếu tôi là người chết tôi sẽ bị tự ái tổn thương nếu bị
đối xử như vậy. Tục lệ quay lưng lại chỉ là một dị đoan.
Tại sao chúng ta sợ bị xui xẻo nếu chúng ta không tuân theo những
điều cấm kỵ như vậy? Là Phật tử chúng
ta nên tin tưởng vào nghiệp của mình, vốn là nơi ẩn náu và hỗ trợ thực sự
của chúng ta. Làm lành thì được lành,
làm ác thì bị ác. Chúng ta nên sợ những hành
động xấu, như phạm giới, vì những điều
xấu sẽ mang lại sự khổ, chứ không phải những dị
đoan cấm kỵ không cơ sở kia. Quan tài cũng không cần phải đắt
tiền. Quan tài nên đặt giữa nhà với ít
hoa trang trí đàng hoàng chung quanh
và hình của người chết. Có thể chưng vài câu pháp, câu kinh, câu giảng của
đạo Phật ở
đó để
mọi người suy nghiệm. Không nên nhận vòng hoa, thay vào
đó yêu cầu phúng
điếu đuợc
gửi vào tổ chức từ thiện do tang quyến đề
nghị. Số tiền tiết kiệm được do làm
tang lễ đơn giản và có ý nghĩa như vậy
cũng có thể được chuyển
đến từ thiện. Trước quan tài người chết ta không cần cúng cơm, vì như
đã giải thích, người chết không thể
tham gia được.
Đốt vàng mã, tiền giấy v.v...
đều vô nghĩa và hoàn toàn không nên.
Thắp nhang đèn cũng không cần thiết.
Thật vậy, những tục lệ dị đoan và
kiêng cử thường xảy ra trong các đám
người Hoa nên bỏ hết đi, nếu ta nhớ
lời đức Phật dạy rằng một Phật tử
thuần thành có năm
đặc tính: "Người
đó có lòng tin; người
đó giữ kỷ luật về
đạo đức;
người đó không tin
điềm dị đoan;
người đó dựa vào nghiệp chứ không phải
vào điềm; người
đó không
đi tìm thầy dạy tâm linh ngoài nơi này (tức là ngoài Phật pháp) và
người đó phải biểu hiện danh dự ở nơi
này trước hết (tức là người đó tôn
trọng Phật pháp và không nên đi theo
những thủ tục ngược lại đạo Phật.)" Mặc áo tang cũng là không cần thiết. Đức
Phật không muốn chúng ta tiếc thương than khóc mà phải chấp nhận cái thực
tế chia lìa chết chóc với trí tuệ và thanh tịnh. Sự thương tiếc là một tâm
trạng không lành mà phải chế ngự bằng tỉnh giác và suy tư trí tuệ. Cho nên
các bậc A na hàm và A la hán (vốn đã
đạt quả thứ ba và thứ tư của cõi
thánh) không có khả năng tiếc thương
than khóc. Khi đức Phật nhập diệt,
những bậc đã
đắc quả A na hàm và A la hán không
khóc. Vì hiểu rõ tính chất vô thường, các ngài không than khóc cho dù
đức Phật nhập diệt trước mắt mình. Đứ
Ta không
Vậy thì nếu chúng ta nhớ lời Phật dạy, chúng ta có thể giữ bình thản
trước sự tiếc thương. Ở đây chúng ta
nên nhấn mạnh chúng ta không nói rằng cần phải
đè nén sự thương tiếc bằng sức mạnh,
làm ngơ hoặc chối từ nó. Không, việc đó
cũng là một phương thức không đúng. Phương thức chúng ta là nhìn nhận và quan sát tâm trạng buồn
đau của mình. Qua tỉnh giác và tư duy
đúng đắn,
chúng ta có thể kềm chế sự tiếc thương và trở nên thanh tịnh. Tỉnh giác và
thông hiểu là con đường trung
đạo tốt nhất - nó không áp chế cũng
không thổi bùng những cảm xúc tiêu cực và hủy hoại. Tỉnh giác là nhìn nhận
và quan sát, từ đó sự thông cảm, chấp
nhận, dung hòa và trí tuệ có thể trổi lên. Chúng ta không từ bỏ hoặc
đè nén cảm xúc của chúng ta. Chúng ta
nhìn nhận và quan sát chúng. Trong sự nhìn nhận và quan sát đó,
chúng ta có thể chịu đựng
được sự xáo trộn và mâu thuẫn diễn ra
trong đầu chúng ta. Chúng ta có thể tư
duy đúng
đắn về tính chất vô thường, khổ và vô ngã. Chúng ta có thể học từ
kho hiểu biết của người xưa, và chấp nhận sự thương tiếc của mình. Nói
cách khác, sự hiểu biết có thể nảy sinh. Chúng ta hiểu và chấp nhận nỗi
buồn đau của chúng ta. Và nỗi buồn
đau đó
sẽ không làm chủ tâm thức ta và làm choáng ngợp chúng ta.
Đây là ý chúng ta muốn nói khi chúng
ta cho rằng sự áp dụng tỉnh giác nhẹ nhàng dẫn
đến sự thông hiểu và
điềm tĩnh. Với cách đó, chúng ta sẽ không kêu
gào thảm thiết. Chúng ta có thể quan sát những cảm xúc tiếc thương trong
chúng ta, và có thể kềm chế tự nhiên, để
chúng ta không phải biểu lộ quá đáng
bên ngoài. Ta sẽ chỉ có thanh tịnh, chấp nhận và thông hiểu. Ngay cả nếu
chúng ta mất kiểm soát và khóc lên, chúng ta cũng khóc trong sự tự chế.
Rồi chúng ta cũng sẽ tự kiểm soát lại được
và lắng dịu xuống. Tỉnh giác sẽ đến
giúp chúng ta giải quyết cơn thương tiếc. Chúng ta sẽ hiểu thực tế của
đau khổ, sự thực mà
đức Phật và các bậc thầy thông thái
đã dạy, và chúng ta có thể mỉm cười
trở lại. Quay lại chủ đề thương tiếc, chúng
ta có thể thấy là theo quan điểm trí
tuệ và không đau buồn, việc mặc áo
tang cũng không cần thiết. Điều
đó không có nghĩa chúng ta không hiếu
thảo, hay chúng ta ít thương người thân yêu, nếu chúng ta không mặc
đồ tang. Không, chúng ta vẫn thương
kính người thân yêu nhưng thấy không có lý gì
để biểu lộ bề ngoài lòng thương tiếc
đó. Lòng tôn kính và thương tiếc là rất riêng tư. Chúng ta cảm thấy
trong tim mà không cần phải phô trương ra ngoài. Thay vì chú trọng vào những hình thức thương tiếc bề ngoài, ta nên nhìn
lòng hiếu thảo qua những hành động
đối với ông bà cha mẹ khi họ còn sống.
Hành động sẽ tự biểu hiện. Thật là bất
hạnh nếu một số người nghĩ rằng làm tang lễ đình
đám và mặc
đồ tang có thể
đền bù cho hành
động thương yêu săn
sóc mà mình đã không làm khi người
thân còn sống. Tuy nhiên, trong nghi thức trang nghiêm của
đám tang, chúng ta có thể mặc những bộ
đồ "trang trọng". Chúng ta có thể chọn
đồ sậm, trắng, hoặc màu giản dị mà
mình có sẵn. Đối với tôi như thế cũng
đủ, mặc dù nếu người chết là một Phật
tử hoan hỉ và dễ thông cảm thì cũng không hẳn muốn chúng ta mặc
đồ tang thương tiếc, ngược lại muốn
chúng ta hoan hỉ rằng người thân mình đã
sống một cuộc đời thiện và
được tái sinh tới một cõi tốt
đẹp hơn. Do thế một người trước khi
chết có thể nói rõ mình không muốn thương khóc và tục lệ dị
đoan mà chỉ muốn một tang lễ giản dị.
Người đó có thể ủy quyền cho một người
có tinh thần trách nhiệm để thực hành
ý nguyện của mình. Người đó cũng có
thể viết ra và ký trước mặt nhân chứng để
mọi người đều biết và làm theo ý mình. Không khí chung trong nhà và suốt buổi tang lễ nên thanh tịnh và hiểu
biết. Những hoạt động không phù hợp
như nhậu nhẹt cờ bạc nhất định phải
cấm. Mọi người phải tôn kính và xử sự trang nghiêm. Những câu kinh Phật có
ý nghĩa thỉnh thoảng nên đọc lên
để tang gia và mọi người cùng chiêm
nghiệm. Một người có thể đứng ra dẫn
đầu việc niệm kinh. Nếu ai cũng hiểu
đạo pháp thì ai cũng có thể kềm chế sự
đau buồn. Những người cứng rắn chịu
đựng được
thì nên an ủi những người thương cảm. Nếu được
vậy trong suốt tang lễ sẽ có một không khí bình yên và hiểu biết. Và những
người có mặt ở đó càng cảm thấy cương
quyết và thúc đẩy hơn trong việc tìm
đạo, và sống với tình thương yêu và từ
tâm hơn. Một lễ tưởng niệm có thể diễn ra ngay trong nhà. Những người lớn tuổi
trong gia đình có thể dẫn
đầu buổi tưởng niệm này, trong
đó cuộc
đời và những việc thiện của người quá cố có thể
được kể ra. Con cái có thể kể lại lòng
tốt và thương yêu của cha mẹ *, và nguyện sống một cuộc
đời gương mẫu
để tưởng nhớ cha mẹ mình. * Về mặt này các bậc cha mẹ nên nhớ là hành
động sống lâu hơn
đời người. Một cuộc
đời tốt
đẹp là di sản hay nhất mà cha mẹ có thể
để lại cho con cái, một di sản vừa
làm gương vừa đem lại phẩm giá cho
con cái. Hương thơm của một cuộc đời
hành thiện gương mẫu sẽ còn mãi mặc dù người chết
đã lâu rồi. Cũng nên mời một nhà sư đến
để giảng một bài pháp thích hợp. Cũng
có thể tổ chức một thời ngồi thiền trong nhà.
Điều này sẽ là một hành động
tốt và một biểu hiệu kính trọng đối
với người quá cố. Nếu người quá cố là một thiền sinh thuần thành thì chắc
hẳn sẽ rất hoan hỉ nếu biết mọi người ngồi thiền chung quanh quan tài của
mình. Nếu người chết đã
được tái sinh nơi cõi trời và có thể
thấy được cảnh này, tôi tin chắc rằng
người đó rất vui sướng. Riêng tôi sẽ
rất vui sướng nếu nhìn xuống thấy mọi người ngồi thiền chung quanh quan
tài của tôi. Tôi sẽ vô cùng hài lòng. Và nếu có thể
được tôi sẽ xuống ngồi thiền vui vẻ
với mọi người, nhưng dĩ nhiên bạn nên tha lỗi tôi: tôi biết tôi
đang tưởng tượng quá
đáng. Vào ngày hỏa thiêu, chúng ta lại có thể chia xẻ những việc thiện
đã làm. Chúng ta có thể công bố danh
sách những tổ chức từ thiện được nhận
tiền cúng dường. Ở lò thiêu, trước khi đẩy
quan tài vào lò chúng ta cũng có thể có một lễ tưởng niệm có ý nghĩa.
Những câu kinh Phật có ý nghĩa có thể được
đọc lên, về lẽ vô thường của cuộc
đời, về cái chết không thể tránh khỏi,
và về sự cần thiết phải sống một cuộc đời
tốt, phải hành thiền và phục vụ đồng
bào. Nếu bài điếu văn
được viết trước và
đọc to cho mọi người nghe thì càng
giúp cảm hóa người nghe hơn. Hay nhất là một vị sư làm lễ tưởng niệm này,
nhưng nếu không được thì một người lớn
tuổi trong gia đình cũng có thể
đứng ra làm
được. Sau khi hỏa thiêu, chúng ta nên làm gì với tro cốt người chết? Tôi nghe
nói thông thường theo Phật giáo Miến điện
thì tro người chết để lại cho nhân
viên lò thiêu dọn dẹp. Thân nhân không đến
nhận tro vì người ta tin rằng khi vừa chết người thân họ
đã tái sinh tức thì, và cái thân xác
để lại chỉ là cái vỏ trống không. Tuy
nhiên người Hoa ở Mã lai thì gửi hũ tro ở các chùa hoặc tháp có trả phí
tổn khá đắt. Quan
điểm riêng của tôi là giữ tro không có
lý gì cả vì chuyện đó chẳng phục vụ
cho mục đích gì, vì không cần phải
cúng lễ gì trước hũ tro cả. Vì theo đạo
pháp chúng ta đã biết tro chỉ là phần
tử vật chất vô tri vô giác trong khi tâm thức
đã được tái sinh trong một cơ
thể khác ở một cõi nào đó. Do
đó tôi đồng
ý với Phật giáo Miến điện là thiêu
xong thì để tro lại luôn. Nếu chúng ta
muốn nhớ và vinh danh người chết chúng ta nên sống một cuộc
đời tốt
đẹp và làm điều thiện
để tưởng nhớ người
đó. Trong ngày giỗ cũng vậy, chúng ta
có thể đi cúng chùa hoặc cho từ thiện. Tất cả những đề nghị về tang lễ mà
tôi nêu ra trên đây
đều có ý nghĩa và quan trọng hơn những
tục lệ hiện tại. Nhưng dĩ nhiên người đọc
có quyền quyết định theo ý mình.
Đây chỉ là những cảm nghĩ của tôi,
cách nhìn của tôi. Tôi hiểu người khác có thể cảm nghĩ khác hẳn. Họ có thể
không đồng ý với tôi và họ có toàn
quyền như vậy. Vì tôi luôn luôn tin rằng không ai có quyền áp
đặt quan
điểm của mình lên người khác. Chúng ta có
đầu óc riêng và phải
được quyền suy nghĩ và quyết
định cho chính mình. Vì vậy cho nên tôi phải làm thật sáng tỏ nơi
đây rằng tôi không áp
đặt quan
điểm của tôi lên ai. Tôi chỉ diễn đạt
và chia xẻ quan điểm của tôi mà thôi,
và tôi để mỗi người quyết
định cho chính mình là họ có tin theo
hay không. Mỗi người phải tự do làm theo ý mình. Hơn nữa, khi quyết
định về tang lễ sau khi người thân
chết, gia đình phải bàn tán và
đồng tình. Do
đó tốt hơn hết là trước khi chết chúng
ta nên nói rõ mình muốn tang lễ như thế nào. Và nên viết ra giấy trắng mực
đen, ký tên và có người chứng. Lúc
đó thì sẽ không còn tranh cãi sau khi
người thân chết. Gia quyến cần tôn trọng và làm theo ý nguyện
đó. Dĩ nhiên những sự gợi ý của tôi không phải là
đầy đủ,
không bao hàm mọi chi tiết và khía cạnh của một
đám tang.
Đây chỉ là một cái khung gợi ý sơ sài,
để gợi thêm suy nghĩ. Có thể có những cách khác nữa. Do
đó có lẽ tốt hơn cả là một nhóm tín
đồ Phật giáo có uy tín và
đồng quan
điểm cùng ngồi xuống và phác họa một tang lễ Phật giáo bao trùm mọi
khía cạnh và chi tiết, và giải đáp mọi
thắc mắc có thể nêu lên. Trước hết, cần phải xem xét lại các thủ tục
đám tang hiện tại. Các tục lệ
đó là gì? Có nghĩa gì? Chúng ta có
biết và hiểu rõ những điều mà chúng ta
làm theo hay không? Tại sao chúng ta thi hành những tục lệ
đó? Các tục lệ
đó có hợp lý không? Có phù hợp với
Phật pháp không? Hay đó chỉ là những
tục lệ mê tín hay những tục lệ không đi
đôi với pháp của
đức Phật dạy? Theo cái nhìn của tôi, nhiều tục lệ hiện tại ở các nhà người Hoa theo
đạo Phật không thể
đi đôi
với Phật pháp. Có vẻ như là nhiều người theo các nghi thức tang lễ mà
không hiểu ý nghĩa của các nghi lễ đó
là gì. Trong đám tang, họ
đều thật bối rối và khổ
đau. Họ chỉ làm theo những gì người
khác bảo bởi vì đó là truyền thống và
họ không thể nào đi ngược lại vì sẽ bị
chỉ trích và buộc là bất hiếu v.v…Do đó
không có một sự tham gia có ý nghĩa nào. Đối
với tôi, mọi việc thật là thảm hại. Tất cả chỉ là sự thiếu hiểu biết và
buông xuôi. Như vậy một nhóm tín đồ Phật giáo
có uy tín xem xét lại các tục lệ nghi thức này và có thể
đề ra những thủ tục khác có ý nghĩa
hơn và phù hợp với Phật pháp. Chi tiết về tang lễ với nhiều phương thức
tùy trường hợp cần được
đề ra sau khi nhóm này nghiên cứu kỹ
càng tình trạng hiện tại ở địa phương.
Sau đó có thể xuất bản một cuốn sách
với mọi chi tiết về tang lễ với những lựa chọn tùy ý tang chủ. Một dự án
như vậy rất là hữu ích cho cộng đồng
Phật giáo vốn rất bối rối không biết thế nào là một tang lễ Phật giáo
đúng đắn. Về phần tôi Về tang lễ của chính tôi, tôi đã
suy nghĩ kỹ về việc tôi muốn giải quyết thân xác tôi như thế nào sau khi
chết. Thân xác sau khi chết thật ra chẳng có gì khác hơn là một thây ma,
sẽ trở về với đất cát. Vậy tôi có thể
làm một việc thiện cuối cùng với thân xác đó,
đó là hiến tặng nó cho bệnh viện. Bác
sĩ có thể mổ lấy con ngươi từ mắt tôi để
cho người mù được sáng mắt. Hãy tưởng
tượng niềm vui sướng của người mù được
thấy trở lại, và món quà đó quý giá
như thế nào đối với người mù
đó. Và tưởng tượng tôi cũng sẽ sung
sướng như thế nào nếu biết được tôi
đã cho người
đó món quà của thị giác. Món quà
đó chẳng phải là hy sinh gì của tôi,
vì thân xác không còn xử dụng gì nữa sau khi chết. Cho nên tôi nên làm một
việc thiện cuối cùng trước khi nó tan rã. Nếu có thể được thì các bác sĩ cũng
nên mổ lấy tim, thận, phổi, gan, và bất kỳ cơ quan nào của tôi sau khi
chết để ghép cho người khác. Và cái gì
còn lại thì cũng giúp ích cho sinh viên y khoa. Họ có thể thực tập mổ xẻ
xác tôi, và khi xong rồi họ thanh toán như thế nào cũng
được. Có thể nó trở thành phân bón
nuôi một cây con trở thành một cây to có hoa
đẹp và bóng mát. Với cách đó
thì cũng không ai phải lo làm tang lễ gọi là
đàng hoàng cho tôi. Mọi người cứ việc
để xác tôi ở bệnh viện để họ
làm gì tùy ý. Như vậy mọi việc đều dễ
dàng cho mọi người. Không ai phải bận tâm nữa, không ai phải phiền toái
không cần thiết vì tôi. Và nếu có ai đó muốn tôi
được một tang lễ
đàng hoàng và
đến thăm
viếng một lần cuối, tôi sẽ nói: Xin đừng
bận tâm về chuyện đó. Tôi không phải
là người cần đám tang. Nhưng nếu bạn
thật sự muốn nhớ đến tôi, thì
đi làm một việc thiện
đi. Làm bất cứ một việc thiện nào
để tưởng
đến tôi. Sống một cuộc đời tốt
lành. Hãy quan tâm và chia xẻ với mọi người. Hãy tha thứ và thương yêu.
Hãy rộng rãi và bao dung. Hãy tử tế và dịu dàng.
Đó là tất cả những gì tôi yêu cầu.
Việc đó sẽ làm tôi rất vui sướng -
biết được rằng tôi
đã truyền bá
được lời nhắn nhủ tốt lành và có
được ảnh hưởng tốt với người khác. -ooOoo- CÁI CHẾT CỦA CHÚNG TA NÊN THẬT THANH THẢN Một ngày nào đó tất cả chúng ta
đều phải chết. Cái chết của chúng ta
nên thật thanh thản và yên bình. Cho nên khi có người sắp chết chúng ta
nên cố làm sự ra đi của họ càng thanh
thản đẹp
đẽ chừng nào càng tốt chừng đó.
Vâng, bạn có ngạc nhiên là cái chết có thể đẹp
đẽ không? Nếu có,
đó là vì chúng ta thường có ác cảm với
cái chết. Chúng ta sợ đau
đớn và không biết chuyện gì sẽ xảy ra
sau khi chết. Rồi còn có sự quyến luyến với người thân khiến tim chúng ta
đau khổ vì sự chia cách. Tuy nhiên chúng ta nên nhận ra rằng sự hiểu sai và thái
độ sai của chúng ta chính là nguyên
nhân của sự khổ. Chúng ta chưa hiểu sâu xa đạo
pháp. Chúng ta chưa thấu hiểu cái đặc
tính của tâm và thân là vô thường, khổ và vô ngã. Chúng ta chưa học
được làm sao
để buông trôi và chấp nhận
điều không thể tránh
được. Khi dì mẫu của đức Phật Maha
Pajapati Gotami sắp chết ở tuổi rất thọ là 120, tôn giả A nan (Ananda) và
các Tỳ kheo ni khóc. Bà Tỳ kheo ni Maha Pajapati Gotami dịu dàng quở: "Tại
sao các con khóc. Các con không thấy cái thân xác này của ta
đã quá già và lụ khụ rồi chăng?
Nó như là một ổ rắn, một trung tâm bịnh tật, một viện già nua chết chóc,
một nhà đau khổ. Ta
đã mệt mỏi với cái thân xác như chết
này rồi. Nó chỉ là một gánh nặng cho ta. Ta đã
mong được giải thoát Niết bàn từ lâu
lắm rồi. Và ngày hôm nay ước nguyện của ta sắp thành. Cái chết của ta thật
sự là một điều hạnh phúc.
Đây là lúc ta
được dịp hài lòng và sung sướng. Vậy
tại sao các con lại khóc?" Đứ Những người đã có một cuộc sống
đẹp có thể có một cái chết
đẹp. Hôm nọ tôi
đọc được
một bài tưởng niệm rất cảm động trong
báo: "Khi bà trút hơi thở cuối cùng và bước vào cuộc sống vĩnh hằng, mặt
bà sáng hẳn lên và môi bà nở một nụ cười đẹp.
Dì phước F. thấy được bèn kêu lên:
'Xem kìa, bà đang thấy Chúa…" Tôi có
tình cờ biết về người đàn bà này, theo
đạo Ki Tô, và bà
đã chết một cái chết quá
đẹp. Bà có tánh tình hiền lành dịu
dàng và luôn luôn quan tâm đến người
khác. Người ta nói với tôi rằng lúc làm cô giáo bà luôn tìm những học sinh
thật kém để dạy kèm và khuyến khích
thêm. Gia đình bà và mọi người biết bà
đều thương yêu quý mến bà. Tôi
được biết bà dịu dàng thương yêu mọi
người đến
độ người ta xem đời bà như
đời một vị thánh. Một khi đã sống một cuộc
đời cao
đẹp như vậy, thật chẳng ngạc nhiên chút nào khi bà chết một cái
chết đẹp. Tôn giáo có thể khác biệt
nhưng như đức
Đạt lai Lạt ma người
được giải Nobel Hòa bình
đã nói: "Tâm từ là tinh túy của mọi
tôn giáo." Tôi luôn tin chắc rằng nếu chúng ta
đã sống một cuộc
đời tốt thì khi chết chúng ta sẽ chết
một cái chết đẹp cho dù chúng ta theo
Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ
giáo, Hồi giáo hay bất cứ tín ngưỡng nào khác. Như
đức Phật
đã nói, hành động làm nên con
người. Trong chiều hướng đó tôi thường
nói với các Phật tử rằng thà làm một người tốt
đạo Thiên chúa hay
đạo Hồi còn tốt hơn là làm một người
xấu đạo Phật. Cho nên, những người tốt
đạo Thiên Chúa khi chết có thể thấy
Chúa hoặc thấy ánh sáng. Còn người đạo
Phật có thể thấy hình ảnh tinh thần của đức
Phật, của các bậc A la hán, các bậc thánh, các cõi trời và ánh sáng rạng
rỡ. Ông Jack Kornfield, một thầy dạy thiền Minh sát người Mỹ, có lần kể lại
trong tạp chí Inquiring Mind chuyện ông thăm
bác sĩ Howard Nudleman, một nhà giải phẩu và thiền sinh rất hiền từ, một
ngày trước khi ông bác sĩ này chết vì bịnh ung thư. Ông nhớ lại khi bước
vào phòng ông Howard giống như bước vào một
đền thờ. Và khi ông nhìn ông Howard, ông Howard cho ông một nụ
cười, một nụ cười hiền hậu đến
độ ông Kornfield sẽ không bao giờ quên
được trong suốt cuộc
đời còn lại. Vâng, tôi chắc chắn những chuyện cảm động
về những cái chết đẹp của những con
người đẹp có rất nhiều. Do
đó, cái chết cũng có thể là một kinh
nghiệm đẹp. Khi chúng ta
đã sống một cuộc
đời tốt và thân thể này trở nên yếu
đuối bệnh hoạn, chúng ta có thể
đối diện cái chết một cách thanh tịnh,
vì biết rằng mình đã có một cuộc
đời tốt
đẹp và đã
đến lúc mình phải lên
đường. Cho nên khi một người thân gần từ trần, chúng ta nên hiểu và cho phép
người đó ra
đi một cách yên bình. Chúng ta nên làm
sự ra đi
đó càng thanh thản và đẹp
đẽ càng tốt. Dĩ nhiên, chúng ta không
nên khóc la. Điều
đó chỉ làm khó thêm cho người sắp
chết. Nếu người đó là một Phật tử hiểu
biết và còn chút hơi sức để nói
được, người thân có thể dịu dàng khiển
trách chúng ta như đức Phật
đã làm: "Nhưng em ơi tại sao em khóc?
Đức Phật
đã chẳng dạy chúng ta bằng nhiều cách là việc chia lìa trên
đời là không tránh khỏi
được đó
sao? Tại sao cái gì phải tan rã không đuợc
tan rã? Điều
đó không thể có
được. Do
đó chúng ta nên suy nghiệm thật kỹ Phật pháp. Em ơi, cái thân xác
này không phải của chúng ta. Cái tâm trí này không phải của chúng ta.
Chúng đến và
đi tùy duyên. Chúng ta phải thực hành
tỉnh giác thật sâu để thấy
được điều
này, để mà khi không còn dính mắc nữa
chúng ta có thể được giải thoát khỏi
sinh và tử. Em ơi, em phải mạnh mẽ hơn. Ngay cả khi anh xa rời em anh muốn
nhắc với em những lời cuối cùng đức
Phật nói với tất cả chúng ta: 'Mọi pháp hữu vi
đều vô thường. Do
đó, Như Lai khuyên, hãy tận lực, liên
tục chuyên cần." Vâng, mọi Phật tử nên nhớ đến lời
cuối đức Phật nhắc chúng ta phải cố
gắng lên không mỏi mệt để
đạt được
trí tuệ và giải thoát chúng ta khỏi vòng sinh tử. Một người thiền phải
thiền quán cho đến cùng. Ông ta có thể
quan sát hơi hít vào thở ra hoặc bụng phồng xẹp khi thở hít. Nếu gặp phải
khó khăn ông ta có thể biết, ghi nhận
những khó khăn
đó không với sự sợ hãi lo âu mà với sự
yên tĩnh bình thản của tâm thức. Ông có thể quan sát những cảm giác
đau đớn
và chịu đựng
được mặc dù cảm giác
đau rất mạnh. Ông có thể tự nhắc nhở
chúng chỉ là những cảm giác mà thôi, cho dù là những cảm giác khó khăn.
Ông cũng có thể thấy chúng là vô thường, và chúng nổi lên và biến mất liên
tục. Ông có thể hiểu và không bám víu vướng mắc vào cái thân xác mình. Ông
biết cả thân và tâm sinh và diệt tùy theo điều
kiện. Ông có thể suy nghiệm: "Cái tâm và thân này không phải của ta. Chúng
chưa hề thuộc về ta. Chúng nổi lên vì đủ
duyên, và khi hết duyên, chúng sẽ mất đi.
Cũng vậy, con mắt này không phải của ta, cái tai này không phải của ta,
cái mũi này không phải của ta…Cơ thể này cấu tạo từ bốn phần tử là
đất, lửa, nước và khí
đại diện cho các tính chất của vật
chất, của cứng, mềm, sức ép, sức căng,
nóng, lạnh, v.v…Chừng nào còn năng lực
nghiệp để kéo dài sự sống của ta trên
cuộc đời này, cái thân thể này sẽ còn
sống. Khi năng lực nghiệp cho cuộc
đời này hết cạn, thì thân thể này sẽ
chết, và một tâm thức mới chịu mọi duyên nghiệp của cái tâm thức cũ vào
lúc chết sẽ nổi lên ở một tâm thức mới. Nếu ta
đã đắc
quả A la hán, ta sẽ không cần thiết phải tái sinh nữa. Nhưng nếu ta chưa
đạt được
mức đó nhưng
đã sống một cuộc
đời tốt, ta không sợ một kỳ tái sinh
tới. Ta có thể nhận một sự hiện hữu mới dưới hình thức một người phước
đức thông minh hoặc một vị thánh, và
từ đó tiếp tục con
đường phát huy cho
đến khi ta
đạt được
cứu cánh Niết bàn, chấm dứt sinh tử." Khi suy nghiệm như vậy, một người
hành thiền có thể trở nên rất trầm tĩnh và vững chãi, rất an bình. Người
đó còn có thể cười vào cơn
đau của mình và mỉm cười với những
người ở chung quanh mình. Với tinh thần an bình như vậy, những cảm giác
đau đớn
thân thể có thể ngừng lại. Người đó có
thể chết trong thanh tịnh và an bình, nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Những giọt nước mắt vui sướng Khi Trưởng giả Cấp Cô Độc
(Anathapindika), nhà hảo tâm và thí chủ cho tăng
đoàn, sắp chết, môn
đệ chính của
đức Phật là Xá Lợi Phất
đến giảng cho ông nghe về sự không
dính mắc. Ngài Xá Lợi Phất nhắc ông Cấp Cô Độc
rằng cuộc đời chỉ là một tiến trình
tùy duyên, và trong cái tâm và thân tạm bợ này không có gì
đáng phải bám víu vào cả. Ngài Xá Lợi
Phất nhắc qua một danh sách liệt kê đời
bao gồm những gì, và cho thấy tất cả đều
là những điều phù du không thể níu kéo
được, do
đó ông Cấp Cô Độc không nên
chộp vào những vật thể nhìn bằng mắt, âm thanh nghe bằng tai, mùi hương
ngửi bằng mũi, vị ăn nếm bằng miệng,
cảm giác sờ bằng thân thể, và cái ý thức vốn tùy vào các giác quan
đó. Ông Cấp Cô
Độc không nên chộp vào ý thấy, ý nghe,
ý ngửi, ý nếm, ý sờ, và ý nghĩ. Ông cần hiểu cái tính cách vô thường của
chúng và quan sát chúng nổi lên rồi qua đi,
mà không cần phải bám víu hoặc cưỡng lại chúng. Cũng vậy ông Cấp Cô Độc không nên
chộp lấy sự tiếp xúc tùy thuộc vào mắt và hình ảnh, tai và âm thanh,
v.v…Ông không nên bám theo cái cảm giác, dù thích thú hay khó chịu, nổi
lên tùy tiếp xúc giác quan. Ông cần phải đối
xử với tất cả các cảm giác bằng sự bình thản, lòng biết rõ cái chân tướng
vô thường, vô mãn, vô ngã của chúng. Cơ thể cấu tạo bằng bốn thành phần
lực kéo, lực động, lực kết, và nhiệt
độ. Tâm tạo bằng cảm xúc, nhận thức,
hoạt động tinh thần, và ý thức. Tất cả
đều vô thường và thay
đổi liên tục. Ngài Xá Lợi Phất khuyên
ông Cấp Cô Độc không nên dính mắc vào
bất cứ thứ nào. Trên thế giới không có một cái gì
được gọi là trường cửu. Theo ý nghĩa
tuyệt đối thì không có cái ngã trong
tâm thức và thân xác này, do đó không
có cái gì để ông Cấp Cô
Độc níu kéo. Khi nghe xong bài pháp sâu sắc này, một niềm vui và an bình lớn lao
đã bao trùm lấy ông Cấp Cô
Độc. Ông bật khóc. Ngài A Nan, thị giả
của đức Phật, có mặt lúc
đó đã
lấy làm ngạc nhiên và hỏi tại sao ông khóc. Có phải vì ông không chịu
đựng nổi cơn
đau chăng?
"Không," ông Cấp Cô Độc trả lời. Không
phải vậy, mà là vì bài pháp quá tuyệt vời làm ông xúc
động đến
tận cùng. "Con chưa bao giờ cảm xúc như vậy trong suốt cuộc
đời. Vì vậy mà con khóc," ông nói với
ngài A Nan và Xá Lợi Phất. Những giọt nước mắt của ông không phải là nước
mắt khổ đau, mà là nước mắt vui sướng
- nỗi vui sướng được nghe và hiểu một
cái pháp sâu xa như vậy. Ông Cấp Cô Độc hỏi tại sao những
bài pháp này không được truyền giảng
cho người thường. Ngài Xá Lợi Phất trả lời rằng
đó là vì người thường không cảm nhận
được pháp sâu xa này, vì họ quá dính
mắc vào nhiều dục lạc ở đời. Ông Cấp
Cô Độc phản
đối, cho rằng cũng có những người có
thể hiểu và cảm nhận được pháp cao
diệu này, và sẽ bị thiệt thòi vì không được
nghe giảng. Ông xin ngài Xá Lợi Phất nên thường xuyên giảng pháp về không
dính mắc cho những người khác nữa. Sau đó không bao lâu thì ông Cấp Cô
Độc chết. Vì cái chết của ông an bình
và ông đã sống một cuộc
đời tốt
đẹp nên đức Phật nói ông
đã được
tái sinh vào cung Trời Tusita (Đạo
Lợi). Là người đã chứng Sơ quả (Tư
Đà Hoàn) ông Cấp Cô
Độc sẽ chứng
đắc giác ngộ hoàn toàn trong vòng bảy
kiếp, và như vậy được giải thoát khỏi
vòng luân hồi. Cũng có những câu chuyện kể về các vị Tỳ kheo thời xưa
đã chứng quả A la hán (giác ngộ hoàn
toàn) ngay lúc sắp chết. Do đó thiền
sinh ngày nay có thể hành thiền cho đến
phút cuối, vì biết đâu họ có thể ngộ
được lẽ vô thường, khổ và vô ngã, và
vào phút từ trần có thể còn nhập được
cõi thánh không chừng. Một người tập thiền cũng có thể tỏa ra từ bi tâm. Ngay trong lúc sắp
chết, người ấy có thể phát tâm từ bi tới mọi chúng sinh. "Xin cho mọi
chúng sinh đều hạnh phúc. Xin không ai
bị hiểm nguy. Xin không ai bị đau khổ
tâm thần…đau khổ thể xác…xin mọi chúng
sinh tự bảo trọng một cách hạnh phúc." Chết với những ý nghĩ cao thượng
yêu thương mọi chúng sinh như vậy là một cách chết cao thượng. Trong bản
Visuddhimagga, một cẩm nang cổ điển
Phật giáo về thiền, có nói rằng một người có thói quen phát tâm từ bi sẽ
chết một cách an bình như thể là đi
vào một giấc ngủ thú vị. Và nếu người đó
chưa chứng quả A la hán và phải tái sinh thì cũng tái sinh trong một cung
trời. Vâng, một người tu thiền không phải sợ chết. Người
đó có thể rời bỏ cái xác thân và cái
tâm thức một cách thanh tịnh vì biết rằng sống và chết chỉ là hai mặt của
một đồng tiền, vì hiểu rằng trong khi
sống chúng ta cũng đang chết dần từng
phút một, ta cứ chết từng một khoảng khắc trôi qua rồi ta tái sinh trong
khoảng khắc mới kế tiếp. Hiện tượng tinh thần và thể xác liên tục trổi lên
rồi qua đi. Không có gì giữ y nguyên
dù chỉ là một giây. Điều này cũng
đã được
chứng minh trong cơ học lượng tử khi người ta khám phá các phân tử hạ
nguyên tử tan biến với tốc độ 10 lũy
thừa 22 lần cứ mỗi một giây trôi qua. Ðức Phật cũng có nói các hiện tượng
tinh thần và vật chất liên tục nổi lên và chìm xuống. Chừng nào chúng ta
chưa tiêu diệt được cái năng
lực nghiệp chướng luân hồi bằng cách dứt bỏ mọi tham sân si, chúng ta sẽ
phải còn tái sinh. Chết trong kiếp này chỉ có nghĩa là kết thúc quãng
đời của thân và tâm trong kiếp này.
Nhưng ngay lúc cái tâm thức ra đi vào
giây khắc chết, một cái tâm thức mới xuất hiện tức thì vào một thân xác
mới tùy theo nghiệp và hành động của
người đó trong kiếp trước. Như vậy một
người tu thiền nếu hiểu rằng cái tâm thức vào giây khắc chết về căn
bản không khác gì tâm thức vào bất cứ giây khắc nào khác thì sẽ không sợ
hãi. Người đó có thể
đối diện phút cuối cuộc
đời mình một cách tỉnh giác và chững
chạc theo như lời dạy của đức Phật. Tạo không khí thật thanh tịnh Khi chúng ta muốn tạo một không khí thanh tịnh cho một người sắp chết,
chúng ta cần biết sở thích người đó là
gì, cái gì thích, cái gì không thích. Chẳng hạn, ông
đó có thể thích bông hoa. Khi
đó chúng ta nên có nhiều hoa trong
phòng để cạnh giường. Ông có thể thích
từ trần trong căn phòng ấm cúng của
mình, trong bối cảnh quen thuộc và bình an cho mình. Vậy nếu có thể
được, ông nên trải giờ phút cuối
đời ở tại nhà thay vì ở bệnh viện.
Nhưng nếu điều
đó không thể làm
được và cần phải có sự săn
sóc của bệnh viện, chúng ta nên cố tạo bối cảnh trong bệnh viện càng riêng
tư và an bình bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Một phòng bệnh riêng là tốt
nhất nhưng không phải ai cũng có điều
kiện trang trải. Dù cho chỗ đó là gì,
chúng ta cũng nên tạo khung cảnh càng bình an càng tốt. Ông có thể có một tượng hình Phật nho nhỏ mà ông thích hướng nhìn. Nếu
vậy chúng ta có thể đặt tượng hình
cạnh bình hoa ở đầu giường. Vẻ mặt
thanh tịnh của hình Phật có thể làm người ta rất an tâm. Khi nhìn vào hình
Phật, người ta được nhắc nhở
đến sự sáng suốt và lời dạy của
đức Phật. Và
điều đó
có thể đem lại sự thoải mái và an
bình, nhất là vào lúc cần thiết nhất. Căn
phòng cũng nên sạch sẽ và ấm cúng. Người sắp chết có thể muốn cái giường
mình đặt nhìn ra cửa sổ
để có thể thấy
được cây cối, dễ làm cho con tim dịu
lại. (Đức Phật chẳng hạn, cũng chọn
nhập diệt trong khung cảnh thiên nhiên, dưới tàng hai cây sala
đang ra hoa trong rừng Kusinara.) Nếu rủi người sắp chết mất điềm
tĩnh và có dấu hiệu sợ hãi, lo lắng hoặc đau
đớn, thân nhân cần trấn an ông. Chẳng
hạn như, người vợ có thể nắm tay hoặc dịu dàng vuốt trán, nói với chồng
những lời lẽ dịu ngọt và an ủi. Người vợ có thể dịu dàng nhắc nhở
đạo pháp, khuyên chồng cần giữ tâm
thần yên tĩnh và hành thiền. Bà có thể trấn an ông rằng
đừng lo cho vợ và con cái, rằng bà
đã biết
đạo pháp và sẽ sống theo đạo
pháp. Bà sẽ biết cách để tự lo cho
mình và cho con cái. Bà có thể nhắc rằng vật sở hữu, những người thân yêu
và tâm thân nói cho cùng đều không
phải là của ta. Chỉ có hành động của
chúng ta là vật sở hữu đích thật của
chúng ta và sẽ đi theo ta. Bà có thể
nhắc với chồng về cuộc đời tốt
đẹp mà ông
đã sống, về sự săn
sóc chu đáo mà ông
đã lo cho cả gia
đình, và nhiều
điều thiện mà ông
đã làm. Nhớ lại những
điều đó,
và hiểu được
đạo pháp, ông có thể mạnh dạn trở lại.
Ông có thể mỉm cười và thấy an bình. Cái chết không còn
đáng sợ
đối với ông nữa. Dĩ nhiên, chuyện vừa nói ở trên chỉ là một trong những trường hợp có
thể xảy ra. Khi lúc đó
đến thì không ai có sẵn bài bản
để làm theo. Nhưng nếu một người hiểu
được đạo
pháp, người đó có thể
đáp ứng theo trực giác, và tùy hoàn
cảnh lúc đó, nói và làm
điều thích hợp
để giúp người thân chết một cách bình
yên. Vào thời của đức Phật, bà
Nakulamata, vợ của ông Nakulapita, đã
làm đúng như thế: bà trấn an chồng lúc
ông sắp từ trần. Bà nói:"Mình ơi, đừng
chết mà đem theo bất cứ sự ân hận hay
dính mắc nào. Ðức Phật đã dạy rằng
chết như vậy là không sáng suốt." Vì hiểu tánh của chồng, bà nói
tiếp:"Mình ơi, mình có thể đang nghĩ
là khi mình ra đi rồi, em sẽ không
đủ khả năng
nuôi con hoặc giữ gia đình
được tồn tại. Ðừng nghĩ như vậy, vì em
rất giỏi quay vải, chải len. Em có thể nuôi con và gìn giữ gia
đình. Vậy mình cứ yên lòng
đi." Và bà trấn an chồng là bà sẽ luôn sống đạo
hạnh và tu đạo
đến khi giác ngộ. Và nếu ai nghi ngờ
thì cứ để họ
đến hỏi
đức Phật, vì bà tin ngài sẽ biểu lộ lòng tin tưởng nơi bà. Nghe
được tất cả những lời trấn an này, ông
Nakulapita chẳng những không chết mà còn cảm thấy khoẻ hẳn ra, không còn
bị bệnh nữa! Sau này, khi cặp vợ chồng đằm
thắm này đến gặp
đức Phật, ngài nói với Nakulapita rằng
ông rất may mắn có được một người vợ
như vậy. "Con thật có phước lấy được
Nakulamata là người thương yêu lo lắng cho con như vậy, chỉ muốn cho con
được hạnh phúc và có thể khuyên nhủ
con lúc khủng hoảng." Thân nhân cũng nên làm hết sức mình để
hỗ trợ người sắp chết. Như đã nói ở
phần trước, thân nhân không nên khóc lóc vì như vậy sẽ gây khó khăn
cho người sắp chết. Nhưng nếu khó có thể tự kềm chế
được mình thì thân nhân cũng nên suy
nghĩ về đạo pháp. Họ có thể suy niệm
rằng cái chết và cái sống không thể rời nhau. Hễ có sống thì phải có chết.
Ðó là một điều mà ai cũng nên chấp
nhận một cách bình thường. Ngoài ra khi mà thân xác thật già yếu và bị nan
y, thì được "giải thoát" là một
điều nhẹ nhõm. Người
đó sẽ sướng hơn khi có một kiếp mới.
Suy nghĩ một cách hiểu biết như vậy, thân nhân cũng có thể kềm giữ
được và giúp
đưa người chết ra
đi một cách
đàng hoàng thanh thản. Khoảnh khắc ý niệm cuối cùng Khoảnh khắc ý niệm cuối cùng hay khoảnh khắc lìa
đời được
coi là vô cùng quan trọng. Nếu một người chết với sự sợ hãi, tức giận,
tiếc nuối hoặc bất cứ một tâm trạng bất thiện nào khác, thì sẽ bị một kiếp
tái sanh xấu. Nhưng nếu người đó chết
với bình an, trí tuệ, với tỉnh giác và thanh thản, thì sẽ
được kiếp tái sanh tốt. Thông thường
một người sống một cuộc sống đạo
đức thì khoảnh khắc ý niệm cuối cùng
sẽ đương nhiên là một ý niệm thiện.
Những điều tốt mà người
đó đã
làm có thể sẽ hiện ra trước tâm thức. Hoặc có người sẽ thấy hình ảnh nơi
mình sắp đến, chẳng hạn cảnh trời và
cảnh người đẹp tuyệt. Ngược lại nếu
một người đã sống một cuộc
đời ác độc,
thì những hành động
độc ác đó,
hoặc cảnh địa ngục và
điềm xấu, sẽ hiện ra trước mắt. Tuy
nhiên trên đời không ai tốt hết hoặc
xấu hết; chúng ta ai cũng có lẫn lộn xấu tốt. Nhưng nếu tính chung chúng
ta sống tương đối tốt thì chúng ta có
thể vững tin là chúng ta sẽ được kiếp
tái sanh tốt. Nếu chúng ta hiểu được lẽ sống
chết, chúng ta có thể đối diện cái
chết với sự vững tâm và thanh thản. Như đã
nói trên, chúng ta có thể thiền định
cho đến phút chót, giữ vững sự tỉnh
giác và điềm tĩnh. Nếu
đã sống một cuộc
đời tương
đối tốt và lại còn có thể giữ được
tỉnh giác trước cái chết, chúng ta có thể vững tin là sẽ
được tái sinh kiếp tốt - trở lại cõi
người hay lên cõi trời. Chúng ta cũng hy vọng, ở bất cứ kiếp tái sinh nào,
sẽ sớm chấm dứt luân hồi, để chúng ta
không còn phải tái sinh và được hưởng
cực lạc của cõi Niết bàn. Ðôi khi một câu hỏi được
đặt ra: Nếu một người không giữ
được tỉnh giác, nhất là khi người
đó chưa từng
được học thiền, thì sao? Nếu trường
hợp người đó chết lúc hôn mê thì sao?
Hoặc nếu chết thình lình vì tai nạn thì sao? Theo sự hiểu biết của tôi vể
kinh Phật dạy, tôi nghĩ rằng nếu người đó
sống một cuộc đời tốt lành thì
đa phần vào lúc chết người
đó sẽ có khoảnh khắc ý niệm cuối cùng
cũng tốt lành và được một kiếp tái
sinh tốt. Nghiệp của chúng ta là chỗ nương tựa thật sự của chúng ta, cho
nên tổng lượng việc thiện chúng ta đã
làm sẽ đưa chúng ta vào một kiếp tái
sinh tốt. Ðó chính vì vậy cho nên chúng ta cần có một cuộc sống tốt lành
lúc chúng ta còn sống, chứ đừng chờ
tới lúc gần chết, vì như vậy sẽ quá trễ. Nhưng nếu vì trong cuộc sống
chúng ta có làm cả việc xấu lẫn việc tốt, có thể chúng ta sẽ không khéo
léo và chỉ hồi tưởng những hành động
xấu thay vì hành động tốt vào giây
phút từ trần. Vì vậy cho nên giữ vững tỉnh giác là rất quan trọng và rất
hữu ích. Với tỉnh giác, những ý nghĩ bất thiện sẽ không có thể xâm nhập
vào tâm thức chúng ta và chúng ta có thể lìa
đời một cách yên tĩnh, bình an. Tỉnh giác có một giá trị tuyệt vời
như vậy - giúp chúng ta lúc sống lẫn lúc chết - thì tại sao chúng ta không
bồi đắp và phát triển nó triệt
để trong lúc chúng ta còn sống? -ooOoo- SUY NGHIỆM VỀ CÁI CHẾT Trong khi chúng ta còn sống chúng ta nên thỉnh thoảng suy nghiệm về cái
chết. Ðúng ra chúng ta nên nghiệm về nó hàng ngày. Ðức Phật khuyên nên
nghĩ về cái chết thường xuyên vì làm vậy có nhiều cái lợi. Chúng ta hãy
xem suy nghiệm về cái chết thì được
lợi như thế nào. Trước tiên, chúng ta cần nói rõ rằng suy nghiệm về cái chết không có
nghĩa chúng ta phải trở nên buồn rầu, sợ hãi, bệnh hoạn, hoặc ngã lòng,
chỉ muốn tự tử. Không, trái lại khi nghiệm một cách hiểu biết về cái chết
chúng ta càng có thể sống một cách hiểu biết và từ bi hơn. Thí dụ, mỗi khi bực mình khó chịu, tôi thường suy nghiệm như thế này
(nếu tôi không bị mất tỉnh giác lắm): Ðời sống rất ngắn, ai cũng sẽ
chết đến nơi. Vậy gây gỗ cãi nhau
với người khác thì được ích lợi gì?
Nổi cơn nóng giận thì được ích lợi gì?
Hoàn toàn không được gì cả. Tốt hơn là
mình nên giữ lòng bình an. Cãi nhau hay nổi nóng không giải quyết vấn
đề, mà chỉ tạo thêm hận thù phiền
toái. Nghĩ như vậy giúp tôi nguôi lại, tự kiểm soát lấy mình không
để bị cảm giác sai lôi cuốn, và quan
hệ với người khác nhẹ nhàng khéo léo hơn. Ðương nhiên
điều này không phải luôn luôn dễ làm
và đôi khi (có lẽ rất nhiều khi) tôi
quên đi và bị vướng vào những
đại ngôn và xúc cảm quá mức, nhưng khi
tôi đã tự nhắc
được mình về sự ngắn ngủi của cuộc
đời và sự phi lý của việc nổi nóng,
tôi nguôi lại và ăn nói với sự dịu
dàng và tự chế. Cũng vậy, khi tôi bị kích động hoặc
lo lắng về một chuyện gì đó, tôi tự
hỏi lo lắng bồn chồn có được ích gì.
Cuộc đời sẽ trôi qua và cái chết chờ
đón tất cả mọi người. Không ai trên
thế giới này có thể thoát được cái
chết. Cái chết làm bình đẳng tất cả
mọi người. Do đó, khi còn sống thì tôi
nên sống cách tốt nhất mà tôi có thể làm được,
tức là sống theo đạo pháp, sống với
tỉnh giác, sống từng giây phút một, từng ngày một, làm hết sức của mình
cho ngày đó. Nghĩ minh mẫn như vậy thì
tôi sẽ bỏ qua mọi lo lắng và sống một cách nhẹ nhàng hạnh phúc hơn. Hơn nữa, chúng ta có thể suy luận rằng dù có lo hay không lo, tất cả
chúng ta đều sẽ già và chết. Vậy thà
chúng ta già mà không lo lắng thì chẳng hay hơn không! Ðó là
điều sáng suốt hơn. Không ai có thể
chối cãi sống không lo là sướng. Ngược lại lo nhiều làm chúng ta rút ngắn
tuổi thọ, gây thêm bệnh và chết sớm. Nghĩ được
như vậy cũng giúp chúng ta bỏ qua mọi lo lắng và sống hạnh phúc hơn. Do
vậy, suy nghĩ về cái chết một cách hiểu biết thì chúng ta càng bao dung
nhẫn nại hơn, tử tế dịu dàng hơn, đối
với bản thân chúng ta cũng như đối với
người khác. Và rồi chúng ta cũng ít bám víu vào của cải vật chất, ít tham lam hơn.
Vâng, khi chúng ta nhận rõ sự ngắn ngủi của cuộc
đời, và cho dù chúng ta tích lũy của
cải được bao nhiêu, khi chết chúng ta
cũng chẳng mang theo được một xu, thì
chúng ta sẽ ít tính toán hơn. Chúng ta có thể nới lỏng ra và bắt
đầu hưởng trọn niềm vui chia xẻ và ban
bố, yêu thương và quan tâm người khác. Chúng ta sẽ nhận ra rằng cuộc
đời không phải chỉ là tích lũy dành
dụm của cải. Chúng ta sẽ thích rộng rãi hơn, chia xẻ và
đem niềm vui và hạnh phúc
đến cuộc
đời người khác. Mang lại niềm vui và hạnh phúc
đến cho người khác chính là cái làm
cho cuộc đời có ý nghĩa và
đẹp hơn. Ðó mới là
điều quan trọng. Lòng thương yêu và
trắc ẩn có thể mọc chồi và nở hoa trong chúng ta giống như một cây
đầy hoa
đẹp. Chúng ta có thể trở thành những con người thật sự tốt
đẹp đầy
lòng từ bi, đáp ứng bằng cả con tim mà
không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, địa
vị xã hội, v.v…Cuộc đời chúng ta sẽ có
thêm ánh sáng mới và chúng ta có thể nói mình thật sự hạnh phúc và nhân
bản. Và khi cái chết đến chúng ta sẽ
không có gì ân hận. Chúng ta có thể chết một cách hạnh phúc và an bình,
với một nụ cười trên môi. Khi bốn ngọn núi l
Có lần đức Phật kể một chuyện ví
von về cái chết để nhấn mạnh với chúng
ta là cần phải sống một cuộc đời có ý
nghĩa. Ngài đặt câu hỏi sau
đây cho vua Ba Tư Nặc (Pasenadi): "Tâu
Bệ hạ, ngài sẽ làm gì nếu được cho
biết rằng sẽ có bốn ngọn núi khổng lồ từ bốn phía
đông, tây, nam, bắc, tiến
đến vương quốc của ngài, nghiền nát
tất cả mọi sinh linh, và không ai có thể thoát
được?" Vua Ba Tư Nặc trả lời: "Kính bạch Đức
Thế tôn, với một thiên tai vĩ đại như
vậy, sự hủy diệt sinh linh khổng lồ như vậy, và vì tái sinh làm kiếp người
không phải dễ, cho nên có còn cách nào khác là ta phải sống một cuộc
đời chính
đáng và làm điều thiện." Ðức
Phật lúc đó mới
đi thẳng vào vấn
đề: "Thưa Bệ hạ, tôi xin nói cho ngài
biết -- tuổi già và cái chết đang lăn
đến nghiền nát ngài
đó. Vì tuổi già và cái chết
đang lăn
đến, ngài sẽ làm gì
đây?" Ðức vua trả lời rằng trong tình
huống như vậy, ông càng cần phải cấp tốc sống một cuộc
đời chính
đáng và làm điều thiện. Vua
cũng nhìn nhận rằng mọi quyền uy, thanh thế, của cải và dục lạc mà mình
đã hưởng, khi chết cũng sẽ thành số
không. Cho nên khi chúng ta suy niệm có hiểu biết về cái chết, chúng ta sẽ
nhận ra rằng của cải, quyền uy, thanh thế và dục lạc không phải là tất cả.
Chúng không thể đảm bảo
đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Biết
bao người đã có những thứ
đó mà vẫn sống một cuộc
đời đầy
hỗn loạn, thiếu hạnh phúc. Một số người hối tiếc là mình
đã đối
xử tệ bạc, dẫm chân và hủy hoại người khác trong lúc lo quay cuồng chạy
theo tham vọng trần gian. Một khi đã
đạt đến
tột đỉnh, họ thấy rằng thành tựu của
họ cho cùng cũng chẳng lấy gì làm thỏa mãn, mà còn trống rỗng và vô nghĩa.
Ðôi khi họ ước gì đã dành nhiều thời
giờ cho người thân, cho bạn bè, đã
biểu lộ nhiều quan tâm, hiền dịu hơn. Họ hối tiếc
đã bỏ lơ người thân thiết của mình.
Một số người khi đã
đạt được
một mức thành công nào đó thì thay
đổi thái
độ nửa chừng. Họ dành nhiều thời gian cho người thân, bạn bè và xã
hội, và sẵn sàng từ bỏ những tham vọng cao nhất
để chấp nhận mức ít hơn. Nếu chúng ta đọc về những người
giàu có thành công đã làm cuộc
đời họ xáo trộn như thế nào thì chúng
ta có thể học được từ những sai lầm
của họ. Một ngày nọ tôi có đọc cuốn
sách tựa đề là Những người thua
cuộc giàu nhất thế giới. Tôi thấy đó
là cuốn sách thật có tính giáo dục cao. Tựa
đề đặt thật hợp. Họ là những
người thua cuộc trong cuộc sống mặc dù giàu có. Vâng, tôi học
được nhiều
đạo pháp từ cuốn sách
đó, về việc tiền bạc và thành công
không bảo đảm một người
được hạnh phúc. Thay vào
đó họ bị thiếu hạnh phúc vì của cải và
thành công của họ. Ðọc về những người giàu có và nổi tiếng, như Howard
Hughes, Mario Lanza, Elvis Presley, Marilyn Monroe, và Aristotle Onassis,
sống và chết như thế nào, tôi thật không ganh tị gì với họ. Những người hào nhoáng như Elvis và Monroe chết do dùng thuốc quá liều,
đã sống
đúng theo câu tục ngữ: "Từ nghèo đến
giàu, và từ giàu đến trống không." Tất
cả những của cải và thành công của họ cũng không
đem lại
được cho họ cái hạnh phúc mà họ tìm kiếm. Hạnh phúc vẫn lẫn tránh
họ. Họ có vẻ thật đáng thương, tràn
ngập thịnh nộ, đau khổ, sợ hãi và
trống rỗng. Hoặc lấy trường hợp của một người
đàn bà được thừa hưởng gia tài
khổng lồ, lấy chồng bảy lần mà vẫn không tìm
được hạnh phúc. Bà ta nói với người viết tiểu sử của mình: "Tôi
thừa hưởng tất cả mọi thứ ngoại trừ tình yêu. Tôi luôn luôn
đi tìm tình yêu, vì tôi không biết nó
là gì." Sáu cuộc hôn nhân đầu tiên
chấm dứt bằng ly dị, và lần chót thì ly thân. Rốt cuộc lại, mặc dù của cải
khổng lồ bà ta được mô tả như "chỉ là
một người đàn bà bệnh hoạn yếu
đuối dẫy
đầy cô đơn." Bà ta chết vào năm
66 tuổi với vài người bạn ở giường bệnh, nhưng không có người chồng nào.
Tôi tin những chuyện bi thảm như vậy cũng có ở Ðông phương nữa. Dĩ nhiên, khi nói về người khác, chúng ta không có ý chê bai theo kiểu
ta đây là
đúng. Chúng ta chỉ muốn nhấn mạnh ở điểm
cần có những giá trị đúng
đắn trong cuộc sống,
để hiểu
được bản chất của tình thương yêu và từ bi
đích thực. Chúng ta cũng không có ý
lên án sự giàu có và thành công, hay nói không ai nên cố gắng
được thành công hay giàu có. Không,
chúng ta không có ý nói như vậy. Chúng ta hiểu rằng ai cũng phải có
đầu óc thực tế. Chúng ta hiểu rằng khi
làm việc ngoài đời thì
đương nhiên ai cũng phải cố hết sức
để kiếm tiền càng nhiều càng tốt. Nói
cho cùng, nếu ta muốn làm việc thiện và giúp người khác, chẳng hạn như cất
nhà từ thiện, bệnh viện và thiền viện cũng như bố thí cho tăng
và người nghèo, chúng ta cần có tiền. Cho nên chúng ta không khuyên người
đời đừng
làm giàu. Dĩ nhiên chúng ta cần tích lũy của cải một cách lương thiện,
không làm hại ai. Nói cách khác, chúng ta nhấn mạnh ở sự cân bằng về
đạo đức.
Chúng ta cần giá trị tinh thần, cần biết hạnh phúc không phải là tự phục
vụ mình mà là chia xẻ, quan tâm với người khác. Khi chúng ta có giá trị
đúng đắn
chúng ta có thể sống một cách có ý nghĩa và đem
niềm vui và hạnh phúc đến cho tất cả
mọi người liên hệ đến môi trường cuộc
sống của chúng ta. Khi chúng ta đã
hiểu đạo pháp, nhất là chân lý về vô
thường, khổ và vô ngã, chúng ta sẽ không bám víu vào tiền tài danh vọng.
Chúng ta có thể sống trong khiêm tốn và từ tâm, chia xẻ của cải và thành
công, và tìm niềm vui trong việc làm người khác hạnh phúc. Nhưng khi chúng
ta không có một sự hiểu biết sâu xa rằng hạnh phúc là gì -- rằng hạnh phúc
thật sự chỉ đến từ một tâm hồn
đã được
giải thoát khỏi tham, sân, si - thì chúng ta có thể làm
điều sai, lún sâu vào vũng bùn vật dục
và đạt đến
một kết cục khốn cùng. Cho nên chúng ta cần suy tư kỹ về sống và chết, và
lái vào con đường
đúng đắn. Một cảm giác khẩn cấp Suy tư về cái chết còn mang lại cho chúng ta cái trong tiếng Phạn gọi
là samvega -- một cảm giác khẩn cấp vốn có thể tăng
năng lực cho chúng ta
đủ sức làm mọi
điều tốt trước khi chết, và cụ thể là
giúp chúng ta tập thiền để cảm nhận
được chân lý và thấu hiểu sâu sắc hơn.
Ðức Phật nói đa số chúng sinh chạy dọc
theo bờ bên này mà không ai tìm cách vượt qua bờ bên kia. Ðức Phật muốn
nói rằng chúng ta ai cũng vướng bận theo đuổi
vật dục và những thú vui thường tình của cuộc
đời. Chúng ta không chịu tìm cách vượt
đến cái phi thường -- vượt qua cái sống và chết,
để được
nếm cái mật ngọt thần tiên của miền cực lạc, của Vô Dư Niết Bàn. Niết Bàn này là gì? Ðức Phật nói đó
là điều không thể mô tả
được mà phải
được chứng nghiệm do chính bản thân
mỗi người. Nhưng đức Phật có cố cho
chúng ta vài ý tưởng về Niết Bàn. Chẳng hạn, ngài mô tả
đó là vô sanh, vô thủy, vô tướng, vô
điều kiện, vô tử, là hạnh phúc cao
nhất, là an bình vĩ đại nhất. Niết Bàn
tượng trưng cho một trạng thái không nổi dậy và không mất
đi, bất sanh bất diệt. Ðó cũng là sự
tắt ngấm mọi ngọn lửa tham sân si, sự chấm dứt của tâm thức và vật chất,
sự tận diệt mọi khổ ải. Một người mà đã chứng
đắc Niết Bàn, vốn có thể xảy ra trong
khi ngồi thiền, được coi là
đã giác ngộ. Một người
đã giác ngộ có thể là bậc A La Hán
hoặc Phật. Cái khác biệt giữa bậc A La Hán và Phật là ở chỗ bậc A La Hán
được giác ngộ nhờ nghe theo lời dạy
của một người đã giác ngộ khác, trong
khi Phật thì tự đạt lấy giác ngộ. Một người giác ngộ là một người có thể đương
đầu với mọi thịnh suy của cuộc
đời với một tinh thần thăng
bằng. Qua mọi thăng trầm như thắng hay
thua, thành công hay thất bại, khen ngợi hay chê trách,
đớn đau
hay sung sướng, danh thơm hay tiếng xấu, người
đó vẫn thanh thản, không lay chuyển.
Người đó giữ
được như vậy không phải vì họ ảo tưởng
hay không có cảm xúc, mà là vì họ đã
giác ngộ và hiểu biết; họ hiểu cái bản chất thực của sự hiện hữu, bản chất
của hiện tượng vật chất và tinh thần, bản chất của lẽ vô thường, sự thiếu
an ninh và thiếu tinh túy của cái gọi là ngã theo ý nghĩa cơ bản nhất. Nếu
người đó không thèm muốn khoái cảm hay
không sợ đau,
điều đó
không có nghĩa là họ không cảm nhận được
những cái đó. Họ cảm nhận
được nhưng họ không
để bị chúng chi phối vì họ biết
được bản chất
đích thực của chúng. Họ có thể dùng
trí tuệ và thanh tịnh để
đón nhận cả
đau đớn
lẫn khoái cảm khi chúng xảy ra. Đ
Do đó các vị A La Hán vào thời
đức Phật
đã có câu kệ: Ta không ham thích cái sống Một câu kệ khác đặt như sau: Các pháp hữu vi đều vô thường Suy nghiệm về cái chết có thể giải thoát chúng ta khỏi sự kềm kẹp của
sự quyến rũ ái dục. Chúng ta sẽ không bị của cải vật chất
đánh lừa mà sẽ chuyền mọi tiềm lực cho
một cuộc sống trọn vẹn và toại nguyện hơn, chăm
bồi phát triển trí tuệ và từ bi. Chúng ta có thể tìm con
đường tu thiền, hay nếu
đã học thiền rồi, thì nỗ lực gấp
đôi để
đạt được
cái mục đích tối hậu là giải thoát mọi
sự khổ. Suy nghiệm dẫn
Suy nghiệm thường xuyên về cái chết - cái chết là không tránh khỏi và
tài sản chúng ta chính là các hành động
của mình - có thể thúc đẩy chúng ta
sống một cuộc đời tốt
đẹp để
khi chết chúng ta không còn sợ chết. Hơn nữa, bởi ai cũng phải chết, nên
khi có người thân qua đời, chúng ta sẽ
không bị dằn vặt thương tiếc nhờ chúng ta hiểu biết và chấp nhận.
Đây không phải là vì chúng ta không có
cảm xúc hay không có con tim. Không, chúng ta có con tim, một con tim mềm
yếu là khác. Chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc nhưng chúng ta cũng biết
thực chất của sự hiện hữu, và có thể chấp nhận rằng cái chết luôn
đan quyện vào cuộc sống. Khi giải thích cách người hiểu biết chấp nhận cái chết như thế nào,
đức Phật nói: "Biết
được thực chất của trần gian, người
hiểu biết không đau buồn thương tiếc.
Than khóc chỉ dẫn đến thêm khổ sở
đớn đau.
Khóc không làm người chết sống dậy. Người than khóc trở nên xanh xao gầy
yếu. Người đó chỉ hành hạ lấy mình và
sự khóc than thương tiếc là vô nghĩa." Đức
Phật nói người hiểu biết đã nắm
được chân lý của sự hiện hữu sẽ "giật
bỏ mũi tên đau buồn tuyệt vọng".
"Người đó không có bám víu. Nhờ
đã đạt
được sự bình an của tâm hồn, người
đó đã
vượt qua mọi thương tiếc. Người đó
đã được
giải thoát." Vậy cho nên chúng ta nên suy nghiệm về những mặt sâu xa của lời dạy
đức Phật
để chúng ta có thể đối diện cái
chết không phải với đau buồn mà với
hiểu biết. Những người đã khuất cũng
không muốn chúng ta mất sự tự chủ. Họ không muốn chúng ta tan nát con tim,
mà ngược lại biết chấp nhận sự ra đi
của họ một cách thanh cao. Vì đã tái
sinh, họ cũng không còn ở đó
để xem chúng ta khóc. Sự khóc lóc
đau buồn của chúng ta không giúp
được gì cho họ. Khóc lóc thật vô ích.
Nếu chúng ta nghiệm kỹ, thì chúng ta có thể thấy sự
đau buồn của chúng ta chỉ là vì sự
dính mắc của mình. Chúng ta không chịu nổi sự chia tay. Nhưng nếu chúng ta
suy nghiệm cho sâu và trở nên hiểu biết hơn, chúng ta có thể chầp nhận
điều không tránh khỏi. Thay vì than
tiếc, chúng ta có thể can đảm hơn.
Chúng ta có thể đáp ứng có ý nghĩa
hơn, chẳng hạn như quyết tâm sống một cuộc đời
mẫu mực để tôn vinh hay tưởng nhớ
người thân. Một người hiểu biết chắc chắn sẽ không muốn ai than khóc cho
mình. Thay vào đó, họ có thể nói: "Nếu
thật sự muốn tôn vinh hay tưởng nhớ tôi thì hãy sống một cuộc
đời tốt
đẹp, làm việc thiện, tử tế với đồng
loại…Đó là tất cả những gì tôi yêu
cầu." Khi đức Phật gần nhập diệt, tục
truyền rằng hoa tiên và bột gỗ hương từ trên trời rơi xuống phủ
đầy người ngài như một dấu hiệu tôn
vinh. Người ta cũng nghe nhã nhạc từ trời vọng xuống. Nhưng
đức Phật cho biết chuyện tôn vinh như
vậy là điều ngài không muốn. Ngài nói:
"Ðây không phải là cách tôn vinh Như Lai cao diệu nhất. Nhưng, này A nan,
ai tuân theo đạo pháp, sống theo
đạo pháp,
đi con đường
đạo pháp,
đó mới chính là tôn vinh Như Lai một cách cao diệu nhất. Cho nên, A
nan, con phải tự tâp luyện cách đó:
chúng ta cần theo đạo pháp, sống theo
đạo pháp,
đi con đường
đạo pháp." Và mặc dù chúng tôi
đã có đề
cập trước đây, chúng ta hãy lập lại
đây một lần nữa: lời khuyên bảo cuối
cùng của đức Phật là: Mọi pháp hữu vi
đều vô thường. Hãy tận lực liên tục
chuyên cần (để
được giải thoát). Không lời than khóc nào có thể
Trong các kiếp trước của ngài, đức
Phật lúc đó là (Phật sắp thành) cũng
không biểu lộ sự đau buồn khi những
người thân mất. Ðức Phật có tuệ nhãn nhớ lại những kiếp trước, và tục
truyền rằng trong một kiếp mà ngài là một nông dân, ngài không than khóc
khi người con trai duy nhất từ trần. Thay vào
đó, ngài tự suy nghĩ: "Cái gì phải tan rã thì sẽ tan rã và cái gì
phải chết thì sẽ chết. Mọi sự sống là tạm bợ và phải
đến cái chết." Khi một người hỏi tại
sao ngài không khóc - có phải vì là một người cứng cỏi, không có cảm xúc
cho con mình? -- vị bồ tát trả lời rằng mình rất thương con, nhưng than
khóc không làm con sống lại được.
"Không lời than khóc nào có thể chạm đến
đống tro của kẻ chết. Tôi than khóc
để làm gì? Con tôi
đi con
đường nó phải đi." Trong một kiếp khác khi ngài không khóc than cho cái chết của một người
anh và bị người đời cáo buộc là có con
tim sỏi đá, ngài trả lời rằng họ chưa
hiểu tám duyên trần mà ai cũng phải chịu, đó
là được và mất, vui và buồn, khen và
chê, tiếng xấu và tốt. "Bởi vì các người không hiểu tám duyên trần này nên
các người mới la khóc. Tất cả mọi vật hiện hữu
đều tạm bợ và cuối cùng rồi cũng phải
chết đi. Nếu các người không hiểu
điều này, và do u minh mà kêu than la
khóc, tại sao tôi phải theo các người để
la khóc?" Trong một kiếp khác nữa vị bồ tát không khóc lúc người vợ trẻ trung
xinh đẹp lìa
đời. Thay vào
đó ngài suy nghĩ: "Cái gì có tánh chất
tan hủy thì phải tan hủy. Mọi sự hiện hữu đều
là vô thuờng," và ngài ngồi xuống ăn
uống như thường, cho thấy một khả năng
phi thường sống có tỉnh giác từng khoảnh khắc một. Mọi người chung quanh
lấy làm kinh ngạc và hỏi tại sao ngài có thể bình tĩnh vào một thời
điểm như vậy. Chẳng lẽ ngài không yêu
người vợ xinh đẹp
đến độ
những người không biết nàng còn không cầm được
nước mắt hay sao? Vị bồ tát trả lời bằng câu kệ: Sao ta phải đổ lệ cho nàng Những truyền thuyết đầy kinh ngạc
như vậy về sự tự chế của vị bồ tát thật là đáng
nể. Nó cũng dạy cho chúng ta suy tư thật kỹ và sâu sắc về lời Phật dạy,
hiểu được sự thật về vô thường và chấp
nhận thực tế của cái chết. Nhờ vậy khi chúng ta gánh chịu sự ra
đi của người thân yêu chúng ta mới có
thể nghĩ lại về việc đức bồ tát
đã làm và giữ
được sự bình tĩnh cho mình. Cái chết không xa lạ với chúng ta Một cách nghĩ khác về cái chết để
chế ngự nỗi sợ chết là cho rằng cái chết chẳng có gì xa lạ với chúng ta.
Trong cõi ta bà thế giới với vòng sinh tử vô tận,
đức Phật
đã nói rằng chúng ta đã chết và
tái sinh không biết bao nhiêu lần -- nhiều đến
độ giả sử xương chúng ta không tan và
chất chồng lên với nhau thì mỗi người chúng ta có một
đống xương còn cao hơn ngọn núi cao
nhất nữa! Ðức Phật cũng nói, nước mắt mà chúng ta
đã khóc khi mất những người thân trong
cõi ta bà này còn nhiều hơn bốn biển. Thật sự, đức Phật nói, chúng ta
đã chịu khổ quá
đủ để
thấy mệt mỏi với thế gian rồi, và nỗ lực đi
tìm con đường thoát khỏi cái mê hồn
trận khổ đau này, con dường
để đến
cõi vô tử Niết bàn. Rủi thay, chúng ta chỉ có trí nhớ ngắn hạn và không
thể nhớ được những kiếp trước của
mình. Làm sao chúng ta có thể nhớ lại kiếp trước khi mà nhiều khi chúng ta
còn không nhớ mình làm cái gì ngày hôm trước! Và do vậy cho nên chúng ta
cứ sống môt cách tự tại, không có nỗi gấp rút
để vun bồi trí tuệ đặng giải
phóng chúng ta khỏi mọi đau khổ. Tuy
nhiên, vào thời đức Phật, có nhiều vị
tăng, dĩ nhiên kể cả
đức Phật, có khả năng
nhớ lại những kiếp trước. Trong thời đại
này cũng vậy, có những câu chuyện kể về những người có khả năng
kỳ lạ nhớ được kiếp trước của mình.
Francis Story và Bác Sĩ Ian Stevenson đã
viết nhiều sách ghi chép lại nhiều trường hợp như vậy. Khi chúng ta suy niệm về tái sinh chúng ta
được lợi hai cách: 1) Chúng ta có thể coi cái chết, nói cho cùng, là không xa lạ gì với
chúng ta. Chúng ta đã gặp cái chết
nhiều lần trước rồi. Cho nên chúng ta không cần phải
đối diện nó một cách sợ hãi. Chúng
ta chỉ coi nó như là một sự chuyển tiếp, một sự thay
đổi từ một kiếp này qua một kiếp
khác. 2) Chúng ta càng có quyết tâm tìm cách ra khỏi cõi ta bà, khỏi vòng
sinh tử. Chúng ta có thể học sâu thêm lời Phật dạy. Và chúng ta có thể
cố gắng nhiều hơn để thực hành lời
dạy đó, phát triển lòng
độ lượng,
đạo đức
và thiền định. Cái chết khoảnh khắc Theo một cách nhìn khác nữa, thì chúng ta vẫn
đang trải qua cái chết từ khoảnh khắc
này đến khoảnh khắc khác. Bởi nói một
cách tuyệt đối thì chúng ta
đang chết từng khoảnh khắc một và tái
sinh vào khoảnh khắc kế tiếp. Theo đức
Phật, ý thức trổi lên và tan đi liên
tục. Khi một ý thức vừ tan đi thì một
ý thức khác nổi lên tức thì và điều
này xảy ra vĩnh viễn, cho đến chừng
nào chúng ta giác ngộ Niết bàn. Hiện tượng cơ thể cũng liên tục nổi lên và
tan biến. Do đó cái mà chúng ta trải
qua là sự xuất hiện và tan biến liên tục của những hiện tượng tinh thần và
vật chất. Theo một cách nào đó thì
đây cũng là một loại chết và tái sinh
đang xảy ra từng khoảnh khắc một.
Trong tiếng Phạn, điều này gọi là
khanika-maranam - cái chết khoảnh khắc. Trong cuốn Con
đường Thanh lọc (Visuddhimagga) có
đoạn nói như sau: "Trong cái nghĩa tuyệt đối thì
sinh linh chỉ có một khoảnh khắc rất ngắn
để mà sống, cái sống chỉ dài bằng một khoảnh khắc ý thức. Cũng
giống như một cái bánh xe, bất luận nó đang
lăn hay
đang đứng yên, ở bất cứ lúc
nào nó cũng chỉ chạm đất ở một
điểm duy nhất của vòng bánh xe: cũng
vậy cái sống của một sinh linh chỉ dài bằng thời gian của một khoảnh
khắc ý thức. Ngay khi cái khoảnh khắc đó
chấm dứt thì sinh linh đó cũng chấm
dứt. Bởi vậy có câu: "Sinh linh của cái khoảnh khắc ý thức vừa xảy ra
đã sống xong rồi, nhưng không còn
sống nữa, và cũng sẽ không sống trong tương lai. Sinh linh của cái
khoảnh khắc tương lai chưa sống, cũng không
đang sống bây giờ, nhưng sẽ sống trong tương lai. Sinh linh của
khoảnh khắc hiện tại thì chưa sống qua, nhưng
đang sống ngay bây giờ
đây, và sẽ không sống trong tuơng
lai." Theo cách nhìn này, thì sinh linh cũng chỉ là một từ có tính cách quy
ước mà thôi. Phân tích cho tận cùng thì sinh linh chỉ là một chuỗi ý thức
nổi lên rồi tan đi. Một ý niệm chết
đi, một ý khác trổi lên -- chỉ có thế.
Và chúng ta gọi cái chuỗi liên tục hoặc là cái tiến trình này là sinh
linh. Nhưng theo cái ý nghĩa tối hậu thì không có sinh linh - không có một
linh hồn hay tinh thần bất đổi, mà chỉ
là một chuỗi ý thức đến rồi
đi, cái ý thức này tạo duyên cho một ý
thức khác nổi lên. Thêm nữa, cái chết quy ước mà chúng ta kinh qua vào cuối cuộc
đời cũng không phải là cái chết tối
hậu. Một ý thức khác lập tức trổi lên nhưng trong một thể xác mới hoặc ở
một cõi mới tùy theo kiếp tái sinh của mỗi người. Chỉ khi nào người
đó đã
loại trừ được cái vết dính tinh thần
về tham sân si thì người đó mới khỏi
chịu tái sinh. Nếu suy niệm như vậy, chúng ta sẽ cảm nhận
được bản chất vô thường, khổ và vô
ngã. Và chúng ta mới có thể xem việc sống chết một cách nhẹ nhàng. Vài
Mỗi lần bạn đọc báo và thấy trang
cáo phó, bạn có nghĩ một chút về cái chết không? Bạn có ngừng lại và suy
niệm về thực tế cái chết của chính mình? Khi cái chết xảy
đến cho người khác, chúng ta không có
cảm giác nhiều về chuyện đó. Người
chết có thể là một người xa lạ đối với
chúng ta. Sự đau khổ không phải là của
chúng ta, và ngoài ra, chúng ta đã mất
hết cảm giác về những chuyện chết chóc - ngày nào báo chí cũng
đăng tải. Ðọc những tin con người bị
giết, nhất là trong chiến tranh, mạng sống có vẻ rẻ mạt. Có vẻ như không
ai tôn trọng mạng sống con người. Nhưng khi cái chết xảy
đến cho những người thân cận với chúng
ta, chúng ta phản ứng như thế nào? Và khi chúng ta
đối diện với cái chết của chính mình,
chúng ta có sợ hãi kinh hoàng không? Vâng, mặc dù chúng ta biết chết chóc
và thảm kịch xảy ra đầy dẫy chung
quanh chúng ta, chúng ta vẫn kinh hoàng và không chịu chấp nhận khi nó
thật sự xảy đến cho chính mình. Khi chúng ta đọc những bài tưởng
niệm trên báo, chúng ta có thể thấy rằng mặc dù một người
đã qua đời
mấy năm rồi nhưng nỗi
đau khổ của sự chia lìa mà người còn
sống chịu đựng thì vẫn còn
đó, như thể là mới bị
đau khổ ngày hôm qua. Ðôi khi trong
những lời tưởng niệm này người phối ngẫu hay thân nhân vẫn công khai diễn
đạt nỗi đau
buồn mà họ vẫn cảm nhận và những giọt nước mắt mà họ vẫn nhỏ cho người
thân thương của mình. Chúng ta hiểu rằng cảm nghĩ như vậy là bản chất con
người. Nhưng đức Phật cũng dạy chúng
ta rằng, là con người, chúng ta có thể tự hấp thụ trí tuệ và sức mạnh
để chấp nhận sự mất mát và chịu
đựng nó một cách kiên cường. Không
phải đức Phật muốn chúng ta vô cảm
giác mà ngài muốn chúng ta có trí tuệ để
chấp nhận sự mất mát và hiểu ra sự vô ích của nỗi thương tiếc của mình.
Chắc chắn là ngài không muốn chúng ta tiều tụy héo hon vì thương tiếc, trở
nên ốm yếu và mất mọi hứng thú trên đời.
Người Phật tử nói riêng cần hiểu điều
này và chấp nhận sự mất mát một cách kiên định. Nếu người Phật tử muốn viết một thông điệp
đi kèm với một cáo phó hay tưởng niệm
nào trên báo, tại sao không viết những thông
điệp có tính cách Phật giáo như là: Mọi pháp hữu vi
đều vô thường. Hãy tận lực liên tục
chuyên cần cho Niết bàn vô vi; hoặc những suy nghiệm có ý nghĩa về cái
chết như là: Cũng như giọt sương ở đầu
ngọn cỏ vào lúc bình minh sẽ rất sớm tan biến và không vương lại lâu: thì
cũng vậy cuộc đời giống-
như-giọt-sương của con người cũng rất ngắn và phù du. Con người cần phải
thông hiểu điều này, làm việc lành và
sống một cuộc sống đạo
đức; bởi sẽ không ai thoát
được cái chết.
Hoặc nếu người nào muốn viết riêng tư hơn, thì có thể viết một thông
điệp đại
ý như thế này: "Mình ơi, nếu mình có thể biết
được, mình sẽ vui lòng mà biết rằng con cái chúng ta
đã lớn khôn tốt
đẹp. Em đã
dạy con đạo pháp kỹ lưỡng, biết tôn
trọng những giá trị đáng quý của tình
thương yêu và lòng tử tế, trí tuệ và sự thông hiểu. Em
đã dạy con không bắt chước bạo
động và tham lam thường thấy ở các
phương tiện truyền thông như ti-vi và chiếu bóng. Nhờ vậy, con rất nhẹ
nhàng và thương yêu mọi người. Về phần em, em vẫn giữ giới và tập thiền.
Em thực tập tỉnh giác trong cuộc sống hàng ngày và
đi tu tập một năm
vài lần. Em rất bình an, và lớn lên trong đạo
pháp. Em cố gắng không khổ đau thương
tiếc mình, vì mình và em đã hiểu
được lời dạy của
đức Phật -- rằng tiếc thương là vô
ích: nó chẳng phục vụ được mục
đích gì. Và em biết mình cũng không
muốn em thương tiếc, mà chỉ cần em sống một cuộc sống tốt và gương mẫu. "Tuy nhiên em phải thú nhận rằng cũng có những lúc em cảm nhận
được nỗi
đau, khi em nhớ mình kinh khủng, nhất là khi em nhớ lại những lúc
hạnh phúc bên nhau, niềm vui chúng ta san sẻ với nhau, nụ cười hiền và ánh
mắt sáng của mình, cách mình cười to và chọc ghẹo em. Vâng, khi em
đắm mình trong nỗi luyến tiếc
đó, em thú nhận em muốn bật nước mắt.
Nhưng mình ơi, em kềm chế mình được.
Em có tỉnh giác. Em có thể quan sát nỗi đau
và chấp nhận nó. Em có thể quan sát ý nghĩ và tâm trạng mình. Em có thể
suy niệm về lời Phật dạy và hiểu cái vô ích của tiếc thương. Em có thể vui
vẻ và nhận ra những may mắn của mình -- tối thiểu chúng ta
đã có những ngày hạnh phúc bên nhau và
giờ đây em có con
để sống mà lo cho chúng. Em biết nỗi
đau của em
đến từ sự dính mắc và từ sự thiếu hiểu
biết về bản chất của mọi sự hiện hữu. Cám ơn
đức Phật đã dạy chúng ta tỉnh
giác, đã dạy chúng ta sống trong hiện
tại, hạnh phúc từng giây phút, hiểu sự may mắn của mình, và tận hưởng cái
hạnh phúc của một cuộc đời sống
đạo hạnh. "Em biết thông điệp này hơi dài. Em
cũng biết mình không còn nữa để mà
đọc nó. Nhưng nó giúp em cảm thấy
đỡ hơn khi diễn
đạt tâm tư bằng cách này. Em xin cám
ơn mình về cái hạnh phúc mà mình đã
cho em, và em xin dâng hiến tất cả những việc thiện mà em
đã làm, và cuộc sống tốt
đẹp mà em
đang cố sống, tất cả xin dâng hiến để
tưởng niệm đến tình yêu ngọt ngào của
mình. Em ước mong rằng mình, ở bất cứ kiếp tái sinh nào, cũng tiếp tục tu
tập đạo pháp cho
đến lúc chứng
đắc Niết bàn, nơi chấm dứt mọi sự
khổ," vân vân và vân vân. * Tôi phải thú nhận rằng đó là một
thông điệp khá dài và tôi hơi
đi quá đà.
Nhưng điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở
đây là chủ
đề của bài thông
điệp, chủ
đề về sự thông hiểu và chấp nhận. Đó
chỉ là để cho thấy khái niệm về một
thông điệp hay diễn
đạt có tính cách Phật giáo là như thế
nào. Thông điệp
đó có thể viết ngắn hơn và
đơn giản hơn. Hoặc giả, trừ mục
đích giáo dục ra, thì một thông
điệp như vậy là không cần thiết. Những
tình cảm đó rất riêng tư và có thể nên
giữ kín. Khi một người đã hiểu
được đạo
pháp rồi thì người đó chỉ cần sống một
cuộc sống tốt lành và cảm thấy mãn nguyện. -ooOoo- MỘT THẾ GIỚI
Báo chí và tạp chí thời sự có thể cho chúng ta nhiều cơ hội
để suy nghiệm. Bên cạnh các cáo phó,
ta còn thấy nhiều điều nhẫn tâm nhắc
nhở đến sự khổ trên khắp thế giới, mặc
dù chúng ta có thể đã trở thành khá
chai lì về những điều
đó. Nào là sát nhân, cướp bóc, hiếp
dâm, nào là chiến tranh, xung đột tôn
giáo, sắc tộc, xã hội và chính trị, nào là ô nhiễm, bịnh tật,
đói khát, nghèo khổ, tra tấn,
đàn áp, khủng bố, tai nạn, tự tử, nào
là thiên tai như động
đất, cháy, lụt, và bão.
Đó là một danh sách dài buồn nản và
bất tận. Đồ Chúng ta được xem là một giống
người văn minh vốn ghê tởm bạo
động và ghê tởm sự gây thương tổn lẫn
nhau một cách vô nghĩa lý. Ấy thế mà chúng ta có những cuộc tranh tài vô
địch quyền Anh với hai người khoẻ mạnh
vì một số tiền mà cố hết sức mình đánh
vỡ óc người kia trước sự cổ võ ầm ỹ của đám
đông, chẳng khác nào thời dã man La mã
khi giác đấu giao tranh với sư tử hoặc
đấu với nhau
để giải trí cho
đám khán giả khát máu. Chúng ta có
những người đấu bò cố chọc tức, hành
hạ và giết một con bò mộng chỉ vì thú vui. Và mọi người khác, hay tối
thiểu là đám khán giả ngồi chật khán
đài, cũng có vẻ nghĩ rằng
điều đó
là trò tiêu khiển thỏa thích. Hút thuốc và uống rượu đã gây hại
rất lớn cho sức khoẻ con người, vậy mà các công ty thuốc lá và rượu mạnh
vẫn cố tình cung cấp sản phẩm giết người của mình bằng mọi cách, kể cả ở
các vận động trường thể thao. Hút
thuốc thì được mô tả một cách lố bịch
là "một cuộc gặp gỡ với nhạy cảm"! và uống rượu thì
được đặt
ngang hàng với thành công và thanh thế và nhiều
điều khác. Những nước gọi là phát
triển đang tống khứ thuốc lá và các
sản phẩm độc hại khác vào các nước Thế
giới thứ ba trong khi kiềm chế mức tiêu thụ các sản phẩm
đó trong dân chúng của mình. Trong cơn
tham lam làm giàu quá độ, các công ty
đã làm đủ
mọi cách để cung cấp sản phẩm bán ra
mà không hề thấy ray rức khó chịu về lời nói hay việc làm của mình. Các cơ
quan truyền thông đại chúng như nhật
báo và tạp chí thời sự cũng chấp nhận và in lên những cái quảng cáo này vì
tham lam những món tiền khổng lồ các quảng cáo này mang lại, và như vậy
các tờ báo này cũng không thể chối bỏ cái trách nhiệm này. Họ có một quyền
làm người căn bản
để hành xử một lưong tâm xã hội bằng
cách từ chối in những cái quảng cáo độc
hại này nhưng họ không chọn con đường
đó. Khi mới đây
đọc một tạp chí láng bóng của một hãng
hàng không, hình của một chủ tịch hãng bia già nua tại Thái lan
đập vào mắt tôi. Mặc
đồ vét thắt cà vạt và tóc
đã điểm
sương, ngồi trong phòng họp sang trọng, ông ta hãnh diện giới thiệu một
dãy chai bia do hãng ông sản xuất. Phía sau ông ta là một bàn thờ với hình
Phật sáng lung linh. Người ta có thể thấy bàn thờ
được đặt
trang trọng chính giữa phòng. Nhưng chúng ta
đều biết rằng đức Phật dạy tiết
chế, và giới thứ năm mà Phật tử phải
tuân theo là: "Con xin giữ giới kiêng rượu và thuốc vốn là nguyên nhân của
sự xao lãng." Do đó rất khó cho một
người quan sát có thể dung hòa giữa việc sản xuất và phát hành rượu hàng
loạt, vốn được xem là cách sinh sống
sai trái theo đạo Phật, với hình ảnh
đức Phật
được chưng bày hãnh diện trong phòng. Ông Sulak Sivaraksa, một nhà phê bình và hoạt
động xã hội người Thái,
đã viết trong cuốn sách của ông nhan
đề Hạt giống của Hòa bình như
sau: "Thật là đáng tiếc khi nước Thái
có khoảng 250.000 nhà sư và gấp đôi số
đó là gái mãi dâm. Ðây là bằng chứng
cho thấy một hệ thống hoạt động bất
bình thường cần phải được xem xét từ
đầu đến
cuối. Nếu chúng ta có thể quay về cội nguồn truyền thống châu Á tốt
đẹp của mình thì chúng ta có thể giúp
tạo dựng một mô hình sống tốt." Khi kể hai ví dụ kể trên, chúng ta không
cố ý chỉ trích Thái lan, nhưng chỉ muốn nêu bật những sự bất bình thường.
Thật ra sự bất bình thường hiện hữu khắp nơi. Cũng như ở Thái lan, các
nước Phật giáo Miến điện, Tích lan, ở
nước chúng tôi hay bất cứ nước nào khác cũng có nhiều sự bất bình thường
như vậy. Không ai độc quyền về mặt
này. Vâng, chúng ta có thể nói liên tu bất tận về những mâu thuẫn
đầy dẫy trong cái thế giới chúng ta
đang sống, nhưng chỉ những
điều trên cũng
đã nói lên quan
điểm của chúng ta. Vâng, chẳng phải ư
chúng ta là một xã hội có tâm thần nghịch lý,
điên loạn? -- giống như truyện bác sĩ Jekyll và ông Hyde. Chúng ta
biết cái gì là thiếu lành mạnh, vậy mà chúng ta làm ngơ hoặc còn khuyến
khích những cái đó phát triển thêm.
Hình như chúng ta vô tình bị lôi cuốn vào đó
và để mặc dòng nước kéo
đi. Bị những ông vua truyền thông
quảng cáo cài chương trình và điều
kiện hóa, chúng ta đáp ứng lại những
điều khiển và thông
điệp của họ. Mua cái này, mua cái kia.
Ăn món này,
ăn món kia. Mặc kiểu này, mặc kiểu
kia. Làm chuyện này, đừng làm chuyện
kia. Thứ này thì gồ ghề, thứ kia thì nữ tính. Ðồ này
đang thịnh,
đồ kia hết thời. Ðây là cách sống
tuyệt vời; đây là cách sống quý phái
sang giàu, thế giới đầy vui thú và
giải trí. Tha lỗi cho tôi nếu tôi có luận điệu
như một người thích chỉ trích, không chịu chơi, hay một tăng
sĩ khùng đứng trên bục gỗ la khản cổ
là sắp tận thế và hăm cái xã hội suy
đồi sẽ bị thiêu
đốt bởi lưu huỳnh và lửa
địa ngục. Nhưng quý vị có thể
đồng ý với tôi là thỉnh thoảng chúng
ta cũng nên bước lùi một chút để nhìn
lại tình trạng thế giới của chúng ta, tình trạng của tinh thần và cuộc
sống của chúng ta. Từ sự suy nghiệm đó
có thể bật lên một trí tuệ. Chúng ta có thể
đánh giá lại vị trí và phương hướng mà chúng ta muốn
đi. Liệu chúng ta nên theo
đám đông
hay nên tách ra? Cho phép tôi "mượn" một câu của Robert Frost: Hai con
đường chia tách ngã rẽ trong rừng và
tôi - tôi chọn con đường ít người
đi hơn. Và
điều đó
đã làm mọi việc khác hẳn. Vâng,
khi đứng trước ngã ba
đường của cuộc hành trình
đời bạn, bạn sẽ chọn con
đường nào? Có phải là con
đường ít người
đi -- con
đường của tỉnh giác và trí tuệ, của tình thương yêu và từ tâm? Xin
nghĩ kỹ về điều
đó, vì có thể nó sẽ làm mọi việc khác
hẳn. -ooOoo- NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT Nay chúng ta đã
đến đoạn
cuối của bài tiểu luận Yêu và Chết, tôi cần phải nói rõ là tôi không tự
xưng là người có thẩm quyền để nói về
sống, thương yêu, và chết. Nhưng tôi đã
cố gắng chia xẻ vài suy nghĩ của tôi về chủ
đề này với bạn, những suy nghĩ về việc làm sao luôn luôn sống và
chết với tình thương yêu và hiểu biết. Ðó là một chủ
đề mà tôi
đã suy nghĩ, và tiếp tục suy nghĩ nhiều. Ðó là một chủ
đề mà tôi tin rằng tất cả chúng ta
đều quan tâm
đến - vấn
đề sống, thương yêu và chết. Dĩ nhiên tôi không cho rằng tôi khôn
ngoan và tôi biết tôi cũng có nhiều khuyết điểm.
Giống như những người có ý tốt nhưng vẫn vụng về làm hỏng việc, tôi cũng
vụng về và vấp ngã trên cuộc hành trình của mình. Nhưng mỗi lần như vậy
tôi vực mình dậy, phủi bụi đất trên
mình, cố không than khóc, mắt tiếp tục hướng thẳng
đến đỉnh
núi cao vút trên trời và vững tiến tiếp trong cuộc hành trình cuộc
đời. Tuy nhiên tôi cũng hy vọng vài ý tưởng mà tôi
đã chia xẻ nơi
đây có thể giúp chút ít gì
đó cho bạn, có thể rọi sáng một chút
nào đó cho hướng
đi của bạn. Nếu những ý tưởng
đó có cho bạn một ít cảm hứng và quyết
tâm để sống và chết với nhiều tình
thương yêu và hiểu biết hơn, thì tôi sẽ vô cùng sung sướng. Và nếu rủi ro
có những dòng chữ của tôi làm xúc phạm bạn về bất cứ mặt nào, tôi cũng xin
bạn tha thứ cho. Là con người chúng ta chỉ có thể cố gắng phục vụ và chia
xẻ. Chúng ta có ý tốt, và với mọi giới hạn của chúng ta, nếu chúng ta có
thể đóng góp chút xíu gì cho một xã
hội tốt đẹp hơn,
đều là một
điều hạnh phúc. Mỗi khi nhìn lại, nó
sẽ cho tôi một niềm vui và an ủi được
biết rằng tối thiểu mình cũng đã ráng
làm được
điều này, cho dù chỉ là chút ít. Và khi tôi chết, có lẽ tôi sẽ nói với cái Chết: "Hỡi cái Chết, cứ làm
gì tệ nhất mà ngươi có thể làm đi, vì
ta đã sống và thương yêu, và ta
đã làm
được ít nhiều những gì cho người đồng
loại của ta rồi." Và trước khi tôi yên lặng trượt vào
đêm tối, có lẽ bạn sẽ thấy một chút
xíu dấu vết của một nụ cười nở trên môi tôi. Tôi sẽ nở -ooOoo- Bản Anh ngữ:
Loving and Dying Chân thành cám ơn
đạo hữu Không Tuệ đã gửi tặng bản vi tính (Bình
Anson, 12-2004) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
của Tỳ kheo Visuddhàcàra
mới có thể dự vào việc trợ công đức.
Các ngạ quỷ này, mặc dù ở cõi riêng của mình, vẫn có thể nhìn thấy cõi
người. Nếu họ biết được các hành
động phước
đức người khác làm vì họ và cảm thấy
hoan hì, thì họ sẽ được phước do sự
hoan hỉ đó. Dĩ nhiên không ai muốn
người thân của mình tái sinh vào cõi ngạ quỷ. Ai cũng muốn nghĩ người thân
của mình được tái sinh vào cõi người
hay cõi trời.
Ta không ham thích cái chết
Nhưng ta chờ đợi phiên mình
Tỉnh giác và điềm nhiên
Có bản chất sinh và diệt
Đã sinh rồi thì phải diệt
Hạnh phúc nhất là khi (hoàn toàn) lặng yên, chấm dứt
Hỡi Sammillabbasini xinh đẹp?
Ðã bị đưa vào
đa số của tử thần
Từ nay đối với ta nàng
đã mất
Sao một người mệt yếu phải khóc
Vì một cái vay mượn không phải của mình?
Ông ta cũng sẽ trút hơi thở cuối cùng
Bỏ mặc mọi giây phút cho thần chết.
Cho dù ông ta đứng, ngồi
Di chuyển hay nghỉ ngơi
Chỉ cần một nháy mắt
Thần chết có thể đến liền
Ta coi đời một
điều không chắc
Không tránh khỏi mất hết bạn bè
Hãy yêu thương những gì còn sống
Vì không ai sống được với
đau buồn
một nụ cười ngọt ngào nhất
bạn sẽ thấy
Và tôi sẽ ra đi
rất an bình
vào trong đêm tối
Có thể nào bạn cũng mỉm cười
cùng với tôi chăng?
Và nói -
Xin chào cái chết
Xin giã biệt cuộc đời.
last updated: 05-01-2005