inh Ðại Niệm Xứ là một kinh vô cùng quan trọng đối
với những người hành Thiền Minh Sát bởi vì tất cả những lời chỉ dẫn
trực tiếp hay gián tiếp về thiền tập của Ðức Phật đều
được ghi lại một cách súc tích trong kinh này. Nếu bạn thật tâm và
nghiêm túc trong việc hành Thiền Minh Sát thì bạn phải thông suốt kinh
Ðại Niệm Xứ.
Những lời diễn giải về kinh Ðại Niệm Xứ trong cuốn sách này căn
cứ trên chú giải, phụ chú giải và bản chú giải bằng tiếng Miến do
Ngài Mahasi viết. Ngài là một vị thiền sư nổi tiếng, thành công
trong việc dạy thiền và có lẽ là một vị thiền sư Miến
Ðiện được nhiều người biết đến nhất ở Tây phương.
Tên Paa.li của bài kinh này là Maaha Satipa.t.thana Sutta (Ðại
Niệm Xứ), có nghĩa là: "Bài pháp lớn về căn bản của sự chánh
niệm", "Bài pháp lớn về sự thiết lập chánh
niệm" hay " Bài pháp lớn về các niệm xứ". Quang PhamTrong bài kinh Maaha Satipa.t.thana Sutta (Ðại
Niệm Xứ), Ðức Phật dạy cách thực hành Thiền Tứ Niệm Xứ hay
Thiền Minh Sát. Theo lời dạy trong kinh, có bốn nơi để thiết lập
chánh niệm. Và trong cuốn sách này chúng tôi cũng sẽ trình bày và giải
thích bốn nơi để tạo dựng chánh niệm hay là bốn niệm xứ đó.
Trước khi làm việc gì, người Phật tử thường tỏ lòng thành kính đối
với Phật, Pháp, Tăng. Bởi vậy, mỗi khi muốn viết một đề tài Phật
Pháp nào người Phật tử thường viết trước tiên câu sau đây: Namo
Tassa Bhagavato Arahato Sammaa-Sambuddhasaa. Chúng tôi cũng bắt đầu cuốn
sách này với câu như vậy: Con đem hết lòng thành kính làm lễ Ðức
Thế Tôn, Ngài là bậc A La Hán, Chánh Biến Tri.
Tôi nghe như vầy [1]
Các bài kinh (Sutta) thường được khởi đầu bằng câu giới thiệu:
Tôi nghe như vầy. Chữ "Tôi" ở đây chỉ cho Ðại Ðức Ananda, anh em
chú bác với Ðức Phật. Ðại Ðức Ananda làm thị giả cho Ðức Phật trong hai
mươi lăm năm. Ðại Ðức có cùng tuổi và sinh cùng ngày với Ðức Phật. Ðức
Phật dạy đạo trong bốn mươi lăm năm, nhưng hai mươi năm đầu tiên Ngài
không có một vị thị giả thường trực; lúc vị tỳ khưu này, khi vị tỳ khưu
kia thay nhau làm thị giả. Bắt đầu từ năm thứ hai mươi mốt, Ðại Ðức Ananda
trở thành thị giả thường trực của Ngài.
Tưởng cũng nên biết tại sao Ðại Ðức Ananda được giao cho trách vụ
này. Vào năm thứ hai mươi mốt Ðức Phật tuyên bố Ngài cần một thị giả
thường trực. Nghe lời tuyên bố này nhiều vị đại đệ tử xin được
làm thị giả, nhưng tất cả đều bị Ðức Phật từ chối. Lúc ấy trong pháp
đường vài vị tỳ khưu khuyên Ðại Ðức Ananda xin làm thị giả, nhưng Ðại
Ðức Ananda trả lời: "Nếu Ðức Phật thực sự muốn tôi làm thị giả
thì chính Ngài sẽ bảo tôi. Tôi sẽ không làm thị giả nếu không được
Ðức Phật yêu cầu". Bởi thế, cuối cùng, Ðức Phật đã yêu cầu Ðại
Ðức Aanada làm thị giả.
Ðại Ðức Ananda trả lời rằng Ðại Ðức chỉ chấp nhận làm thị giả với
một số điều kiện. Có tất cả tám điều kiện: Bốn điều
"khước từ" và bốn điều "chấp thuận".
Bốn điều khước từ gồm:
1. Ðức Phật không ban y cho Ðại Ðức Ananda vì Ðại Ðức là thị giả của
Ngài.
2. Ðức Phật không ban thực phẩm mà Ngài đã thọ nhận cho Ðại Ðức
Ananda với lý do Ðại Ðức là thị giả của Ngài.
3. Ðức Phật không được bảo Ðại Ðức Ananda ở trong phòng của Ðức Phật
hoặc ban cho Ðại Ðức Ananda một phòng riêng bởi vì Ðại Ðức là thị giả
của Ngài.
4. Nếu có ai thỉnh Ðức Phật thọ trai thì lời thỉnh mời này không
bao gồm cả việc thỉnh mời Ðại Ðức Ananda trong đó.
Sở dĩ nêu ra bốn điều khước từ vì Ðại Ðức Ananda không muốn có
được những lợi lộc vật chất do việc Ðại Ðức làm thị giả cho Ðức
Phật.
Bốn điều chấp thuận gồm:
1. Ðại Ðức Ananda được quyền chấp nhận mọi lời thỉnh mời Ðức
Phật, và một khi Ðại Ðức Ananda đã chấp nhận một lời thỉnh mời nào thì
Ðức Phật phải đi đến nơi đã được thỉnh mời đó.
2. Ðại Ðức Ananda được phép, bất kỳ lúc nào, đưa những tín đồ từ
phương xa đến gặp Phật.
3. Ðại Ðức Ananda được phép đến trình bày với Ðức Phật ngay
mỗi khi có vấn đề gì khởi sinh,. Nếu có hoài nghi điều gì
thì Ðại Ðức Ananda được phép đến gặp Ðức Phật để được Ngài
giải tỏa nghi ngờ. Ðiều này có nghĩa là Ðức Phật phải luôn luôn sẵn
sàng trả lời mọi câu hỏi của Ðại Ðức Ananda.
4. Ðại Ðức Ananda sẽ được Ðức Phật cho nghe lại mọi bài pháp mà
Ngài đã thuyết trong lúc Ðại Ðức Ananda vắng mặt.
Ðiều sau cùng này rất quan trọng vì nó tương hợp với câu:
"Tôi nghe như vầy". Ðức Phật chấp nhận tám điều kiện này,
do đó Ðại Ðức Ananda trở thành thị giả của Ðức Phật. Ðức Phật luôn luôn
thuyết lại cho Ðại Ðức Ananda nghe những bài pháp và những lời giảng dạy
mà Ngài đã thuyết trong lúc Ðại Ðức Ananda vắng mặt. Trong Chú giải
về cuốn đầu tiên của bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có ghi lại
những lời tán dương Ðại Ðức Ananda như sau:
"Trưởng lão là một người có rất nhiều kinh nghiệm, một
học giả về Tam tạng (Pitaka). Ngài có thể học, tụng
đọc và giảng giải trong khi đứng (nghĩa là trong chốc lát, Ðại Ðức
Ananda có thể học, tụng đọc và giảng giải) mười lăm ngàn đoạn
hay sáu mươi ngàn câu kệ một cách dễ dàng như đang nhặt lá và hoa. Ðó
là khả năng đặc biệt của Trưởng lão. Ngoài Ðức Phật ra không ai có
thể dạy hay đạt được khả năng giảng dạy rành mạch để cho Trưởng
lão nhớ biết giáo pháp tận tường như vậy" [2]
Ðức Phật là người duy nhất có thể dạy Ðại Ðức Ananda. Ðại Ðức có
trí thông minh nhạy bén, lãnh hội nhanh chóng mọi lời giáo huấn của Ðức
Phật.
Câu "Tôi nghe như vầy" và phần tiếp theo câu ấy
là những lời do Ðại Ðức Ananda nói ra trong kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ
nhất, được triệu tập khoảng ba tháng sau khi Ðức Phật nhập diệt. Sau
khi Ðức Phật nhập diệt, Ðại Ðức Maha Kassapa, trưởng đệ tử của
Ðức Phật, quyết định triệu tập Ðại Hội và chọn năm trăm vị A
La Hán tham dự. Trong kỳ Ðại Hội Kết Tập Tam Tạng này, tất cả những lời
dạy của Ðức Phật được sưu tập và thận trọng xem xét. Chỉ khi nào đại
hội công nhận những lời dạy này chính thật là những lời dạy của Ðức Phật
thì mới được chấp nhận đưa vào bộ sưu tập và được toàn thể đại
hội cùng tụng đọc. Việc cùng tụng đọc cho thấy rằng những lời
dạy được toàn thể đại hội nhất trí chấp nhận đó là những lời do
chính Ðức Phật dạy. Lúc bấy giờ việc viết ra giấy những lời dạy của
Ðức Phật chưa được phổ biến nên những lời dạy này được lưu giữ
bằng cách tụng đọc thuộc lòng mà thôi.
Những lời dạy của Ðức Phật không những được tụng đọc thuộc lòng
mà còn được phân loại ra thành nhiều bộ. Sự phân loại phổ thông nhất
là phân thành Tạng (Pi.taka) gồm có Tạng Luật (Vinaya Pi.taka) -
giới luật của tăng và ni, Tạng Kinh (Sutta Pi.taka) - những bài giảng của
Ðức Phật và Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pi.taka) - những giáo pháp
cao thâm. Kinh Ðại Niệm Xứ (Maaha Satipa.t.thana Sutta) thuộc về
Tạng Kinh. Những lời dạy của Ðức Phật được lưu giữ từ thế hệ này
sang thế hệ khác bằng cách truyền khẩu, mãi cho đến năm trăm
năm sau, kể từ lúc Ðức Phật nhập diệt, mới được viết ra trên
lá buông ở Sri Lanka.
Như đã nói ở trên, trước tiên Ðại Ðức Maha Kassapa đặt câu hỏi về
những lời dạy do chính Ðức Phật thuyết và có hai Ðại Ðức trả lời câu
hỏi của Ðại Ðức Kassapa. Ðại Ðức Upali trả lời về Tạng Luật (Vinaya)
và Ðại Ðức Ananda trả lời về Tạng Kinh (Sutta). Tất cả gồm tám
mươi bốn ngàn đoạn thuyết giảng.
Khi Ðại Ðức Maha Kassapa đặt câu hỏi về Kinh Ðại Niệm Xứ (Maaha
Satipa.t.thana Sutta), Ðại Ðức Ananda đã trả lời, bắt đầu bằng câu: Tôi
nghe như vầy. Khi nói: Tôi nghe như vầy, Ðại Ðức Ananda đã loại bỏ tư cách
cá nhân của mình lúc lập lại những lời dạy của Ðức Phật và chỉ đóng vai
trò một chứng nhân của Ðức Phật khi tụng đọc lại những lời dạy này.
Ngài tổng kết những lời dạy của Ðức Phật để tạo nên kho tàng pháp
bảo hướng dẫn cho những ai muốn đi trên đường giải thoát. Ðại Ðức đã
tạo nên một đức tin vững vàng nơi trời và người khi Ðại Ðức xác
quyết: "Ðây là những lời nói mà tôi đã được nghe từ chính nơi
Ðức Phật, bởi vậy không nên phân vân hoặc hoài nghi những lời dạy này
về nghĩa lý hay ý tưởng, về câu văn hay vần điệu."
Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn đang ở tại xứ
Kuru nơi đó có một thị trấn tên là Kamma-sadamma.
"Một thuở nọ": Mặc dầu Ðại Ðức Ananda biết
rõ thời điểm kinh này được thuyết ra, nhưng để ngắn gọn
Ðại Ðức chỉ nói: "Một thuở nọ". Ðối với Ðại Ðức, có lẽ,
để tiết kiệm thì giờ, nhưng đối với chúng ta, những người thuộc
về một thời đại khác, thì đây không phải là điều may mắn bởi vì
chúng ta không hiểu đích xác kinh này đã được thuyết ra vào lúc
nào. Nếu Ðại Ðức Ananda quan tâm đến những chi tiết đó thì
chúng ta có thể xếp kinh này và các kinh khác theo thứ tự thời gian
(biên niên). Nhưng nay thì chúng ta không thể làm được điều đó,
chúng ta chỉ có thể đoán kinh nào được thuyết trước kinh nào mà
thôi.
"Ở Kuru": Kuru là tên một quận hạt hay một xứ nhỏ ở
Ấn Ðộ. Theo tiếng Paa.li thì Kuru phải viết ở thể
số nhiều. Nguyên thủy "Kuru" là tên của những người đầu
tiên đến trú ngụ ở xứ này. Về sau tên này được dùng để chỉ
cho một xứ thì thể số nhiều cũng vẫn được giữ nguyên. Bởi vậy, mặc
dầu chỉ có một quận hạt nhưng chữ Paa.li đòi hỏi phải ở thể số
nhiều, do đó tiếng Paa.li viết là "Kurusu" (số
nhiều của chữ Kuru).
"Ở trong xứ Kuru có một thị trấn tên là Kammasadamma":
Sở dĩ thị trấn có tên là Kammasadamma bởi vì nơi đây vị vua ăn thịt
người có tên là Kammasapada (chân có đốm) được thuần hóa trở thành
một vị vua lương thiện. Một số người thích viết là Kammaasa-dhamma,
giải thích rằng thị trấn này được gọi tên như vậy do dân Kuru có
truyền thống thực hành giáo pháp (dhamma) một cách tốt đẹp (kammaasa).
Tại đó, Ðức Phật đã dạy các thầy tỳ khưu như vầy: "Này các
thầy tỳ khưu". Và các thầy tỳ khưu thưa: "Xin vâng, Bạch thế
Tôn". Và Ðức Thế Tôn đã nói như sau:
Ðức Phật thường gọi các tu sĩ là Bhikkhu (tỳ khưu). Bhikkhu là
những người cao thượng, sống đời phạm hạnh và thực hành Giáo Pháp. Nhưng
khi dùng chữ Bhikkhu không có nghĩa là Ðức Phật không nói đến
những người không phải là tu sĩ. Bất kỳ ai chấp nhận và thực hành những
lời dạy của Ðức Phật đều được gọi là Bhikkhu. Bởi vậy, khi
Ðức Phật nói: "Này các thầy tỳ khưu" thì phải được hiểu là
cả tăng, ni và người tại gia cư sĩ đều được nói đến.
Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh,
chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, diệt thân bệnh và
tâm bệnh, đạt Thánh Ðạo và Giác ngộ Niết Bàn. Ðó là Bốn Niệm
Xứ.
"Ðây là con đường duy nhất": Muốn hiểu rõ câu này bạn
phải hiểu danh từ Paa.li về chữ "Con đường duy nhất".
Tiếng Paali gọi con đường duy nhất là "ekaayaana".
Eka có nghĩa là một và ayaana có nghĩa là con đường. Vậy ekaayana
có nghĩa là một con đường. Chữ "ekaayana" được giải
nghĩa theo năm cách:
a) Nghĩa đầu tiên là: Ðây là con đường "đơn độc'' không có ngã
rẽ. Vì không có ngã rẽ nên khi đi trên con đường này bạn được bảo đảm
từ lúc bắt đầu cho đến lúc giải thoát.
b) Nghĩa thứ hai là: Phải đi "một mình'' trên con đường này. Trong
lúc hành thiền bạn phải thực hiện hành trình một cách đơn độc,
không người đồng hành. Bạn có thể ở trong nhóm, bạn có thể ở trong
một khóa thiền tập, nhưng thật sự bạn đi trên con đường riêng của
mình. Bạn đơn độc. Không ai đi chung với bạn. Không ai có thể ban tặng
cho bạn sự định tâm và trí tuệ của họ, và bạn cũng không thể
tặng sự định tâm và trí tuệ của bạn cho ai được cả. Bởi vậy, mặc dầu
bạn có thể ở chung nhóm, nhưng thật ra bạn đang hành thiền một mình.
Do đó, đây là con đường "duy nhất", "con đường bạn phải đi
một mình".
c) Nghĩa thứ ba: "Ðây là con đường của một Ðấng". "Con
đường của một Ðấng" có nghĩa là "con đường của Ðấng Cao
Thượng", con đường do Ðức Phật tìm ra.
d) Nghĩa thứ tư: "Ðây là con đường duy nhất" vì con đường này
chỉ dẫn đến một mục tiêu duy nhất, đó là Niết Bàn; bởi thế khi
đi trên con đường này chắc chắn bạn sẽ đạt đến mục tiêu. Do đó,
Niết Bàn là mục tiêu duy nhất mà bạn đạt đến khi bạn đi trên con
đường này.
e) Nghĩa thứ năm: "Ðây là con đường duy nhất đưa đến Niết
bàn", không có con đường nào khác. Satipa.t.thaana hay con đường
chánh niệm là con đường duy nhất đưa đến Niết Bàn, chấm dứt
đau khổ, hủy diệt mọi phiền não.
"Ðể thanh lọc chúng sanh": Nghĩa là để thanh
lọc tâm chúng sanh. Tâm của tất cả chúng sanh bị ô nhiễm bởi nhiều
loại phiền não. Tâm chúng ta hầu như không lúc nào trong sạch, luôn luôn
bị tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn chế ngự. Các loại phiền não này
làm ô nhiễm tâm ta. Thiền Minh Sát giúp chúng ta thanh lọc tâm. Ðây
là con đường duy nhất để thanh lọc tâm mọi chúng sanh. Trong khi
bạn thực hành Thiền Minh Sát thì các phiền não như tham lam, sân hận,
si mê hay kiêu mạn vv... tạm thời vắng bóng. Khi bạn đạt đến cứu cánh
Niết bàn thì tâm bạn hoàn toàn thoát ly khỏi mọi phiền não. Ði
trên đường này chúng ta sẽ đạt đến tầng mức giác ngộ cao nhất và tâm
sẽ hoàn toàn trong sạch.
"Chấm dứt lo âu phiền muộn, uất ức than khóc": Lo âu
phiền muộn, uất ức than khóc có thể được chế ngự bởi Thiền
Minh Sát. Khi hành Thiền Minh Sát bạn phải nhận biết mọi chuyện
xảy ra nơi bạn. Bạn phải ghi nhận mỗi một chuyện đến với bạn
trong giây phút hiện tại. Khi bạn nhận biết mọi chuyện, khi bạn
quán sát mọi chuyện trong lúc hành thiền thì phiền não không
thể xuất hiện. Khi đạt đến tầng mức cuối cùng là A la hán thì
mọi lo âu phiền muộn, uất ức than khóc của bạn đều bị tận
diệt. Có nhiều người nhờ hành Thiền Minh Sát mà lo âu phiền
muộn, uất ức than khóc được chế ngự.
"Diệt thân bệnh và tâm bệnh": Thân bệnh và
tâm bệnh có thể được chế ngự nhờ hành Thiền Minh Sát. Khi
ngồi thiền một thời gian lâu bạn cảm thấy đau nhức, nhưng nếu bạn
kiên nhẫn quán sát hay ghi nhận sự đau và khi tâm định của bạn mạnh mẽ thì
sự đau sẽ biến mất và bạn chế ngự được cơn đau. Bạn cũng có
thể chế ngự được tâm bệnh nhờ Thiền Minh Sát. Khi bạn đạt
đến tầng mức cao nhất thì khổ thân và khổ tâm của bạn sẽ bị tiêu
diệt hoàn toàn.
"Ðể đạt thánh đạo": Thánh đạo đây là một loại tâm
xuất hiện vào lúc giác ngộ. Khi thiền sinh giác ngộ chân lý, tức
Niết Bàn, thì một loại tâm khởi sinh trong họ có tên là "đạo
tâm". Ðược gọi là "đạo tâm" bởi vì khi đạt đến tầng
mức tâm này thì bạn đã đạt được Niết Bàn trên đường (đạo) này.
Có bốn tầng mức giác ngộ nên cũng có bốn loại đạo tâm. Mỗi đạo
tâm tận diệt một số phiền não, và khi đạt đến đạo tâm thứ tư
thì tất cả mọi phiền não đều bị tận diệt. Muốn đạt Thánh
Ðạo, đạt được loại tâm có khả năng tận diệt mọi loại phiền
não này thì Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất.
"Giác Ngộ Niết Bàn": Chúng ta có thể nói đạt thánh
đạo nghĩa là đạt đạo tâm và Giác Ngộ Niết Bàn là đạt đạo quả. Sau
đạo tâm thì quả tâm đến ngay. Nếu có sự hiểu biết chút ít
về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thì bạn sẽ hiểu rõ ràng về
vấn đề này. Cần phải nói thêm là cả đạo tâm và quả tâm đều lấy
Niết Bàn làm đối tượng và "thấy" Niết Bàn một cách trực
tiếp. Cả hai thời điểm trên đều được gọi là thời điểm
giác ngộ Niết Bàn.
Tóm lại, Ðức Phật dạy, đây là con đường duy nhất để thanh lọc
tâm bạn, để chế ngự lo âu phiền muộn, uất ức than khóc, để
diệt thân bệnh và tâm bệnh, để đạt Thánh Ðạo và Giác Ngộ
Niết Bàn. Và con đường duy nhất này không gì ngoài Tứ Niệm Xứ.
Bốn (niệm xứ hay nơi thiết lập chánh niệm) đó là gì? Này
các thầy Tỳ khưu, ở đây, theo lời dạy này, thầy Tỳ khưu quán sát thân
trong thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm để loại bỏ mọi tham
ái và ưu phiền (sân hận) trên đời.
Ðó là những lời dạy ngắn gọn về Thiền Minh Sát. Thiền sinh
quán sát thân trong thân. Ðó là cách hành thiền. Bạn quán sát và chánh
niệm thân trong thân. Chữ thân ở đây được lập lại để bạn ghi nhớ
chắc chắn rằng: trong khi niệm thân, bạn chỉ niệm thân trong thân thôi
chứ không niệm thân trong thọ, niệm thân trong tâm hay niệm thân
trong pháp.
"Tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm": Câu này rất quan
trọng vì nó nói rõ bạn phải hành thiền như thế nào. Khi bạn tham
thiền, khi bạn quán sát thân trong thân nghĩa là khi bạn ghi nhận mọi
chuyện xảy ra trong thân; bạn phải hết sức tinh cần, tỉnh giác và
chánh niệm. Tinh cần có nghĩa là bạn phải nỗ lực, cố gắng để ghi
nhớ hay theo dõi những gì đang xảy ra trong thân bạn. Nếu không có tinh
cần thì bạn không thể chú tâm trên đối tượng và không thể hành
thiền. Giữ tâm trên đối tượng không phải là điều dễ dàng, bởi vậy
cần có nhiều nỗ lực tinh cần.
Bạn cần phải "tỉnh giác và chánh niệm": Khi hành
thiền bạn phải luôn luôn chánh niệm. Bạn phải chánh niệm trên hơi
thở hay sự chuyển động của bụng, tư thế và các tác động nhỏ của
cơ thể. Chánh niệm chẳng khác nào viên đá đụng vào tường. Muốn
ném viên đá, bạn phải dùng sức cố gắng. Bạn ném viên đá với sự cố gắng
và viên đá đụng vào tường. Chánh niệm đụng vào đối tượng chẳng
khác nào viên đá đụng vào tường. Dầu là đối tượng nào đi nữa - hơi
thở, chuyển động của bụng hoặc các tác động nhỏ của cơ thể - tâm
bạn cũng phải hướng đến đối tượng. Sự đụng tâm vào đối tượng là
chánh niệm.
Khi có chánh niệm phối hợp với tinh tấn thì tâm bạn sẽ nằm trên đối
tượng một thời gian. Viên đá khi đụng vào tường, nếu tường được
trét bùn ướt thì viên đá sẽ dính vào đó. Cũng vậy, khi tâm đi đến
đối tượng và khi được chánh niệm và tinh tấn hỗ trợ thì sẽ nằm
trên đối tượng. Khi tâm nằm trên đối tượng thì gọi là định. Bởi
vậy, khi bạn có chánh niệm thì bạn sẽ có định. Chỉ khi nào tâm định
phát triển thì bạn mới có trí tuệ và mới hiểu bản chất của sự
vật, hiểu biết sự vật một cách rõ ràng. Bởi vậy khi nói bạn phải có
tỉnh giác và chánh niệm cũng có nghĩa là bạn phải có định tâm. Cần
phải có tỉnh giác vì đó là trí tuệ.
Hơn nữa, Niệm và Ðịnh nằm trong nhóm Ðịnh của Bát Chánh Ðạo. Bát
Chánh Ðạo gồm có tám chi, chia làm ba nhóm: Giới, Ðịnh và Huệ. Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy thuộc về nhóm Huệ. Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng thuộc về nhóm Giới. Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh
thuộc về nhóm Ðịnh. Muốn thực hành một chi thì phải thực hành tất cả
các chi cùng nhóm. Bởi vậy Niệm ở đây cũng có nghĩa là Ðịnh vì nằm
trong nhóm Ðịnh.
Khi có định tâm, khi tâm ở trên đối tượng một thời gian, bạn sẽ thấy
được bản chất của thân và tâm. Bạn sẽ thấy rõ chúng vô thường, bất toại
nguyện (khổ) và không có bản chất hay vượt khỏi sự kiểm soát hoặc
điều khiển của mình (vô ngã). Khi có đủ định tâm, bạn sẽ thấy rõ
sự sinh diệt của thân tâm. Trong khi đó nếu có sự suy nghĩ đến
với bạn, bạn chỉ cần ghi nhận chúng, chúng sẽ biến mất ngay. Bạn chỉ có
thể thấy rõ được điều này khi bạn có được sự định tâm cần
thiết.
Có bốn yếu tố giúp bạn hành thiền tốt đẹp. Thứ nhất: phải nỗ
lực tinh tấn. Thứ hai: phải thực tập chánh niệm. Thứ ba: phải phát
triển định tâm. Thứ tư: phải tỉnh giác. Ðây là bốn yếu tố mà
mọi thiền sinh nghiêm túc phải phát triển đầy đủ để đạt
đến mục tiêu cuối cùng là giải thoát giác ngộ.
Khi nói: "Tinh tấn, tỉnh giác và chánh niệm", Ðức
Phật dạy cho bạn cách hành thiền, cách quán sát sự vật, cách theo dõi
hơi thở, chuyển động của bụng và các tác động nhỏ khác của cơ thể
cũng như cách quán sát cảm giác, quán sát tâm và quán sát Pháp (dhamma).
Bởi vậy, khi hành thiền bạn cần nỗ lực vun bồi chánh niệm để
có đủ định tâm thấu suốt được bản chất sự vật.
"Loại bỏ tham ái và sân hận (ưu phiền) trong cõi đời": Chữ
"trong cõi đời" ở đây có nghĩa là thân thể hay ngũ uẩn thủ.
"Tham ái" là tham lam, luyến ái, dính mắc, và ưu phiền (sân
hận) ở đây là ác tâm, nóng giận hay phiền muộn. Qua câu trên Ðức Phật
cho thấy những thứ phiền não mà chúng ta cần phải loại bỏ. Ngài cũng cho
thấy kết quả của việc hành thiền, kết quả của tinh tấn, tỉnh
giác và chánh niệm.
Khi bạn có tinh tấn, chánh niệm, định tâm và trí tuệ thì bạn sẽ
loại bỏ được tham ái và ưu phiền (sân hận). Loại bỏ được tham và sân
là bạn loại bỏ được hai loại chướng ngại to lớn. Có năm loại chướng ngại
tất cả (sẽ được giải thích sau), nhưng tham ái và sân hận là hai loại lớn
nhất. Khi bạn có thể loại bỏ hai loại chướng ngại lớn này thì bạn có
thể loại bỏ các loại chướng ngại nhỏ hơn còn lại kia. Khi bạn nhận thức
rõ hơi thở hay sự chuyển động của bụng, hoặc cảm giác, hoặc các tác
động nhỏ trong cơ thể thì lúc ấy bạn sẽ không có tham lam hay dính mắc,
không có ác tâm hay sân hận. Từng mỗi phút giây, bạn loại trừ được
những chướng ngại trên.
Có hai sự loại trừ: "sát na loại trừ" (loại trừ trong từng khoảnh
khắc một) và "tạm thời loại trừ". Trong suốt thời gian có "sát
na loại trừ" thì chướng ngại được loại bỏ từng sát na một. Tại sát na
này, chướng ngại không hiện diện, nhưng sát na sau, chướng ngại có
thể lại hiện ra. Chúng chỉ được loại trừ vào sát na khi có những
tâm sở thiện sanh khởi và hiện diện trong tâm (khi những tâm sở
thiện sanh khởi thì chúng sẽ chiếm chỗ những tâm sở bất
thiện). "Tạm thời loại trừ " là loại trừ trong một thời gian dài
hơn "sát na loại trừ". Hòa thượng Mahasi đã giảng giải" tạm
thời loại trừ" như sau:
''Khi thiền sinh kiên trì quán sát mỗi một hiện tượng thân tâm
đang diễn ra và hiểu rõ ràng mỗi hiện tượng là vô thường, bất
toại nguyện, vô ngã và không đẹp đẽ, thì tinh tấn, chánh niệm và
định tâm sẽ phát triển. Do sự phát triễn này, tâm của thiền sinh trở
nên trong sạch, tinh tế đến độ tham lam và sân hận không thể
hiện khởi ngay cả trên những đối tượng không được quán sát.
Ngay cả khi thiền sinh nghỉ ngơi, các hình thức thô tướng của tham và
sân cũng không hiện khởi khiến cho thiền sinh có cảm tưởng rằng
các thô tướng của tham và sân này chẳng bao giờ có thể khởi sinh được
nữa. Nhờ chánh niệm, nhờ sự có mặt của những yếu tố trong nhóm định
mà những phiền não của đối tượng quán sát và đối tượng không được
quán sát đều được chế ngự. Tình trạng này được gọi là
"tạm thời loại trừ."
Ðó là sự loại trừ tham và sân. Người hành thiền sẽ có kinh
nghiệm về hai loại loại trừ này. Mỗi khi quán sát, thiền sinh
sẽ có "sát na loại trừ" trên đối tượng quán sát và "tạm thời
loại trừ" trên đối tượng không được quán sát. Muốn có được hai lợi
ích loại trừ này thiền sinh phải thực hành sự quán sát thân thể,
quán sát mọi hiện tượng vật chất đang xảy ra một cách rõ ràng trong
giây phút hiện tại. Ðó là những điều mà Ðức Phật dạy.
(Những lời chỉ dẫn của ngài Mahasi về cách hành thiền sẽ được
nói đến nhiều chi tiết hơn ở Phần Ba.)
Bây giờ, khi bạn chú tâm vào hơi thở chẳng hạn và bạn niệm thầm
"vào ra, vào ra" thì ngay cả trước khi bạn có sự định tâm vững
chắc, bạn cũng có những sát na định. Rồi bạn bị phóng tâm và bạn lại
định tâm trở lại, sau đó bạn bị phóng tâm nữa v.v... Vào những sát na có
định tâm bạn loại bỏ được tham và sân nên bạn có "sát na loại
trừ". Ở một sát na này phiền não bị loại trừ và ở sát
na kế, phiền não có thể tái xuất hiện.
Sau một thời gian, khi việc hành thiền của bạn tiến triển tốt
đẹp và bạn có thể giữ tâm trên đối tượng trong một khoảng thời gian
lâu hơn thì phiền não cũng được "tạm thời loại trừ" trong một
thời gian lâu hơn. Rồi bạn sẽ thấy rằng, ngay trên đối tượng không được
quán sát, phiền não cũng bị chế ngự. Khi bạn đạt đến tầng mức
tiến bộ này, bạn đã loại bỏ được phiền não do "tạm thời loại
trừ". Bởi vì sự loại trừ này chỉ có tính cách tạm thời nên phiền
não sẽ đến trở lại với bạn khi bạn từ bỏ hành thiền.
Còn một loại loại trừ khác, đó là "vĩnh viễn loại trừ".
"Vĩnh viễn loại trừ" sẽ đạt được vào sát na đạo tâm, nghĩa là
vào thời điểm giác ngộ Niết Bàn. Bởi vậy, khi đạt đạo tâm, bạn sẽ
trừ khử, chấm dứt, tận diệt, loại trừ tất cả các chướng ngại và những
loại phiền não khác. Một khi đã bị loại trừ vĩnh viễn thì chúng sẽ
không trở lại với bạn nữa.
Thầy tỳ khưu quán sát thọ trong thọ, tinh cần, tỉnh giác và
chánh niệm để loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận)
trong cõi đời.
Chữ "trong cõi đời" ở đây nghĩa là "trong
Thọ". Thiền sinh ghi nhớ hay chánh niệm trên cảm thọ của
mình. Có ba loại cảm thọ: thọ vui, thọ khổ và thọ vô ký
(không vui không khổ). Thiền sinh nhận biết mọi cảm thọ của
mình đang xảy ra trong giây phút hiện tại.
Thầy tỳ khưu quán sát tâm trong tâm, tinh cần tỉnh giác và chánh
niệm để loại trừ mọi tham ái và ưu phiền (sân hận) trong cõi
đời.
Chữ "trong cõi đời" ở đây có nghĩa là "trong
Tâm". Ðối tượng để tham thiền ở đây là quán sát các loại tâm
khác nhau. Có tâm tương hợp với tham, có tâm tương hợp với sân, có tâm
tương hợp với si vv... Khi bạn muốn một thứ gì đó và bạn nhận biết
được ý muốn này bằng cách ghi nhận muốn, muốn, muốn là bạn đang quán
sát tâm tương hợp với tham. Tương tự như vậy, khi bạn giận và bạn nhận
biết sự nóng giận của mình bằng cách ghi nhận giận, giận, giận là bạn
đang quán sát tâm tương hợp với sân vv...
Thầy tỳ khưu quán sát pháp trong pháp, tinh cần, tỉnh giác và chánh
niệm để loại trừ mọi tham ái và sân hận (ưu phiền) trong cõi
đời.
Chữ "trong cõi đời" ở đây có nghĩa là "trong
Pháp". Chữ Pháp là chữ dịch danh từ Dhamma trong tiếng Paa.li.
Dhamma có rất nhiều nghĩa và là chữ Paa.li khó nhất để dịch
sang một ngôn ngữ khác. Một số người dịch dhamma là "đối tượng
của tâm". Mặc dù dịch như thế không hoàn toàn sai, nhưng không bao
hàm được nghĩa của chữ dhamma. Bởi thế nên để vậy đừng dịch
tốt hơn.
Bạn sẽ hiểu thế nào là dhamma khi bạn đọc đến
chương nói về Quán Sát Pháp. Một cách vắn tắt chữ pháp ở chương này
nói đến năm chướng ngại tinh thần, năm uẩn, sáu nội căn và sáu ngoại
căn, bảy pháp trợ bồ đề hay Thất Giác Chi và Tứ Diệu Ðế. Khi
bạn có một sự ước muốn trong tâm và bạn nhận biết bằng cách ghi nhận
có sự ước muốn, có sự ước muốn, có sự ước muốn thì đó là niệm
pháp. Chúng là những chướng ngại tinh thần. Khi bạn có một sự nóng giận
trong tâm và bạn nhận biết bằng cách ghi nhận: có sự nóng giận, có sự
nóng giận, có sự nóng giận là bạn đã niệm pháp vv...
-oOo-
Ðây là tóm lược về Tứ Niệm Xứ hay bốn nơi quán niệm: quán
sát thân (niệm thân), quán sát thọ (niệm thọ), quán sát tâm
(niệm tâm) và quán sát pháp (niệm pháp).
Bạn sẽ thấy trong Kinh (sutta) có nhiều sự lập đi lập lại.
Ðiều này không thể tránh được. Bạn phải hiểu rằng kinh này cũng
như tất cả các giáo pháp khác của Ðức Phật thuộc vào một thời đại không
có sách vở. Những lời dạy của Ðức Phật đều phải học thuộc lòng.
Khi muốn học để nhớ một đoạn kinh nào, bạn cần phải lập đi lập lại
nhiều lần. Bằng cách lập đi lập lại này bạn sẽ hiểu sâu xa hơn
đoạn kinh đó. Cũng vậy, khi bạn nghe một người nào nói bạn không trở lại
phần đã nghe như khi bạn đọc sách. Sự lập đi lập lại giúp bạn hiểu
đầy đủ hơn để bạn có thể nắm vững nghĩa lý hơn. Mặc dầu sự
lập đi lập lại có thể làm bạn nhàm chán, nhưng không thể tránh
được điều này.