Lời Giới Thiệu của Ban Tu Thư Như Lai
Thiền Viện
Những bài kinh Phật không có bài
nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự
vang động của suối nguồn trí tuệ. Lời kinh là những tiếng sấm rền
vang chấn động tâm thức chúng sanh đang chới với giữa những làn sóng ưu
phiền trong biển sanh tử. Kinh nghiệm giác ngộ của bậc toàn giác
được trao truyền ròng rã trong suốt 45 năm để lại một kho tàng tư
tưởng giải thoát, một sự trưởng thành tột cùng của trí thông minh và cảm
thức con người. Mỗi lần đọc kinh là mỗi lần cảm nhận được sức
mạnh của phước báu đã cho tâm thức bay lượn một khoảng không gian khá rộng
trong bầu trời siêu thoát mênh mông.
Tuy nhiên đối với thiền sinh hay ít ra những ai đang
hướng về chân trời rực rỡ ánh hồng giải thoát, có thể nói Kinh Ðại
Niệm Xứ là bài kinh thỏa thích nhất hay đúng hơn là bài kinh tối cần,
gần gũi nhất. Tối cần như cốt tủy và gần gũi như máu chảy khắp châu thân.
Những lời kinh như những lời thiên thu gọi hãy dũng mãnh lên đường
hướng về bến bờ giải thoát cho chính mình. Trong phần mở đầu, Ðức
Phật dạy:
"Này chư tỳ kheo, đây là con đường độc nhất
để đem lại sự thanh bình cho chúng sanh, vượt thoát sầu não, diệt
trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Tứ
Niệm Xứ".
Lời dạy thật minh bạch, rõ ràng như bầu trời xanh trong
muà hạ trắng không một áng mây. Ðây là con đường và là con đường độc
nhất. Con đường an lạc ẩn dấu tự nghìn xưa này đã được Ðức Phật phơi
bày ra cho tất cả chúng sanh và tồn tại qua bao tháng trầm của lịch sử nhân
loại.
Phải có phước báu lớn mới sinh vào thời kỳ Ðức Phật
còn hiện tiền để được tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài hay
để được Ngài diễn giải những lời kinh, nhiều khi tưởng dễ lãnh hội
nhưng đi sâu vào là cả một vấn đề. Bao nhiêu thế hệ đã qua đi,
và ngày nay chúng ta còn may mắn sống trong ánh đạo vàng rạng ngời của Ðức
Thế Tôn. Ðể hiểu những lời kinh cho chính xác hầu tu tập, chúng ta
phải nương tựa vào các bậc chân tu thông hiểu giáo pháp và đầy kinh
nghiệm thực chứng để thấy rõ con đường thanh bạch cao thượng. Những
vị này thật quá hiếm hoi trong thời đại văn minh cơ khí ngày nay, một
thời đại mà khoa học đã đạt đến đỉnh cao nhưng sự đau khổ trầm
kha vẫn triền miên không hề thuyên giảm.
Như Lai Thiền Viện có duyên lành theo học
với Ngài Hòa thượng Thiền Sư U Silananda từ năm 1987. Ngài thọ giới
Tỳ kheo hơn năm mươi năm, hoàn mãn văn bằng Phật học cao cấp nhất tại
Miến Ðiện và đã từng dạy tại đại học ở đó. Trong kỳ Kiết
Tập Kinh Ðìển Phật Giáo lần thứ sáu tại Miến Ðìện vào năm
1954, Ngài là vị lãnh đạo việc soạn thảo tự điển Miến-Pali và
cũng là trưởng ban kiết tập Kinh Ðiển Pali, Chú Giải, và Phụ Chú
Giải lúc Ngài mới vừa 26 tuổi. Ngài là tác giả cuả nhiều sách viết
bằng tiếng Miến và tiếng Anh, trong đó có cuốn "The Four
Foundations of Mindfulness" (Tứ Niệm Xứ), một cuốn sách căn bản giảng
dạy đầy đủ về Thiền Tứ Niệm Xứ. Năm 1979, Ngài được sư phụ
là cố Ðại lão Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi Sayadaw, một thiền sư
lỗi lạc bậc nhất tại Miến Ðiện, lựa chọn đi hoằng pháp tại
các nước ngoài, đặc biệt là Mỹ Quốc.
Với sứ mạng này, Ngài đã hướng dẫn Thiền Tứ
Niệm Xứ hay Thiền Quán và giảng dạy Vi Diệu Pháp, môn Phân Tâm
Học cao siêu của Phật Giáo, tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Âu Châu và Tích Lan.
Với kinh nghiệm thực chứng thâm sâu và kiến thức bao la về Phật
Pháp, Ngài giảng giải giáo lý, hướng dẫn thiền tập một cách súc
tích và rành mạch trong tinh thần từ bi và độ lượng của một bậc thầy đáng
kính. Thiền viện được tăng trưởng dưới bóng mát từ bi và trí
tuệ của Ngài.
Một trong những bài kinh được Ngài Thiến Sư giảng
khá đầy đủ chi tiết là bài Kinh Ðại Niệm Xứ. Những lời dạy của
Ðức Phật trong bài kinh này đã được Ngài dựa trên Chú Giải, Phụ Chú Giải
và kinh nghiệm thực chứng giải thích một cách rõ ràng để thiền
sinh thực hành. Ðây là công trình giảng dạy và hướng dẫn tận tụy. Nhận
thấy tầm mức quan trọng của Kinh Ðại Niệm Xứ và sự giảng giải công
phu của Ngài Thiền Sư, một đệ tử của Ngài đã cố gắng hiệu
đính và cho in thành sách "The Four Foundations of Mindfulness". Như Lai
Thiền Viện tiếp nối truyền thống cao đẹp này bằng cách thỉnh
cầu Ðại Ðức Khánh Hỷ (Aggasami Trần Minh Tài) phiên dịch sang tiếng
Việt để phổ biến cho Phật Tử Việt Nam. Dù đa đoan với
nhiều Phật sự, nhưng Ðại Ðức một lần nữa đã hoan hỉ nhận lời yêu cầu
của Như Lai Thiền Viện và đã hoàn tất công trình soạn dịch một cách
viên mãn.
Nay bản dịch đã hoàn thành chu đáo, Như Lai Thiền
Viện xin được đa tạ Hòa Thượng Thiền Sư U Silananda và Ðại Ðức
Khánh Hỷ đã cho thiền viện được đặc ân ấn tống bản dịch sách
giải thích Kinh Ðại Niệm Xứ. Như Lai Thiền Viện rất lấy làm vinh
dự được giới thiệu sách dịch đến quí thiền sinh và Phật tử.
Mong rằng quí vị sẽ tìm được nơi sách những ánh sáng soi tỏ con đường tu
chứng. Hãy là những người lữ hành đơn độc tinh tấn bước đi trên con
đường độc nhất để khỏi uổng phi kiếp người quý báu hi hữu có
được trong dòng thời gian dài lê thê của kiếp luân hồi. Với tâm
nguyện lấy trí tuệ làm sự nghiệp, Thiền Viện cầu mong
quý vị đến được chân trời thênh thang đầy hoa thơm và cỏ lạ và
ghi dấu tâm chứng trên dòng hiện sinh.
Hiền nhân thỏa thích nghe lời
Phật,
An trong Pháp Bảo những giấc say.
Ban Tu Thư
Như Lai Thiền Viện
Vài Lời Của Người Soạn Dịch
Nhận thấy Kinh Ðại Niệm Xứ là
một kinh rất quan trọng đối với những người hành thiền; nếu không
hiểu rõ kinh này lại không được thiền sư hướng dẫn trực tiếp
thì sẽ thực hành sai lầm và việc hành thiền sẽ không gặt hái kết
qủa tốt đẹp. Từ khi chuyên tâm hành Thiền, chúng tôi có ý muốn dịch
và soạn thảo một tài liệu thật đầy đủ về lý thuyết cũng
như thực hành Tứ Niệm Xứ, tức Thiền Minh Sát, để giúp đỡ những
Phật tử muốn thực hành đạo giải thoát. Trong khi chưa có tài liệu thuận
duyên để soạn thảo thì may thay, vào năm 1983, chúng tôi được tham dự
một khóa thiền tại Lafayette, California dưới sự hướng dẫn của Hòa
Thượng Thiền Sư Silananda. Trong khoá thiền này, Thiền sư đã dành
trọn mười buổi pháp thoại để giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ. Hòa
Thượng Thiền Sư trong khi diễn giảng đã căn cứ vào Chú Giải, Phụ Chú
Giải, và chú giải của Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi (một vị Tam tạng pháp
sư, hội chủ Ðại hội Kết tập Tam Tạng lần thứ sáu). Là một học giả
thâm cứu Phật Pháp, một Thiền sư kinh nghiệm thực chứng, có tinh thần
của một luật gia, một sử gia, nên Hòa Thượng Silananda đã giảng giải Kinh
Ðại Niệm Xứ môt cách khúc chiết, rõ ràng, hợp theo nguyên tắc luận
lý và khoa học, không chủ quan, thiếu căn cứ...
Ðọc Kinh Ðại Niệm Xứ do Hòa Thượng Silãnanda
giảng giải chúng ta sẽ hiểu rõ ràng những lời dạy thực hành của Ðức
Phật. Các bạn sẽ tìm thấy ở đây những lời giảng giải chính xác, rõ ràng
theo đúng kinh đìển nguyên thủy, nghĩa là vào thời kỳ mà Phật giáo
chưa chia thành bộ phái, chưa bị người sau, vì lý do này hay lý do
khác, thêm vào. Ðây là một bản Kinh nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất mà
các nhà nghiên cứu Phật học khách quan đều thừa nhận. Trong cuốn sách
này nhiều điểm được giải thích rõ để tránh thực hành sai lầm.
Chẳng hạn như trong phần niệm hơi thở các điểm sau đây được sáng
tỏ:
1) Chánh niệm Tỳ khưu thở vào, chánh niệm
Tỳ khưu thở ra.
Câu này giảng giải cách hành thiền. Khi hành
thiền bạn giữ tâm trên hơi thở vào và hơi thở ra. Thực ra, bạn để
tâm ở cửa mũi và quan sát hơi thở "vào ra", "vào ra"... Tâm
phải đặt ở cửa mũi trong khi theo dõi hơi thở vào và ra. Nghĩa là không cố
ý theo hơi thở và tưởng tượng hơi thở đang đi vào trong cơ thể hay
nghĩ rằng hơi thở giai đoạn đầu ở mũi, giai đoạn hai ở tim và giai đoạn ba
ở rốn như nhiều người đã dạy và thực hành. (Thanh Tịnh Ðạo có nói rõ
là thiền sinh sẽ bị loạn tâm ở ba giai đoạn mũi, tim và rốn. Phải
để tâm ở cửa mũi như người gác cửa quan sát kẻ ra người vào, hoặc
như người thợ mộc khi cưa một khúc gỗ thì phải chú tâm vào nơi lưỡi
cưa tiếp xúc với gỗ chứ không theo dõi lưỡi cưa chạy tới chạy lui).
2) Thở vào một hơi dài, Tỳ khưu biết:
"tôi đang thở vào dài"; thở ra một hơi dài, Tỳ khưu biết:
"tôi đang thở ra dài".
Trong suốt thời gian quán sát hơi thở; đôi lúc
thiền sinh bỗng nhiên thở một hơi dài, thiền sinh phải nhận
biết "tôi đang thở một hơi dài". Ðìều này không có nghĩa
là thiền sinh phải cố ý thở ra một hơi dài để biết rằng mình
đang thở một hơi dài. Chữ "biết" ở đây, có nghĩa là biết
một cách trọn vẹn chứ không phải chỉ biết hời hợt bề mặt.
3) "Nhận thức rõ toàn thể hơi thở vào
(khởi đầu, kéo dài và chấm dứt), tôi sẽ thở vào", tỳ khưu tinh tấn
như vậy (nghĩa là thầy Tỳ khưu tự huấn luyện như vậy). "Nhận thức
rõ toàn thể hơi thở ra (khởi đầu, kéo dài và chấm dứt), tôi sẽ thở
ra", tỳ khưu tinh tấn như vậy.
(Nhiều bản dịch là: "cảm giác toàn thân tôi
sẽ thở ra" và giải thích rằng hãy cảm giác toàn thân rồi mới thở ra)
Khi quan sát hơi thở bạn phải cố gắng để thấy rõ
ràng toàn thể hơi thở. Nhận thức rõ có nghĩa là biết được hơi
thở, biết trọn vẹn, cố gắng ý thức được hơi thở một cách sắc
bén. Nhóm chữ toàn thể hơi thở tiếng Paali là "Sabbakaaya"
(sabba: là toàn thể, kaaya là cơ thể hay thân, hay một
nhóm). Nhưng Kaaya (cơ thể) ở đây không có nghĩa là cơ thể hay
thân của thiền sinh mà là thân hơi thở. Do đó, Sabbakaaya ở đây
không có nghĩa là "toàn thể cơ thể vật chất" mà là
"toàn thể hơi thở", và "toàn thể" ở đây có nghĩa
là sự khởi đầu, kéo dài và chấm dứt. Bởi vậy, thiền sinh phải cố gắng
ý thức trọn vẹn sự khởi đầu, kéo dài và chấm dứt của hơi thở. Bạn
cũng phải nên nhớ rằng đây là mục nói về "quán sát hơi thở",
bởi vậy đề mục hành thiền ở đây phải là hơi thở mà không phải là
toàn thể cơ thể vật chất. Sách Thanh Tịnh Ðạo đã giải thích như
sau:
- Thầy Tỳ kheo luyện tập như sau: "Tôi biết
rõ, biết trọn vẹn toàn thể, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối
(khởi đầu, kéo dài và chấm dứt) của hơi thở tôi sẽ thở vào. Tôi biết
rõ, biết trọn vẹn toàn thể, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối
của hơi thở ra tôi sẽ thở ra". Thầy tỳ khưu luyện tập như vậy. Bằng
cách này, thầy tỳ khưu biết rõ, biết trọn vẹn hơi thở, thầy tỳ
khưu thở vào và thở ra với tâm có trí tuệ.
4) An tịnh hơi thở vào (còn thô tháo) (nhân duyên
bởi thân), tôi sẽ thở vào, tỳ khưu tinh tấn như vậy. An tịnh hơi thở ra
(còn thô tháo) (nhân duyên bởi thân), tôi sẽ thở ra, tỳ khưu tinh tấn như
vậy.
Theo Chú giải, câu này có nghĩa:
"Khi hơi thở vào trở nên an tịnh, vi tế khó
thấy, khó ghi nhận; thầy tỳ khưu phải cố gắng chú tâm và tinh tấn nhiều
hơn để thấy rõ. Khi hơi thở ra trở nên an tịnh, vi tế khó thấy, khó
ghi nhận; thầy tỳ khưu phải cố gắng chú tâmvà tinh tấn nhiều hơn để
thấy rõ."
Nhiều người giải thích là thiền sinh phải làm
cho tâm mình an tịnh hay chú tâm đến sự an tịnh của thân rồi thở ra.
Ðây là mợt lối giải thích không đúng theo tinh thần kinh Ðại Niệm Xứ.
Vì khi thực hành Tứ Niệm Xứ thì phải quán sát, theo dõi chứ không tạo ra
hay đặt định một điều gì cả.
Chữ "thân hành" (Kaaya-sa.nkhaara) ở đây
có nghĩa là hơi thở nhân duyên bởi thân. Ở đây danh từ Kaaya-sa.nkhaara
hàm nghĩa là hơi thở. Hơi thở ở đây được xem là hơi thở "thô
tháo" bởi vì nó cần được "làm cho an tịnh".
Câu "An tịnh hơi thở" không có nghĩa là
thiền sinh phải cố ý làm cho hơi thở an lạc, an trú, tĩnh lặng mà có
nghiã là khi hơi thở trở nên vi tế thiền sinh phải cố gắng chú tâm
và tinh tấn nhiều hơn để thấy rõ. Ðối với các đề mục thiền
khác, khi thiền sinh càng định tâm và hiểu rõ đề mục thì đề
mục càng rõ ràng (Như đề mục thiền định, chú tâm vào cái đĩa
bằng đất chẳng hạn, khi càng chú tâm thì đề mục càng rõ ràng). Ðối
với đề mục hơi thở thì trái lại, càng tiến bộ thì đề mục càng
vi tế hơn.
Hơi thở tùy thuộc vào thân và tâm; do đó lúc không
hành thiền, nếu thân và tâm không an tịnh thì hơi thở sẽ trở nên
thô tháo. Khi bạn chuyên tâm hành thiền, thân tâm trở nên an tịnh, tĩnh
lặng, lúc ấy hơi thở trở nên vi tế khó nhận thấy. Vào lúc nảy, phải
nỗ lực chú tâm vào đề mục hành thiền hơn nữa để nhìn thấy
hơi thở vi tế này. Khi bạn hành thiền với nỗ lực tinh tấn và đạt
thêm nhiều hiểu biết thì bạn sẽ thấy rõ hơi thở dù chúng nhỏ
nhặt đến đâu.
Trong lúc hành thiền, khi hơi thở trở nên quá vi
tế không thể nhận ra được thì bạn cũng đùng vội vã bỏ thiền.
Bạn phải tự khích lệ và tinh tấn để quán sát hơi thở nhỏ nhặt vi
tế ấy cho đến khi hơi thở rõ ràng trở lại. Ðó là ý nghĩa của
câu: "An tịnh hơi thở" hay "Tinh tấn chú tâm vào hơi thở (khi
hơi thở trở nên) vi tế khi thở vào".
5) "Quán sát thân trong nội thân, quán sát
thân trong ngoại thân hay tỳ khưu quán sát thân trong nội thân và ngoại
thân."
Quán sát thân trong nội thân có nghĩa là thiền sinh
quán sát hay ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra của mình.
Khi thiền sinh đã đạt được một số tiến bộ
trong việc chú tâm vào hơi thở của chính mình, bỗng nhiên thiền
sinh nghĩ đến hơi thở của người khác và tự nhủ: "Hơi thở của ta
có điểm khởi đầu và điểm chấm dứt, sinh và diệt, thì hơi thở
cuả người khác cũng vậy". Ðó là thiền sinh đã "Quán sát thân
trong ngoại thân".
Câu "Quán sát thân trong ngoại thân" chỉ có
nghĩa là trong khi quán sát hơi thở mình bỗng nhiên "nghĩ"
đến hơi thở của người khác chứ không có nghĩa là "nhìn" vào
người khác và quán sát hơi thở của họ. Tuy nhiên khi bỗng nhiên quán
sát hơi thở của người khác thì bạn cũng phải chánh niệm nữa.
Ðôi khi bạn quán sát hơi thở của chính mình rồi
bỗng nhiên lại "nghĩ" đến hơi thở của người khác, xong lại
trở về với hơi thở của mình, tiếp đó lại nghĩ đến hơi thở của
người khác... Ði đi lại lại giữa hơi thở của mình và hơi thở cuả người
khác đó là: Quán sát thân trong nội thân và thân trong ngoại thân. Câu này
không có nghĩa là phải quán sát hơi thở của chính mình và hơi thở của
người khác. Trong khi hành thiền bạn chỉ chú tâm quán sát hơi thở của
chính bạn mà thôi.
-oOo-
Trên đây chúng tôi nói đến một số điểm căn
bản về phần niệm hơi thở. Ðọc hết cuốn sách các bạn sẽ
hiểu rõ kinh Ðại Niệm Xứ hơn để thực hành một cách tốt đẹp
hơn. Bản soạn dịch Kinh Ðại Niệm Xứ này, phần lớn dựa vào cuốn "The
Four Foundation of Mindfulness", ghi lại những bài giảng của Hoà Thượng
Thiền Sư Silànanda về Kinh Ðại Niệm Xứ. Rất tiếc là cuốn sách
trên không được nhuận sắc kỹ càng nên có nhiều thiếu sót và sai
lầm. Rất may là trong khi soạn dịch cuốn này chúng tôi có dịp gần gũi với
Hòa Thượng Tác giả, nên được Hòa Thượng giảng giải và chỉ dẫn thêm
những phần lầm lẫn và thiếu sót. Bản soạn dịch này cũng được bổ túc
thêm bằng những chi tiết rút ra từ những bài giảng về Kinh Ðại
Niệm Xứ đã được Hòa Thượng giảng dạy tại Như Lai Thiền Viện,
San Jose, California; tại chùa Từ Quang, San Francisco, California; và tại Bát Nhã
Thiền Viện, Montréal, Canada. Tất cả những phần thêm vào, sửa chữa
cũng như sự sắp xếp thứ tự các đoạn văn đều được chúng tôi
trình bày và nhận ý kiến của Hòa Thượng.
Ðể độc giả có dịp làm quen với tiếng Paa.li,
ngôn ngữ chính trong các kinh điển Phật Giáo, nên trong phần Paa.li
-Việt đối chiếu, những từ Paa.li được giải thích rộng
hơn và bổ túc thêm một số từ thông dụng.
Chúng tôi xin thành thật cám ơn quí vị đã bỏ công
sức vào việc hoàn thành bản soạn dịch Kinh Ðại Niệm Xứ này; xin chia
đều phước báu pháp thí cao quí này đến tất cả quí vị.
Trước hết, chúng tôi xin thành thật tri ân Hòa
Thượng Thiền Sư Silananda đã giảng giải cặn kẽ cho chúng tôi những phần
thiếu sót và lầm lẫn trong bản tiếng Anh. Tiếp đến, Hòa
Thượng Thiền Sư Kim Triệu đã hiệu đính, cho nhiều ý
kiến về việc thực hành và chỉ cho chúng tôi biết những sai lầm
mà các người dịch và dẫn giải kinh Ðại Niệm Xứ trước đây đã gặp
phải. Ðại Ðức Ngộ Không đã chép tay phần lớn bản thảo. Ðạo Hữu Phạm Phú
Luyện đã bỏ ra nhiều ngày cùng chúng tôi duyệt lại nhiều lần
toàn bản soạn dịch. Cô Bội Khanh là người đã xem xét lại toàn bản soạn
dịch nhất là những phần chính tả từ khi bản soạn dịch mới thành hình. Cô
Tịnh Nguyên, Chị Du giúp chép tay và sửa lỗi chính tả một số chương.
Ðạo hữu Từ Sơn đã giúp đỡ phần kỹ thuật Computer, trình bày sách và phụ
dịch phần Paa.li-Việt đối chiếu. Sư cô Candobhasi Huệ
Minh và Ðạo hữu Diệu Thu giúp đánh máy và giảng nghĩa một số từ Anh
Ngữ. Ðạo hữu Trần Minh Lợi và Trương Ðiền đã giúp vé máy bay và
phương tiện chuyên chở cùng các chi phí khác trong những lần chúng tôi
về Như Lai Thiền Viện để hoàn thành cuốn Kinh Ðại Niệm Xứ
này. Và rất nhiều vị đã đóng góp ý kiến, khuyến khích, giúp
đỡ, hối thúc và ủng hộ tịnh tài để cuốn Kinh Ðại Niệm Xứ, sau
chín năm dài cưu mang (kể từ khi hai đạo hữu Khoát-Thúy gửi sang Mã Lai
tặng chúng tôi cuốn "The Four Foundations of Mindfulness"), nay ra mắt
độc giả.
Mặc dầu đã hết sức cố gắng, nhưng vì bận tu
học và nhiều công tác Phật sự nên chúng tôi không có đủ thì giờ
để sửa chữa thật chu đáo, do đó bản soạn dịch này chắc chắn còn
nhiều đìểm không vừa ý độc giả. Chúng tôi thành thật xin các
bậc Trưởng Thượng hoan hỉ chỉ điểm cho những chỗ sai lầm và rất hân
hoan đón nhận những ý kiến xây dựng của các bạn Phật Tử bốn phương
để lần tái bản được hoàn hảo hơn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Như Lai Thiền
Viện
Ngày Tám Tháng Tư Năm 1999
Tỳ Kheo Khánh Hỷ
(Aggasami Trần Minh Tài)
-oOo-
Mục Lục | Chương kế
Như Lai Thiền Viện ấn
tống, 1999
Như Lai Thiền Viện -
Tathagata Meditation Center
1215 Lucretia Avenue
San Jose. CA 95122
U.S.A.
Ðiện thoại: + (408) 294
4536
Trang Web: http://www.tathagata.org/ |