húng ta có nhiều
loại cảm thọ: Lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Cảm thọ
ở đây phải được hiểu là cảm thọ về tâm. Khi đau bạn cảm thấy
đau, và tâm cảm thọ này tiếng Paa.li gọi là "vedanaa".
Mỗi khi nói đến vedanaa bạn phải hiểu đó là lạc thọ,
khổ thọ và vô ký thọ. Thiền sinh quán sát hay ghi nhận sự khổ,
sự lạc hay sự vô ký của cảm giác là hành thiền quán sát cảm
thọ.
Ðức Phật dạy:
Và này các thầy tỳ khưu, thầy tỳ khưu quán sát thọ trong thọ
như thế nào?
Ở đây, này các thầy tỳ khưu, khi có lạc thọ, thầy tỳ khưu
biết: "Tôi có lạc thọ". Khi có khổ thọ, thầy tỳ khưu
biết: "Tôi có khổ thọ". Khi có vô ký thọ (cảm thọ
không khổ không lạc), thầy tỳ khưu biết: "Tôi có vô ký
thọ". Khi có thế tục lạc thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi
có thế tục lạc thọ". Khi có phi thế tục lạc thọ, thầy tỳ
khưu biết: "Tôi có phi thế tục lạc thọ". Khi có thế
tục khổ thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có thế tục khổ
thọ". Khi có phi thế tục khổ thọ, thầy tỳ khưu biết:
"Tôi có phi thế tục khổ thọ". Khi có thế tục vô ký
thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có thế tục vô ký
thọ". Khi có phi thế tục vô ký thọ, thầy tỳ khưu biết:
"Tôi có phi thế tục vô ký thọ".
Cảm thọ nào khởi sinh thiền sinh cũng đều phải ghi nhận và quán
sát. Ðó là lời giới thiệu của Ðức Phật về việc hành Thiền
Minh Sát. Khi bạn có cảm giác đau nhức hay tê cứng trên cơ thể thì bạn
phải chú tâm vào nơi có sự đau và ghi nhận sự đau nhức hay tê cứng này
bằng cách niệm thầm: "đau, đau, đau", hay "tê,
tê, tê". Khi bạn có cảm giác tốt, cảm giác vui bạn niệm: "vui,
vui, vui" hay "tốt, tốt, tốt". Thiền sinh khó
biết được cảm thọ vô ký. Cảm thọ vô ký mà thiền sinh
biết được khác với cảm thọ vô ký mà người không hành thiền
biết. Mặc dầu khi có cảm thọ tốt thì bạn biết rằng bạn đang có
cảm thọ tốt, và khi có cảm thọ xấu thì bạn biết rằng bạn đang
có cảm thọ xấu. Nhưng như thế không hẳn là hành Thiền Minh Sát.
Thiền sinh hành Thiền Minh Sát thấy hay quán sát cảm giác chỉ là cảm
giác thôi, không phải cảm giác của một người, không phải cảm giác trường
cửu bất biến. Giống như trong khi hành thiền quán sát sự đi, phải ghi
nhận: "đi, đi, đi" ; ở đây thiền sinh phải ghi nhận "cảm
giác, cảm giác, cảm giác". Sự hiểu biết của thiền
sinh hoàn toàn khác biệt sự hiểu biết của người không hành
thiền. Tâm của người không hành thiền không thể tách rời khỏi
khái niệm về một chúng sanh hay ý niệm về tự ngã; bởi vậy
sự hiểu biết của họ không phải là Thiền Minh Sát. Trong khi đó
tâm của thiền sinh có thể thấy rằng chỉ có cảm giác mà thôi. Chỉ có
cảm giác vui hay cảm giác không vui mà không có ai cảm giác cả. Không thể
nói rằng cảm giác này của ai hay của chúng sanh nào. Thiền sinh cũng
biết rằng cảm giác này không tồn tại lâu dài.
Khi bạn có cảm giác đau và bạn ghi nhận "đau, đau, đau" thì
bạn cần phải ghi nhận từ mười đến mười lăm phút. Có thế thì bạn
mới thấy rằng cái đau này không có gì hằng cửu. Không phải chỉ có một
khối đau. Một cái đau này đến rồi đi; lại một cái đau khác đến
rồi đi. Bạn thấy sự đau không phải là cái gì liên tục mà sự đau biến
đổi không ngừng. Khi bạn đã nhìn xuyên thủng sự liên tục, nghĩa là bạn
không thấy gì có sự liên tục cả tức là bạn đã thấy đặc tính vô thường
của sự vật. Sở dĩ bạn không thấy được sự vô thường vì ảo tưởng về
sự liên tục đã che dấu đặc tánh vô thường. Khi bị ảo tưởng về sự
liên tục chi phối thì bạn sẽ dính mắc vào quan niệm trường cửu và vững
bền của sự vật, cho rằng sự vật trường cửu và vững bền. Khi ý
niệm về sự liên tục bị loại bỏ thì bạn sẽ thấy rằng sự vật
hiện ra rồi biến mất, sinh diệt không ngừng.
Bạn có lạc thọ dính liền với sự vật mà bạn gần gũi hay tiếp
cận trong cuộc sống: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, tư tưởng và những gì mà
bạn nghĩ rằng chúng là sở hữu của bạn như: vợ chồng, con cái... Lạc thọ
tùy thuộc vào các sự vật thế tục nên được gọi là "thế tục
lạc thọ". Khi có loại lạc thọ này, bạn phải ý thức và ghi
nhận: "vui, vui, vui" hay "tốt, tốt, tốt".
Ðôi khi bạn có khổ thọ như bạn cảm thấy buồn, xuống tinh thần; khi bị
mất mác, xa lìa những vật sở hữu hay đồ đạc có giá trị, bạn cảm thấy
tiếc nuối, buồn bực hay nóng giận. Ðó là những khổ thọ thuộc về
thế tục. Ðiều này cũng có thể xảy ra cho thiền sinh khi
thiền sinh nghĩ đến những gì không tốt đẹp đang xảy ra cho mình. Khi
có những cảm thọ như thế xảy ra, thiền sinh phải chánh niệm và
ghi nhận: "tiếc nuối, tiếc nuối, tiếc nuối"; "buồn,
buồn, buồn" hay "giận, giận, giận".
Vô ký thọ là cảm giác không vui, không khổ. Ðôi khi đang hành
thiền, thiền sinh tiếp xúc các đối tượng giác quan với tâm không
vui, không khổ và cũng không thể vất bỏ đối tượng đó. Ðó là cảm
thọ vô ký đi kèm với tham ái khởi sinh trong thiền sinh. Cảm
thọ như thế gọi là "thế tục vô ký thọ" cũng
còn gọi là tâm xả tùy thuộc vào sự vật thế tục, hay tâm xả đi kèm
với si mê. Tiếng Paa.li gọi cảm thọ này là a~naanupekkhaa, có
nghĩa là "bất tri xả" (xả do không biết).
Bạn cũng có thể có "lạc thọ, khổ thọ và phi thế tục
vô ký thọ". Ðó là những cảm thọ khởi sinh trong lúc bạn đang
hành thiền.
Thế nào là "phi thế tục lạc thọ"? Khi hành thiền,
bạn có thể có tâm định tốt hay thấy được sự sinh diệt của sự vật
bạn bèn có cảm giác vui vẻ thích thú. Bạn cảm thấy thật hạnh phúc đến
nỗi bạn muốn đứng dậy nói cho mọi người biết rằng mình đang có
cảm giác thích thú như vậy. Bạn khó có thể chế ngự những cảm giác
này. Cảm giác như vậy có thể đến với thiền sinh, đặc biệt
là lúc thiền sinh đạt đến tầng mức có thể thấy rõ sự sinh
diệt của các hiện tượng. Thiền sinh không nên có các cảm thọ
đi kèm với tham ái. Thiền sinh phải ý thức và chánh niệm trước
các cảm thọ này. Nếu dính mắc vào cảm thọ này thì thiền sinh
sẽ đứng mãi ở đây mà không tiến bộ thêm được nữa.
Thế nào là "phi thế tục khổ thọ"? Ðôi khi thiền
sinh không thể hành thiền tốt đẹp theo ý muốn. Mặc dầu đã cố
gắng, nhưng tâm thiền sinh không thể nằm trên đề mục được. Lúc
bấy giờ thiền sinh cảm thấy chán nản hay thất vọng. Ðó là khổ
thọ phi thế tục. Ðôi khi thiền sinh đạt được một tầng thiền
nào đó rồi lại bị rơi xuống nên có cảm giác buồn bã hay tiếc nuối. Khi
có các cảm giác này, thiền sinh phải ghi nhận: "buồn, buồn,
buồn" hay "tiếc nuối, tiếc nuối, tiếc
nuối" và chế ngự nó.
Câu chuyện về vị trưởng lão sau đây cho thấy "phi thế tục
khổ thọ" là một trở ngại trong lúc hành thiền:
Một vị trưởng lão rất thông thái kinh điển. Thầy dạy mười tám nhóm
học trò. Có đến ba mươi ngàn tỳ khưu thực hành theo lời dạy của
trưởng lão mà đắc quả Alahán. Một trong những người học trò của thầy,
một hôm, ôn lại những đặc tính quí báu của mình rồi nghĩ đến thầy và
tìm hiểu xem thầy mình đã giác ngộ chưa. Thấy thầy vẫn còn là người
thế tục nên người học trò đến gặp thầy để giúp đỡ. Thấy
người học trò đến, vị thầy hỏi:
- Sư đến đây có việc gì?
Người học trò đáp:
- Con muốn nghe thầy thuyết pháp.
- Thầy không có thì giờ. Thầy rất bận.
- Con chỉ hỏi pháp khi thầy vào làng khất thực.
- Không, sẽ có nhiều người cùng đến hỏi thầy vào lúc ấy nên
thầy không trả lời được.
Người học trò tiếp tục xin thầy cho mình gặp vào những giờ khác,
nhưng những lời đề nghị của trò đều bị thầy từ chối vì lý do
bận việc. Cuối cùng người học trò nói với thầy:
- Bạch thầy. Bộ thầy không có được một chút thì giờ ngay chỉ vài phút
thôi sao? Nếu thầy không có chút thì giờ nào thì có lẽ thầy cũng sẽ
không có đủ thì giờ để chết nữa. Thầy luôn luôn bận rộn. Thầy
chẳng khác nào chỗ tựa lưng của chiếc ghế. Thầy chỉ để cho
người khác dựa lưng vào thầy mà thầy không dựa được chính mình.
Nói xong người học trò bỏ đi. Vị thầy cảm thấy tâm rung động và
quyết định hành thiền. Thầy nghĩ rằng mình có thể trở thành một
vị Alahán trong vài ba ngày. Nghĩ vậy, nhưng thầy không hề nói cho ai
biết. Thế nhưng mấy ngày trôi qua thầy vẫn chưa đạt đạo quả Alahán.
Thầy để hết kỳ hạ để hành thiền, nhưng cho đến cuối hạ
thầy vẫn chưa đạt được gì cả. Thầy cảm thấy buồn khổ nên thầy khóc mãi.
Thầy tiếp tục hành thiền trong hai mươi chín năm nữa, nhưng đến
cuối hạ thứ ba mươi thầy vẫn chưa thấy được chân lý. Thầy rất buồn
khổ và khóc lớn. Lúc bấy giờ một vị địa tiên đến gần thầy rồi cũng
khóc lớn. Thấy vị địa tiên khóc, thầy bèn hỏi:
- Ông là ai?
- Tôi là một địa tiên.
- Tại sao ông khóc?
- Thấy thầy khóc nên tôi nghĩ rằng chỉ cần khóc thôi thì tôi cũng có
thể đạt một hay hai quả thánh.
Thầy tỳ khưu giáo sư nghe thế buồn khổ hết sức và tự nhủ:
"Bây giờ, ngay cả vị địa tiên cũng chế diễu ta. Vậy thì ta không
nên buồn khổ hay thất vọng quá". Thế là vị trưởng lão vất bỏ
mọi thất vọng buồn rầu. Vị trưởng lão tích cực tinh tấn hành
thiền với tâm thanh thản, thoải mái nên chẳng bao lâu sau đắc quả Alahán.
Mặc dầu vị trưởng lão này thuộc lòng Tam Tạng kinh điển, nhưng thầy
phải bỏ ra đến ba mươi năm mới giác ngộ đạo quả Alahán. Sự thất
vọng buồn khổ của thầy là "phi thế tục khổ thọ". Phi
thế tục khổ thọ này phát sinh trong lúc vị trưởng lão đang hành
thiền nên là một trở ngại trong sự giác ngộ đạo quả của thầy.
Thế nào là "phi thế tục vô ký thọ"? Ðó là vô
ký thọ trong khi hành thiền, còn được gọi là "phi thế
tục xả thọ" hay "chánh niệm phi thế tục xả thọ",
xuất hiện khi thiền sinh đạt được các tuệ giác cao hơn trong
Thiền Minh Sát và có được cảm giác xả thọ. Lúc bấy giờ thiền
sinh không cần phải nỗ lực tinh tấn mà vẫn quán sát đề mục một cách
tốt đẹp. Tinh tấn đến với thiền sinh một cách tự nhiên nên thiền
sinh có cảm giác không vui không khổ. Cảm thọ này được gọi là
"phi thế tục vô ký thọ" hay "phi thế tục xả
thọ". Khi "phi thế tục xả thọ" khởi sinh thì bạn phải
chánh niệm và ghi nhận: "xả thọ, xả thọ, xả thọ".
Bằng cách này, thiền sinh sẽ ý thức được sự sinh diệt của
mọi cảm thọ phát sinh. Tiếp theo đó thiền sinh sẽ đạt được
các tuệ giác cao hơn cho đến khi hoàn toàn giác ngộ.
Thiền sinh phải cố gắng ghi nhận mọi cảm thọ. Khi thiền sinh
ghi nhận các cảm thọ phát sinh, thiền sinh sẽ thấy được sự sinh
diệt của các cảm thọ này. Thiền sinh cũng đồng thời thấy được
rằng bởi vì có sự đau nên mới có cảm giác đau. Bởi vì có sự thích thú
thoải mái nên mới có cảm giác thích thú, thỏa mái v.v... như thế là
thiền sinh đã nhận thức được "sự sinh khởi của cảm giác",
"sự diệt tận của cảm giác" hay nhận thức được cả hai "sự
sinh khởi và sự diệt tận của cảm giác". Thiền sinh có thể
"quán sát bên trong", trên cảm thọ của mình và "quán sát
bên ngoài", trên cảm thọ của người khác hay "quán sát bên trong
cảm thọ của chính mình và quán sát bên ngoài cảm thọ của người
khác". Ðó là phương pháp chánh niệm các cảm thọ trong lúc đang
hành thiền bằng cách ý thức và chánh niệm các cảm thọ.
Một khi đã thấy được sự sinh diệt của các cảm thọ thiền sinh
sẽ không còn tham luyến dính mắc vào các cảm thọ nữa. Khi không còn
tham luyến, dính mắc, thiền sinh sẽ giác ngộ chân lý.