|
Ðại
Niệm Xứ
Thiền sư U Silananda
Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt
[04]
Quán Sát Pháp Trong Pháp
Ðến đây chúng ta đã nghiên cứu ba trong bốn niệm xứ
đó là: Quán sát thân (hay niệm thân), quán sát thọ (hay niệm
thọ), quán sát tâm (hay niệm tâm). Bây giờ chúng ta bắt đầu nói
đến phần quán sát cuối cùng đó là quán sát pháp (hay niệm pháp).
Quán sát thân hay niệm thân là quán sát cơ thể vật lý hay phần
vật chất của cơ thể. Quán sát thọ là quán sát những gì mà tâm kinh
nghiệm được: "khổ, lạc, vô ký" của cảm giác vật chất. Quán
sát tâm cũng còn được gọi là quán sát những sự việc thuộc về
tâm, tâm sở. Quán sát pháp là quán sát cả hai, vật chất cũng như tinh thần.
Nếu xét theo ngũ uẩn thì quán thân là quán sát sắc uẩn, quán thọ là
quán sát thọ uẩn, quán tâm là quán sát thức uẩn và quán pháp là quán
sát cả năm uẩn.
Chữ dhamma được phiên âm là "pháp" chứ không dịch bởi vì
thật khó tìm ra một chữ bao trùm trọn vẹn nghĩa của chữ dhamma. Chữ
dhamma thường được dịch là những "đối tượng của tâm".
Ðiều này không chính xác cũng không rõ ràng bởi vì đối tượng của
thiền được nói đến trong Chương này thuộc về hai nhóm thân cũng
như tâm. Khi "đối tượng của tâm" có ý nghĩa là đối tượng hay
đề mục của tâm, thì cơ thể cũng là đối tượng của tâm, cảm
thọ và tâm cũng là đối tượng của tâm. Khi "đối tượng của
tâm" mang ý nghĩa là đối tượng thuộc về phần tâm, thì vấn
đề là vật chất cũng là một trong những đối tượng quán niệm. Vậy
tốt nhất là để nguyên chữ dhamma, đừng dịch; hãy cố gắng hiểu
nghĩa chữ dhamma nói đến trong kinh Ðại Niệm Xứ này.
Trong Chương "Niệm Pháp" này, chúng ta sẽ nói đến:
"năm chướng ngại", "ngũ uẩn thủ", "sáu căn, sáu
trần", "Thất giác chi", "Tứ Diệu Ðế". "Năm
chướng ngại" thuộc về tâm. "Ngũ uẩn thủ" thuộc về vật
chất và tâm. "Sáu căn, sáu trần" thuộc về vật chất và tâm.
"Thất giác chi" thuộc về tâm, và "Tứ Diệu Ðế"
bao gồm cả vật chất và tâm.
A. Năm Chướng Ngại
Bất kỳ bạn làm việc gì, bạn đều cảm thấy có một vài loại
chướng ngại hay cản trở cần phải vượt qua. Chướng ngại là những yếu tố
gây bất lợi cho việc hành thiền. Nó che lấp hay cản trở khiến
thiền sinh không thể tập trung tâm ý được.
Ðức Phật đã nói đến chướng ngại như sau :
Ở đây này các tỳ khưu, tỳ khưu quán sát pháp trong pháp qua năm
chướng ngại:
Thế nào là thầy tỳ khưu quán pháp trong pháp qua năm chướng ngại?
Thế nào là năm chướng ngại?
1. Tham ái
Ở đây, này các tỳ khưu, khi
tham ái có mặt thầy tỳ khưu biết rằng: "Có tham ái trong tôi",
hay khi tham ái vắng mặt, thầy tỳ khưu biết: "Không có tham ái trong
tôi", thầy tỳ khưu cũng biết lý do tham ái chưa sanh được sanh
khởi, thầy tỳ khưu cũng biết lý do tham ái đã sanh bị diệt trừ,
thầy tỳ khưu cũng biết lý do tham ái đã được diệt trừ không
còn khởi sanh trong tương lai.
Phần dạy trên đây của Ðức Phật đã chỉ dẫn cho chúng ta cách thức
đương đầu với "tham ái". Tham ái là chướng ngại đầu tiên
trong mục này. "Tham ái" có nghĩa là tham luyến, dính mắc
vào những đối tượng giác quan. Có thể dùng nhiều danh từ để chỉ
trạng thái này như tham ái, dục ái, tham lam, dính mắc, ái dục... Tất cả
những chữ trên đều chỉ sự tham luyến vào sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp (pháp ở đây nói đến cả sắc pháp lẫn danh pháp). Khi tham ái
hiện khởi trong tâm thiền sinh, thiền sinh biết: "có tham
ái trong tôi". Trong lúc hành thiền nếu có những tư tưởng tham
lam, tham dục, luyến ái hay dục vọng khởi lên thì bạn phải ý thức
sự có mặt của những tham ái này. Bạn phải ý thức rằng đang có tham ái
hiện diện trong bạn và ghi nhận hay niệm thầm: "tham lam, tham
lam, tham lam" hay "dính mắc, dính mắc, dính mắc" hoặc:
"muốn, muốn, muốn".
Chữ "có mặt" ở đây có nghĩa là một vật gì đó đang
hiện hữu vì nó đã xảy ra nhiều lần. Ý nghĩ tốt hay ý nghĩ xấu
(thiện tư duy hay tà tư duy) không thể xuất hiện cùng lúc. Những
tư tưởng này không thật sự có mặt vào lúc thiền sinh ghi nhận hay
biết được chúng bởi vì tư tưởng không thể có mặt cùng lúc với sự
nhận biết tư tưởng. Nhưng những tư tưởng này được gọi là hiện
hữu vào lúc thiền sinh quán sát chúng bởi vì chúng khởi sinh lập đi lập
lại nhiều lần. Thực ra vào lúc thiền sinh quán sát các chướng ngại
này thì chúng đã ra đi rồi. Chúng tồn tại chỉ trong một thời gian rất ngắn,
có thể chỉ một phần giây. "Có mặt" có nghĩa là cái gì
xảy ra ngay trong chính sát na đó. Bạn cần phải nhận ra cái gì có mặt,
hiện hữu hay lập đi lập lại nhiều lần. Khi tham ái có mặt, thiền
sinh biết: "có một loại tham ái như vậy trong tôi". Và khi tham ái
vắng mặt, thiền sinh cũng biết: "không có tham ái trong tôi".
"Vắng mặt" ở đây có hai nghĩa: Trước hết, có nghĩa là
không hiện hữu vì không xảy ra hoặc đã bị loại bỏ. Thứ hai, có nghĩa
đơn giản là không khởi sinh. Hoặc là thoạt đầu nó khởi sinh ở thiền
sinh, khi thiền sinh quán sát nó, nó liền biến mất. Khi nó đã
biến mất thì có nghĩa là nó vắng mặt. Ðôi khi thiền sinh
cảm thấy tham ái vắng mặt, đó chỉ có nghĩa là tham ái không khởi dậy trong
tâm thiền sinh. Ðôi lúc thiền sinh cảm thấy có tham ái, thiền sinh
bèn ghi nhận tham ái này. Khi ghi nhận như thế tham ái biến mất.
Thiền sinh bèn ghi nhận sự biến mất của tham ái. Bởi vậy, ở vào
trường hợp nào đi nữa bạn cũng phải chánh niệm ghi nhận sự vắng mặt
của tham ái khi tham ái vắng mặt.
Tỳ khưu cũng biết lý do tham ái chưa khởi sinh nay được sinh .
Có những nguyên nhân làm khởi sinh tư tưởng thiện và tư tưởng bất
thiện. Chúng ta gọi chúng là "thái độ" hay "quan
điểm". Một cách tổng quát có hai loại mà chúng ta gọi là
"tư duy " hay "suy nghĩ". Chúng là "chánh tư duy" và
"tà tư duy". "Chánh tư duy" dẫn đến tư tưởng thiện
và "tà tư duy" dẫn đến tư tưởng bất thiện. "Tà tư
duy" là suy tư không thích đáng, suy tư tà vạy. Ðó là loại suy tư cho
vô thường là thường còn, cho sự bất toại nguyện là toại nguyện, cho
sự vô ngã là hữu ngã, và cho xấu xa là tốt đẹp. Bởi vậy, khi bạn cho rằng
một vật nào đó là trường cửu, toại nguyện, có bản chất đẹp đẽ,
đáng yêu, đáng quyến luyến thì bạn có sự "tà tư duy".
Những sự suy nghĩ trên được gọi là tà vì nó là nguyên nhân khiến
cho những tư tưởng bất thiện khởi sinh. Như vậy, tà tư duy là nguyên
nhân chính làm khởi sinh tư tưởng bất thiện.
Chánh tư duy là tư duy một cách chánh đáng, thích nghi, đúng theo chánh
đạo. Ðây là loại suy nghĩ cho vô thường là vô thường, bất toại nguyện
là bất toại nguyện, vô ngã là vô ngã, xấu là xấu, không đáng yêu là
không đáng yêu. Ðó là đường lối đúng đắn để nhìn sự vật. Ðức
Phật dạy rằng mọi vật đều vô thường, bất toại nguyện và không
có bản chất. Bạn không nên dính mắc, tham luyến vào bất cứ vật gì. Khi
bạn nhìn sự vật theo cách này thì bạn có chánh tư duy, suy niệm có trí
tuệ hay có sự suy nghĩ chơn chánh, sáng suốt. Ðó là suy nghĩ một cách
đúng đắn, chính xác hay có một quan niệm đúng đắn về sự vật.
Tham ai khởi sinh trong bạn bởi vì bạn có " tà tư duy" hay có sự
suy tư không sáng suốt. Có những đối tượng làm điều kiện hay tạo
duyên cho tham ái phát sanh. Khi bạn nhìn một vật mà bạn cho là đẹp, khả ái,
rồi bạn tham luyến, dính mắc vào vật này thế là tham ái phát sinh.
Tham ái này phát sinh vì bạn có thái độ sai lầm về sự vật. Bạn đã suy
tư không đúng đắn về vật này. Bởi vậy, mỗi khi tham ái phát sinh
trong tâm thiền sinh, thiền sinh phải ghi nhận rằng đang có tham ái khởi
sinh trong ta bởi vì ta suy tư không chính đáng. Vì có quan điểm sai lầm
về các đối tượng của giác quan nên thiền sinh nghĩ rằng chúng
trường cửu, toại nguyện, có bản chất và đẹp đẽ. Khi hành thiền,
thiền sinh phải ghi nhận điều này và ý thức về chúng:
"Bởi vì ta suy nghĩ không sáng suốt nên tham ái này mới khởi sinh trong
tâm ta".
Thầy tỳ khưu cũng biết lý do tại sao tham ái đã sanh bị
diệt trừ.
Tham ái có thể bị loại trừ bằng hai cách: Bằng cách quán sát tham ái
và bằng cách tạo ra một sự suy tư sáng suốt về đối tượng, cho rằng
đối tượng có bản chất ô trược. Nghĩa là quán sát hay suy tư sáng suốt
rằng đối tượng có bản chất ô trược. Thiền sinh có thể đạt được
các tầng thiền nhờ quán sát sự ô trược.
Ðức Phật dạy rằng cơ thể này chẳng đáng yêu, không tốt đẹp. Suy tư
một cách sáng suốt trên cơ thể này giúp ta loại bỏ tham ái. Khi thiền
sinh đạt được các tầng thiền lấy ý niệm ô trược làm đề
mục cũng có thể loại bỏ được tham ái. Trong Thiền Minh Sát, bạn chỉ
cần chuyên tâm chánh niệm thì tham ái cũng bị loại trừ. Khi ý thức
được sự vắng mặt của tham ái, bạn biết được nguyên nhân của sự
biến mất tham ái này: "Nhờ ta có sự suy tư sáng suốt, có thái độ
đúng đắn hay có quan niệm đúng đắn về đối tượng này nên tham ái
sẽ biến mất".
Ðôi khi thiền sinh ghi nhận nguyên nhân của sự biến mất tham ái rồi
thì thiền sinh cũng biết được lý do tại sao tham ái đã được
loại trừ này không xuất hiện nữa trong tương lai. Ðiều này có nghĩa
là khi thiền sinh trở thành một vị Alahán thì tham ái đã được loại trừ
sẽ không bao giờ trở lại nữa.
Thầy tỳ khưu cũng biết lý do tham ái đã được diệt trừ
không còn khởi sanh trong tương lai.
Thiền sinh biết rằng nhờ đạt được đạo tâm, do nguyên nhân đạo
tâm, những phiền não đã bị loại trừ sẽ không bao giờ trở lại nữa. Nhờ
đạt đạo tâm, tham ái hoàn toàn bị tận diệt. Ðiều này xảy ra khi
thiền sinh đã đắc quả Alahán. Thế nên, khi thiền sinh có tham ái,
thiền sinh sẽ biết tại sao tham ái phát sinh. Thiền sinh biết
được lý do tại sao tham ái biến mất và thiền sinh cũng biết
được lý do tại sao tham ái đã bị loại trừ trong sát na hay loại trừ tạm
thời.
Bạn phải làm gì khi tham ái phát sinh? Bạn hãy lấy tham ái này làm đề
mục hành thiền. Bạn trú trên tham ái . Bạn ghi nhận tham ái này. Chỉ bằng
cách ghi nhận thôi, tham ái sẽ biến mất. Chú giải đã ghi ra sáu cách
giúp cho thiền sinh loại trừ tham ái. Thiền sinh có thể áp dụng sáu
cách này khi thiền sinh không hành Thiền Minh Sát:
1. Thiền sinh có thể dùng đề mục "cơ thể ô
trược", quán sát xác chết hay niệm ba mươi hai thể trược.
Thiền sinh học hỏi rồi thực hành tốt đẹp loại thiền này thì có
thể loại bỏ tham ái.
2. Thiền sinh có thể "thực hành đề mục ô trược cho
đến khi thiền sinh đạt được các tầng thiền". Khi thiền
sinh đạt được các tầng thiền, thiền sinh có thể loại trừ được
tham ái .
3.Thiền sinh có thể "chế ngự lục căn". Nghĩa là
thiền sinh chế ngự mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm để không có
một tư tưởng bất thiện nào có thể khởi sinh qua sáu cửa này.
4.Thiền sinh "Tiết độ trong vật thực". Tiết độ trong
vật thực sẽ giúp thiền sinh diệt trừ được tham ái. Khi bạn ăn quá
nhiều bạn sẽ có nhiều tham ái dục. Bạn cũng sẽ có nhiều tham muốn
về thực phẩm nữa. Bởi vậy, thiền sinh được khuyên nên ăn vừa đủ.
Còn khoảng bốn năm bụm nữa sẽ no, thiền sinh hãy ngừng lại đừng ăn.
Nhiều xứ Á Châu tỳ khưu thường ăn bằng tay. Một nhúm tay thức ăn được
gọi là một bụm, thay vì ăn thêm bốn năm bụm nữa, thiền sinh sẽ uống
nước để thế vào. Ðiều này có nghĩa là khi ăn tỳ khưu đừng
dồn đầy bụng mà để chỗ cho nước. Ăn chừng đó đã có đủ sự
thoải mái để tỳ khưu tu hành đạt đến Niết Bàn.
5.Thiền sinh cần có một "người bạn tốt". Người bạn tốt đúng
nghĩa là người đi với ta trên đường giác ngộ. Người Tây Phương gọi
đó là "bạn tinh thần". Có bạn tốt là điều rất cần thiết,
vì người bạn tốt có thể khuyên bảo khuyến khích ta, ta có thể
học hỏi từ bạn và lấy bạn làm mô mẫu cho mình noi theo. Bởi thế, một
người bạn tốt, không có tham ái, sẽ giúp thiền sinh loại trừ tham ái.
6. Thiền sinh phải "có lời nói thích hợp". Muốn loại bỏ tham
ái, thiền sinh nên nói đến sự ô trược của cơ thể, nên nói
đến những hậu quả xấu xa của lòng tham ái...
2. Sân Hận
Sân hận ở đây có nghĩa là nóng nảy, giận dữ, cũng còn có nghĩa là sự
sợ hãi băn khoăn, phản kháng và không kiên nhẫn.
Khi sân hận có mặt, thầy tỳ khưu biết, "có sự sân hận trong
tôi". Khi sân hận vắng mặt, thầy tỳ khưu biết "sân hận vắng mặt
trong tôi".
Có hai loại tư duy. Khi tư duy không sáng suốt, bạn sẽ có sân hận. Khi tư
duy sáng suốt bạn sẽ không có sân hận. Trong lúc hành thiền, sân hận
thường phát sinh nơi thiền sinh. Thiền sinh có thể sân hận với
chính mình hoặc sân hận với người khác. Chẳng hạn có ai làm ồn khiến
thiền sinh không thể tập trung tâm ý được thì chẳng bao lâu
thiền sinh sẽ bị bất an hay sân hận. Ðôi khi sân hận hay ác tâm nổi lên
bởi vì bạn nghĩ đến một người nào đó mà bạn đã gây gỗ trước
đây, và bạn cảm thấy tức giận người đó. Bởi vậy, mỗi khi có những
mối cảm xúc khởi sinh, thiền sinh phải ý thức sự hiện diện của
tâm sân hận này và ghi nhận: Ta đang có sự sân hận hay chỉ ghi nhận "sân
hận, sân hận, sân hận". Khi ác tâm khởi sinh thì bạn ghi nhận: "ác
tâm, ác tâm, ác tâm". Bạn có thể ghi nhận sự ghét hay đôi
khi sự sợ hãi bằng cách ghi nhận: "sợ, sợ, sợ". Bởi vì
bạn đang ghi nhận sự sân hận và đang niệm ba, bốn lần nên sân hận
biến mất. Khi sân hận đã biến mất, bạn phải ý thức sự biến
mất này và ghi nhận: không còn có sân hận nữa...
Tỳ khưu cũng biết được lý do sân hận chưa sinh khởi nay
được sinh .
Hãy suy tư một cách sáng suốt: "Mọi vật đều vô thường. Ðối
tượng của sự sân hận này cũng vô thường". Khi thiền sinh hiểu
biết và suy tư một cách sáng suốt trên sự vô thường của các đối
tượng sân hận này thì thiền sinh sẽ không còn sân hận chúng nữa. Nhưng
khi thiền sinh suy tư không sáng suốt, thì thiền sinh sẽ bị những đối
tượng này chi phối. Bởi vậy, trong lúc hành thiền, bạn phải ghi nhận:
"Ta có sân hận bởi vì ta đã suy tư không sáng suốt, có thái độ sai
lầm đối với sự vật, có quan điểm sai lầm về sự vật". Khi bạn
ý thức được điều này tức là bạn ý thức được nguyên nhân
phát sinh sân hận.
Tỳ khưu cũng biết được lý do những sân hận đã sinh được
loại trừ.
Khi bạn có sự sân hận và ghi nhận sự sân hận này thì đồng thời bạn
cũng quán sát sự biến mất của nó. Khi sân hận biến mất bạn ý
thức được sự biến mất của sân hận. Bạn biết được rằng sân hận
biến mất nhờ bạn ghi nhận nó. Cũng vậy, khi bạn suy tư một cách sáng
suốt, đặc biệt là hành thiền từ ái (mettaa), thì sân hận cũng
biến mất. Như vậy, suy tư sáng suốt là nguyên nhân diệt trừ sân hận.
Ngoài Thiền Minh Sát, còn có sáu cách thực hành để loại trừ sân
hận:
1. Tập "hành thiền từ ái" hay niệm tâm từ, tức là rãi tâm
từ ái, thân thiện đến tất cả chúng sanh.
2. "Thực hành thiền từ ái cho đến khi đạt được các tầng
thiền", khi thiền sinh đạt được các tầng thiền, thiền sinh
có thể loại bỏ được sân hận.
3. Suy nghĩ đến: "Nghiệp là gia tài của chúng ta". Suy nghĩ
đến nghiệp là gia tài của chúng ta là một sự suy tư rất quan
trọng với nhiều lý do. Khi bạn sân hận, bạn có thể tự nhủ:
"Ta đang giận dữ ai đây?". Bạn sinh ra trên thế gian này là do
kết quả của nghiệp trong quá khứ. Bạn cũng sẽ tái sinh sau này tùy
theo nghiệp mà bạn đã tích lũy trong hiện tại. Bởi thế chúng sanh
được sanh ra và chết đi tùy theo nghiệp của họ. Bởi vì tùy theo
nghiệp của mình mà chúng sanh sinh ra hay chết đi nên bạn không có
lý do gì để giận dữ người nào. Người giận dữ chẳng khác nào kẻ
đang cầm hòn sắt nóng đỏ để ném người khác; chính người giận dữ sẽ
bị đau khổ trước khi làm cho người khác đau khổ. Thế nên, thiền sinh
hãy suy tư đến nghiệp của chính mình để nhận lấy trách
nhiệm. Ðời sống của chúng ta được sắp xếp tùy theo nghiệp lực
của chúng ta đã tạo.
4. Hãy "suy tư đến sự tốt đẹp, lợi ích của lòng từ ái (mettaa)
và sự xấu xa nguy hại của tâm sân hận". Nghĩa là cố gắng nhìn thấy
những lợi ích mà lòng từ ái đã đem lại và những bất lợi do sự nóng giận
gây ra. Suy tư đến sự tốt đẹp, lợi ích của lòng từ ái và sự xấu xa
nguy hại của tâm sân hận sẽ giúp thiền sinh loại bỏ được sân hận, nóng
giận, ác tâm.
5. "Có bạn lành" (kalyaa.na mitta). Người bạn lành luôn giúp
ta loại bỏ những tư tưởng bất thiện, ở đây là loại bỏ những tư tưởng
sân hận. Một người có đầy lòng từ ái có thể ảnh hưởng đến
người khác khiến họ cũng có lòng từ ái như mình. Bởi thế, khi
thân cận với một người bạn hay với một người đầy lòng từ ái thì ta có
thể loại trừ được tính nóng giận của mình. Ta có thể lấy người
bạn tốt làm mô mẫu cho mình noi theo.
6. "Nói lời thích hợp". Là nói đến lòng từ ái, nói đến
những lợi ích do lòng từ ái đem lại và những tai hại do sự sân hận gây ra.
Lời nói thích hợp sẽ giúp loại bỏ sân hận.
Tỳ khưu cũng biết lý do những sân hận đã sinh được loại
trừ, tỳ khưu cũng biết được lý do những sân hận đã được loại
trừ không còn khởi sinh nữa trong tương lai.
Ðoạn trên liên quan đến lúc thiền sinh đạt Ðạo Tâm. Khi thiền
sinh đạt được tầng Thánh thứ ba thì sân hận sẽ được loại trừ hoàn toàn.
3. Dã dượi buồn ngủ
"Dã dượi buồn ngủ", hay gọi một cách đơn giản là buồn ngủ
có thể đến với thiền sinh bất kỳ lúc nào. Mọi người chúng ta
đều trải qua dã dượi buồn ngủ trong lúc hành thiền.
Khi dã dượi buồn ngủ có mặt tỳ khưu biết "có dã dượi buồn
ngủ trong ta", hay dã dượi buồn ngủ vắng mặt tỳ khưu biết "dã
dượi buồn ngủ vắng mặt trong ta".
Khi thiền sinh cảm thấy buồn ngủ thì thiền sinh phải cảnh giác và
ghi nhận sự buồn ngủ này. Thông thường chỉ cần ghi nhận thì buồn ngủ sẽ
biến mất. Khi buồn ngủ biến mất, thiền sinh cũng phải ý thức
sự biến mất này: "không có dã dượi và buồn ngủ trong ta, dã
dượi và buồn ngủ đã biến mất".
Tỳ khưu cũng biết nguyên nhân khởi sinh của dã dượi buồn ngủ
chưa sinh khởi.
Ở đây một lần nữa sự suy tư không sáng suốt về tình trạng chán
nản, lười biếng, uể oải và trì trệ của tâm là nguyên nhân gây
ra dã dượi buồn ngủ. "Suy tư không sáng suốt" có nghĩa là nghĩ
rằng chán nản, trì độn, làm biếng, lề mề... không đem lại tai
hại gì cả. Thiền sinh có sự suy tư sáng suốt và có thái độ đúng đắn
đối với sự tinh tấn có thể loại bỏ được dã dượi buồn ngủ. Bởi vậy,
khi bạn buồn ngủ bạn phải làm hai việc, trước tiên là ghi nhận sự buồn
ngủ của bạn: "buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ". Tiếp đến
là đẩy mạnh tinh tấn hay chú tâm vào đề mục hành thiền. Nhờ tinh
tấn, dã dượi buồn ngủ có thể bị loại trừ. Khi dã dượi buồn ngủ đã
được loại trừ hay vắng mặt, thiền sinh biết rằng dã dượi buồn ngủ
đã bị loại trừ hay vắng mặt.
Tỳ khưu cũng biết lý do của dã dượi buồn ngủ chưa sanh khởi
nay khởi sinh. Tỳ khưu cũng biết được lý do loại trừ dã dượi buồn
ngủ đã sinh, và Tỳ khưu cũng biết được lý do dã dượi buồn ngủ
đã được diệt trừ sẽ không khởi sinh trong tương lai.
Dã dượi buồn ngủ được loại trừ hoàn toàn khi đạt quả Alahán. Chỉ khi
nào đắc quả Alahán, thiền sinh mới hoàn toàn loại trừ dã dượi buồn
ngủ. Thiền sinh ý thức rằng dã dượi buồn ngủ đã được loại trừ
bởi vì thiền sinh đã thực sự đạt được tầng Thánh cuối cùng này.
Dã dượi buồn ngủ là hai dây trói buộc, hai tâm sở khác nhau nhưng chỉ
kể là một chướng ngại vì chúng có cùng công năng, cùng nguyên nhân và
cùng sự đối kháng. Dã dượi và buồn ngủ có cùng công năng là "lười
biếng", có cùng nguyên nhân là "sự trì độn, biếng
nhác", có cùng sự đối kháng là "tinh tấn".
Có sáu cách để tạm thời loại trừ dã dượi buồn ngủ:
1. "Nhìn thấy nguyên nhân của dã dượi buồn ngủ là do ăn quá no".
Nghĩa là bạn phải biết rằng khi ăn quá no bạn sẽ cảm thấy buồn ngủ. Khi
bao tử đầy thức ăn thì nó sẽ cần nhiều máu hơn nên lượng máu đưa
lên não phải chạy vào bao tử vì thế mà bạn cảm thấy choáng váng và
buồn ngủ. Biết được điều này bạn sẽ có tiết độ trong sự ăn
uống, và nhờ thế bạn có thể loại trừ dã dượi buồn ngủ.
2. "Thay đổi tư thế". Nếu bạn cảm thấy buồn ngủ
trong khi đang ngồi bạn có thể thay đổi tư thế. Bạn có thể đứng
dậy và hành thiền trong tư thế đứng hay bạn có thể đi tới đi
lui. Như vậy, do thay đổi tư thế bạn có thể loại trừ dã dượi buồn
ngủ .
3."Suy nghĩ đến ánh sáng". Bạn có thể cố gắng để
thấy ánh sáng trong tâm bạn, ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh
sáng của các ngôi sao hay ánh sáng của đèn điện... Suy nghĩ đến ánh
sáng sẽ giúp bạn loại bỏ sự buồn ngủ. Bạn chỉ cần nhắm mắt lại và cố
gắng nghĩ đến ánh sáng hay cố gắng nghĩ đến những vật gì sáng sủa.
Bằng cách này bạn có thể loại trừ dã dượi buồn ngủ.
4."Ở nơi khoáng đãng". Bạn có thể cảm thấy buồn
ngủ khi bạn ở trong nhà, nhưng khi bạn đi ra ngoài ngồi dưới gốc cây hay
ngồi ở một nơi khoảng khoát trống trải thì dã dượi buồn ngủ sẽ biến
mất.
5."Có bạn tốt". Một người bạn không thích ngủ nhiều hay
người bạn không buồn ngủ. Khi bạn thân cận với một người tinh tấn, không
bị dã dượi buồn ngủ chi phối, bạn có thể loại bỏ được dã dượi buồn
ngủ .
6."Nói lời thích hợp". Bạn nhận ra được sự thiệt hại
của buồn ngủ và những lợi ích do sự tỉnh táo đem lại.
Trong kinh bạn có thể tìm thấy nhiều lời khuyên liên quan đến
sự buồn ngủ. Ðại Ðức Mục Kiền Liên, một trong hai vị trưởng đệ tử
của đức Phật, trước khi đắc quả Alahán, trong khi hành thiền thường bị
buồn ngủ. Ðại Ðức Mục Kiền Liên cứ gục lên gục xuống mãi, không
thể giữ tâm trên đề mục thiền. Ðức Phật biết được
điều này bèn dạy Ðại Ðức Mục Kiền Liên cách chinh phục dã dượi
buồn ngủ. Những lời dạy của Ðức Phật được ghi trong Tăng Chi Bộ Kinh (A"ngutara
Nikaaya):
Ðức Phật hỏi:
-"Mục Kiền Liên, thầy đang gục phải không?"
Mục Kiền Liên trả lời:
-"Vâng con đang buồn ngủ".
Ðức Phật bèn nói:
-"Ðược, này Mục Kiền Liên, khi những tư tưởng buồn ngủ đến
với thầy, thầy không nên để tâm đến chúng. Như vậy thì buồn ngủ
sẽ biến mất".
Bởi vậy khi bạn nghĩ đến điều gì khiến gây ra sự buồn ngủ
thì bạn hãy tránh tư tưởng đó. Ðây là lời khuyên thứ nhất.
Lời khuyên thứ hai là:
-"Nếu đã làm như vậy mà buồn ngủ vẫn không biến mất thì
phải suy nghĩ đến những lời dạy mà thầy đã từng nghe và từng học.
Thầy phải chú tâm trên những lời dạy này suy xét chúng một cách cặn kẽ. Có
nghĩa là thầy phải nghĩ đến giáo pháp thầy đã học và giáo pháp
thầy đã nghe, phát triển đức tánh tìm tòi, học hỏi và suy tư sâu xa
về giáo pháp. Làm như thế thì buồn ngủ có thể tan biến. Khi
đã chăm chú suy tư giáo pháp, xem xét giáo pháp một cách kỹ càng trong tâm,
thì thầy sẽ tỉnh táo trở lại và có thể loại trừ được dã dượi buồn
ngủ.[12]
Sau đó Ðức Phật dạy tiếp năm cách nữa, có thể tóm lược như sau:
- Nếu đã làm như vậy mà vẫn chưa hết buồn ngủ thì phải dùng
đến cách thứ ba là "lập lại từng chi tiết những lời dạy mà thầy
đã nghe và đã học". Có nghĩa là bạn phải tụng đọc những lời
dạy của Ðức Phật. Khi bạn đã học thuộc lòng một điều gì, bạn phải
tụng đọc lại điều đó. Nhờ tụng đọc những gì bạn đã học,
bạn có thể loại trừ được dã dượi buồn ngủ.
- Nếu đã làm như vậy mà vẫn không hết buồn ngủ thì bạn phải
dùng đến cách thứ tư là "kéo tai" và "chà sát tay
chân" để tỉnh táo trở lại. Làm như thế sẽ loại trừ được sự
buồn ngủ.
- Nếu đã làm như vậy mà sự buồn ngủ vẫn không biến mất thì phải
dùng đến cách thứ năm là "đứng dậy đi rửa mắt". Bạn nên nhìn
khắp các hướng sau khi đã rửa mắt. Làm như thế thì sự buồn ngủ có
thể biến mất.
- Nếu đã làm như vậy mà sự buồn ngủ vẫn không biến mất thì phải
dùng cách thứ sáu là "chú tâm vào ánh sáng", tạo trong tâm một
ý niệm về ánh sáng ban ngày. Dầu bạn đang hành thiền ban ngày
hay ban đêm bạn cũng phải tưởng tượng là mình đang hành thiền ban ngày
và suy nghĩ đến ánh sáng. Làm như thế bạn có thể đuổi được
dã dượi buồn ngủ.
- Nếu đã làm như vậy mà sự buồn ngủ vẫn không biến mất thì phải
dùng cách thứ bảy là "đi tới đi lui". Với tâm hướng vào bên trong
không hướng ra ngoài, bạn đi tới đi lui. Vậy mỗi khi buồn ngủ, hãy đứng
dậy đi kinh hành. Trong khi đi tới đi lui hãy chánh niệm ghi nhận bước đi
và những giai đoạn của bước đi. Bằng cách đi tới đi lui và ý thức sự
đi tới đi lui này bạn có thể đuổi được dã dượi buồn ngủ.
- Nếu đã làm như vậy mà sự buồn ngủ vẫn không biến mất thì bạn
có thể nằm xuống như cách nằm của con sư tử, nghĩa là nằm nghiêng bên
phải, chân này đặt lên chân kia, biết rõ ràng những gì mình đang làm
và nghĩ đến lúc thức dậy sau này: "Ta sẽ thức dậy vào giờ này giờ
kia vào buổi sáng". Bởi vậy khi bạn muốn thức dậy vào buổi sáng mà
không cần đồng hồ báo thức thì bạn có thể làm một quyết định
trước khi đi ngủ: "Ta sẽ thức dậy vào sáng sớm". Khi bạn có
việc gì quan trọng phải làm vào buổi sáng thì bạn sẽ thức dậy đúng
giờ. Bạn thức dậy đúng giờ vì tâm bạn đã quyết định rằng bạn sẽ dậy
vào giờ đó. "Giữ trong tâm tư tưởng thức dậy" có nghĩa là
quyết định thức dậy vào một giờ nào đó. Khi thức dậy, bạn phải ngồi
dậy ngay. Vào lúc nghe chuông báo thức bạn hãy thức dậy và tự nhủ: "Ta
không được nằm ráng thêm hay để tư tưởng mê ngủ lôi cuốn ta".
Làm như thế bạn sẽ tránh được dã dượi buồn ngủ.
Ðó là bảy phương pháp chống lại dã dượi buồn ngủ. Có thể một trong
bảy cách trên thích hợp với bạn, giúp bạn tỉnh táo trở lại.
4. Bất An và Hối Hận
Bất an là tâm không đủ khả năng nằm trên đối tượng. Bất an tiếng Paa.li
là Uddhacca, có nghĩa là "lay động ở bên trên", tâm không nằm
trên đối tượng mà nằm lơ lững bên trên đối tượng. Hối hận có nghĩa là
cảm thấy tội lỗi về những việc xấu hay sai lầm mình đã làm, và
những việc tốt mà mình không làm. Nguyên nhân phát sinh hối hận là
"suy tư không sáng suốt về sự giao động của tâm", như nghĩ
rằng: "Tâm giao động này chẳng làm hại gì cho ta cả... ".
Muốn loại trừ hối hận phải suy tư một cách sáng suốt về sự thanh tịnh
của tâm. Khi bạn có sự suy tư sáng suốt về sự an tịnh tĩnh lặng của tâm
thì bạn có thể loại bỏ được bất an và hối hận. Bởi vậy, khi bạn có
bất an và hối hận thì bạn phải biết rằng bất an và hối hận đang có
mặt. Khi bất an và hối hận biến mất thì bạn biết rằng bất an và hối
hận đã vắng bóng. Ðiều này có nghĩa là bạn hãy lấy bất an này làm
đề mục hành thiền và ghi nhận "bất an, bất an, bất an".
Hay khi bạn có hối hận hãy ghi nhận "hối hận, hối hận, hối hận".
Nếu bạn tinh tấn, chánh niệm ghi nhận vài lần thì bất an và
hối hận sẽ biến mất. Khi chúng đã biến mất thì hãy ý thức sự
biến mất của chúng và ghi nhận: "biến mất, biến mất,
biến mất". Hối hận sẽ được hoàn toàn loại trừ khi bạn
đắc quả thánh thứ ba, và bất an sẽ được hoàn toàn loại trừ khi bạn đắc
quả thánh thứ tư. Khi đắc quả thánh thứ ba thiền sinh sẽ ý thức sự
biến mất hoàn toàn của hối hận. Khi đắc quả thánh thứ tư thiền sinh
sẽ ý thức sự biến mất hoàn toàn của bất an.
Bất an và hối hận là hai dây trói buộc, hai tâm sở khác nhau, nhưng chỉ
kể là một chướng ngại vì chúng có cùng công năng, cùng nguyên nhân và
cùng sự đối kháng. Bất an và hối hận có cùng công năng là "sự không
an tịnh", có cùng nguyên nhân là suy nghĩ điều này điều nọ
và suy nghĩ đến thân quyến, có cùng sự đối kháng là sự an tịnh. Khi
tâm bất an và hối hận thì bạn bị giao động và không còn an tịnh nữa. Khi
bạn suy nghĩ, liên tưởng, hồi tưởng đến thân quyến hoặc suy nghĩ
điều này điều nọ thì tâm bạn giao động, bất an. Khi nghĩ
đến những việc sai lầm mà bạn đã làm trong quá khứ hay những
việc tốt đẹp mà bạn chưa làm bạn sẽ cảm thấy hối hận.
Chú giải có ghi sáu cách loại trừ bất an và hối hận:
1."Ðạt đến khả năng hiểu biết thâm sâu giáo lý của
Ðức Phật". Thiền sinh phải cố gắng học hỏi để có một
kiến thức thâm sâu về Phật Pháp.
2."Tìm hiểu điều gì nên làm và điều gì không nên
làm". Khi làm việc gì sai trái bạn sẽ cảm thấy hối hận hay ân hận.
Muốn tránh làm điều sai lầm bạn phải hiểu điều gì cần làm và
được phép làm, điều gì không nên làm và không được phép làm. Là
một vị tỳ khưu thì phải biết điều gì nên làm và điều gì nên
tránh. Biết được điều gì nên làm và điều gì nên tránh sẽ
giúp thiền sinh không làm điều sai lầm. Khi không làm điều sai lầm
sẽ không bị hối hận dày vò.
3. "Hiểu rõ giới luật". Hiểu rõ giới luật là bổn phận của
thầy tỳ khưu. Hiểu rõ ràng và trọn vẹn giới luật của nhà sư thì
thầy tỳ khưu sẽ không làm điều gì sai lầm. Bởi thế, thầy sẽ không
bị bất an hay hối hận chi phối.
4."Thân cận với người nhiều kinh nghiệm và người lớn
tuổi" để học hỏi đạo đức, như giới luật chẳng hạn.
5. "Có bạn lành". Người bạn lành có thể giúp ta loại bỏ bất
an và hối hận.
6. "Nói lời thích hợp". Nói đến những bất lợi của bất an,
hối hận và lợi ích của sự thanh tịnh trang nghiêm.
5. Hoài nghi
Khi hoài nghi có mặt, thầy tỳ
khưu biết hoài nghi có mặt trong ta, khi hoài nghi vắng mặt, thầy tỳ khưu
biết hoài nghi vắng mặt trong ta.
Hoài nghi, có thể là hoài nghi về Phật, Pháp, Tăng, về việc
hành thiền và đề mục thiền. Tất cả những điều đó là đối
tượng của sự hoài nghi. Nguyên nhân phát sinh hoài nghi là suy tư sai lầm
về sự vật. Nguyên nhân loại trừ hoài nghi là có sự suy tư rõ ràng đúng
đắn về sự vật. Suy tư đúng đắn đem lại sự tốt đẹp và an vui. Suy tư
sai lầm khiến phát sinh hoài nghi về Phật, Pháp, Tăng. Khi có suy tư
đúng đắn bạn sẽ không có những hoài nghi này. Khi có hoài nghi khởi sinh
trong tâm, hãy ý thức và ghi nhận: "hoài nghi, hoài nghi, hoài
nghi". Ghi nhận chừng ba bốn lần, hoài nghi sẽ biến mất. Khi
hoài nghi biến mất, phải ghi nhận sự biến mất của chúng bằng cách ghi
nhận: "biến mất, biến mất, biến mất". Khi đạt từng
thánh thứ nhất, thiền sinh sẽ loại trừ tất cả hoài nghi và thiền sinh
biết rằng mình đã loại trừ được tất cả hoài nghi. Theo chú giải có
sáu cách loại trừ hoài nghi ngoài việc hành Thiền Minh Sát.
1. "Hiểu rõ giáo pháp của Ðức Phật". Hãy cố gắng trở thành
người hiểu biết thông suốt giáo pháp của Ðức Phật. Khi hiểu rõ
giáo pháp thì ta sẽ không còn thắc mắc, nghi ngờ.
2. "Tìm hiểu Ân Ðức Phật, Pháp, Tăng". Hãy đặt câu hỏi
về Tam Bảo khi có hoài nghi phát sinh. Người Tây phương thường đặt rất
nhiều câu hỏi. Hỏi nhiều câu hỏi là việc làm tốt đẹp giúp trí
tuệ phát sinh và hoài nghi tan biến.
3. "Hiểu rõ giới luật". Ðiều này dành cho tỳ khưu. Khi
hiểu rõ giới luật thầy tỳ khưu biết điều gì cần làm và
điều gì không nên làm, do đó sẽ không bị hoài nghi chi phối.
4. "Xác tín chân lý Tam Bảo". Có nghĩa là phát triển đức
tin bằng cách hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng.
5. "Có bạn lành". Người bạn lành có đức tin trong sạch vào Tam
Bảo sẽ giúp bạn chấm dứt hoài nghi.
6. "Lời nói thích hợp". Là nói đến những bất lợi của hoài
nghi và những ích lợi của sự loại bỏ hoài nghi.
Khi bạn hành thiền mà hoài nghi đến quấy nhiễu thì hãy lấy hoài
nghi làm đề mục hành thiền, ghi nhận: "hoài nghi, hoài nghi,
hoài nghi"; đặc biệt là khi bạn nghi ngờ hiệu quả
của việc hành thiền này thì cần phải tinh tấn ghi nhận mỗi khi
hoài nghi phát sinh. Vậy khi hoài nghi đến hãy lấy hoài nghi làm đề
mục hành thiền và niệm: "hoài nghi, hoài nghi, hoài nghi" cho
đến khi hoài nghi biến mất.
Chúng ta có bao nhiêu chướng ngại? Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy. Tất
cả đều không phải. Một cách tổng quát, thì chúng ta nói đến năm hay
bảy chướng ngại. Thật ra, có rất nhiều chướng ngại nhưng không được
kinh điển gọi là chướng ngại. Một số là sự suy nghĩ, như phóng tâm
chẳng hạn. Khi bị phóng tâm hay vọng tâm thì bạn không tập trung tâm
ý được. Phóng tâm không được xếp loại vào chướng ngại, nhưng
phóng tâm cũng là chướng ngại vì nó cãn trở sự tập trung tâm ý. Phóng
tâm hay vọng tâm mặc dầu không mang tên là chướng ngại nhưng khi chúng
hiện diện thì phải chánh niệm bằng cách ghi nhận: "phóng
tâm, phóng tâm, phóng tâm".
Sau khi đã loại trừ năm chướng ngại này, dầu cho tạm thời, tâm bạn sẽ
định hơn. Và với sự định tâm bạn có thể hiểu rõ và thông suốt
được bản chất của thân và tâm. Khi thiền sinh quán sát những chướng
ngại này của mình thì được gọi là "quán sát bên trong", và khi
thiền sinh bỗng nhiên nghĩ đến những chướng ngại của người khác:
"Những chướng ngại trong ta là vô thường thì những chướng ngại của
người khác cũng như vậy", thì được gọi là "quán sát bên
ngoài". Ðôi khi thiền sinh quán sát chướng ngại của mình rồi lại
liên tưởng đến chướng ngại của người khác, lui tới như vậy thì
gọi là "quán sát bên trong và quán sát bên ngoài". Khi thiền
sinh ý thức những chướng ngại và thấy rõ bản chất của chúng thì
thiền sinh sẽ nhận ra rằng chẳng có gì để nắm giữ hay bám víu vào.
Không dính mắc vào bất cứ vật gì trên thế gian do ngũ uẩn hợp
thành.
Ðó là cách thiền sinh quán sát pháp trong pháp qua năm chướng ngại.
(Xem Phần kế
tiếp)
-oOo-
Chương trước
| Mục Lục | Phần kế tiếp
Source: Như Lai Thiền Viện -
Tathagata Meditation Center, San Jose, California, U.S.A. |