|
Ðại
Niệm Xứ
Thiền sư U Silananda
Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt
[07]
Hướng Dẫn Hành Thiền
Muốn hành thiền,
trước tiên bạn phải tìm một nơi thích hợp để giúp cho việc hành
thiền của bạn được tốt đẹp. Nơi thích hợp là nơi yên tịnh. Bạn có
thể tìm được nơi yên tịnh trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu bạn hành
thiền trong nhà, bạn phải tìm một nơi thích hợp cho việc định tâm
của bạn, và mỗi khi hành thiền bạn nên đến đó. Bạn có thể
tôn trí nơi hành thiền bằng một pho tượng hay ảnh Phật, đèn, hoa và
thắp một nén nhang để hổ trợ cho việc hành thiền. Tuy nhiên, những
thứ trên không phải là điều thiết yếu. Ðiều quan trọng là
bạn phải có một nơi yên tịnh để hành thiền.
Bắt đầu hành thiền, bạn phải chọn một thế
ngồi thoải mái thích hợp với bạn. Bạn có thể ngồi xếp bằng, lưng
giữ thẳng. Nếu ngồi kiết già, hai chân tréo vào nhau, quá khó đối
với bạn thì bạn có thể ngồi bán già, đặt chân này lên chân kia.
Nếu ngồi bán già cũng còn khó khăn đối với bạn thì bạn có thể
ngồi theo "lối Miến Ðiện" hay còn gọi là "lối dễ
dàng", chân này đặt trước chân kia, hai chân rời ra mà không chồng lên
nhau. Nếu vẫn còn thấy khó khăn, bạn có thể ngồi trên ghế hoặc
trên băng dài. Bạn cũng có thể dùng gối đệm nếu muốn. Mặc dầu
ngồi kiết già là tư thế lý tưởng, nhưng bạn phải quyết định
chọn cho mình một tư thế thích hợp để có thể duy trì việc
hành thiền một cách tốt đẹp nhất. Dầu ngồi ở tư thế nào đi nữa,
điều quan trọng là phải giữ thân thể và lưng cho ngay thẳng.
Chúng ta sẽ nói đến ba loại thiền: Thiền Tha
Thứ, Thiền Từ Bi (Niệm Tâm Từ) và Thiền Minh Sát.
1. Thiền Tha Thứ
Chúng ta hành Thiền Tha Thứ để loại bỏ mọi
cảm giác hối hận và sân hận. Thiền Tha Thứ có ba phần: xin người khác
tha thứ cho mình, tự mình tha thứ cho người khác, và chính mình tha thứ cho
mình.
Trước khi muốn viết gì lên bảng đen, bạn phải
chùi sạch bảng. Cũng vậy, trước khi tha thứ cho người khác và tha thứ cho
chính mình, bạn phải được người khác tha thứ. Ðôi khi bạn làm một
điều gì sai lầm đối với người nào, bạn cảm thấy ân hận. Ðặc biệt
lúc hành thiền, bạn muốn giữ tâm trong sạch thanh tịnh nhưng những tư
tưởng ăn năn hối tiếc này cứ lãng vãng trong tâm trí khiến cho
việc hành thiền của bạn bị rối loạn. Do đó, trước tiên bạn phải xin
người khác tha thứ cho bạn. Sau đó, chính bạn phải tha thứ cho người khác
về những lỗi lầm của họ. Có thể, có người nào đó làm
điều gì sai lầm đối với bạn và làm bạn giận dữ, bực tức thì bạn cũng
phải lọai bỏ những tư tưởng sân hận ấy đi để cho tâm trí được
thảnh thơi. Bạn phải tha thứ cho mọi người, nếu không tha thứ thì bạn
không thể hành thiền được. Một điều rất quan trọng nữa là
bạn phải tha thứ cho chính mình. Ðôi khi bạn cảm thấy tha thứ cho mình là
một điều khó khăn. Nếu bạn không thể tha thứ cho chính mình thì
những tư tưởng sân hận, bực tức về chính mình sẽ quấy rối việc
hành thiền của bạn.
Thiền Tha Thứ là điều kiện tiên quyết
để hành Thiền Từ Bi. Nếu bạn không thể tha thứ một người nào
đó thì bạn không thể rãi tâm từ đến họ được. Bởi thế bạn
phải hành Thiền Tha Thứ trước khi hành Thiền Từ Bi.
2. Thiền Từ Bi (Niệm Tâm Từ)
Từ ái là một loại tình thương, lòng thành thật mong
muốn tất cả chúng sanh được an vui hạnh phúc. Lòng từ ái chẳng dính dấp gì
đến sự luyến ái, dính mắc vào riêng một cá nhân nào. Ðó là một
tình thương thật trong sạch, một sự ước mong thành thật cho chính mình và
cho người khác.
Khi thực tập Thiền Từ Bi, trước tiên bạn mong ước
cho chính mình được an vui hạnh phúc. Khi đọc thầm câu "nguyện
cho tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh,
tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại" không
có nghĩa là bạn ích kỷ, bởi vì muốn rải tâm từ ái đến người khác
thì trước tiên bạn phải có tư tưởng từ ái với chính mình. Ðiều này
có nghĩa là khi rải tâm từ ái đến cho chính mình, bạn thành thật mong
rằng "ta muốn có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật
bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng
ngại" thì bạn cũng đồng thời cầu mong cho "người khác có đầy đủ
sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền
não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại."
Bạn có thể rãi tâm từ bằng nhiều cách. Bạn có
thể rãi tâm từ đến tất cả chúng sanh căn cứ theo chỗ ở. Chúng
sanh ở đây bao gồm cả súc vật, côn trùng v.v... Trước hết, bạn rãi tâm
từ đến tất cả chúng sanh trong nhà bạn. Tiếp theo đó bạn rãi tâm từ
đến tất cả chúng sanh trong khu vực bạn đang cư ngụ, trong thành phố,
trong quận, trong tiểu bang, trong nước, trên thế giới, trong vũ trụ, và
cuối cùng là rãi tâm từ đến tất cả chúng sanh một cách tổng quát. Khi
nói các câu trên, bạn hãy cố gắng hình dung ra những chúng sanh mà bạn
hướng đến đang mạnh khoẻ, an lạc và hạnh phúc. Tư tưởng từ ái của
bạn sẽ đến với họ và khiến họ thật sự mạnh khoẻ, an lạc và
hạnh phúc. Việc hành Thiền Từ Bi kéo dài trong mười lăm phút.
Khi hành Thiền Tha Thứ, xin bạn chắp hai tay và
đọc:
Vì lầm lạc và không minh mẩn nên tôi đã có
hành động, lời nói và ý nghĩ sai lầm làm thiệt hại và gây ra đau
khổ cho người khác. Xin tất cả hãy mở rộng lòng từ bi và trí tuệ tha
thứ cho tôi.
Tôi thành thật tha thứ cho tất cả những ai đã có hành
động, lời nói và ý nghĩ sai lầm làm thiệt hại và gây ra đau khổ cho
tôi.
Tôi thành thật tha thứ cho chính tôi và nguyện từ
nay về sau làm lành, lánh dữ, giữ tâm trong sạch.
Bạn nên đọc các câu trên từ năm đến mười
lần trước khi hành Thiền Từ Bi hay Niệm Tâm Từ.
Ngay sau Thiền Tha Thứ, bạn có thể hành Thiền
Từ Bi như sau:
a) Rải tâm từ đến chúng sanh theo nơi chốn:
Khi hành Thiền Từ Bi theo cách này, bạn có thể
niệm thầm trong tâm vào khoảng mười lần những câu sau đây:
Nguyện cho tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an,
hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui,
không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong nhà này có đầy
đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong khu vực này có
đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong thành phố này có
đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong tiểu bang này
có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong nước này có đầy
đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trên thế giới thân
có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong vũ trụ có đầy
đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh có đầy đủ sức khỏe,
bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng
ngày an vui, không gặp chướng ngại.
b) Rải tâm từ qua từng hạng người:
Khi hành Thiền Từ Bi theo cách này, bạn có thể
niệm thầm trong tâm vào khoảng mười lần những câu sau đây:
Nguyện cho tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an,
hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui,
không gặp chướng ngại.
Nguyện cho thầy tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an,
hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui,
không gặp chướng ngại.
Nguyện cho cha mẹ tôi có đầy đủ sức khỏe, bình
an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an
vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho những người trong gia đình tôi có đầy
đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho thân bằng quyến thuộc tôi có đầy
đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho bạn bè tôi có đầy đủ sức khỏe, bình
an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an
vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho những người cùng sở làm với tôi có
đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả thiền sinh có đầy đủ sức
khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não,
hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho những người không quen biết tôi có
đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không
phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho những người không có thiện cảm với
tôi có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm
không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh có đầy đủ sức khỏe,
bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng
ngày an vui, không gặp chướng ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn
nhau, hãy cho được sự an vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng
hẹp lượng; hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được
thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được an vui; tất cả chúng sanh đang
đau khổ, xin cho dứt khổ, đang kinh sợ, xin cho hết kinh sợ, đang thương
tiếc, xin cho hết thương tiếc.
Sau khi đã rải tâm từ ái đến toàn thế giới
và tất cả chúng sanh. Bây giờ chúng ta hãy hành Thiền Minh Sát.
3. Thiền Minh Sát
Thiền Minh Sát là thiền tỉnh thức hay chánh
niệm. Thiền Minh Sát dạy chúng ta sống và đối diện với hiện
tại. Thiền sinh phải ý thức tất cả mọi chuyện đến và đang
xảy ra trong hiện tại. Ðối với thiền sinh, chỉ có hiện tại là quan
trọng. Trong khi hành thiền, thiền sinh phải ghi nhận, theo dõi, quán
sát mọi chuyện đến từ sáu cửa giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và tâm) trong giây phút hiện tại vì đó chính là những đề mục
mà ta cần phải ý thức và chánh niệm.
Khi hành Thiền Minh Sát, thiền sinh thuần theo dõi
các hiện tượng đang xảy ra hoặc nếu muốn có thể niệm thầm
theo khi ghi nhận các đề mục đó. Khi theo dõi một cách tinh tấn, chánh
niệm, dần dần bạn sẽ đạt được mức độ tỉnh thức cao nhờ đó có
thể thấy được chân tướng của sự vật. Ðó là sự kết hợp tạm thời
của thân và tâm, của các hiện tượng tâm vật lý hiện đang xảy
ra. Chúng mang bản chất vô thường, khổ hay bất toại nguyện,
và vô ngã hay không có cốt lõi, không kiểm soát được. Một khi
nhìn thấy được ba bản chất thật sự này rồi, thì bạn sẽ loại bỏ được
ý tưởng sai lầm (tà kiến) về sự vật. Nhờ hiểu biết đứng
đắn chân tướng của sự vật, bạn sẽ giảm bớt tham ái, dính mắc vào thân và
tâm, và do đó các phiền não đã cản trở hay ngăn chận sự giác ngộ sẽ
dần dần bị suy yếu đi.
Khi hành thiền Minh Sát, bạn phải chọn một
đề mục để chú tâm theo dõi. Ðề mục này gọi là đề mục
chính. Theo truyền thống, thiền sinh thường chú ý vào hơi thở, lấy
hơi thở làm đề mục chính. Bạn đặt tâm ở cửa mũi theo dõi hơi thở vào
và hơi thở ra. Nếu muốn, bạn có thể niệm thầm trong khi theo dõi
hơi thở như vậy.
Hơi thở vào và hơi thở ra kéo dài khoảng bốn đến
năm giây. Khi chú tâm ghi nhận hơi thở vào, bạn sẽ cảm nhận được cảm giác
của hơi thở ở cửa mũi hay bên trong mũi. Bạn phải chú tâm vào cảm giác của
hơi thở trong suốt quá trình từ đầu đến cuối. Hãy chú tâm vào bản
chất của hơi thở, đó là bản chất chuyển động hay bản chất nâng đỡ,
chứ không phải chú tâm vào hình dáng hay tướng của hơi thở. Hãy cố gắng
quán sát hơi thở vào và hơi thở ra riêng biệt nhau, đừng nhập chung.
Ðừng để tâm chạy theo hơi thở vào trong cơ thể hay hơi thở ra khỏi
cơ thể. Tâm bạn đóng vai trò của người gác cửa, chỉ ghi nhận kẻ ra
người vào mà thôi. Ðừng cố gắng thúc ép hay điều khiển hơi thở.
Hãy bình thản, thoải mái ghi nhận và theo dõi hơi thở. Bạn có thể
niệm thầm khi chú tâm theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra.
Khi thở vào bạn niệm "vào" và khi thở ra
bạn niệm "ra". Bạn chỉ thuần chú tâm ghi nhận hơi thở mà đừng
để ý gì đến những quấy nhiễu hay đề mục phụ đang ảnh
hưởng đến sự định tâm của bạn. Nếu thấy sự niệm thầm hổ trợ
cho việc định tâm của bạn thì bạn nên làm. Nếu thấy sự niệm
thầm gây trở ngại cho sự tập trung tâm ý thì đừng niệm mà chỉ chánh
niệm ghi nhận là đủ. Khi tâm bạn chỉ an trú trên đề mục hơi thở mà
không bị phóng tâm thì đó là điều rất tốt đẹp.
Tuy nhiên, tâm có khuynh hướng phóng đi nơi khác. Khi
bị phóng tâm hay vọng tâm, bạn phải ý thức điều đó, phải ghi
nhận sự phóng tâm hay vọng tâm này. Khi phóng tâm, bạn có thể
niệm thầm: "phóng tâm, phóng tâm, phóng tâm", rồi trở về lại
với đề mục hơi thở. Khi có một vật gì hay một người nào hiện ra
trong tư tưởng bạn thì bạn hãy thuần ghi nhận sự thấy này hoặc có thể
vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "thấy, thấy, thấy", rồi trở về
lại với đề mục hơi thở. Khi bạn nghe người nào đang nói chuyện trong
tâm bạn thì bạn cũng ghi nhận thuần sự nghe này hoặc có thể vừa nghe vừa
niệm thầm: "nghe, nghe, nghe", rồi trở về lại với đề mục
hơi thở. Nếu bạn nói chuyện với người nào trong tâm mình hay tự nói
với mình cũng phải thuần ghi nhận sự nói này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm
thầm: "nói, nói, nói", rồi trở về lại với đề mục hơi thở.
Khi bạn phân tích điều gì, hãy thuần ghi nhận sự phân tích này hoặc vừa
ghi nhận vừa niệm thầm: "phân tích, phân tích, phân tích". Khi
bạn phán đoán hãy thuần ghi nhận sự phán đoán này hoặc vừa ghi nhận vừa
niệm thầm: "phán đoán, phán đoán, phán đoán", rồi trở về
lại với đề mục hơi thở. Khi bạn nhớ điều gì trong quá khứ, hãy
thuần ghi nhận sự nhớ này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "nhớ,
nhớ, nhớ", rồi trở về lại với đề mục hơi thở. Nếu bạn suy
nghĩ đến tương lai, sắp đặt hay dự trù điều gì, hãy thuần ghi nhận
hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "dự trù, dự trù, dự trù", rồi
trở về với hơi thở. Nếu bạn cảm thấy làm biếng, hãy thuần ghi
nhận sự làm biếng này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "làm
biếng, làm biếng, làm biếng", rồi trở về lại với đề
mục hơi thở. Nếu bạn cảm thấy chán nản, hãy thuần ghi nhận sự chán nản
này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "chán nản, chán nản, chán
nản", rồi trở về lại với đề mục hơi thở. Nếu bạn cảm thấy
phản kháng điều gì, hãy thuần ghi nhận sự phản kháng này hoặc vừa ghi
nhận vừa niệm thầm: "phản kháng, phản kháng, phản kháng", rồi
trở về lại với đề mục hơi thở. Khi có tư tưởng luyến ái hay
tham lam hãy thuần ghi nhận sự luyến ái này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm
thầm: "luyến ái, luyến ái, luyến ái", hay "tham lam,
tham lam, tham lam", rồi trở về lại với đề mục hơi thở. Nếu
bạn cảm thấy nóng giận, hãy thuần ghi nhận sự nóng giận này hoặc vừa ghi
nhận vừa niệm thầm: "nóng giận, nóng giận, nóng giận", rồi trở
về lại với đề mục hơi thở.
Nếu muốn nuốt nước bọt, hãy thuần ghi nhận
ý muốn này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "muốn, muốn,
muốn". Khi dồn nước miếng trước khi nuốt, hãy thuần ghi nhận sự dồn
này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "dồn, dồn, dồn". Khi nuốt
nước bọt hãy thuần ghi nhận sự nuốt này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm
thầm: "nuốt, nuốt, nuốt", rồi trở về lại với đề mục hơi
thở.
Nếu có cảm giác ngứa ngáy thì đừng gãi ngay mà
hãy chú tâm vào nơi ngứa và thuần ghi nhận sự ngứa này hoặc vừa ghi nhận
vừa niệm thầm: "ngứa, ngứa, ngứa". Thường thì chẳng bao lâu sau
sự ngứa sẽ biến mất. Khi hết ngứa hãy trở về lại với đề mục
hơi thở. Ðôi lúc sự ngứa không biến mất mà càng gia tăng thì hãy chú
tâm vào chỗ ngứa ghi nhận sự ngứa, ý thức sự ngứa, cố gắng quan sát
sự ngứa càng lâu càng tốt. Nếu bạn cảm thấy không thể nào chịu
đựng được nữa thì bạn có thể gãi. Tuy nhiên, trước khi gãi phải ghi
nhận ý định hay ý muốn gãi. Khi đưa tay đến chỗ ngứa bạn
phải ghi nhận sự chuyển động này. Hãy di chuyển tay một cách chậm rãi
và theo dõi chuyển động trong chánh niệm.
Khi những ngón tay của bạn đụng vào chỗ ngứa, hãy
thuần ghi nhận sự đụng này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "đụng,
đụng, đụng". Khi gãi, hãy thuần ghi nhận sự gãi này hoặc vừa ghi nhận
vừa niệm thầm: "gãi, gãi, gãi". Khi đưa tay về, hãy thuần ghi
nhận sự đưa này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "đưa tay về,
đưa tay về, đưa tay về". Khi bàn tay đụng vào chân, vào đầu
gối hay tay kia, hãy thuần ghi nhận sự đụng này hoặc vừa ghi nhận vừa
niệm thầm: "đụng, đụng, đụng", rồi trở về lại với đề
mục hơi thở.
Nếu cảm thấy tê, đau, cứng, nóng... trên cơ
thể, hãy chú tâm vào chỗ có những cảm giác này và chánh niệm ghi
nhận. Nếu cảm thấy đau ở một nơi nào đó trên cơ thể, hãy thuần ghi
nhận sự đau này hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: "đau, đau,
đau". Cảm giác đau nhức rất khó biến mất, bởi vậy bạn phải kiên
nhẫn và tiếp tục chú tâm ghi nhận. Ðau nhức có thể biến mất hay
càng trầm trọng hơn. Hãy chịu đựng với sự đau càng lâu càng tốt. Ðau
nhức là một đề mục mạnh mẽ và thuận lợi cho việc hành thiền bởi
vì tâm có khuynh hướng bị kéo đến nơi đau nhức. Do đó, hãy nỗ lực
chú tâm ghi nhận mọi sự đau nhức và cố gắng ý thức rằng đây là
đề mục mạnh mẽ nhất trong các đề mục về cảm giác. Ðừng đồng
hóa sự đau với chính mình. Ðừng nghĩ: "Ðây là cái đau của tôi"
hay "tôi cảm thấy đau". Cũng đừng nghĩ "đây không phải là cái
đau của tôi". Thiền sinh chỉ ghi nhận có sự đau nhức hoặc cảm giác
đau đớn mà thôi chứ không có ai đau cả. Nếu đau nhức quá mãnh liệt
và bạn nghĩ rằng mình không thể chịu đựng nỗi thì bạn có thể
bỏ hẳn sự đau nhức và trở về lại với đề mục hơi thở của mình.
Bạn cũng có thể di chuyển hay thay đổi tư thế để bớt đau,
nhưng trước khi di chuyển hay thay đổi tư thế bạn phải ghi nhận ý
định thay đổi, rồi thay đổi từ từ từng động tác một, theo dõi các tác
động một cách chánh niệm. Sau khi đã thay đổi xong hãy trở về lại
với đề mục hơi thở.
Như thế, hơi thở là đề mục chính trong
việc hành thiền của bạn. Khi không có đề mục lạ chen vào thì bạn
hãy tiếp tục ghi nhận hơi thở. Khi có đề mục phụ nổi bật xuất
hiện, hãy ghi nhận, ý thức, quán sát đề mục này rồi trở về
lại với đề mục chính là hơi thở. Ðừng thúc ép, dồn nén mình, hãy
quán sát đối tượng một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Hãy chú tâm chánh
niệm ghi nhận hơi thở. Ðừng cố gắng xua đuổi vọng tâm, đừng cố
gắng loại trừ những cảm giác hay cảm xúc; chỉ thuần theo dõi, quán sát chúng
và để chúng tự ra đi.
Một số người không thích hợp với đề mục hơi thở
vì không thể chú tâm hoặc cảm thấy khó khăn ghi nhận hơi thở ra vào thì
có thể chọn chuyển động "phồng xẹp" của bụng làm đề
mục chính. Chú tâm vào bụng và ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng
từ lúc khởi đầu cho đến khi chấm dứt. Nếu không thấy được sự
phồng xẹp, bạn có thể đặt tay lên bụng để cảm nhận sự chuyển
động. Sau một vài lần làm như thế, bạn có thể theo dõi được
chuyển động phồng xẹp mà không cần đặt tay lên bụng nữa.
Tóm lại, bạn có thể chọn hơi thở hoặc
chuyển động của bụng làm đề mục chính cho việc hành thiền.
Nếu là thiền sinh mới bắt đầu thực tập, bạn có thể thử mỗi
phương pháp trong một thời gian và xem phương pháp nào thích hợp và đễ
dàng giúp cho mình định tâm thì hãy chọn phương pháp đó. Một khi đã
chọn xong, hãy nỗ lực tinh tấn theo dõi đề mục đó. Ðiều
đáng ghi nhớ là hãy tham khảo với thiền sư trong việc lựa chọn
đề mục chính cũng như nhờ thiền sư hướng dẫn trong việc thực
tập để cho sự hành thiền đạt được kết quả tốt đẹp.
Trong khi hành thiền, bạn đừng kỳ vọng hay mong
ngóng điều gì; đừng cầu mong mình sẽ thấy hay đạt được những gì thật
kỳ diệu hoặc lạ lùng. Mong cầu là một hình thức vi tế của tham ái,
dính mắc. Ðó là một chướng ngại của sự định tâm cần phải loại trừ. Khi
có mong cầu thì chỉ cần thuần chú tâm ghi nhận hay vừa chú tâm vừa niệm
thầm: mong cầu, mong cầu, mong cầu, rồi trở về lại với đề mục chính
là hơi thở hay chuyển động phồng xẹp của bụng. Sau khi đã hành thiền
được mười phút hay nhiều hơn, bạn có thể đi kinh hành.
Thiền hành
Khi thay đổi tư thế ngồi sang tư thế đứng
để chuẩn bị đi kinh hành, bạn phải luôn luôn cố gắng giữ tâm chánh
niệm liên tục. Khi thực hành Thiền Minh Sát, điều quan trọng là
phải luôn luôn chú tâm ghi nhận với chánh niệm. Bởi vậy, trước khi đứng
dậy, bạn phải thuần chú tâm ghi nhận hay vừa chú tâm vừa niệm thầm:
"muốn, muốn, muốn". Sau đó, chú tâm vào toàn thể cơ thể, và
từ từ đứng dậy. Trong khi đứng dậy, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự đứng
dậy hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "đứng dậy, đứng dậy, đứng
dậy". Khi đã đứng dậy rồi, hãy chú tâm vào sự đứng, trong khi chú tâm
vào sự đứng bạn có thể niệm thầm: "đứng, đứng, đứng". Khi
đi kinh hành, tốt nhất nên chọn lối đi đã có sẵn, rồi đi tới đi lui
trên đó. Hãy đi một cách chậm rãi và chú tâm vào chân hay chuyển động
của chân. Nên chú tâm ghi nhận ít nhât bốn giai đoạn của mỗi bước đi.
Ðể đi một bước, trước tiên bạn phải dở chân.
Hãy chú tâm vào chân và thuần chú tâm ghi nhận sự dở chân hay vừa chú tâm
vừa niệm thầm: "dở, dở, dở". Khi chân đưa ra phía trước, hãy
ghi nhận chuyển động đưa tới, trong khi ghi nhận chuyển động bạn có
thể niệm thầm: "bước, bước, bước". Khi chân hạ xuống sàn
hay xuống mặt đất hãy ghi nhận sự hạ chân xuống này và có thể niệm
thầm: "đạp, đạp, đạp". Khi bạn chuyển sức nặng sang chân khác
để thực hiện một bước mới hãy chánh niệm ghi nhận trên toàn
thân thể và có thể niệm thầm: "chuyển, chuyển,
chuyển" (Bạn cũng có thể chú tâm vào sự ấn xuống của bàn chân
sau khi đạp xuống và có thể niệm thầm: "ấn, ấn, ấn").
Sau đó, tiếp tục thực hiện bước kế
tiếp và lần lược ghi nhận: "dở, bước, đạp, chuyển (hay
ấn)". Hãy đi một cách chậm rãi trong chánh niệm và nhìn xuống phía
trước vào khoảng hai thước. Ðừng nhắm mắt vì nhắm mắt bạn sẽ bị ngã. Mắt
mở vừa phải, nhìn vào lối đi.
Khi đi đến cuối đường kinh hành bạn đứng lại,
hãy ghi nhận sự đứng lại này và có thể niệm thầm: "đứng lại,
đứng lại, đứng lại". Khi muốn quay lui, hãy ghi nhận ý muốn quay và
có thể niệm thầm: "muốn, muốn, muốn". Sau đó quay từ từ.
Trong khi quay, hãy chú tâm chánh niệm vào chuyển động quay và có
thể niệm thầm: "quay, quay, quay". Khi bắt đầu đi trở lại,
cũng hãy ghi nhận chánh niệm từng giai đoạn một của bước đi: "dở,
bước, đạp, chuyển (ấn)", cho đến cuối đoạn đường kinh hành.
Ðứng lại, chánh niệm vào sự đứng lại. Muốn quay, chánh niệm vào
ý muốn quay. Quay, chánh niệm vào chuyển động quay, rồi tiếp
tục đi hành như trước. Khi đi, hai tay có thể nắm lại phía trước hay
phía sau. Cứ như thế, tiếp tục đi cho đến hết giờ kinh hành.
Kinh hành cũng là dịp để vận động cơ thể. Khi
tham gia một khóa thiền suốt ngày thì cơ thể cần phải được vận
động. Vì vậy, kinh hành và ngồi thiền cần phải xen kẻ nhau, sau giờ kinh
hành lại đến giờ ngồi thiền. Khi trở vào thiền đường, bạn phải
đi chậm rãi, ghi nhận từng giai đoạn một của mỗi bước đi. Trước khi
ngồi xuống, hãy ghi nhận ý muốn ngồi xuống. Sau đó ngồi xuống một cách
chậm rãi, chú tâm vào toàn thể cơ thể. Khi thân chạm vào sàn nhà
hãy thuần chú tâm ghi nhận sự xúc chạm này hay vừa chú tâm vừa niệm
thầm: "đụng, đụng, đụng". Khi xếp chân và tay hãy thuần chú
tâm ghi nhận sự xếp chân hay tay này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm:
"xếp, xếp, xếp". Sau đó, hãy ngồi thẳng thắng và chú tâm
vào hơi thở ra vào hay chuyển động của bụng. Cứ thế, bạn liên tục
ngồi thiền và đi kinh hành. Hãy cố gắng giữ tâm chánh niệm liên tục
đừng để thất niệm một giây phút nào trong suốt khóa thiền.
Chánh niệm lúc ăn
Trong khóa thiền, bạn cũng phải ăn uống trong chánh
niệm. Hãy theo dõi trong chánh niệm mọi động tác trong khi ăn. Khi
nhìn thức ăn, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự nhìn này hay vừa chú tâm vừa
niệm thầm: "nhìn, nhìn, nhìn". Khi gắp thức ăn, hãy thuần chú
tâm ghi nhận sự gắp này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "gắp gắp,
gắp". Khi đưa thức ăn lên miệng, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự đưa
này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "đưa, đưa, đưa". Khi thức
ăn đụng vào miệng, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự đụng này hay vừa chú
tâm vừa niệm thầm: "đụng, đụng, đụng". Khi ngậm thức ăn, hãy
thuần chú tâm ghi nhận sự ngậm này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm:
"ngậm, ngậm, ngậm". Khi bỏ tay xuống, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự
bỏ xuống này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "bỏ xuống, bỏ xuống, bỏ
xuống". Khi tay đụng bàn hay đĩa ăn, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự
đụng này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "đụng, đụng, đụng".
Khi nhai thức ăn, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự nhai
này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "nhai, nhai, nhai". Khi biết
mùi vị thức ăn, hãy thuần chú tâm ghi nhận sự biết này hay vừa chú tâm
vừa niệm thầm: "biết, biết, biết". Khi nuốt thức ăn,
hãy thuần chú tâm ghi nhận sự nuốt này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm:
"nuốt, nuốt, nuốt". Khi thức ăn xuống cổ họng, hãy thuần chú tâm
ghi nhận sự xuống này hay vừa chú tâm vừa niệm thầm: "xuống, xuống,
xuống". Hãy chú tâm theo dõi với chánh niệm từ lúc bắt đầu cho
đến khi ăn xong. Tất cả mọi việc khác, ngay cả những tác động
trong nhà tắm, đều phải làm trong chánh niệm.
-oOo-
Sau khi làm được điều thiện nào, bạn hãy hồi
hướng phước báu đến tất cả chúng sinh. Ðó là một việc làm tốt
đẹp. Cũng vậy, sau khi hành thiền, bạn nên hồi hướng phước báu như sau:
Chúng tôi xin hồi hướng tất cả những phước báu
mà chúng tôi đã tạo đến tất cả chúng sinh, nguyện cho tất cả
đều được an vui hạnh phúc.
Chúng tôi xin hồi hướng phước báu này đến tất cả chư thiên khắp
mọi nơi, xin tất cả đều được an vui hạnh phúc để hộ trì Phật
Pháp cho được bền vững lâu dài.
-oOo-
Chương trước
| Mục Lục | Ghi chú
Source: Như Lai Thiền Viện -
Tathagata Meditation Center, San Jose, California, U.S.A. |