Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Truyền bá Giáo Pháp
Cảm Hóa Yasa và Các Bạn Hữu Tại thành Benares có con một nhà triệu phú tên Yasa, trưởng thành trong khung cảnh dồi dào phong phú. Một buổi sáng, chàng dậy sớm hơn mọi khi, và lúc nhìn các nàng hầu thiếp nằm ngủ ngổn ngang bừa bãi thì lấy làm nhờm chán. Ấn tượng ghê tởm này luôn luôn ám ảnh chàng. Toàn thể đền đài nguy nga tráng lệ bấy giờ đối với chàng chỉ còn là một nơi tối tăm buồn bã, đầy dẫy những hình ảnh thô kịch xấu xa. Nhận thức tánh cách tạm bợ của đời sống phàm tục, Yasa trốn nhà ra đi. Chàng nói: "Thống khổ thay cho tôi! Đọa đày thay cho tôi!" và đi về phía Isipatana, nơi mà Đức Phật tạm ngự sau khi độ năm vị tỳ khưu đắc Quả A La Hán [1].
Yasa đến nơi lúc Đức Phật đang đi kinh hành. Thấy chàng từ xa đến, Đức Phật bước ra ngoài đường kinh hành và ngồi lại một nơi đã dọn sẵn. Yasa đứng cách đấy không xa, than rằng: "Thống khổ thay cho con! Đọa đày thay cho con!" Đức Phật dạy: "Nơi đây không có thống khổ, hỡi này Yasa! Nơi đây không có đọa đày, này hỡi Yasa! Hãy đến đây, Yasa! Hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ giảng Giáo Pháp cho con." Yasa lấy làm hoan hỷ được nghe những lời khuyến khích của Đức Phật. Chàng tháo đôi giày bằng vàng ra và đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ Ngài và ngồi lại một bên. Đức Phật thuyết Pháp và sau khi nghe, chàng đắc Quả Tu Đà Hườn (Nhập Lưu), tầng thứ nhất trong bốn tầng thánh. Đầu tiên, Đức Phật giải thích về hạnh bố thí (dana), giới luật (sila), những cảnh Trời (sagga), những tai hại của nhục dục ngũ trần (kamadinava), về phước báu của sự xuất gia (nekkhammanisamsa). Đến khi nhận thấy tâm của Yasa bắt đầu thuần thục và sẵn sàng lãnh hội giáo lý cao siêu, Ngài giảng về Bốn Chân Lý Thâm Diệu (Tứ Diệu Đế). Mẹ của Yasa là người đầu tiên ghi nhận sự vắng mặt của con. Bà báo cho chồng. Nhà triệu phú liền ra lệnh cho gia đinh cỡi ngựa đi tìm bốn phương và chính ông đi về hướng Isipatana. Khi nhận ra dấu đôi giày bằng vàng của Yasa in trên đất, ông phăng lần đến nơi Đức Phật. Thấy ông từ xa đến, Đức Phật dùng thần thông không cho ông nhận ra con. Nhà triệu phú đến gần Đức Phật và cung kính hỏi thăm Ngài có thấy con ông không? Đức Phật bảo: "Hãy ngồi lại đây. Con sẽ được gặp mặt con của con". Nghe vậy, ông triệu phú lấy làm mừng rỡ, vâng lời ngồi xuống. Đức Phật giảng cho ông một thời Pháp. Ông rất hoan hỷ bạch: "Lành Thay! Lành thay! Bạch hóa Đức Thế Tôn, cũng tựa hồ như có người kia dựng lại ngay ngắn một vật gì đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín, hay vạch đường chỉ lối cho người lạc bước, hay cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có thể trông thấy, Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn giảng dạy bằng nhiều phương thức cũng dường thế ấy. Bạch Đức Thế Tôn, con xin quy y Phật, Pháp và Tăng. Xin Đức Thế Tôn thâu nhận con vào hàng thiện tín. Xin Ngài cho phép con nương tựa nơi Tam Bảo, từ ngày này đến giờ phút cuối cùng của đời con." Ông là người thiện nam đầu tiên thọ lễ quy y với đầy đủ ba ngôi Tam Bảo. Khi nghe Đức Phật thuyết Pháp cho cha, Yasa đắc quả A La Hán. Vừa lúc ấy, Đức Phật thâu thần thông để nhà triệu phú nhìn thấy con. Ông lấy làm vui mừng, thỉnh Đức Phật cùng vị đệ trử về nhà trai tăng ngày hôm sau. Đức Phật chấp nhận bằng cách làm thinh. Sau khi ông triệu phú ra về, Yasa xin Đức Phật cho thọ lễ xuất gia sa di và tỳ khưu . Đức Phật truyền giới cho Yasa với những lời sau đây: "Hãy đến đây hỡi Tỳ Khưu! Giáo Pháp đã được truyền dạy đầy đủ. Hãy sống đời phạm hạnh thiêng liêng của bậc xuất gia để chấm dứt mọi đau khổ. [2]" Với Đức Yasa, tổng số các vị A La Hán lúc bấy giờ tăng lên sáu. Ngày hôm sau, Đức Phật đến nhà ông triệu phú với sáu vị đệ tử A La Hán. Hai bà -- mẹ và bà trước kia là vợ của Ngài Yasa -- đến nghe Đức Phật thuyết pháp, đắc quả Tu Đà Hườn và xin thọ lễ quy y Tam Bảo. Hai bà là những người tín nữ đầu tiên. [3] Đại Đức Yasa có bốn người bạn tên Vimala, Subahu, Punnaji và Gavampati. Khi bốn vị này đã nghe tin người bạn cao quý của mình đã cạo râu tóc và đắp y để sống đời không nhà cửa, không sự nghiệp, thì đến thăm và tỏ ý muốn noi theo gương lành ấy. Đức Yasa tiến dẫn cả bốn vào yết kiến Đức Phật, và sau khi nghe Pháp, cả bốn đều đắc Quả A La Hán. Năm mươi người bạn trứ danh khác của Đại Đức Yasa, tất cả đều thuộc về các gia đình nổi tiếng nhất trong vùng, cũng đến thính Pháp, đắc Quả A La Hán và xuất gia tỳ khưu. Trong khoảng gần hai tháng, đã có sáu mươi vị thành đạt Đạo Quả A La Hán. Tất cả sáu mươi vị đều sanh trưởng trong những gia đình danh giá nổi tiếng và đều là con ưu tú của các người cha đáng kính. Những Nhà Truyền Bá Chân Lý Đầu Tiên (Dhammaduta) Ít lâu sau khi tế độ sáu mươi vị đệ tử thành đạt Đạo Quả A La Hán, Đức Phật quyết định gởi các Ngài đi truyền bá Giáo Pháp mới mẻ ấy cho tất cả, không có bất luận một sự phân biệt nào. Ngài kêu gọi các vị đệ tử như sau:
Như vậy, Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên gởi các đệ tử đã chứng ngộ và đã thọ lễ xuất gia đi truyền bá giáo lý, vì lòng từ bi, vì tình thương người khác. Không có một nơi ở nhất định, một mình và không tiền của, những nhà truyền giáo đầu tiên ấy đi đây đi đó để truyền dạy Giáo Pháp. Ngoài tấm y để che thân và cái bát để trì bình khất thực độ nhật, các Ngài không còn tài sản riêng tư nào nữa. Phạm vì hoạt động thì bao la mà người hành sự thì ít, nên các Ngài luôn luôn thui thủi đi một mình. tất cả sáu mươi vị đều đã đắc Quả A La Hán, nghĩa là đã siêu thoát, đã vượt ra khỏi mọi trói buộc vật chất. Các Ngài chỉ có một trọng trách duy nhất là truyền dạy Giáo Pháp và công bố đời sống thiêng liêng phạm hạnh (brahmacariya). Chức vụ căn bản của chư vị A La Hán, những người đã thành tựu mục tiêu giải thoát, là nâng cao đời sống đạo đức của người khác bằng cách nêu gương lành trong sạch và nghiêm túc trì giới. Các tiến triển vật chất, dầu là cần thiết, không làm cho các Ngài lưu ý. Thành Lập Giáo Hội Tăng Già
Vào thuở ấy có sáu mươi vị A La Hán trên thế gian. Với nhóm người hoàn toàn trong sạch ấy làm nòng cốt, Đức Phật sáng lập "Giáo Hội của những người độc thân". Các hội viên đầu tiên là những người thuộc giai cấp lãnh đạo có học thức và cao sang nhất trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn luôn mở rộng cửa cho tất cả mọi người xứng đáng, không phân biệt giai cấp, đẳng cấp hay chủng tộc. Cả già lẫn trẻ, ở mọi tầng lớp, đều có thể được chấp nhận vào đoàn thể để chung sống trong tình huynh đệ như anh em trong một gia đình. Giáo Hội Tăng Già vẫn còn tồn tại đến ngày nay dưới hình thức một đoàn thể tu sĩ độc thân xưa nhất trong lịch sử nhân loại. Đức Phật không khuyên tất cả mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để mang bát, đắp y, trở thành tu sĩ không nhà cửa, không tài sản sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp, thích ứng với Giáo Pháp và chứng đắc các thánh Quả. Cha, mẹ, và vợ của Ngài Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu chân của Đức Phật. Tất cả ba vị đều tiến triển đầy đủ về mặt tinh thần để thành tựu Đạo Quả Tu Đà Hườn. Với sáu mươi vị A La Hán, xem như những nhà truyền giáo lý tưởng để hoằng dương Chân Lý, Đức Phật quyết định quảng bá pháp mầu đến những ai có tai vui lòng muốn nghe. Thâu Nhận Ba Mươi Thanh Niên Ơ Isipatana một ít lâu, Đức Phật ra đi về hướng Uruvela. Trên đường, một hôm Đức Phật dừng chân, ngồi dưới cội cây, trong một cụm rừng nhỏ. Cùng lúc ấy có ba mươi thanh niên vui vẻ trẻ trung cũng dắt vợ đến chơi trong cụm rừng. Một trong những người ấy không vợ nên dắt theo một người bạn gái. Trong khi ai nấy vui đùa với nhau thì cô bạn gái bỏ đi, lén đem theo các món đồ quý giá của mấy người kia. Đến lúc hay ra, cả ba mươi thanh niên cùng nhau chạy đi tìm kiếm trong rừng. Thấy Đức Phật, các người trai trẻ ấy đến gần hỏi thăm Ngài có thấy một thiếu phụ đi ngang qua đó không. Đức Phật hỏi lại: "Theo ý các con thì nên tìm một người phụ nữ hay nên tự tìm ra mình là hơn?" - Bạch Ngài tự tìm ra mình hẳn là hơn [7]. - Vậy hãy ngồi lại đây, Như Lai sẽ giảng Giáo Lý cho các con. - Chúng con xin vâng. Và tất cả đều quỳ xuống, cung kính đảnh lễ rồi ngồi lại một bên, chăm chỉ lắng nghe. Sau đó, cả ba mươi thanh niên lấy làm hoan hỷ, xin xuất gia theo Đức Phật. Cảm Hóa Ba Anh Em Kassapa (Ca Diếp)
Từ nơi này đến nơi khác, khi đi lúc nghỉ, một ngày nọ, Đức Phật đến Uruvela. Ơủ đây có ba anh em nhà tu sĩ khổ hạnh (jatila) để tóc dài và thắt lại thành bím, tên là Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Ba anh em sống mỗi người một nơi. Người anh cả có năm trăm đệ tử, anh giữa ba trăm và người em út hai trăm. Riêng người anh cả tin tưởng mãnh liệt vào sự thành công tinh thần của mình, và cho rằng mình đã đắc Quả A La Hán. Đức Phật đến viếng các vị này trước nhất và xin an ngụ qua đêm trong cái phòng thờ Thần Lửa của ông. Trong phòng ấy có một con rắn chúa dữ tộn. Đức Phật dùng thần thông khắc phục rắn. Uruvela Kassapa thấy vậy thì mừng rỡ, thỉnh Đức Phật ở lâu thêm như một vị thượng khách. Nhiều lần khác nhau Đức Phật dùng thần thông để thâu phục, nhưng ông vẫn tin tưởng rằng Đức Phật chưa đắc Quả A La Hán như ông. Sau cùng, khi hiểu rõ rằng ông chưa đạt đến tầng cao thượng ấy và chính Đức Phật đã đắc Đạo Quả A La Hán, ông xin quy y, rồi xuất gia , cùng với tất cả các đệ tử của ông. Hai người em và các đệ tử cũng noi theo gương ấy. Cùng với ba anh em Ngài Kassapa và 1000 đệ tử của ba vị ấy, Đức Phật lần hồi đến Gaya Sisa, cách Uruvela không xa, nơi đây Đức Phật giảng bài kinh Aditta-pariyaya Sutta, "Tất cả đều bị thiêu đốt", và cả ba anh em Ngài Kassapa đều chứng đắc Đạo Quả A La Hán. -oOo- Aditta Pariyaya Sutta, Tất
cả đều bị thiêu đốt, này hỡi các Tỳ Khưu! Hỡi này các
Tỳ Khưu! Tất cả đều bị thiêu đốt là như thế nào?
"Mắt (nhãn căn) nằm trong lửa, hình sắc (nhãn
trần) nằm trong lửa, sự thấy (nhãn thức) nằm trong lửa.
Cảm giác (thọ), dầu vui sướng hay đau khổ hay không-vui-sướng,
không-đau-khổ, phát sanh do nhãn xúc, đều nằm trong lửa.
Lửa ấy bắt nguồn từ đâu? Từ những ngọn lửa tham ái,
sân hận, si mê, sanh, bệnh, tử, phiền muộn, ta thán, đau
khổ, âu sầu, và thất vọng. Như Lai tuyên bố như vậy. "Hãy quán tưởng điều này, hỡi các Tỳ Khưu, người
đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân sẽ nhàm chán
với nhãn quan, nhãn trần, nhãn xúc, nhãn thức, dầu thọ
cảm có như thế nào chăng nữa -- vui sướng, đau khổ, hay
không-vui-sướng không-đau-khổ -- phát sanh do nhãn xúc. Người
đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân sẽ nhàm chán
với tai, âm thanh, mũi, hương, lưỡi, vị, thân, xúc, tâm,
ý, tâm thức, tâm xúc, bất luận cảm giác nào -- vui sướng,
đau khổ, hay không-vui-sướng không đau-khổ -- phát sanh do
sự tiếp xúc với tâm. "Vì nhàm chán, người đệ tử thuần thành của bậc
Thánh Nhân dứt khoát buông xả mọi luyến ái, và do sự buông
xả ấy, hoàn toàn siêu thoát. Từ đó, hành giả biết không
còn tái sanh nữa, đã viên mãn sống đời thiêng liêng
phạm hạnh của bậc Thánh Nhân, đã làm những việc cần
phải làm, và không bao giờ còn trở lại trạng thái ấy
nữa". Khi Đức Phật kết luận bài Pháp, tất cả các vị tỳ
khưu đều đắc Quả A La Hán, tận diệt mọi ô nhiễm. -oOo- Cảm hóa Đức Sariputta (Xá Lợi Phất)
và Đức Moggallana (Mục Kiền Liên) Cách thành Rajagaha (Vương Xá) không xa, trong làng Upatissa -
làng này cũng có tên là Nalaka, có một thanh niên thông minh
xuất chúng, tên Sariputta (Xá Lợi Phất), con của bà Sari. Vì Sariputta (Xá Lợi Phất) sanh trưởng trong gia đình cao
sang quyền quý nhất trong làng nên người trong vùng ấy
gọi chàng là Upatissa. Mặc dầu hấp thụ truyền thống Bà La Môn Giáo, Upatissa
sớm có một quan điểm rộng rãi về đời sống. Trí tuệ
cao minh và thuần thục thúc giục chàng từ bỏ tôn giáo
của ông cha để theo giáo lý quảng đại và thuần lý hơn
của Đức Phật Gotama (Cồ Đàm). Cha chàng Vanganta, hình như
vẫn giữ đức tin trong Bà La Môn Giáo. Mẹ chàng không
bằng lòng thay đổi tín ngưỡng -- nhưng về sau, lúc gần lâm
chung, chính Đức Xá Lợi Phất dẫn dắt bà quy y theo Phật
Giáo. Upatissa trưởng thành trong cảnh giàu sang sung túc. Chàng có
một người bạn chí thân tại Kolita thường được gọi là
Moggallana (Mục Kiền Liên). Hai người vốn đã có mối liên
hệ mật thiết trong nhiều kiếp sống quá khứ xa xôi. Ngày
kia, trong khi cùng vui chơi trên một đỉnh đồi, cả hai đều
nhận thức rằng tất cả những thú vui vật chất đều
nhất thời, tạm bợ và vô ích. Cùng một lúc, hai người
bạn thân đồng quyết định từ bỏ thế gian để tìm con
đường thoát khổ. Và cả hai lang thang đó đây để tìm
vắng lặng. Trên đường đi tìm chân lý, hai chàng thanh niên
đến yết kiến đầu tiên Đạo Sĩ Sanjaya, lúc ấy có rất
đông đệ tử và xin thọ giáo. Không bao lâu, hai người đã lãnh hội tất cả giáo lý
của thầy và cảm thấy những hiểu biết ấy thật là
mỏng manh, hạn hẹp. Không thỏa mãn, vì giáo lý này không
chữa được chứng bệnh trầm kha của nhân loại, hai người
lại ra đi, rày đây mai đó, tìm vắng lặng. Hai người đi đến nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn trứ
danh, nhưng ở đâu cũng gặp toàn thất vọng. Sau cùng, cả
hai đành trở về nhà và trước khi chia tay, hứa với nhau
rằng người nào tìm ra trước Con Đường, sẽ cho người
kia biết. Cùng lúc ấy, Đức Phật gởi sáu mươi vị đệ tử đi
truyền bá Giáo Pháp tốt đẹp cho thế gian. Chính Đức
Phật bổn thân đi về phía Uruvela và Đức Assaji, một trong
năm vị đệ tử đầu tiên, đi về hướng thành Rajagaha (Vương
Xá). Đến đây nghiệp tốt của hai chàng thanh niên dốc lòng
tìm đạo đã hợp đủ duyên lành để trổ sanh. Upatissa đang
đi trong thành Rajagaha (Vương Xá) thì bỗng nhiên nhìn thấy
một vị tu sĩ y bát trang nghiêm, tướng đi từ tốn, mắt
nhìn xuống độ vài thước phía trước chân, gương mặt
trầm tĩnh thong dong, biểu lộ trạng thái vắng lặng thâm sâu
bên trong. Vị đại đức khả kính nọ khoan thai đi từ nhà này
sang nhà khác, nhận lãnh chút ít vật thực mà lòng quảng
đại trong dân gian vui lòng đặt vào bát. Cốt cách siêu phàm
của vị chân tu khiến Upatissa tò mò để ý. Chàng nghĩ
thầm, "Chưa khi nào ta gặp được một vị đạo sĩ như
thế này. Chắc chắn Ngài là một trong những vị đã đắc
Quả A La Hán, hay ít ra cũng là một trong những vị đang đi
trên con đường dẫn đến Đạo Quả A La Hán. Ta hãy đến
gần hỏi Ngài vì sao Ngài thoát ly thế tục? Thầy của Ngài
là ai? Ngài truyền bá giáo lý của ai?" Tuy nhiên, thấy Đức Assaji đang yên lặng đi trì bình,
Upatissa không dám làm rộn. Khi vị A La Hán Assaji đi bát xong, tìm một nơi thích hợp
để ngồi lại thọ thực. Upatissa lấy làm mừng rỡ, chụp
lấy cơ hội, cung kính dâng đến Ngài một cái chén mà chàng
đã đem theo để dùng, và rót vào một ít nước. Thực hàng
xong bổn phận khiêm tốn sơ khởi của người đệ tử, chàng
thành kính bạch: "Kính bạch Đại đức, ngũ quan của Ngài thật là bình
thản và an tĩnh. Nước da của Ngài thật là sáng sủa và
trong trẻo. Xin Ngài hoan hỷ dạy con, vì mục đích nào Ngài
thoát ly thế tục? Ai là vị tôn sư của Ngài? Ngài truyền
bá giáo lý của ai?" Vì A La Hán khiêm tốn trả lời -- và đây là đặc điểm
của các bậc vĩ nhân: "Này Đạo Hữu, bần tăng chỉ là một tu sĩ sơ cơ.
Bần tăng không có đủ khả năng để giảng giải Giáo Pháp
một cách dong dài và rành rẽ." - Kính bạch Đại Đức, con là Upatissa, xin Đại Đức
hoan hỷ chỉ giáo ít nhiều, con sẽ cố gắng tự tìm hiểu
giáo lý bằng trăm ngàn cách. Và chàng nói tiếp: "Xin Ngài hoan hỷ chỉ dạy, nhiều hay ít cũng được.
Xin Ngài dạy cho điểm thiết yếu. Con xin Ngài dạy cho đại
lược. Chỉ một vài tiếng tóm tắt ngắn gọn." Đức Assaji liền đọc lên bốn câu kệ tóm tắt phần
triết lý cao siêu sâu sắc của Đấng Tôn Sư về chân lý
của định luật nhân quả: Ye dhammà hetuppabhavà - Về các Pháp phát sanh do một nhân. Trí tuệ của Upatissa lúc bấy giờ đã đủ thuần thục
để thấu triệt những chân lý sâu xa, dầu chân lý ấy
chỉ được gợi ra một cách vắn tắt. Ngài chỉ cần một
tia ánh sáng, và Đức Assaji đọc lên bốn câu kệ thật khéo
léo, đưa Ngài ngay vào Con Đường. Khi nghe hai câu đầu,
Upatissa đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti). Vị đệ tử mới nhập môn chắc chắn là hết sức
thỏa thích và hết lời cảm tạ ông thầy khả kính đã
khai thông trí tuệ mình trong giáo lý trác tuyệt cao siêu
của Đức Phật. Upatissa của được nghe Đức Assaji thuật lại các đặc
điểm của Đức Phật. Từ đó về sau, tâm đạo của Ngài càng tăng trưởng và
lòng tri ân đối với Đức Assaji càng sâu sắc. Mỗi khi
được nghe Đức Assaji ở nơi nào thì Ngài quay về hướng
ấy, chắp tay đảnh lễ, và lúc ngủ luôn luôn quay đầu
về hướng ấy. Bấy giờ, đúng theo lời cam kết, Upatissa trở về báo
tin lành cho bạn Kolita, vốn cũng là bậc trí tuệ. Khi nghe
xong bốn câu kệ, ông cũng đắc Quả Tu Đà Hườn. Lòng
mừng khấp khởi, hai người bạn lành đi tìm thầy cũ là
đạo sĩ Sanjaya để thuật lại kết quả tốt đẹp mà hai
vị đã thành đạt và để dâng lên thầy một niềm tin
mới. Hai Ngài thất bại vì đạo sĩ Sanjaya từ chối. Nhưng
nhiều đệ tử của Thầy sẵn sàng cùng theo hai Ngài đến
Veluvana (Trúc Lâm Tịnh Xá), thọ giáo với Đức Phật. Do lời thỉnh cầu của hai vị, Đức Phật chấp nhận
cả hai vào hàng môn đệ với lời gọi: "-Etha
Bhikkhave! - Hãy lại đây, Tỳ Khưu!". Nửa tháng sau, khi nghe Đức Phật thuyết kinh Vedana
Pariggaha Sutta cho đạo sĩ du phương Dighanakha, Đức Sariputta
(Xá Lợi Phất) đắc Quả A La Hán. Chiều ngày hôm ấy, Đức
Phật triệu tập tất cả các đệ tử đến quanh Ngài để
tấn phong hai vị, Đại Đức Upatissa (Sariputta, Xá Lợi
Phất) và Kolita (Moggallana, Mục Kiền Liên), cũng đắc Quả
A La Hán một tuần trước đó, làm đệ nhất và đệ nhị
đệ tử trong Giáo Hội Tăng Già. Chú thích: [1] Lúc ấy nhằm ngày thứ năm sau khi Đức Phật Chuyển
Pháp Luân. [2] Xuất gia Sa-di, Pabbajja - đúng theo ngữ nguyên, là đi
tới, hay từ khước. Ở đây chỉ có nghĩa là được chấp
nhận vào hàng xuất gia bằng cách quy y Phật, Pháp, Tăng.
Xuất gia Tỳ Khưu, Upasampada, cụ túc giới, hay tỳ khưu
giới, là đầy đủ giới hạnh. [3] Upasaka = thiện nam, Upasika = tín nữ, đúng theo ngữ
nguyên, là người có liên quan mật thiết đến Tam Bảo.
Upasaka và Upasika là cận thị nam và cận thị nữ, hay người
đàn ông và đàn bà cư sĩ, đi theo con đường của Đức
Phật. Người ta trở nên thiện nam hay tín nữ sau khi đọc
ba câu kinh quy y: Buddham Saranam Gacchami - Con xin quy y Phật. [4] Mahavagga, trang 19 - 20 [5] Nên ghi nhận danh từ "chư Thiên", các vị
Trời (Deva) [6] Phạn ngữ Brahmacariya ở đây không có gì liên quan đến
một vị Thần Linh hay Phạm Thiên, mà có nghĩa là cao quý,
thiêng liêng. Công bố đời sống cao thượng có nghĩa là
ban hành lễ xuất gia. [7] Tự tìm ra mình: tức nhìn vào bên trong mình. Tìm
hiểu thực tướng của chính mình. Câu này có nhiều ý nghĩa
lý thú. Attanam là một thể của danh từ Atta nghĩa là
"ta", "bản ngã". Ở đây, Đức Phật không
đề cập đến một linh hồn như một vài học giả cố
giải thích như vậy. Có thể nào Đức Phật xác nhận một
linh hồn, khi mà Ngài rõ ràng và minh bạch phủ nhận trong bài
Pháp thứ nhì?
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |