Mục Lục
Lời Tri Ân
Lời Tựa
Tiểu sử Đại đức Narada (I)
Tiểu sử Đại đức Narada (II)
Lời Mở Đầu
Phần I - Đức Phật
[01] Từ Đản sanh đến Xuất gia
[02] Chiến đấu để thành đạt Đạo
Quả
[03] Đạo Quả Phật
[04] Sau khi Thành Đạo
[05] Cung thỉnh Đức Phật truyền bá
Giáo Pháp
[06] Kinh Chuyển Pháp Luân - Bài Pháp
đầu tiên
[07] Truyền bá Giáo Pháp
[08] Đức Phật và Thân quyến (I)
[09] Đức Phật và Thân quyến (II)
[10] Những người Chống Đối và những
vị Đại Thí Chủ
[11] Những Đại Thí Chủ trong hàng
vua chúa
[12] Con Đường Hoằng Pháp
[13] Đời sống hằng ngày của Đức
Phật
[14] Đức Phật nhập Đại Niết Bàn
Phần II - Phật Pháp
[15] Phật Giáo là gì?
[16] Vài đặc điểm của Phật Giáo
[17] Bốn Chân lý Thâm diệu, hay Tứ
Diệu Đế
[18] Nghiệp báo
[19] Nghiệp là gì?
[20] Sự báo ứng của Nghiệp
[21] Tính chất của Nghiệp
[22] Khởi thủy của đời sống là
gì?
[23] Đức Phật và vấn đề Thần
Linh Tạo Hóa
[24] Do đâu tin có tái sanh
[25] Thập Nhị Nhân Duyên
[26] Những hình thức Sanh và Tử
[27] Những cảnh giới
[28] Hiện tượng Tử Sanh
[29] Cái gì đi tái sanh? - Lý Vô Ngã
[30] Trách nhiệm tinh thần
[31] Nghiệp chuyển lên và Nghiệp
chuyển xuống
[32] Nghiệp báo và Tái sanh với người
phương Tây
[33] Niết Bàn
[34] Đặc tánh của Niết Bàn
[35] Con đường Niết Bàn (I)
[36] Con đường Niết Bàn (II)
[37] Chướng ngại tinh thần
[38] Con đường Niết Bàn (III)
[39] Phẩm hạnh A-la-hán
[40] Lý tưởng của Bồ Tát hay Bồ
Tát Đạo
[41] Ba-la-mật
[42] Tứ Vô Lượng Tâm
[43] Tám Pháp Thế Gian
[44] Những vấn đề của kiếp Nhân
sinh
Phụ bản:
[A] Kinh Hạnh Phúc
[B] Kinh Suy Đồi
[C] Kinh Cùng Đinh
[D] Kinh Tam Bảo
[E] Kinh Từ Bi
[F] Kinh Tứ Niệm Xứ
[G] Vài
nét về Dịch giả, Cư sĩ Phạm Kim Khánh
|
Tri ân
Bản dịch quyển "The Buddha and His Teachings --
Đức Phật và Phật Pháp" được tu chỉnh và bổ túc lần thứ ba theo
bản Anh ngữ cuối cùng của Ngài Narada, xuất bản năm 1980, vừa được hoàn
tất.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ toàn thể quý
liệt vị từ khắp nơi đã hoan hỷ đóng góp vào công trình ấn hành nầy.
Đây là công đức chung của tất cả chúng ta.
Đức Phật dạy:
"Bố thí Giáo Pháp là cao thượng hơn tất
cả bố thí.
Hương vị của Giáo Pháp cao thượng hơn tất cả hương vị.
Hoan hỷ trong Giáo Pháp cao thượng hơn tất cả hoan hỷ.
Người đã tận diệt ái dục vượt khỏi mọi đau khổ." -- Kinh Pháp
Cú, câu 354
Chúng tôi xin cùng với quý vị thành tâm kính
dâng quả phúc thanh cao của pháp thí nầy đến:
- Các bậc Thầy Tổ, từ ngàn xưa đã bước
theo dấu chân của Đức Bổn Sư, bảo tồn Giáo Pháp và trao truyền nguyên
vẹn đến chúng ta;
- Các bậc Tiền Bối đã dày công hộ trì Tam Bảo,
giúp cho Giáo Pháp được truyền thừa đến ngày nay;
- Tất cả chư Phạm Thiên, chư Thiên và chư vị
Long Vương cùng khắp mười phương thế giới;
- Các đấng ông bà, cha mẹ, cữu huyền thất tổ
của toàn thế chúng ta, còn tại tiền hay đã quá vãng;
- Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài;
Ngưỡng nguyện tất cả đều an
lành, hạnh phúc trong Chánh Pháp.
Chùa
Kỳ Viên
1400 Madison St, N.W.
Washington D.C. - 20011
U.S.A. |
Thích Ca Thiền Viện
15950 Winters Lane
Riverside. - CA 92504
U.S.A. |
-oOo-
Chân thành cám ơn anh Hứa Dân Cường và các
thiện hữu đã phát tâm giúp tổ chức đánh máy vi tính và gửi tặng
phiên bản điện tử (Bình Anson, tháng 4-2000).
Lời Tựa
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức
Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát
tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam.
Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã
dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục
đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật
và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận.
Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được
yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần.
Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách
tinh thần và đạo đức.
Giữa hoàn cảnh một nước Việt Nam đang trải
qua giai đoạn cực kỳ đau thương do chiến tranh gây nên, dịch giả đã cố
gắng nhen nhúm thì giờ và lắng tâm thanh tịnh để thực hiện công tác từ
ái này với lòng ước mong quảng bá giáo huấn của Đức Thượng Sư trên
đất Việt. Đó là việc làm đáng được ngợi khen. Do oai lực của Pháp
thí này, xin chú nguyện hoà bình sớm vãn hồi trên toàn cõi Việt Nam.
Thưa quý vị đạo hữu, quý vị được kể là
hàng Phật tử trung kiên và thuần thành không kém bất luận dân tộc nào
trong các dân tộc theo Phật Giáo. Lòng dũng cảm của quý vị trước bao
nhiêu nghịch cảnh đáng được tán tụng. Mặc dầu tâm đạo rất nhiệt
thành, là hạng người trí thức, quý vị luôn luôn dùng trí phán xét, suy
luận trước khi chấp nhận điều gì.
Xin quý vị ghi nhớ, cũng như nhiều dân tộc Phật
giáo khác ở Á Châu, dân tộc Việt Nam đã trưởng thành trong tổ ấm của
Phật Giáo, di sản tinh thần vô giá của quý vị.
Dầu theo Bắc Tông hay Nam Tông, tất cả quý vị
đều là giáo đồ nhiệt thành, là đàn con chung của Đức Từ Phụ Gotama.
Giáo lý duy nhất của Ngài căn cứ trên Tứ Diệu Đế, hay Bốn Chân Lý
Thâm Diệu căn bản, là điều mà không có người Phật tử nào bị cưỡng
bách phải mù quáng tin theo.
Bổn phận của tất cả những người Phật tử
Việt Nam là học Phật Pháp và điều hoà tác hành Phật sự, nhằm vào lợi
ích cho quốc gia Việt Nam.
Quả thật người Phật tử Bắc Tông đặt trọng
tâm vào sứ mạng phục vụ, còn Nam Tông thì chú tâm vào việc hành thiền.
Tuy nhiên, trong khi để ra vài phút hành thiền ta cũng có thể tìm cơ hội
phục vụ. Và trong khi phục vụ một cách vị tha, bất cầu lợi, ta cũng có
thể dùng đủ thì giờ thích đáng để ngồi lại tịnh tâm, mưu tìm tiến
bộ tinh thần. Cả hai đặc tánh chánh yếu này của Phật Pháp - phục vụ
và hành thiền - có thể dung hoà và phối hợp dễ dàng.
Nếu được sống thanh bình và hoà đồng trong công
tác Phật sự, chắc chắn quý vị sẽ đạt được nhiều tiến bộ, về
phương diện vật chất cũng như về phương diện tinh thần đạo đức.
Như thế, quý vị sẽ góp mặt xứng đáng cùng với những quốc gia tân tiến
khác.
Nước Việt Nam tương đối bé nhỏ, nhưng người
Việt Nam dũng cảm, cần mẫn, tinh xảo, đủ trí năng và đạo hạnh. Chia
rẽ, quý vị sẽ yếu dần. Đoàn kết, quý vị sẽ mạnh lên.
"Samagga hotha" - Hãy đoàn kết lại - là
lời kêu gọi thiết tha của Đức Phật.
Được một vị Phật ra đời là
hy hữu!
Được một giáo lý cao minh là hy hữu!
Được tái sanh làm người là hy hữu!
Đời sống mặc dầu quý, quả thật là bấp
bênh, vô định. Cái chết, trái lại, là điều không thể cưỡng, và nó sẽ
đến, chắc như thế. Vậy, quý vị hãy sử dụng xứng đáng khoảng thời
gian ngắn ngủi của kiếp sống này, cố gắng trở thành nguồn hạnh phúc
cho chính mình, cho quê hương mình và cho toàn thể nhân loại.
Phục vụ để trở nên hoàn toàn. Hoàn toàn để
phục vụ.
Với từ bi,
Narada
Phật Đản, 1970
Tiểu Sử Đại Đức Narada
Đại Đức Narada Maha Thera, người Tích-Lan, lúc
thiếu thời theo học trường St Benedicts College, là một trường Thiên Chúa
Giáo. Vào năm mười tám tuổi, Ngài xuất gia và nhập chúng dưới sự dẫn
dắt của vị Đại Lão Tăng Pelene Vajiranyana. Chính ở dưới chân của vị
cao tăng lỗi lạc này mà Đại Đức Narada được đào luyện châu đáo và
thấm nhuần Giáo Pháp.
Kế đó, Ngài vào Đại Học Đường Tích Lan và
về sau được bổ làm giảng sư về môn Đạo Đức Học và Triết Học tại
Đại Học này.
Đại Đức Narada nổi tiếng về kiến thức sâu
rộng, nhất là về đạo hạnh và từ bi.
Ngài là tác giả của nhiều quyển sách Phật
giáo cô giá trị: Quyển "The Manual of Abhidhamma" (Khái luận về Vi
Diệu Pháp) là bản dịch ra Anh văn phần uyên thâm nhất của giáo lý nhà
Phật. Quyển "Dhammapada" (Kinh Pháp Cú) cũng được Ngài phiên dịch
ra Anh văn và chú giải. Còn quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức
Phật và Phật Pháp) là một tác phẩm xuất sắc của tác giả. Riêng quyển
sau cùng này có thể được xem là sách căn bản cho những ai muốn tìm hiểu
Phật giáo.
Đại Đức Narada đã nhiều lần đi vòng quanh thế
giới với mục đích hoằng khai Phật Pháp. Ở nhiều nơi, Ngài nói lên tiếng
nói trung thực của Giáo Pháp, tức là lời dạy rõ ràng và minh bạch của
Đức Phật. Ngài có thể được liệt vào hàng sứ giả tiền phong của đạo
Phật, mở đường dọn lối cho những sứ giả khác.
Đại Đức Narada cũng là người sáng lập ra nhiều
Trung Tâm và Hiệp Hội Phật Giáo ở Đông cũng như ở Tây Phương.
Ngài là Tăng Trưởng chùa Vajirarama ở Tích Lan
(Sri Lanka) và là một Pháp sư nổi tiếng khắp nơi, chí đến trong chốn bình
dân.
Đại đức Hoà thượng
Piyadassi Maha Thera
Hòa thượng Narada
(1898-1983)
 |
Hòa thượng Narada (Narada Maha Thera) có
thế danh là Sumanapala. Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại
ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka). Ngài xuất
thân từ một gia đình trung lưu trí thức, và được gửi đi học cấp tiểu
học và trung học của nhà dòng La-san đạo Gia-tô. Dù rằng ngài đã được
đào tạo trong môi trường đạo Thiên Chúa, ngài lúc nào cũng hâm mộ đạo
Phật và học tập Phật Pháp từ một người chú, và ngài học thêm tiếng
Sanskrit từ Hòa thượng Palita, tham dự nhiều khóa giáo lý vào các ngày cuối
tuần tại chùa Paramananda trong vùng. |
Năm 18 tuổi ngài quyết định xuất
gia, thọ giới Sa di với pháp danh là Narada, vị thầy bổn sư là Hòa thượng
Vajiranana, một vị danh tăng vào thời đó. Thầy truyền giới là Hòa thượng
Revata, và thầy truyền pháp là Tỳ kheo Pelene. Sau đó, ngài theo học các
khóa Vi Diệu Pháp và Ngữ học Đông phương.
Sa di Narada thọ giới cụ túc (tỳ kheo) vào năm
lên 20 tuổi. Ngài được gửi đi học các khóa Đạo đức học và Triết
học tại Đại học Tích Lan (Ceylon University College), với nhiều giáo sư
danh tiếng như Đại đức Sumangala, Tiến sĩ Chandrasena, và Bác sĩ Pereira (về
sau xuất gia, và trở thành Đại đức Kassapa rất nổi tiếng).
Năm 30 tuổi, ngài được cử đi tham dự lễ khánh
thành chùa Mulagandhakuti tại Saranath (Xa-nặc), Benares (Ba-na-lại), Ấn Độ,
và tham gia các công tác hoằng pháp tại đó. Trong thời gian này, ngài có dịp
công tác với ông Jawaharial Nehru mà về sau trở thành vị thủ tướng đầu
tiên của Ấn Độ.
Ít lâu sau ngài được cử đi truyền giáo tại
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á -- Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Nam Dương, Mã
Lai. Tại những nơi này, ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc
vương Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu).
Ngoài ra ngài còn có nhiều chuyến đi truyền đạo
tại các nước Tây phương. Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các hội
Phật Giáo địa phương tại các bang New South Wales, Victoria, Tasmania và
Queensland. Năm 1956, ngài du hành sang Anh quốc, tổ chức cử hành lễ Tưởng
Niệm 2.500 năm sau ngày Đại Bát Niết Bàn của Đức Phật. Sau đó ngài
giúp củng cố Phật sự và xây dựng ngôi chùa danh tiếng mang tên Chùa Phật
Giáo Luân Đôn (London Buddhist Vihara). Ngài sang Hoa Kỳ hoằng pháp, và được
cung thỉnh thuyết giảng về đề tài "Đức Phật và Triết lý đạo
Phật" tại đài kỷ niệm Washington (Washington Memorial) trước một cử
tọa rất đông đảo. Ngài là một sứ giả Như Lai rất hăng hái và nhiệt
tình, thu hút được nhiều người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành
lập các hội Phật Giáo địa phương để bồi đắp công trình hoằng dương
đạo pháp.
Ngài có nhiều gắn bó với đất nước và Phật
tử Việt Nam. Ngài đã từng đến Việt Nam vào đầu thập niên 1930, mang
theo nhiều nhánh cây bồ đề để trồng tại nhiều nơi trong nước: Phú
Lâm (Chợ Lớn), Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên
Hòa, Phước Tuy, Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến miền Trung (Đà Lạt,
Huế) và miền Bắc (Vinh, Hà Nội). Trong thập niên 1950, khi Giáo hội Tăng
già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập, ngài đến Việt Nam nhiều lần
để thuyết pháp, hằng tuần tại chùa Kỳ Viên (Quận Ba, Sài Gòn) thu hút
đông đảo Phật tử đến nghe, và có rất nhiều người đến xin quy y với
ngài. Đặc biệt là vào năm 1963, ngài đã khuyến khích ủng hộ công tác
xây cất bảo tháp Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu, ngày nay được xem
như là một di tích lịch sử. Ngoài ra, ngài còn giúp xây dựng một bảo
tháp khác ở Vĩnh Long.
Ngoài các thời thuyết pháp và công tác tổ chức
Phật sự, ngài còn hướng dẫn các lớp Vi Diệu Pháp và các khóa hành thiền,
khuyến khích việc phiên dịch các sách Phật Pháp sang Việt ngữ để truyền
bá rộng rãi. Các tập sách nhỏ sau đây đã được chuyển dịch:
- Hạnh Phúc Gia Đình (Parents and Children),
- Phật Giáo - Di Sản Tinh Thần của Dân Tộc Việt Nam (Buddhism - Heritage of
Vietnam),
- Phật Giáo Tóm Lược (Buddhism in a Nutshell),
- Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara),
- Những Vấn Đề của Kiếp Nhân Sinh (The Problems of Life),
- Những Bước Thăng Trầm (The Eight Worldly Conditions),
- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta),
- Kinh Pháp Cú (The Dhammapada)
- Vi Diệu Pháp Toát Yếu (The Manual of Abhidhamma)
- v.v.
Đặc biệt nhất là quyển "Đức Phật
và Phật Pháp" (The Buddha and His Teachings) đã được xuất bản
tại Sài Gòn bằng hai thứ tiếng: Anh và Việt. Bản Việt ngữ do ông Phạm
Kim Khánh chuyển dịch, với 4.000 quyển đầu tiên được in ra vào năm
1970, và sau đó một năm, lại được tái bản thêm 4.000 quyển. Từ đó đến
nay, quyển này đã được in lại rất nhiều lần, trong nước cũng như tại
hải ngoại, và đã được xem như là một trong những tài liệu căn bản
quan trọng trong các khóa Phật học. Gần đây (1998), ông Khánh đã hiệu đính
lại bản dịch đó, dựa theo ấn bản Anh ngữ cuối cùng trước khi ngài
viên tịch.
Ngài viên tịch vào ngày Chủ Nhật 2 tháng 10,
1983, hưởng thọ 85 tuổi, tại chùa Vajirarama nơi ngài làm Tăng trưởng
Chưởng quản trong những năm cuối của đời ngài. Tang lễ được chính
phủ và Phật tử Tích Lan cử hành trọng thể như là một quốc táng.
Ông Phạm Kim Khánh viết: "...Phần đóng góp
của ngài vào công trình hoằng dương giáo pháp thật mênh mông rộng lớn.
Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng là một nhà truyền giáo lỗi lạc, một
giảng sư có tài diễn giải những điểm thâm sâu của Phật Giáo một
cách giản dị và rõ ràng. Ngài làm việc không biết mệt để rải khắp
mọi nơi bức thông điệp hòa bình đượm nhuần từ bi và trí tuệ của
Đức Bổn Sư. Ngài cũng là tác giả của nhiều quyển sách Phật Giáo đã
được truyền bá rộng rãi khắp thế giới." Và ông Premadasa, thủ tướng
Tích Lan năm 1979, kết luận: "...Ngài đã dành trọn cuộc đời mình --
qua một cách vị tha bất cầu lợi -- để phụng sự cho hòa bình trên thế
giới và đem lại hạnh phúc an lành cho nhân loại."
Bình
Anson
Perth, Western Australia,
tháng 07-2000
Lời Mở Đầu
Để trình bày đời sống và giáo huấn của Đức
Phật cho những ai muốn hiểu Phật giáo, nhiều quyển sách quý giá đã
được ấn hành, do những học giả Đông, Tây, trong hàng Phật tử, cũng
như những người không theo đạo Phật.
Trong rừng thư mênh mông ấy, quyển "Ánh
Sáng của Á Châu" (The Light of Asia), do tác giả Sir Edwin Arnold, được
chú trọng và ưa thích nhất. Nhiều người phương Tây muốn tìm hiểu
chân lý đã hướng về đạo Phật sau khi đọc tập thơ trứ danh này.
Người Phật tử, ở phương Đông cũng như ở
phương Tây, hết lòng ca ngợi công đức của các nhà học giả đã viết
ra những thiên sách hữu ích để rọi sáng Giáo Pháp.
Bản khái luận mới mẻ này là một cố gắng
khiêm tốn khác của một hội viên Giáo Hội Tăng Già, căn cứ trên kinh
điển Nam Phạn (Pali) các chú giải, và các tập tục cổ truyền nhởi bật
nhất trong những quốc gia Phật giáo, nhất là ở Tích Lan (Sri Lanka).
Phần đầu quyển sách này đề cập đến đời
sống của Đức Phật, phần nhì là Phật Pháp, giáo lý của Ngài, danh từ
tiếng Phạn (Pali) là Dhamma.
-oOo-
Phật Pháp là một hệ thống triết học và
luân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy,
không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông, hay để
thỏa mãn tri thức.
Giáo Pháp chắc chắn phải được học, nhưng
hơn nữa, phải được thực hành, và trên hết, phải được tự mình chứng
ngộ.
Học suông mà không thật sự mình thực hành
thì không bổ ích. Đức Phật dạy rằng người có pháp học mà không có
pháp hành cũng tựa hồ như tai hoa lộng lẫy mầu sắc, nhưng không hương
vị.
Người không học Giáo Pháp như mù. Nhưng người
học mà không hành thì chẳng khác nào một thư viện.
-oOo-
Có vài lời phê bình vội vã cho rằng Phật
Giáo là một tôn giáo tiêu cực và thụ động. Lời chỉ trích vô căn cứ
ấy hẳn còn xa sự thật.
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt
động tích cực nhất lịch sử nhân loại. Trải qua bốn mươi lăm năm
trường, Ngài đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương giáo lý, đến
hàng đại chúng cũng như các bậc thiện trí. Chí đến giây phút cuối
cùng Ngài phục vụ nhân loại bằng gương lành trong sạch và giáo huấn
cao thượng. Hàng môn đệ lỗi lạc của Ngài cũng bước đúng theo dấu
chân Ngài. Không một xu trong túi, các vị ấy đi đến những phương trời
xa lạ để truyền bá Giáo Pháp mà không bao giờ cầu mong đền đáp.
"Liên tục và kiên trì nỗ lực" là di
huấn tối hậu của Đức Phật. Không có sự giải thoát nào, không có sự
thanh lọc nào có thể thực hiện được nếu không có cố gắng cá nhân.
Như vậy, Phật giáo không chủ trương van vái nguyện cầu mà thay vào đó,
dạy thực hành thiền tập, là một phương pháp tự kiểm soát, tự thanh lọc
và giác ngộ. Hai đặc điểm nổi bật nhất của Phật giáo là hành thiền
và phục vụ. Trên thực tế, tất cả những quốc gia Phật giáo đã vươn
mình trưởng thành trong tổ ấm của Phật giáo và dưới tàng bóng mát mẻ
của Đức Phật.
"Không hành ác", tức không làm cho
mình trở thành một tội khổ cho mình và cho kẻ khác, là lời khuyên nhủ
đầu tiên của Đức Phật. Lời dạy tiếp theo - " hành thiện"
- là hãy trở nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác, và lời kêu gọi
cuối cùng - "thanh lọc tâm" - thật vô cùng quan trọng và cực
kỳ thiết yếu.
Có thể gọi một tôn giáo như vậy là thụ động
và tiêu cực không?
Cũng nên ghi nhận là trong ba mươi bảy yếu tố
dẫn đến Giác Ngộ (Bhodhipakkhiya Dhamma, ba mươi bảy pháp Trợ Đạo, hay
ba mươi bảy Bồ Đề Phần), tinh tấn (viriya) được nhắc đến chín lần.
Để minh định rõ ràng mối tương quan giữa Ngài
và hàng tín đồ, Đức Phật dạy:
"Các con hãy tự mình cố gắng,
Các đấng Như Lai chỉ là những đạo sư".
Đức Phật vạch ra con đường. Phần chúng ta
là có noi theo con đường ấy để tự thanh lọc hay không. Cố gắng là rất
quan trọng trong Phật Giáo.
"Chính ta làm cho ta trong sạch;
Chính ta làm cho ta ô nhiễm."
-oOo-
Phải khép mình vào khuôn khổ kỷ cương, chư vị
tỳ khưu chỉ có thể hoạt động trong phạm vi giới luật của các ngài.
Hàng cư sĩ thì có thể phục vụ đạo pháp, quốc gia, và thế gian một
cách khác, nhưng vẫn theo tinh thần của những nguyên tắc Phật Giáo.
Phật Giáo vạch ra một lối sống cho bậc xuất
gia và một lối sống khác cho hàng cư sĩ.
Hiểu một cách, tất cả Phật tử là những chiến
sĩ can đảm. Họ chiến đấu, nhưng không phải bằng súng ống và bom đạn.
Họ giết chóc, nhưng không giết đàn ông, đàn bà và trẻ con vô tội.
Vậy người Phật tử chiến đấu chống ai, và
bằng khí giới nào? Người Phật tử giết ai một cách tàn nhẫn?
Họ chiến đấu chống chính họ, bởi vì con người
là kẻ thù tệ hại của con người. Tâm là địch thủ nguy hiểm nhất, mà
cũng là người bạn tốt nhất. Không chút xót thương, người Phật tử tàn
sát và tận diệt những khát vọng tham ái, sân hận và si mê ở trong tâm
họ bằng võ khí Giới, Định và Tuệ.
Những ai thích một mình chiến đấu chống lại
khát vọng của mình trong cảnh tịch mịch vắng vẻ, hoàn toàn được tự
do làm theo ý mình. Chư tỳ khưu sống ẩn dật là những gương lành đáng
được kính nể. Đối với hạng người biết tri túc, trạng thái cô đơn
là một nguồn hạnh phúc. Những vị nào muốn chiến đấu với những vấn
đề khó khăn của đời để cố gắng tạo nên một thế gian hữu phúc
trong ấy con người có thể sống như những công dân lý tưởng, thanh bình
và hoà hợp, cũng có thể nhận lãnh trách nhiệm, dấn thân trên con đường
gian truân ấy.
Con người được sanh ra, không phải để phục
vụ Phật Giáo. Nhưng Phật Giáo được thành lập để phục vụ con người.
-oOo-
Hiểu đúng theo giáo lý của Đức Phật, tình trạng
giàu hay nghèo không thể là một trở ngại cho việc trở thành Phật tử
lý tưởng. Ông Anathapindika (Cấp Cô Độc), vị thí chủ trung kiên nhất của
Đức Phật, là một triệu phú gia. Ghatikara, được kính nể còn hơn một
vì vua, chỉ là người thợ đồ gốm nghèo nàn.
Phật Giáo thích hợp với cả hai giai cấp,
nghèo và giàu. Phật Giáo cũng thích hợp với cả hai hạng người, đại
chúng và tri thức.
Hạng người kém học hướng về Phật Giáo do
phần tình cảm nhiệt thành với đạo pháp và phần luân lý giản dị. Người
tri thức thì say mê trong giáo lý thâm diệu và phương pháp trau giồi tâm
trí.
Một du khách không quen thuộc với tập tục của
các dân tộc Phật Giáo ắt có những cảm nghĩ lầm lạc khi bước chân
vào chùa lần đầu tiên, và cho rằng Phật Giáo chỉ là những nghi thức lễ
bái, là một tôn giáo có tánh cách dị đoan, chứa đựng những hình thức
cúng tế sùng bái tượng gỗ và cây cối.
Là một tôn giáo khoan hồng, Phật Giáo không phủ
nhận hay bác bỏ những hình thức kỉnh mộ bề ngoài ấy, vì nó cần thiết
cho đại chúng. Ta có thể nhìn thấy phần đông thiện tín thành tâm kính
cẩn như thế nào lúc đến chùa dự lễ. Do thái độ tôn kính ấy đức
tin càng tăng trưởng.
Người Phật tử quỳ lạy trước pho tượng Phật
và tỏ lòng kỉnh mộ của mình đối với lý tưởng mà pho tượng ấy biểu
hiện. Người Phật tử hiểu biết suy niệm về những phẩm hạnh cao cả
của Đức Phật và không cầu mong một ân huệ vật chất hay tinh thần
nào. Cây bồ đề, đàng khác, tượng trưng sự giác ngộ.
Đức Phật không trông chờ hàng tín đồ mãi sống
trong những nghi lễ mà trái lại, khuyên dạy nên thực hành đúng theo Giáo
Huấn của Ngài. "Người thực hành đúng theo giáo huấn của Như Lai
nhất là tôn sùng Như Lai nhất", là lời dạy của Đức Phật.
Một người Phật tử hiểu biết có thể thực
hành Giáo Pháp (Dhamma) mà không cần những hình thức lễ bái bề ngoài ấy.
Chùa chiền và tượng Phật không tuyệt đối cần để hành Bát Chánh Đạo.
-oOo-
Có đúng không nếu nói rằng Phật Giáo chỉ đề
cập đến những việc hoàn toàn ngoài thế gian, mặc dầu Phật Giáo chủ
trương có một chuỗi dài những kiếp sống, trong quá khứ và ở vị lai,
và một số cảnh giới vô tận trong ấy chúng sanh có thể sống?
Sứ mạng của Đức Phật nhằm vào sự giải
thoát chúng sanh ra khỏi khổ đau phiền não bằng cách tận diệt nguồn gốc
của nó và vạch ra con đường để cho ai muốn, có thể chấm dứt cả
sanh lẫn tử. Tuy nhiên, đôi khi Đức Phật cũng truyền dạy những bài
kinh hướng tiến bộ vật chất. Cả hai tiến bộ - vật chất và tinh thần
- đều cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia. Không nên tách rời
cái này ra khỏi cái kia. Cũng không nên hy sinh tiến bộ tinh thần để thành
đạt những mức tiến vật chất như chúng ta đang mục kích tại một vài
quốc gia quá thiên về đời sống vật chất. Nhiệm vụ của các chánh phủ
và các hội từ thiện là phát triển sống vật chất và tạo điều kiện
thuận lợi cho dân chúng. Trong khi ấy, các tôn giáo, như Phật Giáo chẳng
hạn, có phận sự chăm lo phát huy tinh thần đạo đức, giúp cho mỗi người
có thể trở thành một công dân lý tưởng.
Phật Giáo đi ngược chiều với phần đông các
tôn giáo khác khi khai quang con đường "Trung Đạo" và truyền bá
giáo lý lấy nhân bản làm trung tâm thay vì giáo điều lấy thần linh làm
trụ cốt. Như vậy, Phật Giáo hướng nội và nhằm giải thoát từng
cá nhân. Giáo Pháp (Dhamma) phải được tự mình chứng ngộ (sanditthiko).
-oOo-
Theo thường, cứu cánh của phần đông nhân loại
là "tuyệt diệt hoàn toàn" hoặc "trường tồn vĩnh cửu".
Người theo chủ nghĩa vật chất tin rằng sau khi chết con người hoàn toàn
trở thành hư vô, không còn gì nữa. Một vài tôn giáo chủ trương rằng mục
tiêu cứu cánh chỉ có thể thành tựu sau kiếp sống trong sự hợp nhất vĩnh
viễn với một Thần Linh Vạn Năng, hoặc một sinh lực không thể giải
thích, hay nói cách khác, một hình thức trường tồn vĩnh cửu.
Phật Giáo dạy con đường "Trung Đạo".
Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo không phải là trạng thái tuyệt diệt
bởi vì không có cái chi thường còn để tuyệt diệt, cũng không phải sự
trường tồn vĩnh cửu bởi không có một linh hồn trường cửu để vĩnh
viễn hoá. Mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo có thể thành đạt ngay trong
chính kiếp sống này.
-oOo-
Việc gì xảy đến một vị A La Hán sau khi Ngài
viên tịch? Đó là một câu hỏi tế nhị và khó giải đáp, vì Niết Bàn
là pháp siêu thế, ngoài không gian và thời gian, và ngôn ngữ của con người
không thể diễn tả. Nói một cách chính xác, có Niết Bàn nhưng không
có người chứng đắc Niết Bàn. Theo lời Đức Phật dạy, nói rằng một
vị A La Hán còn sống hay không còn sống, "tại" hay "bất tại",
sau khi Ngài viên tịch, đều không đúng. Tỷ như ngọn lửa đang cháy bỗng
nhiên tắt, không thể nói khi tắt, ngọn lửa ấy đi về phía nào trong bốn
phương tám hướng. Khi nhiên liệu hết thì lửa tắt. Đức Phật nêu ra
thí dụ ngọn lửa và thêm rằng câu hỏi đặt như thế không đúng. Chúng
ta có thể bối rối và không hiểu gì. nhưng điều đó cũng không lạ.
Sau đây là một thí dụ khác của nhà khoa học
hiện đại, Robert Oppenheimer:
"Thí dụ, nếu hỏi hột điện tử có giữ
nguyên một vị trí không? Ta phải nói "không". Nếu hỏi, với thời
gian, hột điện tử có thay đổi vị trí không? Ta phải nói
"không". Nếu hỏi, hột điện tử có ở yên không? Ta phải nói
"không". Nếu hỏi, hột điện tử có di động không? Ta phải nói
"không".
"Đức Phật đã giải đáp tương tợ khi có
người hỏi Ngài về điều kiện của một người sau khi chết. Nhưng đó
là câu trả lời không quen thuộc với truyền thống khoa học của hai thế
kỷ XVII và XVIII."
Lẽ dĩ nhiên nhà học giả uyên thâm muốn ám chỉ
một người đã đắc quả A La Hán.
-oOo-
Đạt đến trạng thái ấy thì có lợi ích gì?
Tại sao phải chấm dứt mọi cuộc sinh tồn trên thế gian? Tại sao không
xác nhận rằng đời sống trên thế gian này đầy lạc thú?
Đó là những câu hỏi điển hình thường được
nêu lên do người, hoặc muốn tận hưởng khoái lạc của đời sống, hoặc
muốn phục vụ nhân loại, đảm đương trách nhiệm, và chấp nhận mọi
đau khổ.
Đối với hạng trên, người Phật tử có thể
nói: - "Nếu thấy thoả thích, ông cứ hưởng thọ khoái lạc của đời
sống, nhưng chớ nên làm nô lệ cho những thú vui tạm bợ và huyền ảo.
Dầu có thoả thích hay không, ông cũng phải gặt hái hậu quả của những
gì mà ông đã gieo".
Đối với hạng sau, người Phật tử có thể
nói: - "Ông hãy cố gắng tận dụng mọi phương tiện để kiến tạo
hạnh phúc cho nhân loại và hãy thoả thích với tinh thần phục vụ vị
tha ấy".
Phật Giáo trình bày mục tiêu Niết-Bàn cho những
ai cảm thấy cần đến và không bao giờ có ý cưỡng bách ai. "Hãy đến
và xem", Đức Phật khuyên như vậy.
-oOo-
Cho đến khi đạt được mục tiêu cứu cánh, người
Phật tử phải sống đời thanh cao hữu ích.
Phật Giáo có những nguyên tắc luân lý tốt đẹp,
thích hợp với người sơ cơ trên đường đạo pháp cũng như người đã
tiến triển khá xa. Đó là:
a. Năm giới (Panca Sila): Không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không dùng chất say.
b. Bốn Trạng Thái Cao Thượng (Brahma
Vihara, Tứ Vô Lượng Tâm): Từ, Bi, Hỷ và Xả.
c. Mười Phẩm Hạnh Siêu Thế (Paramita, Ba
La Mật): Bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân
thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
d. Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và
chánh định.
Những ai có nguyện vọng đắc Quả A La Hán
nhân cơ hợi sớm nhất có thể suy niệm về lời Đức Phật khuyên dạy
Rahula (La Hầu La) như sau:
"Thân này không phải của ta; cái này
không phải là ta; đây không phải là linh hồn của ta." ("N'etam
mama, n'eso' hamasmi, na me so atta").
-oOo-
Phải nói lên một cách từ tốn rằng quyển
sách này không phải được viết ra cho hàng học giả, mà cho các sinh
viên, những người muốn tìm hiểu đời sống và giáo lý căn bản mà Đức
Phật đã ban truyền.
Khi soạn thảo, tôi có dùng những bản dịch của
hội "Pali Text Society" và nhiều văn học phẩm khác mà tác giả có
thể là Phật tử, có thể không. Đôi khi tôi chỉ phụ họa suông quan điểm
và dùng từ ngữ thích ứng của tác giả. Mỗi khi có thể được, tôi đều
có ghi xuất xứ.
Bản thảo đầu tiên của quyển sách này được
xuất bản vào năm 1942. Ấn hành lần này, bổn chánh đã được duyệt sửa
và thêm bớt nhiều.
Tôi rất lấy làm cảm tạ ông V.F. Gunaratna, mặc
dầu hết sức bận rộn với công việc phức tạp hằng ngày trong chức vụ
Chưởng Lý Toà Án quốc gia Sri Lanka (Tích Lan), đã dầy công duyệt lại cẩn
thận và xuất bản toàn bộ bản thảo với một niềm tin vững chắc và
tâm đạo nhiệt thành. Tuy không mang lại chút lợi lộc vật chất nào, đối
với ông, đây là một phần việc mà ông thích thú làm với tất cả tâm
thành vì ông là một Phật tử thuần thành, có thực hành, và có sự hiểu
biết rộng rãi về Phật Pháp.
Nhưng nếu không có lòng quảng đại của Ông
Bà Trương Đình Dzu, Ông Bà Ong So, Cô Tiến sĩ B. Pleyer và những thiện
tín giàu lòng bố thí của chùa Kỳ Viên (Jetavana Vihara), Sài Gòn, quyển
sách này cũng không thể ấn hành được ở Việt Nam. Ước mong rằng công
đức Bố Thí Chân Lý này sẽ đem đến các vị ấy hạnh phúc trường cửu!
Tôi cũng có lời cảm tạ các đệ tử chân
thành của tôi ở Việt Nam, Ông Phạm Kim Khánh (Sunanda), các cô Lê Thị
Sanh (Jhayini), Cao Thị Cúc (Citra), Lương Tú Xuân (Karuna) và Nguyễn Thị Phấn
(Shanti), nhất là hai cô Sanh và Cúc, đã góp sức giúp tôi hoàn thành tốt
đẹp quyển sách này.
Narada
Kỳ Viên Tự (Jetavana)
Sài Gòn, 14-7-1964/2508
Ghi chú về hình bìa của quyển
sách Việt ngữ: -- Phần trên một tượng Phật bề cao 1.20 thước,
do Phạm Kim Khánh chụp tại tư gia nhà điêu khắc Phúc Điền. Hình được
dùng làm mẫu để tạo pho tượng ở Thích Ca Phật Đài, Vũng Tàu.
|