Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Đức Phật nhập Đại Niết Bàn
Đức
Phật là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, còn mang ngũ
uẩn, Ngài vẫn còn bệnh hoạn, già yếu và tịch diệt
một ngày nào, như tất cả chúng sanh. Ngài biết đến năm
tám mươi tuổi sẽ viên tịch. Vốn người khiêm tốn, Ngài
quyết định trút hơi thở cuối cùng trong một làng mạc
xa xôi hẻo lánh như Kusinara, thay vì ở các đô thị lớn
như Savatthi hay Rajagaha, những nơi mà Ngài thường lưu
ngụ và có nhiều tín đồ. Theo lời của chính Đức
Phật, lúc tám mươi tuổi, cơ thể của Ngài tựa hồ như
"một cái xe quá cũ". Dầu tuổi đã già, sức đã
yếu, nhưng với ý chí sắt đá dũng mãnh, Ngài đi bộ trên
con đường dài dẵng và khó khăn cùng với vị đệ tử
hầu cận thân tín, Đại Đức Ananda. Cũng nên ghi nhận
rằng, hai vị đại đệ tử, Sariputta (Xá Lợi Phất) và
Moggallana (Mục Kiền Liên) nhập diệt trước Ngài. Hai vị
Tỳ Khưu Rahula (La Hầu La) và Tỳ Khưu Ni Yasodhara (Da Du Đà
La) cũng đã viên tịch.
Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật bắt đầu
từ Rajagaha (Vương Xá) , kinh đô xứ Magadha (Ma Kiệt Đà). Trước khi Ngài rời Rajagaha, Vua Ajatasattu (A Xà Thế), có
sai vị đại thần của mình tên Vassakara, đến thăm dò ý
kiến Ngài về mưu định của nhà vua muốn gây chiến
với nước cộng hòa Vajjian, thuở ấy rất trù phú. Điều Kiện Thịnh Suy "Đức Phật dạy: 1. Ngày nào mà người dân Vajjian còn thường gặp gỡ
và tụ hợp đông đảo với nhau; 2. Ngày nào mà người dân Vajjian còn tụ hợp trong
tinh thần đoàn kết, còn vươn mình tiến triển trong
tinh thần đoàn kết, và làm tròn nhiệm vụ trong tinh
thần đoàn kết; 3. Ngày nào mà người dân Vajjian không ban hành những
đạo luật mới mẻ chưa từng được ban hành, không
hủy bỏ những đạo luật sẵn có, và sống thích hợp
với những quy tắc cổ truyền; 4. Ngày nào mà người dân Vajjian còn hộ độ, tôn sùng,
kính trọng và đảnh lễ các bậc trưởng thượng trong
xứ, và còn nghe những lời dạy thích nghi của các vị
này; 5. Ngày nào không còn một người đàn bà hay con gái nào
trong gia đình người dân Vajjian bị quyến rũ hay cưỡng
ép phải sống với kẻ ngoại nhân; 6. Ngày nào người dân Vajjian còn bảo trì, tôn
trọng, kính nể và làm vẻ vang các tôn miếu của họ,
dù ở trong hay ngoài tỉnh thành, và không xao lãng những
nghi lễ cổ truyền; 7. Ngày nào người dân Vajjian còn bảo bọc, bênh
vực, và nhiệt thành ủng hộ các vị A La Hán, khiến các
vị nào chưa đến sẽ đến trong xứ và vị nào đã đến,
được sống an lành; Ngày nào mà bảy điều kiện trên còn được thực
hiện, thì dân tộc Vajjian không thể suy đồi, trái lại
còn cường thịnh hơn trước." Nhân dịp này, vị lợi ích của chư đệ tử, Đức
Phật truyền dạy bảy điều kiện thịnh suy của chúng Tăng.
Ngài truyền Đức Ananda triệu tập tất cả các vị tỳ
khưu lúc ấy có mặt tại Rajagaha và dạy: "Này hỡi các đệ tử, 1. Ngày nào mà chư tỳ khưu còn thường gặp gỡ và
tụ hợp đông đảo với nhau; 2. Ngày nào mà chư tỳ khưu còn tụ hợp trong tinh
thần đoàn kết, còn vươn mình tiến triển trong tinh
thần đoàn kết, và làm tròn nhiệm vụ tăng sĩ trong
tinh thần đoàn kết; 3. Ngày nào mà chư tỳ khưu không tạo ra những giới
luật mới mẻ chưa từng được ban hành, và nghiêm túc
hành trì những giới luật đã được ban hành; 4. Ngày nào mà chư tỳ khưu còn hộ trì, tôn kính và
đảnh lễ những vị cao hạ, có nhiều kinh nghiệm, bậc
cha của chúng Tăng, những người chưởng quản Giáo
Hội, và kính trọng những lời dạy quý báu của các Ngài; 5. Ngày nào mà chư tỳ khưu không bị ảnh hưởng
của tham ái, có thể phát sanh bất cứ lúc nào, và lôi
cuốn các vị trong vòng sanh tử triền miên; 6. Ngày nào mà chư tỳ khưu còn tìm thích thú trong công
phu chuyên cần hành thiền ở những nơi vắng vẻ nhàn
tịnh; 7. Ngày nào mà chư tỳ khưu còn cố gắng phát triển
chánh niệm, khiến các bạn đồng tu chưa đến có thể
đến ở, và các đạo hữu đã đến, được sống an lành; Ngày nào mà bảy điều kiện thiết yếu ấy còn được
thực hiện đầy đủ thì các tỳ khưu không thể suy đồi,
trái lại còn phồn thịnh hơn trước. Ngày nào mà bảy
điều kiện an toàn ấy còn được bảo tồn và duy trì
trong hàng Tăng chúng, ngày nào mà các tỳ khưu được
dạy dỗ rành mạch và rèn luyện trong tinh thần bảy điều
kiện ấy, thì chúng tỳ khưu không thể suy đồi, trái
lại còn phồn thịnh hơn." Rồi, với tâm từ bi vô lượng vô biên, Đức Phật soi
sáng thêm cho các vị tỳ khưu bảy điều kiện an toàn khác
như sau: "Ngày nào mà chư tỳ khưu không say mê, thích thú
hay dấn thân vào công việc thế gian, vào những câu
chuyện ngồi lê đôi mách, trong sự ưa thích ngủ nghỉ,
trong sự dể duôi để câu chuyện ngoài đời lôi cuốn.
Ngày nào mà chư tỳ khưu không còn chứa chấp hay bị rơi
vào ảnh hưởng của khát vọng thấp hèn. Ngày nào mà
chư tỳ khưu không kết hợp với bạn bè xấu xa, không
có những khuynh hướng đê tiện tội lỗi. "Ngày nào mà bảy điều kiện trên được thực
hiện đầy đủ thì các tỳ khưu sẽ không dừng bước
nửa đường, không ngừng cố gắng khi đã thành đạt
một vài kết quả trên đường tu học và không bỏ dở
công trình trước khi thành tựu đạo Quả A La Hán." Trong một cơ hội khác, Đức Phật dạy thêm rằng ngày
nào mà chư tỳ khưu còn có tâm đạo vững chắc, khiêm
tốn, chuyên cần, cố học, kiên cố tinh tấn, luôn luôn
giữ tâm niệm và phát triển trí tuệ, thì Giáo Hội chư
tỳ khưu không thể suy đồi mà trái lại còn phồn thịnh
hơn. Lời Tán Dương của Đức Sariputta (Xá
Lợi Phất)
Sau khi thuyết giảng nhiều thời Pháp để dẫn dắt chư
vị tỳ khưu, Đức Phật rời Rajagaha và cùng với Đại
Đức Ananda đi Ambalatthika rồi từ đó đến Nalanda. Nơi đây
Ngài ngự tại vườn xoài Pavarika. Trong dịp này, Đại Đức
Sariputta (Xá Lợi Phất) đến hầu Phật và tán dương trí
tuệ của Ngài như sau: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, con rất lấy làm thỏa thích,
con tin tưởng nơi Đức Phật đến nỗi nghĩ rằng trong quá
khứ, trong tương lai, cũng như ở hiện tại, không thể có
một vị sa môn hay bà la môn nào cao siêu và trí tuệ hơn
Đức Thế Tôn về phương diện tự mình giác ngộ." Đức Phật không chấp thuận một lời ca tụng tương
tợ do đệ tử Ngài thốt ra. Ngài nhắc Đại Đức
Sariputta rằng chính Đức Sariputta không hiểu biết đầy
đủ công đức chư Phật trong quá khứ và ở vị lai. Đức Sariputta cung kính xác nhận rằng Ngài không am
hiểu tất cả các bậc Chánh Đẳng Chánh Giác vô thượng,
nhưng vẫn giữ lời là chính mình đã hiểu biết truyền
thống Chánh Pháp, tiến trình mà tất cả chư Phật đều
phải trải qua trước khi đắc Quả Vô Thượng, bằng cách
diệt trừ năm pháp triền cái là : 1) tham dục, 2) oán ghét,
3) dã dượi, hôn trầm, 4) phóng dật, lo âu, và 5) hoài
nghi, bằng cách dùng trí tuệ làm giảm suy những khát
vọng mạnh mẽ trong tâm, trọn vẹn an trú tâm vào Tứ
Niệm Xứ, và chân chánh phát triển bảy yếu tố dẫn đến
Giác Ngộ (Thất Giác Chi). Pataliputta Từ Nalanda, Đức Phật lần hồi đến Pataligama. Nơi đây
hai vị đại thần xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) là Sunidha và
Vassakara đang xây thành đắp lũy để phòng thủ và ngăn
chặn người Vajjian, lúc ấy rất hùng cường và phồn
thịnh. Đức Phật ngự trong một căn nhà bỏ trống. Khi
nhận thấy hàng ngàn vị Trời đến ở đó đây trong
khắp vùng, Ngài nói trước rằng Pataliputta sẽ trở nên
một thị trấn quan trọng, một trung tâm thương mại,
một nơi trao đổi hàng hóa, nhưng về sau phải bị ba
lần hiểm họa là lửa, nước và phân tranh. Khi hay tin Đức Phật đến Pataligama, các vị đại
thần đến cung thỉnh Ngài cùng với chư đệ tử về nhà
trai tăng. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật dạy: "Bất luận nơi nào mà người biết thận trọng cư
trú, người ấy cũng hết lòng nâng đỡ chư huynh đệ,
những người tốt, biết tự kiểm soát, và hồi hướng
phước báu đến các vị Trời thường tới lui trong vùng.
Kỉnh mộ, chư Thiên sẽ kỉnh mộ. Tôn trọng, chư Thiên
sẽ tôn trọng người sáng suốt thận trọng. Chư Thiên
sẽ đối xử dịu dàng nhã nhặn với người ấy như bà
mẹ hiền đối xử với đứa con duy nhất của bà, và
người mà được chư Thiên chiếu cố, sẽ hưởng
nhiều may mắn." [1] Nhân dịp Đức Phật đến viếng, dân chúng đặt tên
cổng thành là "cổng Gotama" và cũng định ý đặt
tên chiếc đò đưa Đức Phật qua sông Ganges (Hằng), lúc
ấy đang ngập lụt, là "đò Gotama", nhưng Đức
Phật dùng thần thông cùng chư vị đệ tử sang sông trong
lúc ai nấy đang nhộn nhịp sửa soạn đò. Những Cảnh Giới Tương Lai
Từ bờ sông Ganges (Hằng), Đức Phật đi đến Kotigama
và từ đó đến làng Nadika và ngự trong nhà gạch. Nhân
dịp này Đại Đức Ananda đến gần Đức Phật, cung kính
hỏi thăm Ngài về cảnh trạng tương lai của nhiều người
trong làng đã quá vãng. Đức Phật nhẫn nại kể lại
số phần của từng người, rồi Ngài dạy làm thế nào
người đệ tử của một Đấng Thế Tôn thành đạt
"Gương Trong của Chân Lý" để có thể nói trước
rằng: "Ta sẽ không còn tái sanh vào địa ngục, cảnh
thú, cảnh giới Peta (ngạ quỷ), những trạng thái buồn
khổ, tội lỗi và thấp hèn. Ta đã nhập lưu, không thể
còn rơi vào ác đạo và sự Giác ngộ cuối cùng đã được
bảo đảm." Gương Trong của Pháp Bảo (Dhammàdàsa) "Này Ananda, Gương Chánh Pháp là gì? "Là gương lành của người đệ tử cao thượng đặt
trọn vẹn niềm tin nơi Đức Phật và suy gẫm về các ân
đức của Ngài như sau: "Ngài hẳn là Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." "Người đệ tử cao thượng đặt trọn vẹn niềm
tin nơi Đức Pháp và suy gẫm về các đặc tánh của Giáo
Pháp như sau: "Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng dạy và
được truyền bá đầy đủ là để tự chứng ngộ, có
hiệu năng tức khắc, khuyến khích sự tìm tòi suy gẫm,
dẫn đến nơi (Niết Bàn), để bậc thiện trí thức am
hiểu, mỗi người cho riêng mình." "Và người đệ tử cao thượng đặt trọn vẹn
niềm tin nơi Đức Tăng và suy gẫm về những phẩm hạnh
của Giáo Hội Tăng Già như sau: "Giáo Hội các đệ tử của Đức Thế Tôn có đức
hạnh toàn hảo. Các Ngài có phẩm hạnh toàn hảo. Các Ngài
có phẩm hạnh chân chánh. Các Ngài có phẩm hạnh của
bậc trí tuệ. Các Ngài là những vị đã thành tựu bốn
Đạo và bốn Quả thánh. Giáo Hội các đệ tử Đức
Thế Tôn là bậc xứng đáng thọ lãnh những vật cúng dường
và chỗ ở. Các Ngài là bậc xứng đáng được lễ bái,
là phước điền vô thượng trên thế gian." "Vị đệ tử cao thượng trở nên người có phẩm
hạnh thích hợp với chư Phật; phẩm hạnh vững chắc, không
thể sứt mẻ, hoàn toàn trong trắng, không một vết ô
nhiễm, hoàn toàn khinh khoát; phẩm hạnh mà bậc thiện trí
tán dương, mà không có khát vọng trần tục nào có thể
làm hoen ố; phẩm hạnh thuận chiều đưa đến tâm định." Từ Nadika, Đức Phật lần hồi đến thành Vesali, lúc
bấy giờ rất phồn thịnh, và ngụ tại khu vườn của
Ambapali, một cô gái giang hồ xinh đẹp. Biết rằng thế nào
Ambapali cũng đến, Đức Phật thận trọng khuyên dạy chư
đệ tử phải luôn luôn chú tâm an trú chánh niệm và giác
tỉnh và Ngài dạy chư tỳ khưu đường lối chú niệm. Ambapali Khi được tin Đức Phật ngự tại vườn xoài của mình
thì Ambapali đến cung thỉnh Đức Phật cùng chư đệ tử
về nhà trai tăng ngày hôm sau. Đức Phật nhận lời và từ chối lời thỉnh cầu đến
sau của các nhà quý phái Licchavi. Các vị quý phái này đến
gặp cô Ambapali và hứa sẽ đền bù bằng một số tiền
rất lớn nếu nàng khứng chịu nhường bữa trai tăng. Nhưng
cô Ambapali lễ phép khước từ. Ngày hôm sau Đức Phật đến nhà Ambapali. Sau bữa độ
ngọ, cô gái, trước kia là giang hồ, phát tâm vô cùng
trong sạch, kính dâng lên Đức Phật và chư Tăng vườn xoài
rộng lớn. [2] Lúc ấy nhằm mùa mưa, Đức Phật dạy các đệ tử nên
nhập Hạ bên trong hoặc ở quanh thành Vesali. Phần Ngài,
quyết định sẽ nhập Hạ tại Beluva, một làng nhỏ bé
gần Vesali. Đây là Hạ thứ bốn mươi lăm và cũng là
Hạ cuối cùng của Ngài. Đức Phật Lâm Bệnh
Trong năm ấy, Đức Phật lâm bệnh trầm trọng và rất
đau đớn, gần như sắp chết. Nhờ có một ý chí sắt đá, Ngài vững chắc giữ chánh
niệm, luôn luôn giác tỉnh và nhẫn nại chịu đựng cơn
đau không một lời rên xiết. Đức Phật biết rằng đã
đến lúc Ngài sắp lìa thế gian, nhưng nghĩ rằng sẽ không
hợp lẽ nếu ra đi mà không có vài lời đến vị đệ
tử hầu cận và nhắc nhở Giáo Hội. Do đó Ngài quyết
định khắc chế bệnh trạng bằng ý chí sắt đá và liên
tục chứng nghiệm hạnh phúc A La Hán [3]. Liền sau khi Đức Phật bình phục, Đại Đức Ananda đến
hầu Ngài, biểu lộ lòng vui mừng được thấy Ngài khỏi
bệnh và tỏ ra yên chí được biết rằng Đức Phật sẽ
không ra đi trước khi có lời khuyên nhủ Giáo Hội. Câu trả lời của Đức Phật, rất ý nhị và nên được
ghi nhớ, bộc lộ rõ ràng tính chất đặc biệt của Tam
Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Lời kêu gọi của Đức Phật. "Này Ananda, Giáo Hội các đệ tử còn mong đợi gì
nữa ở Như Lai? Như Lai đã truyền dạy Giáo Pháp mà không
có sự phân biệt nào giữa giáo lý bí truyền và giáo lý
công truyền [4]. Về chân lý, Như Lai không khi nào có một
bàn tay nắm lại của một ông thầy. Có người nghĩ
rằng: 'Chính ta sẽ lãnh đạo Giáo Hội các Tỳ Khưu',
hoặc 'Giáo Hội chư Tỳ Khưu sẽ tùy thuộc nơi ta', hoặc
'chính Đức Phật phải dạy điều gì có liên quan đến
Giáo Hội'. "Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng có người nào
phải lãnh đạo Giáo Hội các Tỳ Khưu, hoặc Giáo Hội
phải tùy thuộc nơi người nào. Tại sao Như Lai phải
truyền dạy một điều nào có liên quan đến Giáo Hội? "Này Ananda, bây giờ Như Lai đã kiệt lực, già
yếu và gần đến ngày lìa trần. Như Lai đã tám mươi,
không khác nào cỗ xe quá cũ kỹ, cần phải có những
sợi dây cột lại các bộ phận để giữ nó khỏi rã
rời. Thân của Như Lai cũng cần những sợi dây thừng tương
tợ. "Này Ananda, lúc nào Như Lai yên lặng, không có dấu
hiệu của sự sống, tâm an trụ vào một điểm bằng cách
chấm dứt mọi cảm thọ và không biết gì đến sự vật
xung quanh, đến lúc ấy thân của Như Lai mới thật là
thoải mái. [5] "Vậy, này Ananda, hãy tự coi chính con là hải đảo
(chỗ ẩn náu) của con, chính con là chỗ nương tựa của
con. Không nên tìm nương tựa bên ngoài [6]. "Hãy xem Giáo Pháp là hải đảo của con. Giáo Pháp
là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa ở
bên ngoài. "Này Ananda, một thầy tỳ khưu phải sống cách nào
như coi chính mình là hải đảo, là chỗ nương tựa của
mình, không tìm nương tựa bên ngoài? "Đây này, Ananda, một thầy tỳ khưu sống chuyên
cần tinh tấn, suy gẫm, thận trọng giác tỉnh, từ khước
mọi tham ái trong thế gian, luôn luôn giữ chánh niệm nơi
thân, thọ, tâm và pháp. [7] "Dầu ngay trong hiện tại hay sau khi Như Lai nhập
diệt, người nào sống đúng theo như vậy, xem chính mình
là hải đảo của mình, là chỗ nương tựa của mình, không
tìm nương tựa đâu bên ngoài, những vị tỳ khưu ấy
sẽ đứng hàng đầu trong những người sống hoàn toàn
theo Giới Luật." Ở đây Đức Phật đặc biệt ghi nhận tầm quan trọng
của sự cố gắng cá nhân nhằm thành đạt mục tiêu
tối hậu là tự thanh lọc và tự mình giải thoát ra
khỏi mọi hình thức khổ đau của đời sống. Cầu xin
van vái hay lệ thuộc vào người khác thì không có hiệu
quả. Nhưng ta có thể tự hỏi tại sao người Phật tử lại
tìm nương tựa nơi Phật, Pháp, Tăng, và trong lúc mà rõ ràng
Đức Phật rành mạch dạy rằng không nên tìm nương tựa
nơi đâu khác, ngoài chính mình? Trong khi tìm nương tựa nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng),
người Phật tử chỉ xem Đức Phật là một vị Thầy,
một Huấn Luyện Viên đã vạch ra con đường giải thoát,
Pháp như con đường duy nhất hay phương tiện duy nhất, và
Tăng như những gương lành của một lối sống nên noi
theo. Người Phật tử không bao giờ nghĩ rằng chỉ cần có
việc nương tựa (quy y) nơi Tam Bảo là đủ để giải thoát. Mặc dầu tuổi đã cao, sức đã yếu, Đức Phật
chẳng những vận dụng mọi cơ hội để khuyên nhủ,
dạy dỗ chư tỳ khưu bằng nhiều phương thức khác nhau mà
còn đều đặn đi bát, khi nào không có lời cung thỉnh
trai tăng. Một ngày kia, Ngài vào thành Vesali trì bình
khất thực như thường lệ và sau khi cùng Đại Đức
Ananda độ ngọ xong tại đền Capala, có lời dạy như sau: "Người nào đã trau dồi, phát triển thật lão
luyện, chắc chắn nắm vững, chứng nghiệm, thực hành
và thuần thục điêu luyện bốn Phương Tiện để Thành
Tựu (Tứ Thần Túc, Iddhipada) [8] có thể, nếu người
ấy muốn, sống thêm được một kiếp sống (kappa) [9]
hay có thể hơn chút ít (kappavasesam). Này Ananda, Như Lai
đã trau dồi, phát triển, đã chắc chắn nắm vững và
chứng nghiệm, thực hành và thuần thục điêu luyện
Tứ Thần Túc. Nếu muốn, Như Lai có thể sống thêm
một kiếp sống hay hơn chút ít." Kinh sách thêm rằng "mặc dầu lời gợi ý rất là
rõ rệt hiển nhiên, Đại Đức Ananda lúc ấy không thấu
hiểu để thỉnh cầu Đức Phật sống thêm một kiếp
nữa vì lợi ích, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của
nhiều chúng sanh, vì lòng bi mẫn, thương hại thế gian, vì
lợi ích, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của trời và người."
Về sự thiếu sót này, kinh sách cho rằng lúc ấy tâm
của Đại Đức Ananda bị Ma Vương ám ảnh. Đức Phật Báo Trước Ngày Nhập
Diệt Đức Phật thị hiện trên thế gian để truyền dạy
thực tướng của vạn pháp và con đường duy nhất để
thoát ra khỏi mọi khổ đau phiền lụy của đời sống,
cho những ai muốn tìm chân lý. Trên đường hoằng Pháp dài
dẵng và vô cùng rực rỡ vinh quang, Ngài đã thực hành
sứ mạng cao cả quý trọng ấy một cách mỹ mãn và lợi
ích, cho Ngài và cho hàng tín đồ. Vào năm tám mươi tuổi
thọ, thấy nhiệm vụ đã hoàn thành viên mãn, Ngài đã
truyền dạy tất cả những điều cần thiết cho những ai
muốn cố gắng theo chân Ngài, cả bậc xuất gia lẫn hàng
cư sĩ, và chẳng những các vị này đã nắm vững Giáo Lý
mà còn có đủ khả năng để rộng truyền đến kẻ khác.
Do đó Đức Phật quyết định không kiểm soát sức khỏe
trong những ngày còn lại của kiếp sống bằng ý chí và
bằng cách chứng nghiệm hạnh phúc A La Hán. Lúc ấy, ngự
tại đền Capala, Ngài báo trước cho Đại Đức Ananda
rằng trong ba tháng nữa sẽ nhập diệt. Đức Ananda vội vã nhắc lại Phật ngôn và thỉnh cầu
Ngài sống thêm một kiếp nữa, vì sự tốt đẹp và
hạnh phúc của chúng sanh. Đức Phật trả lời: "Đã đủ rồi, này Ananda, không
nên khẩn cầu Như Lai. Thời gian cầu khẩn ấy đã
qua." Rồi Đức Phật giảng về tánh cách vô thường của đời
sống và cùng đi với Đại Đức Ananda đến Mahavana. Đức
Phật bảo Ngài Ananda triệu tập tất cả các vị tỳ khưu
lúc ấy đang cư trú quanh thành Vesali và dạy: "Bất luận chân lý nào mà Như Lai đã giảng
giải, các con phải khéo học hỏi, thực hành, trau dồi,
phát triển đầy đủ, nhằm duy trì, làm cho đời sống
Thánh Thiện được tồn tại trường tồn vĩnh cửu, vì
tình thương chúng sanh, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc
của nhiều người, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của
chư Thiên và nhân loại. "Những chân lý ấy là gì? "Đó là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc,
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo."
[10] Rồi Đức Phật nói lên những lời kêu gọi sau đây và
tuyên bố cho các vị tỳ khưu biết ngày nhập diệt: Những Phật Ngôn Tối Hậu "Hãy nhìn lại đây các Tỳ Khưu, Như Lai dạy các
con. Tất cả các pháp được cấu tạo do điều kiện (các
pháp hữu vi) đều là vô thường. Hãy liên tục tận lực
chuyên cần. Như Lai đã sắp đến ngày nhập diệt. Còn ba
tháng nữa Như Lai sẽ từ giã các con. "Như Lai đã đến tuổi. Đời sống của Như Lai
quả là ngắn ngủi. Rời các con, Như Lai sẽ ra đi. Như
Lai đã tự mình làm chỗ nương tựa cho mình. Hỡi các
Tỳ Khưu, hãy tinh tấn, giữ chánh niệm và sống đời đạo
hạnh. Hãy giữ gìn tâm các con bằng những tư tưởng có
chiều hướng tốt. Những ai kiên trì cố ghép nếp sống
của mình trong những khuôn khổ dạy trên sẽ bước ra
khỏi con đường phiêu bạt vô định của đời sống và
chấm dứt đau khổ." Đức Phật nhìn thành Vesali lần cuối cùng rồi cùng Đại
Đức Ananda đi Bhandagama. Ngài dạy các vị tỳ khưu như
sau: "Giới, định, tuệ, và sự giải thoát cùng tột, Bốn Điều Tham Chiếu Lớn
Đi từ làng này đến làng khác, một ngày nọ Đức
Phật đến Bhoganagara và tại đây Ngài dạy bốn Đại Giáo
Pháp tức là bốn điều tham chiếu lớn (Mahapadesa), theo đó
ta có thể trắc nghiệm và làm sáng tỏ giáo huấn của Đức
Phật. Ngài dạy: 1. "Một vị tỳ khưu có thể nói rằng tôi nghe
chính Đức Phật đã tuyên ngôn như vầy: "Đây là Giáo
Pháp, đây là Giới Luật, đây là Giáo Huấn của Đức
Bổn Sư". Những lời ấy, không nên chấp nhận, cũng
không nên gác bỏ ngoài tai. Không chấp nhận, không bác
bỏ, mà phải nghiên cứu tận tường từng chữ, từng
tiếng, rồi hãy đối chiếu và so sánh với Kinh (Sutta) và
Luật (Vinaya). Nếu khi đối chiếu và so sánh kỹ càng,
nhận thấy rằng nó không phù hợp với Kinh và không
nhất trí với Luật, con có thể kết luận rằng:
"Chắc chắn, đây không phải là Phật ngôn. Vị tỳ
khưu kia đã hiểu sai." Như vậy, con phải loại bỏ
những lời ấy. "Nếu, khi đối chiếu và so sánh, những lời ấy phù
hợp với Kinh và nhất trí với Luật, con có thể kết
luận rằng: "Chắc chắn đây là Phật ngôn, vị tỳ
khưu ấy đã hiểu đúng." "Hãy xem đó là điều tham chiếu lớn đầu tiên. 2. "Lại nữa, một vị tỳ khưu có thể nói
rằng trong ngôi chùa kia có chúng Tăng sống chung và có
những vị sư lãnh đạo: Tôi nghe chính các sư ấy nói như
thế này: "Đây là Giáo Pháp, đây là Giới Luật, đây
là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư." Không nên chấp
nhận, cũng không nên gác bỏ ngoài tai những lời ấy. Không
chấp nhận, không bác bỏ, mà phải nghiên cứu tận tường,
từng chữ, từng tiếng, rồi hãy đối chiếu với Kinh và
so sánh với Luật. Nếu khi đối chiếu và so sánh kỹ càng,
những lời ấy không phù hợp với Kinh và không nhất trí
với Luật, con có thể kết luận: "Chắc chắn đây không
phải là Phật ngôn. Vị tỳ khưu kia đã hiểu sai." Như
vậy, con phải loại bỏ những lời ấy.
"Nếu, khi đối chiếu và so sánh, những lời ấy phù
hợp với Kinh và nhất trí với Luật, con có thể kết
luận rằng: "Chắc chắn đây là Phật ngôn. Vị tỳ
khưu ấy hiểu đúng." "Hãy xem đó là điều tham chiếu lớn thứ nhì. 3. "Lại nữa, một vị tỳ khưu có thể nói
rằng trong ngôi chùa kia có nhiều vị sư và những vị cao
tăng học rộng, thông suốt Giáo Lý, hiểu rộng Kinh,
Luật, Pháp Yếu (Matika): Tôi nghe chính các vị sư ấy nói
như vầy: "Đây là Giáo Pháp, đây là Giới Luật, đây
là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư". Không nên chấp
nhận, cũng không nên gác bỏ ngoài tai. Không chấp nhận,
không bác bỏ, mà phải nghiên cứu tận tường từng
chữ, từng tiếng, rồi đem đối chiếu với Kinh (Sutta) và
so sánh với Luật (Vinaya). Nếu khi đối chiếu và so sánh
như vậy, những lời ấy không phù hợp với Kinh và không
nhất trí với Luật, con có thể kết luận: "Chắc
chắn đây không phải là Phật ngôn. Vị tỳ khưu kia đã
hiểu sai." Như vậy, con phải loại bỏ những lời
ấy. "Nếu, khi đối chiếu và so sánh, những lời ấy phù
hợp với Kinh và nhất trí với Luật, con có thể kết
luận rằng: "Chắc chắn đây là Phật ngôn. Vị tỳ
khưu ấy hiểu đúng." "Hãy xem đó là điều tham chiếu lớn thứ ba. 4. "Lại nữa, một vị tỳ khưu có thể nói
rằng trong ngôi chùa kia có một vị tỳ khưu cao hạ, học
rộng, thông suốt Giáo Lý, hiểu rộng Kinh, Luật, và các
Pháp Yếu (Matika): Tôi có nghe vị tỳ khưu cao hạ ấy nói
như vầy: "Đây là Giáo Pháp, đây là Giới Luật, đây
là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư". Không nên chấp
nhận, cũng không nên gác bỏ ngoài tai. Không chấp nhận,
không bác bỏ, mà phải nghiên cứu kỹ càng, tường tận,
từng chữ, từng tiếng, rồi đem đối chiếu với Kinh và
so sánh với Luật. Nếu khi đối chiếu và so sánh, những
lời ấy không phù hợp với Kinh và không nhất trí với
Luật, con có thể kết luận: "Chắc chắn đây không
phải là Phật ngôn. Vị tỳ khưu kia đã hiểu sai." Như
vậy, con phải loại bỏ những lời ấy.
"Nếu, khi đối chiếu và so sánh, những lời ấy phù
hợp với Kinh và nhất trí với Luật, con có thể kết
luận rằng: "Chắc chắn đây là Giáo Pháp, đây là
Giới Luật, đây là Giáo Huấn của Đức Bổn Sư." "Hãy xem đó là điều tham chiếu lớn thứ tư. "Này các Tỳ Khưu, đó là bốn điều tham chiếu
lớn." Bữa Thọ Thực Cuối Cùng Của Đức
Phật Rọi sáng cho chư vị đệ tử mỗi khi có cơ hội, Đức
Phật lần hồi đến Pava và tại đây, người thợ rèn tên
Cunda cung thỉnh Ngài và chư tỳ khưu về trai tăng. Với tâm
rất trong sạch, Cunda dâng lên Đức Phật một vật thực
đặc biệt gọi là "Sukaramaddava" [11]. Theo lời
chỉ dạy của Đức Phật, Cunda chỉ dâng vật thực ấy
đến Ngài mà thôi, còn lại bao nhiêu phải đem chôn, sẽ
không có ai khác dùng đến. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật nhiễm bệnh lỵ
huyết trầm trọng, rất đau đớn, gần như sắp chết. Nhưng
Ngài nhẫn nại chịu đựng, điềm tĩnh, không một lời rên
xiết. Mặc dầu bệnh tình trầm trọng và người rất yếu,
Đức Phật nhất định đi bộ đến Kusinara [12], nơi Ngài
định nhập diệt, cách đó độ ba do tuần (lối chín cây
số). Trên đoạn đường cuối cùng này, kinh sách ghi chép
rằng Đức Phật phải ngồi lại nghỉ lối hai mươi lăm
nơi vì bệnh và yếu. Ở một chỗ nọ, Ngài ngồi dưới gốc cây to và dạy
Đại Đức Ananda đi tìm nước uống, vì Ngài cảm nghe khát.
Rất là khó khăn, Đại Đức Ananda mới tìm được chút
ít nước trong một dòng suối nhỏ nơi ấy năm trăm cỗ
xe bò vừa đi qua, quậy đục cả nước. Lúc bấy giờ có người tên Pukkusa đến gần Đức
Phật và bày tỏ lòng thán phục của mình trước sự
trầm lặng khác thường của Ngài. Sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng về trạng thái an tĩnh,
không xao động, Pukkusa dâng lên Ngài hai bộ y bằng vàng.
Theo lời dạy của Đức Phật, Pukkusa dâng một bộ đến
cho Ngài và một bộ đến Đại Đức Ananda. Khi Đại Đức Ananda mặc bộ y cho Đức Phật thì lấy
làm ngạc nhiên thấy rằng màu da của Đức Phật chiếu sáng
lạ thường: - Bạch Đức Thế Tôn, tại sao có chuyện lạ thường,
rất là kỳ diệu? Màu da của Đức Thế Tôn trở nên sáng
lạn, rực rỡ một cách lạ thường. Khi con đắp bộ y
bằng vàng lên mình Ngài thì hình như màu sắc của vàng
đã lu mờ đi mất. Nhân đó Đức Phật giải thích rằng trong hai trường
hợp, màu da của Đức Như Lai trở nên sáng lạn, rực
rỡ lạ thường. Đó là trong đêm Ngài đắc Quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác và đêm Đức Như Lai nhập diệt. Và Đức Phật công bố rằng trong đêm ấy, vào lúc
canh ba, Ngài sẽ diệt độ trong cụm rừng long thọ (sala)
của dòng tiểu vương Malla, giữa cặp cây long thọ, gần
Kusinara. Bữa Cơm Nhiều Phước Báu Của Cunda
Đức Phật tắm lần cuối cùng trong dòng sông Kakuttha và
sau khi nghỉ một lúc Ngài dạy Đức Ananda rằng chuyện
sau đây có thể xảy ra. Có người sẽ làm cho Cunda ăn năn
hối hận vì họ nói: "Này Cunda, ông thật là người
có tội. Ông sẽ bị chìm đắm sa đọa, vì Đức Thế Tôn
đã lìa trần sau khi thọ thực lần cuối cùng với các món
vật thực do ông dâng." Mỗi lần Cunda, người thợ rèn, ăn năn hối hận như
thế, con phải giải thích như vầy: "Này Cunda, ông có
thật nhiều phước báu thù thắng. Ông sẽ hưởng được
nhiều lợi lạc vì Đức Phật đã độ ngọ lần cuối cùng
với các vật thực do ông dâng lên. Này Cunda, bần tăng có
nghe chính Đức Phật dạy rằng có hai vật thực cúng dường
đem lại phước báu bằng nhau, tạo quả bằng nhau, và vô
cùng quý báu hơn tất cả. Hai vật ấy là gì? Đó là
vật thực cúng dường mà Bồ Tát thọ lần cuối cùng trước
khi chứng ngộ Đạo Quả Vô Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác,
và vật thực cúng dường mà Đức Phật thọ lần cuối cùng
trước khi nhập diệt. Hai vật cúng dường ấy đem lại
phước báu bằng nhau, tạo quả bằng nhau, và vô cùng quý
báu hơn tất cả các món khác. Và vật thực cuối cùng mà
Đức Thế Tôn thọ là chính tay của Cunda, người thợ rèn,
dâng lên. "Nghiệp tốt này sẽ trổ quả trong sự tái sanh
thuận lợi, tuổi thọ cao, gặt nhiều may mắn và danh
vọng, thọ hưởng nhiều phước báu trong các cảnh Trời
và trong cảnh vua chúa, quyền quý cao sang." "Này Ananda, phải khuyên lơn Cunda như thế ấy." Đức Phật lần hồi đến rừng long thọ của dòng
tiểu vương Malla và dạy Đại Đức Ananda chuẩn bị chỗ
để Ngài yên nghỉ giữa cặp cây long thọ, đầu hướng
về phía bắc. Rồi Đức Phật nằm xuống, nghiêng mình
về hông mặt, chân trái gác dài trên chân mặt và với chánh
niệm vững chắc, hoàn toàn kiểm soát tâm, tuyệt đối giác
tỉnh. Phải Tôn Kính Đức Phật Như Thế Nào Khi nhìn thấy những cây long thọ trổ bông, mặc dầu
không phải mùa bông long thọ trổ, và thấy bao nhiêu người
lễ bái và tôn sùng Ngài, Đức Phật kêu gọi chư đệ
tử như sau: "Này Ananda, không phải như vậy là tôn trọng, kính
cẩn, sùng bái, làm vẻ vang Như Lai đâu. Bất luận vị tỳ khưu nào, bất luận vị tỳ khưu
ni hay thiện nam, tín nữ nào hành đúng theo Giáo Huấn,
phẩm hạnh trang nghiêm, đời sống chân chính, là người
tôn trọng, kính cẩn, sùng bái và làm vẻ vang Như Lai
theo cách cao thượng nhất. Như vậy, này Ananda, con phải chuyên cần tu tập, hành
đúng theo Giáo Huấn, phẩm hạnh trang nghiêm, sống đời
chân chính." Lúc ấy, Đại Đức Upavana, trước kia có sống gần và
hầu cận Đức Phật lâu ngày, đứng trước mặt Đức
Phật. Ngài dạy Đại Đức Upavana đứng sang qua một bên.
Đại Đức Upavana thấy vậy lấy làm ngạc nhiên vì trước
kia chính Đại Đức Upavana cung phụng Đức Phật đầy đủ.
Đức Phật giải thích rằng lúc bấy giờ có rất đông
chư Thiên tựu đến quanh đó và các vị Trời ấy than
phiền rằng vì bị Đại Đức Upavana che khuất, không
thể thấy Ngài. Bốn Thánh Tích
Kế đó Đức Phật đề cập đến bốn thánh tích mà,
vì có liên quan đến đời sống của Ngài, người thiện
tín có tâm đạo nhiệt thành nên đến chiêm ngưỡng với
lòng thành kính và tôn sùng. Bốn nơi ấy là: "Nơi Bồ Tát Đản Sanh [13]. Và Đức Phật thêm: "Người nào trút hơi thở cuối cùng trong niềm
tin vững chắc lúc đi hành hương, sẽ tái sanh về nhàn
cảnh." Đức Phật Cảm Hóa Subhadda Vào thuở ấy tại Kusinara, có một đạo sĩ du phương hành
khất tên Subhadda [17]. Vị đạo sĩ này nghe tin đồn rằng
vào canh chót đêm ấy Đức Gotama (Cồ Đàm) sẽ nhập
diệt nên nghĩ như sau: "Ta đã có nghe những vị thầy đứng tuổi và các
vị khác cao niên hơn, và các ông thầy của những vị
ấy, các vị khất sĩ du phương, nói rằng hiếm hoi lắm,
thật là hy hữu mới được có một Đấng Thế Tôn, Đấng
Toàn Giác, xuất hiện trên thế gian. Đêm nay, vào canh chót,
Đức Gotama (Cồ Đàm) sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Ta có
một điều hoài nghi và tin tưởng nơi Đức Gotama. Hẳn
vậy, Ngài sẽ giảng dạy Giáo Pháp để đánh tan mối hoài
nghi của ta." Nghĩ vậy, vị Đạo Sĩ Subhadda liền đi ngay đến cụm
rừng Upavattana Sala của dòng Malla, đến gần Đức Ananda và
bạch rằng: "Tôi có nghe những ông thầy đứng tuổi
và những vị khác cao niên hơn, và các ông thầy của
những vị ấy, các đạo sĩ du phương hành khất, nói
rằng hiếm hoi lắm, thật là hy hữu mới được có một
Đấng Thế Tôn, Đấng Toàn Giác xuất hiện trên thế
gian. Đêm nay, vào canh cuối cùng, Đức Gotama (Cồ Đàm)
sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Tôi có điều hoài nghi và tin tưởng
nơi Đức Gotama. Hẳn vậy, Đức Gotama sẽ có thể giảng
dạy Giáo Pháp để đánh tan mối hoài nghi của tôi. Bạch
Đại Đức, có thể nào tôi được vào yết kiến Đức
Gotama trong giây lát không?" Đức Ananda trả lời: "Này Đạo Hữu Subhadda, chớ
nên làm rộn Đức Thế Tôn. Ngài đã mệt mỏi lắm
rồi." Subhadda lặp lại lời thỉnh cầu lần thứ nhì và lần
thứ ba. Nhưng, lần thứ nhì và lần thứ ba, Đức Ananda cũng
trả lời như trước. Đức Phật nghe được câu chuyện, cho gọi Đại Đức
Ananda vào dạy: "Không nên, này Ananda, không nên ngăn
cản Subhadda vào. Hãy để Subhadda vào yết kiến Như Lai.
Bất luận điều gì mà Subhadda sẽ hỏi, cũng là do nơi ý
muốn hiểu biết chớ không phải muốn làm phiền Như Lai.
Và những điều Như Lai truyền dạy sẽ được lãnh hội
mau chóng". Ngài Ananda đưa Subhadda vào gặp Đức
Phật. Sau khi trao đổi những lời chào hỏi, Subhadda chúc
tụng Đức Phật rồi ngồi lại một bên và hỏi: "Có nhiều vị đạo sĩ và giáo sĩ, lãnh đạo
những giáo phái và giáo đoàn, là những người đứng đầu
những tập đoàn tôn giáo nổi tiếng, những nhà truyền
giáo trứ danh, được nhiều người tôn sùng như Purana
Kassapa, Makkhali Gosala, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccayana,
Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nataputta [18]. Tất cả những
vị ấy có thông suốt chân lý như các Ngài đã nói vậy
không, hay chỉ có vài vị thông suốt còn các vị khác thì
không?" - Hãy để yên đó, này Subhadda, không nên thắc mắc,
bận trí với tất cả hay vài vị đã chứng ngộ chân lý,
hay không có ai chứng ngộ. Như Lai sẽ dạy con. Hãy nghe và
ghi nhớ, Như Lai giảng đây. - Xin vâng, Bạch Đức Thế Tôn. Đức Phật dạy: "Trong bất luận giáo đoàn nào, nếu không có Bát
Chánh Đạo thì cũng không có hạng nhất đẳng Sa Môn(Samana)
[19], cũng không có nhị đẳng [20], tam đẳng [21] hay tứ
đẳng Sa Môn [22]. Trong giáo đoàn nào có Bát Chánh Đạo,
này Subhadda, thì có hạng nhất đẳng Sa Môn, nhị đẳng,
tam đẳng và tứ đẳng Sa Môn. "Nơi đây, trong giáo đoàn này, hỡi Subhadda, có Bát
Chánh Đạo. "Quả thật vậy, ở đây có hạng nhất đẳng,
nhị đẳng, tam đẳng và tứ đẳng Sa Môn. Các nơi khác
không có hạng Sa Môn. Này Subhadda, nếu chư đệ tử hành
đúng giáo huấn, có đời sống chân chánh, thì thế gian
sẽ không vắng bóng các bậc A La Hán. "Lúc tuổi còn hai mươi chín, Như Lai ra đi để tìm
cái gì tốt đẹp. Hôm nay, năm mươi mốt năm đã trôi
qua kể từ ngày Như Lai đắp y mang bát. Ngoài những người
ở đây, không có một đạo sĩ nào hành đúng, dầu
nhiều hay ít, Giáo Pháp khả dĩ đưa đến sự thành đạt
Đạo Quả." Khi được nghe vậy, Subhadda bạch với Đức Phật như
sau: "Lành thay! Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, cũng
tựa hồ như có người kia dựng lại ngay ngắn một vật
đã bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được
giấu kín, hay vạch đường chỉ lối cho người lạc bước,
hay cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối để cho ai có
mắt có thể trông thấy. Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn
truyền dạy bằng trăm ngàn phương thức cũng dường thế
ấy." "Xin Ngài cho phép con thọ lễ quy y Phật, Pháp, Tăng.
Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ cho con thọ lễ
xuất gia sa di và tỳ khưu [23] trước mặt Ngài." Đức Phật dạy: "Này Subhadda, người sống trong
hệ thống giáo lý khác muốn xuất gia sa di và tỳ khưu
phải trải qua một thời kỳ học tập bốn tháng, sống
biệt trú trong bốn tháng ấy. Sau đó, khi được chấp
thuận, giới tử có thể thọ lễ xuất gia và được nâng
lên hàng tỳ khưu. Tuy nhiên, do sự hiểu biết của con hôm
nay, Như Lai cho phép làm một ngoại lệ cho riêng cá nhân
con." Rồi Đức Phật dạy Đại Đức Ananda cử hành lễ
xuất gia cho Subhadda. Trước mặt Đức Phật, Subhadda thọ
lễ xuất gia sa di và tỳ khưu. Sau khi thọ đại giới không
bao lâu, Đại Đức Subhadda sống đơn độc một mình ở nơi
vắng vẻ, xa thành thị, chuyên cần kiên trì tinh tấn và
nhiệt tâm cần mẫn, chứng ngộ chân lý trong kiếp sống
ấy, nhờ trí tuệ trực giác và đời sống thánh thiện
thiêng liêng cao thượng vô song. Ngài sống trong trạng thái
mà, để thành đạt, bao nhiêu vương tôn công tử đã chân
chánh từ khước cuộc sống phong phú của đời cư sĩ,
chấp nhận làm người không nhà cửa, không tài sản sự
nghiệp. Ngài nhận định rằng mình không còn tái sanh
nữa. Sau kiếp sống thiêng liêng đầy đủ này không còn
kiếp nào khác. Đại Đức Subhadda đã trở thành một trong những vị A
La Hán. Ngài là người cuối cùng được Đức Phật thâu
nhận làm đệ tử. Lời Dạy Tối Hậu đến Đại Đức
Ananda
Đại Đức Ananda bạch với Đức Phật rằng sau khi Ngài
diệt độ, nhục thể của Đức Thế Tôn phải được tôn
vinh như thế nào? Đức Phật trả lời: "Này Ananda, con không nên bận tâm với việc phải
làm vẻ vang nhục thể của Như Lai. Hãy chú tâm vào
hạnh phúc châu toàn (Đạo Quả A La Hán) của chính con.
Hãy tận lực tinh tấn để thành đạt hạnh phúc châu
toàn của chính con. Hãy cố gắng, cần mẫn chuyên chú,
quyết tâm mưu tìm sự tốt đẹp cho chính con. Có những
người chiến sĩ sáng suốt, những vị Bà La Môn và
những người cư sĩ trí tuệ, tin tưởng vững chắc nơi
Như Lai. Hãy để những người ấy tôn vinh và làm vẻ
vang nhục thể của Như Lai." Nghe lời giáo huấn quý báu cuối cùng ấy, Đại Đức
Ananda đi sang một bên và đứng khóc, bụng nghĩ rằng: "Than ôi! Ta chỉ là một tu sĩ có pháp học nhưng chưa
được hoàn toàn giải thoát, cần phải thực hành nữa.
Nhưng sau cùng, Đức Đạo Sư sắp tịch diệt, Đức Thế
Tôn mà ta vô cùng quý mến." Đức Phật cho gọi Ngài đến và dạy: "Hỡi Ananda, chớ nên phiền muộn. Chớ có khóc
than. Như Lai đã từng dạy rằng tất cả chúng ta đều
phải phân ly, cách biệt, và xa lìa những gì mà ta quý
mến và thân yêu. Này Ananda, con đã tạo nhiều phước báu.
Con sẽ sớm thanh lọc mọi ô nhiễm." Và Đức Phật tán dương công đức của Đại Đức
Ananda, rồi dạy Ngài Ananda vào thành Kusinara báo tin cho hoàng
tộc Malla về sự nhập diệt sắp đến. Hoàng tộc Malla được báo tin, dắt vợ con đến khóc
đảnh lễ Đức Phật. Quang Cảnh Cuối Cùng Đức Phật dạy Đại Đức Ananda: "Này Ananda, có thể con sẽ nói rằng Giáo Huấn
Tối Cao không còn thầy giảng dạy. Chúng con không còn
Đạo Sư. "Không nên, Ananda, con không nên suy tư như thế. Giáo
Pháp và Giới Luật đã được Như Lai truyền dạy và
quảng bá rộng rãi. Này Ananda, khi Như Lai nhập diệt
rồi thì Giáo Pháp và Giới Luật ấy sẽ là Đạo Sư
của chúng con. "Sau khi Như Lai nhập diệt, chúng Tăng có thể,
nếu chúng Tăng muốn như vậy, hủy bỏ những học
giới nhỏ nhen và không quan trọng." Bản chú giải ghi nhận rằng thay vì dùng mệnh lệnh cách
(imperative form) bảo phải làm thế nào, Đức Phật chỉ dùng
tiếp thuộc cách (subjunctive) trong lời dạy trên. Nếu ý
Ngài là muốn hủy bỏ các học giới nhỏ thì Ngài đã dùng
mệnh lệnh cách rồi. Đức Phật biết trước rằng về
sau, khi chủ tọa cuộc Kết Tập Tam Tạng Lần đầu tiên,
với sự đồng ý của chúng tăng, Đại Đức Kassapa sẽ
không hủy bỏ một học giới nhỏ nhen nào. Vì Đức
Phật không dạy rõ, và các vị A La Hán không thể quyết
định nên hủy bỏ học giới nhỏ nào, nên các ngài giữ
nguyên vẹn tất cả. Một lần nữa Đức Phật dạy chư đệ tử như sau : "Nầy các đệ tử , nếu các con còn bất luận
một phân vân thắc mắc nào có liên quan đến Phật, Pháp,
Tăng, Đạo, hay Phương Pháp, hãy nêu lên những câu hỏi.
Về sau chớ ăn năn hối tiếc vì nghĩ rằng: "Lúc
ấy, ở trước mặt Đức Thế Tôn mà ta không hỏi." Tất cả chư vị đệ tử đều im lặng . Lần thứ nhì và lần thứ ba. Đức Phật lặp lại câu
nói. Lần thứ nhì, lần thứ ba, các vị đệ tử vẫn
giữ im lặng. Rồi Đức Phật dạy : "Có lẽ vì tôn kính Như Lai
nên các con không nêu lên câu hỏi. Vậy nếu có thắc
mắc, hãy thổ lộ với một đạo hữu khác." Các vị tỳ khưu vẫn giữ im lặng. Nhân đó Đại Đức Ananda bạch với Đức Phật như sau
: "Quả thật kỳ diệu! Bạch Đức Thế Tôn. Quả
thật tuyệt vời! Bạch Đức Thế Tôn. Con lấy làm hoan
hỷ. Không có một đệ tử nào còn bất luận một hoài
nghi hay thắc mắc về Đức Phật , Giáo Pháp, Giáo Hội Tăng
Già, về Con Đường hay về Phương Pháp." "Nầy Ananda, con nói điều ấy theo đức tin của
con. Nhưng Như Lai hiểu biết rằng trong chúng Tăng đây không
có ai còn hoài nghi hay thắc mắc về Giáo Pháp, về Giáo
Hội, về Con Đường hay về Phương Pháp. Trong năm trăm đệ
tử , nầy Ananda, người chậm trễ nhất cũng đã nhập lưu,
không còn phải rơi trở xuống nữa, và đã chắc chắn
sẽ chứng ngộ." [24] Rốt cùng, để khuyên dạy đệ tử, Đức Phật nói lên
lời giáo huấn: "Hãy nghe đây, nầy các đệ tử, Như Lai khuyên các
con. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tận
lực liên tục chuyên cần."
Đó là di huấn tối hậu của Đức Thế Tôn. Đức Phật Viên Tịch
Đức Thế Tôn nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền, Ngài
nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, Ngài nhập tam thiền.
Xuất tam thiền, Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, Ngài
nhập không vô biên xứ. Xuất không vô biên xứ, Ngài
nhập thức vô biên xứ. Xuất thức vô biên xứ, Ngài
nhập vô sở hữu xứ. Xuất vô sở hữu xứ, Ngài nhập
phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ngài nhập diệt thọ tưởng định. Lúc ấy Đại ĐứcAnanda, không có thiên nhãn, hỏi Đại
Đức Anuruddha: "Bạch sư huynh, có phải Đức Thế Tôn
đã nhập diệt rồi không?" - Không phải vậy, nầy Ananda sư đệ, Đức Thế Tôn chưa
diệt độ, Ngài mới nhập diệt thọ tưởng định. Rồi xuất diệt thọ tưởng định, Đức Phật nhập
phi tưởng phi phi tưởng định. Xuất phi tưởng phi phi tưởng
xứ, Ngài nhập vô sở hữu xứ định. Xuất vô sở hữu
xứ, Ngài nhập thức vô biên xứ định. Xuất thức vô biên
xứ, Ngài nhập không vô biên xứ định. Xuất không vô biên
xứ, Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, Ngài nhập tam
thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị
thiền, Ngài nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền, Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị
thiền, Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập
tứ thiền. Xuất tứ thiền, và tức khắc sau đó, Đức
Phật cuối cùng nhập diệt. Chú thích: [1] Giáo sư Rhys Davids - Dialogues of the Buddha. Tập II,
trang 91. [2] Về sau cô Ambapali xin xuất gia, gia nhập vào Giáo
Hội Tỳ Khưu Ni và đắc Quả A La Hán. [3] Jivita samkharam adhitthaya [4] Anantaram abahiram karitva, danh từ này bao gồm cả hai,
những cá nhân và những lời dạy: "Bao nhiêu giáo lý
này ta sẽ không dạy ai khác", một ý nghĩ như vậy có
nghĩa là hạn chế, chỉ dạy giáo lý trong một giới nhỏ
nào. "Bao nhiêu giáo lý đây ta sẽ dạy kẻ khác",
một ý nghĩ như vậy có nghĩa là không dạy hết giáo lý.
"Ta sẽ dạy người này", câu này hàm ý có sự phân
biệt người này với người kia. Đức Phật không hề có
sự phân biệt nào, trên phương diện các đệ tử cũng như
về mặt giáo lý. Trong lời dạy, Đức Phật không bao
giờ bí truyền. Ngài cũng không hề có một nhóm nhỏ hay
lớn nào riêng biệt, trong hay ngoài các đệ tử. [5] Đức Phật ám chỉ hạnh phúc Niết Bàn
(phalasamapatti) [6] Như cảnh Trời. [7] Đây là Tứ Niệm Xứ (Satipatthana). Danh từ Pháp
(dhamma) dùng ở đây trong một ý nghĩa riêng, ám chỉ cả
hai đối tượng của tâm - vật chất và tinh thần. Xem
Phụ Bản 6, trang 755-782, kinh Satipatthana Sutta, Majjhima
Nikaya, kinh số 10. [8] Tứ Thần Túc (Iddhipada) là: 1. tác ý hay ý muốn làm
(chanda), 2. tinh tấn hay sự cố gắng (viriya), 3. tư tưởng
hay tâm (citta), và 4. suy xét (vimamsa). [9] Cụm từ "một kiếp sống" ở đây được
phiên dịch từ Phạn ngữ "kappa". Kappa có nghĩa là
một kiếp sống thông thường, khoảng một trăm năm.
Kapavasesam nghĩa là một kiếp và thêm một phần của một
kappa, lối 120 năm. Nơi đây danh từ này được diễn đạt
bằng "hơn chút ít". [10] Đó là ba mươi bảy Bồ Đề Phần
(Bodhipakkhiyadhamma), hay ba mươi bảy nhân sanh quả bồ đề,
tức là ba mươi bảy yếu tố cần thiết dẫn đến giác
ngộ và sự hiểu biết cùng tột. [11] Theo Bản Chú Giải, đó là thịt một con heo rừng
không già lắm cũng không tơ lắm nhưng không phải cố ý
giết nó để dâng lên Đức Phật (pavattamamsa). Có chỗ nói
rằng đó là tên của một loại nấm. Cũng có chỗ cho
rằng đó là tên một món ăn rất ngon. Xem Questions of
Milinda, quyển 1 trang 244, và Dialogues of The Buddha, phần 2,
trang 136, số 1. [12] Theo Bản Chú Giải, Đức Phật chọn Kusinara để
nhập diệt vì ba lý do. Lý do đầu tiên là để thuyết bài
Pháp Mahasudasana Sutta nhằm khuyến khích đời sống đạo
hạnh. Thứ nhì là để dẫn dắt Subhadda, người đệ tử
cuối cùng của Ngài, vì ngoài Đức Phật ra không ai có
thể thuyết bài này được. Thứ ba là để cho vị Bà La
Môn Dona có thể phân chia xá lợi của Ngài một cách êm
thấm giữa những người sùng mộ Ngài. [13] Lumbini, giáp giới Tây Tạng. [14] Buddha Gaya, lối 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya. [15] Isipatana, tên hiện nay là Saranath. [16] Kusinara, hiện nay được gọi là Kasi, lối 40 cây
số cách nhà ga Gorakhpur. [17] Nên phân biệt đạo sĩ Subhadda này với một vị khác
cũng tên Subhadda, lúc ấy đã xuất gia rồi. Chính vị Tỳ
Khưu Subhadda kia, xuất gia lúc tuổi già, sẽ nói rằng Đức
Phật tịch diệt không phải là điều đáng phiên muộn,
bởi vì không còn Đức Phật thì chư tỳ khưu sẽ được
tự do, muốn làm gì thì làm, không sợ ai khiển trách. Và
cũng vì nghe câu nói ấy mà ba tháng sau khi Đức Phật
nhập diệt, Đức Kassapa (Ca Diếp) triệu tập 500 vị tỳ
khưu A La Hán để nghe đọc lại Giáo Pháp và Giới Luật
(Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên). [18] Tất cả những vị này đều là những giáo sĩ
trứ danh thời Đức Phật. [19] Đức Phật ám chỉ những vị Nhập Lưu (Sotapanna,
Tu Đà Hườn) [20] Tư Đà Hàm (Sakadagami, Nhứt Lai). [21] A Na Hàm (Anagami, Bất Lai). [22] A La Hán (Arahat, Ưng Cúng). [23] Pabbajja, từ bỏ, là xuất gia sa di bằng cách cạo râu
tóc, đắp y vàng, quy y Tam Bảo và thọ mười giới. Người
tu sơ đẳng ấy được gọi là Samenara, sa-di. Upasampada,
cụ túc giới, lễ xuất gia tỳ khưu, dành cho người từ
hai mươi tuổi trở lên. Người đã thọ cụ túc giới là
hội viên của Giáo Hội với đầy đủ tư cách và được
gọi là tỳ khưu (bhikkhu). Một vị tỳ khưu phải giữ tròn
những giới bổn (patimokkha) và khi phạm một trong những
trọng tội, như bất cọng trụ chẳng hạn, phải bị
trục xuất ra khỏi Giáo Hội. Nếu muốn, vị ấy có thể
trở lại làm một sa di. [24] Đức Phật ám chỉ Đại Đức Ananda. Được
khuyến khích, Đại Đức Ananda cố gắng tu tập và về
sau đắc quả A La Hán.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |