Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nghiệp là gì?
Nghiệp (Kamma)
Kamma,
Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay
việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý
(cetana). Tư tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi
xuất do "ý muốn làm" tạo động cơ. Phật Giáo
gọi ý muốn làm ấy là Tác ý (cetana). Tất cả những hánh
động có tác ý, dầu biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý
, đều tạo Nghiệp. Tất cả những hành động có tác ý,
thiện hay bất thiện, đều tạo Nghiệp. Những hành động
không có chủ tâm, mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói
hay việc làm, đều không tạo Nghiệp.
Đức Phật dạy:"Nầy hỡi các Tỳ Khưu,
Như Lai xác nhận rằng chính Tác ý là Nghiệp. Do có ý
muốn mới có hành động, bằng thân, khẩu hay ý
[1]". Ngoại trừ những hành động của chư Phật và chư vị
A La Hán, mỗi hành động có tác ý đều gọi là Nghiệp.
Mặc dầu chư Phật và chư vị A La Hán vẫn còn chịu
ảnh hưởng của những nhân đã gieo trong quá khứ, các Ngài
không còn tạo Nghiệp mới nữa vì các Ngài đã thoát ra
ngoài cái lành và cái dữ, đã tận diệt vô minh và ái
dục là hai nguồn gốc của Nghiệp. Ratana Sutta (Tam Bảo
Kinh) ghi rằng: "Mầm giống (Khina-bija) đã bị tận
diệt, những ham muốn vị kỹ không còn khởi sanh." Như vậy không có nghĩa là chư Phật và chư vị A La Hán
sống một cách thụ động. Các Ngài luôn luôn tích cực
hoạt động để tạo an lành hạnh phúc cho chúng sanh. Hành
động của các ngài, thường được coi là thiện, không có
năng lực tạo Nghiệp. Am hiểu tận tường thực tướng
của vạn pháp, các Ngài phá tan mọi thằng thúc (kiết
sử) trói buộc chúng sanh trong vòng luân hồi, những
chuỗi dài nhân và quả. Một vài hệ thống tín ngưỡng cũng nhìn nhận rằng
mọi chênh lệch trong xã hội đều do Nghiệp, nhưng khi đề
cập đến Nghiệp, lại chủ trương rằng mọi hành động,
có tác ý hay không, đều tạo Nghiệp. Theo chủ trương ấy, một người giết cha, giết mẹ
dầu cố tâm hay vô ý, đều phạm trọng tội như nhau. Cũng
như đối với lửa, dầu vô tình hay cố ý thọc tay vào
lửa thì phải bị phỏng như nhau, không hơn không kém. Lập luận như vậy dĩ nhiên sẽ đưa đến một định
thức phi lý. Đứa bé trong bào thai, vô tình làm cho mẹ đau
đớn, hay bà mẹ vô ý làm đau đứa con trong lòng mình,
hẳn cũng tạo Nghiệp bất thiện? Vã lại, nêu ra một
sự kiện để giải thích một sự kiện tương tợ, như
trường hợp của người thọc tay vào lửa và một người
hành động ác là một luận cứ không thể đứng vững.
Thí dụ,theo luận điệu trên, nếu ông A sai ông B đi
giết người, thì chính ông B phạm tội sát nhân mà ông A
thì không sao cả, vì chỉ có ông B là người "thọc
tay vào lửa". Hơn nữa, cũng theo luận điệu trên,
một hành động ác không có tác ý có thể còn tai hại hơn
một hành động ác có tác ý. Nói cách khác, cố ý làm ác
bị hại ít hơn là vô tình, vì theo ví dụ người thọc
tay vào lửa, biết rằng lửa nóng người cố tâm tất
phải dè dặt hơn nên ít bị nóng. Người vô tình, vì không
định ý trước, không kịp ngăn ngừa, ắt bị phỏng
nhiều hơn. [2] Trong sự báo ứng của Nghiệp, Tâm là yếu tố tối
quan trọng. Tất cả những việc làm,lời nói và tư tưởng
đều do tâm ảnh hưởng. "Khi không điều phục được
tâm tức nhiên không thể kềm chế được việc làm, lời
nói, và tư tưởng. Điều phục tâm tức kềm chế thân,
khẩu, ý." [3] "Chính tâm dẫn dắt thế gian, chính tâm lôi kéo
thế gian; và tất cả mọi người đều làm chủ cái tâm." Kinh Pháp cú có câu: "Tâm dẫn đầu mọi hành động. Tâm là chủ. Tâm
tạo tác tất cả. Nếu nói hay làm với tâm ác thì do đó,
đau khổ sẽ theo liền với ta như bánh xe lăn theo dấu
chân con bò kéo xe." (câu 2) Ta có thể thắc mắc vì sao một vật vô hình như tâm
lại có thể gây ra những xáo trộn cho thế gian vật
chất. Thật ra không có gì khó hiểu. Chính các bộ máy
cực kỳ hùng mạnh và có khả năng làm đảo lộn thế
gian hiện đại chỉ là sản phẩm của những bộ óc phong
phú. Cái tâm vô hình tạo nên tất cả những tác động báo
ứng của Nghiệp. Nghiệp không nhất thiết chỉ là những hành động
trong quá khứ, mà bao trùm quá khứ và hiện tại. Như
vậy, nói một cách, chúng ta như thế nào trong hiện tại
là tùy thuộc trong quá khứ chúng ta đã hành động như
thế nào, và trong tương lai chúng ta sẽ hành động như
thế nào tùy thuộc nơi hành động của chúng ta như thế
nào trong hiện tại. Hiểu một cách khác nữa, ta phải thêm
rằng trong hiện tại chúng ta như thế nào không hoàn toàn
bởi vì trong quá khứ ta đã như thế và trong tương lai chúng
ta sẽ như thế nào cũng không hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng
ta như thế nào trong hiện tại. Hiện tại chắc chắn là con đẻ của quá khứ, đồng
thời cũng là mẹ sanh của tương lai. Nhưng trong sự báo ứng vô cùng phức tạp của Nghiệp,
ta không thể nhìn vào hiện tại mà quả quyết quá khứ và
tương lai. Thí dụ như tên cướp sát nhân ngày hôm nay có
thể là một người hiền như bậc thánh nhân ngày mai.
Một người hiền lương đạo đức ngày hôm qua có thể hôm
nay trở nên hư hèn hung dữ. Lời mẹ dạy con: "Nếu con ngoan sẽ được mẹ cưng
và con sẽ vui vẽ. Nếu con không ngoan mẹ sẽ không cưng và
con sẽ buồn" là giáo lý Nghiệp Báo. Cái gì giống nhau thu hút lẫn nhau. Tốt đem lại tốt,
xấu đem lại xấu. Đó là định luật Nhân Quả. Tót tắt, Nghiệp Báo là định luật Nhân Quả trong lĩnh
vực luân lý hay như người phương Tây thường nói, là
"ảnh hưởng của hành động". Nghiệp và Quả (Kamma và Vipaka) Nghiệp là hành động. Quả là phản ứng của hành động
ấy. Nói cách khác, Quả (Vipaka) là hậu quả của hành động.
Cũng như mỗi vật đều dính liền với cái bóng của nó,
mỗi hành động có tác ý (cetana) đều dính liền với
quả. Nghiệp có thể ví như một cái hột có khả năng
trở thành cây. Quả như trái cây. Lá, hoa các thứ là
những sự khác biệt bên ngoài như sức khỏe, sự thịnh
vượng, sự giàu sang, sự bệnh hoạn và những điều
bất hạnh trong đời sống vật chất mà không ai tránh
khỏi. Nói một cách chính xác, Nghiệp và Quả đều tùy
thuộc nơi Tâm. Hành động (Nghiệp) và hậu quả của hành
động ấy (Quả) đều do Tâm tạo nên. Vì Nghiệp có thể
tốt hay xấu, Quả có thể lành hay dữ. Nếu hành động thuộc về tâm thì quả cũng thuộc về
tâm. Lắm khi ta nghe an vui hạnh phúc, khoan khoái trong lòng,
hay buồn bực đau khổ v.v... đó là đang thọ Quả thuộc
về tâm. Quả trổ sanh tốt hay xấu tùy theo Nhân gieo tốt
hay xấu. Trong phạm vi vật chất, Anisamsa là những phước lành
như giàu sang, khỏe mạnh, tuổi thọ v.v..., Adinava là
những tôi khổ như bần cùng, xấu xí, bệnh tật, yểu
tử v.v... Nghiệp là những tâm thiện và bất thiện tại
thế (Kusala akusala lokiya citta) và Quả (Vipaka) là những
loại tâm Quả tại thế (lokiya vipaka citta). Theo Vi Diệu Pháp [4], Nghiệp gồm 12 loại tâm bất
thiện và 8 loại tâm thiện thuộc Dục Giới (kamavacara), 5
loại tâm thiện thuộc Sắc Giới (rupavacara) và 4 loại tâm
thiện thuộc Vô Sắc Giới (arupavacara). Tổng cộng là 29 tâm
tại thế (lokiya citta). Ngoài ra, 8 loại tâm siêu thế (lokuttara citta) không thể
coi là Nghiệp vì các loại tâm ấy có khuynh hướng diệt
Nghiệp. Động cơ của tất cả các loại tâm tại thế là Tác
ý (cetana), trái lại, yếu tố chánh yếu trong các loại tâm
siêu thế là Trí tuệ (panna). 9 loại tâm thiện thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới (5
thiện Sắc Giới và 4 thiện Vô Sắc Giới ) hoàn toàn
thuộc về tâm, không biểu hiện dưới hình thức việc làm
và lời nói như 20 loại tâm thuộc Dục Giới. Mọi hành động đều do tâm. Chính tâm biểu hiện
bằng thân, khẩu hay ý. Tất cả 29 loại tâm kể trên (12+8+5+4) đều được
gọi là Nghiệp vì các loại tâm ấy có khả năng tạo
Quả một cách tự động, không cần trợ lực của yếu
tố nào từ bên ngoài. Vui, buồn, hạnh phúc hay đau khổ, hậu quả dĩ nhiên
phải có của các loại tâm thiện hay bất thiện, gọi là
tâm Quả thuộc Dục Giới. Năm loại tâm Quả thuộc Sắc
Giới và 4 loại tâm Quả thuộc Vô Sắc Giới đều là
hậu quả đương nhiên của Nghiệp. Đã gieo nhân tức phải gặt Quả, lúc nầy, nơi nầy,
hay lúc khác, nơi khác, ở kiếp hiện tại hay trong kiếp
vị lai. Ngày hôm nay ta gặt hái những gì chính ta đã gieo
trong hiện tại hay trong quá khứ. Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, có những lời dạy
như sau: "Đã gieo giống nào, Nghiệp Báo tự nó là một định luật có hiệu lực
trong một phạm vi riêng biệt, không chịu ảnh hưởng
của tha lực nào từ bên ngoài đưa vào. Khả năng trổ Quả đã dính liền với Nghiệp. Trong hành
động (bằng thân, khẩu, ý) đã có tiềm tàng năng lực
tạo Quả, cũng như trong hột đã có tiềm tàng tạo nên cây
và sanh ra trái. Nhân sanh Quả, Quả giải thích Nhân. Hột
sanh trái, thấy trái ta biết hột như thế nào. Sự liên
quan giữa hột và trái cũng như giữa Nghiệp và Quả.
"Trong Nhân đã có sẳn mầm giống của Quả." Hạnh phúc và đau khổ, thường xảy đến cho nhân
loại, là Quả phải có, trổ sanh do những nhân nào. Phật
Giáo không chủ trương có sự thưởng phạt do một oai
lực siêu phàm toàn tri, toàn năng, tối thượng ban bố cho
những linh hồn đã làm lành hay gây dữ. Thuyết Duy Thần
cố giải thích mọi việc bằng kiếp sống trường cửu
trong tương lai mà không biết đến quá khứ. Thuyết Duy
Thần tin rằng linh hồn của người chết sẽ trãi qua
một cuộc phán xét và xem những phước báu và tội khổ
trong đời hoàn toàn do ý muốn của một Tạo Hóa Tối Thượng,
ngự trên một cảnh trời nào đó, tạo ra càn khôn vạn
vật và trọn quyền định đoạt số phận của nhân
loại, vật do mình tạo ra. Phật Giáo không nhìn nhận có một linh hồn trường
cửu, được tạo nên một cách ngẩu nhiên và độc đoán.
Phật Giáo tin có định luật và công lý thiên nhiên, không
phải một đấng Thượng đế toàn năng hay một Đức
Phật đại từ đại bi tạo nên. Theo định luật và công
lý thiên nhiên ấy thì mỗi hành động đều gây nên một
phản ứng tương xứng mà người đời thường lầm tưởng
là sự ban thưởng hay hình phạt. Một vài người dựa theo nhận thức riêng của mình cho
rằng thuyết Nghiệp Báo trong Phật Giáo là một loại nha
phiến để thoa dịu và ru ngủ người xấu số bằng
luận điệu như sau: "Bây giờ anh phải chịu khó nghèo khổ vì đã tạo
Nghiệp xấu trong quá khứ. Anh kia được giàu sang vì anh
ấy tạo Nghiệp tốt. Như vậy, hãy cam tâm chịu lấy số
phận nghèo đói của anh và cố gắng tạo Nghiệp tốt
trong hiện tại để được giàu sang trong kiếp tới. "Trong kiếp nầy anh bị hà hiếp bóc lột vì đã
tạo Nghiệp xấu trong quá khứ. Hãy nhận lãnh số phận
hẩm hiu ấy và nhẫn nại cam tâm chịu khổ. Từ nay hãy
ăn hiền ở lành, chắc rằng kiếp sau anh sẽ được giàu
sang hạnh phúc." Đức Phật không hề dạy như vậy. Thuyết Nghiệp Báo
trong Phật Giáo cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc
phán xử sau kiếp sống. Đức Phật vị tha, từ bi vô lượng
vô biên, truyền dạy Nghiệp Báo không phải để bảo vệ
người giàu sang và an ủi người nghèo khổ bằng cánh
hứa hẹn hạnh phúc huyền ảo trong tương lai. Theo lý Nghiệp Báo, chúng ta không nhất định phải bị
trói buộc trong hoàn cảnh nào, vì Nghiệp Báo không phải
là số mạng, cũng không phải Tiền Định do một oai lực
huyền bí nào đã định đoạt cho ta một cách bất khả
kháng. Chính hành động thiện hay ác của ta gây phản
ứng lành hay dữ. Do đó chúng ta hoàn toàn tự do tạo ra
những phản ứng mới để hòa dịu Nghiệp lực. Chúng ta
có đủ năng lực để chuyển phần nào cái Nghiệp của
chúng ta theo ý muốn. Chuyển đến mức độ nào chỉ tùy
nơi ta. Như vậy chúng sanh không bị bắt buộc phải gặt hái
trọn vẹn những gì đã gieo. Trong một tình trạng nào đó
và trong một giới hạn nào đó, với sự cố gắng chánh
đáng, ta có thể sửa đổi cái Nghiệp của ta. Nguồn Gốc của Nghiệp
Vô minh (avijja) hay không hiểu biết thấu đáo thực tướng
của sự vật là nguyên nhân chính tạo ra Nghiệp. Trong
Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada) có câu: "Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh" (avijja
paccaya samkhara)." Vì không am hiểu chân tướng của vạn pháp nên mới có
những hành động tạo Nghiệp. Ái dục (Tanha) - đi liền với Vô Minh - là một nguyên
nhân khác tạo duyên sanh ra Nghiệp. Chính Vô Minh và Ái
Dục là cội rễ của mọi tội ác. Tất cả những hành
động của hạng phàm nhân (puthujjana, là những chúng sanh
còn trong tam giới) mặc dầu bắt nguồn từ ba căn trong
sạch là bố thí (alobha, không tham), từ bi (adosa, không sân)
và trí tuệ (amoha, không si) vẫn còn tạo Nghiệp, vì chưa
tận diệt Vô Minh và Ái Dục. Trái lại, những loại tâm
siêu thế (maggacitta, đạo tâm) không tạo Nghiệp vì bản
chất của các loại tâm ấy có khuynh hướng tận diệt Vô
Minh và Ái Dục. Người Tạo Nghiệp Ai tạo Nghiệp? Ai gặt quả? "Nghiệp có phải là
một sự tích trữ trong linh hồn không?" Để trả lời câu hỏi tế nhị ấy, Đại Đức
Buddhaghosa viết như sau trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh
Đạo): "Không có người tạo Nghiệp. Theo Phật Giáo, có hai thực tế. Thực tế biểu hiện
ra bề ngoài và thực tế cùng tột. Thực tế bề ngoài là
những chân lý mặc ước, hay Tục đế
(sammuti sacca). Thực tế cùng tột là chân lý trừu tượng,
tuyệt đối, cùng tột, hay Chân đế
(paramattha sacca). Thí dụ như cái bàn, cái quạt, con người,
con vật v.v... là những thực tế biểu hiện ra ngoài mà
ngũ quan ta có thể cảm nhận. Bằng một cách mặc ước,
chúng ta đồng ý chấp nhận danh từ bàn, quạt, người,
vật v.v... để chỉ những vật ấy. Vậy bàn là thực
tế bề ngoài, chân lý mặc ước, tục đế. Nhưng nếu phân tách cái bàn, ta thấy rằng cái mà ta
gọi là bàn chỉ là sự kết hợp của những tế bào, và
tế bào chỉ là sự kết hợp của những năng lực và tánh
chất. Vậy, phân tách đến mức cùng tột, vật chất
chỉ là sự cấu thành của những năng lực và tánh
chất. Năng lực và tánh chất ấy là thực tế cùng tột,
chân lý tuyệt đối, chân đế. Khi nói chuyện với mọi người, nhà bác học gọi nước
là nước. Nhưng trong phòng thí nghiệm, nhà bác học gọi
nước là H2O. Nước là danh từ mặc ước, chế định,
phổ thông. H2O là danh từ chuyên môn, là thực tế tuyệt
đối. Cùng một thế ấy, trong những câu chuyện thông thường,
ta dùng danh từ mặc ước như đàn ông, đàn bà, chúng
sanh v.v... Những cái được gọi là hình sắc ấy, khi được
phân tách tỉ mỉ cho thấy rằng chỉ là những thành
phần tâm-vật-lý luôn luôn biến đổi, không thể tồn
tại y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Như vậy, Phật Giáo không tin rằng có một thực thể
đơn thuần như một người hay một linh hồn vĩnh cửu, hành
động ngoài sự hành động, tri giác ngoài sự tri giác,
hay ý thức một việc ngoài ý thức. Nói cách khác, Phật
Giáo chủ trương có sự hành động mà không có người hành
động, có sự tri giác mà không có người tri giác, có
thức mà không có người ý thức. Vậy thì ai tạo Nghiệp và ai gặt Quả? Tác ý (cetana) hay ý muốn, làm động cơ phát xuất hành
động (bằng thân, khẩu, ý), là người tạo người
Nghiệp. Thọ (vedana), cảm giác, là người gặt Quả. Ngoài
hai tâm sở"tác ý" và "thọ", không có người
tạo Nghiệp cũng không có người gặt Quả. Đại Đức Buddhaghosa dạy rằng khi những thành phần
vật chất phối hợp lại, cấu thành cái gọi là cây,
một ngày nào và ở một điểm nào, và trổ ra trái, thì
ta nói"cây sanh trái" hay "cây trổ trái". Cùng
dường thế ấy, năm uẩn(sắc, thọ, tưởng, hành, thức)
phối hợp lại, cấu thành cái gọi là trời hay người và,
một ngày nào, quả lành hay quả dữ thổ sanh thì ta nói
rằng vị trời hay người ấy có phước hay vô phước. Về điểm nầy Phật Giáo cũng đồng quan điểm với giáo
sư William James khi giáo sư bác bỏ luận cứ của Descartes
và chủ trương rằng: "Chính tư tưởng là người tư tưởng. [7]" Nghiệp ở đâu?
Một nhà phân tách tâm linh như sau viết như sau: "Nghiệp được tích trữ bên trong phần tâm linh, nhưng
thông thường chỉ có một số ít người tìm ra và xâm
nhập được vào thâm cung bí hiểm của tâm linh ấy.
Nghiệp là sự thâu nhận trọn vẹn tất cả những kinh
nghiệm đã trãi qua, những cảm giác đã thọ, những ảnh
hưởng đã thâm nhiễm của một cá nhân. Tiềm thức không
phải chỉ trung thực ghi nhận những kinh nghiệm cá nhân mà
còn giữ lại những cảm xúc và những khuynh hướng sơ
khởi và - mặc dầu hình như suy giảm lần trong con người
văn minh dưới lớp lễ nghi hình thức của xã hội - vẫn
còn tiềm lực mạnh mẽ có thể bộc phát một cách bất
ngờ với một năng lực hùng hậu không thể đóan trước
được." Người Phật tử cũng nhận định như vậy, nhưng với
một ý niệm sửa đổi căn bản khác biệt. Phật Giáo chủ trương rằng cái Nghiệp không được tàng
trữ trong một nơi nào gọi là tâm linh, bởi vì không có
chi chứng minh rằng có một nơi nào trong guồng máy phức
tạp và luôn luôn biến đổi con người có thể làm nơi
chứa đựng như một kho tàng. Tuy nhiên, mỗi kinh nghiệm, mỗi cảm giác, mỗi ảnh hưởng
đã ghi nhận, mỗi đặc tính, phàm hay thánh, của một
số cá nhân đều được phát triển tùy sự biến đổi
liên tục của những hiện tượng tâm-vật-lý của cá nhân
ấy như một dòng suối luân lưu bất tận. Tóm tắt, tất cả nghiệp lực đều tùy thuộc nơi sự
biến đổi của luồng tâm lực (citta santati) và luôn luôn
sẵn sàng phát hiện trong muôn ngàn hiện tượng, mỗi khi
có cơ hội. Một hôm Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena: -"Kính bạch Đại Đức, Nghiệp được tích trữ
ở đâu?" - Tâu Đại vương, ta không thể nói Nghiệp được tích
trữ ở một nơi nào trong cái tâm luôn luôn biến đổi,
hay ở một nơi nào khác trong thân thể con người. Nhưng tùy
thuộc nơi danh và sắc, Nghiệp khởi hiện trong một lúc
thích ứng. Cũng như ta không thể nói trái xoài được tích
trữ ở nơi nào trong cây xoài nhưng, tùy thuộc nơi cây xoài
và khi đầy đủ cơ duyên, nó sẽ trổ ra đúng lúc, đúng
mùa. [8]" Cũng như ta không thể nói gió hay lửa nằm ở nơi nào
nhất định, ta không thể quả quyết Nghiệp được chứa
đựng trong hay ngoài thân. Nghiệp là một năng lực cá biệt được chuyển từ
kiếp nầy sang kiếp khác. Nghiệp thủ một vai trò quan
trọng trong việc cấu tạo tâm tánh con người. Nghiệp
giải thích những hiện tượng kỳ diệu mà ta gọi là vĩ
nhân, thiên tài, thần đồng v.v... Một sự hiểu biết rành
mạch về định luật Nghiệp Báo là điều kiện chánh
yếu khả dĩ tạo tình trạng an lành hạnh phúc cho thế
gian. Chú thích: [1] Anguttara Nikaya, iii, 415; The Expositor phần I, trang 117;
Atthasalini, trang 88. [2[ Xem Poussin, "The Way to Nirvara", trang 68. [3] Atthasalini, trang 63; The Expositor, phần I, trang 91. [4] Xem Compendium of Philosophy; Abhidhammattha Sangaha, Ch. 1;
Manual of Abhidhamma, Ch. 1. [5] Quyển 1, trang 227. Kindred Sayings, phần I, trang 293. [6] Quyển II, trang 602. Xem Warren, Buddhism in Translation,
trang 248. The Path of Purity, chương iii, trang 728. Kammasa karako natthi - vipakassa ca vedako; Suddhadhamma
pavattanti - evetam samma dassanam. [7] Psychology, trang 216. [8] Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, chương XVII.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |