Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Tính chất của Nghiệp
Chúng
ta có phải gặt hái tất cả những nhân đã gieo không? Không
nhất thiết phải như thế. Trong bộ Anguttara Nikaya, Tăng
Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy:
"Nếu có ai cho rằng con người phải gặt hái
trọn hậu quả theo tất cả những hành động trong quá
khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và con người
cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền não: Nhưng
nếu nói rằng quả phải gặt tương xứng với nhân đã
gieo thì ắt có đời sống đạo đức và con người sẽ
có cơ hội dập tắt phiền não." [1] Như vậy, theo Phật Giáo có thể uốn nắn, chuyển hoán
cái nghiệp, mặc dầu kinh Pháp Cú, câu 127, có dạy: "Không phải bay lên trời cao, lặn xuống biển sâu,
hay chui vào hang núi, mà ta có thể tìm được nơi nào trên
thế gian nầy để lẫn tránh quả dữ của Nghiệp
xấu." Nếu như phải trả quả của tất cả những nghiệp đã
tạo trong quá khứ thì chúng sanh ắt phải chịu vĩnh
viễn sống trong đau khổ và không thể mong có ngày giải
thoát. Dầu không hoàn toàn làm chủ cái Nghiệp - vì nhân đã
gieo - nhưng ta cũng không tuyệt đối phải bó tay chịu làm
nô lệ. Dầu con người xấu xa đê tiện nhất cũng có
thể cố gắng trở nên trong sạch đạo đức. Chúng ta luôn
luôn biến đổi và luôn luôn trở thành một cái gì mới,
và cái mới ấy tùy thuộc chính ta, tùy thuộc nơi hành động
của chính ta. Từng giây, từng phút ta có thể tự cải hoán,
làm cho ta trở nên tốt đẹp hơn, cũng như xấu xa hơn.
Dầu người tội lỗi hư hèn nhất cũng không đáng khinh.
Trái lại, nên tạo cho họ một niềm tin tưởng nơi sự
cố gắng cải thiện bẩm chất bình sanh của họ. Nên thương
hại họ, biết đâu một lúc nào trong quá khứ ta cũng cùng
ở trong tình trạng với hạng người hư hèn ấy và ta đã
tiến bộ. Hôm nay ở một vị trí thấp kém, họ cũng có
thể cố gắng theo ta và có khi tiến trổi hơn ta. Ai biết được cái nghiệp đã tích trữ của một người
khác? Angulimala, tên sát nhân lừng danh khét tiếng một thời,
đã giết chết cả ngàn anh em đồng loại, trở thành
một vị A La Hán và thoát khỏi quả dữ của những hành
động tàn ác ấy. Cô Ambapali, một gái giang hồ biết hồi tâm tu hành cũng
đắc Quả A La Hán. Alavaka, dạ xoa hung tợn thường ăn thịt người, từ
bỏ thói dữ và cố gắng tu tập, cũng đắc Quả Tu Đà Hườn. Vua Asoka (A-Dục) có tiếng là hung ác bạo tàn, trở thành
một đấng minh quân, đổi những trận giặc xâm lăng
khốc liệt ra những chiến dịch truyền bá đạo lý cao siêu
thâm diệu và giáo huấn từ bi của Đức Phật, để mưu
cầu hạnh phúc cho một phần nhân loại: "Giữa oai danh của trăm ngàn vua chúa trong lịch sử
nhân loại, danh thơm cao quý vừa hùng vĩ vừa dịu dàng,
vừa trong sáng vừa trầm lặng, của Hoàng Đế A Dục chói
ngời rực rờ như một vị sao tỏ rạng." Đó là một vài trường hợp hiếm hoi chỉ rằng nhờ
ý chí hùng dũng, con người có thể đổi hẳn tâm tánh,
từ xấu ra tốt, từ dữ ra lành. Trong một vài trường hợp khác, cũng có thể quả của
một nhân yếu mà tái sanh tròn đủ, còn quả của một nhân
mạnh lại được lắng dịu. Đức Phật dạy: "Hỡi nầy các Tỳ khưu, người kia không biết khép
mình vào kỹ cương của thân, của đạo lý, của tâm,
của trí tuệ, người kém đạo đức, kém giới hạnh và
do đó, sống đau khổ. "Dầu một hành động tầm thường của người ấy
cũng đủ tạo quả đưa vào cảnh khổ. " Hỡi nầy các Tỳ khưu, người nọ có nếp sống
kỹ cương về phương diện vật chất cũng như về mặt
tinh thần đạo đức, và trí tuệ, người đạo đức cao
thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm Từ vô lượng
đối xử với tất cả mọi chúng sanh. "Người như thế, dầu có một hành động lầm
lạc tầm thường như kể trên, hành động ấy không tạo
quả trong hiện tại hay trong kiếp vị lai. [2] "Tỷ như có một người kia sớt một muổng muối vào
bát nước. Nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ như
thế nào? Nước trong bát có thể trở nên mặn và khó
uống không? - Bạch hóa Đức Thế Tôn, có. - Tại sao? - Bạch Đức Thế Tôn, vì nước trong bát thì ít mà cho
vào một muổng muối thì phải mặn. - Bây giờ, tỷ như người kia đổ muổng muối ấy
xuống sông Hằng (Ganges), nầy hỡi các Tỳ khưu, các
thầy nghĩ sao? Nước sông Hằng có vì muối ấy mà trở nên
mặn và khó uống không? - Bạch hóa Đức Thế Tôn, không? - Tại sao? - Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng rộng lớn, nước
nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ làm mặn. - Cũng dường thế ấy, có trường hợp người kia vì
phạm một lỗi nhỏ mà chịu cảnh khổ. Người khác cũng
tạo một lỗi tương tợ nhưng gặt quả nhẹ hơn và sau
khi chết, quả kia không trổ sanh nữa, dầu trổ một cách
nhẹ nhàng. "Có thể có trường hợp người kia bị bỏ tù vì
ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu, và cũng
trong trường hợp người nọ không bị bỏ tù vì nửa xu,
một xu, hay một trăm đồng xu. "Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm xu? "Khi người ta nghèo khổ, túng thiếu, bần cùng thì
dầu chỉ nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu cũng bị
bỏ tù. "Ai không bị bỏ tù vì nữa xu, một xu, hay một trăm
đồng xu? "Khi người ta giàu có, dư dả, sung túc, thì không
bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu. "Cùng một thế ấy, có trường hợp người kia
chỉ có một vài hành động bất thiện nhỏ nhặt mà
phải lâm vào cảnh khốn cùng, và có trường hợp người
nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải gặt
quả nào trong kiếp hiện tại. Hành động bất thiện ấy
cũng không có hậu quả nhỏ nhen nào sau kiếp sống nầy.
[3]" Nguyên Do Vì Sao Đôi Khi Quả Trổ Sanh
Trái Ngược Với Nhân Đã Gieo Nhân lành tạo quả lành. Nhưng đã gieo nhân lành rồi còn
hối tiếc, đã làm một việc thiện mà còn ăn năn, hối
hận, thì quả trổ sanh không được tương xứng với nhân. Tích chuyện sau đây là một ví dụ: Ngày kia Vua Pasenadi xứ Kosala đến hầu Đức Phật và
bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, tại thành Savatthi (Xá Vệ) có
một nhà triệu phú vừa qua đời mà không có người
thừa kế. Vì lẽ ấy bao nhiêu tài sản của ông, gồm hàng
trăm thoi vàng, ngoài số bạc và của cải khác, đều được
bổ xung vào kho. Bạch Đức Thế Tôn, người giàu có lúc
ấy còn sanh tiền sống thật kham khổ, ăn thì chỉ cơm nát
với thức ăn thừa và thiu, mặc thì chỉ dùng vải thô và
chỉ gai, còn di chuyển thì chỉ có một chiếc xe cũ kỹ
với con ngựa gầy." Đức Phật dạy: "Mặc dầu vậy, trong một tiền kiếp nhà triệu phú
ấy thường để bát cúng dường đến một vị Độc Giác
Phật tên là Taragasikhi. Tuy để bát cúng dường nhưng ông
không bao giờ quan tâm đến công đức ấy. Ông lại có ý
hối tiếc vì đã mất của, và tự nghĩ thầm: 'Phải chi
ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở trong nhà
còn hơn.' Ngoài ra, ông còn giết chết một người cháu để
sang đoạt gia tài. "Do quả lành của công đức bố thí cúng dường,
ông tái sanh bảy lần trong cảnh Trời. Cũng do quả lành
ấy ông tái sanh bảy lần làm triệu phú tại thành
Savatthi (Xá Vệ) nầy. Vì ông đã hối tiếc, nghĩ thầm
rằng: 'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn
kẻ ở trong nhà còn hơn', nên mặc dầu giàu có, ông không
thể toại hưởng sự nghiệp vĩ đại ấy, không dám ăn
ngon, không dám mặc đẹp, luôn luôn lo sợ hết của, không
dám nhờ tiền để tạo tiện nghi cho đời sống vật
chất. "Vì đã giết chết một người cháu để sang đoạt
tài sản, nhà triệu phú độc ác ấy phải chịu đau đớn
nhiều năm, nhiều trăm năm, trong cảnh khổ. Và cũng vì hành
động ác độc ấy ông phải chịu tuyệt dòng liên tiếp
trong bảy kiếp, do đó bao nhiêu tài sản của ông phải
bị xung vào quốc khố. [4]" Nhà triệu phú được một sự nghiệp vĩ đại nhờ nhân
tốt đã gieo. Tuy nhiên đã gieo nhân lành mà còn hối
tiếc nên dù được sự nghiệp lớn lao, ông không được
hưởng. Duyên Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
Trong sự báo ứng của nghiệp ta nên biết rằng có
những năng lực hỗ trợ, nâng đỡ, tạo điều kiện,
trợ duyên cho quả sớm trổ sanh, và ngược lại cũng có
những năng lực kiềm hãm, ngăn chặn, không cho quả trổ
sanh, hay nghịch duyên. Sự sanh trưởng (gati), thời gian hay hoàn cảnh (kala), nhân
cách hay tướng mạo (upadhi), và sự nỗ lực cố gắng
(payoga) là những năng lực trợ duyên hay nghịch duyên,
hỗ trợ hay ngăn cản quả trổ sanh. Thí dụ như người kia sanh trưởng trong một gia đình
quý phái, giàu sang, hay trong hoàn cảnh an lành, sự tái
sanh tốt ấy đôi khi là một năng lực ngăn chặn không
cho quả dữ trổ sanh. Trái lại, người nọ sanh trưởng trong gia đình ghèo khó
khốn cùng, hay trong cảnh khổ, sự tái sanh bất hạnh
của người nầy tạo điều kiện thuận tiện cho quả
dữ trổ sanh. Danh từ Phật Giáo gọi những năng lực ấy là "tái
sanh thuận lợi" (gati sampatti) và "tái sanh bất
thuật lợi" (gati vipatti). Người kia, dầu không phải là hạng thông minh, mà nhờ
có Nghiệp tốt, sanh trưởng trong hoàng tộc thì cũng được
thiên hạ kính nể kiêng vì. Nếu cũng kém thông minh như
người ấy mà sanh trong gia đình túng thiếu bần hàn thì
ắt không được kính trọng như vậy. Đức vua Dutthagamani xứ Tích Lan gieo nhân xấu vì đã gây
chiến tranh chống tộc Tamil, đồng thời cũng tạo nhiều
Nghiệp tốt do các công tác từ thiện có tánh cách tôn giáo
và xã hội. Nhờ Nghiệp Tái Tạo tốt ấy Ngài được tái
sanh vào cỏi Trời. Tục truyền rằng đến thời Đức
Phật Di Lạc (Metteya) ra đời, Ngài sẽ trở xuống một
lần chót. Nhân bất thiện mà Ngài đã gieo không trổ
quả, nhờ được "tái sanh thuận lợi" trong hoàn
cảnh tốt. Trường hợp vua Ajatasattu (A-Xà-Thế) là một thí dụ khác.
Phạm trọng tội giết cha, nhưng về sau ông đến gần Đức
Phật và trở nên một vị minh quân có tâm đạo nhiệt thành.
Vì mang trọng giết cha, ông phải tái sanh vào cảnh khổ,
và do sự tái sanh bất thuận lợi ấy, bao nhiêu nhân lành
ông đã gieo không đủ duyên hỗ trợ để trổ quả . Dung mạo đẹp đẽ (upadhi sampatti) hay xấu xa (upadhi
vipatti) là hai yếu tố khác có thể hộ trợ hay gây trở
ngại cho sự báo ứng của Nghiệp. Nếu nhờ Nghiệp tốt mà người kia được tái sanh
thuận lợi, nhưng bất hạnh phải tật nguyền hay có tướng
mạo dung nhan xấu xí thì cũng không hoàn toàn trọn hưởng
phước lành của mình. Một vị hoàng tử đáng lẽ phải
nối ngôi cha để trị vì thiên hạ, nhưng nếu vị ấy
tật nguyền cũng có thể đó là một trở ngại, không
được lên ngôi báu. Trái lại, diện mạo phương phi là yếu tố giúp thành
công. Một đứa trẻ tuy nghèo nhưng mặt mày thông minh sáng
sủa có thể làm cho người khác chú ý đến và gieo ít
nhiều thiện cảm đến người khác. Thời gian hay cơ hội thuận lợi và bất thuật lợi
(kalasampatti và kalavipatti) là hai yếu tố khác có thể
ảnh hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp. Thí trong một
thiên tai, tất cả đều phải cùng chung chịu một số
phận. Đó là điều kiện bất thuận lợi, trợ duyên cho
nghiệp xấu trổ sanh. Cũng có những điều kiện thuận
lợi làm suy giảm năng lực hoặc ngăn chặn không cho
Nghiệp xấu trổ sanh. Trong các năng lực trợ duyên và nghịch duyên, hạnh
tinh tấn hay sự nỗ lực cố gắng (payoga) là quan trọng hơn
tất cả. Trong sự báo ứng xủa Nghiệp, tình trạng cố
gắng hay thiếu cố gắng giữ một vai trò chánh yếu. Do
cố gắng trong hiện tại, ta có thể chuyển Nghiệp, tạo
Nghiệp mới, hoàn cảnh mới, môi trường mới, cả một
thế giới mới. Dầu có điều kiện thuận lợi và được trợ duyên đầy
đủ mà nếu không nỗ lực cố gắng thì chẳng nhưng ta
bỏ mất cơ hội quý báu, mà có khi còn hoang phí cả sự
nghiệp, vật chất hay tinh thần. Nếu bệnh mà không tìm thầy thuốc. Nếu gặp khó khăn
mà không cố gắng giải quyết, không nỗ lực để vượt
qua, thì quả dữ ắt được trợ duyên đầy đủ để
trổ sanh. Trái lại, nếu ta tận lực cố gắng để vượt
qua mọi khó khăn, luôn luôn cải thiện hoàn cảnh, tận
dụng mọi khả năng mọi cơ hội hiếm có để vững vàng
tiến bộ thật sự, Nghiệp tốt sẽ được trợ duyên đầy
đủ để trổ sanh. Mặc dầu không hoàn toàn làm nô lệ cũng không tuyệt
đối làm chủ cái Nghiệp, chắc chắn là những yếu tố
trợ lực và nghịch duyên ấy cũng ảnh hưởng phần nào
năng lực báo ứng của Nghiệp, do sự tái sanh, hoàn
cảnh, cá tính, cố gắng cá nhân, và những yếu tố tương
tợ. Chính lý Nghiệp Báo đem lại cho người Phật tử
sự an ủi, niềm hy vọng, chỗ nương tựa và khích lệ
tinh thần để có thể đảm vững bước trên con đường
tiến bộ. Khi có việc bất chắc xảy đến, khi gặp trợ ngại,
khó khăn, thất bại, và hoàn cảnh bất hạnh, người
Phật tử nhận định rằng mình đang gặt hái giống nào
mà trước kia chính mình đã gieo, mình đang trang trãi một
món nợ đã vay lúc nào trong quá khứ. Tuy nhiên, thay vì phải bó tay chịu quy hàng hoàn cảnh
để cho định luật Nghiệp Báo tự nhiên diễn tiến, người
Phật tử tận lực cố gắng diệt trừ, bứng tận gốc
rễ giống cỏ xấu, và gieo trồng những giống tốt. Tương
lai hoàn toàn nằm trong tay ta. Người tin tưởng lý Nghiệp Báo không khi nào lên án
kẻ hư hèn tội lỗi bởi vì mọi người đều có khả năng
và cơ hội để tự cải thiện bất cứ lúc nào. Người
kia dầu phải chịu đau khổ trong hiện tại nhưng vẫn có
hy vọng như mọi người, rằng trong một ngày tươi đẹp
nào, chính mình cũng có thể đạt Đạo Quả cao thượng,
an vui hạnh phúc vĩnh cửu trường tồn. Ta tạo địa
ngục cho ta, do chính hành động của ta. Cũng do hành động
của chính ta, ta tạo thiên đàng cho ta. Một người Phật tử thuần thành và hiểu biết chắc
chắn định luật Nghiệp Báo không khi nào van vái cầu xin
được cứu rỗi. Trái lại, đặt trọn niềm tin nơi chính
mình, nơi hạnh tinh tấn của mình, để được giải thoát.
Thay vì bó tay đầu hàng hay vuốt ve tâng bốc một thần
lực siêu nhân nào, người Phật tử đặt trọn niềm tin
mình trên ý trí của mình, và không ngừng hoạt động để
tạo an lành cho tất cả. Niềm tin vững chắc nơi Nghiệp Báo "nâng cao giá
trị của hạnh tinh tấn và kích thích lòng nhiệt thành",
bởi vì lý Nghiệp Báo dạy mỗi người phải lãnh lấy trách
nhiệm của mình. Đối với người Phật tử sơ cơ, định luật Nghiệp
Báo là một điều răn. Với hạng người trí thức,
Nghiệp Báo là một khích lệ. Luật Nhân Quả giải thích vấn đề đau khổ, giải thích
tình trạng bí ẩn của cái được gọi là Số Mạng và
Tiền Định của một vài tôn giáo và, trên hết, giải thích
hoàn cảnh chênh lệch giũa loài người, giữa chúng sanh. Chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp số phận của
chúng ta. Chính ta tạo ra hay tiệu diệt ta. Chính ta tạo
thiên đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta. Những gì ta nghĩ, nói, và làm, là của ta. Chính tư tưởng,
lời nói và hành động là Nhgiệp. Và Nghiệp đưa ta lên
hay xuống từ kiếp nầy sang kiếp khác, mãi mãi trong vòng
luân hồi. Đức Phật dạy: "Phước và tội mà con người tạo ra là những gì
mà con người làm chủ, những gì đưa con người đi,
từ nơi nầy... Chú thích: [1] Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần 1, trang 249. Xem
Warren, "Buddhism in Translations", trang 218. [2] Đức Phật muốn ám chỉ các vị A La Hán. [3] Aguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần 1, trang 249, Xem
Warren, "Buddhism in Translations", trang 218. [4] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, phần i, trang 91. Xem Warren,
"Buddhism in Translations", trang 296; và Grimm, "The
Doctrine of the Buddha", trang 248. [5] Kindred Sayings, phần i, trang 98.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |