Đức
Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Hòa thượng Narada, 1980
Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Hiện tượng Tái Sanh
Theo
triết học Phật Giáo (Vi Diệu Pháp, Abhidhamma), ba hiện tượng
có thể xuất hiện cho con người thấy trong giai đoạn
hấp hối là: Nghiệp (Kamma), Hiện Tượng Của Nghiệp
(Kamma Nimita), và Biểu Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta).
Kamma (Nghiệp) là vài hành động tốt hay xấu trong đời
sống hoặc ngay trước phút lâm chung. Nếu người hấp
hối đã phạm một trong năm trọng tội (Garuka Kamma, ngũ
nghịch trọng tội: giết cha, giết mẹ, giết một vị A
La Hán, làm tổn thương Đức Phật và chia rẽ Tăng Chúng),
hoặc người ấy đã đắc một trong các tầng Thiền-na
(Jhana), thì chứng nghiệm hiện tượng Kamma trước khi
chết. Những hành động thiện hay bất thiện đặc biệt
ấy có năng lực thật mạnh, chen vào, áp đảo tất cả các
hành động khác và biểu hiện thật rõ rệt trước mắt
người hấp hối. Nếu không có Nghiệp nặng như vậy thì có thể tiến
trình tư tưởng cuối cùng của người ấy đeo níu theo cái
Nghiệp vừa tạo liền trước khi chết, gọi là Asanna
Kamma, hay Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là hành vi
cuối cùng hay hành vi nào mà chập tư tưởng cuối cùng
nhớ đến, liền trước khi lâm chung. Nếu không phải Cận Tử Nghiệp thì có thể là Thường
Nghiệp (Acinna Kamma), hành động tốt hay xấu thường ngày,
những việc ta thường làm hằng ngày, hay những việc mà
ta thưòng nhớ đến và ưa thích hơn hết. Trong trường
hợp nầy, nếu người hấp hối là một bác sĩ thì thấy
đang săn sóc bệnh nhân, một tỳ khưu thì thấy đang
thuyết pháp, một tên trộm thì thấy đang cạy cửa, khoét
vách v.v... Nếu ba trường hợp trên không xảy ra thì Nghiệp Tích
Trữ (Katatta Kamma), xuất hiện. Nghiệp Tích Trữ gồm tất
cả những trường hợp không có kể trong ba loại Nghiệp
trên, những hành động, tốt hay xấu, không quan trọng. Hiện Tượng của Nghiệp - Kamma Nimitta - là những biểu
tượng xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối dưới
hình thức sắc, thinh, hương, vị, xúc hay pháp, tức là
những hình sắc, âm thanh, mùi, vị hay tư tưởng mạnh
mẽ, quen thuộc, trong nếp sanh hoạt hằng ngày, tốt hay
xấu. Như người đồ tể thì thấy con dao hay con thú
chết, bác sĩ thì thấy bệnh nhân, người mộ đạo thì
thấy các món lễ vật v.v... Biểu Hiện Lâm Chung - Gati Nimitta - là vài dấu hiệu có
liên quan đến cảnh giới mà người hấp hối sắp được
tái sanh vào. Do đó, mặt người sắp lâm chung thường
lộ vẽ vui sướng hoặc đau khổ. Khi triệu chứng phát
sanh, nếu là xấu thì ta có thể sửa chữa kịp thời
bằng cách giảng kinh hay nói pháp để tạo đối tượng
tốt đẹp trong tư tưởng người sắp chết. Những Biểu
Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta) [1] thường là lửa, rừng, vùng
sơn cước, thai bào mẹ, thiên cung v.v... Dầu sanh trong trường hợp bất đắc kỳ tử, tiến trình
tư tưởng của người sắp chết vẫn diễn tiến và đối
tượng của chập tư tưởng cuối cùng ấy là một trong
ba hiện tượng: Nghiệp, Hiện Tượng của Nghiệp và
Biểu Hiện Lâm Chung (Kamma, Kamma Nimitta, và Gati Nimitta). Thí dụ một người sắp lâm chung và tái sanh vào cảnh
người. Đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng là
một vài hành động (nghiệp) tốt. Tiến trình tư tưởng
cuối cùng của người ấy diễn ra như sau: Luồng Bhavanga
ngưng rung động trong hai chập rồi diệt. Liền khi ấy Ngũ
Môn Hướng Tâm (manodvaravajjana) phát sanh rồi tắt. Kế đến
một giai đoạn tâm lý quan trọng, tiến trình Javana, lúc bình
thường phát sanh liên tiếp trong bảy chập, nhưng trong tư
tưởng cuối cùng của một kiếp sống thì chỉ phát sanh
trong năm chập liên tiếp. Tiến trình nầy không có năng
lực tái tạo mà chỉ có nhiệm vụ điều hòa kiếp sống
mới (abhinavakarana). Trong trường hợp của người sắp tái
sanh trở lại vào cảnh người, đối tượng của luồng
Javana cuối cùng là một nghiệp tốt, vậy là tâm thiện.
Đăng Ký Tâm (tadalambhana citta), có phận sự ghi nhận, có
thể phát sanh trong hai chập, mà cũng có thể không phát
sanh. Đó là chập tư tưởng tối hậu của kiếp sống
hiện tại. Có người lầm tưởng rằng Tử Tâm (cuti
citta) tạo điều kiện để tái sanh. Trong thực tế, Tử Tâm
không có nhiệm vụ đặc biệt nào. Chính tiến trình
Javana tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến. Cái chết thật sự đến lúc Tử Tâm (cuti citta) chấm
dứt. Kể từ đó tâm và vật thực (cittaja và aharaja) không
còn tạo năng lực vật chất nữa. Chỉ còn một loại năng
lực vật chất phát sanh do hơi nóng (utuja) tiếp tục tồn
tại đến khi cơ thể vật chất tan rã [2]. Lúc Tử Tâm vừa tắt thì Thức-tái-sanh phát hiện cùng
một lúc cũng phát sanh "mười-thành-phần của thân",
"mười-thành-phần của giống" nam hay nữ, và
"mười-thành-phần của ý căn" [3]. Như vậy, theo Phật Giáo, tánh chất nam hay nữ đã được
quyết định ngay lúc bà mẹ thọ thai và do Nghiệp tạo điều
kiện, chớ không phải là một sự hòa hợp ngẫu nhiên
của minh châu và tinh trùng. Sự diệt tắt của tâm trong kiếp vừa qua là cơ hội
để cho một tâm mới phát sanh trong kiếp sống kế. Tuy
nhiên, không có cái gì vĩnh cửu, nguyên vẹn đơn thuần,
không biến đổi, được chuyển từ quá khứ sang hiện
tại. Cũng như bánh xe lăn tròn trên đường, mỗi một lúc
chỉ có một điểm của bánh xe chạm với đường. Nói
một cánh chính xác, chúng ta chỉ sống trong từng chập tư
tưởng. Ta chỉ sống trong hiện tại và hiện tại nhất
định phải trôi vào dĩ vãng. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống,
trong một khoảnh khắc, mỗi chập tư tưởng, sanh, trụ,
rồi diệt, và trong khi diệt, chuyển tất cả năng lực và
cảm giác đã ghi nhận cho chập tư tưởng kế. Vậy mỗi
chập tư tưởng mới gồm những năng lực tiềm tàng của
chập trước và thêm vào đó chút gì khác. Đến lúc
chết, chập tư tưởng cuối cùng chấm dứt, để nhường
chổ cho chập tư tưởng kế phát sanh trong kiếp sống
mới. Vậy, cái thức mới gồm chứa tất cả những kinh
nghiệm trong quá khứ, vì tất cả những cảm giác trong quá
khứ đều được ghi nhận trong cái tâm biến đổi, và
tất cả tiềm năng đều được chuyển từ kiếp nầy
sang kiếp khác, mặc dầu phần vật chất tan rã. Vì lẽ
ấy, đôi khi có người còn nhớ được kiếp quá khứ
của mình. Nếu trí nhớ chỉ thùy thuộc khối não, tức
nhiên không thể có người nhớ được tiền kiếp của mình. "Chúng sanh mới là sự biển hiện của luồng
nghiệp trong hiện tại, không giống hệt cũng không đồng
nhất với chúng sanh trước kế đó. "Những thành phần (ngũ uẩn) tạo nên chúng sanh
ấy không giống hệt cũng không phải là một với thành
phần (ngũ uẩn) đã tạo nên chúng sanh trước. Tuy nhiên,
cũng không phải hoàn toàn là khác vì cả hai cùng nằm
chung trong một luồng nghiệp, mặc dầu biểu hiện dưới
hình thức mới, trong thế gian mà ngũ quan ta có thể thâu
nhận, và ta cho là có một chúng sanh mới." Theo Phật Giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời
sống tâm-vật-lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt
của: sinh lực (ayu) - tức đời sống tâm linh và vật lý
(jivitidriya), hơi nóng (usma) và thức (vinnana). Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một
chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực
làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt. Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà
ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là
biểu hiện bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn
có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện
vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở lại
nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cùng thế ấy,
sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp
lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến
sự phát sanh của công thức mới. Tuy nhiên, không có gì
trường tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần,
"chuyển" từ hiện tại sang tương lai. Trong trường hợp nêu trên, người chết tái sanh trở
lại vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên
là một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh (patisandhi vinnana) là
tâm thiện ấy phát sanh, tự nhiên chuyển đến hạt minh
châu và tinh trùng tương xứng trong cảnh người và tắt,
nhường cho những chập Bhavanga nối tiếp. Như thế, lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn luôn luôn
trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay
lúc chết những chập tư tưởng vẫn liện tục kế tiếp
như trong đời sống. Hiện tượng tử-sanh, chết và tái sanh, diễn ra tức
khắc, dầu ở nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra
trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu
thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết
ngay đến tái sanh, không trãi qua một trạng thái chuyển
tiếp nào (antarabhava). Phật Giáo thuần túy không chủ trương
có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào, chờ
đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai
[4]. Trong kinh Milinda Panha (Mi-lin-đa Vấn Đạo), đức vua
Milinda hỏi Đại Đức Nagasena: "Kính bạch Đại Đức, nếu có một người chết
ở đây và tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên và một người
khác cũng chết ở đây và tái sanh tại Kashmir, người nào
sanh ra trước? - Tâu Đại Vương, cả hai cùng sanh ra một lượt. Đại
Vương sanh ở đâu? - Kính bạch Đại Đức, trong một làng nọ gọi là
Kalasi. - Làng Kalasi cánh đây bao xa? - Bạch Đại Đức, lối 200 dặm. - Tâu Đại Vương, Kashmir cách đây bao xa? - Bạch Đại Đức, lối 20 dặm. - Bây giờ xin Đại Vương hãy nghĩ đến làng Kalasa. - Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong. - Và bây giờ Đại Vương xin hãy nghĩ đến Kashmir. - Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong. - Trong khi nghĩ đến hai nơi, nơi nào tư tưởng của Đại
Vương đến mau và nơi nào đến chậm? - Bạch Đại Đức cả hai đều bằng nhau. - Vậy, tậu Đại Vương, cùng một thế ấy, người
chết ở đây và tái sanh vào cảnh Phạm Thiên không chậm
hơn người chết ở đây và tái sanh ở Kashmir. - Kính bạch Đại Đức, Ngài ban thêm cho con một thí
dụ khác. - Tâu Đại Vương, nếu hai con chim đang bay trên trời và
cả hai cùng đáp một lúc. Một con đáp trên ngọn cậy
cao. Còn con kia thì đáp trên ngọn cây thấp. Tâu Đại Vương
nghĩ thế nào, cái bóng của con nào rọi xuống đất trước? - Cả hai cái bóng đều rọi xuống cùng lúc. Không có cái
nào rọi trước cái nào rọi sau. [5]" -oOo- Vấn đề có thể được nêu lên: "Tìm đâu luôn luôn
có minh châu và tinh trùng sẵn sàng để tiếp nhận
thức-tái-sanh?" Theo Phật Giáo, số chúng sanh vô cùng tận, vô hạn định,
và nơi trú ngụ của chúng sanh cũng vậy. Bào thai cũng không
phải là nơi duy nhất cho sự tái sanh. Quả địa cầu chỉ là một điểm nhỏ, so với vũ
trụ bao la, không phải là cảnh giới duy nhất có thể trú
ngụ. Và con người cũng không phải là chúng sanh duy
nhất. [6] Vậy, tin rằng luôn luôn có một nơi thích ứng để
tiếp nhận thức tái sanh cũng không có gì quá đáng. Nếu
ta tung lên trời một hòn gạch, hòn gạch sẽ rơi trở
xuống, và luôn luôn có một điểm nào trên mặt đất
sẵn sàng tiếp nhận hòn gạch. Chú thích: [1] Quyển "The Tibetan Book of the Dead" của tác
giả Dr W.T. Evans-Wents, có trình bầy đầy đủ chi tiết [2] Theo Phật Giáo năng lực vật chất do bốn yếu tố
tạo nên: a) Kamma (nghiệp), là hành động thiện hay bất thiện
trong quá khứ. [3] Xem Chương 25 [4] Dr Evans-Wents viết rằng theo kinh sách Tây Tạng, có
một trạng thái chuyển kiếp từ khi chết đến lúc đầu
thai. Linh hồn người chết phải ở trạng thái ấy trong
1, 2, 3, 4, 5, 6 hay 7 tuần lễ, cho đến 49 ngày ("The
Tibetan Book of the Dead", trang XLII - XLIII, 58, 160, 165).
Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Đức Phật (Xem
"A Manual of Abhidhamma). [5] "Milinda's Questions", phần 1, tr. 127-128. [6] Trên dãy ngân hà có lối một triệu hành tinh trên
ấy có sự sống -- "The Nature of the Universe", Fred
Hoyle, tr. 87-89.
|
[Thư Mục] |
Last updated: 14-07-2000 |
Web master:
binh_anson@yahoo.com |