-ooOoo-
[01]
HẠNH
PHÚC AN LÀNH
H
ạnh
phúc an lành là điều mong ước không những của nhân loại
mà còn của các hàng chư thiên nữa. Mỗi chúng sinh có quan niệm
về hạnh phúc an lành không hoàn toàn giống nhau, nên thường
tranh luận nhau, suốt thời gian lâu dài mà không nhất trí với
nhau được.
May sao, gặp thời kỳ Ðức
Phật xuất hiện trên thế gian, các hàng chư thiên đồng nhau
đến hầu Ðức Phật, đảnh lễ Ðức Phật xong, bạch bằng
bài kệ rằng:
"Bahù devà manussà
ca,
Mangalàni acintayum.
Àkankhamànà sotthànam,
Brùhi mangalàmuttamam".
Kính bạch Ðức Thế
Tôn cao thượng!
Phần đông chư thiên cùng nhân loại,
Mong ước điều hạnh phúc an lành,
Cho kiếp hiện tại, kiếp vị lai,
Ðã nhiều năm suy xét, xét suy,
Không nhất trí quan niệm hạnh phúc.
Kính xin Ngài từ bi tế độ,
Thuyết giảng pháp an lành cao thượng.
Nhân dịp ấy Ðức Phật
thuyết bài kinh Mangalasutta (kinh An lành), gồm có 38 pháp hạnh
phúc an lành, bắt đầu bằng 3 pháp là:
"Asevanà ca
bàlànam,
Panditànanca sevanà,
Pùjà ca pùjaneyyànam,
Etam mangalamuttamam".
Này tất cả chư thiên,
nhân loại!
Có 3 pháp an lành cao thượng:
Một, không nên thân cận kẻ ác,
Hai, nên thân cận bậc Thiện trí,
Ba, lễ bái bậc đáng tôn kính.
Ðiều nào cũng an lành cao thượng.
Trong 38 pháp hạnh phúc
an lành, đây là 3 pháp quan trọng đầu tiên để mở đường
cho mọi nguồn hạnh phúc an lành khác được phát triển từ
hạnh phúc an lành trong tam giới , cho đến an lành siêu
tam giới . Cho nên, điều trước tiên cần phải biết rõ
"ai là kẻ ác", "ai là bậc Thiện trí".
Biết được kẻ ác để
mà không dám gần, biết được bậc Thiện trí để mà thường
thân cận.
Thế nào gọi là kẻ
ác?
Kẻ ác (bàla)
không hẳn là người thất học, nghèo hèn, xấu xí, tàn tật
v.v....
Ðức Phật dạy có nhiều
cách nhận xét về kẻ ác như sau:
* Nhận xét về trạng
thái:
Trong đời này, kẻ ác
thường nghĩ điều ác; thường nói lời ác; thường làm việc
ác. Nếu kẻ ác không nghĩ điều ác, không nói lời ác;
không làm việc ác, thì làm sao chư bậc Thiện trí biết rõ
được rằng: người ấy là kẻ ác?
Do kẻ ác thường nghĩ
điều ác; thường nói lời ác; thường làm việc ác; cho
nên, chư bậc Thiện trí mới biết được rằng: người ấy
là kẻ ác.
- Nghĩ điều ác nghĩa
là: nghĩ đến sự tham lam của cải người khác một cách
phi pháp; nghĩ đến thù hận người khác; nghĩ đến sự tà
kiến thấy sai chấp lầm.
- Nói lời ác nghĩa là:
nói dối; nói lời đâm thọc chia rẽ; nói lời thô tục, chửi
rủa mắng nhiếc; nói lời vô ích.
- Làm việc ác nghĩa là:
giết hại chúng sinh; trộm cắp của cải người khác; tà
dâm.
* Nhận xét về nghiệp:
Kẻ ác thường tạo thân
ác nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp.
- Thân ác nghiệp có 3
loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu ác nghiệp có 4
loại: nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ; nói lời thô tục
ch?i rủa mắng nhiếc; nói lời vô ích.
- Ý ác nghiệp có 3 loại:
tham lam, thù hận, tà kiến.
Ðó là 10 ác nghiệp mà
kẻ ác thường tạo.
Do đó, chư bậc Thiện
trí nhận xét biết rõ được người ấy là kẻ ác.
* Nhận xét về tội lỗi:
- Kẻ ác không thấy,
không biết điều tội lỗi, sai lầm của mình.
- Dầu được thấy, được
biết điều tội lỗi sai lầm của mình rồi, vẫn không chịu
từ bỏ, không chịu sửa sai.
- Người khác phạm lỗi với kẻ ác, đến xin sám
hối tha lỗi, kẻ ác vẫn khư khư không chịu xá lỗi cho họ.
Người nào có hành vi cử
chỉ như vậy gọi là kẻ ác.
Kẻ ác thường che giấu
tội lỗi của mình, khoe khoang điều tốt của mình; và thường
hay nói điều xấu, phơi bày những tội lỗi của người khác,
không ca ngợi những điều thiện, điều tốt của người khác.
Người nào có tánh xấu
như vậy gọi là kẻ ác.
Kẻ ác thường chê
trách những bậc đáng ca tụng; thường ca tụng những hạng
người đáng chê trách; thường tin tưởng những hạng người
không đáng tin.
Người nào có tư cách
sai lầm như vậy gọi là kẻ ác v.v....
Thật ra, kẻ ác không tự
biết mình là người ác, cũng không biết kẻ khác là người
ác hoặc là bậc Thiện trí; bởi vì họ quá si mê.
Kẻ ác đã tạo thân ác
nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp tự làm khổ mình, làm
khổ người và làm khổ những chúng sinh khác.
Kẻ ác không những làm
cho mình những điều bất lợi, sự thoái hoá, sự thống khổ
lâu dài trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai; mà
còn đem lại cho những chúng sinh gần gũi những điều bất lợi,
những sự thoái hoá, những sự thống khổ lâu dài trong kiếp
hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa.
Kẻ ác đã tạo thân ác
nghiệp, khẩu ác nghiệp, ý ác nghiệp cho quả khổ ở kiếp
hiện tại; sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh
trong 4 ác đạo: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ
do ác nghiệp của mình đã tạo.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Không nên thân cận với kẻ ác". Ðó là điều
hạnh phúc an lành cao thượng trong kiếp hiện tại lẫn nhiều
kiếp vị lai.
Thế nào gọi là bậc
Thiện trí?
Bậc Thiện trí (pandita)
không hẳn là người có học thức, giàu sang phú quý, có quyền
cao chức trọng, xinh đẹp v.v....
Ðức Phật dạy có nhiều
cách nhận xét về bậc Thiện trí như sau:
* Nhận xét về trạng
thái:
Trong đời này, bậc Thiện
trí thường nghĩ đến điều thiện; thường nói đến điều
thiện; thường làm nhiều việc thiện. Nếu bậc Thiện trí
không nghĩ đến điều thiện, không nói đến điều thiện;
không làm nhiều việc thiện thì làm sao chư bậc Thiện trí
biết rõ được rằng: người ấy là bậc Thiện trí?
Do bậc Thiện trí thường
nghĩ đến điều thiện; thường nói đến điều thiện; thường
làm nhiều việc thiện; cho nên, chư bậc Thiện trí mới biết
được rằng: người ấy là bậc Thiện trí.
- Nghĩ đến điều thiện
nghĩa là: không nghĩ đến sự tham lam của cải người khác
một cách phi pháp, mà thường hay bố thí; không nghĩ đến
thù hận người khác, mà thường rải tâm từ; không nghĩ
đến tà kiến thấy sai chấp lầm, mà nghĩ đến chánh kiến
thấy đúng theo sự thật chân lý.
- Nói điều thiện
nghĩa là: không nói dối, mà nói lời chân thật; không nói
lời đâm thọc chia rẽ, mà nói lời hoà hợp; không nói lời
thô tục chửi rủa mắng nhiếc, mà nói lời nghe êm tai, tế
nhị; không nói lời vô ích, mà nói lời có ích cho mọi người.
- Làm việc thiện nghĩa
là: không sát sanh, mà thường phóng sanh; không trộm cắp,
mà thường đem của cải bố thí cho người khác; không tà
dâm, mà thường tôn trọng hạnh phúc gia đình người khác.
* Nhận xét về nghiệp:
Bậc thiện trí thường
tạo thân thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp, ý thiện nghiệp.
- Thân thiện nghiệp
có 3 loại: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
- Khẩu thiện nghiệp
có 4 loại: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ,
không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời
vô ích.
- Ý thiện nghiệp có 3
loại: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến.
Ðó là 10 thiện nghiệp
mà bậc Thiện trí thường tạo. Do đó, chư bậc Thiện trí
biết rõ người ấy là bậc Thiện trí.
* Nhận xét về tội lỗi:
- Bậc Thiện trí thấy
rõ, biết rõ được điều tội lỗi sai lầm của mình.
- Khi thấy rõ biết rõ
được điều tội lỗi sai lầm của mình rồi, liền sửa chữa
ngay; rồi họ cố gắng thu thúc không để tái phạm nữa.
- Người khác phạm lỗi
với bậc Thiện trí, đến xin sám hối tha lỗi, bậc Thiện
trí hoan hỷ xá lỗi, không còn chấp lỗi.
Người nào có hành vi cử
chỉ như vậy, gọi là bậc Thiện trí.
Bậc Thiện trí không che
giấu tội lỗi của mình; không thích khoe khoang điều thiện,
điều tốt của mình; và thường không nói điều xấu, không
phơi bày những tội lỗi của người khác, thường ca ngợi
những điều thiện điều tốt của người khác.
Người nào có đức tánh
tốt như vậy gọi là bậc Thiện trí.
Bậc Thiện trí thường
ca tụng những bậc đáng ca tụng; thường chê trách những hạng
người đáng chê trách; thường có đức tin trong sạch nơi hạng
người đáng tín.
Người nào có tư cách
đúng đắn như vậy gọi là bậc Thiện Trí v.v....
Thật ra, bậc Thiện trí
tự biết mình là bậc Thiện trí; biết người khác là bậc
Thiện trí hoặc là kẻ ác; bởi vì họ có trí tuệ sáng suốt.
Bậc Thiện trí đã tạo
thân thiện nghiệp, khẩu thiện nghiệp, ý thiện nghiệp cho
quả an lạc kiếp hiện tại; sau khi chết, do thiện nghiệp
ấy cho quả tái sanh lên cõi thiện giới như: tái sanh làm người
ở cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên ở cõi trời dục
giới, an hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài ở cõi trời
ấy, do thiện nghiệp của mình đã tạo.
Bậc Thiện trí không những
làm cho mình được những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an
lạc lâu dài trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai; mà
còn đem lại cho những chúng sinh gần gũi thân cận cũng được
những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài trong
kiếp hiện tại và những kiếp vị lai.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Nên thân cận với bậc Thiện trí". Ðó là điều
hạnh phúc an lành cao thượng trong kiếp hiện tại lẫn nhiều
kiếp vị lai.
-ooOoo-
[2]
YÊU
MÌNH
T
rong
đời này, không ai yêu mình bằng mình; người biết yêu mình
thật sự, phải biết lánh xa mọi tội ác, phải biết hướng
thiện, tạo mọi phước thiện, vì chỉ có thiện pháp mới
có sự an lạc và còn có thể nâng đỡ mình trở thành người
cao thượng mà thôi.
Muốn được như vậy, hãy
xem kẻ ác đáng kinh sợ hơn rắn độc, hơn hổ đói. Vì rắn
độc, hổ đói chỉ có thể hại mình được kiếp hiện tại
này thôi; còn kẻ ác có thể hại mình cả kiếp hiện tại lẫn
nhiều kiếp vị lai khác nữa. Nên không thân cận với kẻ
ác.
Và hãy xem bậc Thiện
trí đáng kính yêu hơn cha mẹ của mình, vì cha mẹ là nơi
nương nhờ để mình sanh ra; muốn chứng đạt đến pháp vô
sanh bất tử phải nương nhờ đến bậc Thiện trí.
Bậc thiện trí đóng vai
trò quan trọng như thế nào?
Một thuở nọ Ngài Ðại
Ðức Ànanda bạch Ðức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, con nghĩ rằng: người có bạn lành, bạn tốt, bạn thân
thiết, bạn Thiện trí giúp đỡ hỗ trợ một nửa phạm hạnh".
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Ànanda! Con chớ
nên nghĩ như vậy! Này Ànanda! Con chớ nên nghĩ như vậy!
Ngài dạy tiếp:
- Này Ànanda, người có
bạn lành, bạn tốt, bạn thân thiết, bạn thiện trí giúp đỡ
hỗ trợ hoàn thành trọn vẹn phạm hạnh.
"Bạn" có ý nghĩa
rất rộng, ngay Ðức Phật, Ngài tự xưng là bạn lành (kalyànamitta)
của tất cả chúng sinh.
Cuộc đời của mỗi chúng
sinh nói chung, con người phàm nhân nói riêng tốt hoặc xấu,
thành công hoặc thất bại... hoàn toàn tuỳ thuộc vào bạn.
Nếu gần gũi thân cận bạn Thiện trí, được bạn tận tình
chỉ dẫn, những ác pháp nên diệt; những thiện pháp nên
làm cho phát sanh và tăng trưởng, dẫn đến sự giải thoát
khổ. Ngược lại, nếu gần gũi thân cận bạn xấu, họ dẫn
dắt vào con đường tội ác, làm khổ cuộc đời mình trong
kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Tục ngữ có câu: "Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng": gần gũi bạn xấu, bạn
ác thì bị ảnh hưởng, tiêm nhiễm tật xấu, điều ác làm
cho cuộc đời mình trở nên đen tối, bị sa đoạ; gần gũi
bạn tốt, bạn thiện trí thì học hỏi, tiếp thu được tánh
tốt, điều thiện để tiến hoá trong mọi thiện pháp, làm
cho cuộc đời trở nên xán lạn, thánh thiện.
Thông thường, tật xấu
nào đã bị tiêm nhiễm rồi, thì khó bỏ; tánh tốt nào đã
học tập thành thói quen rồi, nhưng dễ duôi cũng dễ mất. Nên
thận trọng vẫn là hơn!
Vậy, gần gũi thân cận
với kẻ ác hoặc bậc Thiện trí đem lại cho mình sự tai hại
hoặc sự lợi ích, sự tiến hoá như thế nào?
Chúng ta nên tìm hiểu
truyện tiền thân của Ðức Phật, tích đạo sĩ Akitti được
tóm lược như sau:
Một thuở nọ Ðức Thế
Tôn ngự tại chùa Jetavana thuyết về chuyện tiền thân của
Ngài.
Trong thời quá khứ, đức
vua Brahmadatta ngự tại kinh thành Bàrànasì. Vào thuở ấy, Ðức
Bồ Tát, tiền thân của Ðức Phật, sanh trưởng trong một
gia đình giàu sang thuộc dòng dõi Bà la môn có tài sản nhiều
đến 800 triệu, được đặt tên Ngài là Akitti, có một người
em gái tên Yasavatì. Ðến tuổi trưởng thành Ngài được cha
mẹ gởi đến xứ Takkasilà học xong các môn học theo truyền
thống, Ngài trở về. Về sau cha mẹ của Ngài qua đời, toàn
bộ gia tài để lại cho Ngài và người em gái. Ngài suy tư rằng:
"tổ tiên, ông bà, cha mẹ ta gom góp lại được toàn bộ
tài sản này, không có một ai đem theo được thứ gì, rồi
đến phiên ta cũng như vậy". Nghĩ xong, Ngài gọi em gái bảo
rằng:
- Này Yasavatì! Anh giao trọn
bộ tài sản này cho em.
Người em gái ngạc
nhiên hỏi:
- Anh à! Tại sao anh nói
như vậy?
- Anh muốn xuất gia trở
thành đạo sĩ, em à!
- Thưa anh thân yêu! Em
không thể cúi đầu nhận lấy tài sản mà anh đã nhổ bỏ,
như nhổ bãi nước bọt đâu! Em không cần tài sản này, em cũng
muốn xin xuất gia trở thành đạo sĩ như anh.
Ðức Bồ Tát vào chầu
đức vua Brahmadatta tâu rõ ý định của mình, xin đức vua thông
báo người nào cần của cải thứ nào, đến nhà Akitti mà lấy
tự nhiên.
Ðức Bồ Tát làm phước
bố thí suốt 7 ngày mà chưa hết số tài sản. Ngài suy tư rằng:
"tuổi thọ của ta sẽ giảm dần qua từng giờ, từng ngày;
tại sao ta lại phải chờ đến hết của cải". Ngài mở
hết tất cả các kho của cải, mở cửa nhà, dán giấy thông
báo: "Chúng tôi bố thí toàn bộ của cải này, người nào
cần thứ gì xin chọn lấy tự nhiên".
Ngài dẫn người em gái
đi ra khỏi kinh thành Bàrànasì, mặc cho bà con thân quyến
khóc than.
Ngài đến một nơi thanh
vắng, hai anh em xuất gia trở thành đạo sĩ, mỗi người ở
mỗi cốc lá. Dân chúng trong làng theo Ngài xuất gia rất đông,
Ngài cảm thấy bận rộn, muốn sống một mình nên trốn sang
nơi khác mà không cho em gái biết, sống một mình Ngài tiến
hành thiền định chứng đắc các bậc thiền cùng phép thần
thông. Ngài bay trên hư không đáp xuống một hòn đảo nhỏ tên
Kàradìpa (đảo cây kàra), còn có tên "Ðảo Rồng",
làm cốc lá ở gần cây kàra không một ai hay biết. Ngài sống
tri túc, khi cây kàra có quả, thì dùng quả kàra. Khi hết kỳ
có quả, thì dùng lá kàra luộc chín để sống qua ngày.
Do năng lực giới đức
của Ðức Bồ Tát, làm cho tảng đá chỗ ngồi của đức vua
trời Sakka phát nóng. Ðể xem biết nguyên nhân nào, đức vua
trời nhìn thấy vị đạo sĩ Akitta hành giới rất nghiêm
túc, không biết với mục đích gì? Có phải vì cần đến ngôi
vị vua trời Sakka hay với mục đích khác?
Một hôm, như thường lệ
vị đạo sĩ hái một nắm lá kàra luộc chín xong, đặt xuống,
ngồi chờ cho nguội sẽ dùng. Ngay khi ấy, đức vua trời hoá
ra vị Bà la môn khất thực đứng trước cửa cốc lá. Ðức
Bồ Tát nhìn thấy vị Bà la môn liền phát sanh đức tin trong
sạch nghĩ rằng: "Hôm nay, thật là đại phúc cho ta, thấy
được một vị Bà la môn khất thực, ta nên hoan hỷ làm phước
bố thí". Nghĩ xong, Ðức Bồ Tát đem tất cả lá kàra đã
luộc chín để vào bát của vị Bà la môn, không còn sót lại
lá nào cho mình, để bát xong phát nguyện rằng:
"Idam me dànam
sabbannutannanassa paccayo hotu".
"Cầu xin phước bố
thí này của tôi làm duyên lành để chứng đắc thành bậc
Toàn Tri Diệu Giác".
Vị Bà la môn thọ nhận
một ít lá kàra xong, đi một đoạn đường rồi biến mất,
hiện về cõi trời. Còn Ðức Bồ Tát sau khi bố thí nắm lá
chín xong, tâm vô cùng hoan hỷ, không tìm lá kàra khác, Ngài
nhịn ăn hôm ấy.
Sáng ngày hôm sau, Ðức
Bồ Tát đi hái lá kàra đem luộc chín xong, đặt xuống ngồi
chờ nguội sẽ dùng, vị Bà la môn lại xuất hiện như lần
trước. Ðức Bồ Tát đem bố thí đến vị Bà la môn tất cả
lá kàra đã luộc chín ấy, không dư để lại, Ngài lại nhịn
ăn thêm một ngày nữa. Ðến ngày thứ ba mọi việc lại xảy
ra cũng như hai ngày trước.
Như vậy, nhịn ăn suốt
ba ngày, Ðức Bồ Tát tâm vẫn vô cùng hoan hỷ đến phước
bố thí, dù thân thể yếu đi, vì thiếu vật thực. Nửa đêm
Ðức Bồ Tát ngồi trước cửa cốc lá niệm tưởng phước
bố thí, tâm phát sanh hỷ lạc. Ðức vua trời Sakka nghĩ rằng:
vị đạo sĩ này đã nhịn ăn suốt ba ngày rồi, dầu thân thể
có phần yếu, song thiện tâm trong sạch, hoan hỷ trong phước
thiện bố thí, ta chưa biết rõ Ngài có nguyện vọng như thế
nào? Mong muốn quả báu cõi người hoặc cõi trời. - Ðức
vua trời Sakka hiện xuống đứng trước mặt Ðức Bồ Tát đạo
sĩ bạch rằng:
- Kính bạch Ngài đạo
sĩ, đêm khuya, giữa rừng cây kàra trên hòn đảo hoang vắng,
xung quanh nước biển bao bọc, Ngài hành đạo một mình nơi này
có nguyện vọng như thế nào? Bạch Ngài.
Ðức Bồ tát biết vị
này là đức vua trời Sakka nên tâu rằng:
- Tâu đức vua trời
Sakka kính mến!
Tử sanh luân hồi mãi mãi là khổ.
Ngũ uẩn rã, chết mê muội là khổ.
Bần đạo có nguyện vọng ngộ Niết Bàn,
Pháp giải thoát khổ tử sanh luân hồi.
Vì vậy, nên bần đạo cố gắng, nhẫn nại hành đạo nơi này.
Lắng nghe lời giải đáp,
đức vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ được biết rằng, vị
đạo sĩ này nhàm chán cảnh sanh tử, chịu nhẫn nại ở nơi
này hành đạo mong chứng ngộ Niết Bàn.
Ðức vua trời phát sanh
đức tin trong sạch nên ban nhiều điều ân huệ cho đạo sĩ.
Ở đây xin đề cập đến
điều mà đức Bồ tát đạo sĩ tâu:
- Tâu đức vua trời Sakka kính mến! Nếu đức
vua ban ân huệ cho bần đạo. Bần đạo xin nhận:
* Không muốn nhìn thấy
kẻ ác.
* Không muốn nghe đến kẻ ác ở bất cứ nơi nào.
* Không muốn gần gũi thân cận với kẻ ác.
* Không muốn nói chuyện với kẻ ác.
* Không hài lòng hoan hỷ với kẻ ác.
Ðức vua trời bạch:
- Kính bạch Ngài đạo
sĩ khả kính! Kẻ ác đã làm điều tai hại gì đối với Ngài?
Kính xin Ngài nói cho rõ nguyên nhân. Tại sao Ngài không muốn
nhìn thấy kẻ ác? Bạch Ngài.
- Tâu đức vua trời
Sakka!
Kẻ ác chỉ dẫn những điều tai hại,
Khuyến khích làm những việc tội ác.
Hướng dẫn làm những điều ác là sở trường của kẻ ác.
Dầu nghe nói lẽ phải kẻ ác cũng tức giận.
Kẻ ác không hiểu biết về giới luật.
Vì vậy bần đạo không muốn thấy kẻ ác, đó là điều tốt
lành.
Nghe vậy đức vua vô
cùng hoan hỷ bạch:
- Kính bạch Ngài đạo
sĩ khả kính! Ngài giải thích bằng chân lý hay quá! Ðó là lời
hợp với pháp, là thiện ngôn quý giá. Kính bạch Ngài đạo
sĩ, Trẫm xin ban cho Ngài ân huệ mà Ngài muốn, xin Ngài nhận
ân huệ ấy.
- Tâu đức vua trời
Sakka kính mến! Nếu đức vua ban ân huệ cho bần đạo. Bần
đạo xin nhận:
* Muốn nhìn thấy bậc
Thiện trí.
* Muốn nghe đến bậc Thiện trí ở bất cứ nơi nào.
* Muốn gần gũi thân cận với bậc Thiện trí.
* Muốn nói chuyện, đàm đạo với bậc Thiện trí.
* Rất hài lòng, hoan hỷ với bậc thiện trí.
- Kính bạch Ngài đạo
sĩ khả kính! Bậc thiện trí đã làm điều lợi ích gì đối
với Ngài? Kính xin Ngài nói về nguyên nhân, tại sao Ngài muốn
nhìn thấy bậc Thiện trí. - Bạch Ngài?
- Tâu đức vua trời
Sakka kính mến!
Bậc thiện trí chỉ dẫn những điều lợi ích,
Không khuyến khích làm điều bất lợi.
Hướng dẫn làm những điều thiện là ưu điểm của bậc
Thiện trí.
Khi nghe nói lẽ phải, bậc Thiện trí không nổi giận.
Bậc Thiện trí hiểu biết rành rẽ về giới luật.
Vì vậy, bần đạo muốn thấy bậc Thiện trí đó là điều
tốt lành nhất.
Qua câu chuyện tiền
thân này, chúng ta nên nhận thức rõ ràng rằng: "gần gũi
thân cận với kẻ ác đem lại cho mình những điều bất lợi,
gần gũi thân cận với bậc thiện trí đem lại cho mình những
điều lợi ích lớn".
-ooOoo-
[03]
THƯƠNG
NGƯỜI
T
hương
người, có tâm từ đến tất cả chúng sinh, mong muốn sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến với tất cả chúng sinh
là một đức tính cao quý, một hạnh cao thượng.
Không nên gần gũi thân
cận với kẻ ác, không phải hoàn toàn xa lánh kẻ ác. Mặc
dù tâm từ không thể phát sinh đến với kẻ ác, nhưng kẻ
ác cũng là một chúng sinh, nên cần phải có tâm bi thương xót
kẻ ác, tìm mọi cách cứu vớt, khuyên bảo họ bỏ ác làm
thiện, cải tà quy chánh.
Muốn tế độ người
ác, bậc Thiện trí cần có nhiều năng lực, có đức độ
cao dày mới có thể cảm hoá được người ác.
Như trường hợp Ðức
Phật có tâm đại bi, dùng thần thông tế độ cảm hoá tên
cướp sát nhân Angulimàla, từ kẻ ác sát nhân trở thành bậc
Thánh Arahán. Ngài Ðại Ðức Mahàmoggallàna dùng phép thần
thông để thu phục rồng chúa Nandopananda, là rồng tà kiến
trở thành chánh kiến xin quy y Tam bảo v.v...
Ðó là những trường hợp
thương xót người mà không hại mình.
Trường hợp thương xót
người mà hại mình như:
- Nhìn thấy người sắp
chết đuối, mình không biết bơi lội, mà vội vàng nhảy xuống
nước cứu, để rồi bị chết chìm cả hai....
Bậc Thiện trí phàm
nhân xét thấy mình có đủ năng lực, có đức độ cao dày,
làm chủ được mình, nên gần gũi với kẻ ác để tế độ
họ; hoặc muốn tế độ họ dù được hay không, nhưng phải
tự biết mình chắc chắn không bị nhiễm tật xấu của họ.
Nếu xét thấy mình
không có đủ khả năng tự vệ, thì tốt hơn, không nên gần
gũi với kẻ ác, để tránh mang hoạ vào thân.
-ooOoo-
[04]
NGƯỜI
ÁC - NGƯỜI THIỆN
G
ọi
là người ác, người thiện có thật hay không?
Gọi là người ác bởi
do ác nghiệp hay bất thiện nghiệp của họ đã tạo.
Gọi là người thiện bởi
do thiện nghiệp của họ đã tạo.
Ðức Phật dạy rằng:
"Này chư Tỳ khưu,
Như Lai gọi tác ý (cetanà) là nghiệp, sau khi nghĩ xong, tạo
nghiệp bằng thân, khẩu, ý".
Nghiệp có 2 loại: ác
nghiệp và thiện nghiệp.
* Ác nghiệp được
tạo do 3 môn:
- Thân ác nghiệp có 3
loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu ác nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời
đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc,
nói lời vô ích.
- Ý ác nghiệp có 3 loại:
tham lam, thù hận, tà kiến.
Ðó là 10 ác nghiệp hoặc
10 bất thiện nghiệp.
Người nào có tác ý ác
(tác ý bất thiện) tạo nên ác nghiệp, gọi người ấy là
người ác, gọi theo ác nghiệp.
Cũng như người nào làm
nghề giết gia súc bán thịt, người ấy gọi là "tên đồ
tể", gọi theo nghề. Nếu người ấy thay đổi nghề khác,
thì không còn gọi là "tên đồ tể" nữa.
* Thiện nghiệp
được tạo do 3 môn:
- Thân thiện nghiệp
có 3 loại: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
- Khẩu thiện nghiệp
có 4 loại: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ,
không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời
vô ích.
- Ý thiện nghiệp có 3
loại: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến.
Ðó là 10 thiện nghiệp
Người nào có tác ý thiện
tạo nên thiện nghiệp, người ấy gọi là người thiện, gọi
theo thiện nghiệp.
Cũng như người nào làm
nghề dạy học, người ấy gọi là "giáo viên",
"giáo sư", gọi theo nghề. Nếu người ấy thay đổi
nghề khác, thì không còn gọi là "giáo viên",
"giáo sư" nữa.
Thử hỏi: có ai biết
được "người ác", "người thiện" thân
hình như thế nào không? - Chắc chắn là không. Bởi vì, người
ác, người thiện hoàn toàn không có thật, mà chỉ có ác
tâm (bất thiện tâm), thiện tâm mà thôi.
Khi ác tâm phát sanh tạo
nên ác nghiệp gọi là "người ác".
Khi thiện tâm phát sanh tạo
nên thiện nghiệp gọi là "người thiện".
Tâm (citta) phát sanh rồi
diệt liên tục không ngừng.
Tâm phát sanh do bởi
nhân duyên. Thiện tâm phát sanh do nhân duyên của thiện tâm;
ác tâm phát sanh do nhân duyên của ác tâm. Nói chung mỗi tâm
phát sanh đều do nhân duyên của chính nó, sanh rồi diệt thay
đổi không ngừng từ kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại; từ
kiếp hiện tại đến kiếp vị lai; nếu chúng sinh ấy vẫn
còn tử sanh luân hồi, chỉ ngoại trừ bậc Thánh Arahán tịch
diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi.
Do đó, con người hoàn
toàn khác với loài thực vật.
Ðối với loài thực vật,
cây nào là cây ấy, từ nhỏ đến lớn, già rồi chết,
không bao giờ thay đổi sang loài cây khác.
Ví dụ: cây chanh có
trái chanh vị chua, cây chanh già, cây chanh chết chấm dứt một
cây chanh v.v....
Ðối với con người, tên
gọi người ác, người thiện có thể thay đổi do tâm thay đổi,
còn phần thân thể vẫn sanh diệt bình thường, già - bịnh -
chết không có gì khác biệt rõ rệt.
Ví dụ những trường hợp
như:
- Ngài Ðại Ðức
Angulimàla - khi còn là kẻ cướp sát nhân tàn bạo giết hơn
cả 1.000 người, cắt đầu ngón tay xâu làm vòng đeo cổ - gọi
là "kẻ cướp sát nhân Angulimàla". Do đó, gọi là người
ác, do bởi ác tâm sát sanh. Nhưng khi Ðức Phật đến tế độ,
thì kẻ cướp sát nhân Angulimàla từ bỏ sát nhân, xin Ðức
Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Ngài chứng
đắc đến bậc Thánh Arahán cao thượng. Vì vậy, gọi Ngài
là bậc Thiện trí, do bởi siêu tam giới thiện tâm đó là
Arahán Thánh Ðạo tâm.
Như vậy, có thể kết
luận: tên gọi người ác trở thành tên gọi người thiện
do bởi diệt ác tâm, thiện tâm phát sanh.
- Tỳ khưu Devadatta - khi
còn là hoàng tử dòng Sakya có đức tin trong sạch nơi Ðức
Phật, xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu cùng với 5 hoàng
tử Bhaddhiya, Anurudha, Ànanda, Bhagu và Kimila; năm hoàng tử này
sau khi xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau đều chứng đắc
thành bậc Thánh Arahán. Riêng Tỳ khưu Devadatta chỉ chứng đắc
các bậc thiền thế gian và chứng đắc phép thần thông, vẫn
còn là phàm nhân (chưa phải Thánh nhân).
Do đó, Tỳ khưu Devadatta
gọi là bậc Thiện trí, do bởi tam giới thiện tâm phát sanh.
Về sau, Tỳ khưu
Devadatta phạm tội chia rẽ Tăng, có mưu đồ đen tối, tìm mọi
cách mưu sát Ðức Phật để làm Phật; nhưng không thể nào
sát hại Ðức Phật được, chỉ làm bầm máu bàn chân của
Ðức Phật mà thôi. Tỳ khưu Devadatta đã phạm trọng tội lớn
thuộc ngũ vô gián nghiệp, các bậc thiền bị hư mất hết.
Do đó, gọi Tỳ khưu
Devadatta là người ác, do bởi ác tâm phát sanh.
Tỳ khưu Devadatta lâm bệnh
nặng, vì tội lỗi quá nặng nên mặt đất nẻ ra rút xuống.
Sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp, cho quả tái
sanh vào địa ngục Avìci chịu quả khổ của ác nghiệp mà
chính mình đã tạo.
Như vậy, có thể kết
luận: tên gọi người thiện trở thành tên gọi người ác
do bởi thiện tâm không sanh, ác tâm phát sanh.
- Ngài Ðại Ðức Ànanda
- khi còn là hoàng tử dòng Sakya có đức tin trong sạch nơi Ðức
Phật, xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu tiến hành thiền
tuệ chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả
trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, theo hầu Ðức Phật. Sau khi
Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, Ngài Ðại Ðức Ànanda chứng
đắc đến bậc Thánh Arahán cao thượng. Do đó, gọi Ngài là
bậc Thiện trí cao thượng.
Như vậy, có thể kết
luận: tên gọi người thiện trở thành tên gọi bậc Thiện
trí, do bởi dục giới thiện tâm tiến hoá lên đến siêu tam
giới thiện tâm.
Ðó là sự thay đổi
"tâm" do bởi nhân duyên của nó, tâm sanh - diệt
không ngừng; còn phần "thân" vẫn giữ nguyên tánh tự
nhiên của nó, thân sanh - diệt liên tục, vô thường biến đổi
không ngừng qua thời gian trở thành già - bịnh cuối cùng chết,
chấm dứt một sanh mạng, một cuộc đời.
Theo quan niệm Phật giáo,
quá khứ của con người dầu thiện hay ác, dầu tốt hay xấu
thế nào không quan trọng, mà chỉ đặt tầm quan trọng con
người đang sống, đang tạo nghiệp ở hiện tại.
Quá khứ, người nào gọi
là người ác, song hiện tại người ấy từ bỏ ác nghiệp,
tạo nên thiện nghiệp, trở thành người thiện, vị lai sẽ
xán lạn hạnh phúc an lạc.
Quá khứ, người nào là
người thiện, song hiện tại, người ấy từ bỏ thiện nghiệp,
tạo ác nghiệp, trở thành người ác, vị lai sẽ đen tối, bất
hạnh khổ não.
Người ác có ác tâm
thay đổi tuỳ theo đối tượng
Ví dụ: người ác có ý
tham lam muốn xin một vật nào của ai, người ấy có cử chỉ
dịu dàng, lời nói ngon ngọt; nếu xin được vật ấy từ
người chủ nhân, thì chẳng có việc gì xảy ra giữa hai người;
nếu xin mà không được vật ấy như ý; nghĩa là tham lam mà
không được như ý, liền làm nhân để cho sân tâm phát sanh,
có cử chỉ thô bạo, lời nói hung ác, có thể gây tai hại
cho người chủ nhân kia.
Do đó: Không nên gần
gũi thân cận với kẻ ác.
Người thiện có thiện tâm không thay đổi theo
đối tượng.
Ví dụ: người thiện có
thiện tâm muốn tế độ người khác, để cho người khác
có cơ hội làm phước thiện bố thí, nên đến xin một vật
cần thiết1 không chỉ định. Dù thí chủ làm phước bố
thí, hoặc không, người thiện vẫn có thiện tâm không thay
đổi, không có việc gì xảy ra giữa hai người.
Do đó: Nên gần gũi
thân cận với bậc Thiện trí.
-ooOoo-
[05]
CON
NGƯỜI PHÀM NHÂN
Ð
ối
với hạng phàm nhân, trong mỗi người vốn có đủ 12 loại
ác tâm (bất thiện tâm) đó là: 8 tham tâm + 2 sân tâm + 2 si
tâm, và cũng có thiện tâm và các tâm khác.
- Khi ác tâm phát sanh
do theo đối tượng khiến tạo nên ác nghiệp gọi là người
ác.
- Khi thiện tâm phát
sanh do theo đối tượng khiến tạo nên thiện nghiệp gọi
là người thiện.
Trong mỗi phàm nhân có
ác tâm, có thiện tâm, khi ác tâm phát sanh, thì thiện tâm
không sanh; khi thiện tâm phát sanh, thì ác tâm không sanh. Như
vậy, có thể nói rằng: trong mỗi người có khi gọi là người
ác; có khi gọi là người thiện, do bởi ác tâm hoặc thiện
tâm phát sanh khiến tạo ác nghiệp hoặc thiện nghiệp, có đúng
như vậy không?
Nếu đúng, để nhân
cách hoá cái tâm trở thành con người: con người bên trong,
con người bên ngoài.
- Con người bên trong,
chính mình có 2 loại người: khi thì người ác, khi thì người
thiện.
- Con người bên ngoài,
người khác cũng có 2 loại người: khi thì người ác, khi
thì người thiện.
Muốn được hạnh phúc
an lành Ðức Phật dạy rằng:
- Không nên gần gũi thân
cận với kẻ ác; nên gần gũi thân cận với bậc Thiện
trí.
Như vậy, kẻ ác bên
ngoài: đó là người khác, khi ác tâm phát sanh khiến tạo
nên ác nghiệp. Khi ấy, ta không nên gần gũi với họ, để
tránh điều bất lợi, sự thoái hoá, sự thống khổ lâu dài
cho kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai.
Kẻ ác bên trong: đó là
chính mình, nếu khi ác tâm phát sanh, ta không nên theo ác tâm
ấy mà tạo ác nghiệp. Ta cần phải có chánh niệm, có trí
tuệ tỉnh giác, tinh tấn diệt ác tâm ấy đã phát sanh.
Bậc Thiện trí bên
ngoài: đó là người khác, khi thiện tâm phát sanh khiến tạo
nên thiện nghiệp, có tâm từ bi tế độ chúng sinh. Khi ấy,
ta nên gần gũi thân cận với họ, để được sự lợi ích,
sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho kiếp hiện tại và nhiều
kiếp vị lai.
Bậc Thiện trí bên
trong: đó là chính mình, khi thiện tâm phát sanh khiến tạo
nên mọi thiện nghiệp, ta cần phải có tinh tấn làm cho thiện
tâm tăng trưởng từ tam giới thiện tâm cho đến siêu tam giới
thiện tâm, đó là 4 Thánh Ðạo Tâm.
-ooOoo-
[06]
NIỀM
THÔNG CẢM CON NGƯỜI
Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta là những phàm nhân (không phải Thánh nhân) vốn có
đầy đủ 12 ác tâm (bất thiện tâm), 108 loại tham ái, 1.500
loại phiền não. Cho nên, mỗi người trong chúng ta ít có ai
tránh khỏi lỗi lầm, vì si mê, ác tâm phát sanh khiến tạo
ác nghiệp. Nếu khi thức tỉnh, người ấy biết ăn năn hối
lỗi, sửa chữa lỗi lầm, từ bỏ ác nghiệp, cố gắng tinh
tấn tạo mọi thiện nghiệp trở thành người thiện. Ðó là
điều nên tán dương ca tụng, chúng ta nên có niềm thông cảm
với họ.
Thành ngữ có câu
"nhân vô thập toàn" nghĩa là con người không ai toàn
thiện toàn mỹ về tất cả mọi mặt; chắc chắn còn có chỗ
sai sót, khuyết điểm nào đó.
"Con người" ở
đây ám chỉ đến hạng phàm nhân và một số bậc Thánh
nhân còn tham ái phiền não, còn tiền khiên tật do tích luỹ
từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ.
* Như "con người"
là bậc Thánh Nhập Lưu không còn tà kiến và hoài nghi, là do
đã diệt đoạn tuyệt rồi, nên lúc nào cũng có chánh kiến
và có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam bảo; còn hạng
phàm nhân vẫn còn tà kiến, hoài nghi... nên thấy sai chấp lầm,
hoài nghi....
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người"
là bậc Thánh Bất Lai không còn tâm sân, là do đã diệt đoạn
tuyệt rồi, nên chẳng bao giờ có giận hờn; còn hạng phàm
nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai vẫn còn tâm
sân, nên có khi giận hờn....
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người"
là bậc Thánh Arahán không còn tâm tham, sân, si là do đã diệt
đoạn tuyệt hoàn toàn, không còn dư sót, nếu còn chỉ có tiền
khiên tật do tích luỹ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ.
Cho nên, tâm của bậc Thánh Arahán lúc nào cũng hoàn toàn
trong sạch không bị phiền não làm ô nhiễm; còn hạng phàm
nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất
Lai vẫn còn phiền não, tham ái, nên tâm còn tham muốn và bị
ô nhiễm bởi phiền não.
Ðó là việc bình thường,
không có gì đặc biệt.
* Như "con người"
là Ðức Phật Ðộc Giác, Ðức Phật Toàn Giác không còn ác
tâm, phiền não, tham ái, đặc biệt không còn tiền khiên tật
nữa; nên hành vi, cử chỉ, nói năng không thể nào có thể
chê trách được.
Vậy, chỉ có Chư Phật
mới là bậc toàn thiện, toàn mỹ về tất cả mọi mặt mà
thôi.
Mỗi người trong chúng
ta, có khi hành thiện, có khi hành ác, có khi tốt, có khi xấu,
có ưu điểm, có khuyết điểm... có khi mình lầm lỗi, có
khi người khác lỗi lầm....
Vậy, nên biết mình, biết
người mà phải có niềm thông cảm với nhau.
Có điều quan trọng, nên
có trí nhớ biết mình, có trí tuệ sáng suốt, có sự tinh tấn
cố gắng diệt mọi điều ác, điều xấu, nên sửa chữa những
khuyết điểm; và tinh tấn làm cho mọi thiện pháp phát sanh;
tinh tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát sanh, nên
phát huy mọi ưu điểm càng thêm tốt đẹp.
Trong thời đại hiện tại
này, như chúng ta đã thấy, đã nghe, đã biết, không có một
con người nào gọi là toàn thiện và cũng không có một con
người nào gọi là toàn ác cả.
Trong cuộc sống, con người
chúng ta không thể sống lẻ loi đơn độc một mình, mà hằng
ngày phải giao tiếp với mọi người trong xã hội.
Vậy, chúng ta nên tiếp
xúc với hạng người nào, và không nên tiếp xúc với hạng
người nào, để cho đời sống của mình được hạnh phúc
an lành?
Ðó là một câu hỏi,
là một vấn đề thiết yếu cho cuộc sống mỗi người.
Như vậy:
- Nên thân cận với hạng
người có nhiều thiện pháp, ít ác pháp; có nhiều điều tốt,
ít điều xấu... để đem lại cho mình sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài.
- Không nên thân cận với
hạng người có nhiều ác pháp, ít thiện pháp; có nhiều
điều xấu, ít điều tốt... để tránh cho mình nhiều điều
bất lợi, sự thoái hoá, sự khổ não lâu dài.
Trong đời này, chúng ta
nên thận trọng, có trí tuệ sáng suốt biết nhận xét về
con người.
- Quá khứ con người thiện,
hiện tại không hẳn là người thiện như vậy!
- Quá khứ con người
ác, hiện tại không hẳn là người ác như vậy!
Nhận định về con người,
chúng ta không nên chấp thủ quá khứ con người căn cứ từ
thân thể của người ấy, mà cần phải có trí tuệ sáng suốt
nhận thức hiện tại, căn cứ tâm tính, lời nói, việc làm
của họ. Ví dụ:
Trước đây, người này
gọi là người thiện do bởi thiện tâm, nên ý nghĩ, lời nói,
hành động với thiện tâm ấy. Nhưng bây giờ người ấy có
ác tâm phát sanh khiến cho ý nghĩ, lời nói, hành động với
ác tâm ấy. Như vậy, người này đâu còn là người thiện
như trước đây nữa.
Và trước đây, người
này gọi là người ác do bởi ác tâm khiến cho ý nghĩ, lời
nói, hành động với ác tâm ấy. Nhưng bây giờ người ấy
thức tỉnh biết ăn năn hối lỗi, ác tâm không sanh mà thiện
tâm phát sanh, nên ý nghĩ, lời nói, hành động với thiện tâm
ấy. Như vậy, người này đâu còn là người ác như trước
đây nữa.
Trong cuộc sống hằng
ngày ngay chính mình, khi thì ác tâm phát sanh, phiền não quấy
nhiễu, tham ái lôi cuốn... tự lừa dối mình, chính mình còn
không tin nơi mình được, huống gì người khác.
Cho nên, đối với người
khác, dầu quen biết nhau đã lâu hoặc mới quen biết, chúng
ta nên thận trọng, có trí tuệ sáng suốt nhận thức đúng
đắn, có cơ sở vững chắc ngay hiện tại về người ấy,
trước khi đặt niềm tin vẫn là hơn!
Chúng ta là người Phật
tử, cần phải có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức
Pháp, Ðức Tăng (bậc Thánh Tăng), cùng chư bậc có giới đức
trong sạch, làm nơi nương nhờ trong đời sống của mình, chắc
chắn chúng ta được hạnh phúc an lành, tuỳ theo phước thiện
và trí tuệ của mỗi người.
Vậy, nền tảng mọi nguồn
hạnh phúc an lành bắt đầu từ:
"Không nên thân cận
với kẻ ác,
Nên thân cận với bậc Thiện trí".
Hai pháp này là pháp đem
lại hạnh phúc an lành cao thượng, để mở ra con đường dẫn
đến hạnh phúc an lành cao thượng khác, từ tam giới cho đến
siêu tam giới - Niết Bàn - pháp diệt khổ sanh là diệt mọi
cảnh khổ, an lạc tuyệt đối.
"Nibbànam paramam
sukham".
"Niết Bàn an lạc tuyệt đối".
Chứng ngộ Niết Bàn là
cứu cánh của mỗi người Phật tử chúng ta.