MÓN QUÀ PHÁP
Tất cả các món quà quý nhất trong
đời, món quà Pháp là món quà quý nhất trong các món quà.
Bần sư xin tặng đến những người thân món quà Pháp này với tâm từ
của bần sư.
Sư Hộ Pháp
TỔ ÐÌNH BỬU LONG,
2002/2546
-ooOoo-
MỤC LỤC
Phần 1
LỜI NGỎ
HIẾU NGHĨA
BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI CON ÐỐI VỚI CHA MẸ
TÍCH VỊ TỲ KHƯU PHỤNG DƯỠNG CHA MẸ
PHỤNG DƯỠNG CHA MẸ THOÁT KHỎI NẠN CHẾT
GIẢI THÍCH 10 PHÁP VƯƠNG
TÍCH NGƯỜI NGHÈO SUTANA
Phần 2
TÍCH CON KÊN KÊN CHÚA
TÍCH CHIM VẸT
TÍCH VOI CHÚA
BA HẠNG CON
CÔNG ƠN CHA MẸ KHÔNG DỄ ĐỀN ĐÁP
GIẢI THÍCH 4 PHÁP SAMPÀDA
Xin xem thêm:
Hạnh Phúc An Lành, tập 1 |
-ooOoo-
Lời Ngỏ
Phàm con người sanh ra trong đời này,
không có một ai mà không phải mang ơn, người mang ơn đầu tiên là mẹ và
cha.
Trong đời, một con người tốt, là
người phải có 2 đức tính làm tiêu chuẩn đó là
"biết ơn và đền ơn".
Biết ơn là việc dễ, còn đền ơn cho xứng đáng
không phải là việc dễ dàng đâu!
Ðọc quyển sách nhỏ của sư Hộ Pháp, chúng
tôi hiểu rõ thêm bổn phận người con và biết cách đền đáp công ơn sinh
thành dưỡng dục của mẹ cha một cách xứng đáng. Chúng tôi vô cùng hoan hỉ,
phát sanh đức tin trong sạch ấn hành quyển sách nhỏ này, làm món quà pháp
đến cho những người con có hiếu nghĩa đối với thân mẫu và thân phụ của
mình.
Và trong những ngày lễ đáng ghi nhớ như lễ
mừng thọ, lễ tang, lễ thăng chức, lễ tân gia, lễ khai trương, v.v... chúng
ta nên tặng sách đến các vị khách quý làm món quà lưu niệm. Trong quyển
sách, dán thêm trang đầu để ghi tên vị khách và ý nghĩa của ngày lễ ấy.
Ðó không những là pháp thí thanh cao,
thiện pháp tăng trưởng, mà còn tạo được tình cảm sâu sắc, khó quên đối với
vị khách quý ấy.
Vậy, chúng tôi xin giới thiệu quyển sách
nhỏ này đến quý độc giả, để làm món quà pháp quý giá.
Với thiện tâm trong sáng,
Phật Tử Tổ Ðình Bửu Long
-ooOoo-
P hàm
con người sanh ra trong đời này, đều phải có mẹ và có
cha. Cha mẹ là nơi nương nhờ để cho tái sanh tâm (làm phận sự tái
sanh), đầu thai vào lòng mẹ. Tái sanh tâm ấy là đại quả tâm [1],
trong đại quả tâm gồm có 4 uẩn, cùng với 3 sắc pháp [2]: sắc thân, sắc
nam tính hoặc sắc nữ tính, và
sắc ý căn
kết thành ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn) đầu tiên trong dạ con (tử cung) của người mẹ;
tiếp theo những tuần sau sẽ phát sanh ra mắt, tai, mũi, lưỡi và sắc mạng
chủ... được sinh trưởng, dưỡng nuôi trong bụng mẹ suốt thời gian gần 10
tháng mới sanh ra đời; hài nhi được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, là một
chất nước bổ phát sanh từ trái tim yêu thương của người mẹ, và tình thương
yêu che chở của người cha; người con mỗi ngày một khôn lớn, trưởng thành
là nhờ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
[1] Ðại quả tâm là tâm quả của đại thiện
tâm, có thiện nghiệp cho quả tái sanh làm người. Trong đại quả tâm gồm
có 4 uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
[2] Con trai, hoặc con gái được hiện hữu
từ lúc tái sanh đầu tiên.
Bổn phận làm con phải biết ơn và đền ơn
cha mẹ.
Trong bài kinh Mangalasutta: Kinh An Lành,
Ðức Phật thuyết về 38 pháp đem lại sự an lành, hạnh phúc cho chư thiên và
nhân loại, trong đó có bài kệ rằng:
Màtàpitu upatthànam
Puttadàrassa sangaho
Anàkulà ca kammantà
Etam mangalamuttamam.
Này tất cả chư thiên, nhân loại
Một, người con biết phụng dưỡng mẹ,
Hai, người con biết phụng dưỡng cha
Ba, từ bi tế độ vợ con
Bốn, có nghề nghiệp không lẫn lộn ác.
Ðiều nào cũng an lành cao thượng.
-- (Bộ Suttantanipàtapàli, kinh
Mangalasutta. )
Trong 4 pháp này, xin giảng giải hai pháp
đầu:
"Người con biết phụng dưỡng mẹ cha".
Bổn phận làm con phải biết lo phụng dưỡng
mẹ cha, đó là điều an lành hạnh phúc cao thượng.
Ðức Phật dạy rằng:
- Cha mẹ là Ðức Phạm thiên, là vị chư
thiên đầu tiên, là vị thầy đầu tiên, là bậc xứng đáng thọ lãnh lễ vật
cúng dường của con. (Anguttaranikàya, phần Catukanipàta, kinh
Brahmasutta.)
1- Thế nào gọi mẹ cha là Ðức Phạm thiên
(Brahmà)?
Ðức Phạm thiên thường có 4 pháp tứ vô
lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả đối với tất cả chúng sinh như thế nào, bậc làm
mẹ cha cũng có 4 pháp từ, bi, hỉ, xả đối với các con cuõng như thế ấy.
-- Thật vậy, từ khi biết được có con trong
bụng, ngày đêm, mẹ cha có tâm từ đối với con, cầu mong rằng: "con
của chúng ta có thân thể xinh đẹp, nằm trong bụng được an lạc".
Người mẹ thận trọng trong khi đi, đứng,
ngồi, nằm; các hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, sợ làm kinh động đến đứa con
trong bụng; ăn uống cữ kiêng, không dám ăn những món ăn nào làm ảnh hưởng
đến đứa con trong bụng, dầu đó là món ăn sở thích của mình.... Ngày đêm,
cha mẹ chờ đón sự chào đời của đứa con yêu quý của mình. Khi đứa con ra
đời, dầu gái hay trai, dầu tật nguyền hay xinh đẹp, dầu đứa con như thế
nào đi nữa..., cha mẹ cũng có tâm từ thương yêu con, như thương yêu
chính mình, vì đứa con là một phần máu huyết xương thịt của chính mình.
Ðứa con được nuôi dưỡng bằng dòng sữa, đó là dòng máu phát sinh từ trái
tim thương yêu của người mẹ (hadayalohita), nhờ dòng sữa bổ dưỡng ấy mà
đứa con mỗi ngày một khôn lớn.
Như vậy gọi là tâm từ của mẹ cha vô lượng
đối với các con.
-- Ðứa con nhỏ còn nằm trong nôi khát sữa
cất lên tiếng khóc, khi nghe tiếng con khóc, người mẹ phát sanh tâm bi
liền bỏ mọi công việc để đến với con, bồng ẵm cho bú sữa, dỗ con bằng
tiếng ru êm dịu làm cho đứa con nín khóc; hoặc khi thấy con bị mắc bệnh,
đau khổ, mẹ cha phát sanh tâm bi mời thầy thuốc đến chữa bệnh cho
con chóng khỏi bệnh....
Như vậy gọi là tâm bi của mẹ cha vô lượng
đối với các con.
-- Thấy con mỗi ngày một khôn lớn, biết
bò, lững chững biết đi, biết nói, biết cười..., cha mẹ nhìn con mình mà
phát sanh tâm hỉ; hoặc khi con đến tuổi trưởng thành, học giỏi, đỗ
đạt, mẹ cha cũng phát sanh tâm hỉ, mọi thành công của con là điều
hoan hỉ của cha mẹ.
Như vậy gọi là tâm hỉ của mẹ cha vô lượng
đối với các con.
-- Khi con đến tuổi trưởng thành, muốn lập
gia đình riêng, mẹ cha lo giúp cho con yên bề gia thất; mẹ cha phát sanh
tâm xả đối với con, với ý nghĩ rằng: "Bây giờ con của chúng ta có
thể tự lo đời sống của chúng".
Như vậy gọi là tâm xả của mẹ cha vô lượng
đối với các con.
Người con đã trưởng thành, dầu có quyền
cao chức trọng trong đời, nhưng theo quan niệm của cha mẹ đối với con, vẫn
xem như còn thơ dại; luôn luôn cần sự dạy dỗ của mình để cho con nên
người.
Cho nên, tấm lòng của mẹ cha đối với con,
khi thì tâm từ phát sanh, khi thì tâm bi, khi thì tâm hỉ, khi thì tâm xả
phát sanh tùy lúc tùy thời.
Do đó, Ðức Phật dạy: "Brahmàti
màtàpitaro: mẹ cha là Ðức Phạm thiên của các con".
2- Thế nào gọi mẹ cha là vị thầy đầu tiên
của con?
Ðứa con sanh ra trong đời, mẹ cha là vị
thầy đầu tiên dạy dỗ cho con biết bú, biết ăn uống, biết ngồi, đứng, đi...
tập cho con nói tiếng gọi người này là mẹ - mẹ, người kia là cha - cha,
ông bà, chú bác, cô dì v.v.... Mẹ cha dạy dỗ con việc thiện này nên làm,
việc ác kia không nên làm v.v....
Khi đến tuổi đi học, các vị thầy khác dạy
học chữ - nghĩa, dạy nghề nghiệp, làm ăn nuôi mạng.
Khi thọ Tam quy và ngũ giới..., có vị thầy
khác truyền Tam quy và ngũ giới, bát giới v.v....
Khi có nguyện vọng xuất gia trở thành Sa
di, có vị Thầy Tế độ cho phép và truyền Tam quy, dạy cho biết Sa di thập
giới v.v....
Khi có nguyện vọng làm lễ thọ Tỳ khưu, có
chư Tăng hội họp hành Tăng sự, có vị Thầy Tế độ và 2 -3 vị thầy tụng
Natticatuttha-kammavàcà (tụng một lần tuyên ngôn và 3 lần thành sự ngôn)
để trở thành Tỳ khưu.
Khi muốn tiến hành thiền định, có vị thiền
sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền định để mong chứng đắc các bậc
thiền sắc giới, bậc thiền vô sắc giới.
Khi muốn tiến hành thiền tuệ, có vị thiền
sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Mẹ cha gọi là Pubbàcariya: vị thầy đầu tiên
của các con"; còn tất cả các vị
thầy khác đều gọi là Pacchàcariya: vị thầy sau.
3- Thế nào gọi mẹ cha là vị chư thiên đầu
tiên của con?
Visuddhideva, đó là bậc Thánh Arahán không
hề quan tâm đến lỗi của những người khác đối với Ngài, Ngài chỉ có tâm từ
bi tế độ chúng sinh đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến
cho họ mà thôi; chúng sinh lễ bái, cúng dường đến bậc Thánh Arahán được
phước thiện vô lượng, có được quả báu an lạc vô lượng kiếp; bởi vì, Ngài
là bậc cao thượng xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng dường của chúng
sinh.
Cũng như vậy, cha mẹ không chấp thủ lỗi
lầm của các con, luôn luôn tha thứ những lỗi lầm của các con. Cha mẹ có
tâm từ bi tế độ các con, chỉ cầu mong cho các con được sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài. Những người con biết lễ bái cúng dường đến cha mẹ,
có được phước thiện vô lượng, có quả báu an lạc vô lượng kiếp, bởi vì, cha
mẹ cũng là bậc xứng đáng thọ lãnh sự lễ bái cúng dường của các con.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Cha mẹ gọi là vị Pubbadeva: vị chư thiên đầu
tiên của các con".
Nhờ có công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ
cha, nên người con mới biết được các vị chư thiên khác như Sammutideva: đó
là Ðức Vua, xem như vị thiên tử trị vì đất nước; Upattideva: các hàng chư
thiên ở cõi trời dục giới, các hàng phạm thiên ở cõi trời sắc giới, cõi
trời vô sắc giới, đó là quả do thiện nghiệp của họ đã tạo; Visuddhideva:
đó là bậc Thánh Arahán. Những hạng chư thiên này gọi là Pacchàdeva: những
bậc chư thiên được biết sau, còn cha mẹ là Pubbadeva: vị chư thiên đầu
tiên của các con.
4- Thế nào gọi mẹ cha là bậc xứng đáng thọ
lãnh sự lễ bái cúng dường của các con?
Cha mẹ là bậc xứng đáng thọ nhận mọi vật
lễ bái cúng dường của các con, bởi vì cha mẹ là người có công ơn sinh
thành và dưỡng dục các con nên người, các con được nhìn thấy đời là nhờ có
cha mẹ.
Khi con sanh ra đời, nếu cha mẹ không nuôi
nấng dưỡng dục từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm cho con khôn lớn,
thì làm gì người con có được thân hình như ngày hôm nay? Như vậy, người
con có được hình vóc như thế này, đó là nhờ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ.
Ân đức cha mẹ lớn lao vô lượng, do đó, Ðức
Phật dạy cha mẹ gọi là Ahuneyyo: bậc xứng đáng thọ lãnh lễ vật lễ bái cúng
dường của các con.
Ðức Phật dạy rằng:
"Người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ, chư
bậc Thiện trí tán dương ca tụng người con ấy trong đời này, người con ấy
sau khi chết, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ, cho quả tái sanh làm chư
thiên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời ấy".
(Bộ Anguttaranikàya, kinh Brahmasutta. )
BỔN PHẬN NGƯỜI CON ÐỐI VỚI
CHA MẸ
Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ
đối với các con thật lớn lao vô lượng; bổn phận làm con, dầu là bậc xuất
gia cũng như người tại gia đều phải lo phụng dưỡng cha mẹ.
Trong kinh Singalakasutta, Ðức Phật thuyết
pháp tế độ cậu Singalaka con của ông trưởng giả trong kinh thành Ràjagaha,
trong bài kinh Ðức Phật dạy có đoạn người con có bổn phận đối với cha mẹ
như sau (Dìghanikàya, phần Pàthikavagga, kinh Singalakasutta):
Cha mẹ là hướng đằng trước mặt, phận sự
người con trai, con gái có 5 điều đối với cha mẹ:
- Cha mẹ đã nuôi dưỡng các con, vậy các
con phải có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, để đền đáp công ơn sinh thành
dưỡng dục.
- Các con phải có bổn phận đảm đương lo
công việc của cha mẹ.
- Các con phải có bổn phận giữ gìn dòng
dõi, nối dòng.
- Các con tỏ ra người con xứng đáng thừa
hưởng tài sản, sự nghiệp của cha mẹ để lại.
- Khi cha mẹ qua đời rồi, các con phải
có bổn phận làm phước thiện, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho
cha mẹ.
Các con phải làm tròn 5 bổn phận đối với
cha mẹ.
*
Ðối với người con tại gia:
Mỗi buổi sáng thức dậy sớm trước cha mẹ,
người con đun nước rửa mặt, chuẩn bị khăn lau dâng đến cha mẹ; mang bộ
quần áo sạch sẽ đến dâng cho cha mẹ. Thay xong, đảnh lễ cha mẹ, rồi đem bộ
quần áo dơ đi giặt.
Hàng ngày, người con đem cơm nước ngon
lành đến dâng cha mẹ, khi cha mẹ muốn tắm rửa, đem nước ấm dâng đến cha
mẹ, lúc khí trời lạnh; buổi tối, người con nên xoa bóp thân thể cha mẹ, để
cho máu huyết lưu thông dễ dàng, giãn gân cốt, bớt mỏi mệt. Khi cha mẹ bị
bệnh hoạn ốm đau, người con cần phải tìm thầy giỏi, thuốc hay, để về chữa
trị cho cha mẹ chóng khỏi bệnh....
Người con phải biết lễ phép, kính trọng
cha mẹ, lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ; bổn phận người làm con cần
phải biết lo phụng dưỡng cha mẹ cho đến hết tuổi thọ.
*
Ðối với bậc xuất gia là Sa di, Tỳ khưu:
Dầu là vị Sa di, vị Tỳ khưu cũng phải có
bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ như người tại gia; song có đôi việc không
nên làm như: vị Sa di, vị Tỳ khưu không nên đảnh lễ cha mẹ; vị Tỳ khưu
không nên đụng chạm trực tiếp đến thân hình của thân mẫu (Tỳ khưu bất đắc
dĩ đụng đến thân hình của thân mẫu thì phạm giới tác ác - dukkata).
Ngoài ra, vị Sa di, vị Tỳ khưu có thể lo
phụng sự mọi việc, để đem lại sự an lạc cho cha mẹ.
Ðức Phật cho phép Sa di, Tỳ khưu lo phụng
dưỡng cha mẹ bằng những thứ vật dụng của mình như: vật thực, y phục, chỗ
ở, thuốc trị bệnh.... Ðó là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện
trí từ quá khứ cho đến hiện tại.
Bậc Thiện trí tán dương ca tụng những
người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ của mình; trích dẫn những tích truyện
như sau:
Tích Vị Tỳ Khưu Phụng
Dưỡng Cha mẹ
Một người con trai của một gia đình phú hộ
trong kinh thành Sàvatthi, khi đến nghe Ðức Phật thuyết pháp, người con
trai ấy phát sanh đức tin trong sạch, xin phép cha mẹ đi xuất gia trở
thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu, cùng sống với
vị Thầy Tế độ suốt 5 năm, theo học pháp học và pháp hành giới - định -
tuệ.
Sau đó, vị Tỳ khưu ấy xin phép vị Thầy Tế
độ rời khỏi ngôi chùa Jetavana đi đến một nơi xa ở trong rừng để hành đạo.
Gia đình ông bà phú hộ gặp cảnh sa sút,
tài sản bị khánh kiệt, cho đến nỗi hai ông bà phải đi ăn xin, nương nhờ
dưới mái nhà của người khác, để sống qua ngày.
Nghe tin cha mẹ của mình đang lâm vào cảnh
khổ, vị Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: "Ta đã hành đạo suốt 12 năm qua, mà vẫn chưa
chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào; có lẽ ta là người chưa có đủ pháp hạnh
Ba-la-mật. Vậy, ta nên hoàn tục trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đang lâm
vào hoàn cảnh khổ, và làm phước thiện bố thí, giữ giới, hành thiền... để
tạo duyên lành cho kiếp sau".
Nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy ra khỏi khu rừng,
trên đường trở về kinh thành Sàvatthi, nghĩ rằng: "Hôm nay, ta đến hầu Ðức
Thế Tôn nghe pháp xong, ngày mai sẽ đi tìm gặp cha mẹ".
Canh chót đêm hôm ấy, Ðức Thế Tôn sau khi
xả đại bi định, quán xét chúng sinh có duyên lành nên tế độ; trong mạng
lưới đại bi, Ðức Thế Tôn nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy có duyên lành chứng đắc
Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Vị Tỳ khưu ngồi nghe pháp trong nhóm các
hàng đệ tử, Ðức Thế Tôn thuyết bài kinh Màtuposakasutta: ca tụng ân đức
cha mẹ đối với con, bổn phận làm con, cả hàng tại gia lẫn bậc xuaát gia
đều có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ.
Nghe bài kinh xong, vị Tỳ khưu nghĩ rằng:
"Ta vốn có ý định hoàn tục để lo phụng dưỡng cha mẹ, nay Ðức Thế Tôn
thuyết pháp dạy bậc xuất gia cuõng có thể phụng dưỡng cha mẹ được. Vậy, ta
chớ nên hoàn tục, ta là Tỳ khưu cũng có thể phụng dưỡng cha mẹ được".
Vị Tỳ khưu đi tìm gặp cha mẹ đem về phụng
dưỡng; làm nhà cho cha mẹ ở đàng hoàng, hàng ngày Ngài đi khất thực có
được cháo, cơm đồ ăn đem về phụng dưỡng cha mẹ trước, còn về phần Ngài,
sau đó, đi khaát thực có được Ngài sẽ thọ thực sau, có bữa no bữa đói cho
nên thân thể của Ngài càng ngày càng gầy mòn. Khi được tấm vải mới nào,
Ngài đem dâng đến cho cha mẹ mặc; Ngài lấy tấm vải cũ của cha mẹ, giặt
sạch, nhuộm màu, may y để Ngài mặc.
Hàng ngày, Ngài có phận sự lo phụng dưỡng
cha mẹ hơn lo cho thân mình. Do đó, Ngài có vẻ gầy guộc xanh xao.
Chư vị Tỳ khưu khác gặp hỏi, Ngài trình
bày sự thật lo phụng dưỡng cha mẹ như vậy, quý vị Tỳ khưu khác chê trách
Ngài, rồi bạch chuyện này lên Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn cho người gọi vị Tỳ khưu ấy
đến, bèn hỏi rằng:
-- Này con, hai ông bà già mà con phụng
dưỡng là ai vậy con?
-- Kính bạch Ðức Thế Tôn, hai ông bà già
ấy là thân mẫu và thân phụ của con.
Nghe vị Tỳ khưu bạch như vậy, Ðức Thế Tôn
bèn tán dương ca tụng rằng: Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-- Con đã hành theo con đường xưa, theo
truyền thống của Như Lai đã hành, Ngài thuyết về tiền kiếp của Ngài sanh
làm đạo sĩ Suvannasàma đã phụng dưỡng cha mẹ mù đều là đạo sĩ ở trong rừng
(Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-- Sự phụng dưỡng cha mẹ là việc làm theo
truyền thống của chư bậc Thiện trí.
Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ
chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu phụng dưỡng cha mẹ ấy đã chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh Nhập Lưu.
Phụng Dưỡng Cha Mẹ Thoát
Khỏi Nạn Chết
Trong thời quá khứ, Ðức Bồ Tát
Suvanna-sàma, tiền thân Ðức Phật Gotama của chúng ta, là vị đạo sĩ phụng
dưỡng cha mẹ, đều là hai vị đạo sĩ mù, trong khu rừng lớn gần bờ sông
Migasammatà (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Vào thời kỳ ấy, đức vua Pìliyakkha trị vì
kinh thành Bàrànasì, Ðức Vua có thú săn nai ăn thịt; một mình ngự vào rừng
núi Himavanta, nhìn thấy dấu chân nai trên đường đi lấy nước uống, nước
dùng của đạo sĩ Suvannasàma; Ðức Vua ẩn mình một nơi, nhìn thấy đạo sĩ Ðức
Bồ Tát cùng với một đàn nai đi xung quanh trên đường mang nước trở về, vào
lúc buổi chiều. Ðức Vua giương cung nạp mũi tên có tẩm thuốc độc, bắn
trúng Ðức Bồ Tát, Ðức Bồ Tát nằm quỵ xuống đau quằn quại, với lời than vãn
thống thiết dịu dàng êm ái; chỉ nghĩ đến cha mẹ già đui mù, không ai hái
trái cây chín, đem nước uống, nước dùng về phụng dưỡng cha mẹ.
Lắng nghe lời than vãn, Ðức Vua nghĩ rằng:
vị đạo sĩ này, dầu bị bắn trúng mũi tên độc, đau quằn quại, mà không có
một lời trách móc ta, chỉ nghe lời than vãn dịu dàng êm ái.
Ðức Vua ngự đến nhìn thấy Ðức Boà Tát đang
đau khổ, làm cho Ðức Vua cảm động, ân hận trào nước mắt.
Một thiên nữ tên Bahusundarì thường trú ở
núi Gandhamàdana đã từng là thân mẫu của Ðức Bồ Tát kiếp thứ 7 trong quá
khứ, tình mẹ thương con, nên thường nghĩ đến Ðức Bồ Tát. Ngày hôm ấy, vị
thiên nữ nhìn thấy Ðức Bồ Tát đang trong cơn bất tỉnh, xem xét biết rõ mọi
việc xảy ra, nghĩ rằng: "Nếu ta không đến nơi ấy để cứu giúp, thì Ðức Bồ
Tát con của ta sẽ chết, cha mẹ của Ðức Bồ Tát không có vật thực, nước uống
cũng sẽ chết, ngay đức vua Pìliyakkha ân hận đến nỗi vỡ tim phải băng hà.
Nhưng ta đến cứu giúp, yêu cầu Ðức Vua đến gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, dẫn
cha mẹ của Ngài đến sẽ nguyện bằng lời chân thật, và chính ta cũng nguyện
bằng lời chân thật. Do những lời chân thật ấy sẽ giúp cho Ðức Bồ Tát thoát
khỏi nạn tử thần, đồng thời cha mẹ của Ðức Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại,
Ðức Vua nghe Ðức Bồ Tát thuyết pháp, khi trở về trị vì đất nước bằng thiện
pháp, lúc băng hà, do thiện nghiệp sẽ cho quả tái sanh lên cõi trời dục
giới.
Vị thiên nữ hiện đến đứng trên hư không
tâu rằng:
-- Tâu Ðại Vương, Người nên thay Ðức Bồ
Tát Sàma phụng dưỡng cha mẹ của Ðức Bồ Tát, như vậy, Ðại Vương sau khi
chết, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả, sẽ được tái sanh cõi thiên giới.
Nghe lời khuyên của vị thiên nữ, Ðức Vua
liền ngự đến tìm gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, kể lại mọi sự việc xảy ra. Cha
mẹ của Ðức Bồ Tát tâu rằng:
-- Tâu Ðại Vương, nếu như vậy, xin Ðại
Vương từ bi dẫn hai chúng tôi đến tận nơi Suvannasàma.
Cha mẹ của Ðức Bồ Tát đến nơi sờ vào thân
mình của Suvannasàma nguyện bằng lời chân thật rằng:
"Sàma thường hành thiện pháp, phụng dưỡng
cha mẹ, do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy
tiêu tan".
Nguyện xong lời chân thật, thân của Ðức Bồ
Tát có thể bắt đầu cử động, tiếp theo vị thiên nữ nguyện rằng:
"Tôi trú tại núi Gandhamàdana trải qua
thời gian lâu rồi, không thương yêu ai hơn Sàma con của tôi. Do lời chân
thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy tiêu tan".
Vừa dứt lời nguyện chân thật của vị thiên
nữ, những điều phi thường xảy ra cùng một lúc:
- Ðức Bồ Tát Suvannasàma bình phục như
xưa.
- Cha mẹ của Ðức Bồ Tát có đôi mắt sáng
trở lại.
- Mặt trời vừa rạng đông.
- Cả 4 người đều có mặt trong am của đạo
sĩ, do năng lực của vị thiên nữ.
Khi ấy, Ðức Bồ Tát thuyết pháp tế độ Ðức
Vua rằng:
-- Này Ðại Vương, người nào biết lo phụng
dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư thiên hộ trì người ấy.
Người nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng
thiện pháp, chư bậc Thiện trí tán dương ca tụng người ấy trong đời này;
người ấy sau khi từ bỏ cuộc đời này, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh
lên cõi thiện giới hưởng mọi sự an lạc ở cõi ấy.
Này Ðại Vương, nếu Ðại Vương muốn kiếp sau
tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, thì xin Ðại Vương nên thực hành
10 Pháp vương (Ràjadhamma) như sau:
1- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương phụng
dưỡng hoàng thái hậu và thái thượng hoàng bằng thiện pháp trong đời này;
do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.
2- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm
từ bi tế độ hoàng tử, công chúa và hoàng hậu bằng thiện pháp trong đời
này, do thiện pháp aáy cho quả tái sanh lên cõi trời.
3- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử
với các quan trong triều bằng thiện pháp trong đời này....
4- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm
từ bi tế độ voi, ngựa, và quaân lính bằng thiện pháp trong đời này....
5- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử
với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành bằng thiện pháp trong
đời này....
6- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử
với thần dân các vùng xa và biên giới bằng thiện pháp trong đời này....
7- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương hộ độ
chư Sa môn, Bà la môn một cách cung kính trong đời này....
8- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm
từ, bi đối với đàn thú như: nai, chim... bằng thiện pháp trong đời
này....
9- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương thường
thực hành thiện pháp trong đời này rồi, chính thiện pháp ấy đem lại sự
an lạc trong đời này, nhờ thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời.
10- Này Ðại Vương, Ðức Vua trời Inda
cùng chư thiên, chư phạm thiên hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời đều do nhờ
quả thiện pháp. Vậy xin Ðại Vương chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp.
Giải thích 10 Pháp vương
(Ràjadhamma)
Ðiều 1:
Phụng dưỡng Hoàng Thái Hậu - Thái Thượng Hoàng: Ðức Vua mỗi ngày thức dậy
sớm, tự mình đem nước rửa mặt, súc miệng dâng đến hai Người, mang vật
thực... đem dâng đến 2 Người....
Ðiều 2:
Tế độ hoàng tử, công chúa: Ðức Vua dạy dỗ hoàng tử, công chúa tránh xa mọi
việc ác, cố gắng hành mọi việc thiện, cho học hành văn võ song toàn, đến
khi trưởng thành, tìm nơi xứng đáng cho làm lễ kết hôn, ban cho của cải,
sự nghiệp....
Tế độ hoàng hậu: tấn phong địa vị xứng
đáng, không nên coi thường, giao quyền làm lớn trong nội cung, ban cho
những đồ trang sức....
Ðiều 3:
Ðối xử các quan trong triều bằng 4 pháp tế độ:
- Ban thưởng người đáng ban thưởng.
- Nói lời đáng yêu mến.
- Nói điều đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.
- Sống hoà mình với các quan, vui cùng hưởng, khổ cùng chịu.
Ðiều
4: Từ, bi tế độ voi, ngựa, quân lính: Ðối với ngựa già yếu cho nghỉ
ngơi, cho ăn uống đầy đủ, chăm nom săn sóc chúng; và những người lính già
cho về hưu trí, hưởng tiền trợ cấp hàng tháng cho đến chết.
Ðiều 5:
Ðối với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành: Không nên có sưu
cao thuế nặng, làm cho thần dân cực khổ.
Ðiều 6:
Ðối với thần dân các vùng xa và biên giới: Khi gặp cảnh hạn hán đói khổ,
nên phát chẩn cứu giúp họ.
Ðiều
7: Hộ độ chư Sa môn, Bà la môn: Ðối với chư Sa môn, Bà la môn nên
cúng dường 4 thứ vật dụng: vật thực, y phuïc, chỗ ở, thuốc trị bệnh.
Ðiều
8: Ðối với các đàn thú như đàn nai, đàn chim... các loài thú vật có
4 chân, 2 chân... không nên sát hại chúng, nên tôn trọng sanh mạng của
muôn loài.
Ðiều
9: Hành thiện pháp, đó là 10 thiện nghiệp: không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói
lời thô tục, không nói lời vô ích, không tham lam, không thù hận, có chánh
kiến; hành 10 phước thiện: bố thí, giữ giới, hành thiền v.v....
Ðiều
10: Chư thiên, Ðức Vua trời Inda, chư phạm thiên, hưởng mọi sự an
lạc cõi trời, đều do nhờ quả thiện pháp.
Dục giới thiện pháp cho quả tái sanh lên
cõi trời dục giới.
Sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới.
Vô sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời vô sắc giới.
Cuối cùng Ðức Bồ Tát khuyên Ðức Vua rằng:
"Mà dhammam Ràja pamàdo".
"Này Ðại Vương, vì vậy, xin Ðại Vương
chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp".
Lắng nghe Ðức Bồ Tát thuyết pháp xong, Ðức
Vua vô cùng hoan hỉ, phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát, xin thọ
trì ngũ giới, xin phép từ giả Ðức Bồ Tát hồi cung. Từ đó về sau, Ðức Vua
giữ gìn ngũ giới, nghiêm chỉnh thực hành 10 pháp vương (ràjadhamma) mà Ðức
Bồ Tát đã dạy, trị vì đất nước bằng thiện pháp cho đến khi băng hà. Sau
khi bằng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an
lạc ở cõi trời.
Ðức Bồ Tát và cha mẹ của Ngài tiến hành
thiền định, chứng đắc bậc thiền. Sau khi chết, do bậc thiền sở đắc của
mình cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên, hưởng sự an lạc và tuổi
thọ lâu dài trên cõi trời sắc giới phạm thiên ấy.
Tích Người Nghèo Sutana
Thời quá khứ, trong kinh thành Bàrànasì,
Ðức Bồ Tát Sutana tiền thân của Ðức Phật Gotama là người nghèo làm thuê
phụng dưỡng cha mẹ, khi cha qua đời, lo phụng dưỡng mẹ (Bộ Jàtaka, chuyện
Sutanajàtaka).
Vào thời ấy, Ðức Vua kinh thành Bàrànasì
có thú săn Nai; một hôm, Ðức Vua cùng các quan ngự vào rừng, Ðức Vua
truyền lệnh rằng:
-- Nai chạy về hướng người nào, người ấy
phải bắt cho được.
Khi ấy, một con nai chạy về phía Ðức Vua,
Ðức Vua lấy cung nạp tên bắn, con nai làm bộ trúng tên nằm lăn xuống đất,
Ðức Vua vừa ngự đến bắt, con nai đứng dậy bỏ chạy, Ðức Vua đuổi theo kịp
dùng thanh gươm chặt nó làm 2 phần, lấy cây gánh ngự trở lại; vì mệt quá,
nên Ðức Vua ghé lại gốc cây da nằm nghỉ, một lát đứng dậy ngự trở về.
Tại cây da ấy, có dạ xoa tên Maghadeva
thường trú nơi ấy, hiện ra nắm tay Ðức Vua và bảo rằng:
-- Hãy đứng lại! hôm nay nhà ngươi là vật
thực của ta.
Ðức Vua hoảng sợ truyền rằng:
-- Ngươi chỉ ăn thịt ta ngày hôm nay thôi,
hay ngươi ăn thịt hàng ngày?
Dạ xoa bảo rằng:
-- Khi có thịt, ta sẽ ăn hàng ngày.
Ðức Vua truyền rằng:
-- Ta là Ðức Vua trị vì ở kinh thành
Bàrànasì này, hôm nay, ngươi ăn món thịt Nai này, ngươi hãy tha cho ta hồi
cung; bắt đầu ngày mai, mỗi ngày ta sẽ nạp một người, mang thưùc ăn đến,
cho ngươi ăn thịt.
Dạ xoa bảo rằng:
-- Như vậy, nhà ngươi đừng thất hứa, ngày
nào nếu ngươi không nạp người mang mâm đồ ăn đến cho ta, ta sẽ bắt ngươi
ăn thịt.
Ðức Vua cam kết nghiêm chỉnh làm theo lời
hứa; dạ xoa tha chết, cho phép Ðức Vua hồi cung.
Khi hồi cung, bắt đầu ngày thứ 2, Ðức Vua
truyền lệnh mỗi ngày bắt phạm nhân đem một mâm đồ ăn đến nạp cho dạ xoa,
dạ xoa ăn mâm đồ ăn xong rồi ăn thịt người ấy.
Qua một thời gian lâu, những phạm nhân
không còn, những tù nhân thường cũng không có; Ðức Vua hoảng sợ, nếu không
có người nạp cho dạ xoa ăn thịt, thì dạ xoa sẽ bắt Ðức Vua mà ăn thịt, nên
Ðức Vua cho người cỡi voi đem theo 1.000 đồng tiền vàng (kahàpana) truyền
chiếu chỉ rằng:
-- Ai có khả năng đem mâm vật thực đến nạp
cho dạ xoa, sẽ được thưởng 1.000 đồng vàng này.
Nghe như vậy, Ðức Bồ Tát xin nhận 1.000
đồng vàng đem về dâng cho mẹ, rồi xin vào yết kiến Ðức Vua.
Ðức Vua truyền hỏi:
-- Nhà ngươi sẽ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ
xoa có phải không?
-- Tâu Ðại Vương, dạ vâng, kẻ tiện dân này
seõ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ xoa.
-- Nhà ngươi cần những gì? -Ðức Vua
truyền.
-- Tâu Ðại Vương, kẻ tiện dân này cần đôi
hài vàng, 1 chiếc lọng vàng, và 1 thanh kiếm báu của Ðại Vương.
-- Tại sao nhà ngươi cần những thứ quý báu
ấy? - Ðức Vua truyền hỏi.
Ðức Bồ Tát giải thích rằng:
-- Tâu Ðại Vương, bởi vì, dạ xoa chỉ được
pheùp ăn thịt người đứng trên mặt đất và dưới bóng cây trong phạm vi của y
mà thôi; còn tiện dân đứng trên đôi hài vàng và dưới bóng của chiếc lọng
vàng, thì dạ xoa không được phép ăn thịt tiện dân. Và thông thường hàng
phi nhân sợ người có khí giới trong tay; khi tiện dân có thanh kiếm báu
trong tay, thì dạ xoa không dám đến gần, nếu y tiến đến bắt tiện dân ăn
thịt, thì tiện dân sẽ giết chết y bằng thanh kiếm báu này.
Nghe lời giải thích của Ðức Bồ Tát, Ðức
Vua rất hài lòng và truyền bảo rằng:
-- Nhà ngươi cần thứ gì nữa?
-- Tâu Ðại Vương, những thứ đồ ăn đặt trên
một chiếc mâm thường, không xứng đáng với hạng người trí như tiện dân. Vì
vậy, xin đặt những đồ ăn trên chiếc mâm bằng vàng, mà Ðại Vương thường
dùng hàng ngày.
Ðức Vua ban cho Ðức Bồ Tát Sutana những
thứ ấy, và cho lính theo hầu hạ Ðức Boà Tát. Nhờ lính mang theo những thứ
báu ấy, đến gần nơi ở của dạ xoa, Ðức Bồ Tát bảo họ chờ nơi ấy, Ðức Bồ Tát
mang đôi hài vàng, che chiếc lọng vàng trên đầu, đặt mâm đồ ăn trên đầu
thanh kiếm báu, đứng phía ngoài ranh giới của bóng cây, trao mâm đồ ăn cho
dạ xoa.
Dạ xoa nghĩ rằng: "Ta sẽ lừa người này vào
trong bóng cây này, rồi ăn thịt y", nên động viên khuyến khích rằng:
-- Xin mời bạn vào đây, chúng ta cùng nhau
dùng vật thực.
Ðức Bồ Tát bảo rằng:
-- Ta nói cho ngươi biết, ngươi chớ hòng
lừa ta. Hôm nay, Ðức Vua nạp ta cho ngươi ăn thịt. Nhưng ngươi không có
quyền ăn thịt ta được, bởi vì, hôm nay ta đến đây, ta đứng trên đôi hài
vàng của Ðức Vua, không đứng trên phạm vi mặt đất của ngươi; và ta đứng
dưới chiếc lọng vàng của Ðức Vua, không đứng dưới bóng cây của ngươi. Như
vậy, ngươi không có lý do gì để ăn thịt ta được.
Nếu ngươi muốn cố ý ăn thịt ta, thì ta sẽ
dùng thanh kiếm báu của Ðức Vua giết chết ngươi hôm nay.
Lắng nghe lời nói hùng hồn, cương quyết
của Ðức Bồ Tát, dạ xoa nghĩ rằng: "Người này nói rất đúng, một con người
dũng cảm, không hề biết sợ". Dạ xoa phát sanh đức tin trong sạch với Ðức
Bồ Tát, xin nhận món đồ ăn. Ăn xong dạ xoa thưa rằng:
-- Kính thưa bậc Thiện trí, xin Ngài trở
về được an toàn, thân mẫu của Ngài đang trông chờ Ngài, và Ngài cũng gặp
lại thân mẫu.
Ðức Bồ Tát dạy rằng:
-- Này bạn, kiếp trước bạn đã tạo ác
nghiệp nên tái sanh làm kiếp dạ xoa ăn thịt người, kể từ nay về sau, xin
bạn chớ nên tạo ác nghiệp như sát sanh v.v... nữa.
Ðức Bồ Tát thuyết giảng quả báu của sự giữ
ngũ giới, và tội lỗi của sự phá giới.
Dạ xoa phát sanh đức tin trong sạch nơi
Ðức Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới.... Ðức Bồ Tát động viên khuyến khích
rằng:
-- Này bạn, bạn ở trong rừng này không ích
lợi gì đâu! Xin bạn hãy đi với tôi ra ngoài kinh thành. Dạ xoa nghe lời
khuyên của Ðức Bồ Tát, nên mang những vật báu đi theo sau Ðức Bồ Tát.
Nghe tin Ðức Bồ Tát trở về, Ðức Vua ngự ra
đón rước Ðức Bồ Tát, Ðức Vua cho phép dạ xoa thường trú tại cổng thành,
hàng ngày được mọi sự lợi lộc, Ðức Vua mời Ðức Bồ Tát về cung điện, tấn
phong Ðức Bồ Tát địa vị quân sư, Ðức Vua cung kính lắng nghe lời dạy bảo
của Ðức Bồ Tát.
Ðức Bồ Tát phụng dưỡng mẹ già được đầy đủ,
hưởng mọi sự an lạc cho đến mãn kiếp.
Ðức Vua trị vì đất nước bằng thiện pháp,
sau khi băng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời, hưởng mọi sự
an lạc ở cõi trời.
(xem tiếp phần 2)
-ooOoo-
Ðầu trang | Phần 1 |
Phần 2 |