|
Hương Vị Pháp Bảo
Thiền sư U Silananda
(7)
Thất Giác Chi
Tại các nước theo Phật giáo Nguyên
thủy, mỗi khi gia đình có người bị bệnh thì thân nhân hay thỉnh chư
Tăng đến nhà đọc tụng bài kinh Thất Giác Chi (hay thất Bồ Ðề
phần) đề mong người bệnh chóng thuyên giảm. Truyền thống nầy bắt
nguồn từ một đoạn kinh trong Tương Ưng bộ kinh, thoạt đầu gồm 3 bài. Sau
đó các vị đạo sư đã tóm lược lại thành một, rồi viết theo thể
thơ cho dễ đọc tụng. Người bệnh trong bài kinh đầu tiên là Ðại
Ðức Ca-diếp, trong bài kinh thứ nhì là Ðại Ðức Mục-kiền-liên và
trong bài kinh thứ ba là Ðức Phật. Trong hai bài đầu, Ðức Phật thuyết
về Thất Giác Chi cho Ngài Ca-diếp và Mục-kiền-liên nghe. Ðến
phiên Ðức Phật bệnh thì Ngài yêu cầu Ðại Ðức Chunda giải thích cho
Ngài nghe về bảy yếu tố đưa đến Giác ngộ nầy. Kinh nói rằng sau
khi nghe đọc tụng như vậy thì cả 3 đều hoan hỉ và do đó, sau đó
cơn bệnh thuyên giảm giống như giọt nước vừa đọng trên lá sen
là rơi tuột xuống ngay.
Chuyện kể lại ngày nọ đức Thế tôn đang
ngụ tại thành Vương xá, Ngài Ca-diếp lâm bệnh nặng trong một hang
động. Ðức Phật biết được nên đến thăm và hỏi han Ngài
Ca-diếp. "Nầy Kassapa! Ông thấy trong người thế nào? Còn bệnh
có bớt được phần nào không?"
"Bạch đức Thế tôn, con đang bị đau nhức rất
nhiều và chẳng có dấu hiệu thuyên giảm nào cả, trái lại càng ngày
càng đau nặng hơn". Ngài Ca-diếp là một vị A-la-hán nên Ngài trả
lời rất thành thực. Nghe vậy đức Phật liền thuyết bài kinh Thất Giác
Chi. "Nầy Kassapa! Bảy yếu tố nầy đã được Như Lai giảng dạy một
cách rõ ràng. Nếu hành trì đúng đắn thì sẽ thấy hiểu được bản
chất thật sự mọi vật, sẽ chứng ngộ được Niết bàn". Sau khi nghe
giảng xong, Ngài Kassapa vô cùng hoan hỉ. "Bạch đức Thế tôn, đúng
vậy đây là 7 yếu tố đưa đến sự Giác ngộ". Nói xong Ngài
Ca-diếp đứng dậy, cảm thấy hoàn toàn lành bệnh và căn bệnh nầy
không bao giờ tái phát trong suốt đời Ngài.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Ngài
Ca-diếp nghe kinh mà được lành bệnh? Quý vị hẳn còn nhớ là Ngài
Ca-diếp đã đắc đạo quả A-la-hán sau khi Ngài xuất gia được 7 ngày. Sau
đó, Ngài đã có phát triển 7 yếu tố nầy đến mức độ hoàn hảo.
Do đó, khi được nghe chính Ðức Phật giảng lại một lần nữa, Ngài đã tập
trung hết tâm ý để nghe và nghe xong, Ngài rất là hoan hỉ, tinh tấn
vô cùng phấn chấn. Ngài thật sự thân chứng được sự dứt khổ đau sau bài
kinh nầy, khổ trong trường hợp nầy là về thân. Vì sao? Vì khi tâm hoan hỉ
thì tự nhiên máu huyết trong châu thân được thanh lọc và lưu thông,
thần kinh được điều hòa đưa đến sự lành bệnh. Vậy nguyên nhân
chính khiến Ngài được khỏi bệnh vì Ngài đã từng thực hành bài kinh
nầy rồi, nay được nghe nhắc lại trong sự chú tâm mạnh mẽ, phát sanh hỉ lạc
nên dứt bệnh.
Nhân đây, Sư xin kể lại một vài nét chính về
cuộc đời của Ngài Ca-diếp. Ngài là Papali, con của một vị bá hộ vô cùng
giàu có. Khi đến tuổi lập gia đình, dù Ngài không muốn, vẫn bị cha mẹ
sắp đặt cho kết hôn với thiếu nữ thật đẹp cùng đồng ý
nguyện như Ngài. Họ sống với nhau như anh em và sau một thời gian thì
cùng quyết định xuất gia. Khi chia tay nhau thì lòng thành của họ đã
khiến mặt đất rung chuyển. Ðức Phật biết được nên đã rời
thành Vương xá đi đến Nalanda và ngồi chờ. Khi thấy Ðức Phật, Papali
đến đảnh lễ Ngài và sau khi được nghe Pháp, Papali xin được xuất gia,
có tên là Kassapa (Ca-diếp). Ngài hành Tứ Niệm Xứ, và 7 ngày sau đạt
thánh quả A-la-hán. Ngài sống đời phạm hạnh, vô cùng đạm bạc, thực hành 13
hạnh đầu đà và được Ðức Phật xem là đệ nhất đầu đà (khổ hạnh).
Ba tháng sau khi Ðức Phật nhập Niết bàn, Ngài Kassapa là vị hướng dẫn sự
kết tập kinh điển lần thứ nhất. Tam Tạng kinh còn được lưu
truyền đến ngày nay là nhờ ơn của Ngài. Và Phật tử nào muốn học
và hành theo lời dạy của Ðức Phật cũng đều biết ơn Ngài Maha Kassapa
(Ðại Ca-diếp).
Chi tiết trong bài kinh thứ nhì cũng giống như trong
bài kinh thứ nhất nhưng người bệnh là Ðại Ðức Mục-kiền-liên,
đệ nhất thần thông và là một trong hai đệ tử chính của Ðức Phật.
Cùng với Ðại Ðức Xá-lợi-phất, Ngài đã tích cực hỗ trợ cho Ðức Phật
trong sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp và giúp đỡ rất nhiều cho
chư tăng.
Trong bài kinh thứ ba, người bệnh lại chính là Ðức
Phật. Lúc ấy Ngài đang ngụ tại thành Vương xá thì có Ðại Ðức Chunda
đến hầu Phật. Sau khi Chunda đã đảnh lễ và an vị xong, Ðức Phật nói
"Nầy Chunda, hãy giải thích lại cho Như Lai về 7 yếu tố đưa
đến Giác ngộ". Ðây là điểm hơi lạ vì 7 yếu tố nầy do
chính Ðức Phật khám phá, tu tập đến chứng ngộ và đã từng đem ra giảng
dạy không biết bao nhiêu lần cho biết bao nhiêu người được chứng ngộ
như Ngài. Ngài cũng có thể nhớ lại một cách dễ dàng nhưng chắc là Ngài
muốn nghe giảng lại từ một người khác. Sau khi nghe xong Ngài rất hoan hỉ và
bệnh thuyên giảm rồi bớt hẳn.
Theo Hòa thượng Thiền sư Mahasi, sự lành bệnh
không phải chỉ nhờ nghe mà thôi. Người nghe phải là người đã hiểu và
hành trì 7 yếu tố nầy mời có được tâm hỉ lạc. Từ hỉ lạc đưa
đến khinh an, và sau cùng cả 7 yếu tố sẽ được có mặt một cách rõ
ràng và đầy đủ. Ðây là các thiện tâm và nhờ sức mạnh của các
thiện tâm nầy mà thân được hưởng lây. Các tế bào trong thân được
thanh lọc và phục hồi, có khả năng chống lại được bệnh tật. Do đó
muốn các yếu tố nầy hội đủ trong tâm, ta cần phải nỗ lực hành
thiền Tứ Niệm Xứ cho đến khi kinh nghiệm được Phật pháp, thực
chứng Tứ Diệu Ðế. Nhờ sự tu hành đó mà Thất Giác Chi được sanh
khởi dễ dàng trong tâm ta và trong trường hợp ta có bệnh, thì bệnh
khó cũng dễ được dứt trừ. Nhưng đã là chúng sanh còn mang tấm thân ngũ
uẩn nầy thì phải chịu đau, già, cho nên các vị A-la-hán tuy nghe bài kinh
được lành bệnh, cuối cùng các Ngài cũng phải chết vì già, đau,
chết là luật tự nhiên của kiếp nhân sinh. Vậy, một trong các phương
pháp vượt chống bệnh khổ là nghe kinh trên. Cho nên, Sư vẫn luôn luôn
khuyến khích các thiền sinh đừng để mất cơ hội nghe pháp và nghe
kinh.
Ngay cả Ðức Phật, dù Ngài đã thuyết giảng
biết bao nhiều bài pháp mà còn muốn nghe lại những bài kinh mình đã
dạy nên mới cho Chunda đọc tụng lại. Về phía chúng ta cũng phải
hiểu là các bài kinh đó Phật thuyết chỉ nhằm chữa tâm bệnh chứ
không phải chữa thân bệnh. Chữa tâm bệnh là tẩy trừ các phiền
não ô nhiễm đang chất chứa trong nội tâm của chúng sanh, mà nhờ đó cũng có
thể chữa lành được nhiều trường hợp liên quan đến thân
bệnh.
Thất Giác Chi còn được gọi là 7 yếu tố trợ
Bồ Ðề hay là 7 phương các làm trí tuệ được phát sanh. Muốn
hiểu rõ 7 pháp nầy ta nên trở lại nguyên ngữ Pali của nó là
"Bojjhanga". Ðây là một danh từ ghép gồm 2 chữ Bodhi và Anga. Bodhi là
hiểu biết hay trí tuệ, hiểu biết các pháp hữu vi của
thế gian và hiểu biết Tứ Diệu Ðế. Ðó là những trí
tuệ ra đạt được khi ta thực tập thiền Minh Sát trước khi Giác ngộ.
Anga là thành phần hay yếu tố. Có những tâm sở như Niệm, Trạch pháp
hay Ðịnh tạo thành một nhóm sở như Niệm, Trạch pháp hay Ðịnh tạo thành
một nhóm gọi chung là Thất Giác Chi, giúp hành giả xuyên thấu bản chất
thật sự của các pháp thế gian và đưa tới việc thấu hiểu được
Tứ Diệu Ðế. (Khi quý vị đã nắm được ý nghĩa của chữ
Bojjhanga, quý vị chỉ cần tìm cho nó danh từ thích hợp thế là xong).
Bảy yếu tố nầy bắt đầu bằng Niệm giác
chi và Trạch pháp giác chi là những tâm sở sanh khởi
trong tâm ta khi thực tập thiền Minh Sát. Theo Chú giải, chỉ được gọi
là có Bojjhanga khi nào trong tâm hành giả đạt được tuệ Sanh Diệt
(là tuệ thứ tư trong thiền Minh Sát). Nhưng theo Thiền sư Mahasi, có
thể gọi là có Bojjhanga khi hành giả đạt được tuệ Danh Sắc tức
là tuệ phân biệt được Thân và Tâm (tuệ giác thứ nhất).
Khi thực tập thiền Minh Sát tâm hành giả sẽ tuần
tự tiến bộ theo từng thứ lớp, từng giai đoạn một. Lúc mới bắt đầu thực
tập thì việc cần phải làm là cố gắng có định tâm. Ðó không phải là
chuyện dễ làm cho người sơ cơ, tâm hay suy nghĩ. Mỗi lần có chánh
niệm trên đề mục là mỗi lần có vọng tâm chen vào cắt đứt
chánh niệm. Vọng tâm hay những chướng ngại của tâm như tham, sân, hôn
trầm, dao động hay nghĩ ngợi làm che mờ đối tượng không cho tâm nằm yên
trên đề mục.
Sau một thời gian thực tập, suy nghĩ tương đối bớt
dần, tâm hành giả có thể an trụ trên đề mục một khoảng thời gian
khá dài, 5, 10, hay 20 phút. Trong thời gian, một tâm chánh niệm cũ được
một tâm chánh niệm kế tiếp liên tục nối theo nên đôi khi vọng
tâm sắp sửa hiện khởi thì hành giả có thể bắt lại liền. Tâm
hành giả lúc nầy trong sáng và không bị vọng tâm chen vào, Ðây là giai
đoạn tiến bộ của hành giả và sau đó hành giả sẽ kinh nghiệm được
nhiều điều khác mới lạ hơn. Ðó là khi chú tâm theo dõi đối tượng
hành giả sẽ thấy nó có hai cái riêng biệt khác nhau, một là tâm chú
niệm hay ghi nhận và một là cái đối tượng được chú niệm hay ghi
nhận.
Thí dụ khi ngồi theo dõi phồng xẹp của bụng, ta thấy
phồng xẹp là một cái riêng và tâm mà ta niệm nhờ theo dõi sự phồng xẹp
là một cái khác, hai điều phân biệt rất rõ ràng và trong sáng. Ta sẽ
tự thấy rõ tâm chú niệm nó hướng tới, nó tiến về và bám vào
đối tượng trong khi đối tượng là phồng xẹp tự nó không hay biết gì
hết, không ghi nhận gì hết. Tâm chú niệm được gọi là Danh và
đối tượng chú niệm được gọi là Sắc. Danh có sự nhận biết còn
Sắc thì không và thay đổi tùy theo thời tiết, đói no. Sự phân biệt
Thân Tâm nầy đưa ta đến một sự hiểu biết rõ ràng là không
hề có cái linh hồn hay tự ngã, không có cái gì ngoài Danh và Sắc. Sự
không nghĩ hoặc không lẫn lộn về điều nầy giúp hành giả loại bỏ
được một quan kiến sai lầm về bản ngã hay về linh hồn.
Nếu tiếp tục ghi nhận, hành giả sẽ đi đến
một sự hiểu biết khác nữa. Ðó là vì có sự "phồng" nên có
sự niệm "phồng", vì có sự "ngồi đụng" nên có sự
niệm "ngồi đụng" v.v... Cũng như vậy khi ta thiền hành, ta
niệm đơn giản "mặt, bước" trái, bước" hoặc "dở,
bước, đạp". Khi tâm định mạnh hơn thì ta thấy rõ là trước một động
tác, có tác ý muốn làm động tác ấy. Do đó sự dở, bước, đạp không do
ai tạo ra hay một quyền năng bên ngoài điều khiển. Có tác ý
dở thì chân mới dở, có tác ý bước thì chân mới bước.
Khi tâm định được phát triển dễ dàng hơn nữa
thì ta sẽ mỗi đối tượng ghi nhận có cái bắt đầu và có cái chấm dứt
của nó. Khi niệm phồng ta sẽ thấy sự phồng bắt đầu như thế nào,
tiếp tục như thế nào và chấm dứt như thế nào. Ta sẽ thấy một
cách trực tiếp chính xác chứ không phải qua suy nghĩ hay tưởng tượng.
Cũng thế, ta cũng thấy cảm giác đau, một cảm giác thọ lạc hay bất cứ
một đối tượng về thân tâm nào đều có sự bắt đầu và chấm dứt.
Thấy chúng sanh rồi diệt, diệt rồi sanh. Ðó là lúc hành giả thấy
được tính chất vô thường của mỗi hiện tượng có điều kiện.
Chúng sanh rồi diệt không do ai làm chủ, ai ra lệnh cả. Chúng hành
động như cái máy, không một tạo hóa, một thần linh nào bắt buộc nó thay
đổi. Và khi thấy rõ mỗi hiện tượng đều bị đè nén, bị áp
chế bởi sự vô thường như vậy, ta thấy được cái bản chất bất toại
nguyện của chúng. Thấy được bản chất vô thường bắt toại nguyện nầy
thì đồng thời cũng thấy luôn đặc tính vô ngã của mỗi hiện tượng.
Tiếp tục chú niệm, tâm hành giả càng ngày càng
định và trong sáng hơn. Sẽ thấy sự phồng không phải chỉ là một cái phồng
mà liên tiếp trong đó có nhiều cái phồng nhỏ. Xẹp cũng tương tự
như vậy. Mỗi động tác dù nhỏ, dù lớn, đếu là tập hợp của
nhiều động tác nhỏ nằm trong đó. Mỗi cảm giác đều hình thành
bằng những phần tử li ti trong đó. Nhờ đó hành giả xuyên thấu được tính
chất vô thường của đối tượng một cách sâu sắc hơn nữa. Rồi hành giả sẽ
thấy những khoảng hở giữa những cái li ti đang liên tục kế tiếp nhau.
Cái nầy khởi sanh, hoại, diệt, rồi hở và lại sanh, hoại, diệt và
hở... Mỗi hiện tượng không phải một khối lớn nguyên vẹn và vững
chắc mà là tập hợp bởi hàng trăm hàng ngàn cái phần nhỏ trong đó.
Khi hành giả chứng nghiệm được điều trên thì
tâm phỉ lạc sanh khởi. Hành giả cảm thấy đây là lần đầu tiên kinh
nghiệm một việc rất thú vị. Tâm phỉ lạc phát sanh khiến tâm định
càng vững mạnh và chánh niệm càng vững vàng. Giai đoạn nầy được
gọi là đạt được tuệ Sinh Diệt. Chỉ có giai đoạn nầy thôi thì
Chú giải mới cho là Thất Giác Chi thật sự sanh khởi trong tâm hành giả.
Bây giờ ta hãy xét từng yếu tố của thất giác chi
khi chúng ta hành thiền. Ðiều mà ta luôn cần phải làm là phải liên
tục duy trì chánh niệm. Muốn có chánh niệm ta phải nỗ lực, tinh
tấn cố gắng. Không có cố gắng sẽ không có chánh niệm. Sự tinh tấn nầy
có 4 khía cạnh gọi là Tứ Chánh Cần: ngăn ngừa bất thiện tâm nào
chưa phát khởi và loại trừ bất thiện tâm nào đã sanh khởi; cố gắng làm
sanh khởi các thiện tâm và duy trì các thiện tâm đã sanh khởi. Khi
chánh niệm được liên tục giữ trên đối tượng là có đủ 4 yếu tố
nầy của Tứ Chánh Cần.
Nhưng khi hành thiền ta phải khéo giữ sao cho sức
tinh tấn nầy quân bình, đừng nhiều quá mà cũng đừng ít quá. Khi tinh
tấn nhiều, tâm hành giả sẽ dao động, không yên, trượt ra khỏi đề
mục. Khi tinh tấn xuống, thì tâm yếu, mù mờ, buồn ngủ. Vậy ta phải
biết tự điều chỉnh sức tinh tấn để quân bình cơ chế
thiền tập, mới có sự tiến bộ. Vậy chánh niệm (sati) là gì? Chánh
niệm là sự hiểu biết, ghi nhận đối tượng một cách rõ ràng, là
một tâm sở giúp cho tâm mình chạm vào đối tượng mình muốn chú niệm.
Ngài Mahasi diễn tả chánh niệm như là một hòn đá ném vào một bức
tường, giúp tâm hướng vào, bắt lấy đối tượng và không để đối
tượng thoát đi, mất đi được.
Chánh niệm được so sánh như người gác cửa. Khi
nhà có người canh gác thì các phần tử xấu không đột nhập vào được. Cũng
vậy khi tâm có chánh niệm thì những bất thiện tâm không có cơ hội
chen vào được. Ðây là một cách duy nhất để thanh lọc tâm của chúng
sanh. Có nhiều phương pháp để phát khởi, duy trì và vun bồi chánh
niệm. Nhưng tất cả phải nhắm vào mục đích để chận đứng ngăn ngừa
không để các bất thiện tâm xâm nhập vào tâm ta. Lúc đầu chánh
niệm hay còn yếu ớt, nhưng với thời gian hành tập càng ngày càng vững
mạnh hơn, có thể ghi nhận ngay những đối tượng vừa mới sanh khởi.
Khi chánh niệm đã đủ mạnh thì một tâm sở khác
sẽ theo lên, đó là tâm Ðịnh. Tâm định có công năng giữ tâm mình bám
chặt, nằm yên trên đối tượng không cho chạy đi chỗ khác. Tâm định ví
như một ngọn lửa hay ngọn đèn được đặt một nơi không có gió nên
đứng rất yên. Sư chắc chắn quý vị đây ai cũng đã từng kinh nghiệm
được tâm định nầy, dù ít dù nhiều dù có thể chỉ một vài giây
ngắn ngủi. Lúc ấy tâm nằm yên trên đề mục và thẩm thấu, tiến sâu
vào đề mục, ta sẽ thấy đề mục thật rõ ràng, chính xác. Ta có
thể có chánh niệm có ghi nhận đối tượng trước khi có tâm định,
nhưng lúc đó đề mục chưa hiện rõ ràng. Trái lại khi ta có định
tâm, tức là khi các pháp triền cái, các chướng ngại của tâm linh bị dẹp
qua một bên lúc bây giờ ta mới thấy đối tượng một cách rõ ràng chính xác.
Chúng ta sẽ thấy được bản chất riêng và chung của
mỗi đối tượng được chú niệm, thấy chúng phát khởi rồi biến
mất, sự sanh và diệt không ngừng nghỉ. Sự thấy biết nầy gọi là
trí tuệ trong thiền Minh Sát, là thấy được thực tướng của mỗi
hiện tượng.
Khi có được kinh nghiệm nầy thì tâm hỉ lạc phát
sanh qua nhiều hình thức như nổi ốc, cảm thấy có nhiều làn sóng
vỗ vào người như sóng biển đập vào bờ, hoặc thân nhẹ như bông gòn
hoặc cả thân tâm đều tràn ngập trong hỉ lạc. Tiếp đó một tâm sở
khác của Thất Giác Chi sẽ sanh khởi. Ðó là tâm Khinh An khiến quý vị
thấy cảm thấy thân tâm quý vị rất nhẹ nhàng và an tịnh, tĩnh lặng.
Tiếp tục thiền tập, hành giả sẽ đạt đến
một bước nữa, đó là tâm sẽ tự động có chánh niệm. Lúc mới đầu muốn
có chánh niệm ta phải tinh tấn, cố gắng đừng cho quên. Bây giờ ta chỉ
cần tinh tấn lúc đầu thôi, sau đó ta tiến đến có khả năng ghi nhớ
mà không cần sự tinh tấn, không cần sự dụng công. Ðến giai đoạn nầy,
một chi khác của Thất Giác Chi sẽ sanh khởi có công năng giữ cho 6 chi kia
được thăng bằng, gọi là tâm Xả (upekha). Ta phải phân biệt chữ Xả
này với chữ Xả trong Thọ (thọ khổ, thọ lạc, thọ xả). Thọ
xả nghĩa là không vui và cũng không khổ. Còn trong Thất Giác Chi, có nghĩa
là điều hòa. Xả có nghĩa là điều hòa các chi khác, làm cho chúng
được quân bình, hài hòa với nhau.
Khi tất cả 7 yếu tố nầy hiện khởi trong tâm
hành giả, chúng tự động làm việc nhịp nhàng với nhau. Chúng sẽ giúp
chúng ta thấy được bản chất thật sự của mọi pháp trên thế gian,
giúp chứng nghiệm Tứ Diệu Ðế, đạt được Giác ngộ, giải thoát.
Ðôi khi những yếu tố trong Thất Giác Chi có thể
hiện khởi trong tâm khi ta không hành thiền, chẳng hạn như khi ta làm
phước hay giữ giới chẳng hạn. Nhưng ta không gọi đó là Bojjanga, 7
yếu tố đưa đến Giác ngộ, nếu nó ở ngoài phạm vi của thiền
Minh Sát. Các vị luận sư cũng hay nhấn mạnh 7 yếu tố nầy chỉ thật sự có
trong tâm người nào đang hành thiền Minh Sát. Vào những lúc khác thì các
yếu tố nầy chỉ được gọi là các thiện tâm mà thôi.
Thứ tự của Thất Giác Chi được ghi trong kinh là Niệm
giác chi. Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỉ lạc giác chi, An tịnh giác
chi, Ðịnh giác chi và Xả giác chi. Nhưng trong sự thực
hành thì trình tự trên lại khác. Bắt đầu là Tinh tấn, Niệm, Ðịnh, Hỉ,
Tịnh, và Xả. Theo thứ tự trong kinh thì sau Niệm giác chi đến Trạch
pháp giác chi.
Trạch pháp có nghĩa là tìm hiểu, điều tra
(investigation) Phật pháp. Nhưng khi hành thiền thì trạch pháp giác chi có
nghĩa là hiểu biết đúng đắn, chính xác về hai hiện tượng
Danh và Sắc. Tất cả những gì ta kinh nghiệm, thấu suốt được về các
hiện tượng sanh khởi trong thân và tâm, về Danh và Sắc được gọi
là Trạch pháp giác chi hay còn gọi là Tuệ, tương ứng với Huệ
trong Bát Chánh Ðạo. Ngoài ra Ðịnh giác chi cũng tương đương với Chánh
Ðịnh. Do đó ta thấy Thất Giác Chi và Bát Chánh Ðạo cũng có chung 4 yếu
tố: tinh tấn, niệm, định và huệ. Cũng như khi ta thực tập Thiền
Tứ Niệm Xứ trong tâm ta phải có 3 yếu tố: tinh cần., tỉnh giác, chánh
niệm. Cho dù danh từ có khác nhau nhưng các trạng thái tâm chỉ là một mà
thôi. Bổn phận công việc của chúng ta là phải cố gắng phát triển các
tâm nầy để kinh nghiệm được Phật pháp.
Tóm lại hành Thiền Minh Sát hay Tứ Niệm Xứ là
thế nào để trong tâm đầy đủ 7 yếu tố đưa đến Giác ngộ
hoặc là 8 chi của Bát Chánh Ðạo. Nếu chưa kinh nghiệm chúng được
thì ta phải có tinh tấn để phát khởi chúng. Nếu đã kinh nghiệm
rồi thì tiếp tục kinh nghiệm thêm cho đến lúc chín mùi, hoàn hảo
tức là đến khi nào chúng ta đạt Giác ngộ mới thôi.
Chúng ta thật sự may mắn được học, hiểu được
7 phẩm trợ đạo nầy vừa lý thuyết vừa thực hành. Càng kinh nghiệm
được 7 yếu tố nầy, ta lại càng biết ơn sâu xa Ðức Phật. Ngài đã
khám phá ra các pháp trợ Bồ Ðề nầy, chứng nghiệm và truyền dạy
lại cho chúng ta tu tập đến ngày hôm nay. Ước mong quý vị tinh tấn
thực hành 7 pháp này cho đến khi viên mãn, thành đạt được đạo quả
Niết bàn giải thoát.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV 23-11-1994
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |