Hương Vị Pháp Bảo
Thiền sư U Silananda
(9)
Thiền Chỉ
Trong bài giảng
trước, Sư đã nêu ra những bước đầu tiên của một người Phật tử trên con
đường tu tập Bát Chánh Ðạo mà Ðức Phật đã chỉ dạy. Trước hết,
người đó cần phải giữ giới để kiểm soát được hành động và lời
nói của mình, tránh điều bất thiện về thân khẩu. Nhưng nếu
chỉ giữ giới không thôi thì chưa đủ. Vì mặc dầu ta cố giữ không sát sanh,
trộm cắp, nói láo... nhưng trong tâm ta vẫn còn rất nhiều ô nhiễm. Ta vẫn
có thể ôm ấp những suy nghĩ những ý muốn giết hại, chiếm
đoạt, lừa dối... vì vậy, phải cố gắng kiểm soát tâm ý. Ðây là
bước đầu về định.
Ðức Phật có dạy rằng khi tâm một người nào được
rèn luyện thì sẽ đem lại hạnh phúc cho người ấy. Ngài nói "Trong
tất cả những gì mà Như Lai biết, không có cái gì có thể đem lại
nhiều hạnh phúc bằng một tâm được trau dồi, phát triển một cách
liên tục. Vì vậy chư Tỳ kheo, những ai muốn hạnh phúc, hãy luôn luôn rèn
luyện tâm mình". Và Ðức Phật luôn sách tấn các đệ tử phải
hành thiền để vun bồi tâm định.
Khi một tâm được định tỉnh, người ấy sẽ thấy
được mọi sự vật đúng như là nó vậy. Vì sao và làm sao? Là vì khi
người đó thấy được con mắt nầy là vô thường, người đó thấy được vật
thấy nầy là vô thường, cái thức sanh khởi nầy là vô thường, cái xúc chạm
giữa con mắt và vật được thấy là vô thường, cái cảm giác sanh khởi do sự
xúc chạm đó là vô thường, thì lúc người ấy mới thật sự thấy và hiểu
mỗi sự vật đúng như chúng là vậy. Do đó muốn thấu suốt bản chất hay
thực tướng của mỗi vật thì tất yếu phải phát triển tâm định.
Trước khi muốn phát triển tâm định, ta cần phải
hiểu tâm định là gì và các đặc tính của nó.
- Ý nghĩa Phạn ngữ "Samadhi"
(concentration): tâm định được giải nghĩa là một sự chú tâm, gom
tâm hay trụ tâm vào một điểm một cách thiện lành. Từ ngữ nầy gồm
hai phần:
- Sam: có hai nghĩa: a) Một cách
đều đặn; và b) Một cách chính xác
- Adhi: cái gì được đặt lên
Vậy Samadhi là một tâm sở đặt lên một cách đều
đặn, chính xác (hay đúng đắn) trên một đối tượng, một đề mục.
Tâm sở nầy đặt cái gì? - Ðặt cái tâm và các tâm
sở khác. Ðặt ở đâu? - Ở trên một đối tượng duy nhất.
Vậy tâm định là một tâm sở có công năng giữ tâm và
các tâm sở khác trên một đề mục duy nhất, không để tâm bị tán
loạn hoặc bị các đề mục khác chi phối hay làm gián đoạn.
- Ðặc tính của tâm định: là
không bị phân tán, nhiễu loạn. Khi tâm được định, nó sẽ bám chắc, an trụ
lên trên đề mục hành thiền.
- Phận sự của tâm định: là giữ không
cho sự phân tán sanh khởi. Khi tâm được an trụ lên trên một đối tượng thì
tâm đó không bị lay chuyển, không rung động, không đi đây đi đó...
Tâm định được ví như một ngọn đèn hay ngọn nến được giữ
trong một phòng kín không có gió.
- Nguyên nhân gần của tâm định: là tâm
an lạc (sukkha) êm đềm. Tâm an lạc là một điều cần thiết để
có được tâm định.
- Có nhiều loại tâm định: Hôm nay
Sư giảng về loại tâm định thuộc Thiền Chỉ, còn gọi là thiền
vắng lặng (tranquility meditation), "samatha".
Hai từ Samatha và Samadhi
thường được dùng giống như có một nghĩa. Nhưng Samatha còn có nghĩa là
cái gì làm cho tâm an tịnh, lắng đọng.
Trong Phật giáo có hai loại thiền:
- Thiền Chỉ hay thiền Vắng Lặng, hay
thiền Ðịnh (Samatha): tranquility meditation.
- Thiền Quán hay thiền Minh Sát (Vipassana):
insight meditation.
Tâm định trong Thiền Chỉ có hai loại: cận định và
các tầng thiền định.
a/ Tâm cận định (neighborhood concentration): Sanh khởi
trước khi các tâm các tầng thiền định sanh khởi.
b/ Tâm định qua các tầng thiền (jhana, meditative
absorption) là một trạng thái tâm linh cao và sâu sắc nhất mà một hành giả
Thiền Chỉ có thể đạt được.
Cả hai tâm cận định và đại định qua các tầng
thiền đều có thể đình chỉ gạt bỏ qua một bên được năm chướng
ngại tâm linh (còn được gọi là năm triền cái).
Sau khi đạt được cận định và tâm định qua các tầng
thiền, nếu hành giả cứ tiếp tục hành thiền có tiến bộ thì
sẽ đắc được các pháp thần thông.
Riêng đối với đạo Phật, thiền vắng lặng không
phải với phương cách và mục đích chỉ để đạt cận định, đại định
hay thần thông nhưng cốt để chúng ta có tâm định và dùng tâm định nầy
làm nền tảng để Thiền Quán.
Mục tiêu tối thượng của Phật Pháp là làm sao gột rửa
mọi ô nhiễm trong tâm. Và để thanh lọc tâm, ta cần phải hiểu
rõ đặc tính của sự vật. Thấy chúng thật sự là vô thường, khổ và vô ngã.
Thiền vắng lặng cũng thanh lọc được tâm nhưng không đến mức rốt
ráo, không thể đưa dẫn ta đến sự khám phá, sự thực chứng được
các đặc tính của mọi hiện tượng của thân và tâm. Thiền vắng
lặng chỉ đình chỉ được các ô nhiễm nhưng nó không thể tẩy trừ
mọi bất tịnh ngũ ngầm trong nội tâm.
Nhưng ta có khả năng phát triển được tâm định
mạnh mẽ qua các tầng thiền vừa đạt nầy để làm đối tượng cho
thiền minh sát của mình. Từ đó qua phát triển tâm minh sát, ta sẽ
tiến dần qua những tầng tuệ giác của Thiền Quán để đạt
được mục đích cuối cùng.
Do đó, tuy Thiền Chỉ chính nó không thể đưa
dẫn tới giải thoát Giác ngộ nhưng nó rất cần thiết cho sự thực tập
Thiền Quán.
Thiền vắng lặng có thể được hành trì qua
nhiều đối tượng khác nhau. Trong kinh điển, có 40 đối tượng cho
Thiền Chỉ (và ta có thể chọn bất cứ đối tượng nào cũng được
để hành tập), chia làm nhiều nhóm:
A. Nhóm 10 kasinas (biến xứ):
Chữ kasinas khó dịch cho chính xác nên hãy giữ
nguyên từ nầy. Kasina có nghĩa là tất cả, bao gồm trọn vẹn. Vậy khi ta
dùng đề mục nầy là để tâm bao trùm đối tượng một cách trọn
vẹn.
Mười kasina là: đất, nước, gió, lửa, màu xanh, màu
vàng, màu đỏ, màu trắng, khoảng trống (không gian) và ánh sáng. Bốn kasina
đầu thuộc về tứ đại tức là 4 yếu tố căn bản của vật chất. Với
đề mục kasina nầy, hành giả có thể đạt cận định và các tầng
thiền định tức là từ sơ thiền (tầng thiền thứ nhất) đến
tầng thiền thứ năm.
- Kasina đất làm đề mục thì lấy một dĩa bằng
đất sét có màu hừng đông, đường kính khoảng mười inches, mặt láng, sạch.
Ðặt dĩa ngay trước mặt, vừa tầm, không xa quá cũng không gần quá. Nhìn dĩa
và để tâm nơi dĩa, thầm lập lại trong tâm "Ðất, Ðất..." hàng
ngàn hàng vạn lần như vậy. Hãy nhận rõ đối tượng một cách chi tiết
để ghi thật kỹ vào tâm hình ảnh của nó. Có lúc ta mở mắt nhìn trong khi
ta niệm thầm, có khi ta nhắm mắt để đưa hình ảnh nầy vào tâm cho
tới một lúc nào đó, mặc dù nhắm mắt nhưng ta vẫn thấy được hình ảnh dĩa
rất rõ ràng.
- Khi thiền tập tiến triển, hình ảnh trong
tâm nầy càng ngày sẽ càng vi tế hơn. Lúc đầu hình ảnh hiện ra (trong
tâm vẫn niệm) giống hệt như dĩa đất thật bên ngoài, từ màu sắc cho
đến những lằn vết thô thiển của nó. Lần lần hình ảnh nầy sẽ
trở thành hoàn hảo hơn. Những khuyết điểm trên dĩa đều biến
mất, thành một dĩa sáng loáng chẳng khác gì mặt trăng hay mặt trời. Và
nếu hành giả trụ tâm lên hình ảnh nầy một cách vững chắc thì sẽ sanh
khởi một tâm sở đặc biệt mà từ trước đến nay chưa bao giờ kinh
nghiệm được, đó là tâm định, có khả năng làm tâm trụ trên một đối
tượng một cách lâu dài. Từ đó hành giả sẽ tiến dần lên để đạt 5
tầng thiền.
- Kasina nước: nhìn nước trong một chậu nước.
- Kasina lửa: nhìn ngọn lửa qua mộ lỗ hở.
- Kasina gió: quan sát sự di động của các cành cây, hay
cảm giác được sự di động của gió khi đi ngang qua khe hở.
- Các màu xanh đỏ: làm một hình tròn có sơn màu mình
chọn.
- Khoảng trống (không gian) hay ánh sáng: cũng được
nhìn qua một khoảng hở.
B. Nhóm 10 asobhas (ô trược):
Quán 10 ô trược, trạng thái tan rã của một xác
chết để phát triển về sự hoại diệt của thân người
chết, từ đó suy niệm những đặc tính nầy nơi thân người đang sống.
Cách quán nầy khó thực hiện trong thời đại tân tiến nầy, nhưng vào
thời Ðức Phật, các xác chết được mang ra nghĩa địa để cho rửa
nát, nên người ta có thể quan sát được nhữngg giai đoạn hoại diệt
của xác chết. Vì đối tượng nầy rất dễ sợ, rùng rợn nên hành thiền
loại nầy chỉ có thể đạt cận định các tầng thiền thứ nhất mà thôi
- do hành giả phải luôn hướng tâm đến đề mục mới giữ tâm trên
đề mục được, và tầng ở thiền này là tầng thiền vẫn còn chi
thiền Tàm (vitaka).
C. Nhóm thứ ba gồm 10 đề mục:
1. Quán niệm về các phẩm tính của Ðức
Phật: Có thể lấy 1 trong 9 phẩm tính, hoặc nhiều hơn. Bên Miến
Ðiện khi dùng quan niệm nầy người ta hay dùng một xâu chuỗi lần
tràng hạt. Cứ niệm một phẩm tính là lần một hột. Chuỗi gồm 108 hột
thì có thể niệm chín phẩm tính nầy trong 12 lần. Tuy Chú giải không
nói đến cách lần chuỗi lần nầy nhưng Sư nói muốn dùng hay không
cũng được.
2. Quán các phẩm tính của Pháp.
3. Quán các phẩm tính về Tăng.
4. Quán về giới đức của chính chúng ta.
5. Quán về tâm rộng lượng.
6. Quán thiên: Suy niệm về những phẩm hạnh giống
chư thiên mà chính ta có được như tâm từ trí tuệ.
7. Quán niệm về sự thanh tịnh của Niết bàn:
đây là đề mục mà các vị đã đạt được các tầng thánh mới hành trì
được. Nhưng một người phàm cũng có thể suy niệm các tính chất thanh
tịnh nầy qua sự học hỏi về kinh điển.
Các đề mục từ 1 cho đến 7 quá sâu sắc và rộng rãi nên tâm hành
giả khi quán các đối tượng nầy không trụ để đạt các tầng thiền
mà chỉ đạt các cận định thôi [tâm cận định gần giống như tâm của các
tầng tiền nhưng chưa thật sự đạt các tầng thiền jhana).
8. Quán niệm về sự chết.
9. Quán niệm về 32 thể thô trược của thân
để thấy tính chất bất tịnh của thân: chỉ đạt cận định và sơ
thiền.
10. Quán về hơi thở (Hơi thở vào và hơi thở ra):
Ðề mục nầy dành cho Thiền Chỉ lẫn Thiền Quán, chỉ khác nhau
về phương pháp và mục đích. Phép quán nầy có thể đạt cận định
và lên đến 5 tầng thiền.
D. Nhóm tứ vô lượng
tâm (Bhramma vihara: có nghĩa là nơi các vì Phạm thiên trú ngụ):
đề mục nầy không biên giới. Hành giả thiền trên đề mục tứ vô
lượng tâm, trải tâm lượng thênh thang trùm khắp pháp giới, họ sống
không khác gì các vị Phạm thiên vậy.
1. Quán tâm từ: mong muốn cho tất cả chúng sanh an vui.
2. Quán tâm bi: mong mọi người hết khổ, đừng
gặp oan trái.
3. Quán tâm hỉ: có tâm hân hoan khi thấy người khác
thành công, hạnh phúc.
4. Quán tâm xả: là đề mục quán cao thượng hơn
cả. Khi lấy tâm xả làm đề mục, trong tâm người hành giả không có tâm
từ, tâm bi, tâm hỉ mà chỉ có một trạng thái bất động, không thiên về
thích hay không thích, không bị lay chuyển bởi hạnh phúc hay khổ đau.
Ðối tượng của hành giả là tất cả chúng sinh trong
tất cả pháp giới. Khi thiền tâm từ, người đó rãi tâm từ đến
mọi giới, mọi loài. Khi thiền tâm bi, ta mong chúng sinh thoát
hết khổ đau, oan trái. Thiền tâm hỉ, ta cầu mong và vui mừng với tất
cả những ai đang có may mắn thành công. Hành trì tâm xả, ta không thiền
vì chúng sanh nào. Thường hành giả bắt đầu rãi tâm (Từ, Bi, Hỉ) từ chính
mình đến thầy tổ, cha mẹ, thân thích rồi đi lần ra tất cả chúng sinh ở
khắp thế giới. Thí dụ:
- Thiền Tâm Từ: Niệm "Mong cho (tôi... tất
cả chúng sinh) được an lành và hạnh phúc".
- Thiền Tâm Bi: Niệm "Mong cho (tôi... tất cả
chúng sinh) thoát khỏi các phiền não, tai ương, đau khổ".
- Thiền Tâm Hỉ: "Mong cho (tôi... tất cả chúng
sinh) đang được hạnh phúc đừng mất đi hạnh phúc nầy".
- Thiền Tâm Xả: Niệm "Nghiệp nầy là vật
sở hữu của (tôi... mọi chúng sanh) đang ở trong một điều kiện mà
ta không thể làm gì hơn được để thay đổi hoàn cảnh. Chúng sanh hay
đau khổ chẳng qua là do nghiệp của họ".
Thiền Tâm Từ, Bi, Hỉ có thể đạt từ cận định
đến các tầng thứ nhất đến thứ tư. Thiền tâm xả có thể đạt
cận định, tầng thứ nhất đến thứ năm.
E. Quan niệm và tính chất bất tịnh
của thức ăn:
Khi Ðức Phật vừa thành đạo, Ngài có ý nghĩa là
giáo pháp của Ngài vừa chứng đắc quá vi diệu, khó mà đem ra giảng dạy
lại cho nhân gian vì nó hoàn toàn đi ngược giòng với tất cả pháp thế
gian. Ðối với cách hành thiền bằng cách suy niệm về tính ô trược
của thực phẩm nầy cũng vậy, không có ai thích hành loại thiền nầy cả.
Gia đình nào cũng chú trọng vào bữa ăn. Ði vào quán tiệm ai cũng
chúc quí vị ăn ngon. Trong một khóa thiền nọ, Sư có một thị giả
người Mỹ, cứ mỗi lần dâng cơm cho Sư, vị nầy hay chúc: "Mong Sư
thưởng thức món ăn!" khi mà các Sư luôn được tập không thưởng thức
vật thực.
Mục đích của Ðức Phật khi dạy cách hành thiền
nầy là để tập cho ta khởi niệm về sự ô trược của miếng ăn
để ta không dính mắc, tham ái hay sân hận nào nó. Thường ngày cư sĩ có
thể suy niệm rằng để có miếng ăn nầy họ phải chịu đựng
bao cực nhọc như kiếm ra tiền mua thực phẩm, nấu nướng... Ðối với
một tỳ kheo thì vị nầy phải quán rằng để có một bữa ăn, mỗi ngày
ta phải đi quanh khắp xóm làng khất thực đôi khi gặp bò điên, chó dại...
Khi ta nhai thực phẩm trong miệng trộn với nước miếng thì nó trở thành
bất tịnh vì nếu ai lỡ nhổ ra thì không bao giờ có can đảm ăn lại...
Hành pháp nầy chỉ để đạt đến cận định mà
thôi vì tâm hành giả không đủ mạnh để đạt đến các tầng
thiền. Mức định chính của nó chỉ cốt để dẹp tham ái vào thức ăn,
cách ăn mà thôi.
F. Quán niệm về
4 yếu tố vật chất căn bản (tứ đại): Phân tích ba mươi hai
phần của thân, đi từng phần một để xem phần đó thuộc về yếu tố
nào (đất, nước, gió, lửa).
Trước hết cần hiểu thế nào là tứ đại
cùng các đặt tính của các yếu tố nầy. Thí dụ khi cảm giác được phần
nào cứng, mềm thì ta hiểu ngay đó là yếu tố đất, khi cảm thấy
được cái gì dính, gò bó thì biết đó là yếu tố nước... Vậy khi ta
thấy và hiểu về các yếu tố nầy trong tất cả vạn vật cũng như
trong chính thân mình, nhất là khi ta quán trở lại trong thân, ta sẽ lần lần
thấy rõ trong thân ta có từng yếu tố nầy. Do đó sẽ từ từ mất đi trong
ta cái khái niệm về sự độc nhất, về sự gom chặt, về sự toàn
khối (compact) của thân nầy. Từ đó hành giả cũng suy niệm được tính vô
thường của thân.
Ðề mục phân biệt tứ đại nầy trong thiền
vắng lặng chỉ giúp đạt đến cận định chứ không đến các tầng
thiền vì đây là một đề tài quá sâu rộng và khó hiểu nên tâm
ít được an trụ lên đối tượng.
G. Nhóm 4 tầng thiền vô sắc
giới:
Nếu quí vị chưa có sự hiểu biết về căn
bản Vi diệu Pháp thì không thể nào hiểu được 4 tầng thiền vô
sắc giới (tứ không định) nầy. Khi một người hành thiền chọn đề
mục nầy thì nó sẽ đưa dẫn tâm người đó đạt các tầng vô sắc giới,
vượt qua những trạng thái thuộc sắc giới. Tâm định người đó sẽ an trụ
vào các đối tượng mênh mông như là khoảng không gian vô biên hoặc cảnh
giới không còn tư tưởng... Sư sẽ không đi sâu vào phương pháp nầy.
Trên đây là 40 đề mục thuộc Thiền Chỉ. Trong
số 40 đề mục nầy, Ðức Phật hay khuyến khích các đệ tử, nhất là
chư Sư, nên hành trì 4 pháp bảo vệ để tập trung chống
lại các ô nhiễm tâm cùng các khuấy động có thể đến từ bên ngoài
khi hành thiền:
1. Quán niệm về các phẩm hạnh của Ðức Phật.
2. Quán niệm về sự chết.
3. Quán tâm từ.
4. Quán niệm về tính ô nhiễm của thân.
Chú giải có ghi rằng chúng ta có thể tìm thấy 40
đề mục Thiền Chỉ nầy ở trong giáo pháp của những đạo khác hoặc
những thời khác. Không như Thiền Quán là một phương pháp chỉ có vào
thời Ðức Phật và được giảng dạy bởi chính Ðức Phật, các đề mục
Thiền Chỉ nầy đã được nhiều vị thầy của các giáo pháp phái khác
giảng dạy trước và sau thời Ðức Phật.
Mặc dù chúng ta đây đang thực tập thiền minh sát
nhưng không phải vì vậy mà ta xem thường thiền vắng lặng hoặc cho
thiền vắng lặng có giá trị không bằng Thiền Quán. Thiền vắng lặng
có chỗ đứng riêng của nó trên tiến trình tâm linh của mỗi ai
muốn tu tập giới, định, huệ. Ðức Phật cũng chỉ dạy Thiền Chỉ cho
đệ tử của Ngài. Nhưng chúng ta cần thiết hiểu một điều rất
quan trọng là không nên bằng lòng và dừng ở lại thiền vắng lặng.
Chúng ta nên hành thiền vắng lặng khi cần và muốn nhưng phải biết
vượt xa hơn, phải đi đến và tiến lên bằng Thiền Quán. Và chỉ
có Thiền Quán là có thể đưa dẫn ta đến mục tiêu tối thượng là
sự tận diệt mọi ô nhiễm trong tâm và chỉ có Thiền Quán mới làm
được việc nầy.
Phật tử chúng ta phải coi Thiền Quán như là một
pháp môn quan trọng bậc nhất. Nhưng như vậy không có nghĩa là ta không
dùng đến Thiền Chỉ vì chúng ta cần phải hành trì thêm một số
đề mục của thiền nầy.
Nếu muốn biết thêm về thiền vắng lặng
thì Sư nghĩ quí vị nên đọc cuốn Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) gồm
khoảng 800 trang, trong đó có hơn phân nữa là dành cho đề tài thiền
vắng lặng nầy.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV 24-10-1997
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |