BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
XIX. Phẩm Chiến Sĩ
(I) (181) Người Chiến Sĩ
1.- Thành tựu bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, một chiến sĩ xứng
đáng để cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu tượng của
vua. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ thiện xảo về
xạ trình, là người bắn xa, bắn như chớp nhoáng, và đâm thủng được vật
lớn. Thành tựu bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, một chiến sĩ xứng
đáng để cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu tượng của
vua. 2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu bốn pháp này, Tỷ-kheo đáng
được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được cúng
dường, xứng đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiện xảo về xạ trình,
là người bắn xa, bắn như chớp nhoáng, và đâm thủng được vật lớn. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo thiện xảo về
xạ trình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là người có giới, sống
chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, có uy nghi chánh hạnh,
thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ, chấp nhận và học tập các học
pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thiện xảo về xạ
trình. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn xa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phàm sắc gì thuộc về quá
khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa
hay gần, tất cả sắc, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi". Phàm có cảm thọ gì thuộc về quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả cảm thọ, vị
ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có tưởng gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả tưởng, vị ấy thấy như thật
với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có các hành gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các hành, vị ấy thấy
như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các thức, vị ấy thấy như
thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật quán tri: "Ðây
là khổ", như thật quán tri: "Ðây là khổ tập"; như thật quán
tri: "Ðây là khổ diệt", như thật quán tri "Ðây là con
đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng. 6. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo đâm thủng vật to
lớn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đâm thủng vô minh uẩn to lớn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn. Ðầy đủ bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng
được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được cúng
dường, xứng đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. (II) (182) An Toàn 1.- Này các Tỷ-kheo, không một Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhân, Màra,
Phạm thiên hay một ai ở đời có được sự an toàn đối với bốn pháp. Thế
nào là bốn? Bản tánh bị già, mong rằng không già, không một Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên,
Nhân ... đối với pháp này. 2. Bản tánh bị bệnh, mong rằng không bệnh, không một Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Nhân ... đối với pháp này. 3. Bản tánh bị chết, mong rằng không bị chết, không một Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Nhân ... đối với pháp này. 4. Khổ quả của những ác nghiệp ấy (những nghiệp) tạp nhiễm, đưa
đến tái sanh, đem lại phiền muộn, đem lại khổ quả dị thục sanh, già,
chết trong tương lai, kết quả của những nghiệp ấy mong rằng
không có hiện hữu. Không một Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhân, Màra, Phạm
thiên hay một ai ở đời có được sự an toàn đối với bốn pháp này. Này các Tỷ-kheo, không một Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhân, Màra, Phạm
thiên hay một ai ở đời có được sự an toàn đối với bốn pháp này. (III) (183) Ðiều Ðược Nghe
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc
Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Rồi Bà-la-môn Vassakàra, vị đại thần
nước Magadha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế
Tôn những lời chào đón thăm hỏi. Sau khi nói lên với Thế Tôn những lời
chào đón thăm hỏi thân hữu, Bà-la-môn Vassakàra, vị đại thần nước Magadha
bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, tôi nói như sau, thấy như sau: "Khi người nào
nói lên điều mình thấy: "Tôi thấy như vậy". Do vậy, người ấy
không có lỗi gì. Khi người nào nói lên điều mình nghe: "Tôi nghe
như vậy". Do vậy, người ấy không có lỗi gì. Khi người nào nói lên
điều mình cảm giác: "Tôi cảm giác như vậy". Do vậy, người ấy
không có lỗi gì. Khi người nào nói lên điều mình thức tri: "Tôi
thức tri như vậy". Do vậy, người ấy không có lỗi gì". 2. - Này Bà-la-môn, Ta không nói rằng: "Tất cả điều được thấy
cần phải nói ra". Này Bà-la-môn, Ta không nói rằng: "Tất cả
điều được thấy không nên nói ra". Này Bà-la-môn, Ta không nói
rằng: "Tất cả điều được nghe nên nói ra". Này Bà-la-môn, Ta
không nói rằng: "Tất cả điều được nghe không nên nói ra". Này
Bà-la-môn, Ta không nói rằng: "Tất cả điều được cảm giác nên nói
ra". Ta không nói rằng: "Tất cả điều được cảm giác không nên
nói ra". Ta không nói rằng: "Tất cả điều được thức tri nên nói
ra". Ta không nói rằng: "Tất cả điều được thức tri không nên
nói ra". 3. Này Bà-la-môn, phàm nói lên điều thấy gì, các pháp bất thiện
tăng trưởng, các pháp thiện tổn giảm, Ta nói rằng điều thấy như vậy
không nên nói ra. Và này Bà-la-môn, phàm nói lên điều thấy gì, các
pháp bất thiện tổn giảm, các pháp thiện tăng trưởng, Ta nói rằng
điều thấy như vậy nên nói ra. Này Bà-la-môn, phàm nói ra điều nghe
gì ... phàm nói ra điều cảm giác gì ... phàm nói ra điều thức tri gì
... các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện tổn giảm, Ta nói
rằng điều thức tri như vậy không nên nói ra. Và này Bà-la-môn, phàm nói
ra điều thức tri gì, các pháp bất thiện tổn giảm, các pháp thiện
tăng trưởng, Ta nói rằng điều thức tri như vậy nên nói ra. Rồi Bà-la-môn Vassakàra, vị đại thần xứ Magadha, hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. (IV) (184) Không Sợ Hãi 1. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói
lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm ... Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, tôi nói như sau, tôi thấy như sau: "Không có
một ai bản tánh bị chết mà không sợ hãi, không rơi vào run sợ, khi nghĩ
đến chết". - Này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ
khi nghĩ đến chết. Nhưng này Bà-la-môn, có người bản tánh bị
chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. 2. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, sợ hãi,
rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết? Ở đây, này Bà-la-môn, có người không ly tham đối với các dục, không
ly ham muốn, không ly luyến ái, không ly khát ái, không ly nhiệt não,
không ly tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người
ấy. Người ấy bị cảm thọ chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như
sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các
dục khả ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào
bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi
vào run sợ khi nghĩ đến chết. 3. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người không ly tham đối với thân
... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy
bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau:
"Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả
ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất
tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào
run sợ khi nghĩ đến chết. 4. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm điều
lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều
ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp. Rồi một chứng bệnh
trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng
bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm
điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm
điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp". Tại sanh
thú nào mà những người không làm điều lành, không làm điều
thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo,
làm điều phạm pháp, đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú
ấy. Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ
khi nghĩ đến chết. 5. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người nghi ngờ do dự, không đi
đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm
trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh
trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta có nghi ngờ do dự, không
đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy sầu muộn,
than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là bốn
hạng người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến
chết. 6. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, không sợ
hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết? Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người ly tham đối với các dục, ly ham
muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho
người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy
nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ
bỏ các dục khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không
khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là
người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ
đến chết. 7. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người ly tham đối với thân,
ly ham muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên
cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy,
suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ
bỏ thân khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc
lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng
người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ
đến chết. 8. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm ác, không làm
điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm
điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi. Rồi một chứng bệnh trầm
trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh
trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm ác, không làm
điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm
điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi. Tại sanh thú nào mà những người
không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm
pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi đi
đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy". Người ấy không sầu
muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất
tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ
hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. 9. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không có nghi ngờ, không
có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng
bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi
chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không có
nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu
pháp". Người ấy không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc
lóc, không có đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là
hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi
nghĩ đến chết. Này Bà-la-môn, có bốn hạng người bản tánh bị chết, không có sợ hãi,
không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ... Mong Tôn giả Gotama chấp nhận
con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng. (V) (185) Các Sự Thật Bà La Môn
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh
Thứu). Lúc bấy giờ, nhiều vị du sĩ có danh tiếng, có danh tiếng
sống ở khu vườn của các du sĩ trên bờ sông Sappini như Annabhàra, Varadhara,
Sakuludàyi, và những vị du sĩ có danh tiếng, có danh tiếng khác. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền Tịnh đứng dậy, đi
đến khu vườn của các du sĩ trên bờ sông Sappini. Lúc bấy giờ, giữa các
du sĩ ngoại đạo ấy đang ngồi tập họp, câu chuyện này được khởi
lên: "Ðây là những sự thật Bà-la-môn, đây là những sự thật
Bà-la-môn". 2. Rồi Thế Tôn đi đến các du sĩ ấy, sau khi đến, ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xong, Thế Tôn nói với các du sĩ ấy: - Nay câu chuyện gì được khởi lên, này các du sĩ, khi các Ông đang
ngồi họp ở đây? Câu chuyện gì chưa được nói xong giữa các Ông? - Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi đang ngồi họp, câu
chuyện sau này khởi lên giữa chúng tôi: "Ðây là những sự thật
Bà-la-môn, đây là những sự thật Bà-la-môn". 3.- Bốn sự thật Bà La Môn này, này các du sĩ, sau khi tự mình chứng ngộ
với thắng trí, đã được ta tuyên bố lên. Thế nào là bốn? - Ở đây, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: "Tất cả loài hữu
tình không được làm hại". Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự
thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến "Sa-môn",
không nghĩ đến "Bà-la-môn", không nghĩ đến: "Ta hơn
(các người khác)", không nghĩ đến: "Ta bằng (các người
khác)", không nghĩ đến: "Ta là hạ liệt". Lại nữa do
thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực hành lòng thương tưởng,
lòng từ mẫn đối với các loài hữu tình. 4. Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: "Mọi dục là vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại". Người Bà-la-môn nói như vậy là
nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến
"Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn", không nghĩ
đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta
bằng (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta là hạ
liệt". Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, (trong lời nói
ấy), người ấy thực hành nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các dục.
5. Lại nữa, này các du sĩ, Bà-la-môn nói như sau: "Tất cả hữu là vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại". Người Bà-la-môn nói như vậy là
nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến
"Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn", không nghĩ
đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta
bằng (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta là hạ
liệt". Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, người ấy thực
hiện nhàm chán, ly tham, đoạn diệt đối với các hữu. 6. Lại nữa, này các du sĩ, người Bà-la-môn nói như sau: "Ta không là
bất cứ ai, bất cứ thuộc ai, bất cứ là gì. Trong ấy, không có cái gì được
gọi là của ta, bất cứ ở đâu, bất cứ là gì". Người Bà-la-môn nói
như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến
"Sa-môn", không nghĩ đến "Bà-la-môn", không nghĩ
đến: "Ta hơn (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta
bằng (các người khác)", không nghĩ đến: "Ta là hạ
liệt". Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, (trong lời nói
ấy) người ấy thực hành con đường không có sự vật gì. Này các du sĩ, có bốn sự thật Bà-la-môn này, Ta đã tự mình chứng ngộ
với thắng trí và tuyên bố lên. (VI) (186) Con Ðường Sai Lạc 1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thế giới do cái gì hướng dẫn, thế giới do cái
gì được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của cái gì được khởi
lên? - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường
Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền
thiện là câu hỏi! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: "Bạch
Thế Tôn, thế giới do cái gì hướng dẫn, thế giới do cái gì được
diễn tiến, đi đến sự thuần phục của cái gì được khởi lên?" - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Này Tỷ-kheo, thế giới do tâm hướng dẫn. Thế giới do tâm
được diễn tiến, đi đến sự thuần phục của tâm được khởi lên. 2. - Lành thay, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi
Thế Tôn một câu khác: - Bậc nghe nhiều, trì pháp. Bậc nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế
Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là một bậc nghe nhiều, trì pháp? - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường
Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền
thiện là câu hỏi! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: "Bậc
nghe nhiều, trì pháp. Bậc nghe nhiều, trì pháp, bạch Thế Tôn,
được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn,
là một bậc nghe nhiều, trì pháp?" - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Nhiều, này Tỷ-kheo, là pháp ta thuyết giảng: Kinh, Ứng tụng,
Ký thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị
tằng hữu, Phương quảng. Này Tỷ-kheo, nếu ai hiểu nghĩa một bài
kệ có bốn câu, hiểu pháp và thực hành pháp tùy pháp, người ấy
được gọi là vị nghe nhiều, trì pháp. 3. - Lành thay, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo sau khi hoan hỷ ... lại hỏi thêm câu nữa: - Bậc có nghe với trí tuệ thể nhập (quyết trạch), bậc có nghe
với trí tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy.
Cho đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc có nghe với trí
tuệ thể nhập? - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo, hiền thiện ... hiền
thiện là câu hỏi! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: "Bậc có
nghe với trí tuệ thể nhập (quyết trạch), bậc có nghe với trí
tuệ thể nhập, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho
đến khi nào, bạch Thế Tôn, được gọi là bậc có nghe với trí
tuệ thể nhập?" - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được nghe: "Ðây là
khổ", thể nhập và thấy ý ấy nghĩa với trí tuệ. Ðược nghe:
"Ðây là khổ tập", thể nhập và thấy ý nghĩa ấy với trí
tuệ. Ðược nghe: "Ðây là khổ diệt", thể nhập và thấy
ý nghĩa ấy với trí tuệ. Ðược nghe: "Ðây là con đường đưa
đến khổ diệt", thể nhập và thấy ý nghĩa với trí tuệ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị có nghe với trí tuệ thể nhập. 4.- Lành thay, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi
Thế Tôn một câu khác: - Bậc Hiền trí, Ðại tuệ. Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, bạch
Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào bạch
Thế Tôn, được gọi là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ? - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Hiền thiện là con đường
Thầy đặt vấn đề, hiền thiện là sự biện tài, hiền
thiện là câu hỏi! Này Tỷ-kheo, có phải Thầy hỏi như sau: "Bậc
Hiền trí, Ðại tuệ. Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, bạch Thế Tôn,
được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào bạch Thế Tôn,
được gọi là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ?" - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Ở đây, này Tỷ-kheo, Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, không có
nghĩ tự làm hại mình, không có nghĩ tự làm hại người, không có nghĩ tự
mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời suy nghĩ lợi mình, lợi
người, lợi cả hai, lợi toàn thể thế giới. Như vậy, này Tỷ-kheo,
là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ. (VII) (187) Vassakàra
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ
nuôi dưỡng các con sóc. Rồi Bà-la-môn Vassakàra, một đại thần nước Magadha
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời
chào đón thăm hỏi. Sau khi nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm
hỏi thân hữu, Bà-la-môn Vassakàra, bậc đại thần nước Magadha bạch Thế
Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, bậc không phải chân nhân có thể biết một
người không phải chân nhân: "Vị này không phải là bậc chân nhân"? - Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một
người không phải chân nhân có thể biết một người không phải chân
nhân: "Vị này không phải là bậc chân nhân". 2.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc không phải chân nhân có thể biết bậc
chân nhân là: "Vị này là bậc chân nhân"? - Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một
người không phải chân nhân có thể biết một người chân nhân:
"Vị này là bậc chân nhân". 3.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc chân nhân có thể biết một bậc chân
nhân: "Vị này là bậc chân nhân"? - Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân
có thể biết một người chân nhân: "Vị này là bậc chân
nhân". 4. - Nhưng thưa Tôn giả Gotama, có trường hợp một người chân nhân
biết một người không phải là chân nhân: "Vị này không phải là bậc
chân nhân"? - Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân
có thể biết một người không phải là chân nhân: "Vị này không
phải là bậc chân nhân". 5. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama, thật hy hữu thay, thưa Tôn
giả Gotama! Thật khéo là lời nói này của Tôn giả Gotama: "Không có
trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không
phải chân nhân có thể biết một người không phải chân nhân: "Vị
này không phải là bậc chân nhân". Không có trường hợp này, này
Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải chân nhân có
thể biết một người chân nhân: "Vị này là bậc chân nhân".
Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân có
thể biết một người chân nhân: "Vị này là bậc chân
nhân". Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân
nhân có thể biết một người không phải là chân nhân: "Vị này
không phải là bậc chân nhân". 6. Một thời, thưa Tôn giả Gotama, hội chúng của Bà-la-môn Todeyya đang nói
lên những lời nhiếc mắng người khác như sau: "Ngu si là vua Eleyya,
đã quá hoan hỷ với Sa-môn Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức
hạ liệt như sau đối với Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ
ngồi đứng dậy, chắp tay, đối xử thân thiện. Lại nữa, những tập đoàn
này của vua Eleyya là ngu si, như Yamaka, Moggalla, Ugga, Nàvindaki, Gandhabba,
Aggivessa. Những người này đã quá hoan hỷ với Sa-môn Ràmaputta, đã làm
những cử chỉ hết sức hạ liệt như sau đối với Sa-môn Ràmaputta, tức
là đảnh lễ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, đối xử thân
thiện". - Này Bà-la-môn, Ông có thấy như thế nào Bà-la-môn Todeyya dẫn dắt
chúng bằng cách dắt dẫn này: "Các vị nghĩ thế nào, hiền trí là
vua Eleyya? Giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề
tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề
cần được giải thích, có phải vua Eleyya được xem là vị có minh kiến
thù thắng?" - Thưa vâng, Tôn giả! Hiền trí là vua Eleyya. Giữa những người có minh
kiến giải quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có minh
kiến giải quyết những vấn đề cần được giải thích, vua Eleyya
được xem là vị có minh kiến thù thắng. Vì rằng Sa-môn Ràmaputta còn
hiền trí hơn sự hiền trí, còn có minh kiến thù thắng hơn sự minh
kiến thù thắng của vua Eleyya, giữa những người có minh kiến giải
quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có minh kiến giải
quyết những vấn đề cần được giải thích; do vậy vua Eleyya đã quá
hoan hỷ với Sa-môn Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức hạ
liệt như sau đối với Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ ngồi
đứng dậy, chắp tay, đối xử thân thiện. - Các Tôn giả nghĩ thế nào "Hiền trí là tập đoàn của vua
Eleyya, như Yamaka, Moggalla, Ugga, Nàvindaki, Gandhabba, Aggivessa không? Giữa những
người có minh kiến giải quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những
người có minh kiến giải quyết những vấn đề cần được giải
thích, có phải tập đoàn của vua Eleyya là những bậc có minh kiến thù
thắng? - Thưa vâng, Tôn giả! Hiền trí là tập đoàn của vua Eleyya, như Yamaka,
Moggalla, Ugga, Nàvindaki, Gandhabba, Aggivessa. Giữa những người có minh kiến
giải quyết những vấn đề tranh chấp, giữa những người có minh kiến
giải quyết những vấn đề cần được giải thích, tập đoàn của vua
Eleyya được xem là những bậc có minh kiến thù thắng. Vì rằng Sa-môn
Ràmaputta được xem còn hiền trí hơn sự hiền trí, còn có minh
kiến thù thắng hơn sự minh kiến thù thắng của tập đoàn vua Eleyya,
giữa những người có minh kiến giải quyết những vấn đề tranh chấp,
giữa những người có minh kiến giải thích những vấn đề cần được
giải thích; do vậy tập đoàn của vua Eleyya đã quá hoan hỷ với Sa-môn
Ràmaputta, đã làm những cử chỉ hết sức hạ liệt như sau đối với
Sa-môn Ràmaputta, tức là đảnh lễ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, đối
xử thân thiện. 7. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama, thật hy hữu thay, thưa Tôn
giả Gotama! Thật khéo là lời nói này của Tôn giả Gotama: "Không có
trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không
phải bậc chân nhân có thể biết một người không phải chân nhân:
"Vị này không phải là bậc chân nhân". Không có trường hợp này,
này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải bậc chân nhân
có thể biết một người chân nhân: "Vị này là bậc chân
nhân". Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân
nhân có thể biết một người chân nhân: "Vị này là bậc chân
nhân". Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân
nhân có thể biết một người không phải là chân nhân: "Vị này
không phải là bậc chân nhân". Thưa Tôn giả Gotama, nay chúng tôi phải đi, chúng tôi có nhiều công
việc, có nhiều phận sự phải làm. - Này Bà-la-môn, Ông hãy làm những gì mà Ông nghĩ là hợp thời. Rồi Bà-la-môn Vassakàra, một đại thần xứ Magadha, hoan hỷ, tín thọ
lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi. (VIII) (188) Upaka 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Gijjhakùta. Rồi Upaka
Mandikàputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Upaka Mandikàputta bạch Thế
Tôn: - Bạch Thế Tôn, con nói như sau, con thấy như sau: "Ai bắt đầu mắng
nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, người ấy về mọi
phương diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể
bênh vực lập trường của mình, người ấy đáng bị quở trách, đáng bị phạm
tội". - Này Upaka, ai bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục như
vậy, người ấy về mọi phương diện không thể bênh vực lập
trường của mình, do không thể bênh vực lập trường của mình, người ấy
đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội! Này Upaka, Ông bắt đầu mắng
nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, Ông về mọi phương
diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể bênh
vực lập trường của mình, Ông đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội! 2. - Ví như, bạch Thế Tôn, một người bắt con vật của mình săn với
một bẫy sập lớn, khi con vật thò đầu ra. Cũng vậy, con bị Thế Tôn bắt
với cái bẫy sập lớn bằng chữ khi con vừa mới mở miệng (khi con vừa mới
thò đầu ra). - Này Upaka, "Ðây là bất thiện". Ta nêu rõ như vậy với vô
lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Như Lai.
"Ðây là bất thiện!", này Upaka, bất thiện này cần phải đoạn
tận. Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng
thuyết pháp của Như Lai. "Ðây, pháp bất thiện này cần phải đoạn
tận". "Ðây là thiện", này Upaka. Ta nêu rõ như vậy với vô
lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Thế
Tôn: "Ðây là pháp thiện". Thiện pháp này cần phải tu tập.
Này Upaka, Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô
lượng thuyết pháp của Thế Tôn: "Ðây, pháp thiện này cần
phải tu tập". 3. Rồi Upaka Mandikàputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về phía
Ngài, rồi đi đến Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha. Sau khi đến,
Upaka tường thuật lại cho Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha nghe tất cả
cuộc đàm luận với Thế Tôn. Ðược nghe nói như vậy, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha phẫn nộ,
không hoan hỷ nói với Upaka Mandikàputta: - Thật là độc hại, đứa trẻ làm muối này! Thật là lắm mồm, thật là kẻ
liều mạng. Nghĩ rằng nó có thể nhiếc mắng Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy đi đi, này Upaka! Chớ để Ta thấy Ông
nữa! (IX) (189) Chứng Ngộ
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này cần phải chứng ngộ. Thế nào
là bốn? Này các Tỷ-kheo, có pháp cần phải chứng ngộ bằng thân; có pháp, này
các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng niệm; có pháp, này các
Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng mắt; có pháp, này các Tỷ-kheo, cần
phải chứng ngộ bằng trí tuệ. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải chứng ngộ
bằng thân? Tám giải thoát, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng
thân. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải chứng ngộ
bằng niệm? Ðời sống trước, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ bằng
niệm. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải chứng ngộ
bằng con mắt? Sanh tử của chúng sanh, này các Tỷ-kheo, cần phải chứng ngộ
bằng con mắt. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải chứng ngộ
bằng trí tuệ? Sự đoạn diệt các lậu hoặc, này các Tỷ-kheo, cần
phải chứng ngộ bằng trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này cần phải chứng ngộ. (X) (190) Ngày Trai Giới 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Pubbàràma trong lâu đài của
mẹ Migàrà. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nhân ngày lễ trai giới, đang ngồi có
chúng Tỷ-kheo vây quanh. Sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo đang im lặng, im
lặng, rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: - Không nói lời phù phiếm, này các Tỷ-kheo, là hội chúng này;
không nói lời vô ích, này các Tỷ-kheo, là hội chúng này, thanh tịnh, an
lập trên căn bản. Chúng Tỷ-kheo này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội
chúng này như vậy, này các Tỷ-kheo; hội chúng như vậy khó tìm được ở
đời! Chúng Tỷ-kheo này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội chúng như vậy,
đáng được tôn trọng, đáng được cung kính, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Chúng Tỷ-kheo
này như vậy, này các Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy, này các
Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy dầu cho ít, được lợi nhiều, còn cho
nhiều, lại được lợi nhiều hơn nữa. Chúng Tỷ-kheo này như vậy,
này các Tỷ-kheo, hội chúng này như vậy, này các Tỷ-kheo! Hội chúng
này như vậy, nếu phải đi một do tuần để được yết kiến cũng
nên đi, dầu có phải mang theo trên vai túi đựng đồ ăn. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là chúng Tỷ-kheo này. 2. Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này,
sống đạt được địa vị chư Thiên. Có những Tỷ-kheo, này các
Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, sống đạt được địa vị Phạm Thiên.
Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, trong chúng Tỷ-kheo này, sống
đạt được địa vị Bất động. Có những Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo,
trong chúng Tỷ-kheo này, sống đạt được Thánh vị. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống đạt được địa
vị chư Thiên? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục ... chứng và trú Sơ
Thiền ... Thiền thứ hai ... Thiền thứ ba ... chứng và trú Thiền
thứ tư và an trú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo sống đạt được
địa vị chư Thiên. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống đạt được địa
vị Phạm Thiên? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với tâm cùng khởi với từ -
biến mãn một phương và an trú ... với tâm cùng khởi với bi ... với tâm
cùng khởi với hỷ ... với tâm cùng khởi với xả, biến mãn một phương
và an trú. Cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên thế giới, vị ấy biến mãn
với tâm cùng khởi với xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không
sân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo sống đạt được địa vị
Phạm Thiên. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống đạt được địa
vị Bất động? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sau khi vượt qua các sắc
tưởng một cách hoàn toàn, sau khi chấm dứt các tưởng chướng ngại, sau khi
không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên" chứng đạt và an trú "Không vô biên xứ". Sau khi vượt qua
Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: "Thức là vô biên",
chứng đạt và an trú "Thức vô biên xứ". Sau khi vượt qua Thức vô
biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: "Không có vật gì" chứng
đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Sau khi vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn
toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo chứng đạt Bất động. 6. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo chứng đạt địa vị
bậc Thánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật quán tri: "Ðây là
khổ" ... "Ðây là khổ tập" ... "Ðây là Khổ diệt"
... như thật quán tri: "Ðây là con Ðường đưa đến khổ
diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đạt được địa
vị bậc Thánh. XX. Ðại Phẩm
(I) (191) Nghe Với Tai
1.- Này các Tỷ-kheo, các pháp do được nghe bằng tai, do tụng đọc
bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập, có bốn lợi ích
được chờ đợi. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, như
kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, do
tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Vị
ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú với một loại Thiên
nhân. Tại đấy, các vị sống an lạc đọc các pháp cú cho vị ấy. Này các
Tỷ-kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy
đi đến thù thắng. Này các Tỷ-kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng
lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; đây là lợi ích thứ
nhất được chờ đợi. 2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, như
kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai, do
tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập. Vị
ấy khi mạng chung bị thất niệm, được sanh cộng trú với một loại Thiên
nhân. Tại đấy, các vị sống an lạc không đọc các pháp cú cho vị ấy.
Nhưng có Tỷ-kheo có thần thông, đã đạt được tâm tự tại, thuyết
pháp cho hội chúng chư Thiên. Vị ấy sung sướng nghĩ như sau: "Ðây chính
là Pháp và Luật mà trước đây ta đã sống Phạm hạnh". Này các
Tỷ-kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy
đi đến thù thắng. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thiện xảo về tiếng
trống. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể nghe được tiếng
trống. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó là tiếng trống
hay không phải là tiếng trống. Người ấy đi đến kết luận:
"Ðây là tiếng trống". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
học thuộc lòng pháp, như kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy,
vị ấy được nghe bằng tai ... chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Này các Tỷ-kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng
lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập, đây là lợi ích thứ hai
được chờ đợi. 3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, như
kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy, vị ấy được nghe bằng tai,
được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập
... nhưng không có Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại
thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên; và một Thiên tử thuyết pháp cho
hội chúng chư thiên. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ðây chính là Pháp và
Luật mà trước đây ta đã sống Phạm hạnh". Chậm chạp, này các
Tỷ-kheo, niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến
thù thắng. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thiện xảo về tiếng tù
và. Người ấy trong khi đi giữa đường có thể nghe được tiếng tù
và. Người ấy không có nghi ngờ, không có do dự, đó là tiếng tù và hay
không phải là tiếng tù và. Người ấy đi đến kết luận: "Ðây
là tiếng tù và". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học
thuộc lòng pháp, như kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy, vị ấy
được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do
kiến khéo thể nhập ... nhưng không có Tỷ-kheo có thần thông, đạt
được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên; và một Thiên tử
thuyết pháp cho hội chúng chư thiên. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ðây
chính là Pháp và Luật mà trước đây ta đã sống Phạm hạnh". Này các
Tỷ-kheo, chậm chạp niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy
đi đến thù thắng. Này các Tỷ-kheo, do được nghe bằng tai, do tụng đọc bằng lời, do
ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; đây là lợi ích thứ ba được
chờ đợi. 4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, như
kinh: Ứng tụng ... Phương quảng. Các pháp ấy, được nghe bằng tai, được
tụng đọc bằng lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập ...
nhưng không có Tỷ-kheo có thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết
pháp cho hội chúng chư Thiên; và không có Thiên tử thuyết pháp cho hội
chúng chư thiên. Nhưng có thể có người được hóa sanh, nhắc nhở
khiến cho nhớ lại sự hóa sanh :"Này bạn, bạn có nhớ không? Này bạn, bạn
có nhớ không, tại chỗ ấy chúng ta đã sống Phạm hạnh?". Vị ấy trả
lời: "Này bạn, tôi nhớ! Này bạn, tôi nhớ". Chậm chạp, này các
Tỷ-kheo, niệm được khởi lên. Rồi mau chóng, chúng sanh ấy đi đến
thù thắng. Ví như, này các Tỷ-kheo, hai người bạn cùng chơi trò chơi đất bùn,
hai người vào một thời nào, một chỗ nào được gặp nhau. Người bạn này
có thể nói với người bạn kia: "Này bạn, bạn có nhớ cái này không?
Này bạn, bạn có nhớ cái này không?". Người ấy có thể trả lời:
"Này bạn, tôi có nhớ! Này bạn, tôi có nhớ!". Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, như kinh: Ứng tụng ... Phương
quảng. Các pháp ấy, do được nghe bằng tai, được tụng đọc bằng lời, do
ý quan sát, do kiến khéo thể nhập ... nhưng không có Tỷ-kheo có
thần thông, đạt được tâm tự tại thuyết pháp cho hội chúng chư Thiên;
và không có Thiên tử thuyết pháp cho hội chúng chư thiên. Nhưng có
thể có người được hóa sanh, nhắc nhở cho nhớ lại sự hoá sanh : ''Này
bạn, bạn có nhớ không? Này bạn, bạn có nhớ không, tại chỗ ấy chúng ta
đã sống Phạm hạnh?". Vị ấy trả lời: "Này bạn, tôi nhớ! Này bạn,
tôi nhớ". Chậm chạp, này các Tỷ-kheo, niệm được khởi lên. Rồi
mau chóng, chúng sanh ấy đi đến thù thắng. Này các Tỷ-kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng
lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; đây là lợi ích thứ tư
được chờ đợi. Này các Tỷ-kheo, do được nghe các pháp bằng tai, do tụng đọc bằng
lời, do ý quan sát, do kiến khéo thể nhập; có bốn lợi ích này
được chờ đợi. (II) (192) Trường Hợp 1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này, cần phải được hiểu
với bốn trường hợp. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết,
như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý, không có
không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ. Này các Tỷ-kheo, với cùng một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần
phải được hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể
khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không
phải với liệt tuệ. Này các Tỷ-kheo, trong những hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được
hiểu biết, như vậy trong một thời gian dài ... với liệt tuệ. Này các Tỷ-kheo, với đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu
biết, như vậy, trong một thời gian dài ... với liệt tuệ. 2. Này các Tỷ-kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu
biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý,
không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ,
như vậy được nói đến ... Do duyên gì được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người do cộng trú với một người khác
biết được như sau: "Trong một thời gian dài, vị Tôn giả này làm
giới bị bể vụn, làm giới bị cắt xén, làm giới bị vết nhơ, làm giới
bị chấm, đen, làm việc không có liên tục, hạnh kiểm không có liên
tục trong các giới. Ác giới là Tôn giả này, Tôn giả này không giữ giới". Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, người này do cộng trú với người kia,
biết như sau: "Trong một thời gian dài, vị Tôn giả này không làm giới
bị bể vụn, không làm giới bị cắt xén, không làm giới bị vết nhơ,
không làm giới bị chấm, đen, làm việc có liên tục, hạnh kiểm có
liên tục trong các giới. Giữ giới là Tôn giả này, Tôn giả này không phải
ác giới". Này các Tỷ-kheo, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết,
như vậy, trong một thời gian dài, không có tác ý vấn đề khác, không
có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ. Như
vậy được nói đến, do duyên này được nói đến như vậy. 3. Này các Tỷ-kheo, với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm
khiết cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian ...
với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được nói
đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một người do cùng làm một nghề với
một người khác, biết được như sau: "Khác thay, vị Tôn giả này khi
làm việc với một người; khác thay, với hai người; khác thay, với ba
người; khác thay, với nhiều người, làm trái ngược là vị Tôn giả này,
các sở hành trước khác với sở hành sau. Không thanh tịnh là sở hành của vị
Tôn giả này. Vị Tôn giả này có sở hành không thanh tịnh. Nhưng ở đây, này
các Tỷ-kheo, một người do cùng làm một nghề với một người khác,
biết được như sau: "Như thế nào, Tôn giả này khi làm việc
với một người, như thế ấy với hai người, như thế ấy với ba người,
như thế ấy với nhiều người, không làm trái ngược là vị Tôn giả
này, các sở hành trước giống với sở hành sau. Thanh tịnh là sở hành của vị
Tôn giả này." Này các Tỷ-kheo, với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm
khiết cần phải được hiểu biết, như vậy trong một thời gian dài
... với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được nói
đến như vậy. 4. Này các Tỷ-kheo, trong các hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được
hiểu biết. Như vậy trong một thời gian ... với liệt tuệ, như
vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người cảm thọ bà con bị ách nạn,
cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, suy nghĩ
như sau: "Bản chất như vậy là sự an trú thế giới này; Bản chất như
vậy là bản tánh tự ngã có được này; Bản chất như vậy là sự an trú
thế giới. Bản chất như vậy là có được bản tánh tự ngã. Tám thế
giới pháp này vận chuyển thế giới, và thế giới vận chuyển tám
pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh tiếng và danh tiếng, chê và
khen, lạc và khổ". Người ấy, cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ
tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, sầu muộn, than van,
khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có người cảm thọ bà con bị ách
nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, suy
nghĩ như sau: "Bản chất như vậy là sự an trú thế giới ... lạc và
khổ". Người ấy cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị
ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, không sầu muộn, không than van,
không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, trong các hoạn nạn, sức mạnh kiên trì cần phải được
hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài ... với liệt tuệ,
như vậy được nói đến. Do duyên này được nói đến như vậy. 5. Này các Tỷ-kheo, trong đàm luận, trí tuệ cần phải được
hiểu biết. Như vậy trong một thời gian ... với liệt tuệ, như
vậy được nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người, do đàm luận với một người khác, biết
như vầy: "Vị Tôn giả này, đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải
đáp câu hỏi là như vậy, thời liệt tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không có
trí tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này không nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh, thù
thắng, vượt ngoài lý luận suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về
pháp, vị này thuyết giảng, vị ấy không có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc rộng
rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân tích,
phát lộ. Liệt tuệ là vị Tôn giả này, vị Tôn giả này không có trí tuệ". Ví
như, này các Tỷ-kheo, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ nước, thấy một
con cá nhỏ nổi lên, người ấy suy nghĩ như sau: "Như vậy, con cá này nổi lên;
như vậy, làm cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. Nhỏ bé là con cá này,
con cá này không lớn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người do đàm luận với một người khác, biết
như vầy: "Vị Tôn giả này, đối một câu hỏi như vậy, phản ứng là như vậy, giải
đáp câu hỏi là như vậy, thời có trí tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không
phải là liệt tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này nói lên câu nghĩa sâu sắc an tịnh,
thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người hiền trí cảm thọ.
Còn về pháp, vị này thuyết giảng, vị này có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc
rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập, mở rộng, phân
tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn giả này, vị Tôn giả này không phải là
liệt tuệ". Ví như, này các Tỷ-kheo, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ
nước, thấy một con cá lớn nổi lên, người ấy suy nghĩ như sau: "Như vậy, con
cá này nổi lên; như vậy, con cá này làm cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh
của nó. To lớn là con cá này, con cá này không nhỏ". Này các Tỷ-kheo, trong đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu
biết. Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác
ý, không phải không tác ý với trí tuệ, không phải với liệt
tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được nói đến như
vậy. Có bốn trường hợp này, này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu với
bốn trường hợp này. (III) (193) Bhaddiya
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli tại Mahàvana trong ngôi nhà có nóc
nhọn. Rồi Licchavii Bhaddiya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Licchavii Bhaddiya
bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: "Là một nhà huyễn thuật, Sa-môn
Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo".
Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama là một huyễn thuật
sư, biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo",
những người ấy, bạch Thế Tôn, có phải nói đúng ý kiến của
Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật. Có
phải họ trả lời về pháp hợp với chánh pháp? Và ai là vị đồng pháp,
theo đồng môt quan điểm, không có lý do để chỉ trích? Bạch
Thế Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn". 2.- Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo
truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh
tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin
vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất
từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Ðạo sư của mình.
Nhưng này Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau: "Các pháp
này là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này là bị người
có trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận
đưa đến bất hạnh và khổ đau", thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ
chúng! 3. Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya! Lòng tham khi khởi lên trong một
nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh? - Bất hạnh, bạch Thế Tôn. - Người này có tham, này Bhaddiya, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ,
giết loài hữu tình, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo,
khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy bất
hạnh đau khổ lâu dài hay không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. 4. - Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, lòng sân ... lòng si ... lòng
hung bạo khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa
lại hạnh phúc hay bất hạnh? - Bất hạnh, bạch Thế Tôn. - Người này có lòng hung bạo, này Bhaddiya, bị hung bạo chinh phục, tâm mất
tự chủ, giết loài hữu tình, lấy của không cho, đi đến vợ người,
nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho
người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. 5. - Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, các pháp này là thiện hay
bất thiện? - Là bất thiện, bạch Thế Tôn. - Có tội hay không có tội? - Có tội, bạch Thế Tôn. - Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách? - Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn. - Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh
đau khổ không, hay ở đây là thế nào? - Ðược thực hiện, được chấp nhận, chúng đem lại bất hạnh đau khổ.
Ở đây, đối với chúng con là như vậy. 6.- Như vậy, này Bhaddiya, điều ta vừa nói với các Ông: "Chớ có
tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt với những dữ kiện; chớ có tin
vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Ðạo sư của mình. Nhưng này
Bhaddiya, khi nào tự mình ông biết rõ như sau: "Các pháp này là bất
thiện; các pháp này là có tội; các pháp này là bị người có trí chỉ
trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến
bất hạnh và khổ đau", thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng!". Như
vậy, đã được nói lên, chính do duyên này được nói lên như vậy. 7. Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết ... chớ có tin vì
vị Sa-môn là bậc Ðạo sư của mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào ông tự mình
biết rõ như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này không có
tội; các pháp này là không bị người có trí chỉ trích; các pháp này
nếu được thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an
lạc", thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an trú. 8. Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya! Không tham khi khởi lên trong một
nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh? - Hạnh phúc, bạch Thế Tôn. - Người này không tham, này Bhaddiya, không bị tham chinh phục, tâm không
mất tự chủ, không giết loài hữu tình, không lấy của không cho, không đi
đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cùng làm
như vậy, như vậy có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. 9. - Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, không sân ... không si ... không
hung bạo khi khởi lên trong một nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa
lại hạnh phúc hay bất hạnh? - Hạnh phúc, bạch Thế Tôn. - Người này không có lòng hung bạo, này Bhaddiya, không bị hung bạo chinh
phục, tâm không mất tự chủ, không giết loài hữu tình, không lấy của
không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ
người khác cùng làm như vậy, như vậy có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc
lâu dài hay không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. 10. - Ông nghĩ như thế nào, này Bhaddiya, các pháp này là thiện hay
bất thiện? - Là thiện, bạch Thế Tôn. - Có tội hay không có tội? - Không có tội, bạch Thế Tôn. - Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách? - Ðược người có trí tán thán, bạch Thế Tôn. - Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đem lại hạnh phúc an
lạc không, hay ở đây là thế nào? - Ðược thực hiện, được chấp nhận, Bạch Thế Tôn. chúng đem lại
hạnh phúc an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như vậy. 11.- Như vậy, này Bhaddiya, điều ta vừa nói với các Ông: "Chớ có
tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền;
chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Ðạo sư của mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào
tự mình ông biết rõ như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp
này là không có tội; các pháp này được người có trí tán thán; các pháp
này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc và an
lạc", thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an trú". Ðiều này đã
được nói lên, chính do duyên này được nói lên như vậy. 12. Này Bhaddiya, tất cả những bậc Chân nhân tịch tịnh ở đời, khích
lệ đệ tử như sau: "Hãy đến, này bạn! hãy nhiếp phục
tham, hãy sống nhiếp phục tham! Do sống nhiếp phục tham, bạn sẽ không
làm nghiệp do tham sanh, về thân, về lời, về ý! Hãy
nhiếp phục sân! Hãy nhiếp phục sân! Do sống nhiếp phục sân, bạn
sẽ không làm nghiệp do sân sanh, về thân, về lời, về ý!
Hãy nhiếp phục si! Hãy nhiếp phục si! Do sống nhiếp phục si, bạn sẽ
không làm nghiệp do si sanh, về thân, về lời, về ý! Hãy
nhiếp phục hung bạo! Hãy nhiếp phục hung bạo! Do sống nhiếp phục
hung bạo, bạn sẽ không làm nghiệp do hung bạo sanh, về thân, về
lời, về ý!". 13. Khi được nói như vậy, Bhaddiya người Licchavi bạch Thế Tôn: - Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, ... Mong Thế Tôn nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
- Này Bhaddiya, Ta có nói với Ông như sau: "Hãy đến, này Bhaddiya;
hãy đến làm đệ tử của Ta, này Bhaddiya! Ta sẽ là Ðạo sư (của
Ông)" không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. - Như vậy, này Bhaddiya, những Sa-môn, Bà-la-môn nói như sau, tuyên bố như
sau, những vị ấy là không thiện, trống không, nói láo, xuyên tạc với
điều không thật: "Là một huyễn thuật sư, Sa-môn Gotama biết
được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo!". - Bạch Thế Tôn, hiền thiện là huyễn thuật dụ dỗ này. Bạch
Thế Tôn, hiền lành là huyễn thuật dụ dỗ này. Con mong rằng, bạch
Thế Tôn, các bà con huyết thống thân ái của con được huyễn thuật dụ
dỗ này dụ dỗ. Như vậy, những bà con huyết thống của con tất cả
được hạnh phúc an lạc lâu dài! Bạch Thế Tôn, nếu tất cả những
người Sát-đế-lỵ được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất
cả các Sát-đế-lỵ được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài!
Bạch Thế Tôn, nếu tất cả người Bà-la-môn ... tất cả người Phệ xá
... tất cả Thủ đà được huyễn thuật dụ dỗ này cám dỗ, tất cả các
Thủ đà ấy được hạnh phúc an lạc trong một thời gian dài! - Như vậy là phải, này Bhaddiya! Như vậy là phải, này Bhaddiya! Này Bhadiya,
nếu tất cả những người Sát-đế-lỵ được cám dỗ (với sự dụ
dỗ này) để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ các
pháp thiện, như vậy tất cả các Sát-đế-lỵ được hạnh phúc an
lạc trong một thời gian dài! Này Bhàddiya, nếu tất cả người Bà-la-môn ...
tất cả người Phệ xá ... tất cả mọi người Thủ đà được cám dỗ
(với sự dụ dỗ này) để đoạn tận các pháp bất thiện, để
đầy đủ các pháp thiện, như vậy tất cả các Thủ đà được hạnh phúc an
lạc trong một thời gian dài! Này Bhaddiya, nếu thế giới cùng với chư Thiên, Màra, Phạm thiên,
với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người được huyễn
thuật dụ dỗ này cám dỗ, để đoạn tận các pháp bất thiện,
để đầy đủ các pháp thiện, như vậy chúng được hạnh phúc an lạc
trong một thời gian dài! Này Bhaddiya, nếu các cây sala to lớn này được huyễn thuật dụ dỗ
này cám dỗ, để đoạn tận các pháp bất thiện, để đầy đủ
các pháp thiện, như vậy tất cả cây sala to lớn này được hạnh phúc an
lạc trong một thời gian dài nếu chúng có thể suy nghĩ được, còn nói
gì với con người! (IV) (194) Các Vị Sàpùga 1. Một thời, Tôn giả Ananda trú ở giữa các dân chúng Koliya tại một thị
trấn các Koliya tên là Sàpùgà. Rồi rất nhiều Koliya tử ở Sàpùgà đi
đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi
xuống một bên. Tôn giả Ananda nói với các Koliya tử ấy ở Sàpùgà: - Này các Vyagghapajjà, có bốn thanh tịnh tinh cần chi phần này được
Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chơn chánh nói lên để chúng
sanh được thanh tịnh, để vượt qua sầu bi, để chấm dứt khổ ưu,
để đạt đến chánh lý, để chứng ngộ Niết-bàn. Thế
nào là bốn? Giới thanh tịnh tinh cần chi phần, tâm thanh tịnh tinh cần chi phần, kiến
thanh tịnh tinh cần chi phần, giải thoát thanh tịnh tinh cần chi phần. 2. Và này các Vyagghapajjà, thế nào là giới thanh tịnh tinh cần chi
phần? Ở đây, này Vyagghapajjà, Tỷ-kheo có giới ..., chấp nhận và học
tập trong các học pháp. Này các Vyagghapajjà, đây gọi là giới thanh
tịnh; với lời nguyền: "Nếu giới thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ,
tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu giới thanh tịnh như vậy được đầy đủ,
tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Ở đây,
ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn, không có thối thất, chánh
niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được gọi là giới thanh
tịnh tinh cần chi phần. Và này các Vyagghapajjà, thế nào là tâm thanh tịnh tinh cần chi phần? 3. Ở đây, này các Vyagghapajjà, vị Tỷ-kheo ly các dục ... chứng
đạt và an trú Thiền thứ tư. Này các Vyagghapajjà, đây gọi là tâm
thanh tịnh; với lời nguyện: "Nếu tâm thanh tịnh như vậy chưa đầy
đủ, tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu tâm thanh tịnh như vậy được đầy
đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Ở
đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn, không có thối thất, chánh
niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được gọi là tâm thanh
tịnh tinh cần chi phần. 4. Và này các Vyagghapajjà, thế nào là kiến thanh tịnh tinh cần chi
phần? Ở đây, này các Vyagghapajjà, Tỷ-kheo như thật quán tri: "Ðây
là khổ"; như thật quán tri: "Ðây là khổ tập"; như thật quán
tri: "Ðây là khổ diệt"; như thật quán tri: "Ðây là con
đường đưa đến khổ diệt". Này các Vyagghapajjà, đây gọi là
kiến thanh tịnh; với lời nguyện: "Nếu kiến thanh tịnh như
vậy chưa đầy đủ, tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu kiến thanh tịnh như
vậy được đầy đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia với trí
tuệ". Ở đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn, không
có thối thất, chánh niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được
gọi là kiến thanh tịnh tinh cần chi phần. 5. Và này các Vyagghapajjà, thế nào là giải thoát thanh tịnh tinh cần
chi phần? Vị Thánh đệ tử nào, này các Vyagghapajjà, thành tựu với giới thanh
tịnh tinh cần chi phần này, thành tựu với tâm thanh tịnh tinh cần chi phần
này, và thành tựu với kiến thanh tịnh tinh cần chi phần này, tâm được ly
tham đối với các pháp hấp dẫn, tâm được giải thoát đối với các pháp cần
được giải thoát. Vị ấy, sau khi tâm được ly tham đối với các pháp hấp
dẫn, tâm được giải thoát đối với các pháp cần được giải thoát, cảm xúc
chánh giải thoát. Này các Vyagghapajjà, đây gọi là giải thoát thanh tịnh;
với lời nguyện: "Nếu giải thoát thanh tịnh như vậy chưa đầy đủ,
tôi sẽ làm cho đầy đủ. Nếu giải thoát thanh tịnh như vậy được đầy
đủ, tôi sẽ học thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Ở
đây, ước muốn, tinh tấn, nỗ lực, phấn chấn, không có thối thất, chánh
niệm tỉnh giác, này các Vyagghapajjà, đều được gọi là giải
thoát thanh tịnh tinh cần chi phần. Bốn thanh tịnh tinh cần chi phần này, này các Vyagghapajjà, đã được
Thế Tôn, bậc đã biết đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chơn
chánh nói lên để chúng sanh được thanh tịnh, để vượt qua sầu bi,
để chấm dứt khổ ưu, để chứng đắc chánh lý, để chứng ngộ
Niết-bàn! (V) (195) Vappa
1. Một thời, Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu khu vườn
Nigrodha. Rồi thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha đi đến Tôn giả
Mahàmoggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggalàna rồi ngồi xuống
một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với Thích tử Vappa, đệ tử của
Nigantha đang ngồi một bên: - Ở đây, này Vappa, có thể có người với thân chế ngự, với
lời chế ngự, với ý chế ngự, vô minh được viễn ly, minh được
sanh khởi. Ông có thấy người ấy, do một nhân duyên nào, các lậu hoặc
khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người ấy trong
tương lai? - Thưa Tôn giả, con có thể thấy trường hợp ấy. Ở đây thưa Tôn
giả, do ác nghiệp tạo ra về trước chưa đưa đến quả dị thục, do
một nhân duyên ấy, các lậu hoặc khiến họ cảm thọ đau khổ có
thể khởi lên cho người ấy trong tương lai. Và câu chuyện này giữa Tôn giả Mahàmoggallàna và Thích tử Vappa,
đệ tử của Niganthà bị bỏ dở. 2. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền Tịnh đứng dậy đi
đến hội trường; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Ngồi xuống, Thế Tôn nói với Tôn giả Mahàmoggallàna: - Này Mahàmoggallàna, câu chuyện gì được nói đến, khi các Ông
ngồi tụ họp ở đây? Và câu chuyện giữa các Ông chưa được nói xong? - Ở đây, bạch Thế Tôn, con nói với Thích tử Vappa, đệ tử của
Nigantha: "Ở đây, này Vappa, có thể có người với thân chế
ngự, với lời chế ngự, với ý chế ngự, vô minh được viễn ly, minh
được sanh khởi. Ông có thấy người ấy, do một nhân duyên nào, các lậu hoặc
khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người ấy trong
tương lai?" Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, Thích tử Vappa,
đệ tử của Nigantha nói với con như sau: "Thưa Tôn giả, con có thể
thấy trường hợp ấy. Ở đây thưa Tôn giả, do ác nghiệp tạo ra về
trước chưa đưa đến quả dị thục, do nhân duyên ấy, các lậu hoặc
khiến họ cảm thọ đau khổ có thể khởi lên cho người ấy trong
tương lai!". Bạch Thế Tôn, ở đây là câu chuyện giữa Thích Tử
Vappa, đệ tử của Nigantha và chúng con, câu chuyện bị bỏ dở khi
Thế Tôn đến! 3. Rồi Thế Tôn nói với Thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha: - Này Vappa, nếu Ông có thể chấp nhận điều Ông có thể chấp
nhận, và có thể bác bỏ điều đáng được bác bỏ, và trong trường
hợp Ông không có thể biết được ý nghĩa lời nói của Ta, nếu
Ông hỏi ta thêm về vấn đề ấy: "Bạch Thế Tôn, lời nói này,
ý nghĩa là gì?", thời có thể có cuộc nói chuyện giữa chúng
ta. - Bạch Thế Tôn, con có thể chấp nhận điều con có thể chấp
nhận, và có thể bác bỏ điều đáng được bác bỏ, và trong trường
hợp con không có thể biết được ý nghĩa lời nói của Thế Tôn,
con sẽ hỏi Thế Tôn thêm về vấn đề ấy: "Bạch Thế Tôn,
lời nói này, ý nghĩa là gì?", mong rằng ở đây có cuộc nói
chuyện giữa chúng ta. 4.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa? Nếu do nhân duyên thân khởi
động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não khởi lên; với người chế ngự
được thân khởi động, như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não ấy
không có nơi người ấy nữa. Người ấy không làm nghiệp mới, còn hành
động trước của người ấy, do cảm xúc thường xuyên được chấm dứt; con
đường đưa đến sự héo mòn các phiền não là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Này Vappa, Ông có thấy trường hợp ấy, do nhân duyên này, các lậu hoặc
khiến cảm thọ khổ đau có thể khởi lên cho người ấy trong tương
lai không? - Thưa không, bạch Thế Tôn! 5. - Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa? Nếu do nhân duyên lời khởi
động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não khởi lên; với người chế ngự
được lời khởi động, như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não ấy
không có nơi người ấy nữa. Người ấy không làm nghiệp mới, còn hành
động trước của người ấy, do cảm xúc thường xuyên được chấm dứt; con
đường đưa đến sự héo mòn các phiền não là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Này Vappa, Ông có thấy trường hợp ấy, do nhân duyên này, ... trong tương
lai không? -- Thưa không, bạch Thế Tôn 6.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa? Nếu do nhân duyên ý khởi
động, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não khởi lên; với người chế ngự
được ý khởi động, như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não ấy
không có với người ấy nữa. Người ấy không làm nghiệp mới, còn hành
động trước của người ấy, do cảm xúc thường xuyên được chấm dứt; con
đường đưa đến sự héo mòn các phiền não là thiết thực hiện
tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Này Vappa, Ông có thấy trường hợp ấy, do nhân duyên này, các lậu hoặc
khiến cảm thọ khổ đau có thể khởi lên cho người ấy trong tương
lai không? - Thưa không, bạch Thế Tôn! 7.- Ý Ông nghĩ thế nào, này Vappa? Ðối với các lậu hoặc tàn hại,
nhiệt não ấy do duyên vô minh khởi lên, vô minh được ly tham, minh được
khởi lên, như vậy, các lậu hoặc tàn hại, nhiệt não ấy không có với
người ấy nữa. Người ấy không làm nghiệp mới, còn hành động trước của
người ấy, do cảm xúc thường xuyên được chấm dứt; con đường đưa đến
sự héo mòn các phiền não là thiết thực hiện tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí
tự mình giác hiểu. Này Vappa, Ông có thấy do lý do nào, các lậu hoặc khiến cảm thọ
khổ đau có thể khởi lên cho người ấy trong tương lai không? - Thưa không, bạch Thế Tôn! 8.- Như vậy, này Vappa, với vị Tỷ-kheo có tâm được chơn chánh giải
thoát, sáu an trú thường hằng được chứng đắc. Vị ấy, khi mắt thấy sắc,
không có ý đẹp, không có phật ý, trú xả, chánh niệm tỉnh giác.
Khi tai nghe tiếng, khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân
cảm xúc ... khi ý thức tri pháp, không có ý đẹp, không có phật
ý, trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ
tận cùng của thân, vị ấy quán tri: "Ta cảm giác một cảm thọ tận
cùng của thân". Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh
mạng, vị ấy quán tri: "Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh
mạng". Vị ấy quán tri: "Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả
các cảm thọ không còn hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lạnh". 9. Ví như, này Vappa, duyên một thân cây, bóng cây hiện ra. Rồi có
người đến cầm các cuốc và cái giỏ, chặt thân cây ấy ở nơi rễ. Sau khi
chặt ở nơi rễ, người ấy đào cái mương. Sau khi đào cái mương, người ấy
nhổ lên các rễ lớn cho đến các rễ con và rễ phụ. Rồi người ấy chặt
cây ấy thành từng khúc, sau khi chặt tùng khúc, người ấy bửa. Sau khi bửa,
người ấy chẻ thành từng miếng nhỏ. Sau khi chẻ thành từng miếng nhỏ,
người ấy phơi giữa gió và nắng, người ấy lấy lửa đốt. Sau khi lấy lửa
đốt, người ấy vun thành đống tro. Sau khi người ấy vun thành đống tro,
người ấy sàng tro giữa gió lớn, hay để tro ấy vào dòng nước mạnh cho
nước cuốn đi. Như vậy, này Vappa, do duyên thân cây nên có bóng cây. Bóng
cây ấy, rễ bị chấm dứt, làm thành như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh trong tương lai, không thể sống lại được. Cũng vậy, này Vappa,
vị Tỷ-kheo có tâm được chơn chánh giải thoát, sáu an trú thường hằng
được chứng đắc. Vị ấy, khi mắt thấy sắc, không có ý đẹp, không có
phật ý, trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Khi tai nghe tiếng.., khi mũi
ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc ... khi ý thức tri
pháp, không có ý đẹp, không có phật ý, trú xả, chánh niệm tỉnh
giác. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết:
"Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân". Vị ấy cảm giác
một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: "Ta cảm giác một
cảm thọ tận cùng của sinh mạng". Vị ấy biết: "Sau khi thân
hoại mạng chung, ở đây tất cả các cảm thọ không còn hỷ lạc, sẽ trở
thành vắng lạnh". 10. Khi được nói như vậy, Thích tử Vappa, đệ tử của Nigantha bạch
Thế Tôn: - Ví như, bạch Thế Tôn, một người mong ước được tài sản, lo nuôi
dưỡng tài sản của mình, nhưng không được tăng trưởng gì, trái lại chỉ
được mệt nhọc và dự phần vào phiền muộn. Cũng vậy, bạch Thế
Tôn, con cầu mong được lợi ích khi con hầu hạ kẻ ngu Nigantha này. Con đã
không được lợi ích gì, trái lại con chỉ được mệt nhọc và dự phần
vào phiền muộn. Bắt đầu từ hôm này, bạch Thế Tôn, với lòng tin gì
con đã có với kẻ ngu Nigantha, con sẽ sàng lòng tin ấy giữa gió lớn, hay
để lòng tin ấy vào dòng nước lạnh cho nước cuốn đi. - Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, ... Mong Thế Tôn nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
(VI) (196) Sàlha 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli (Tỳ-xá-ly) tại Ðại Lâm, trong ngôi
nhà có nóc nhọn. Rồi Licchavì Sàlha và Licchavì Abhaya đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Licchavì Sàlha bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, có những Sa-môn, Bà-la-môn trình bày sự vượt qua dòng
nước mạnh với hai pháp môn: nhân giới thanh tịnh và nhân khổ hạnh nhàm
chán. Ở đây, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có nói gì? - Này Sàlha, Ta nói rằng giới thanh tịnh là một chi phần của Sa-môn hạnh.
Các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào, này Salha, sống chủ trương nhân khổ hạnh nhàm
chán, xem khổ hạnh nhàm chán là lõi cây, chấp chặt vào khổ hạnh nhàm chán,
những vị ấy không thể nào vượt qua dòng nước mạnh. Các vị Sa-môn,
Bà-la-môn nào, này Sàlha, thân hành không thanh tịnh, lời nói không thanh
tịnh, ý hành không thanh tịnh, sanh sống không thanh tịnh, những vị ấy
không có thể đạt được tri kiến vô thượng Bồ-đề. 3. Ví như, này Sàlhà, một người muốn vượt qua sông, cầm một cây búa
sắc bén đi vào rừng. Tại đấy, nó thấy một cây sàla lớn, cao, thẳng, còn
trẻ, không có lồi lõm. Nó chặt cây ấy tại gốc, sau khi chặt ở gốc, nó đốn
ngọn. Sau khi đốn ngọn, nó tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru.
Sau khi tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru, nó gọt đẽo với cái
búa. Sau khi gọt đẽo với cái búa, nó gọt đẽo với con dao. Sau khi
gọt đẽo với con dao, nó bào sạch với cái bào. Sau khi bào sạch với cái
bào, nó bào sạch với hòn đá mài. Sau khi bào sạch với hòn đá mài, nó đem
cây ấy xuống sông. Ý Ông nghĩ thế nào, này Sàlhà người ấy có thể
vượt qua sông được không? - Thưa không, bạch Thế Tôn. 4. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì cây sàla ấy, tuy bề ngoài rất khéo
làm, nhưng bề trong không được làm sạch. Do vậy, sự việc chờ đợi
rằng: "Cây sàla ấy chìm xuống và người ấy rơi vào ách nạn". - Cũng vậy, này Sàlhà, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương sống khổ
hạnh nhàm chán, xem khổ hạnh nhàm chán là lõi cây, chấp chặt lấy khổ hạnh
nhàm chán, những vị ấy không có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này
Sàlhà, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào, thân hành không thanh tịnh, lời nói
không thanh tịnh, ý hành không thanh tịnh, sinh sống không thanh tịnh, chúng
không có thể chứng được tri kiến vô thượng Bồ-đề. Này Sàlhà,
những Sa-môn, Bà-la-môn nào sống không chủ trương khổ hạnh nhàm chán, không
xem khổ hạnh nhàm chán là lõi cây, không chấp chặt lấy khổ hạnh nhàm chán,
những vị ấy có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này Sàlhà, những vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào, thân hành thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý hành
thanh tịnh, sinh sống thanh tịnh, những vị ấy có thể chứng được tri
kiến vô thượng Bồ-đề. 5. Ví như, này Sàlhà, một người muốn vượt qua sông, cầm một cây búa
sắc bén đi vào rừng. Tại đấy, người ấy thấy một cây sàla lớn, cao, thẳng,
còn trẻ, không có lồi lõm. Nó chặt cây ấy tại gốc, sau khi chặt ở gốc,
người ấy đốn ngọn. Sau khi đốn ngọn, người ấy tỉa cành lá và làm
cho thân cây trơn tru. Sau khi tỉa cành lá và làm cho thân cây trơn tru,
người ấy gọt đẽo với cái búa. Sau khi gọt đẽo với cái búa, người
ấy gọt đẽo với con dao. Sau khi gọt đẽo với con dao, người ấy lấy
cái đục, khéo đục sạch nội phần. Sau khi khéo đục sạch nội phần, người
ấy bào sạch với cái bào. Sau khi bào sạch với cái bào, người ấy bào sạch
với hòn đá mài. Sau khi bào sạch với hòn đá mài, người ấy làm thành
chiếc thuyền, cột với cái chèo và bánh lái, rồi cuối cùng người ấy
thả xuống sông. Ý Ông nghĩ thế nào, này Sàlhà người ấy có thể
vượt qua sông được không? - Thưa được, bạch Thế Tôn. 6. Vì sao? Bạch Thế Tôn, vì cây sàla ấy, bề ngoài rất khéo làm,
bề trong được làm sạch, được cột với cái chèo và bánh lái. Do vậy,
sự việc chờ đợi rằng: "Chiếc thuyền ấy không chìm, và người
ấy sẽ đến bờ bên kia an toàn". - Cũng vậy, này Sàlhà, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không chủ trương khổ
hạnh nhàm chán, ... những vị ấy có thể vượt qua dòng nước mạnh. Này
Sàlhà, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào, thân hành thanh tịnh, lời nói thanh
tịnh, ý hành thanh tịnh, sinh sống thanh tịnh, những vị ấy có thể
chứng được tri kiến vô thượng Bồ-đề". 7. Ví như, này Sàlhà, một chiến sĩ dầu nó biết được nhiều
cung thuật, nhưng về ba phương diện nó xứng đáng là của vua, thuộc
sở hữu của vua, đi đến làm biểu tượng của vua. Thế nào là ba? Bắn xa, bắn nhanh như chớp nhoáng, và bắn thủng được vât lớn. 8. Ví như, này Sàlhà, người chiến sĩ bắn xa, cũng vậy, này Sàlhà,
là Thánh đệ tử có chánh định; phàm có sắc gì quá khứ, vị lai,
hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng,
hoặc xa hay gần, cần phải như thật thấy với trí tuệ rằng: "Cái này
không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự
ngã của tôi". Phàm có thọ gì ... phàm có tưởng gì ... phàm có hành
gì ... phàm có thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, cần phải như
thật thấy với trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi". 9. Ví như, này Sàlhà, người chiến sĩ bắn như chớp nhoáng; cũng vậy,
này Sàlhà là vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến. Vị Thánh đệ tử
này Sàlhà, có chánh tri kiến như thật quán tri: "Ðây là khổ ...
Ðây là khổ tập..., Ðây là khổ diệt...., Ðây là con đường đưa
đến khổ diệt". 10. Ví như, này Sàlhà, người chiến sĩ đâm thủng được thân hình
lớn. Cũng vậy, này Sàlhà là vị Thánh đệ tử có chánh giải thoát. Vị
Thánh đệ tử này Sàlhà, có chánh giải thoát đâm thủng được vô minh
uẩn to lớn. (VII) (197) Mallika
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng
Lâm), khu vườn ông Anàthapinkida. Rồi hoàng hậu Mallikà đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, hoàng hậu Mallikà bạch Thế Tôn: - Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một
số nữ nhân, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ,
tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít? Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một
số nữ nhân, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, dáng hạ liệt, nhưng giàu sang,
tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng lớn? Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một
số nữ nhân, dung sắc đẹp, được ưa nhìn, tịnh tín, thành tựu với dung sắc
thù thắng, tuy vậy nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít? Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây một
số nữ nhân, dung sắc đẹp, được ưa nhìn, tịnh tín, thành tựu với dung sắc
thù thắng, giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng lớn? 2.- Ở đây, này Mallikà, có hạng nữ nhân phẫn nộ, não hại nhiều,
tuy bị ít nói, liền nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn,
biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Người này không bố thí cho Sa-môn,
Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp,
giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh tình keo kiệt; thấy người khác
được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường,
thì ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ
đời này, trở lui lại trạng thái này, tại đấy, tại đấy, tái sanh hạ
liệt, dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài
sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít. 3. Ở đây, này Mallikà, có nữ nhân phẫn nộ, não hại nhiều, tuy bị
ít nói, liền nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn, biểu lộ
phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Người này bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn
vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ,
đèn đuốc; tánh tình không keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng,
cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, thì không ganh
tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ đời
này, trở lui lại trạng thái này, tại đấy, tại đấy, tái sanh , dung sắc xấu,
sắc đẹp xấu, hình dáng hạ liệt, nhưng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu
lớn, uy tín ảnh hưởng lớn. 4. Ở đây, này Mallikà, có nữ nhân không phẫn nộ, não hại không
nhiều, tuy bị nói nhiều, không có nổi nóng, không có nổi giận, không
nổi sân, không sừng sộ, không gây hấn, không biểu lộ phẫn nộ, không sân
hận, không bất mãn. Người này không bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn
vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ,
đèn đuốc; tánh tình keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung
kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, thì ganh tỵ, tức
tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ đời này, trở lui
lại trạng thái này, tại đấy, tái sanh dung sắc đẹp, sắc đẹp tốt, tịnh
tín, thành tựu với dung sắc thù thắng, nhưng nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu
ít, ảnh hưởng uy tín ít. 5. Ở đây, này Mallikà, có hạng nữ nhân không phẫn nộ, não hại không
nhiều, tuy bị nói nhiều, không có nổi nóng, không có nổi giận, không
nổi sân, không sừng sộ, không gây hấn, không biểu lộ phẫn nộ, không sân
hận, không bất mãn. Người này bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật
uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn
đuốc; tánh tình không keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung
kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, không ganh tỵ, tức
tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy, sau khi từ bỏ đời này, trở lui
lại trạng thái này, tại đấy, tái sanh dung sắc đẹp, sắc đẹp tốt, tịnh
tín, thành tựu với dung sắc thù thắng, giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn,
uy tín ảnh hưởng lớn. 6. Này Mallikà, đây là nhân, đây là duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung
sắc xấu ... ảnh hưởng uy tín ít. Này Mallikà, đây là nhân, đây là duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung
sắc xấu ... ảnh hưởng uy tín lớn. Này Mallikà, đây là nhân, đây là duyên, ở đây có hạng nữ nhân dung
sắc đẹp ... ảnh hưởng uy tín ít. Ở đây, này Mallikà, đây là nhân, đây là duyên, ở đây có hạng nữ
nhân dung sắc đẹp ... ảnh hưởng uy tín lớn. 7. Khi được nói như vậy, hoàng hậu Mallikà bạch Thế Tôn: - Giả sử như con, bạch Thế Tôn, trong một đời sống khác, con phẫn nộ,
não hại nhiều, tuy bị nói ít, nhưng nổi nóng, nổi giận, nổi sân, sừng
sộ, gây hấn, biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Và bạch Thế Tôn,
nay con dung sắc xấu, sắc đẹp xấu, hình dáng hạ liệt. Giả sử như con,
bạch Thế Tôn, trong một đời sống khác, con có bố thí cho Sa-môn,
Bà-la-môn món ăn vật uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp,
giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Và bạch Thế Tôn, nay con được giàu
sang, có tài sản lớn, có sở hữu lớn. Giả sử như con, bạch Thế Tôn, trong
một đời sống khác, tánh tình không keo kiệt; thấy người khác được lợi
dưỡng, cung kính, tôn trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, con không
ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Và bạch Thế Tôn, nay con
được có ảnh hưởng uy tín lớn. Bạch Thế Tôn, trong nội cung này, có những thiếu nữ hoàng tộc, có
những thiếu nữ Bà-la-môn, có những thiếu nữ gia chủ, con có chủ
quyền thủ lãnh. Và bạch Thế Tôn, bắt đầu từ nay, con sẽ không phẫn
nộ, không có nhiều não hại, dầu cho bị nói nhiều, con sẽ không nổi
nóng, nổi giận, nổi sân, sừng sộ, gây hấn. Con sẽ không biểu lộ phẫn
nộ, sân hận, bất mãn. Con sẽ bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn món ăn vật uống,
vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc;
con sẽ không keo kiệt; thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn
trọng, tôn kính, đảnh lễ, cúng dường, con sẽ không ganh tỵ, tức tối,
trói buộc bởi ganh tỵ. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ... mong Thế Tôn nhận con làm
đệ tử nữ cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng! (VIII) (198) Tự Hành Hạ Mình 1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự hành khổ mình, chuyên
tâm hành khổ mình. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hành khổ
người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người hành khổ mình, chuyên tâm hành khổ mình, và hành khổ người, chuyên
tâm hành khổ người. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không
hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình, không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người. Hạng người ấy không hành khổ mình, không hành
khổ người, hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh,
cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào phạm thể. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự hành khổ mình,
chuyên tâm tự hành khổ mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng
túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước
tới, đi khất thực không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ ăn mang
đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận mời đi ăn, không nhận từ
nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng
cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giã gạo,
không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai,
không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà
đang đi đến giữa người đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không
nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn
cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, không uống nước cháo.
Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà hay chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ
nhận ăn tại hai nhà hay chỉ nhận ăn hai miếng, ... hay vị ấy chỉ nhận ăn
tại bảy nhà hay chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một
bát, nuôi sống chỉ với hai bát ... nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn
một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống
theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng mới ăn một lần. Vị
ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn
bọt tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn
trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mặc
vải gai thô, vải gai thô lẫn các vải khác, mặc vải tẩn liệm, rồi quăng
đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vải vỏ cây tirita làm áo, mặc áo da con sơn dương
đen, mặc áo bện từ từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng vỏ cát
tường, mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc
bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng
lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh
nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là
người ngồi chò hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách tinh tấn, là
người dùng gai làm giường, thường nằm ngủ trên giường gai, sống một đêm
tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi). Như
vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ mình. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự
hành khổ mình. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người là người giết trâu, bò, là
người giết heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, người
đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm, cai ngục và các người
làm các nghề ác độc khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là
hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa hành khổ mình,
chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ
người? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai cấp
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, hay một vị Bà-la-môn triệu
phú. Vị này cho xây một giảng đường mới về phía đông thành phố, cạo
bỏ râu tóc, đắp áo da khô, toàn thân bôi thục tô và dầu, gãi lưng với
một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một Bà-la-môn
tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống dưới đất trống trơn chỉ có lá cỏ. Vị vua
sống với sữa từ vú một con bò cái, có con bò con cùng một màu sắc. Bà vợ
chính sống với sữa từ vú thứ hai; và Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ
vú thứ ba, sữa từ vú thứ tư thường dùng để tế lửa. Còn con nghé
con sống với đồ còn lại. Vua nói như sau: "Hãy giết một số bò đực
để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để tế lễ, hãy
giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để
tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy giết một số
ngựa để tế lễ, hãy chặt một số thân cây để làm cột tế lễ,
hãy thâu lượm một số cỏ dabbhà để làm chỗ tế lễ. Và những
người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người này
vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc
làm các công việc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng
người vừa hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người,
chuyên tâm hành khổ người. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa không hành khổ
mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không
chuyên tâm hành khổ người? Hạng người này không tự hành khổ mình, không
hành khổ người, hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát
lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. 6. Ở đây, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự
mình chứng ngộ với thắng trí, thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm
thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại
tuyên bố bốn điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện,
trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn, đầy đủ nghĩa. Ngài truyền
dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Người gia trưởng hay con của
người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp hạ tiện nghe pháp ấy. Sau
khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tin ở Như Lai. 7. Khi có được lòng tin ấy, người ấy suy nghĩ: "Gò bó là đời sống
gia đình, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng
như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể
sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như
vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay
từ bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến
thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. 8. Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của
các vị Tỷ-kheo, đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ
kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh
phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy đoạn tận lấy của không cho,
từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã
cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy đoạn tận đời sống
không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm
dục hạ liệt. Vị ấy đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời
chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không
lường gạt đời. Vị ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi., nghe
điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ
ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những
người này để sanh chia rẽ ở nhũng người kia. Như vậy, vị này sống hòa
hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hoà hợp, hoan hỷ trong hòa
hợp, thích thú trong hòa hợp hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa
đến hòa hợp. Vị ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác,
nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm,
tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy
từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời,
nói chân thật, nói liên hệ đến nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những
lời đáng giữ gìn, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ
thống, có ích lợi. 9. Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các loại hạt giống và các loài
cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ các món ăn phi
thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không
dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không
nhận các hạt sống; từ bỏ không nhận thịt sống; từ bỏ không nhận đàn bà
con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê;
từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa
cái;; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai;; từ bỏ không dùng người làm
môi giới, hoặc tự mình làm người đưa tin; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ
các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như
hối lộ, gian trá, lừa đảo, gạt lường; từ bỏ không làm thương tổn, sát
hại, câu thúc, cướp đường, cướp giật, cưỡng đoạt. 10. Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ
ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình
bát), như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh. Cũng vậy,
Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực
để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh
giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc không có lỗi lầm. 11. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Do nguyên nhân gì khiến nhãn căn này không được chế
ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự
chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn.
Khi tai nghe tiếng..., mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc..
ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Do nguyên nhân gì không được chế ngự khiến tham ái ưu
bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ
trì các căn này, nội tâm hưởng vô uế lạc. 12. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi
nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác;
khi mang y dép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai,
nếm đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều
tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. 13. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn
này, thành tưu Thánh chánh niệm tỉnh giác này (thành tựu Thánh biết
đủ này), lựa một trú xứ thanh vắng như khu rừng, gốc cây, đồi, núi, khe
nước, hang đá, bãi tha ma, rừng rậm, ngoài trời, đống rơm. Sau khi ăn xong
và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ
nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ái ở
đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Ðoạn tận
sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả
chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Ðoạn tận hôn trầm thụy miên,
vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh
sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên.
Ðoạn tận trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm trầm
lặng, gột rửa hết tâm trạo cử, hối quá. Ðoạn tận nghi ngờ, vị ấy sống
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với pháp thiện. 14. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu
uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú
Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh. 15. Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, tinh khiết, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị
ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là
khổ"; biết như thật: "Ðây là khổ tập"; biết như thật:
"Ðây là khổ diệt"; biết như thật: "Ðây là con đường
đưa đến khổ diệt"; biết như thật: "Ðây là những lậu
hoặc"; biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của những lậu
hoặc"; biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu
hoặc"; biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự
diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị
ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với
tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã
giải thoát". Vị ấy quán tri: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành,
việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không có trở lui trạng thái
này nữa". 16. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người vừa không hành khổ mình,
không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên
tâm hành khổ người. Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ
người, trong hiện tại sống không tham ái, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh,
cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. (IX) (199) Ái
1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về ái, lưới triền
khiến cho lưu chuyển được rộng ra, bám dính vào; chính do ái ấy,
thế giới này bị hoại vong, trói buộc, rối loạn như một cuộn chỉ, rối ren
như một ổ kén, quyện lại như cỏ mujia và lau sậy babbaja, không thể
nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử. Hãy nghe và khéo tác
ý, ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái, thế nào là lưới
triền, khiến cho lưu chuyển, được trải rộng ra, bám dính vào;
chính do ái ấy, thế giới này bị hoại vong, trói buộc, rối loạn như một
cuộn chỉ, rối ren như một ổ kén, quyện lại như cỏ mujia và lau sậy
babbaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử? Này các Tỷ-kheo, có mười tám ái hành này, liên hệ đến nội
tâm, có mười tám ái hành này liên hệ với ngoại cảnh. 3. Thế nào là mười tám ái hành liên hệ đến nội tâm? Này các Tỷ-kheo, khi nào có ý nghĩ: "Ta có mặt", thời có
những ý nghĩ: "Ta có mặt trong đời này"; "Ta có mặt như
vậy"; "Ta có mặt khác như vậy"; "Ta không phải thường
hằng"; "Ta là thường hằng"; "Ta phải có mặt hay không?";
"Ta phải có mặt trong đời này?"; "Ta phải có mặt như vậy";
"Ta phải có mặt khác như vậy"; "Mong rằng ta có mặt";
"Mong rằng ta có mặt trong đời này"; "Mong rằng ta có mặt như
vậy!"; "Mong rằng ta có mặt khác như vậy!"; "Ta sẽ có
mặt"; "Ta sẽ có mặt trong đời này"; "Ta sẽ có mặt như
vậy"; "Ta sẽ có mặt khác như vậy". Có mười tám ái hành này
liên hệ với nội tâm. 4. Thế nào là mười tám ái hành liên hệ đến ngoại cảnh? Khi nào có tư tưởng: "Với cái này, Ta có mặt", thời có những tư
tưởng như sau: "Với cái này, Ta có mặt trong đời này"; "Với
cái này, Ta có mặt như vậy"; "Với cái này, Ta có mặt khác như
vậy"; "Với cái này, Ta không phải thường hằng"; "Với cái
này, Ta là thường hằng"; "Với cái này, Ta phải có mặt hay
không?"; "Với cái này, Ta phải có mặt trong thế giới này?";
"Với cái này, Ta có mặt như vậy"; "Với cái này, Ta có mặt khác
như vậy"; "Với cái này, mong rằng Ta có mặt"; "Với cái này,
mong rằng Ta có mặt trong đời này"; "Với cái này, mong rằng ta có
mặt như vậy!"; "Với cái này, mong rằng Ta có mặt khác như
vậy!";" Với cái này, Ta sẽ có mặt"; "Với cái này, Ta sẽ có
mặt trong đời này";" Với cái này, Ta sẽ có mặt như vậy";"
Với cái này, Ta sẽ có mặt khác như vậy". Có mười tám ái hành này liên hệ với ngoại cảnh. 5. Mười tám ái hành này liên hệ đến nội tâm, và mười tám ái
hành này liên hệ đến ngoại cảnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là ba mươi sáu ái hành. Ba mươi sáu ái hành quá khứ như vậy; ba mươi sáu
ái hành vị lai như vậy; ba mươi sáu ái hành hiện tại như vậy. Như vậy
là một trăm lẻ tám ái hành. 6. Này các Tỷ-kheo, đây là ái này, lưới triền, khiến cho lưu
chuyển, được trải rộng ra, bám dính vào; chính do ái ấy, thế giới
này bị hoại vong, trói buộc, rối loạn như một cuộn chỉ, rối ren như một ổ
kén, quyện lại như cỏ mujia và lau sậy babbaja, không thể nào ra khỏi
khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử. (X) (200) Luyến Ái 1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự được sanh khởi này. Thế nào là
bốn? Luyến ái sanh từ luyến ái, sân sanh từ luyến ái, luyến ái
sanh từ sân, sân sanh từ sân. 2.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là luyến ái sanh từ luyến
ái? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người là khả lạc, khả hỷ, khả
ý đối với một người. Rồi các người khác đối xử với người ấy khả
lạc, khả hỷ, khả ý. Người kia suy nghĩ như sau: "Người này khả
lạc, khả hỷ, khả ý đối với ta, lại được các người khác đối xử
khả lạc, khả hỷ, khả ý". Do đó người ấy khởi lên luyến ái
đối với những người ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là luyến ái sanh
khởi từ luyến ái. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sân được sanh khởi từ luyến
ái? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người là khả lạc, khả hỷ, khả
ý đối với một người. Rồi các người khác đối xử với người ấy không
khả lạc, không khả hỷ, không khả ý. Người kia suy nghĩ như sau:
"Người này là khả lạc, khả hỷ, khả ý đối với ta, nhưng không
được các người khác đối xử khả lạc, khả hỷ, khả ý". Do đó
người ấy khởi lên lòng sân đối với những người ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là sân được sanh khởi từ luyến ái. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là luyến ái được sanh khởi từ
sân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không khả lạc, khả hỷ, khả
ý đối với một người. Rồi các người khác đối với người ấy không khả
lạc, không khả hỷ, không khả ý. Người kia suy nghĩ như sau:
"Người này không khả lạc, khả hỷ, khả ý đối với ta. Và các
người khác đối xử với người ấy không khả lạc, không khả hỷ, không
khả ý". Do đó người ấy khởi lên luyến ái đối với các người
ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là luyến ái được sanh khởi từ sân. 5. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là lòng sân được sanh khởi từ
lòng sân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không là khả lạc, khả hỷ,
khả ý đối với một người. Rồi các người khác đối xử với người ấy
khả lạc, khả hỷ, khả ý. Người kia suy nghĩ như sau: "Người này
không khả lạc, không khả hỷ, không khả ý đối với ta. Và các người
khác đối xử với người ấy khả lạc, khả hỷ, khả ý". Do đó
người ấy khởi lên lòng sân đối với những người ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là sân được sanh khởi từ lòng sân. Này các Tỷ-kheo, có bốn luyến ái này sanh ra. 6. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo ly các dục, ly các pháp bất
thiện ... chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm có tứ. Luyến ái sanh ra từ luyến ái, luyến ái
ấy trong thời gian ấy không có mặt. Sân sanh ra từ luyến ái, sân ấy trong
thời gian ấy không có mặt. Luyến ái sanh ra từ sân, luyến ái ấy trong
thời gian ấy không có mặt. Sân sanh ra từ sân, sân ấy trong thời gian ấy
không có mặt. 7. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ các tầm và tứ
... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai ... Thiền thứ ba ... Thiền
thứ tư. Luyến ái sanh ra từ luyến ái, luyến ái ấy trong thời gian
ấy không có mặt. Sân sanh khởi từ luyến ái, sân ấy trong thời gian ấy
không có mặt. Luyến ái sanh ra từ sân, luyến ái ấy trong thời gian ấy
không có mặt. Sân sanh ra từ sân, sân ấy trong thời gian ấy không có mặt. 8. Này các Tỷ-kheo, trong thời gian Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và
an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Luyến ái sanh ra từ luyến
ái, luyến ái ấy đã được đoạn tận, đã được cắt đứt từ gốc rễ,
đã được làm như thân cây tala, đã được làm không thể tái sanh,
không thể sanh khởi trong tương lai. Sân sanh ra từ luyến ái, sân ấy
đã được đoạn tận ... không thể sanh khởi trong tương lai; luyến ái
sanh ra từ sân, luyến ái ấy đã được đoạn tận, đã được cắt đứt từ
gốc rễ, đã được làm như thân cây tala, đã được làm không thể tái
sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Sân sanh ra từ sân, sân ấy đã
được đoạn tận, đã được cắt đứt từ gốc rễ, đã được làm như thân
cây tala, đã được làm không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo không lôi cuốn, không phản
ứng, không un khói, không bốc cháy, không sửng sờ. 9. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo lôi cuốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sắc từ tự ngã, hay quán
tự ngã có sắc, hay quán sắc trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong sắc; quán
thọ từ tự ngã, hay quán tự ngã có thọ, hay quán thọ trong tự ngã,
hay quán tự ngã trong thọ; quán tưởng từ tự ngã, hay quán tự ngã có
tưởng, hay quán tưởng trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong tưởng; quán các
hành từ tự ngã, hay quán tự ngã có các hành, hay quán các hành trong tự
ngã, hay quán tự ngã ở trong các hành; quán thức từ tự ngã, hay quán tự ngã
có thức, hay quán thức ở trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong thức. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo lôi cuốn. 10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không lôi cuốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không quán sắc từ tự ngã, hay
không quán tự ngã có sắc, hay không quán sắc trong tự ngã, hay không quán tự
ngã ở trong sắc; không quán thọ ... không quán tưởng ... không quán các
hành ... không quán thức từ tự ngã, hay không quán tự ngã có thức, hay không
quán thức trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong thức. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không lôi cuốn. 11. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo phản ứng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo mắng chưởi lại những ai mắng
chưởi, nổi sân lại những ai nổi sân, gây hấn lại những ai gây hấn. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo phản ứng. 12. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không phản ứng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không mắng chưởi lại những ai
mắng chưởi, không nổi sân lại những ai nổi sân, không gây hấn lại những ai
gây hấn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không phản ứng. 13. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo un khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào có ý nghĩ: "Ta có
mặt", thời có những ý nghĩ: "Ta có mặt trong đời này";
"Ta có mặt như vậy"; "Ta có mặt khác như vậy"; "Ta
không phải thường hằng"; "Ta là thường hằng"; "Ta phải có
mặt hay không?"; "Ta phải có mặt trong đời này?"; "Ta phải
có mặt như vậy"; "Ta phải có mặt khác như vậy"; "Mong rằng
ta có mặt"; "Mong rằng ta có mặt trong đời này"; "Mong rằng
ta có mặt như vậy!"; "Mong rằng ta có mặt khác như vậy!";
"Ta sẽ có mặt"; "Ta sẽ có mặt trong đời này"; "Ta sẽ
có mặt như vậy"; "Ta sẽ có mặt khác như vậy". Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo un khói. 14. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không un khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào không có ý nghĩ: "Ta có
mặt", thời cũng không có những ý nghĩ: "Ta có mặt trong đời
này"; "Ta có mặt như vậy"; "Ta có mặt khác như vậy";
"Ta không phải thường hằng"; "Ta là thường hằng"; "Ta
phải có mặt hay không?"; "Ta phải có mặt trong đời này?";
"Ta phài có mặt như vậy"; "Ta phải có mặt khác như vậy";
"Mong rằng ta có mặt"; "Mong rằng ta có mặt trong đời này";
"Mong rằng ta có mặt như vậy!"; "Mong rằng ta có mặt khác như
vậy!"; "Ta sẽ có mặt"; "Ta sẽ có mặt trong đời này";
"Ta sẽ có mặt như vậy"; "Ta sẽ có mặt khác như vậy". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không un khói. 15. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bốc cháy? Khi nào có tư tưởng: "Với cái này, Ta có mặt", thời có những tư
tưởng sau: "Với cái này, Ta có mặt trong đời này"; "Với cái
này, Ta có mặt như vậy"; "Với cái này, Ta có mặt khác như
vậy"; "Với cái này, Ta không phải thường hằng"; "Với cái
này, Ta là thường hằng"; "Với cái này, Ta phải có mặt hay
không?"; "Với cái này, Ta phải có mặt trong đời này?"; "Với
cái này, Ta phải có mặt như vậy"; "Với cái này, Ta phải có mặt
khác như vậy"; "Với cái này, mong rằng ta sẽ có mặt"; "Với
cái này, mong rằng ta có mặt trong đời này"; "Với cái này, mong rằng
ta có mặt như vậy!"; "Với cái này, mong rằng ta có mặt khác như
vậy!"" Với cái này, ta sẽ có mặt"; "Với cái này, ta sẽ có
mặt trong đời này";" Với cái này, ta sẽ có mặt như vậy";"
Với cái này, ta sẽ có mặt khác như vậy". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo bốc cháy. 16. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không bốc cháy? Khi nào không có tư tưởng: "Với cái này, Ta có mặt", thời có
những tư tưởng sau: "Với cái này, Ta không có mặt trong đời này";
"Với cái này, Ta không có mặt như vậy"; "Với cái này, Ta không
có mặt khác như vậy"; "Với cái này, Ta không phải không thường
hằng"; "Với cái này, Ta không phải thường hằng"; "Với cái
này, Ta không phải có mặt ?"; "Với cái này, Ta không phải có mặt
trong đời này?"; "Với cái này, Ta không phải có mặt như vậy";
"Với cái này, Ta không phải có mặt khác đi"; "Với cái này, mong
rằng ta không có mặt"; "Với cái này, mong rằng ta không có mặt trong
đời này"; "Với cái này, mong rằng ta không có mặt như
vậy!";" Với cái này, ta sẽ không có mặt khác đi"; "Với cái
này, tôi sẽ có mặt", "Với cái này tôi sẽ có mặt trong đời
này";" Với cái này, tôi sẽ có mặt như vậy";" Với cái này,
tôi sẽ có mặt khác như vậy". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo không bốc cháy. 17. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không có sửng sờ? Ở đây, sự kiêu mạn: "Tôi là" của vị Tỷ-kheo được đoạn
tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không có sửng sờ.
XXI. Phẩm Bậc Chân Nhân (I) (201) Các Học Pháp 1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về người không Chân
nhân và người không Chân nhân hơn cả người không Chân nhân; về bậc
Chân nhân và bậc Chân nhân hơn cả bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác
ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người sát sanh, lấy của không
cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Người
này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người không Chân nhân. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân còn hơn cả
người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình sát sanh và khích
lệ người khác sát sanh; tự mình lấy của không cho và khích lệ người
khác lấy của không cho; tự mình sống tà hạnh trong các dục và khích lệ
người khác sống tà hạnh trong các dục, tự mình nói láo và khích lệ
người khác nói láo, tự mình đắm say rượu men, rượu nấu và khích lệ
người khác đắm say rượu men, rượu nấu. Người này, này các Tỷ-kheo,
được gọi là người không Chân nhân còn hơn cả người không Chân nhân. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là bậc Chân
nhân. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân còn hơn cả bậc
Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình từ bỏ sát sanh và
khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình từ bỏ lấy của không cho và
khích lệ người khác từ bỏ lấy của không cho; tự mình từ bỏ tà hạnh
trong các dục và khích lệ người từ bỏ khác tà hạnh trong các dục; tự
mình từ bỏ nói láo và khích lệ người khác từ bỏ nói láo, tự mình từ
bỏ đắm say rượu men, rượu nấu và khích lệ người khác từ bỏ đắm say
rượu men, rượu nấu. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là bậc
Chân nhân còn hơn cả bậc Chân nhân. (II) (202) Người Có Lòng Tin
1.- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về người không
Chân nhân và người không Chân nhân hơn cả người không Chân nhân; về
bậc Chân nhân và bậc Chân nhân còn hơn cả bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có lòng tin, không có xấu
hổ, không có sợ hãi, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ.
Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người không Chân nhân. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân còn hơn cả
người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình không tin và khích
lệ người khác không tin; tự mình không xấu hổ và khích lệ người
khác không xấu hổ; tự mình không sợ hãi và khích lệ người khác không
sợ hãi; tự mình nghe ít và khích lệ người khác nghe ít; tự mình
biếng nhác và khích lệ người khác biếng khác; tự mình thất
niệm và khích lệ người khác thất niệm; tự mình liệt tuệ
và khích lệ người khác liệt tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gọi là người không Chân nhân còn
hơn cả người không Chân nhân. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có lòng tin, có xấu hổ, có sợ
hãi, nghe nhiều, siêng năng tinh cần, có niệm, có trí tuệ. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là bậc Chân nhân. 5. Này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân còn hơn cả bậc Chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình đầy đủ lòng tin, còn
khích lệ người khác có đầy đủ lòng tin; tự mình có xấu hổ và khích
lệ người khác có xấu hổ; tự mình có sợ hãi và khích lệ người
khác có sợ hãi; tự mình nghe nhiều và khích lệ người khác nghe
nhiều; tự mình siêng năng tinh cần và khích lệ người khác siêng năng
tinh cần; tự mình chánh niệm và khích lệ người khác chánh niệm;
tự mình có trí tuệ và khích lệ người khác có trí tuệ. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là gọi là bậc Chân
nhân còn hơn cả bậc Chân nhân. (III) (203) Kẻ Tàn Hại Chúng Sanh 1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về người không Chân
nhân và người không Chân nhân còn hơn cả người không Chân nhân; về
bậc Chân nhân và bậc Chân nhân còn hơn cả bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh, lấy của không cho, tà
hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù
phiếm. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người không Chân nhân. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân còn hơn cả
người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình sát sanh, còn khích
lệ người khác sát sanh; tự mình lấy của không cho và khích lệ người
khác lấy của không cho; tự mình tà hạnh trong các dục và khích lệ người
khác tà hạnh trong các dục; tự mình nói láo và khích lệ người khác nói
láo; tự mình nói hai lưỡi và khích lệ người khác nói hai lưỡi; tự
mình nói lời thô ác và khích lệ người khác nói lời thô ác; tự mình
nói lời phù phiếm và khích lệ người khác nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gọi là người không Chân nhân còn
hơn cả người không Chân nhân. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi,
từ bỏ nói lời thô ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là bậc Chân nhân. 5. Này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân còn hơn cả bậc Chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình từ bỏ sát sanh, còn
khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình từ bỏ lấy của không cho và
khích lệ người khác từ bỏ lấy của không cho; tự mình từ bỏ tà hạnh
trong các dục và khích lệ người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục; tự
mình từ bỏ nói láo và khích lệ người khác từ bỏ nói láo; tự mình từ
bỏ nói hai lưỡi và khích lệ người khác từ bỏ nói hai lưỡi; tự mình
từ bỏ nói lời thô ác và khích lệ người khác từ bỏ nói lời thô ác;
tự mình từ bỏ nói lời phù phiếm và khích lệ người khác từ bỏ nói
lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gọi là bậc Chân nhân còn hơn cả
bậc Chân nhân. (IV) (204) Mười Hạnh (Giống như kinh 203, chỉ thêm vào ba pháp sau là có tham, có sân và
tà kiến). (V) (205) Con Ðường Tám Ngành
1. (Như kinh 203, 1) 2.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có tà kiến, có tà tư duy,
có tà ngữ, có tà nghiệp, có tà mạng, có tà tinh tấn, có tà niệm,
có tà định. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người không Chân nhân. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người không Chân nhân còn hơn cả
người không Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình có tà kiến, còn
khích lệ người khác có tà kiến; có tà tư duy..; có tà ngữ..; có tà
nghiệp ..; có tà mạng ...; có tà tinh tấn ...; có tà niệm ...; có tà
định, còn khích lệ người khác có tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gọi là người không Chân nhân còn
hơn cả người không Chân nhân. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có chánh tri kiến, có chánh
tư duy, có chánh ngữ, có chánh nghiệp, có chánh mạng, có chánh tinh tấn,
có chánh niệm, có chánh định. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là bậc Chân nhân. 5. Này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc Chân nhân còn hơn cả bậc Chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình có chánh tri kiến,
còn khích lệ người khác có chánh tri kiến; có chánh tư duy...; có chánh
ngữ...; có chánh nghiệp...; có chánh mạng...; có chánh tinh tấn...; có chánh
niệm...; có chánh định, còn khích lệ người khác có chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gọi là bậc Chân nhân còn hơn cả
bậc Chân nhân. (VI) (206) Con Ðường Mười Ngành ... (Như kinh 205, chỉ thêm hai pháp: tà trí, tà giải thoát cho người
không Chân nhân, và chánh trí, chánh giải thoát cho bậc Chân nhân) (VII) (207) Kẻ Ác Ðộc (1) 1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về người độc ác và
người độc ác hơn cả người độc ác; về người hiền thiện và
người hiền thiện hơn cả người hiền thiện. Hãy nghe và khéo
tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là người độc ác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh ... (như kinh 204.2) ...
có tà kiến Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người độc ác. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người độc ác còn hơn cả người
độc ác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình sát sanh, còn khích
lệ người khác sát sanh; có người tự mình có tà kiến, còn khích
lệ người khác có tà kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người độc ác còn hơn
người độc ác. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người hiền thiện? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh ... có chánh
kiến. Người này, này các Tỷ kheo, được gọi là người hiền
thiện. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người hiền thiện còn hơn
cả người hiền thiện? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình từ bỏ sát sanh, còn
khích lệ người khác từ bỏ sát sanh ...; tự mình có chánh kiến, còn
khích lệ người khác có chánh kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người hiền thiện
còn hơn cả bậc hiền thiện. (VIII) (208) Kẻ Ác Ðộc (2) (Giống như kinh 206 với mười đức tánh, chỉ khác ở đây có kẻ ác
độc và người hiền thiện, kinh trước nói đến người không Chân
nhân và bậc Chân nhân). (IX) (209) Ác Tánh
1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Thầy về có người ác tánh
và người có ác tánh hơn cả người có ác tánh; về người có tánh
hiền thiện và người có tánh hiền thiện hơn cả người có tánh
hiền thiện. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là người ác tánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh ... có tà kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có ác tánh. 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là người có ác tánh còn hơn cả
người có ác tánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình sát sanh, còn khích
lệ người khác sát sanh ...; có người tự mình có tà kiến, còn khích
lệ người khác có tà kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người độc ác còn hơn
người có ác tánh. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có tánh hiền
thiện? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh ... có chánh tri
kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có tánh hiền
thiện. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có tánh hiền thiện
còn hơn cả người có thánh hiền thiện? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình từ bỏ sát sanh, còn
khích lệ người khác từ bỏ sát sanh ...; tự mình có chánh tri kiến,
còn khích lệ người khác có chánh tri kiến. Người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có tánh hiền
thiện còn hơn cả người có tánh hiền thiện. (X) (210) Tánh Ác Ðộc (Như kinh 208)
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 25-05-2007