BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
XXII. Phẩm Ô Uế
(I) (211) Chúng
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn ô uế hội chúng này. Thế nào là
bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo ác giới, theo ác pháp, làm
ô uế hội chúng; này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo-ni ác giới, theo ác
pháp, làm ô uế hội chúng; này các Tỷ-kheo, có nam cư sĩ ác giới,
theo ác pháp, làm ô uế hội chúng; này các Tỷ-kheo, có nữ cư sĩ ác
giới, theo ác pháp, làm ô uế hội chúng! Này các Tỷ-kheo, có bốn ô uế hội chúng này. 2. Này các Tỷ-kheo, có bốn thanh tịnh hội chúng này. Thế nào là
bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo có giới, theo thiện
pháp, làm thanh tịnh hội chúng; này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo-ni có
giới, theo thiện pháp, làm thanh tịnh hội chúng; này các Tỷ-kheo, có
nam cư sĩ có giới, theo thiện pháp, làm thanh tịnh hội chúng; này các
Tỷ-kheo, có nữ cư sĩ có giới, theo thiện pháp, làm thanh tịnh hội
chúng. Này các Tỷ-kheo, có bốn thanh tịnh hội chúng này. (II) (212) Tà Kiến 1.- Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn? Với thân làm ác, với lời nói ác, với ý nghĩ ác, với tà kiến. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là bốn? Thành tựu với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ
thiện, với chánh tri kiến. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. (III) (213) Không Biết Ơn
1.- Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn? Thành tựu với thân làm ác, với lời nói ác, với ý nghĩ ác, với không
biết ơn, không biết trả ơn. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là bốn? Thành tựu với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ
thiện, biết ơn, biết trả ơn. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. (IV) (214) Sát Sanh (Như kinh 213, chỉ khác là bốn pháp khác: Sát sanh, lấy của không
cho, tà hạnh trong các dục, nói láo; từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không
cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo). (V) (215) Con Ðường (1) (Như kinh 213, các pháp được đề cập đến là tà kiến,
tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp) (VI) (216) Con Ðường (2) (Như kinh 213, các pháp được đề cập đến là tà mạng, tà
tinh tấn, tà niệm, tà định, và chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định) (VII) (217) Cách Thức Nói (1) (Như kinh 213, các pháp được đề cập là không thấy nói thấy,
không nghe nói nghe, không cảm giác nói có cảm giác, không thức tri nói có
thức tri; không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không cảm giác
nói không có cảm giác, không thức tri nói không có thức tri) (VIII) (218) Cách Thức Nói (2) (Như kinh 213, các pháp được đề cập là thấy nói không thấy,
nghe nói không nghe, có cảm giác nói không có cảm giác, có thức tri nói
không thức tri; thấy nói có thấy, nghe nói có nghe, có cảm giác nói có cảm
giác, có thức tri nói có thức tri) (IX) (219) Không Xấu Hổ 1.- Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn? Thành tựu với không có lòng tin, với ác giới, với không xấu hổ, với
không sợ hãi. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là bốn? Thành tựu với lòng tin, với có giới, với xấu hổ, với sợ hãi. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. (X) (220) Với Liệt Tuệ (Như kinh trên, các pháp được đề cập như sau: không có lòng
tin, ác giới, biếng nhác, liệt tuệ; có lòng tin, có giới, tinh cần
tinh tấn, có trí tuệ).
XXIII. Phẩm Diệu Hạnh
(I) (221) Diệu Hạnh
1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn lời ác hành này. Thế nào là bốn? Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, có bốn lời ác hành này. 2. Này các Tỷ-kheo, có bốn lời thiện hành này. Thế nào là bốn?
Nói thật, không nói hai lưỡi, nói lời nhu nhuyến, nói lời thông
tuệ. Này các Tỷ-kheo, có bốn lời thiện hành này. (II) (222) Kiến 1. - Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không
thông minh, không phải Chân nhân, tự mình xử sự như một kẻ mất gốc, không
có sinh khí, có tội, bị các người trí quở trách, và tạo nhiều vô
phước. Thế nào là với bốn? Với thân làm ác, với lời nói ác, với ý nghĩ ác, với tà kiến. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông
minh, không phải Chân nhân, tự mình xử sự như một kẻ mất gốc, không có sinh
khí, có tội, bị các người trí quở trách, và tạo nhiều vô phước. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền trí thông
minh, là bậc Chân nhân, tự mình xử sự không như một kẻ mất gốc, một kẻ có
sinh khí, không có tội, không bị các người trí quở trách, và tạo nhiều
phước đức. Thế nào là với bốn? Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện,
với chánh tri kiến. (III) (223) Vô Ơn (như kinh trên, các pháp được đề cập là thân làm ác, lời nói
ác, ý nghĩ ác, không biết ơn, không trả ơn; thân làm thiện, lời
nói thiện, ý nghĩ thiện, biết ơn, trả ơn). (IV) (224) Sát sanh (như kinh trên, các pháp được đề cập là: sát sanh, lấy của
không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo; từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo). (V) (225) Con Ðường
Có tà kiến, có tà tư duy, có tà ngữ, có tà nghiệp; Có chánh
kiến, có chánh tư duy, có chánh ngữ, có chánh nghiệp. Có tà mạng, có tà tinh tấn, có tà niệm, có tà định; Có chánh mạng,
có chánh tinh tấn, có chánh niệm, có chánh định. (VI) (226) Cách Thức Nói (1) ... Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không cảm giác nói có cảm
giác, không tri thức nói có tri thức; không thấy nói không thấy.., không nghe
nói không nghe.., không cảm giác nói không có cảm giác..., không tri thức nói
không có tri thức. (VII) (227) Cách Thức Nói (2)
Có thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, cảm giác nói không cảm giác,
tri thức nói không tri thức; thấy nói có thấy.., nghe nói có nghe.., cảm giác
nói có cảm giác..., tri thức nói có tri thức. (VIII) (228) Không Xấu Hổ ... không có lòng tin, ... ác giới, không xấu hổ, và không sợ hãi ... có
lòng tin, ... có giới, có xấu hổ, có sợ hãi ... (IX) (229) Liệt Tuệ
... không có lòng tin, ác giới, biếng nhác, liệt tuệ ... có lòng
tin, có giới, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền trí thông
minh, là bậc Chân nhân, tự mình xử sự không như một kẻ mất gốc, có sinh
khí, không có tội, không bị các người trí quở trách, và tạo nhiều
phước đức. (X) (230) Các Thi Sĩ - Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng thi sĩ này. Thế nào là bốn? Thi nhân có tưởng tượng, thi nhân theo truyền thống, thi nhân có lý
luận, thi nhân có biện tài. Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng thi sĩ này.
XXIV. Phẩm Nghiệp (I) (231) Tóm Tắt - Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ với
thắng trí và thuyết giảng. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen quả đen; này các Tỷ-kheo, có
nghiệp trắng quả trắng; này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen trắng, quả
đen trắng, này các Tỷ kheo, có nghiệp không đen không trắng, quả
không đen không trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt. Có
bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ với thắng
trí và thuyết giảng. (II) (232) Với Chi Tiết
1. Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ với
thắng trí và thuyết giảng. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen, quả đen; có nghiệp
trắng, quả trắng; có nghiệp đen trắng, quả đen trắng; có nghiệp không
đen không trắng, quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn
diệt. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen, quả đen? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành có tổn hại, làm
khẩu hành có tổn hại, làm ý hành có tổn hại. Người ấy, do làm thân
hành có tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại, do làm ý hành có tổn
hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới
có tổn hại, các cảm xúc có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm
xúc với những cảm xúc có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ có tổn
hại, thuần nhất khổ, như những chúng sanh trong địa ngục. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen quả đen. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp trắng, quả trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành không có tổn
hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại.
Người ấy, do làm thân hành không có tổn hại, do làm khẩu hành không có tổn
hại, do làm ý hành không có tổn hại, sanh ra ở thế giới không có tổn
hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới không có tổn hại, các cảm xúc không
có tổn hại được cảm xúc. Người ấy được cảm xúc với những cảm xúc
không có tổn hại, nên cảm thọ những cảm thọ không có tổn hại, thuần
nhất lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là nghiệp trắng quả trắng. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng, quả đen
trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân hành có tổn hại và
không tổn hại, làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, làm ý hành
có tổn hại và không tổn hại. Người ấy, do làm thân hành có tổn hại và
không tổn hại, do làm khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, do làm ý
hành có tổn hại và không tổn hại, sanh ra ở thế giới có tổn hại và
không tổn hại. Do người ấy sanh ra ở thế giới có tổn hại và không tổn
hại, các cảm xúc có tổn hại và không tổn hại được cảm xúc. Người ấy
được cảm xúc với những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, nên cảm
thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, xen lẫn, pha trộn lạc
và khổ. Ví như một số người và chư Thiên, một số chúng sanh ở các
đọa xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng quả
đen trắng. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen không trắng,
quả không đen không trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt? Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận
nghiệp đen, quả đen này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận
nghiệp trắng, quả trắng này; phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận
nghiệp đen trắng, quả đen trắng này; này các Tỷ-kheo, đây được
gọi là nghiệp không đen không trắng quả không đen không trắng,
nghiệp đưa đến đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp
này đã được Ta chứng ngộ với thắng trí và thuyết giảng. (III) (233) Sonakàyana 1. Rồi Bà-la-môn Sikha Moggallàna đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm rồi ngồi xuống một
bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sikha Moggallàna thưa với Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, những ngày trước đây, trước đây nữa, thanh niên
Sonakàyana có đến con, và sau khi đến nói với con như sau: "Sa-môn
Gotama chủ trương tất cả nghiệp đều không có kết quả. Chủ
trương tất cả nghiệp đều không có kết quả, vị ấy nói đến
sự đoạn diệt của thế giới, nhưng thế giới này thiệt là có do
nghiệp tác thành thế giới và được tồn tại do tác động của
nghiệp". - Này Bà-la-môn, Ta chưa từng thấy thanh niên Sonakàyana. Từ đâu lại có
câu chuyện như vậy? 2. Này Bà-la-môn, có bốn nghiệp này đã được Ta chứng ngộ với thắng
trí và tuyên bố. Thế nào là bốn? ... (Hoàn toàn giống như kinh 232)
(IV) (234) Các Học Pháp 1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp này, đã được Ta chứng ngộ với
thắng trí và tuyên bố. Thế nào là bốn? (Như kinh 231) 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen quả đen? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh, lấy của không cho, có
tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp đen quả đen. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp trắng, quả trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp trắng, quả trắng. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng, quả đen
trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân nghiệp có tổn hại
và không tổn hại ... (như kinh 232.4). Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng, quả đen trắng. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả
không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt? Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có nghiệp đen, quả đen này ... (như
kinh 232.5). Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp không đen
trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, bốn nghiệp này đã được Ta chứng ngộ với thắng
trí và tuyên bố. 6. Có bốn nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ với
thắng trí và tuyên bố. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen, quả đen; có nghiệp trắng, quả
trắng; có nghiệp đen trắng, quả đen trắng; có nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng,
nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt. 7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen, quả đen? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạt mạng sống của mẹ, đoạt
mạng sống của cha, đoạt mạng sống của vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai
chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen, quả đen. 8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp trắng, quả
trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi,
từ bỏ lời thô ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham, từ bỏ sân, có
chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp trắng, quả trắng. 9. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng, quả đen
trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm thân nghiệp có tổn hại
và không tổn hại ... (như kinh 232.4) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp đen trắng, quả đen trắng. 10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả
không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt? Tại đấy, này các Tỷ-kheo, phàm có tư tâm sở nào để đoạn tận nghiệp đen quả đen này ... (như
kinh 232.5). Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghiệp không đen
trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt.
Có bốn loại nghiệp này, này các Tỷ-kheo, đã được Ta chứng ngộ
với thắng trí và tuyên thuyết. (V) (235) Thánh Ðạo
- Này các Tỷ-kheo, có bốn nghiệp này được Ta chứng ngộ với thắng
trí và tuyên thuyết. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đen quả đen ... (như kinh 232). Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả
không đen trắng, nghiệp đưa đến đoạn diệt. Ðây là chánh tri kiến ... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp không đen trắng, quả không đen
trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt. (VI) (236) Giác Chi 1.- Có bốn nghiệp này ... (như kinh 232.1) 2. Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen quả đen? (như kinh
232.2) 3. Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp trắng quả trắng? (như
kinh 232.3) 4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng quả đen trắng? (như
kinh 232.4) 5. Này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp không đen trắng, quả
không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt? Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi,
khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi. Này các Tỷ-kheo, đây là nghiệp không đen trắng, quả không đen
trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại nghiệp này, đã được Ta chứng ngộ
với thắng trí và tuyên thuyết. (VII) (237) Ðáng Quở Trách
1.- Này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp này, như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục. Thế nào là với bốn? Với thân nghiệp có tội, với ngữ nghiệp có tội, với ý
nghiệp có tội, với kiến có tội. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là với bốn? Với thân nghiệp không có tội, với khẩu nghiệp không có tội, với
ý nghiệp không có tội, với kiến không có tội. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. (VIII) (238) Có Hại 1.- Này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp này, như vậy tương xứng
bị rơi vào địa ngục. Thế nào là với bốn? Với thân nghiệp có tổn hại, với khẩu nghiệp có tổn hại, với ý
nghiệp có tổn hại, với kiến có tổn hại. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là với bốn? Với thân nghiệp không có tổn hại, với khẩu nghiệp không có tổn
hại, với ý nghiệp không có tổn hại, với kiến không có tổn hại. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. (IX) (239) Vị Sa Môn
1.- Chỉ ở đây, này các Tỷ-kheo, có Sa-môn thứ nhất, có Sa-môn thứ
hai, có Sa-môn thứ ba, có Sa-môn thứ tư, còn ngoại đạo khác không có
Sa-môn. Như vậy, này các Tỷ kheo, các Thầy chơn chánh rống tiếng rống
con sư tử. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn thứ nhất? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt ba kiết
sử, là bậc Dự lưu, không bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn hướng đến
giác ngộ. Này các Tỷ-kheo, người này là Sa-môn thứ nhất. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn thứ hai? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Các Tỷ-kheo do đoạn diệt ba
kiết sử, do làm cho nhẹ bớt tham và sân, là bậc Nhất Lai, còn đi lại
thế giới này một lần nữa, rồi đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo,
đây là Sa-môn thứ hai. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn thứ ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh tại đấy, chứng Niết-bàn, không phải trở lui
từ thế giới ấy. Này các Tỷ-kheo, đây là Sa-môn thứ ba. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn thứ tư? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc,
tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây là Sa-môn
thứ tư. Chỉ ở đây, này các Tỷ-kheo, có Sa-môn thứ nhất, ở đây có Sa-môn
thứ hai, ở đây có Sa-môn thứ ba, ở đây có Sa-môn thứ tư, còn ngoại đạo
khác không có Sa-môn. Như vậy, này các Tỷ kheo là chơn chánh rống
tiếng rống con sư tử này. (X) (240) Các Lợi Ích Nhờ Bậc Chân Nhân - Nhờ y tựa bậc chân nhân, này các Tỷ-kheo, chờ đợi là bốn lợi ích.
Thế nào là bốn? Lớn mạnh nhờ Thánh giới, lớn mạnh nhờ Thánh
định, lớn mạnh nhờ Thánh trí tuệ, lớn mạnh nhờ Thánh giải thoát. Nhờ y tựa bậc chân nhân, này các Tỷ-kheo, chờ đợi là bốn lợi ích
này.
XXV. Phẩm Sợ Hãi Phạm Tội
(I) (241) Phạm Tội (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả
Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi xuống một bên: - Này Ananda, sự tranh chấp ấy đã được chấm dứt chưa? - Từ đâu, bạch Thế Tôn, sự tranh chấp ấy sẽ chấm dứt được? Bàhiya,
vị đồng trú với Tôn giả Anuruddha hoàn toàn đứng về phía hòa hợp tăng.
Do vậy, Tôn giả Anuruddha nghĩ rằng không nên nói một lời nào. - Này Ananda, có khi nào Anuruddha lại can thiệp vào những vấn đề
tranh chấp giữa chúng Tăng? Phải chăng, này Ananda, khi nào có vấn đề
tranh chấp gì khởi lên, chính hai Thầy Sàriputta và Moggallàna làm chấm dứt
tất cả tranh chấp ấy? 2. Này Ananda, do thấy bốn lợi ích này, kẻ ác Tỷ-kheo thích thú với
phá hòa hợp Tăng. Thế nào là bốn? Ở đây, này Ananda, kẻ ác Tỷ-kheo, do theo ác giới, theo ác pháp
không trong sạch, sở hành đáng nghi ngờ, có hành động che giấu, không phải
Sa-môn nhưng tự xưng là Sa-môn, không hành Phạm hạnh nhưng tự xưng là hành
Phạm hạnh, nội tâm mục nát, đầy ứ dục vọng, một đống rác dơ bẩn. Vị
ấy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo sẽ biết Ta là ác giới, theo
ác pháp, không thanh tịnh ... một đống rác dơ bẩn; nếu họ hòa hợp,
họ sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được
ta". Này Ananda, do thấy lợi ích thứ nhất này, ác Tỷ-kheo thích thú
với phá hòa hợp Tăng. 3. Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo có tà kiến, thành tựu với chấp thủ
biên kiến, vị ấy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo sẽ biết Ta là có ác tri kiến, chấp thủ tri kiến; nếu họ hòa hợp, họ
sẽ làm hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được
ta". Này Ananda, do thấy lợi ích thứ hai này, ác Tỷ-kheo thích thú với
phá hòa hợp Tăng. 4. Lại nữa, này Ananda, ác Tỷ-kheo có tà mạng, nuôi sống mình với tà
mạng. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Nếu các Tỷ-kheo sẽ biết Ta có
tà mạng, nuôi sống mình với tà mạng; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm
hại ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được ta". Này
Ananda, do thấy lợi ích thứ ba này, ác Tỷ-kheo thích thú với phá hòa hợp
Tăng. 5. Lại nữa, này Ananda, ác Tỷ-kheo tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung
kính, tham muốn không bị khinh miệt; Vị ấy suy nghĩ như sau: "Nếu
các Tỷ-kheo sẽ biết Ta là tham muốn lợi dưỡng, tham muốn cung kính,
tham muốn không bị khinh miệt; nếu họ hòa hợp, họ sẽ làm hại
ta; nếu họ chia rẽ, họ sẽ không làm hại được ta". Này Ananda,
do thấy lợi ích thứ tư này, ác Tỷ-kheo thích thú với phá hòa hợp Tăng.
Do thấy bốn lợi ích này, này Ananda, kẻ ác Tỷ-kheo thích thú với phá
hòa hợp Tăng. (II) (242) Phạm Tội (2) 1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn sợ hãi phạm tội này. Thế nào là bốn? 2. Ví như, này các Tỷ-kheo, người ta bắt được một người ăn trộm,
một người phạm tội, dắt đến cho nhà vua và thưa: "Thưa Ðại vương,
đây là người ăn trộm, đây là người phạm tội. Ðại vương hãy gia phạt
người ấy theo hình phạt nào Ðại vương muốn". Vua ấy nói như sau:
"Các ông hãy đem người này, lấy dây thật chắc trói cánh tay người này
thật chặt lại về phía sau. Cạo đầu người ấy đi, dắt người ấy đi xung
quanh với một cái trống, có tiếng chát tai, đi từ đường này đến
đường khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác, dắt người ấy ra khỏi cửa
thành phía Nam, và hãy chặt đầu người ấy tại thành phía Nam". Những
người của vua, lấy dây thật chắc trói cánh tay nó thật chặt lại về phía
sau, cạo trọc đầu, dắt nó đi xung quanh với một cái trống, có tiếng
chát tai, đi từ đường này đến đường khác, từ ngã ba này đến ngã
ba khác, dắt người ấy ra khỏi cửa thành phía Nam, và hãy chặt đầu người
ấy tại thành phía Nam. Tại đấy, có một người đứng một bên suy nghĩ như
sau: "Thật sự người này đã làm một điều ác đáng bị quở trách,
đáng bị chém đầu. Vì rằng những người của vua lấy dây thật chắc trói
cánh tay nó thật chặt lại về phía sau, cạo trọc đầu, dắt nó đi xung
quanh với một cái trống, có tiếng chát tai, đi từ đường này đến
đường khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác, dắt người ấy ra khỏi cửa
thành phía Nam, và hãy chặt đầu người ấy tại thành phía Nam. Chắc chắn ta
chớ có làm nghiệp ác như vậy, đáng bị quở trách, đáng bị chém
đầu". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo-ni nào, các tưởng sợ hãi sắc bén như vậy, được an trú, thời
trong những pháp, tội ba-la-di được chờ đợi như sau về vị ấy: Nếu
không phạm tội, thời không rơi vào tội ba-la-di; nếu đã phạm tội, thời
sẽ như pháp sám hối pháp ba-la-di. 2. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người mang áo vải đen, xả bối tóc
xuống, mang trên vai một cái hèo và đi đến trước đại chúng và nói như
sau: "Thưa quý vị, tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị quở trách,
đáng bị đánh hèo. Do vậy tôi xin đặt mình theo sở thích của quý
vị". Rồi một người đứng một bên suy nghĩ như sau: "Thật sự, người
này đã làm một điều ác đáng bị quở trách, đáng bị đánh hèo. Vì
rằng, người ấy đã mang áo vải đen, xả bối tóc xuống, mang trên vai một cái
hèo và đi đến trước đại chúng và nói như sau: "Thưa quý vị,
tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị quở trách, đáng bị đánh hèo. Do
vậy tôi xin đặt mình theo sở thích của quý vị". Vậy chắc chắn ta
chớ có làm nghiệp ác như vậy, đáng bị quở trách, đáng bị đánh
hèo". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo-ni nào, các tưởng sợ hãi sắc bén như vậy, được an trú, thời
trong những pháp tăng tàn, được chờ đợi như sau về vị ấy: "Nếu
không phạm tội thời sẽ không rơi vào tội tăng tàn. Nếu đã phạm tội
thời sẽ như pháp phát lộ tội tăng tàn". 3. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người mang áo vải đen, xả bối tóc
xuống, mang theo trên vai một bị đồ ăn và đi đến trước đại chúng và
nói như sau: "Thưa quý vị, tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị
quở trách, đáng bị hình phạt. Do vậy tôi xin đặt mình theo sở thích của
quý vị". Rồi một người đứng một bên suy nghĩ như sau: "Thật
sự, người này đã làm một điều ác đáng bị quở trách, đáng bị hình
phạt. Vì rằng người ấy đã mang áo vải đen, xả bối tóc xuống, mang theo
trên vai một bị đồ ăn và đi đến trước đại chúng và nói như sau:
"Thưa quý vị, tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị quở trách,
đáng bị hình phạt. Do vậy tôi xin đặt mình theo sở thích của quý
vị". Vậy chắc chắn ta chớ có làm nghiệp ác như vậy, đáng bị quở
trách, đáng bị hình phạt". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với các
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, các tưởng sợ hãi sắc bén như vậy, được
an trú, thời trong những pháp pàcittiyà ba-dật-đề, được chờ đợi như
sau về vị ấy: "Nếu không phạm tội thời sẽ không rơi vào tội
pàcittiyà. Nếu phạm tội thời sẽ như pháp phát lộ tội pàcittiyà". 4. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người mang áo vải đen, xả bối tóc
xuống, đi đến trước đại chúng và nói như sau: "Thưa quý vị,
tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị quở trách, đáng bị phê bình. Do vậy
tôi xin đặt mình theo sở thích của quý vị". Rồi một người đứng
một bên suy nghĩ như sau: "Thật sự, người này đã làm một điều ác
đáng bị quở trách, đáng bị phê bình. Vì rằng người này mang áo vải đen,
xả bối tóc xuống, đi đến trước đại chúng và nói như sau: "Thưa
quý vị, tôi đã làm một nghiệp ác đáng bị quở trách, đáng bị phê
bình. Do vậy tôi xin đặt mình theo sở thích của quý vị". Vậy chắc
chắn ta chớ có làm nghiệp ác như vậy, đáng bị quở trách, đáng bị phê
bình". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo-ni nào, các tưởng sợ hãi sắc bén như vậy, được an trú, thời
trong những pháp pàtidesaniya (cần phải phát lộ) được chờ đợi như sau:
Nếu không phạm tội thời sẽ không rơi vào phạm tội pàtidesaniya. Nếu
phạm tội thời sẽ như pháp sám hối, pháp pàtidesaniya. Này các Tỷ-kheo, có bốn sợ hãi phạm tội này. (III) (243) Lợi ích Học Tập
1. - Phạm hạnh này được sống, được lợi ích trong học tập, được
trí tuệ vô thượng, được giải thoát kiên cố, được niệm tăng
thượng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lợi ích học tập? Ở đây, này các Tỷ-kheo, các học pháp thắng hạnh được Ta đặt
cho các đệ tử, để những ai ít lòng tin phát khởi lòng tin. Vì rằng,
này các Tỷ-kheo, các học pháp thắng hạnh được Ta chế đặt cho
các đệ tử, để những ai ít lòng tin phát khởi lòng tin, để những
ai có lòng tin, được tăng trưởng lòng tin. Do vậy, một đệ tử sau khi
chấp nhận và học tập trong các học pháp, đối với học pháp ấy là
người sở hành không bị bể vụn, sở hành không cắt xén, sở hành không
bị vết nhơ, sở hành không bị chấm đen. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các học pháp sở hành Phạm hạnh được Ta
đặt cho các đệ tử, để chơn chánh đoạn diệt đau khổ một cách
hoàn toàn. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, các học pháp sở hành Phạm hạnh
được Ta chế đặt cho các đệ tử, để chơn chánh đoạn diệt
đau khổ một cách hoàn toàn. Do vậy, một đệ tử sau khi chấp nhận và
học tập trong các học pháp, đối với học pháp ấy là người sở
hành không bị bể vụn, sở hành không cắt xén, sở hành không bị vết
nhơ, sở hành không bị chấm đen. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là lợi ích
của học tập. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ vô thượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, các pháp Ta thuyết giảng cho các
đệ tử để chơn chánh đoạn diệt đau khổ một cách hoàn toàn. Vì
rằng, này các Tỷ-kheo, các pháp Ta thuyết giảng cho các đệ tử
để chơn chánh đoạn diệt đau khổ một cách hoàn toàn. Do vậy các
pháp ấy được trí tuệ quán sát một cách đồng đẳng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là trí tuệ vô thượng. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là giải thoát kiên cố? Ở đây, này các Tỷ-kheo, các pháp được Ta thuyết giảng cho các
đệ tử để chơn chánh đoạn diệt đau khổ một cách hoàn toàn. Vì
rằng, này các Tỷ-kheo, các pháp được Ta thuyết giảng cho các đệ
tử để chơn chánh đoạn diệt đau khổ một cách hoàn toàn. Do vậy các
pháp ấy được khéo cảm xúc với giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là giải thoát kiên cố. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm tăng thượng? Với tư tưởng: "Ta sẽ làm viên mãn học pháp thắng hạnh chưa được
đầy đủ; hay nếu học pháp thắng hạnh chưa được đầy đủ, Ta sẽ bổ
sung thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Do vậy, niệm nội
tâm được khéo an trú với tư tưởng: "Ta sẽ làm viên mãn học pháp
sở hành Phạm hạnh chưa được đầy đủ; hay nếu học pháp sở hành
Phạm hạnh được đầy đủ, ta sẽ bổ sung thêm chỗ này chỗ kia với trí
tuệ". Do vậy, niệm nội tâm được khéo an trú. Với tư tưởng:
"Ta sẽ quán sát đồng đẳng với trí tuệ pháp chưa được đồng đẳng
quán sát; hay nếu pháp đã được đồng đẳng quán sát, ta sẽ bổ sung
thêm chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Do vậy, niệm nội tâm
được khéo an trú. Với tư tưởng: "Ta sẽ cảm xúc với giải thoát, pháp
chưa được cảm xúc; hay nếu pháp đã được cảm xúc, ta sẽ bổ sung thêm
chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Do vậy, niệm nội tâm được khéo
an trú". Như vậy này các Tỷ-kheo, là niệm tăng thượng. Phạm hạnh này được sống, này các Tỷ-kheo, để được lợi ích
trong học tập, được trí tuệ vô thượng, được giải thoát kiên cố,
được niệm tăng thượng. Như vậy được nói đến, do duyên này được
nói đến như vậy. (IV) (244) Cách Nằm - Này các Tỷ-kheo, có bốn cách nằm này. Thế nào là bốn? Cách nằm của ngạ quỷ, cách nằm của kẻ hưởng thọ dục vọng,
cách nằm của con sư tử, cách nằm của Như Lai. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là cách nằm của ngạ quỷ? Này các Tỷ-kheo, phần lớn các ngạ quỷ nằm ngửa. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là cách nằm của ngạ quỷ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cách nằm của người hưởng thọ
các dục vọng? Và này các Tỷ-kheo, phần lớn người hưởng thọ các dục vọng
nằm phía bên trái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là cách nằm của kẻ
hưởng thọ các dục vọng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cách nằm của con sư tử? Này các Tỷ-kheo, con sư tử, vua các loài thú, nằm về phía hông bên
mặt, hai chân gác lên nhau và cuộn cái đuôi vào giữa hai bắp vế; khi
thức dậy, nó duỗi ra phía thân trước, rồi nó ngó lui ra phía thân sau.
Này các Tỷ-kheo, nếu con sư tử, vua các loài thú, thấy thân phần nào
đặt sai chỗ hay lộn xộn, thời này các Tỷ-kheo, con sư tử, vua các
loài thú, không được hoan hỷ. Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu con sư
tử, vua các loài thú, thấy thân phần nào không đặt sai chỗ hay lộn xộn,
thời này các Tỷ-kheo, con sư tử, vua các loài thú, được hoan hỷ. Này
các Tỷ-kheo, đây là cách nằm con sư tử. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là cách nằm của Như Lai? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục ... chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo, đây là cách nằm của Như Lai. Này
các Tỷ-kheo, có bốn cách nằm này. (V) (245) Xứng Ðáng Ðược Dựng Tháp
- Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này xứng được để được
dựng tháp. Thế nào là bốn? Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, xứng đáng được dựng tháp; vị
Ðộc Giác Phật xứng đáng được dựng tháp; đệ tử của Như Lai xứng
đáng được dựng tháp; Chuyển Luân Vương xứng đáng được dựng tháp. Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, xứng đáng được dựng tháp. (VI) (246) Trí Tuệ Tăng Trưởng 1.- Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến trí tuệ tăng
trưởng. Thế nào là bốn? Thân cận bậc Chân nhân, nghe diệu pháp, như lý tác ý, thực
hành pháp tùy pháp. Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến trí tuệ tăng trưởng. 2. Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, giúp ích nhiều cho vị sanh ra làm
người. Thế nào là bốn? Thân cận bậc Chân nhân, nghe diệu pháp, như lý tác ý, thực
hành pháp tùy pháp. Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, giúp ích nhiều cho vị sanh ra làm
người. (VII) (247) Cách Thức Nói (1)
- Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết phi Thánh này. Thế nào là
bốn? - Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không cảm giác nói cảm giác,
không thức tri nói thức tri. Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết phi Thánh này. (VIII) (248) Cách Thức Nói (2) - Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết bậc Thánh này. Thế nào
là bốn? - Không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không cảm giác nói
không cảm giác, không thức tri nói không thức tri. Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết bậc Thánh này. (IX) (249) Cách Thức Nói (3)
- Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết phi Thánh này. Thế nào là
bốn? - Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, cảm giác nói không cảm giác,
tưởng tri nói không tưởng tri. Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết phi Thánh này. (X) (250) Cách Thức Nói (4) - Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết bậc Thánh này. Thế nào
là bốn? - Thấy nói thấy, nghe nói nghe, cảm giác nói cảm giác, thức tri nói thức
tri. Này các Tỷ-kheo, có bốn ngôn thuyết bậc Thánh này. XXVI. Phẩm Thắng Trí
(I) (251) Thắng Trí
- Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có những pháp cần phải liễu tri với thắng trí; này
các Tỷ-kheo, có những pháp cần phải đoạn tận với thắng trí; này các
Tỷ-kheo, có những pháp cần phải tu tập với thắng trí; này các
Tỷ-kheo, có những pháp cần phải chứng ngộ với thắng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải liễu tri với
thắng trí? Năm thủ uẩn, này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là những
pháp cần phải liễu tri với thắng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải đoạn tận với
thắng trí? Vô minh và hữu ái, này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là
những pháp cần phải đoạn tận với thắng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải tu tập với
thắng trí? Chỉ và quán, này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là những
pháp cần phải tu tập với thắng trí. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải chứng ngộ với
thắng trí? Minh và giải thoát, này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là
những pháp cần phải chứng ngộ với thắng trí. Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp này. (II) (252) Tầm Cầu - Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp phi Thánh cầu này. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị già, tầm cầu cái
bị già; tự mình bị bệnh, tầm cầu cái bị bệnh; tự mình bị chết,
tầm cầu cái bị chết; tự mình bị uế nhiễm, tầm cầu cái bị uế
nhiễm. Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp phi Thánh cầu này. 2. Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp Thánh cầu này. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị già, sau khi biết
sự nguy hại của bị già, tầm cầu cái không bị già, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết sự nguy hại
của bị bệnh, tầm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết sự nguy hại của bị
chết, tầm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn; tự mình uế nhiễm, sau khi biết sự nguy hại của uế
nhiễm, tầm cầu cái không bị uế nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp Thánh cầu này. (III) (253) Nhiếp Pháp
- Này các Tỷ-kheo, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn? - Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Này các Tỷ-kheo, có bốn nhiếp pháp này. (IV) (254) Con của Màlunkyàputta 1. Rồi Tôn giả Màlunkyàputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Màlunkyàputta bạch Thế Tôn: - Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt
cho con; sau khi nghe thuyết pháp con sẽ sống một mình, viễn ly, không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. - Nay ở đây, này Màlunkyàputta, Ta nói gì cho các Tỷ-kheo trẻ, trong khi
Thầy đã già yếu, tuổi thọ cao, là bậc trưởng thượng, lại cầu Như
Lai giáo giới một cách vắn tắt? - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, chắc
chắn con sẽ hiểu được ý nghĩa lời nói của Thế Tôn, chắc chắn
con sẽ trở thành người thừa tự lời của Thế Tôn. 2. Này Màlunkyàputta, có bốn ái sanh này, ở đây, ái được sanh cho
Tỷ-kheo. Thế nào là bốn? Hoặc do nhân y, này Màlunkyàputta, có ái sanh, do ở đây, ái được sanh cho
Tỷ-kheo. Hoặc do nhân đồ ăn khất thực ... hoặc do nhân sàng tọa ...
hoặc do nhân sanh hữu này hay sanh hữu khác. Này Màlunkyàputta, có ái sanh, do
đây ái được sanh cho vị Tỷ-kheo. Này Màlunkyàputta, có bốn ái sanh này, ở đây, ái sanh được sanh cho
Tỷ-kheo. Khi nào, này Màlunkyàputta, ái được đoạn tận, được chặt đứt từ gốc
rễ, được làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Vị ấy, này Màlunkyàputta, được
gọi là vị Tỷ-kheo đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết
sử, chơn chánh minh kiến kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau. 3. Rồi Tôn giả Màlunkyàputta, sau khi nghe Thế Tôn giáo giới với lời
giáo giới này, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về phía Ngài rồi ra đi. Rồi Tôn giả Màlunkyàputta, sống một mình, viễn ly, không phóng dật,
nhiệt tâm tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì các thiện nam tử
chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là vô thượng
cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng
đạt và an trú. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Rồi Tôn giả Màlunkyàputta trở thành một vị A-la-hán nữa. (V) (255) Lợi Ích Cho Gia Ðình
1.- Phàm những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, đạt đến sự lớn
mạnh trong các tài sản, không được tồn tại lâu dài; tất cả đều do bốn
sự kiện ấy hay là một trong những sự kiện này. Thế nào là bốn? Không tìm những gì đã mất; không sửa lại cái gì đã già yếu; ăn và
uống quá độ; đặt ác giới nữ nhân, nam nhân trong địa vị tối thắng. Phàm
những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, đạt đến sự lớn mạnh trong các
tài sản, không được tồn tại lâu dài; tất cả đều do bốn sự kiện
ấy hay là một trong những sự kiện này. Phàm những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, đạt đến sự lớn mạnh
trong các tài sản, được tồn tại lâu dài; tất cả đều do bốn sự
kiện ấy hay là một trong những sự kiện này. Thế nào là bốn? 2. Tìm những gì đã mất; sửa lại cái gì đã già yếu; ăn và uống
không quá độ; đặt nữ nhân, nam nhân có giới trong địa vị tối
thắng. Phàm những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, đạt đến sự lớn
mạnh trong các tài sản, được tồn tại lâu dài; tất cả đều do bốn sự
kiện ấy hay là một trong những sự kiện này. (VI) (256) Con Ngựa Thuần Chủng (1) 1.- Ðầy đủ với bốn đức tánh, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua,
hiền thiện, thuần chủng, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền
sở hữu của vua, được xem như một biểu tượng của vua. Thế nào là
bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện
thuần chủng, đầy đủ với sắc đẹp, đầy đủ với sức mạnh, đầy đủ với
tốc lực, đầy đủ với cân đối. Ðầy đủ với bốn đức tánh này, này các
Tỷ-kheo, một con ngựa của vua, hiền thiện, thuần chủng, xứng đáng
để vua dùng, thuộc quyền sở hữu của vua, và được xem như một
biểu tượng của vua. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đầy đủ với bốn pháp, môt Tỷ-kheo
đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường,
đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là
bốn? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp, đầy đủ
với sức mạnh, đầy đủ với tốc lực, đầy đủ với cân đối. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ sắc đẹp? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống có giới luật, sống
chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi
chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học
tập trong các học pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy
đủ sắc đẹp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ sức mạnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống thanh tịnh, tinh cần, tinh
tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu đầy đủ các pháp
thiện, nỗ lực, kiên trì, dõng mãnh, không từ bỏ trách nhiệm đối
với các pháp thiện. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ
sức mạnh. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo như thật rõ biết:
"Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập";
như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ sự cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được thâu nhận các vật dụng
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ sự cân đối. Này
các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp này, Tỷ-kheo xứng đáng được
cung kính, được tôn trọng, được cúng dường, được chắp tay, là ruộng
phước vô thượng ở đời. (VII) (257) Con Ngựa Thuần Chủng (2) (Giống như kinh trước, chỉ khác định nghĩa về tốc độ của
Tỷ-kheo, có thể giải thích khác như sau)
... Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tốc độ vị Tỷ-kheo? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo đầy đủ tốc lực. (các đức tánh khác như kinh trước) (VIII) (258) Lực - Này các Tỷ-kheo, có bốn lực này. Thế nào là bốn? Tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Này các Tỷ-kheo, có bốn
lực này. (IX) (259) Sống Trong Rừng
1.- Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đủ
điều kiện để sống trong rừng, các ngôi rừng rậm rạp, các trú xứ
xa vắng. Thế nào là với bốn? Với dục tầm, với sân tầm, với hại tầm, liệt tuệ, đần độn, câm
ngọng. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không đủ
điều kiện để sống trong rừng, các ngôi rừng rậm rạp, các trú xứ
xa vắng. 2.- Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ
điều kiện để sống trong rừng, các ngôi rừng rậm rạp, các trú xứ
xa vắng. Thế nào là với bốn? Với xuất ly tầm, với vô sân tầm, với bất hại tầm, không đần độn, không
câm ngọng. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ điều
kiện để sống trong rừng, các ngôi rừng rậm rạp, các trú xứ xa vắng. (X) (260) Hành Ðộng 1. - Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không
thông minh, không là bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ bị mất gốc, không
sinh lực, có tội, bị người trí quở trách, tạo nhiều vô phước. Thế
nào là bốn? Với thân nghiệp có tội, với khẩu nghiệp có tội, với ý
nghiệp có tội, với tri kiến có tội. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông
minh, không là bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ bị mất gốc, không sinh
lực, có tội, bị người trí quở trách, tạo nhiều vô phước. 2. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền trí,
thông minh, là bậc Chân nhân, tự mình xử sự không như người mất gốc, có
sinh lực, không có tội, không bị người trí quở trách, và tạo nhiều
phước đức. Thế nào là bốn? Với thân nghiệp không có tội, với ngữ nghiệp không có tội, với
ý nghiệp không có tội, với tri kiến không có tội. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền trí, thông
minh, là bậc Chân nhân, tự mình xử sự không như người mất gốc, có sinh
lực, không có tội, không bị người trí quở trách, tạo nhiều phước đức.
XXVII. Phẩm Nghiệp Ðạo (I) (261) Chấp Nhận (1) 1.- Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. Thế nào là với bốn pháp? Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, chấp nhận sát sanh và
tán thán sát sanh. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi
vào địa ngục. 2.- Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là với bốn pháp? Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh, chấp
nhận từ bỏ sát sanh và tán thán từ bỏ sát sanh. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được
sanh lên cõi Trời. (II) (262) Chấp Nhận (2) (Như trên, pháp ở đây là "lấy của không cho và từ bỏ lấy của
không cho"). (III) (263) Chấp Nhận (3) (Như trên, pháp ở đây là "tà hạnh trong các dục và từ bỏ tà
hạnh trong các dục"). (IV) (264) Chấp Nhận (4) (Như trên, pháp ở đây là "nói láo và từ bỏ nói láo"). (V) (265) Chấp Nhận (5) (Như trên, pháp ở đây là "tự mình nói hai lưỡi và từ bỏ nói
hai lưỡi"). (VI) (266) Chấp Nhận (6) (Như trên, pháp ở đây là "tự mình nói lời thô ác và từ bỏ
nói lời thô ác"). (VII) (267) Chấp Nhận (7) (Như trên, pháp ở đây là "tự mình nói lời phù phiếm và
từ bỏ nói lời phù phiếm"). (VIII) (268) Chấp Nhận (8) (Như trên, pháp ở đây là "tự mình tham dục và tự mình không
tham dục"). (IX) (269) Chấp Nhận (9) (Như trên, pháp ở đây là "tự mình có tâm sân hận và tự mình
không có tâm sân hận"). (X) (270) Chấp Nhận (10)
1.- Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị
rơi vào địa ngục. Thế nào là với bốn pháp? Tự mình có tà kiến, khích lệ người khác có tà kiến, chấp
nhận tà kiến và tán thán tà kiến. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi
vào địa ngục. 2.- Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng
được sanh lên cõi Trời. Thế nào là với bốn pháp? Tự mình có chánh kiến, khích lệ người khác có chánh tri kiến,
chấp nhận chánh tri kiến và tán thán chánh tri kiến. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được
sanh lên cõi Trời.
XXVIII. Phẩm Tham (I) (271) Tham 1. - Ðể thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, bốn pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tùy quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; tùy
quán thọ trên các cảm thọ ... tùy quán tâm trên tâm ... tùy quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Ðể thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, bốn pháp cần phải tu tập. 2. - Ðể thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, bốn pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các pháp ác bất
thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn cố gắng; tinh tấn, sách tâm, trì tâm
không cho sanh khởi; đối với các pháp ác bất thiện đã sanh, khởi lên
ý muốn cố gắng; tinh tấn, sách tâm, trì tâm khiến chúng đoạn tận;
đối với các pháp thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn cố gắng; tinh tấn,
sách tâm, trì tâm khiến cho sanh khởi; đối với các pháp thiện đã
sanh, khởi lên ý muốn cố gắng; tinh tấn, sách tâm, trì tâm khiến
chúng được duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại,
được tu tập, được thỏa mãn. Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham,
bốn pháp này cần phải tu tập. 3. Ðể thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, bốn pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập như ý túc, thành
tựu với dục Thiền định tinh cần hành; tu tập như ý túc, thành tựu
với tinh tấn Thiền định tinh cần hành; tu tập như ý túc, thành tựu
với tâm Thiền định tinh cần hành; tu tập như ý túc, thành tựu với
tư duy Thiền định tinh cần hành. Ðể thắng tri tham, này các Tỷ-kheo, bốn pháp cần phải tu tập. 4. Ðể liễu tri, này các Tỷ-kheo, để đoạn diệt, đoạn tận,
trừ diệt, tiêu diệt, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, xả bỏ tham, bốn
pháp này cần phải tu tập. Ðể liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận, trừ diệt, tiêu diệt, ly
tham, đoạn diệt, từ bỏ, xả bỏ sân... si... phẫn nộ... hiềm hận...
gièm pha... nhiệt não... tật đố... xan tham... man trá... xảo trá... ngoan
cố... bồng bột... mạn... quá mạn... say mê... phóng dật, bốn pháp này cần
phải tu tập.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 25-05-2007