BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
VII. Ðại Phẩm
(I) (61) Xấu Hổ
1. - Khi tàm quý không có, này các Tỷ-kheo, với người thiếu tàm
quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự các
căn không có, với người thiếu chế ngự các căn, giới đi đến hủy
diệt. Khi giới không có, với người thiếu giới, chánh định đi
đến hủy diệt. Khi chánh định không có, với người không có chánh
định, tri kiến như thật đi đến hủy diệt. Khi tri kiến như
thật không có, với người thiếu tri kiến như thật, nhàm chán ly tham
đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán ly tham không có, với người thiếu
nhàm chán ly tham, giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt. Ví như,
này các Tỷ-kheo, một cây không có cành và lá, các mầm non của cây ấy
không đi đến thành mãn; vỏ trong, giác cây, lõi cây không đi đến
thành mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi tàm quý không có, với
người không có tàm quý, chế ngự các căn đi đến hủy diệt...
giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt. 2. Khi tàm quý có mặt, này các Tỷ-kheo, với người đầy đủ tàm
quý, chế ngự các căn đi đến đầy đủ. Khi chế ngự các căn
có mặt, với người đầy đủ chế ngự các căn, giới đi đến đầy đủ.
Khi giới có mặt, với người đầy đủ giới, chánh định đi đến đầy đủ.
Khi chánh định có mặt, với người đầy đủ chánh định, tri kiến như
thật đi đến đầy đủ. Khi tri kiến như thật có mặt, với người đầy
đủ tri kiến như thật, nhàm chán, ly tham đi đến đầy đủ. Khi nhàm
chán, ly tham có mặt, với người đầy đủ nhàm chán, ly tham, giải thoát tri
kiến đi đến đầy đủ. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây có cành
và lá, các mầm non của cây ấy đi đến thành mãn; vỏ trong, giác cây,
lõi cây đi đến thành mãn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi tàm quý
có mặt, với người đầy đủ tàm quý ... giải thoát tri kiến đi
đến đầy đủ. (II) (62) Mặt Trời 1. Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn ở Vesàlì, tại rừng Ambapàli. Tại đấy, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch
Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói
như sau: 2. - Này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường. Này các Tỷ-kheo, các
hành là không có kiên cố. Này các Tỷ-kheo, các hành là không an ổn. Cho
đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa
đủ để ly tham, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả hành. Núi
chúa Sineru, này các Tỷ-kheo, dài 84 ngàn do tuần, rộng 84 ngàn do tuần,
chìm xuống biển lớn 84 ngàn do tuần, nổi lên trên biển lớn 84 ngàn do
tuần. Này các Tỷ-kheo, rồi có thời, nhiều năm, nhiều trăm năm,
nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, trời không mưa. Khi không có
mưa, các loài chủng tử, các loài thực vật, các rừng rậm dược thảo đều
khô héo cằn cỗi không có tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
hành là vô thường. Này các Tỷ-kheo, các hành là không có kiên cố. Này
các Tỷ-kheo, các hành là không an ổn. Cho đến như vậy, này các
Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để ly tham, là vừa
đủ để giải thoát đối với tất cả các cành. Này các Tỷ-kheo, rồi
có thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ hai hiện ra. 3. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ hai có mặt, thời tất cả sông nhỏ,
ao nhỏ khô cạn, khô kiệt, không có tồn tại, như vậy, này các
Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa đủ để giải thoát đối
với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời gian
rất dài, mặt trời thứ ba hiện ra. 4. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ ba có mặt, thời các sông lớn như
sông Hằng, sống Yamunà, Aciravatì, Sarabhù, Mahì, các con sông ấy bị khô cạn,
bị khô kiệt, không có tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành
là vô thường... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.
Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời
thứ tư hiện ra. 5. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ tư hiện ra, thời các biển
hồ lớn, từ đấy các sông lớn chảy ra, ví như Anotattà, Sìhapapàtà,
Rathakàrà, Kannamunda, Kunàlà, Chaddantà, Mandàkinì, các biển hồ ấy bị
khô cạn, bị khô kiệt, không có tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các hành là vô thường... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả
các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời gian rất dài,
mặt trời thứ năm hiện ra. 6. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ năm hiện ra, thời nước các
biển lớn rút lui một trăm do tuần, nước các biển lớn rút lui hai trăm
do tuần, các nước biển lớn rút lui ba trăm do tuần... Nước các biển
lớn rút lui bảy trăm do tuần; nước các biển lớn dừng lại sâu đến
bảy cây sàla, sáu cây sàla, năm cây sàla, bốn cây sàla, ba cây sàla, hai
cây sàla, chỉ một cây sàla. Nước các biển lớn dừng lại, sâu đến
bảy đầu người, sâu đến sáu đầu người, năm đầu người, bốn đầu
người, ba đầu người, hai đầu người, một đầu người, nửa đầu người.
Nước các biển lớn dừng lại, sâu chỉ đến eo lưng của người, chỉ
đến đầu gối của người, chỉ đến mắt cá của người. Ví như này
các Tỷ-kheo, vào mùa thu khi trời mưa hạt lớn, chỗ này chỗ khác,
trong các dấu chân của các con bò cái, có những vũng nước nhỏ đọng
lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ còn những vũng nước nhỏ trong dấu
chân các con bò cái là nước của biển lớn còn lại, chỗ này chỗ
kia. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ năm hiện ra, nước biển lớn
chỉ bằng độ ngón tay. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô
thường... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành. Này các
Tỷ-kheo, rồi có một thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ sáu
hiện ra. 7. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ sáu hiện ra, thời đất lớn này
và núi chứa Sineru, sanh khói lên, thổi khói lên, phun khói lên. Ví như, này
các Tỷ-kheo, các lò của người thợ gốm mới đốt lửa lên, sanh khói lên,
phun khói lên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ sáu hiện
ra, thời đất lớn này và núi chúa Sineru sanh khói lên, thổi khói lên, phun
khói lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các hành là vô thường... là vừa
đủ để giải thoát đối với tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, rồi
có một thời, sau một thời gian rất dài, mặt trời thứ bảy hiện ra. 8. Này các Tỷ-kheo, khi mặt trời thứ bảy hiện ra, trái đất lớn này
và núi chúa Sineru bốc cháy, rực cháy, trở thành một màn lửa. Và khi quả
đất lớn này và núi chúa Sineru cháy đỏ lên, cháy rực lên ngọn lửa do
gió thổi bốc cao đến Phạm thiên giới. Các chóp ngọn của núi Sineru,
cao đến một, hai, ba, bốn, năm trăm do tuần, khi bị cháy đỏ lên, cháy
rực lên, bị cả khối lửa to lớn phá hoại và chinh phục, liền sụp đổ
xuống. Sau khi quả đất lớn và núi Sineru bị cháy đỏ lên, cháy rực lên,
không tìm thấy tro và lọ đen. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi bơ và dầu
được cháy đỏ, được cháy rực lên, không tìm thấy tro và lọ đen. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi quả đất lớn này và núi chúa Sineru bị cháy
đỏ lên, cháy rực lên, không tìm thấy tro và lọ đen. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các hành là vô thường. Này các Tỷ-kheo, các hành là không
kiên cố. Này các Tỷ-kheo, các hành là không an ổn. Cho đến như vậy,
này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để ly
tham, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả hành. Ở đây, này
các Tỷ-kheo, ai là người có thể nghĩ rằng, ai là người có thể
tin rằng: "Quả đất này và núi chúa Sineru sẽ bị đốt cháy, sẽ bị hủy
hoại, sẽ không còn tồn tại nữa", trừ những người đã được chứng
kiến. 9. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo Sư Sunetta thuộc ngoại đạo,
được ly tham trong các dục. Này các Tỷ-kheo, Ðạo Sư Sunetta có hàng trăm
người đệ tử. Ðạo Sư Sunetta thuyết pháp cho các đệ tử về
cọng trú với chư Thiên ở Phạm thiên giới. Và tất cả những ai nắm
hiểu một cách hoàn toàn trọn vẹn lời thuyết dạy của Sunetta,
về cọng trú với chư Thiên ở Phạm thiên giới, khi thân hoại mạng
chung, họ được sanh lên thiện thú Phạm thiên giới. Những ai không nắm
hiểu một cách hoàn toàn trọn vẹn lời dạy của Sunetta, sau khi thân
hoại mạng chung, một số được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa Tự
tại, một số được sanh cọng trú với chư Thiên ở Hóa Lạc thiên, một số
được sanh cọng trú với chư Thiên ở Ðâu-suất thiên, một số được sanh
cọng trú với chư Thiên ở Dạ-ma thiên, một số được sanh cọng trú
với chư Thiên ở Thiên giới Ba mươi ba, một số được sanh cọng trú với
chư Thiên ở Bốn Thiên vương, một số được sanh cọng trú với các đại
gia đình Sát-đế-lỵ, một số được sanh cọng trú với các đại gia
đình Bà-la-môn, một số được sanh cọng trú với các đại gia đình gia
chủ. 10. Rồi này các Tỷ-kheo, Ðạo Sư Sunetta suy nghĩ như sau: "Thật
không xứng đáng cho ta trong đời sau lại có một sanh thú giống như sanh thú
của các đệ tử. Vậy ta hãy tu tập tối thượng từ bi". Rồi này các
Tỷ-kheo, bậc Ðạo sư Sunetta trong bảy năm tu tập từ tâm. Sau khi tu tập từ
tâm bảy năm, trong bảy năm thành kiếp hoại kiếp, vị ấy không trở lui
lại thế giới này. Trong kiếp thành của thế giới, này các
Tỷ-kheo, vị ấy đi đến thế giới của Abhassara (Quang Âm thiên).
Trong kiếp hoại của thế giới, vị ấy được sanh trong Phạm cung trống
không. Tại đấy này các Tỷ-kheo, vị ấy là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên,
bậc chiến thắng, bậc vô năng, bậc biến tri, bậc tự tại. Ba mươi sáu
lần, này các Tỷ-kheo, vị ấy là Thiên chủ Sakka. Nhiều lần bảy lần,
vị ấy là vị Chuyển luân Thánh vương theo Chánh pháp, là vị pháp vương,
bậc chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh bình cho quốc độ, đầy
đủ bảy món báu. Vị ấy có hơn một ngàn người con trai, là những bậc anh
hùng, dũng mãnh, đánh tan địch quân. Và vị ấy chiến thắng quả đất này
xa cho đến hải biên, trị vì quả đất này không dùng trượng, không dùng
dao, đúng với Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Ðạo sư Sunetta ấy, dầu cho
thọ mạng lâu dài như vậy, sống lâu dài như vậy, nhưng không được
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu não. Ta nói rằng vị ấy chưa
giải thoát khỏi khổ. Vì cớ sao? Vì rằng vị ấy chưa giác ngộ, chưa thể
nhập bốn pháp. Thế nào là bốn? 11. Này các Tỷ-kheo, vì không giác ngộ, không thể nhập Thánh giới;
vì không giác ngộ, không thể nhập Thánh định; vì không giác ngộ, không
thể chấp Thánh trí tuệ, vì không giác ngộ, không thể nhập Thánh
giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự kiện là như sau: Khi Thánh giới được
giác ngộ, được thể nhập; khi Thánh trí tuệ được giác ngộ, được
thể nhập; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được thể nhập, cắt
đứt là hữu ái; sợi dây đưa đến sanh hữu được đoạn tận, nay không
có tái sanh. Thế Tôn nói như vậy. Bậc Thiện Thệ nói xong, bậc Ðạo Sư lại
nói thêm: Vô thượng giới và định, (III) (63) Thành Trì
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào một thành trì biên địa của vua được
khéo trang bị với bảy trang bị của một thành trì, và bốn loại đồ ăn có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc; có được không phí
sức, thời này các Tỷ-kheo, thành trì biên địa ấy được gọi là
không bị chinh phục bởi quân địch ở bên ngoài và kẻ đồng minh phản nghịch
ở bên trong. Thế nào là được khéo trang bị với bảy trang bị của một
thành trì? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
một cột trụ đâm sâu vào đất, khéo đào sâu, không bị dao động, không bị
lay chuyển. Với trang bị thành trì thứ nhất này là thành trì biên địa
của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong thành và
để chống cự những người bên ngoài. 3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có một
đường thông hào sâu và rộng. Với trang bị thành trì thứ hai này là thành
trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo vệ những người ở
trong thành và để chống cự những người bên ngoài. 4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có một
đường chạy vòng xung quanh vừa cao và vừa rộng. Với trang bị thành trì thứ
ba này của một thành trì, là thành trì biên địa của vua được khéo trang
bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những
người bên ngoài. 5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều vũ khí được cất chứa như Salàkam (cung tên) và Jevanìyam (cây lao)
với trang bị thành trì thứ tư này là thành trì biên địa của vua được
khéo trang bị, để bảo vệ những người ở trong thành và để chống
cự những người bên ngoài. 6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều quân đội đồn trú, như những người cưỡi voi, những người cưỡi
ngựa, những người cưỡi xe, những người cầm cung, những người cầm cờ, các
quan lo chỗ ở, các lính lo vấn đề lương thực, những người con vua
dõng mãnh, những bộ đội xung kích, đội voi lớn, các dũng sĩ, các binh sĩ
mặc áo giáp, những người con của các nô tỳ. Với trang bị thành trì thứ năm
này là thành trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo vệ
những người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. 7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua, có
người giữ cửa thành là người hiền trí, thông minh, có trí, ngăn chặn
những người lạ mặt, cho vào những người quen biết. Với sự trang bị thành
trì thứ sáu này là thành trì biên địa của vua được khéo trang bị, để
bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự những người bên
ngoài. 8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có bức
thành vừa cao vừa rộng, ngoài mặt có trét vôi hồ. Với sự trang bị thành trì
thứ bảy này là thành trì biên địa của vua được khéo trang bị, để bảo
vệ những người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Với bảy loại trang bị thành trì này, thành trì được xem là được khéo
trang bị. Thế nào là bốn loại đồ ăn có được không khó khăn, có
được không mệt nhọc, có được không phí sức? 9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều cỏ, củi, nước được tích trữ để những người ở trong thành
được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để chống cự những
người bên ngoài. 10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có cất
chứa nhiều lúa và lùa mì để những người ở trong thành được an vui,
khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để chống cự những người bên ngoài. 11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có cất
chứa nhiều mè, đậu, các loại giả đậu và ngũ cốc để những người
ở trong thành... để chống cự những người bên ngoài. 12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có cất
chứa nhiều dược phẩm, như thục tô, sanh tô, dầu, mật, đường bánh, muối
để những người ở trong thành... để chống cự những người bên ngoài. Bốn loại đồ ăn này, có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức. Khi nào, này các Tỷ-kheo, một thành trì biên địa của vua, được khéo
trang bị với bảy món trang bị này của một thành trì và bốn loại đồ ăn có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức, thời này các Tỷ-kheo, thành trì biên địa ấy được gọi là
không bị chinh phục bởi quân địch ở bên ngoài và kẻ đồng minh phản nghịch
ở bên trong. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Thánh đệ tử thành
tựu với bảy diệu pháp và bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện
tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có
được không phí sức, thời này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử này được
gọi là không bị Ma chinh phục, không bị ác chinh phục. Vị ấy thành tựu
bảy pháp gì? 13. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có một
cột trụ đâm sâu vào đất, khéo đóng, không bị dao động, không bị lay
chuyển để bảo vệ những người ở trong thành và để chống cự
những người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có
lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn". Với lòng tin làm cột trụ, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ
bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không có tội, gìn
giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ nhất này, vị ấy được thành
tựu. 14. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có một
con đường thông hào, vừa sâu và rộng để bảo vệ những người ở
trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng xấu hổ. Vị ấy xấu hổ vì thân làm ác,
vì miệng nói ác, vì ý nghĩ ác. Vị ấy xấu hổ vì bị rơi vào các
ác, bất thiện pháp. Lấy xấu hổ làm con đường thông hào, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có
tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu pháp thứ hai
này, vị ấy được thành tựu. 15. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có một
con đường đi vòng chung quanh, vừa cao vừa rộng để bảo vệ những
người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng sợ hãi, sợ hãi vì thân làm
ác, vì miệng nói ác, vì ý nghĩ ác. Vị ấy sợ hãi vì bị rơi vào
các ác, bất thiện pháp. Lấy sợ hãi làm con đường đi vòng xung quanh,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện,
từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu
pháp thứ ba này, vị ấy được thành tựu. 16. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều vũ khí được cất chứa, như cung tên và cây lao để bảo vệ
những người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử là người nghe nhiều, thọ
trì điều đã được nghe, cất chứa điều đã được nghe. Những pháp
nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên
Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh. Các pháp như vậy được nghe
nhiều, được thọ trì, được đọc cho thành thục, được ý
khéo tùy quán, được khéo thể nhập với tri kiến. Lấy nghe nhiều
làm vũ khí, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh.
Với diệu pháp thứ tư này, vị ấy được thành tựu. 17. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều quân đội đồn trú, như những người cưỡi voi, những người cưỡi
ngựa, những người cưỡi xe, những người cầm cung, những người cầm cờ, những
quan lo chỗ ở, các lính lo vấn đề lương thực, những người con vua
dõng mãnh, những bộ đội xung kích, đội voi lớn, các dũng sĩ, các binh sĩ
mặc áo giáp, những con của nô tỳ, để bảo vệ những người ở trong
thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận các
pháp bất thiện, để đầy đủ các pháp thiện, nỗ lực, kiên
trì, không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp. Lấy tinh tấn làm quân
đội, này các Tỷ-kheo, vị thiện nam tử từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với
diệu pháp thứ năm này, vị ấy được thành tựu. 18.Ví như, này các Tỷ kheo, trong thành trì biên địa của vua có
người giữ cửa thành là người hiền trí, thông minh, có trí, ngăn chặn
những người lạ mặt, cho vào những người quen biết để bảo vệ
những người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống có chánh niệm thành
tựu tối thắng niệm tuệ, nhớ đến và tùy niệm việc làm đã
lâu ngày, lời nói đã lâu ngày. Với niệm làm người giữ cửa thành, này
các Tỷ kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập thiện pháp
từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với diệu
pháp thứ sáu này, vị ấy được thành tựu. 19. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có bức
thành vừa cao vừa rộng, ngoài mặt trét vôi hồ để bảo vệ những
người ở trong thành và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử là người có trí tuệ, thành tựu
trí tuệ về sanh diệt, với sự Thánh thể nhập vào con đường
đưa đến đoạn tận khổ đau. Với trí tuệ làm lớp vôi hồ trét bên
ngoài, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ tự thân thanh tịnh. Với
diệu pháp thứ bảy này, vị ấy được thành tựu. Với bảy diệu pháp này, vị ấy thành tựu. Thế nào là bốn Thiền
thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có
được không mệt nhọc, có được không phí sức? 20. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều cỏ, củi, nước được tích trữ để những người ở trong thành
được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để chống những người
bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử ly dục, ly pháp
bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm có tứ để tự mình được an vui, khỏi sự lo ngại,
được lạc trú và để bước vào Niết-bàn. 21. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có cất
chứa nhiều lúa và lúa mì để những người ở trong thành được an vui,
khỏi sự lo ngại, được lạc trú để chống cự những người bên ngoài.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do tịnh chỉ tầm và tứ,
chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm để tự mình được an vui,
không phải lo ngại, được lạc trú và để bước vào Niết-bàn. 22. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có cất
chứa nhiều mè, đậu, các loại giả đậu và ngũ cốc để những người
trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được lạc trú và để chống cự
những người bên ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do ly
hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ
ba để tự mình được an vui, không phải lo ngại, được lạc trú và
để bước vào Niết-bàn. 23. Ví như, này các Tỷ-kheo, trong thành trì biên địa của vua có
nhiều dược phẩm được cất chứa ví như thục tô, dầu, mật, đường bánh,
muối để những người trong thành được an vui, khỏi sự lo ngại, được
lạc trú và để chống cự những người bên ngoài. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử, do đoạn lạc, do đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu
đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh, để tự mình được an vui, khỏi sự lo
ngại, được lạc trú và để bước vào Niết-bàn. Bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được
không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức. Này các Tỷ-kheo, khi nào Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp
này và bốn Thiền này, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đệ tử không bị ma chinh
phục, không bị ác chinh phục. (VI) (64) Pháp Trí 1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vị biết pháp,
biết nghĩa, biết tự ngã, biết ước lượng, biết thời, biết
hội chúng, biết người thắng kẻ liệt. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo biết pháp? 3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết pháp: Khế Kinh,
Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị
thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng. Này các Tỷ-kheo,
nếu Tỷ-kheo không biết pháp: Khế kinh, Ứng tụng... Phương
quảng, vị ấy ở đây không được gọi là vị biết pháp. Và này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết pháp: Khế kinh, Ứng tụng... Phương quảng; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết
pháp. Như vậy là biết pháp. Thế nào là biết nghĩa? 4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết ý nghĩa của lời
thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói
này, đây là ý nghĩa của lời nói này". Này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo không biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời
thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý
nghĩa của lời nói này", thời ở đây, vị ấy không được gọi là vị
biết nghĩa. Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết ý
nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý
nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này"; do vậy,
vị ấy được gọi là vị biết nghĩa. Ðây là biết pháp, biết
nghĩa. Thế nào là tự biết? 5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự biết; "Cho
đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí
tuệ, biện tài". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không
biết tự ngã như vầy: "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ
giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài", thời ở đây, vị
ấy không được gọi là vị biết tự ngã. Nếu Tỷ-kheo, này các
Tỷ-kheo, biết tự ngã: "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ
giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài"; do vậy, vị ấy
được gọi là vị biết tự ngã. Ðây là biết pháp, biết nghĩa,
tự biết. Và thế nào là biết ước lượng? 6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết ước lượng (vừa
đủ) trong khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết ước
lượng vừa đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, thời vị ấy ở đây không được gọi là vị
biết ước lượng vừa đủ. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết
ước lượng vừa đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh; do vậy vị ấy được gọi là vị biết
ước lượng vừa đủ. Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết,
biết ước lượng. Và thế nào là biết thời? 7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết thời: "Ðây là
thời để tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập,
đây là thời Thiền tịnh". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
không biết thời: "Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất
vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh", thời ở đây, vị
ấy được gọi là không biết thời. Và này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo biết thời: Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất
vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh"; do vậy, vị ấy
được gọi là vị biết thời. Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự
biết, biết vừa đủ, biết thời. Và thế nào là biết hội
chúng? 8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết hội chúng:
"Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn,
đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi
đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy,
nên im lặng như vậy". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không
biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội
chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở
đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên
nói như vậy, nên im lặng như vậy", thời ở đây, vị ấy không được
gọi là "Vị biết hội chúng". Và này các Tỷ-kheo, nếu
Tỷ-kheo biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ,
đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng
Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi
như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy"; do vậy, được gọi
là "Vị biết hội chúng". Ðây là biết pháp, biết nghĩa,
tự biết, biết vừa đủ, biết thời, biết hội chúng. Và thế
nào là biết người thắng liệt? 9. Ở đây, này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo, loài Người được
biết theo hai hạng: một hạng ưa thấy các bậc Thánh, một hạng không ưa
thấy các bậc Thánh. Người này không ưa thấy các bậc Thánh, do có việc
ấy, đáng bị quở trách. Còn người này ưa thấy các bậc Thánh, do việc
ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng người nghe diệu pháp: một hạng
người ưa nghe diệu pháp, một hạng người không ưa nghe diệu pháp.
Hạng người này không ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở
trách. Hạng người này ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng được
tán thán. Có hai hạng người nghe diệu pháp: một hạng người lắng tai nghe
diệu pháp, một hạng người không lắng tai nghe diệu pháp. Hạng người
này không lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách.
Hạng người này lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng được
tán thán. Có hai hạng người lắng tai nghe pháp: một hạng người nghe xong,
thọ trì pháp; một hạng người nghe xong, không thọ trì pháp. Người
này nghe xong không thọ trì pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách.
Người này nghe xong thọ trì pháp, do sự việc ấy, đáng được tán
thán. Có hai hạng người nghe xong thọ trì pháp: một hạng người quán sát
ý nghĩa các pháp được thọ trì, một hạng người không quán sát
ý nghĩa các pháp được thọ trì. Hạng người này không quán sát
ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được quở
trách. Hạng người này quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, do
sự việc ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng người quán sát ý
nghĩa các pháp được thọ trì: một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau
khi hiểu pháp, đã thực hành pháp; tùy pháp; một hạng người sau khi
hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không thực hành pháp, tùy pháp. Hạng
người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không thực hành pháp,
tùy pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này sau khi
hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc
ấy, đáng được tán thán. Có hai hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi
hiểu pháp đã thực hành pháp; tùy pháp: một hạng người thực hành với
mục đích tự lợi, không có lợi tha; một hạng người thực hành với mục đích
tự lợi và lợi tha. Hạng người này thực hành với mục đích tự lợi,
không có lợi tha, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này
thực hành với mục đích tự lợi và lợi tha, do sự việc ấy, đáng được
tán thán. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo, loài Người
được biết theo hai hạng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
biết hạng người thắng liệt. Do thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. (V) (65) Cây Kovilàra Pàricchattaka
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa bắt đầu khô héo lá, thời khi ấy, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở
cõi Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay lá của cây Kovilàra Pàricchattaka
đã khô héo, không bao lâu lá sẽ rụng". Này các Tỷ-kheo, trong khi
cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa rụng lá, thời khi ấy, này các
Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay cây
Kovilàra Pàricchattaka đã rụng lá, không bao lâu, mầm non cánh hoa sẽ mọc
ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa mọc ra mầm non cánh hoa, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka
mọc ra mầm non cánh hoa, không bao lâu, đọt non cánh hoa sẽ mọc
ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra Pàricchattaka mọc ra
đọt non cánh hoa, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa
hoan hỷ nghĩ rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka mọc ra đọt
non cánh hoa, không bao lâu các nụ hoa... sẽ được sanh ra". Này các
Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa sanh ra
nụ hoa, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ nghĩ
rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka sanh ra nụ hoa, không bao lâu, các
bông hoa sẽ được sanh ra". Này các Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra sanh
ra các bông hoa, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Thiên Tàvatimsa hoan
hỷ nghĩ rằng: "Nay cây Kovilàra Pàricchattaka sanh ra các bông hoa,
không bao lâu, các bông hoa sẽ được nở toàn diện". Này các
Tỷ-kheo, trong khi cây Kovilàra có bông hoa được nở toàn diện, này
các Tỷ-kheo, chư Thiên Tàvatimsa hoan hỷ, chơi đùa trong bốn tháng chư
Thiên, dưới gốc cây Kovilàra Pàricchattaka, vui chơi thọ hưởng, tận
hưởng năm dục công đức. Này các Tỷ-kheo, khi cây Kovilàra Pàricchattaka
nở toàn diện các bông hoa, mùi hương bay tràn xung quanh đến năm
mươi do tuần; thuận gió, mùi hương bay đến một trăm do tuần. Ðây là uy
lực của cây Kovilàra Pàricchattaka. 2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi Thánh đệ tử nghĩ đến xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo,
Thánh đệ tử như lá héo của cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi ấy Thánh đệ tử cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như cây Kovilàra Pàricchattaka của
chư Thiên Tàvatimsa bị lá rụng. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị Thánh
đệ tử ly dục... chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh
đệ tử như mầm non cánh hoa được sanh của cây Kovilàra Pàricchattaka của
chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi Thánh đệ tử làm cho
tịnh chỉ tầm và tứ... chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, trong khi ấy,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử như đọt non cánh hoa được sanh của
cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi Thánh đệ tử ly hỷ, trú xả...
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh
đệ tử như nụ hoa được sanh của cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên
Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị Thánh đệ tử đoạn lạc...
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy,
Thánh đệ tử như các bông hoa được sanh của cây Kovilàra Pàricchattaka
của chư Thiên Tàvatimsa. Này các Tỷ-kheo, trong khi vị Thánh đệ tử do
đoạn diệt các lậu hoặc... chứng ngộ, chứng đạt và an trú, này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, Thánh đệ tử như các bông hoa được nở toàn
diện của cây Kovilàra Pàricchattaka của chư Thiên Tàvatimsa. Này các
Tỷ-kheo, trong khi ấy, chư Ðịa thần tuyên bố lớn tiếng: "Vị Tôn
giả với tên họ thế này, đồng trú cùng một lòng tin với Tôn giả với
họ tên thế này đã xuất gia từ làng như vậy, từ thị trấn như vậy,
từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau khi đoạn diệt các lậu hoặc...
chứng ngộ, chứng đạt và an trú...". Sau khi nghe tiếng của chư Ðịa
thần, chư Thiên Bốn Thiên vương thiên... chư Thiên Tàvatimsa... chư Thiên
Yàma... chư Thiên Tusità... chư Thiên Hóa lạc thiên... chư Thiên Tha hóa Tự
tại... chư Thiên Phạm chúng tuyên bố lớn tiếng: "Vị Tôn giả với tên
họ thế này, đồng trú cùng một lòng tin với Tôn giả với họ tên
như thế này đã xuất gia từ làng như vậy, từ thị trấn như vậy, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, sau khi đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát". Như vậy trong sát-na ấy, trong giây phút ấy, tiếng ấy truyền
đến Phạm thiên giới. Ðây là uy lực của Tỷ-kheo đã đoạn tận các
lậu hoặc. (VI) (66) Vị Tỷ Kheo Phải Kính Trọng Ai? 1. Rồi Tôn giả Sàriputta, trong khi sống một mình, Thiền tịnh, tâm tư
suy nghĩ như sau khởi lên: "Vị Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống
nương tựa ai để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện?"
Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo cung kính tôn
trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Pháp...
chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật... Tỷ-kheo cung kính,
tôn trọng, sống nương tựa tiếp đón thân tình để có thể từ
bỏ bất thiện, tu tập thiện". Rồi Tôn giả Sàriputta lại suy nghĩ
như sau: "Những pháp này trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta
hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này, như
vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn
nữa. Ví như một người tìm được một đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh
trong sáng. Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến người thợ
vàng và đưa xem đồng tiền vàng này. Ðồng tiền vàng này được ta
đưa cho người thợ vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và trong sáng hơn
nữa". Cũng vậy, các pháp này ở nơi ta được thanh tịnh, trong sáng. Ta
hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này. Như
vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn
nữa". Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng
dậy đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn: 2. - Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con sống một mình Thiền
tịnh, tâm tư suy nghĩ như sau khởi lên nơi con: "Tỷ-kheo cung kính tôn
trọng, sống nương tựa ai để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện?" Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo
cung kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ
bất thiện, tu tập thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống
nương tựa Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật...
tiếp đón thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện".. Rồi bạch Thế Tôn, con lại suy nghĩ như sau: "Những
pháp này trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta hãy đi đến
Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này, như vậy các pháp này
sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa. Ví như một
người tìm được một đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh trong sáng. Người
ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến người thợ vàng và đưa xem
đồng tiền vàng này. Ðồng tiền vàng này được ta đưa cho người thợ
vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và trong sáng hơn nữa". Cũng vậy, các
pháp này ở nơi ta được thanh tịnh, trong sáng. Ta hãy đi đến Thế
Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này. Như vậy các pháp này sẽ
được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa". - Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính
tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư, có thể từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện. Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật...Này
Sariputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa tiếp đón
thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện. Khi được nói vậy, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn: 3. - Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu
ý nghĩa một cách rộng rãi như sau: Bạch Thế Tôn, chắc chắn
Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính Pháp, sự kiện này
không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, vị
ấy cũng không cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào
không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp sẽ cung kính chúng Tăng, sự
kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính
Ðạo Sư, không cung kính Pháp, vị ấy cũng không cung kính chúng Tăng. Bạch
Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung
kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, sẽ cung kính Học pháp, sự kiện
này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư,
không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, vị ấy cũng không cung kính
học pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo
Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học
pháp, sẽ cung kính Thiền định. Sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung
kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, vị ấy cũng không cung kính
Thiền định. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính
Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính
Học pháp, không cung kính Thiền định, sẽ cung kính không phóng dật,
sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung
kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung
kính Học pháp, không cung kính Thiền định, vị ấy cũng không cung kính
không phóng dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính
Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính
Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung kính không phóng dật,
sẽ cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy ra. Bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp,
không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính
Thiền định, không cung kính không phóng dật, vị ấy cũng không cung kính
tiếp đón thân tình. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, sẽ không cung kính
Pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung
kính Ðạo Sư, vị ấy cũng cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào
cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp sẽ không cung kính chúng Tăng, sự kiện
này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung
kính Pháp, vị ấy cũng cung kính chúng Tăng. Bạch Thế Tôn, chắc chắn vị
Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, sẽ
không cung kính Học pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, vị ấy
cũng cung kính học pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung
kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, sẽ
không cung kính Thiền định, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng,
cung kính Học pháp, vị ấy cũng cung kính Thiền định. Bạch Thế
Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính
chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, sẽ không cung
kính không phóng dật, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung
kính Học pháp, cung kính Thiền định, vị ấy cũng cung kính không phóng
dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính
Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định,
cung kính không phóng dật, sẽ không cung kính tiếp đón thân tình, sự
kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo
Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính
Thiền định, cung kính không phóng dật, vị ấy cũng cung kính tiếp đón
thân tình. Bạch Thế Tôn, với lời vắn tắt này của Thế Tôn, con
hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. 4. - Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta, với lời
nói vắn tắt này của Ta, Thầy đã hiểu một cách rộng rãi như vậy. Này
Sàriputta, thật vậy, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính
Pháp, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung
kính bậc Ðạo Sư, vị ấy cũng không cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị
Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư... không cung kính Pháp... không cung
kính chúng Tăng... không cung kính Học pháp... không cung kính Thiền
định... . không cung kính không phóng dật, sẽ cung kính tiếp đón thân
tình, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung
kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung
kính Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung kính, không cung
kính không phóng dật, vị ấy cũng không cung kính tiếp đón thân tình. Này Sàriputta, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo sư, sẽ không cung
kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, vị ấy cũng cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị
Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư... cung kính Pháp... cung kính chúng Tăng...
cung kính Học pháp... cung kính Thiền định... cung kính không phóng
dật, sẽ không cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy
ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính
chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, cung kính không
phóng dật, vị ấy cũng cung kính tiếp đón thân tình. Này Sàriputta, lời
nói vắn tắt này của Ta, ý nghĩa cần phải được thấy một cách rộng rãi
như vậy. (VII) (67) Sự Tu Tập
1. - Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không chí tâm trong sự tu tập khởi lên
ước muốn như sau: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ!" Tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập cái
gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ, không có tu tập Bốn chánh cần, không
có tu tập Bốn như ý túc, không có tu tập Năm căn, không có tu tập Năm
lực, không có tu tập Bảy Bồ-đề phần, không có tu tập Thánh đạo tám
ngành. Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà, không
được con gà mái ấp nằm đúng cách, không được ấp nóng đúng cách, không
được ấp dưỡng đúng cách. Dầu cho con gà mái ấy khởi lên ý muốn: "Mong rằng những con gà con
của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm
bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn, tuy vậy, các con gà con ấy
không có thể, với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi
làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn! Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà mái ấy
không được con gà mái nằm ấp một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng
đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không chú tâm trong sự tu tập,
dầu cho có khởi lên ý muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi
các lậu hoặc không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập cái
gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ... không có tu tập Thánh đạo tám ngành. 2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu cho
không khởi lên ước muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi
các lậu hoặc không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập cái gì? Có tu
tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc,
có tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập
Thánh đạo tám ngành. Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các
trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn,
ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý
muốn: "Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay
với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an
toàn!", tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu
hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách
an toàn. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà được con
gà mái ấy ấp nằm một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp
dưỡng một cách đúng đắn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm tu tập, dầu cho vị
ấy không khởi lên ý muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi
các lậu hoặc không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy vẫn được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Tu tập cái gì? Có tu tập
Bốn niệm xứ... có tu tập Thánh đạo tám ngành. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nề hay đệ tử người
thợ nề, khi nhìn vào cán búa, thấy dấu các ngón tay và dấu ngón tay cái.
Người ấy không có thể biết được như sau: "Hôm nay từng ấy cán
búa của ta bị hao mòn, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy". Nhưng
người ấy biết được cán búa bị hao mòn trên sự hao mòn của cán búa. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm trong sự tu tập không có
biết như sau: "Hôm nay từng ấy lậu hoặc của ta được đoạn tận, hôm
qua từng ấy, các ngày khác từng ấy". Nhưng vị ấy biết được các
lậu hoặc được đoạn tận trên sự đoạn tận các lậu hoặc. Ví như, này các Tỷ-kheo, một chiếc thuyền đi biển, có đầy
đủ cột buồm và dây buồm bị mắc cạn sáu tháng do thiếu nước trong mùa
đông, các cột buồm và dây buồm bị gió và mặt trời làm hư hỏng. Rồi bị
nước mưa đổ xuống trong mùa mưa, chúng bị hư dần và mục nát một cách dễ
dàng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập,
các kiết sử rất dễ bị yếu dần và mục nát. (VIII) (68) Lửa 1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn đang bộ hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại
chúng Tỷ-kheo. Trong khi đang đi trên con đường, Thế Tôn thấy tại một
địa điểm, một nhóm lửa lớn đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa
ngọn. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn, dưới một gốc cây. Ngồi xuống, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ,
cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt hơn:
ôm ấp, ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn, hay ôm ấp, ngồi gần, nằm gần tay chân mềm mại non
trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ, hay người con gái Bà-la-môn, hay
người con gái gia chủ? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Ôm ấp, ngồi gần, hay nằm gần
tay chân mềm mại non trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ, hay người
con gái Bà-la-môn, hay người con gái gia chủ. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là
ôm ấp, ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn! - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh,
đáng nghi ngờ những hành vi che đậy, không phải Sa-môn, nhưng tự nhận là
Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng tự nhận sống Phạm hạnh, nội tâm hôi
hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Thật là tốt hơn cho người ấy ôm
ấp, ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy
đỏ lửa ngọn. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo,
người ấy có thể đi đến chết, hay đi đến gần như chết,
nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi
một người ác giới theo ác pháp... tánh tình bất tịnh, ôm ấp, ngồi gần, hay
nằm gần tay chân mềm mại non trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ,
hay người con gái Bà-la-môn, hay người con gái gia chủ; như vậy, này các
Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. 2. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc gì là tốt hơn:
Một người lực sĩ, với sợi dây đuôi ngựa chắc chắn, cuốn vào hai ống chân
rồi siết mạnh, sợi dây ấy cắt đứt da ngoài, sau khi cắt đứt da ngoài,
lại cắt đứt da trong, sau khi cắt đứt da trong, lại cắt đứt thịt, sau khi cắt
đứt thịt, lại cắt đứt dây gân, sau khi cắt đứt dây gân, lại cắt đứt
xương, sau khi cắt đứt xương va chạm tủy và dừng lại; hay là nhận sự
đảnh lễ của các Sát-đế-lỵ đại phú hay các Bà-la-môn đại phú, hay
các gia chủ đại phú? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Nhận sự vái chào của các
Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là người lực sĩ, với sợi dây đuôi ngựa
chắc chắn... va chạm tủy và dừng lại. - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp,... ứ đầy tham
dục, tánh tình bất tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ, với sợi
dây đuôi ngựa chắc chắn... va chạm tủy và dừng lại. Vì cớ sao? Vì do nguyên
nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết, hay đi đến
khổ gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng
chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này
các Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, tánh tình bất tịnh,
nhận sự đảnh lễ của các Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn
đại phú, hay các đại gia chủ đại phú; như vậy khiến cho vị ấy bất
hạnh đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. 3. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt
hơn: Bị một người lực sĩ, với cây kiếm sắc bén, được dầu rửa sạch,
đập vào giữa ngực; hay là thọ nhận chấp tay vái chào của các
Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay gia chủ đại
phú? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn, (tức là) thọ nhận chấp
tay vái chào của các Sát-đế-lỵ, đại phú, hay các Bà-la-môn đại
phú, hay các gia chủ đại phú. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực
sĩ, với cây kiếm sắc bén, được dầu rửa sạch, đập vào giữa ngực. - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với cây gươm sắc bén, được
dầu rửa sạch, đập vào giữa ngực. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các
Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như
chết. Nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có
thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các
Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất tịnh,
thọ nhận chắp tay vái chào của các Sát-đế-lỵ đại phú, hay các
Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú; như vậy khiến cho vị ấy
bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. 4. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt
hơn: Bị một người lực sĩ với các tấm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ
rực, cháy đỏ lửa ngọn áp cuốn vào thân; hay là hưởng thọ y áo do
các Sát-đế-lỵ đại phú, hay Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn (tức là) hưởng thọ y áo
do các Sát-đế-lỵ đại phú, hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia
chủ đại phú vì lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị
người lực sĩ với các tấm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ
lửa ngọn áp cuốn vào thân. - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nêu rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các tấm sắt nóng đang cháy
đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn áp cuốn vào thân. Vì cớ sao? Vì do
nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi
đến khổ gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân
hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất
tịnh... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ các y áo, do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú, vì lòng tin cúng dường; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị
ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. 5. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào tốt hơn:
Bị một người lực sĩ với cái kềm sắt nóng, cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào miệng một hòn sắt nóng đang
cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, hòn sắt ấy đốt cháy môi
của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng,
đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ phần ở
dưới; hay là thọ hưởng đồ ăn khất thực do các Sát-đế-lỵ đại
phú, các Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Hưởng thọ các đồ ăn
khất thực do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú hay các
gia chủ đại phú vì lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là
người bị lực sĩ với cái kềm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào miệng một hòn sắt nóng
đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Hòn sắt ấy đốt cháy
môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ
họng, đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ
phần ở dưới. - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các kềm sắt nóng đang
cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào
miệng một hòn sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa
ngọn. Hòn sắt ấy đốt cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt
cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng, đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già
và thoát ra ngoài từ phần ở dưới. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các
Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như
chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có
thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các
Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh
tình bất tịnh, hưởng thọ các đồ ăn khất thực do các Sát-đế-lỵ
đại phú, các Bà-la-môn đại phú, do các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng
dường; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ
lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. 6. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt
hơn: Bị một người lực sĩ nắm lấy đầu hay nắm lấy vai, ép ngồi hay ép nằm
trên một giường sắt hay một ghế sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy đỏ lửa ngọn; hay là hưởng thọ giường ghế do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn: Hưởng thọ giường và
ghế do các nhà Sát-đế-lỵ đại phú... do các gia chủ đại phú vì
lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ nắm
lấy đầu hay nắm lấy vai, ép ngồi hay ép nằm trên một giường sắt hay một
ghế nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn! - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị một người lực sĩ nắm lấy đầu hay nắm lấy vai,
ép ngồi hay ép nằm trên một giường sắt hay một ghế sắt nóng đang cháy
đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy,
này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần
như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có
thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các
Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh
tình bất tịnh, hưởng thọ các giường ghế do các Sát-đế-lỵ
đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay do các gia chủ đại phú, vì lòng tin
cúng dường; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh, đau
khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. 7. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, việc nào là tốt
hơn: Bị một người lực sĩ nắm chân phía trên, đầu phía dưới và quăng vào
một ghè sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, tại
đấy, người ấy bị nấu sôi lên như bọt nước tự mình nổi lên, tự mình
chìm xuống, tự mình đi ngang; hay là hưởng thọ tinh xá do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú hay do các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường? - Bạch Thế Tôn, việc này là tốt hơn, hưởng thọ tinh xá do các
Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại
phú vì lòng tin cúng dường. Khổ đau, bạch Thế Tôn, là bị người lực sĩ
nắm chân phía trên, đầu phía dưới, và quăng người ấy vào trong một cái
ghè sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Tại đấy
bị nấu sôi... tự mình đi ngang. - Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy,
này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất
tịnh, thật là tốt hơn bị người lực sĩ nắm chân phía trên, đầu phía
dưới... tự mình đi ngang. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các
Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như
chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có
thể sanh vào cõi dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các
Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp... tánh tình bất tịnh,
hưởng thọ tinh xá, do các Sát-đế-lỵ đại phú... hay các gia chủ
đại phú, vì lòng tin cúng dường, như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho
người ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các
Thầy cần phải học tập như sau: "Chúng ta hưởng thọ các vật dụng
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh của những
ai, đối với những người ấy, sở hành như vậy sẽ có quả lớn, có lợi ích
hơn. Và sự xuất gia của chúng ta sẽ không có trống không, có kết quả,
có thành tích". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. 8. Này các Tỷ-kheo, với ai thấy được lợi ích của mình, thật là vừa
đủ để tinh cần, không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, với ai thấy được
lợi ích của người, thật là vừa đủ để tinh cần, không phóng dật. Này
các Tỷ-kheo, với ai thấy được lợi ích cả hai, thật là vừa đủ để
tinh cần, không phóng dật. Thế Tôn thuyết như vậy. Trong khi lời nói này được nói lên, có
khoảng sáu mươi vị Tỷ-kheo hộc máu nóng từ miệng, có khoảng sáu
mươi Tỷ-kheo từ bỏ học pháp và hoàn tục, nghĩ rằng: "Khó làm
thay, Thế Tôn! Thật khó làm thay, Thế Tôn!". Có khoảng sáu mươi
Tỷ-kheo, với tâm được giải thoát, không chấp thủ các lậu hoặc. (IX) (69) Sunetta
1. - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo Sư tên là Sunetta, thuộc ngoại
đạo, đã ly tham đối với các dục. Ðạo sư Sunetta, này các Tỷ-kheo, có
hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Sunetta thuyết pháp cho các đệ tử
để cọng trú với thế giới Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, những
ai tâm không hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Sunetta để
cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung, họ
phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo,
còn những ai tâm hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Sunetta
để cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung,
họ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. 2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo sư tên là Mùgapakkha... có Ðạo
sư tên là Aranemi... có Ðạo sư tên là Kuddàla... có Ðạo sư tên là
Hatthipàla... có Ðạo sư tên là Jotipàla... có Ðạo sư tên là Araka. Ðạo sư
Araka thuộc ngoại đạo đã ly tham đối với các dục. Ðạo sư Araka, này các
Tỷ-kheo, có hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Araka thuyết pháp cho các
đệ tử cọng trú với thế giới Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo,
những ai tâm không hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Araka
để cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung,
họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo,
còn những ai tâm hoan hỷ với cuộc thuyết pháp của Ðạo sư Araka
để cọng trú với thế giới Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung,
họ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. 3. Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, ai với tâm ác quở
trách, phỉ báng, bảy bậc Ðạo sư này thuộc ngoại đạo đã ly tham đối với
các dục, được hàng trăm chúng đệ tử đoanh vây, người ấy có tạo ra
nhiều điều vô phước không? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Này các Tỷ-kheo, ai với tâm quở trách, phỉ báng bảy Ðạo sư này,
thuộc ngoại đạo, đã ly tham đối với các dục, được hàng trăm chúng
đệ tử đoanh vây, người ấy tạo ra nhiều điều vô phước; còn ai
với ác tâm, quở trách phỉ báng một bậc đầy đủ chánh kiến, do vậy,
người này tạo ra nhiều điều vô phước hơn nữa. Vì cớ sao? Ta tuyên
bố không kham nhẫn một người như vậy, từ trong ra ngoài, đối với các vị
đồng Phạm hạnh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập
như sau: "Chúng ta sẽ không có tâm ác độc đối với các vị đồng Phạm
hạnh". Này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như vậy. (X) (70) Araka 1. - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Ðạo sư tên là Araka thuộc ngoại
đạo đã ly tham đối với các dục. Này các Tỷ-kheo, Ðạo sư Araka có
đến hàng trăm đệ tử. Ðạo sư Araka thuyết pháp cho các đệ
tử như sau: 2. " Này Bà-la-môn, ít oi là đời sống của loài Người, nhỏ bé, không
đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác
ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người đã sanh, không
có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, giọt sương trên đầu ngọn cỏ, khi
mặt trời mọc, mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, như giọt sương là đời sống loài Người, nhỏ bé, không
đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác
ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người đã sanh, không
có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, khi trời mưa nặng hạt, bong bóng nước
trên nước mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, như bong bóng nước là đời sống của loài Người, nhỏ bé, không
đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác
ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người đã sanh, không
có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, con sông trên núi chảy xa, dòng nước
chảy nhanh, lôi cuốn theo vật này vật khác, không có sát-na nào, không có
giây phút nào, không có thời khắc nào có dừng nghỉ, nó phải chảy tới, cuồn
cuộn chảy, thúc đẩy chảy tới. Cũng vậy, này Bà-la-môn, ví như con sông ấy
là đời sống của loài Người, nhỏ bé, không đáng kể... Với người đã
sanh, không có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn, người lực sĩ tụ lại một cục
nước miếng trên đầu lưỡi và nhổ đi không có phí sức. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, ví dụ với cục nước miếng là đời sống loài Người, nhỏ bé,
không đáng kể... Với người đã sanh, không có bất tử. Ví như, này
Bà-la-môn, một miếng thịt được quăng vào một nồi sắt được hâm nóng
cả ngày, mau chóng biến mất, không tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, ví như miếng thịt là đời sống con người, nhỏ bé, không
đáng kể... Với người đã sanh, không có bất tử. Ví như, này Bà-la-môn,
con bò cái sắp bị giết, được dắt đến lò thịt, mỗi bước chân
giơ lên là bước gần đến bị giết, gần đến chết. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, ví dụ với con bò cái sắp bị giết là đời sống con
người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với
bùa chú, hãy giác ngộ, hãy làm điều lành, hãy sống Phạm hạnh. Với
người đã sanh, không có bất tử". 3. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, tuổi thọ của loài Người lên
đến 60.000 năm. Người con gái 500 tuổi có thể đến tuổi lấy
chồng. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, loài Người có sáu loại bệnh:
lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện. Này các Tỷ-kheo,
bậc Ðạo sư Araka ấy, với loài Người thọ mạng dài như vậy, sống lâu
như vậy, ít bệnh như vậy, lại thuyết pháp cho các đệ tử như
vậy: "Ít oi, này Bà-la-môn, là đời sống loài Người, nhỏ bé không
đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với bùa chú, hãy giác
ngộ! Hãy làm điều lành, sống đời Phạm hạnh! Với người đã sanh, không
có bất tử". Nay, này các Tỷ-kheo, ai nói một cách chơn chánh, phải
nói như sau: "Ít oi, là đời sống loài Người, nhỏ bé, không đáng
kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não. Với trí tuệ, hãy giác ngộ!
Hãy làm điều lành, hãy sống Phạm hạnh! Với người đã sanh, không có
bất tử". Nay, này các Tỷ-kheo, ai sống lâu, vị ấy sống một trăm
tuổi, ít hơn hay nhiều hơn. Mạng sống 100 tuổi, này các Tỷ-kheo,
được chia thành 300 mùa: một trăm mùa đông, một trăm mùa hạ, một trăm mùa
mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho sống ba trăm mùa, người ấy sống 12 lần 100
tháng: 400 tháng lạnh, 400 tháng nóng, 400 tháng mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu
cho sống 12 lần 100 tháng, người ấy sống 24 lần một trăm nửa tháng: 800 nửa
tháng lạnh, 800 nửa tháng nóng, 800 nửa tháng mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu
cho sống 24 lần một trăm nửa tháng, người ấy sống 36 lần 1000 đêm: 12.000
đêm lạnh, 12.000 đêm nóng, 12.000 đêm mưa. Này các Tỷ-kheo, dầu cho sống
36 lần 1000 đêm, người ấy ăn chỉ có 72 ngàn bữa cơm: 24 ngàn bữa cơm vào
mùa lạnh, 24 ngàn bữa cơm vào mùa nóng, 24 ngàn bữa cơm vào mùa mưa. Ðây
gồm có với sữa mẹ và thời gian không có đồ ăn. Ở đây, có những khi
không có bữa ăn này, nghĩa là tức giận không ăn cơm, khổ đau không ăn
cơm, bịnh hoạn không ăn cơm, trai giới không ăn cơm, không thâu hoạch
được, không ăn cơm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, tuổi thọ một trăm năm của loài Người
được Ta gọi là tuổi thọ, được gọi là lượng của tuổi thọ,
được gọi là thời tiết, được gọi là năm, được gọi là
tháng, được gọi là nửa tháng, được gọi là đêm, được gọi là
đêm ngày, được gọi là bữa ăn, được gọi là giữa bữa ăn. 4. Này các Tỷ-kheo, những gì bậc Ðạo sư phải làm, vì hạnh phúc, vì
lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta đã làm, vì lòng thương
tưởng các Thầy. Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những
căn nhà không tịnh. Này các Tỷ-kheo, hãy Thiền định, chớ có phóng
dật, chớ hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta cho các Thầy.
VIII. Phẩm Về Luật
Trí tuệ và giải thoát,
Gotama danh tiếng,
Giác ngộ những pháp này.
Ðức Phật với thắng trí,
Thuyết pháp cho Tỷ-kheo,
Bậc Ðạo sư đoạn khổ,
Bậc Pháp nhãn tịch tịnh.
(I) (71) Trì Luật (1)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
Thế nào là bảy? 2. Biết vi phạm; biết không vi phạm; biết phạm nhẹ, biết phạm
nặng; có giới luật, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn; đầy
đủ uy nghi và chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và học tập trong các học pháp; bốn Thiền thuộc tăng thượng
tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức; do đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí ngay trong hiện tại chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. (II) (72) Trì Luật 2) 1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
Thế nào là bảy? 2. Biết vi phạm; biết không vi phạm; biết phạm nhẹ, biết phạm
nặng; cả hai giới bổn được khéo truyền lại một cách rộng rãi, khéo
phân loại, khéo điều chỉnh, khéo quyết định thành sutta và thành chi
tiết; bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có
được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức; do đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại
chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. (III) (73) Trì Luật (3)
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
Thế nào là bảy? 2. Biết vi phạm; biết không vi phạm; biết phạm nhẹ, biết phạm
nặng; biết an trú trên luật không thể bác bỏ được; bốn Thiền
thuộc tăng thượng tâm... có được không phí sức; do đoạn trừ các lậu hoặc
... tuệ giải thoát. Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. (IV) (74) Trì Luật (4) 1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật.
Thế nào là bảy? 2. Biết vi phạm; biết không vi phạm; biết phạm nhẹ, biết phạm nặng; nhớ đến
nhiều đời trước, như một đời, hai đời... như vậy, nhớ đến
nhiều đời trước với những đặc điểm, với những chi tiết; với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân... biết rõ chúng sanh; do đoạn trừ các
lậu hoặc, tự mình... tuệ giải thoát. Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật. (V - VIII) (75-78) Chói Sáng
1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc trì Luật
chói sáng. Thế nào là bảy? (Như trên, 71 - 74, chỉ khác thêm chữ chói sáng) (IX) (79) Thông Ðiệp 1. Rồi Tôn giả Upàli đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upàli bạch
Thế Tôn: - Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con một
cách vắn tắt, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình,
an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 2. - Này Upàli, những pháp nào Thầy biết: "Những pháp này không
được đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn", thời này Upàli, Thầy cần phải nhất
hướng thọ trì là: "Ðây không phải Pháp, đây không phải Luật, đây
không phải lời dạy Thế Tôn". Và này Upàli, những pháp nào Thầy
biết: "Những pháp này đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn", thời này
Upàli, Thầy cần phải nhất hướng thọ trì là: "Ðây là Pháp, đây là
Luật, đây là lời dạy Thế Tôn". (X) (80) Diệt Tránh Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, bảy pháp diệt tránh này đưa đến chấm
dứt, làm cho an tịnh các tranh luận tiếp tục khởi lên. Thế nào là
bảy? 2. Luật về sự hiện diện cần phải áp dụng. Luật về ức
niệm cần phải áp dụng. Luật về không si mê cần phải áp dụng. Luật
về tự thú nhận cần phải áp dụng. Luật về đa số cần phải áp dụng.
Luật về tìm tội ấy cần phải áp dụng. Luật về trải cỏ cần phải áp
dụng. Này các Tỷ-kheo, bảy pháp diệt tránh này đưa đến chấm dứt,
làm cho an tịnh các tranh luận tiếp tục khởi lên.
IX. Phẩm Các Kinh Không Nhiếp
[I]
(I) (1) Sự Phá Hoại
1.- Do phá hoại bảy pháp, này các Tỷ-kheo, thành vị Tỷ-kheo. Thế
nào là bảy? 2. Phá hoại kiến có thân, phá hoại nghi, phá hoại giới cấm thủ, phá
hoại tham, phá hoại sân, phá hoại si, phá hoại mạn. Do phá hoại bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, thành vị Tỷ-kheo. (II-VIII) (2-8) Các Pháp Khác 1. Này các Tỷ-kheo, do đoạn diệt bảy pháp, thành vị Sa-môn ... do
vất bỏ bảy pháp, thành vị Bà-la-môn ... Do tiêu diệt bảy pháp, thành vị
an lành ... Do gột sạch bảy pháp, thành vị đã gột sạch ... Do biết rõ
bảy pháp, thành bậc có trí ... Do phá hoại kẻ thù bảy pháp, thành vị Thánh
... Do chặn đứng bảy pháp, thành vị A-la-hán. Thế nào là bảy? 2. Chận đứng kiến có thân, chặn đứng nghi, chặn đứng giới cấm thủ,
chặn đứng tham, chặn đứng sân, chặn đứng si, chặn đứng mạn. Do chặn đứng bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, thành vị A-la-hán. (IX) (9) Phi Diệu Pháp
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy phi diệp pháp này. Thế nào là bảy?
2. Bất tín, không xấu hổ, không sợ hãi, không nghe nhiều, biếng
nhác, thất niệm, ác tuệ. Này các Tỷ-kheo, có bảy phi diệu pháp
này. (X)(10) Diệu Pháp 1.- Có bảy diệu pháp này, này các Tỷ-kheo. Thế nào là bảy? 2. Tín, xấu hổ, sợ hãi, nghe nhiều, tinh tấn, chánh niệm, có trí
tuệ. Này các Tỷ-kheo, có bảy diệu pháp này. [II] (I) (1) Người Xứng Ðáng Ðược Cung Kính
1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng người này, đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy? 2. Ở đời, này các Tỷ-kheo, có hạng người sống tùy quán vô
thường trên con mắt, tưởng vô thường, cảm thọ vô thường, trong tất cả
thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với tuệ thể
nhập. Vị ấy, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ nhất đáng
được cung kính ... là phước điền vô thượng ở đời. 3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có hạng người sống tùy quán vô thường
trên con mắt, tưởng vô thường, cảm thọ vô thường, trong tất cả thời,
liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với tuệ thể nhập.
Với vị ấy, sự chấm dứt các lậu hoặc và sự chấm dứt sanh mạng xảy đến
một lần, không trước không sau. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ
hai đáng được cung kính ... là phước điền vô thượng ở đời. 4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có hạng người sống tùy quán vô thường
trên con mắt, tưởng vô thường, thọ vô thường, trong tất cả thời, liên
tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với tuệ thể nhập. Vị
ấy sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung gian
Bát-Niết-bàn ... chứng được Vô hành Bát-Niết-bàn ... chứng được
Hữu hành Bát-Niết-bàn ... chứng được thượng lưu, đạt được Sắc cứu
cánh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ bảy đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Này các Tỷ-kheo, bảy hạng người này đáng được cung kính ... là
ruộng phước vô thượng ở đời. (II) (2) Các Người Khác Ðáng Ðược Cung Kính 1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy hạng người này, đáng được cung kính,
..... là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy? 2. Ở đây, có hạng người sống tùy quán khổ trên con mắt ... tùy quán
vô ngã trên con mắt ... tùy quán diệt tận trên con mắt ... tùy quán hoại
diệt trên con mắt ... tùy quán ly tham trên con mắt ... tùy quán đoạn
diệt trên con mắt ... tùy quán từ bỏ trên con mắt ... trên tai ... trên
mũi ... trên lưỡi ... trên thân ... trên ý ... trên các sắc ... trên các
tiếng ... trên các hương ... trên các vị ... trên các xúc ... trên các
pháp ... trên nhãn thức ... trên nhĩ thức ... trên tỷ thức ... trên thiệt
thức ... trên thân thức ... trên ý thức ... trên nhãn
xúc ... trên nhĩ xúc ....trên tỷ xúc.. trên thiệt xúc ... trên thân
xúc ... trên ý xúc ... trên thọ do nhãn xúc sanh ... trên thọ do
nhĩ xúc sanh ... trên thọ do tỷ xúc sanh ... trên thọ do thiệt
xúc sanh ... trên thọ do thân xúc sanh ... trên thọ do ý xúc sanh ...
trên sắc tưởng ... trên thanh tưởng ... trên hương tưởng ... trên vị tưởng
... trên xúc tưởng ... trên pháp tưởng ... trên sắc tư ... trên thanh tư ...
trên hương tư ... trên vị tư ... trên xúc tư ... trên pháp tư ... trên sắc
ái ... trên thanh ái... trên hương ái ... trên vị ái ... trên xúc ái ...
trên pháp ái ... trên sắc tầm... trên thanh tầm ... trên hương tầm ... trên
vị tầm ... trên xúc tầm ... trên pháp tầm ... trên sắc tứ ... trên thanh tứ
... trên hương tứ ... trên vị tứ ... trên xúc tứ ... trên pháp tứ ... trên
sắc uẩn ... trên thọ uẩn ... trên tưởng uẩn ... trên hành uẩn ... sống
tùy quán vô thường trên thức uẩn ... sống tùy quán khổ ... sống tùy quán
vô ngã ... sống tùy quán diệt tận ... sống tùy quán hoại diệt ...
sống tùy quán ly tham ... sống tùy quán đoạn diệt ... sống tùy quán từ
bỏ. [III] (I) (1) Thắng Tri Tham (1)
1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bảy? 2. Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, khinh an giác
chi, định giác chi, xả giác chi. Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham,
bảy pháp này cần phải tu tập. (II) (2) Thắng Tri Tham (2) 1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bảy? 2. Tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nguy hại,
tưởng đoạn tận, tưởng ly tham, tưởng đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo,
để thắng tri tham, bảy pháp này cần phải tu tập. (III) (3) Thắng Tri Tham (3)
1.- Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, bảy pháp cần phải tu tập.
Thế nào là bảy? 2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng yếm ly trên đồ ăn, tưởng
không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ
trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ. Này các Tỷ-kheo, để thắng
tri tham, bảy pháp này cần phải tu tập. (IV) (4) Thắng Tri Tham (4) 1. - Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham ... để hoàn toàn
diệt tận ... để đoạn tận ... để diệt tận ... để hoại
diệt ... để ly tham ... để đoạn diệt ... để xả bỏ ... để
từ bỏ ... để từ bỏ tham. Bảy pháp này cần phải tu tập. 2. Ðể thắng tri sân ... si ... phẫn nộ ... hiềm hận ... che đậy ...
não hại ... tật đố ... xan tham ... man trá ... lường gạt ... ngoan cố ... tháo
động ... mạn ... tăng thượng mạn ... kiêu, phóng dật ... để liễu tri
... để hoàn toàn diệt tận ... để đoạn tận ... để diệt
tận ... để hoại diệt ... để ly tham ... để đoạn diệt ...
để xả bỏ ... để từ bỏ ... để từ bỏ tham. Bảy pháp này cần phải tu
tập. Thế Tôn thuyết như vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tôn thuyết.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
last updated: 25-07-2007