BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
I. Phẩm Từ
(I) (1) Từ
1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Jetavanna, khu vườn Ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 2. - Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu
tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ
địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi
là có tám lợi ích. Thế nào là tám? 3. Ngủ được an lạc, dậy được an lạc, không thấy ác mộng, được người
ái mộ, được phi nhân ái mộ, được chư Thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc
hay kiếm không gia hại, nếu không thông đạt thượng vị, đạt được
Phạm Thiên giới. Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng,
được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm
như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành,
thời chờ đợi là có tám lợi ích này. Ai tu tập từ tâm (II) (2) Tuệ 1. - Này các Tỷ-kheo, có tám nhân này, có tám duyên này, khiến căn
bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ,
nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu
tập, được viên mãn. Thế nào là tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống dựa trên bậc Ðạo sư
hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm
quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng. Này các
Tỷ-kheo, đây là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất khiến căn bản Phạm
hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng
được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên
mãn. 3. Vị ấy do sống dựa trên bậc Ðạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai
trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái
mộ, được kính trọng, thường đi đến họ hỏi đi hỏi lại:
"Thưa Tôn giả, cái này là thế nào? Ý nghĩa cái này là gì? "
Các Tôn giả ấy mở rộng nhưng gì được mở rộng, phơi bày những gì không
được phơi bày, và đối với những pháp còn đang nghi vấn, họ giải tỏa
những nghi vấn. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ hai, duyên thứ hai
khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với
trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng,
được tu tập, được viên mãn. 4. Vị ấy sau khi nghe pháp, cố gắng thành tựu hai sự an tịnh: Thân an tịnh
và tâm an tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ ba ... được viên mãn. 5. Vị ấy có giới đức, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn,
đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và học tập các học pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ
tư ... được viên mãn. 6. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều đã nghe, chất chứa điều
đã nghe; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa
lý văn cú cụ túc, đề cao đời sống Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh;
những pháp ấy, vị ất đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ tụng
đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập chánh
kiến. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ năm ... được viên mãn. 7. Vị ấy tinh cần tinh tấn, để đoạn tận các pháp bất thiện,
để làm sanh khởi các pháp thiện, nỗ lực kiên trì, không bỏ rơi
gánh nặng đối với các pháp thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ
sáu... được viên mãn. 8. Vị ấy đi đến chư Tăng, không là người nói nhiều, không nói
chuyện phù phiếm, tự mình nói pháp hay mời người khác nói, không
khinh thường sự im lặng của bậc Thánh. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ
bảy ... được viên mãn. 9. Vị ấy sống tùy quán sanh diệt trong năm uẩn: "Ðây là sắc,
đây là sắc tập khởi; đây là sắc chấm dứt; Ðây là thọ, đây là
thọ tập khởi; đây là thọ chấm dứt; đây là tưởng ... đây là hành
... Ðây là thức, đây là thức tập khởi; đây là thức chấm dứt". Này
các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tám, duyên thứ tám, khiến căn bản Phạm
hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng
được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên
mãn. 10. Các vị đồng Phạm hạnh quý mến vị ấy như sau: "Tôn giả
này sống nương tựa vào bậc Ðạo sư hay một vị đồng Phạm hạnh đóng vai
trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái
mộ, được kính trọng. Thật vậy, Tôn giả này biết điều đáng
biết, thấy điều đáng thấy". Ðây là pháp đưa đến được ái
mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần
nhất. 11. Tôn giả này sống nương tựa vào bậc Ðạo sư, hay bậc đồng Phạm hạnh
đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo,
được ái mộ, được kính trọng ... (như số 3 ở trên) ... họ giải tỏa
những nghi vấn ấy. Ðây là pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính,
được tu tập, đưa đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất. 12. Tôn giả này sau khi nghe pháp (như số 4 ở trên) ... tâm an tịnh. Ðây
là pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa
đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất. 13. Tôn giả này có giới đức ... (như số 5 ở trên) ... học tập trong
các học pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp ... thuần nhất. 14. Tôn giả này nghe nhiều ... (như số 6) ... khéo thành tựu chánh
kiến. Ðây là pháp ... thuần nhất. 15. Tôn giả này sống tinh cần tinh tấn ... (như số 7 ở trên) ... đối với
các pháp thiện. Ðây là pháp ... thuần nhất. 16. Tôn giả này đi đến Tăng chúng ... (như số 8 ở trên) ... sự im
lặng của bậc Thánh. Ðây là pháp ... thuần nhất. 17. Tôn giả này sống tùy quán sanh diệt trong năm uẩn... (như số 9
ở trên) ... đây là thức chấm dứt, đây là pháp đưa đến được ái mộ,
được cung kính, được tu tập, đưa đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần
nhất. Này các Tỷ-kheo, tám nhân này, tám duyên này khiến cho căn bản
Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ, nếu
chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được
viên mãn. (III) (3) Các Pháp Không Ðược Ái Mộ (1)
1. - Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được
các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước.
Thế nào là tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tán thán những người không
được ái mộ, chỉ trích những người được ái mộ, ưa lợi dưỡng, ưa được
cung kính, không có lòng xấu hổ, không có sợ hãi, ác dục và có tà
kiến. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các
đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước. 3. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các
đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là tám? 4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không tán thán những người
không được ái mộ, không chỉ trích những người được ái mộ, không ưa lợi
dưỡng, không ưa được cung kính, có lòng xấu hổ, có sợ hãi, ít dục và có
chánh kiến. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt chước. (IV) (4) Các Pháp Không Ðược Ái Mộ (2) 1. - Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được
các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, cung kính và bắt chước. Thế nào
là tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ưa lợi dưỡng, ưa cung kính,
ưa được tán thán, không biết thời, không biết vừa đủ, không trong
sạch, nói nhiều, mắng nhiếc quở trách đối với các đồng Phạm hạnh. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các
đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, cung kính và bắt chước. 3. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các
đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, và bắt chước. Thế nào là tám? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không ưa lợi dưỡng, không ưa
cung kính, không ưa được tán thán, biết thời, biết vừa đủ, trong
sạch, không nói nhiều, không mắng nhiếc quở trách đối với các đồng
Phạm hạnh. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng
Phạm hạnh ái mộ, thích ý, cung kính và bắt chước. (V) (5) Tùy Chuyển Thế Giới (1)
1. - Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế
giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào
là tám? 2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán
và chỉ trích, lạc và khổ. Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới.
Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
(VI) (6) Tùy Chuyển Thế Giới (2) 1.- Tám thế gian pháp này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế
giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào
là tám? 2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán
và chỉ trích, an lạc và đau khổ. Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới.
Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. 3. Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng,
không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ. Với vị
Thánh đệ tử nghe pháp, cũng sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh
vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc thù gì, thù thắng gì, có sai
khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ phàm phu không có nghe pháp? - Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn
làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế
Tôn, xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe
Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì. - Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 4. - Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi
dưỡng. Vị ấy không có suy tư: "Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi
dưỡng ấy vô thường, khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật rõ
biết ... khởi lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh vọng ... khởi lên
không danh vọng ... khởi lên tán thán ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên
an lạc ... khởi lên khổ đau. Vị ấy không có suy tư: "Khổ này khởi lên
nơi ta, khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật
rõ biết, rằng lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không
lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, danh vọng xâm nhập tâm
của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và
an trú, tán thán xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú,
đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và an trú". Người ấy thuận ứng với
lợi dưỡng được khởi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng; thuận ứng
với danh vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng; thuận
ứng với tán thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích; thuận ứng
với an lạc được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ; Người ấy đầy đủ
thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh, già, chết,
sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi khổ. 5. Với vị Thánh đệ tử có nghe pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi
dưỡng. Vị ấy có suy tư: "Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy
vô thường, đau khổ, biến hoại". Vị ấy như thật rõ biết ... khởi
lên không lợi dưỡng ... khởi lên danh vọng ... khởi lên không danh
vọng ... khởi lên tán thán ... khởi lên chỉ trích ... khởi lên an lạc ...
khởi lên khổ đau. Vị ấy có suy tư: "Ðau khổ này khởi lên nơi ta, đau
khổ ấy là vô thường, khổ đau, biến hoại". Vị ấy như thật rõ
biết, rằng lợi dưỡng này không xâm nhập tâm của vị ấy và an trú, không
lợi dưỡng ...., danh vọng....., không danh vọng .... tán
thán... chỉ trích... an lạc... đau khổ không xâm nhập tâm của vị ấy và an trú. Vị
ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên, không nghịch ứng với
không lợi dưỡng; không thuận ứng với danh vọng được khởi lên, không
nghịch ứng với không danh vọng; không thuận ứng với tán thán được khởi
lên, không nghịch ứng với chỉ trích; không thuận ứng với an lạc được khởi
lên, không nghịch ứng với đau khổ; Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng
như vậy, nên giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta
nói rằng, vị ấy thoát khỏi khổ. Ðây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai
biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe
pháp. Lợi dưỡng, không lợi dưỡng, (VII) (7) Devadatta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakùta
(Linh Thứu) sau khi Devadatta bỏ đi không bao lâu. Tại đấy, nhân việc
Devadatta, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự
vi phạm của mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường
quan sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của mình. Lành thay, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của người
khác. Do bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này các
Tỷ-kheo, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả
một kiếp, không được cứu khỏi. Thế nào là tám? 3. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa ngục sống tại đấy cả một kiếp,
không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng chinh phục, ... bị
danh vọng chinh phục ... bị không danh vọng chinh phục ... bị cung kính
chinh phục ... bị không cung kính chinh phục... bị ác dục chinh phục ... bị ác
bằng hữu chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ,
địa ngục, sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ kheo, bị tám phi diệu pháp này chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, Devadatta bị sanh vào đoạ xứ, địa ngục, sống tại đây cả một
kiếp, không được cứu khỏi. 4. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chinh phục lợi dưỡng
được sanh khởi ... không lợi dưỡng được sanh khởi ... danh vọng được
sanh khởi ... không danh vọng được sanh khởi ... cung kính được sanh khởi
... không cung kính được ác dục được sanh khởi ... ác bằng hữu được sanh
khởi ... Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do duyên mục đích gì cần phải
sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi ? Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên,
các lậu hoặc tổn hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục, lợi dưỡng
được khởi lên. Như vậy các lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có
mặt. Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục không lợi dưỡng được
khởi lên, ... danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ...
không cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu
được khởi lên, các lậu hoặc tổn hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh
phục ác bằng hữu khởi lên, như vậy các lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy
không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do duyên mục đích này, Tỷ-kheo sống
chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên, ... danh vọng được khởi lên ...
cung kính được khởi lên ... không cung kính được khởi lên ... ác dục
được khởi lên ... ác bằng hữu được khởi lên. Do vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải học tập như sau: 5. "Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên ... không lợi
dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi lên ... không danh vọng
được khởi lên ... cung kính được khởi lên ... không cung kính được khởi
lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được khởi lên". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. (VIII) (8) Tôn Giả Uttara 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, tại
Dhavajàlikà. Lúc bấy giờ, Tôn giả Uttara bảo các Tỷ-kheo: 2. - Lành thay, này chư hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi
phạm của mình. Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan
sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự thành đạt của mình. Lành thay, này chư Hiền,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của người khác. 3. Lúc bấy giờ, đại vương Vessavana đang đi từ phương Bắc đến
phương nam, vì một vài công việc, đại vương Vessavana nghe Tôn giả Uttara
trú ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp như
vậy cho các Tỷ-kheo,: "Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường
thường quan sát ... sự thành đạt của người khác". 4. Rồi đại vương Vessavana như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co
lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy biến mất ở Mahisavatthu,
trên núi Sankheyyaka, ở Dhavajàlikà và hiện ra trước mặt chư Thiên ở cõi
Ba mươi ba. Rồi đại vương Vessavana đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi
đến nói với Thiên chủ Sakka: - Ngài có biết chăng Tôn giả Uttara tại Mahisavatthu, trên núi
Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
"Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát ... sự
thành đạt của người khác". 5. Rồi Thiên chủ Sakka như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay
co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy biến mất trước chư Thiên cõi
trời Ba mươi ba, hiện ra ở Mahisavatthu, trên núi trên núi Sankheyyaka, ở
Dhavajàlikà, trước mặt Tôn giả Uttara. Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Tôn
giả Uttara; sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Uttara rồi đứng một bên. Ðứng
một bên, Thiên chủ Sakka nói với Tôn giả Uttara: - Thưa Tôn giả, có thật chăng, Tôn giả Uttara thuyết pháp cho các
Tỷ kheo như sau : "Lành thay , này chư Hiền, Tỷ kheo thường
thường quan sát... sự thành đạt của người khác" ? - Thưa có vậy, này Thiên chủ. - Thưa Tôn giả, đây là Tôn giả Uttara tự nói hay là lời của Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác? 6. - Vậy này Thiên chủ, ta sẽ làm một ví dụ cho người, nhờ ví dụ ở
đây, một số những người có trí hiểu rõ ý nghĩa của lời nói. Ví
như, này Thiên chủ, có một đống lúa lớn không xa làng, hay thị trấn, và
quần chúng từ nơi đống lúa ấy mang lúa đi, hoặc trên đòn gánh, hoặc trong
thùng, hoặc bên hông, hoặc với bàn tay. Này Thiên chủ, nếu có ai đến
đám quần chúng ấy và hỏi như sau: "Các người mang lúa này từ đâu?
" Này Thiên chủ, đám quần chúng ấy cần phải đáp như thế nào
để có thể đáp một cách chơn chánh? - Thưa Tôn giả, đám quần chúng ấy muốn đáp một cách chơn chánh, cần
phải đáp như sau: "Thưa Tôn giả, chúng tôi mang lúa từ nơi đống lúa
lớn này". - Cũng vậy, này Thiên chủ, điều gì khéo nói, tất cả là lời nói của
Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa
lên trên ấy, chúng tôi và các người khác nói lên. 7. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả!
Thật là khéo nói là lời nói này của Tôn giả Uttara: "Tất cả là lời
nói của Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Dựa lên trên
ấy, dựa lên trên ấy, chúng tôi và các người khác nói lên ". Một thời,
thưa Tôn giả Uttara, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại núi
Gijjhakùta, sau khi Devadatta bỏ đi không bao lâu. Tại đấy, Thế Tôn nhân
việc Devadatta, bảo các Tỷ-kheo: - Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi
phạm của mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan
sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự chứng đạt của mình. Lành thay, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của người
khác. Do bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm, này các
Tỷ-kheo, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả
một kiếp, không được cứu khỏi. Thế nào là tám? Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa ngục sống tại đấy cả một kiếp,
không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo, bị không lợi dưỡng chinh phục, ... bị
danh vọng chinh phục ... bị không danh vọng chinh phục ... bị cung kính
chinh phục ... bị không cung kính chinh phục... bị ác dục chinh phục ... bị ác
bằng hữu chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ,
địa ngục, sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ kheo, bị tám phi diệu pháp này chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, Devadatta bị sanh vào đoạ xứ, địa ngục, sống tại đây cả một
kiếp, không được cứu khỏi. "Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống có thể chinh phục
lợi dưỡng được sanh khởi, ... không lợi dưỡng được sanh khởi ... danh
vọng được sanh khởi ... không danh vọng được sanh khởi ... cung kính
được sanh khởi ... không cung kính được sanh khởi ... ác dục được sanh
khởi ... ác bằng hữu được sanh khởi ... " 8. "Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do duyên mục đích gì phải sống
chinh phục lợi dưỡng được khởi lên? Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh
phục lợi dưỡng được khởi lên, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não
sanh khởi. Do sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên, như vậy, các lậu
hoặc, các tổn hại, nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do
sống chinh phục không lợi dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi
lên ... không danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ... không
cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được
khởi lên, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não khởi lên, như vậy các
lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo,
do duyên mục đích này, Tỷ-kheo phải sống chinh phục lợi dưỡng được
khởi lên ... không lợi dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi
lên ... không danh vọng được khởi lên ... cung kính được khởi lên ... không
cung kính được khởi lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được
khởi lên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau:
9. "Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên ... không lợi
dưỡng được khởi lên ... danh vọng được khởi lên ... không danh vọng
được khởi lên ... cung kính được khởi lên ... không cung kính được khởi
lên ... ác dục được khởi lên ... ác bằng hữu được khởi lên". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. 10. Cho đến nay, thưa Tôn giả Uttara, trong bốn hội chúng giữa loài người:
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, pháp môn này không được
một ai thiết lập. Thưa Tôn giả, Tôn giả Uttara hãy học pháp môn này.
Thưa Tôn giả, Tôn giả Uttara hãy học thuộc lòng pháp môn này. Thưa Tôn
giả, Tôn giả Uttara hãy thọ trì pháp môn này. Thưa Tôn giả, pháp môn
này liên hệ đến mục đích, là căn bản Phạm hạnh. (XI) (9) Tôn Giả Nanda
1. - Này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh về Nanda, có thể
nói như sau: "Là Thiện nam tử". Này các Tỷ-kheo, nói một cách
chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau: "Là vị có sức
mạnh". Này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh về Nanda, có
thể nói như sau: "Là vị có tịnh tín". Này các Tỷ-kheo, nói
một cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau: "Là vị có chánh niệm sắc bén". Ai khác ngoài Nanda, này các Tỷ-kheo, thành tựu chế ngự các căn,
biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh
giác? Nhờ vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là sự chế ngự các căn của
Nanda. Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải nhìn về phương Ðông, tập trung
tất cả tâm, Nanda nhìn về hướng Ðông và suy nghĩ: "Như vậy, khi Ta
đang nhìn về hướng Ðông, thời tham, ưu, các ác bất thiện pháp sẽ
không có xâm nhập". Như vậy, ở đây vị ấy tỉnh giác. Này các
Tỷ-kheo, nếu Nanda phải nhìn về phương Tây ... nhìn về phương
Bắc ... về phương Nam ... ngước nhìn lên Trên ... cúi nhìn về phương
Dưới ... hay nhìn về hướng giữa các phương chính, tập trung tất cả tâm,
Nanda nhìn về hướng giữa các phương chính và suy nghĩ: "Như vậy, khi
ta đang nhìn về hướng giữa các phương chính, thời tham, ưu, các ác bất
thiện pháp sẽ không có xâm nhập ". Như vậy, ở đây, vị ấy tỉnh
giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda chế ngự các căn. 3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda tiết độ trong ăn uống. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda với chánh tư duy thọ dụng các
món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải
để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân
này được an trú và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương
hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy chúng ta diệt
trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và chúng
ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda tiết độ trong ăn uống. 4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda chú tâm cảnh giác. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda ban ngày đi kinh hành hay trong khi
ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm canh một đi
kinh hành, hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng
ngại. Ban đêm, canh giữa, Nanda nằm dáng nằm con sư tử, bên hông tay phải,
một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm nghĩ đến thức
dậy lại. Ban đêm, canh cuối thức dậy, đi kinh hành hay trong khi ngồi, Nanda
tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Này các Tỷ-kheo, như vậy Nanda chú tâm cảnh giác. 5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda chánh niệm tỉnh giác. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda rõ biết khi các thọ khởi lên,
rõ biết khi các thọ an trú, rõ biết khi các thọ chấm dứt ...
rõ biết khi các tưởng ... rõ biết khi các tầm khởi lên, rõ biết
khi các tầm an trú, rõ biết khi các tầm chấm dứt. Này các Tỷ-kheo, đây là Nanda chánh niệm tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, ai khác ngoài Nanda, thành tựu chế ngự các căn,
biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh
giác? Nhờ vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. (X) (10) Các Ðồ Rác 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Campà, trên bờ hồ Gaggarà. Lúc bấy giờ,
các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo phạm tội. Vị ấy bị các Tỷ-kheo
buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, hướng câu
chuyện ra ngoài, và hiện tướng phẫn nộ, sân hận và bất mãn. Rồi
Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, hãy đuổi người này ra! Này các Tỷ-kheo, hãy
tẩn xuất người này ra! Này các Tỷ-kheo, người này đáng bị khai trừ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn
lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy,
như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các Tỷ-kheo
không thấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy phạm tội, họ biết
người này là như sau: "Người này là Sa-môn ô uế, họ là Sa-môn
rơm rạ, là Sa-môn rác rưởi. Khi biết như vậy, họ đuổi người ấy ra
ngoài. Vì sao? Chớ để cho người ấy làm ô uế các Tỷ kheo hiền
thiện khác. 3. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một ruộng lúa mì đã đầy đủ cây lúa
mì ô nhiễm, cây lúa mì rơm rạ, cây lúa mì rác rưởi được mọc lên
với rễ như vậy, giống như các cây lúa mì hiền thiện khác. Với cành
lá như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện khác; Với lá là
như vậy, giống như những cây lúa mì hiền thiện khác, cho đến khi
nào đầu ngọn lúa chưa mọc ra. Khi đầu ngọn lúa mọc ra, họ
biết: "Ðây là cây lúa mì hoang, đây là cây lúa mì rơm rạ, cây
lúa mì rác rưởi". Sau khi biết như vậy, họ nhổ cây lúa mì ấy
lên, luôn cả rễ, và quăng cây lúa mì ấy ra khỏi ruộng lúa. Vì cớ sao?
Họ nói: "Ðừng để cho cây lúa mì làm uế nhiễm các cây lúa
mì hiền thiện khác". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y, như
vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các
Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy
người ấy phạm tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn giả
hiệu, Sa-môn rơm, Sa-môn rác". Sau khi biết người ấy là như vậy,
họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao? "Chớ để cho người ấy
làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác ". 4. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một đống lúa lớn đang được sàng
quạt, tại đấy, các hột lúa nào chắc cứng, có hạt, chúng được chất thành
đống một bên; còn những hạt lúa nào yếu kém, chỉ là rơm, thời được
gió thổi tạt qua một bên, và người chủ, với cây chổi, quét chúng còn xa
hơn nữa. Vì cớ sao? "Chớ để cho lúa ấy làm uế nhiễm các hạt
lúa hiền thiện khác ". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y, như
vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi nào các
Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy
người ấy phạm tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn ô
uế, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết người ấy là
như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao? "Chớ để cho
người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác ". 5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người cần một số ống nước, lấy một
cây búa sắc bén và đi vào rừng, và với cán cây búa ấy, gõ vào thân cây
này hay thân cây khác. Ở đây, những cây nào chắc cứng, có lõi, khi
được cán búa gõ vào, tiếng vang dội được tròn cứng. Còn những cây
nào ở giữa bị mục nát, không có lõi (đầy ứ bất tịnh) nhơ bẩn, khi được
cán búa gõ vào, tiếng vang dội lép xẹp. Người ấy chặt cây ấy, chặt gốc
; sau khi chặt gốc, người ấy chặt ngọn; sau khi chặt ngọn, người ấy
rửa phía trong của cây cho thật sạch; khi rửa phía trong cho thật sạch rồi,
người ấy nối liền các ống ấy lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, khi nào một người đi ra, đi vào,
nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và y, như
vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến khi các
Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy
người ấy phạm tội, họ biết được: "Người này là Sa-môn giả
hiệu, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết người ấy là
như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao? "Chớ để cho
người ấy làm uế nhiễm các Tỷ kheo hiền thiện khác ". Thầy có thể biết được
II. Phẩm Lớn
Vô lượng thường ức niệm
Các kiết sử yếu dần
Thấy được sanh y diệt
Với tâm không ác độc
Từ mẫn mọi chúng sanh
Do vậy, vị ấy thành
Bậc thuần nhất chí thiện
Với tâm ý từ mẫn
Ðối với mọi chúng sanh
Bậc Thánh khéo thực hiện
Nhiều công đức tốt lành
Sau khi đã chinh phục
Rất đông đảo loài người
Các ẩn sĩ vua chúa
Theo nghi lễ tế tự
Lễ tế ngựa tế người
Lễ uống nước thắng trận
Lễ ném cầu may rủi
Lễ rút lui khóa cửa
Không được phần mười sáu
Bậc khéo tu từ tâm
Như ánh sáng mặt trăng
Ðối với các quần sao
Không giết, không bảo giết
Không thắng, không bảo thắng
Từ tâm mọi chúng sanh
Không hận thù với ai.
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia.
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia.
Người này Thầy chung sống
Ái dục và phẫn nộ
Dèm pha và ngoan cố
Não hại và tật đố
Xan tham và man trá
Nói nhu hòa giữa người
Nói như lời Sa-môn
Che giấu, làm việc ác
Ác kiến, thiếu kính trọng
Quanh co và nói láo
Biết vậy, người làm gì?
Tất cả phải đồng tình
Cùng tránh né người ấy
Hãy tẩn xuất rơm rác
Hãy tống cổ uế trược
Từ nay hãy đuổi xa
Kẻ nói nhiều vô ích
Không phải là Sa-môn
Nhưng hiện tướng Sa-môn
Tẩn xuất kẻ ác dục
Ác hạnh, ác uy nghi
Sống với người thanh tịnh
Sống trong sạch chánh niệm
Hòa hợp biết khôn khéo
Hãy chấm dứt khổ đau.
(I) (11) Veranjà
1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi
Bà-la-môn Veranjà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế
Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói nên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Veranjà
bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, tôi có nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh
lễ, không đứng dậy, hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn già yếu,
tuổi lớn trưởng lão, đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc
đời". Thưa Tôn giả Gotama, sự thể là như vậy: "Tôn giả Gotama
không đảnh lễ, không đứng dậy, hay không mời ghế ngồi các Bà-la-môn
già yếu, tuổi lớn trưởng lão, đời đã được trải qua, đã đến
đoạn cuối cuộc đời". Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, thật là không đầy
đủ. - Này Bà-la-môn, Ta không thấy một ai trong thế giới chư Thiên, trong
thế giới Ác ma, trong thế giới Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người mà ta có thể đảnh lễ người ấy,
đứng dậy hay mời ghế ngồi. Này Bà-la-môn, nếu Như Lai đảnh lễ, hay
đứng dậy, hay mời ngồi ai, thời đầu người ấy bị bể tan. 2. - Tôn giả Gotama, thật thiếu ý vị! - Này Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một
cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama thật thiếu
ý vị". Này Bà-la-môn, các sắc vị, thanh vị, hương vị, vị vị, xúc
vị, các vị ấy, Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho
như thân cây tàla, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai
nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama
thiếu ý vị". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này. 3. "Tôn giả Gotama thiếu tài sản". Này Bà-la-môn, có pháp môn
này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như
sau: "Sa-môn Gotama thiếu tài sản". Này Bà-la-môn, các sắc tài
sản, thanh tài sản, hương tài sản, vị tài sản, xúc tài sản, các tài sản
ấy, Như Lai đã đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama thiếu
tài sản". Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này. 4. "Tôn giả Gotama chủ trương thuyết không hành động". Này
Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết không
hành động". Này Bà-la-môn, Ta nói không hành động về thân làm ác,
về lời nói ác, về ý nghĩ ác. Ta nói không hành động về các
pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp môn này,
ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau: "Sa-môn
Gotama chủ trương thuyết không hành động". Nhưng Ông nói không phải
với ý nghĩa này. 5. "Tôn giả Gotama chủ trương thuyết đoạn diệt ". Này
Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết đoạn
diệt ". Này Bà-la-môn, Ta tuyên bố đoạn diệt tham, sân, si. Ta
tuyên bố đoạn diệt các ác, bất thiện pháp. Này Bà-la-môn, đây là
pháp môn, với pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương thuyết đoạn diệt".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này. 6. "Tôn giả Gotama là người nhàm chán". Này Bà-la-môn, có pháp
môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói
như sau: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán". Này Bà-la-môn, Ta nhàm
chán thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta nhàm chán sự thành
tựu các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn, đây là pháp môn, với pháp
môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói như sau:
"Sa-môn Gotama là người nhàm chán ". Nhưng Ông nói không phải với
ý nghĩa này. 7. "Tôn giả Gotama là người chủ trương hư vô chủ nghĩa". Này
Bà-la-môn, có pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư
vô". Này Bà-la-môn, Ta thuyết pháp để hư vô tham, sân, si. Ta
thuyết pháp để hư vô các pháp ác, bất thiện. Này Bà-la-môn,
đây là pháp môn, do pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có
thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô ".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này. 8. "Tôn giả Gotama là người khổ hạnh". Này Bà-la-môn, có pháp
môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể nói
như sau: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh ". Này Bà-la-môn, Ta tuyên
bố rằng cần phải khổ hạnh các pháp ác, bất thiện, thân làm ác,
miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Bà-la-môn, với ai, các pháp ác, bất
thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác được tu khổ hạnh,
được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây
tala, được làm cho không thể tái sanh, được làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người khổ hạnh. Này
Bà-la-môn, với Như Lai, các pháp ác, bất thiện, thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ ác đã được tu khổ hạnh, được đoạn tận, được cắt
đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không
thể tái sanh, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này
Bà-la-môn, đây là pháp môn, do pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn
chánh có thể nói như sau: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh".
Nhưng Ông nói không phải với ý nghĩa này. 9. "Tôn giả Gotama chủ trương không nhập thai". Này Bà-la-môn, có
pháp môn này, do pháp môn ấy, ai nói về Ta một cách chơn chánh có
thể nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương không nhập thai". Này
Bà-la-môn, với ai mà khả năng nhập thai tái sanh trong tương lai đã đoạn
tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố rằng
người ấy chủ trương không nhập thai. Này Bà-la-môn, Như Lai đã đoạn tận
khả năng nhập thai tái sanh trong tương lai đã đoạn tận, đã chặt đứt từ
gốc rễ, đã làm cho như thân cây tala, đã làm cho không thể tái sanh,
đã làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đây là
pháp môn, với pháp môn này, ai nói về Ta một cách chơn chánh có thể
nói như sau: "Sa-môn Gotama chủ trương không nhập thai". Nhưng Ông
nói không phải với ý nghĩa này. Ví như, này Bà-la-môn, có tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà
mái, được con gà mái khéo ấp nằm, ấp nóng và ấp dưỡng, và con gà nào
trong những con gà con ấy, đầu tiên hết, lấy chân, móng, đầu, miệng
hay mỏ phá vỡ vỏ trứng gà, ra ngoài một cách an toàn, con ấy được gọi
là con trưởng hay con trẻ nhất? - Thưa Tôn giả Gotama, con ấy phải được gọi là con trưởng. Thật vậy,
thưa Tôn giả Gotama, con ấy là con trưởng trong tất cả các con gà ấy. 10. - Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi Ta vì chúng sanh bị vô minh chi phối, như
sanh ra từ trứng, bị bao trùm, đã phá vỡ vỏ trứng vô minh, một mình chứng
được vô thượng Chánh Ðẳng Giác ở đời, này Bà-la-môn, thật sự Ta là vị
đệ nhất, tối thắng ở đời. Lại nữa, này Bà-la-môn, Ta tinh cần tinh tấn,
không biếng nhác. Ta trú niệm, không có thất niệm, thân được
khinh an, không có tháo động, định tĩnh, nhất tâm. 11. Này Bà-la-môn, ly dục, ly pháp bất thiện, Ta đã chứng đạt và an
trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Ly hỷ Ta trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ, mà
các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú. Ta chứng đạt và an trú
Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ
trước, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm, thanh tịnh. 12. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, không dao động, như
vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Ta nhớ đến đời sống
quá khứ, một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai
mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai
trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp,
nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên
như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này,
thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại
chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp
như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở
đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các
nét đại cương và các nét chi tiết. Này Bà-la-môn, đây là trong canh một, Ta chứng được minh thứ nhất, vô
minh diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ
nhất của Ta, như con gà con ra khỏi vỏ trứng. 13. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, không dao động, như
vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng
sanh. Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống và sự chết
của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ; những hạng chúng sanh này thành tựu thân làm ác, thành
tựu miệng nói ác, thành tựu ý nghĩ ác; phỉ báng các bậc Thánh, theo
tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi
thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Còn những hạng chúng sanh nào, thành tựu thân làm lành, thành tựu miệng
nói lành, thành tựu ý nghĩ lành, không phỉ báng các bậc Thánh, theo
chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, cõi
đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống và
sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh,
đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, đây là trong canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh
diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ hai của
Ta, như con gà con ra khỏi vỏ trứng. 14. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, không dao động, như
vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta biết như thật:
"Ðây là khổ", biết như thật: "Ðây là khổ tập",
biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật:
"Ðây là con đường đưa đến Khổ diệt", biết như thật:
"Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên
nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc
diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến lậu
hoặc diệt". Do biết như vậy, thấy như vậy, tâm của ta thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết, ta đã giải thoát. Ta
biết: "Sanh đã diệt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã
làm, sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa". Này
Bà-la-môn, đây là trong canh cuối, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh
diệt, minh sanh, bóng tối diệt, ánh sáng sanh. Do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Này Bà-la-môn, đây là sự xuất sanh thứ ba của
Ta, như con gà ra khỏi vỏ trứng. 15. Ðược nghe nói như vậy, Bà-la-môn Veranja bạch Thế Tôn: - Ðệ nhất là Tôn giả Gotama! Tối thắng là Tôn giả Gotama! Thật vi diệu
thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn
giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra
những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y
Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y
chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay
cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. (II) (12) Tướng Quân Sìha 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), tại Mahàvana (Ðại Lâm),
ở Kùtàgàrasàla (ngôi nhà có nóc nhọn). Lúc bấy giờ rất nhiều vị
Licchavi là các bậc có danh tiếng, có danh tiếng, ngồi tụ họp ở
hội trường, dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán Pháp,
tán thán chúng Tăng. 2. Lúc bấy giờ tướng quân Sìha là đệ tử của Niganthà ngồi trong hội
chúng ấy. Rồi tướng quân Sìha suy nghĩ như sau: "Không nghi ngờ gì nữa,
Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vì rằng nhiều vị
Licchavi này có danh tiếng, có danh tiếng ngồi tụ họp ở hội
trường, dùng nhiều phương tiện tán thán Phật, tán thán Pháp, tán
thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi đến yết kiến vị Thế Tôn ấy,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. 3. Rồi tướng quân Sìha đi đến Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến,
thưa với Niganthà Nàtaputta: - Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến yết kiến Sa-môn Gotama. - Này Sìha, sao Ông chủ trương hành động lại đi đến yết kiến
Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành động? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ
trương không hành động, thuyết pháp không hành động và huấn luyện
các đệ tử như vậy. Rồi tướng quân Sìha, ý muốn đi đến yết
kiến Thế Tôn bị dập tắt. 4. Lần thứ hai, rất nhiều vị Licchavi có danh tiếng, có danh
tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán Pháp, tán thán chúng Tăng. Lần thứ hai, tướng quân Sìha
suy nghĩ như sau: "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh tiếng, có danh
tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán Pháp, tán thán chúng Tăng. Vậy ta hãy đi đến
yết kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Rồi tướng quân Sìha đi đến Niganthà, Nàtaputta, sau khi đến, thưa
với Niganthà Nàtaputta: - Thưa Tôn giả, tôi muốn đi đến yết kiến Sa-môn Gotama. - Này Sìha, sao Ông chủ trương hành động lại đi đến yết kiến
Sa-môn Gotama, người chủ trương không hành động? Này Sìha, Sa-môn Gotama chủ
trương không hành động, thuyết pháp không hành động và huấn luyện
các đệ tử như vậy. Rồi tướng quân Sìha, lần thứ hai, ý muốn đi đến yết kiến
Thế Tôn bị dập tắt. 5. Lần thứ ba, rất nhiều vị Licchavi là có danh tiếng, có danh
tiếng, ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán Pháp, tán thán chúng Tăng. Lần thứ ba, tướng quân Sìha
suy nghĩ như sau: "Không nghi ngờ gì nữa, Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác, vì rằng nhiều vị Licchavi này có danh tiếng, có danh
tiếng ngồi tụ họp ở hội trường, dùng nhiều phương tiện tán
thán Phật, tán thán Pháp, tán thán chúng Tăng. Các Niganthà sẽ làm gì
được cho ta, nếu họ được hỏi ý kiến hay không hỏi ý
kiến. Vậy ta hãy không hỏi ý kiến Niganthà, đi đến yết
kiến vị Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". Rồi tướng quân Sìha, vào giữa trưa với khoảng năm trăm cỗ xe, đi
khỏi Vesàli để yết kiến Thế Tôn. Ði xe cho đến đoạn đất
còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ vào trong khu vườn. Rồi tướng quân
Sìha đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, tướng quân Sìha bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con có được nghe: "Sa-môn Gotama chủ trương không
hành động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các
đệ tử như vậy". Bạch Thế Tôn, họ nói như sau: "Sa-môn
Gotama chủ trương không hành động, thuyết pháp về không hành động
và huấn luyện các đệ tử như vậy". Bạch Thế Tôn, họ nói
về Thế Tôn như vậy, họ có xuyên tạc Thế Tôn với điều
không thật chăng? Và họ trả lời có thuận pháp với pháp không, và những
ai như pháp thuyết đúng pháp không có lý do để chỉ trích? Bạch
Thế Tôn, chúng con không muốn xuyên tạc Thế Tôn. 6. - Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành
động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành động,
thuyết pháp về hành động và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt,
thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán, thuyết
pháp về nhàm chán và huấn luyện các đệ tử như vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương hư vô,
thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các đệ tử như vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh, thuyết
pháp về khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử như vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương không nhập
thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các đệ tử
như vậy". Này Sìha, có pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh
về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp
về an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy". 7. Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương không
hành động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các
đệ tử như vậy"? Này Sìha, ta tuyên bố về không hành động đối với thân làm ác,
miệng nói ác, và ý nghĩ ác. Ta tuyên bố về không hành động đối
với các pháp ác, bất thiện. Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương không hành
động, thuyết pháp về không hành động và huấn luyện các đệ
tử như vậy". Này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành
động, thuyết pháp về hành động và huấn luyện các đệ tử như
vậy"? Này Sìha, Ta tuyên bố về hành động đối với thân làm lành, miệng
nói lành, và ý nghĩ lành. Ta tuyên bố về hành động đối với các
thiện pháp. Và này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương hành động,
thuyết pháp về hành động và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương
đoạn diệt, thuyết pháp về đoạn diệt và huấn luyện các
đệ tử như vậy". Này Sìha, Ta tuyên bố về đoạn diệt tham, sân, si. Ta tuyên bố
về đoạn diệt đối với các pháp ác, bất thiện. Và này Sìha, đây
là pháp môn, với pháp môn ấy nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có
thể nói: "Sa-môn Gotama chủ trương đoạn diệt, thuyết pháp
về đoạn diệt và huấn luyện các đệ tử như vậy". Và này Sìhà, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàn chán, thuyết pháp về
nhàm chán và huấn luyện các đệ tử như vậy". Này Sìha, Ta nhàm chán đối với thân làm ác, miệng nói ác, và ý
nghĩ ác. Ta nhàm chán đối với sự thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này Sìhà, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người nhàm chán,
thuyết pháp về nhàm chán và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Và này Sìhà, thế nào là pháp môn do pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ
trương hư vô, thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các đệ tử
như vậy"? Này Sìha, ta thuyết pháp để hư vô tham, sân, si. Ta thuyết pháp
để hư vô các pháp ác bất thiện. Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người hư vô,
thuyết pháp về hư vô và huấn luyện các đệ tử như vậy". Và này Sìhà, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu có ai nói
một cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người
khổ hạnh, thuyết pháp khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử như
vậy"? Này Sìha, Ta tuyên bố cần phải khổ hạnh các pháp ác bất thiện, kể
cả thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Này Sìha, với ai, pháp ác
bất thiện, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, được tu khổ
hạnh, được đoạn tận, được chắt đứt từ gốc rễ, được làm cho như thân
cây tala, được làm cho không thể tái sanh, được làm cho không thể
sanh khởi trong tương lai, Ta tuyên bố rằng người ấy là người khổ hạnh. Này Sìha, đối với Như Lai, các pháp ác, bất thiện cần phải khổ hạnh
này đã được đoạn tận chúng, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách
chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người khổ hạnh,
thuyết pháp về khổ hạnh và huấn luyện các đệ tử như
vậy". Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ
trương không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn
luyện các đệ tử như vậy"? Này Sìha, với ai đã đoạn tận sự nhập thai trong tương lai, sự tái sanh,
cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể tái
sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ta tuyên bố người ấy là
người chủ trương không nhập thai. Này Sìha, Như Lai đã đoạn tận sự nhập
thai trong tương lai, sự tái sanh, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong
tương lai. Này Sìha, đây là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn
chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người chủ trương
không nhập thai, thuyết pháp về không nhập thai và huấn luyện các
đệ tử như vậy". Và này Sìha, thế nào là pháp môn, do pháp môn ấy, nếu nói một
cách chơn chánh về Ta, có thể nói: "Sa-môn Gotama là người an ủi,
thuyết pháp an ủi và huấn luyện các đệ tử như vậy"? Này Sìha, Ta là người an ủi với tối thượng an ủi, Ta thuyết pháp
về an ủi, Ta huấn luyện các đệ tử như vậy. Này Sìha, đây là
pháp môn, với pháp môn ấy, nếu nói một cách chơn chánh về Ta, có
thể nói: "Sa-môn Gotama là người an ủi, thuyết pháp an ủi và huấn
luyện các đệ tử như vậy". 8. Khi được nói như vậy, tướng quân Sìha bạch Thế Tôn: - Thật vi diệu thay! Bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay! Bạch Thế Tôn, như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Thế Tôn, quy
y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo
Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng. - Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp với
những người trứ danh như Ông. - Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với
những lời Thế Tôn nói với con: "Này Sìha, hãy chín chắn suy tư, hãy
chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông". Bạch
Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ
trương cờ lên và tuyên bố: "Tướng quân Sìha đã trở thành đệ tử
của chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại nói với con: "Này Sìha, hãy
chín chắn suy tư, hãy chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh
như Ông". Bạch Thế Tôn, lần thứ hai con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp,
quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ,
từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. - Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho
các người Niganthà. Hãy cúng dường những món ăn cho những ai đến với
Ông. - Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với
những lời Thế Tôn nói với con: "Này Sìha, đã từ lâu gia đình Ông
như là giếng nước mưa nguồn cho các người Niganthà. Hãy cúng dường
những món ăn cho những ai đến với Ông". Bạch Thế Tôn, con không
nghe như sau, Sa-môn Gotama nói: "Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các
người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử các
người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí cho những người
khác không có phước lớn. Chỉ bố thí cho đệ tử Ta mới có phước lớn,
bố thí cho đệ tử những người khác không có phước lớn". Nhưng
Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho Niganthà. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch
Thế Tôn, lần thứ ba con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng
Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 9. Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp cho tướng quân Sìha, tức là
thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về các cõi
Trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các dục,
những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tướng quân Sìha, tâm đã
sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi,
tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán
dương đề cao: "Khổ, Tập, Diệt, Ðạo". Cũng như một tấm vải
thuần bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm. Cũng vậy,
chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên, tất cả pháp
ấy đều bị tiêu diệt. 10. Rồi tướng quân Sìha thấy pháp, chứng pháp, biết pháp, thể nhập
vào pháp, nghi ngờ vượt qua, do sự trừ diệt, đạt được vô sở úy, không
y cứ người khác đối với các pháp của bậc Ðạo sư. Tướng quân Sìha bạch
Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận lời mời của con, ngày mai tới
dùng cơm với chúng Tỷ-kheo. Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi tướng quân Sìha biết được Thế
Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên
hữu hướng về Ngài rồi đi ra. Rồi tướng quân cho gọi một người: Này
người kia, hãy tìm cho thịt tươi. Rồi tướng quân Sìha, sau đêm ấy tại trú xứ của mình, cho soạn các món
ăn thượng vị, loại cứng và mềm, rồi cho người tới báo tin với Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Tại trú xứ của tướng
quân Sìha, món ăn đã sẵn sàng". 11. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đến trú xứ của
tướng quân Sìha; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, với
chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ nhiều người Niganthà ở Vesàli, từ đường
lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm
khác, múa tay la lớn: "Hôm nay, tướng quân Sìha đã giết một con thú
lớn, và một bữa cơm được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy,
vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra".
Rồi một người đi đến tướng quân Sìha, sau khi đến, nói nhỏ vào tai
tướng quân Sìha,: "Thưa Tôn giả, Tôn giả có biết chăng? Nhiều
Niganthà ở Vesàli, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường
hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn: "Hôm nay, tướng quân
Sìha đã giết một con thú lớn, và một bữa cơm đã được soạn cho Sa-môn
Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên
vì mình được sửa soạn ra". -Thôi vừa rồi, này bạn. Ðã lâu rồi, các
Tôn giả ấy muốn chỉ trích Phật, muốn chỉ trích Pháp, muốn chỉ trích các
chúng Tăng. Nhưng các Tôn giả ấy không làm hại gì được Thế Tôn với
những lời xuyên tạc không có thật, trống rỗng, láo khoét. Và chúng ta
không vì sinh mạng lại cố ý sát hại sinh mạng của loài hữu tình. 12. Rồi tướng quân Sìha tự tay mình hầu hạ và làm cho thỏa mãn chúng
Tỷ-kheo với đức Phật và người cầm đầu các món ăn thượng vị, loại
cứng và mềm. Rồi tướng quân Sìha, sau khi biết Thế Tôn ăn đã
xong, bàn tay đã rời khỏi bát, liền ngồi xuống một bên, và Thế Tôn
với bài pháp thoại thuyết giảng cho tướng quân Sìha, khích lệ, làm
cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi. (III) (13) Con Ngựa Thuần Thục
1. - Ðầy đủ với tám đức tánh, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua
hiền thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở
hữu của vua, và được xem như là biểu tượng của vua. Thế nào là
tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền thiện,
thuần thục, khéo sanh cả hai từ mẫu hệ và phụ hệ, tại phương hướng
nào, các con ngựa hiền thiện, thuần thục không sanh trưởng, tại phương
hướng ấy, con ngựa ấy được sanh; họ cho ăn các món ăn gì, ướt hay
khô, con ngựa ấy ăn một cách cẩn thận, không có làm rơi rớt. Con ngựa ấy
nhàm chán khi phải đứng hay nằm gần phân hay nước tiểu; con ngựa ấy sống
hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các con ngựa khác, và không làm các con
ngựa khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối, giả dối, xảo trá, quanh co gì,
nó nêu rõ như thật cho người đánh xe biết, và người đánh xe cố gắng
nhiếp phục nó. Khi đang kéo xe, nó nghĩ: "Hãy để cho các con ngựa
khác muốn hay không muốn kéo, còn ta, ta sẽ kéo". Khi đi, nó đi con
đường thẳng. Kiên trì, nó kiên trì cho đến khi mạng sống chấm dứt. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa của vua hiền
thiện, thuần thục, xứng đáng để vua dùng, thuộc quyền sở sữu của
vua, và được xem như là biểu tượng của vua. 3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu tám pháp này, Tỷ-kheo xứng
đáng được cung kính ... là ruộng phương vô thượng ở đời. Thế nào là
tám? 4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự
với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp.
Phàm nhận các món đồ ăn gì, thô hay tế, vị ấy ăn một cách cẩn thận,
không có oán thán gì, vị ấy có nhàm chán, nhàm chán thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ ác, nhàm chán sự thành tựu các pháp ác bất thiện.
Vị ấy hoan hỷ và dễ dàng sống chung với các Tỷ-kheo khác, và không
làm các Tỷ-kheo khác hoảng sợ. Phàm có những gian dối, giả dối, xảo trá,
quanh co gì, nêu rõ như thật cho vị Ðạo sư hay các đồng Phạm hạnh có trí
cố gắng để nhiếp phục. Trong khi học tập, vị ấy khởi lên ý
nghĩ: "Hãy để cho các Tỷ-kheo khác học tập, hay không học
tập, còn ta, ta sẽ học tập ở đây ". Khi đi, vị ấy đi con đường
thẳng, tại đây, con đường thẳng này tức là Chánh tri kiến, Chánh tư
duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định. Vị ấy sống tinh cần, nghĩ rằng: "Dầu chỉ có da, gân hay
xương còn lại, dầu thịt và máu có khô cạn trong thân, điều mà sự kiên
trì của con người, sự tinh tấn của con người, sự nỗ lực có thể đạt
được, nếu chưa đạt được thời tinh tấn không có chấm dứt. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp
tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. (IV) (14) Ngựa Chưa Ðiều Phục 1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về tám loại ngựa chưa điều
phục, tám tánh xấu của con ngựa, tám hạng người chưa điều phục, tám
tánh xấu của con người. Hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 2. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám loại ngựa chưa được điều
phục? Thế nào là tám tánh xấu của ngựa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục,
khi bảo đi, bị gậy thúc, bị người đánh xe la và thúc đẩy, nó đi lùi, và
với lưng, làm chiếc xe chạy vòng lại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây
là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh
xấu thứ nhất của con ngựa. 3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó nhảy lùi, đạp
vào thành xe, làm gãy gọng xe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại
ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ
hai của con ngựa. 4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó rút bắp vế ra
khỏi gọng xe và dẫm nát gọng xe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây
là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh
xấu thứ ba của con ngựa. 5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó liền đi con
đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây
là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh
xấu thứ tư của con ngựa. 6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó trườn đứng
phía chân trước và đạp lên không trung với chân trước. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các
Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ năm của con ngựa. 7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó không để ý
đến người đánh xe la, không để ý đến cây gậy thúc ngựa,
lấy răng nghiền hàm thiết (khớp ngựa) ngựa và đi chỗ nào nó
muốn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều
phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ sáu của con ngựa. 8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó không đi tới, không
đi lui, đứng lại tại chỗ như một cột trụ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ bảy của con ngựa. 9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loại ngựa chưa được điều
phục, khi bảo đi, bị gậy thúc hay bị người đánh xe la, nó liền tréo hai
chân trước, tréo lại hai chân sau, và quỵ xuống bốn chân tại đấy. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa chưa được điều phục. Này
các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tám của con ngựa. Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại ngựa chưa được điều phục và
tám tánh xấu của con ngựa. 10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tám hạng người chưa được
điều phục và tám tánh xấu của con người? Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né (vấn đề)
như là không nhớ, nói rằng: "Tôi không nhớ, tôi không nhớ ". Ví
như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi,
bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó đi lùi với cái lưng làm cho cái
xe chạy vòng lại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví
dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được
điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ nhất của con
người. 11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, phát ra lời chất vấn
Tỷ-kheo buộc tội: "Thầy lấy quyền gì mà nói, này kẻ ngu, không thông minh? Tại sao Thầy nghĩ rằng Thầy phải nói? " Ví như, này
các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy
thúc, hay bị người đánh xe la, nó nhảy lùi lại, đạp vào thành xe, làm gãy
gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều
phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ hai của con người. 12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, liền cật nạn
Tỷ-kheo buộc tội: "Thầy cũng phạm tội tên là như vậy. Vậy Thầy hãy
phát lộ trước". Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa chưa được
điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó rút
bắp vế ra khỏi xe và dẫm nát gọng xe. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là hạng người
chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ ba của con
người. 13. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, liền tránh né vấn
đề với một vấn đề khác, hướng dẫn câu chuyện ra ngoài và
biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa
chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh
xe la, nó liền đi vào con đường xấu và làm cho xe bị lạc hướng. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây là hạng người chưa được điều phục. Này các
Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ tư của con người. 14. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, liền nói ba hoa, khua
tay múa chân. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục
ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó liền trườn đứng
phía thân trước và đạp lên không với chân trước. Này các Tỷ-kheo, Ta
nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở
đây là hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là
tánh xấu thứ năm của con người. 15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, không để ý
đến chúng Tăng, không để ý đến các Tỷ-kheo buộc tội,
với tội phạm và như một người bị xúc phạm, vị ấy đi chỗ nào vị ấy
muốn. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi
bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó không để ý đến
người đánh xe, không để ý đến cây roi, lấy răng nghiến hàm
thiết ngựa, và đi chỗ nào nó muốn. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng,
người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là
hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu
thứ sáu của con người. 16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, liền nói: "Tôi
không phạm tội, tôi không có phạm tội" và vị ấy làm chúng Tăng bực
mình với sự im lặng. Này các Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được
điều phục ấy, khi bảo đi, bị gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó không
đi tới, không đi lui, đứng lại tại chỗ như một cột trụ. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, đây là hạng người chưa được điều phục. Này các
Tỷ-kheo, đây là tánh xấu thứ bảy của con người. 17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Tỷ-kheo ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, nói như sau: "Tại
sao các Tôn giả lại quá lo cho tôi. Bắt đầu từ nay, tôi sẽ từ bỏ học
pháp và hoàn tục". Rồi vị ấy sau khi từ bỏ học pháp và hoàn tục
nói như sau: "Nay các Tôn giả ấy được hoan hỷ". Này các
Tỷ-kheo, ví như con ngựa chưa được điều phục ấy, khi bảo đi, bị
gậy thúc, hay bị người đánh xe la, nó liền tréo lại hai chân trước, tréo
lại hai chân sau và quỵ xuống bốn chân tại đấy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng, người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là
hạng người chưa được điều phục. Này các Tỷ-kheo, đây là tánh xấu
thứ tám của con người. Này các Tỷ-kheo, đây là tám hạng người chưa được điều phục và
tám tánh xấu của con người. (V) (15) Các Cấu Uế
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám tâm cấu uế này, thế nào là tám? 2. Này các Tỷ-kheo, không đọc tụng là cấu uế của Thánh
điển; này các Tỷ-kheo, không thức dậy là cấu uế của nhà; này
các Tỷ-kheo, biếng nhác là cấu uế của dung sắc; này các
Tỷ-kheo, phóng dật là cấu uế của phòng hộ; này các Tỷ-kheo, ác
hạnh là cấu uế của đàn bà; này các Tỷ-kheo, xan tham là cấu uế
của bố thí; các pháp ác, bất thiện, là cấu uế của đời này và đời
sau. Nhưng này các Tỷ-kheo, còn có cấu uế lớn hơn các cấu uế. Vô
minh là cấu uế lớn nhất. Này các Tỷ-kheo, đây là tám loại cấu uế. Không tụng làm nhớp kinh (VI) (16) Sứ Giả 1. - Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng
đáng đi làm sứ giả. Thế nào là tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người nghe, khiến
người khác nghe, học và khiến người khác thọ trì, biết và
khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp và
không thích hợp (hay vấn đề kinh điển hay không kinh điển), không
phải là người ưa cãi nhau. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo xứng đáng đi
làm sứ giả. 3. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta (Xá-lợi-phất)
xứng đáng đi làm sứ giả. Thế nào là tám? 4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sàriputta là người nghe, và khiến
người khác nghe, học và khiến người khác thọ trì, biết và
khiến người khác biết, thiện xảo trong vấn đề thích hợp và
không thích hợp, không phải là người ưa cãi nhau. Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Sàriputta xứng đáng đi làm
sứ giả: Với ai không run sợ, (VII) (17) Sự Trói Buộc Của Nữ Nhân
1. - Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân.
Thế nào là tám? 2. Này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với sắc; này các
Tỷ-kheo nữ nhân trói buộc nam nhân với tiếng cười; này các
Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với lời nói; này các Tỷ-kheo, nữ
nhân trói buộc nam nhân với lời ca; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc
nam nhân với nước mắt; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với
áo quần; này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với vật tặng; này
các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân với xúc chạm. Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nữ nhân trói buộc nam nhân. Các
loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy, giống như trói
buộc bởi bẫy sập. (VIII) (18) Nam Nhân Trói Buộc 1. - Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân.
Thế nào là tám? 2. Này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với sắc; này các
Tỷ-kheo nam nhân trói buộc nữ nhân với tiếng cười; này các
Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với lời nói; này các Tỷ-kheo, nam
nhân trói buộc nữ nhân với lời ca; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc
nữ nhân với nước mắt; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với
áo quần; này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với vật tặng; này
các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân với xúc chạm. Với tám hình tướng, này các Tỷ-kheo, nam nhân trói buộc nữ nhân. Các
loài hữu tình bị khéo trói buộc bởi các hình tướng ấy, giống như trói
buộc bởi bẫy sập.
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Veranjà, dưới gốc cây Nalerupucimanda. Rồi
vua A-tu-la Pahàràda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn, rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với vua A-tu-la Pahàràda đang đứng
một bên: - Này Pahàràda, có phải các A-tu-la thích thú biển lớn? - Bạch Thế Tôn, các A-tu-la thích thú biển lớn. - Này Paràhàda, có bao nhiêu sự vi diệu chưa từng có trong biển lớn
mà do thấy chúng , các A-tu-la thích thú biển lớn? - Bạch Thế Tôn, có tám vi diệu chưa từng có trong biển lớn mà
do thấy chúng, các A-tu-la thích thú biển lớn. Thế nào là tám? 2. Bạch Thế Tôn, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận
hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Vì rằng
bạch Thế Tôn, vì rằng biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận
hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm, nên bạch
Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất, do thấy vậy, thấy
vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. 3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn đứng một chỗ, không có
vượt qua bờ. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn đứng một chỗ, không
có vượt qua bờ, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ hai,
do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. 4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn không có chấp chứa xác
chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ
hay vất lên đất liền. Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn không có
chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức
bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Nên bạch Thế Tôn đây là vi
diệu chưa từng có thứ ba, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú
biển lớn. 5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông
Hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì, sông Sarabhù, sông Mahì, các con sông ấy
khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ trở thành biển lớn.
Vì rằng, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng ... trở thành
biển lớn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tư,
do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. 6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy
vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì
vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy. Bạch Thế Tôn, vì rằng,
phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những
nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có
vơi có đầy, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ năm, do
thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn. 7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Vì
rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn, nên bạch
Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu, do thấy vậy, thấy vậy,
các A-tu-la thích thú biển lớn. 8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều
loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như thân châu, ma-ni châu,
lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Vì
rằng, bạch Thế Tôn , biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại
châu báu, ở đây có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly,
xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Bạch Thế
Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy, do thấy vậy, thấy vậy, các
A-tu-la thích thú biển lớn. 9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loại chúng sanh
lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các con Timi, Timingalà, Timiramingalà,
những loại Asurà (A-tu-la), các loại Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển
có những loài hữu tình có tự ngã dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm,
bốn trăm, năm trăm do tuần. Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn là trú
xứ các loài chúng sanh lớn ... năm trăm do tuần, nên bạch Thế Tôn, đây
là vi diệu chưa từng có thứ tám, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích
thú biển lớn. Nhưng bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo có thích thú trong
Pháp và Luật này? - Này Pahàràda, Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này. - Bạch Thế Tôn, trong Pháp và Luật này có bao nhiêu pháp vi diệu
chưa từng có mà do thấy chúng, thấy chúng, các Tỷ-kheo thích thú trong
pháp và luật này? 10. - Này Pahàràda, có tám pháp vi diệu này chưa từng có trong Pháp và
Luật mà do thấy chúng, thấy chúng, các Tỷ-kheo thích thú trong pháp và
luật này. Thế nào là tám? 11. Ví như, này Pahàràda, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận
hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy,
này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả
dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập
chánh trí thình lình. Này Pahàràda, vì rằng trong pháp và luật này, các
học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là
tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình, nên này Pahàràda,
đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. 12. Ví như, này Pahàràda, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt
qua bờ. Cũng vậy, này Pahàràda, khi các học pháp được Ta sửa soạn cho
các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không
vượt qua,. Vì rằng này Pahàràda các học pháp được Ta sửa soạn cho các
đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không
vượt qua,. Nên này Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu
chưa từng có thứ hai do mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú
trong Pháp và Luật này. 13. Ví như, này Pahàràda, biển lớn không có chấp chứa xác chết.
Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ hay vất
lên đất liền. Cũng vậy, này Pahàràda, người nào là ác giới, theo ác
pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải
là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải sống Phạm hạnh nhưng tự nhận
có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Chúng
Tăng không sống chung với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người
ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng
người ấy sống xa chúng Tăng và chúng Tăng sống xa người ấy. Vì rằng, này
Pahàràda, người ấy là ác giới, theo ác pháp, ... tánh tình bất tịnh ... và
chúng Tăng sống xa vị ấy, nên này Pahàràda, trong pháp và luật này, đây là
pháp vi diệu chưa từng có thứ ba mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. 14. Ví như, này Pahàràda, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông
Hằng, sông Yamunà, sông Aciravatì, sông Sarabhù, sông Mahì, các con sông ấy
khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ trở thành biển lớn.
Cũng vậy, này Pahàràda, có bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn,
Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia
trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ tên và họ của
họ từ trước, và họ trở thành những Sa-môn Thích tử. Này Pahàràda,
trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư mà do
thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. 15. Ví như, này Pahàràda, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào
biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy
biển lớn được thấy có vơi có đầy. Cũng vậy, này Pahàràda, nếu có
nhiều Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới không có dư y, Niết-bàn
giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy. Này Pahàràda, nếu
có nhiều vị Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới không có dư y,
Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy. Này
Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ
năm mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này. 16. Ví như, này Pahàràda, biển lớn chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, này
Pahàràda, Pháp và Luật cũng chỉ có một vị là vị giải thoát. Này Pahàràda,
trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ sáu mà do
thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. 17. Ví như, này Pahàràda, biển lớn có nhiều châu báu, có nhiều
loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu,
lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Cũng
vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại
châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh
cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám
ngành. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều châu báu,
nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh
cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành, nên này Pahàràdan, trong Pháp và Luật này, đây là
pháp vi diệu chưa từng có thứ bảy mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. 18. Ví như, này Pahàràda, biển lớn là trú xứ các loại chúng sanh lớn,
tại đấy, có những chúng sanh như các con Timi, Timingalà, Timiramingalà, những
loại Asurà (A-tu-la), các loại Nàgà, các loại Gandhabbà. Trong biển có
những loài hữu tình với tự ngã dài một trăm do tuần, hai trăm, ba trăm, bốn
trăm, năm trăm do tuần. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp và Luật là trú xứ của
các loài chúng sanh lớn. Ở đấy có những loại chúng sanh này: bậc Dự
lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã
hướng đến chứng ngộ Nhất lai quả, bậc Bất lai, bậc đã hướng đến
chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến chứng ngộ quả
A-la-hán. Này Pahàràda, vì rằng Pháp và Luật này là trú xứ của các loại
chúng sanh lớn. Ở đấy có những chúng sanh này ... quả A-la-hán. Này
Pahàràda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ
tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật
này. Này Pahàràda, đây là tám pháp vi diệu, chưa từng có trong pháp và
luật và do thấy vậy, do thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và
Luật này. (X) (20) Ngày Trai Giới 1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Ðông viên, chỗ lâu đài
mẹ Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn, nhân ngày trai giới, đang ngồi, có chúng
Tăng đoanh vây. Rồi Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh một đã
qua, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái
chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh một đã qua, chúng Tỷ-kheo
đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đọc giới bổn cho các
Tỷ-kheo. Khi được nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng. 2. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh giữa đã qua,
từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào
Thế Tôn và bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã qua, chúng Tỷ-kheo
đã ngồi lâu, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy đọc giới bổn cho các
Tỷ-kheo. 3. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, và canh cuối đã qua,
rạng đông đã khởi, mặt đêm đã sáng rõ, từ chỗ ngồi, đứng dậy, đắp
thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã qua, rạng đông đã
khởi, mặt đêm đã sáng tỏ, chúng Tỷ-kheo đã ngồi lâu, bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy đọc giới bổn cho các Tỷ-kheo. - Này Ananda, hội chúng không được thanh tịnh. 4. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna suy nghĩ như sau: "Ðề cập đến
người nào, Thế Tôn đã nói: "Này Ananda, hội chúng không được thanh
tịnh "? Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna, với tâm của mình, chú tâm tác ý
đến toàn thể chúng Tỷ-kheo Tăng, Tôn giả thấy một người ấy là
ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh, đáng nghi ngờ, có những hành vi che
đậy, không phải là Sa-môn nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống Phạm hạnh
nhưng tự nhận là sống Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh
tình bất tịnh, đang ngồi giữa chúng Tỷ-kheo; thấy vậy, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đi đến người ấy, sau khi đến, nói với
người ấy: - Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với
Hiền giả, không thể chung sống với các Tỷ-kheo. - Ðược nói như vậy, người ấy im lặng. Lần thứ hai, Tôn giả
Mahàmoggallàna nói với người ấy: - Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với
Hiền giả, không thể chung sống với các Tỷ-kheo. Lần thứ hai, người ấy im lặng. Lần thứ ba, Tôn giả Mahàmoggallàna nói với
người ấy: - Này Hiền giả, hãy đứng dậy. Thế Tôn đã thấy Ông. Ðối với
Hiền giả, không thể chung sống với các Tỷ-kheo. Lần thứ ba, người ấy im lặng. 5. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna nắm lấy cánh tay người ấy, đẩy ra khỏi
cửa, đóng chốt cửa lại, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch
Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, người ấy đã bị con đuổi ra khỏi. Hội chúng đã thanh
tịnh. Bạch Thế Tôn, hãy thuyết giới bổn cho chúng Tỷ-kheo. - Thật vi diệu thay, này Mahàmoggallàna! Thật hy hữu thay, này
Mahàmoggallàna! Cho đến khi bị nắm tay, kẻ ngu sĩ kia mới đi. Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy hành trì Uposatha (Bố-tát), hãy
đọc giới bổn. Bắt đầu từ nay, này các Tỷ-kheo, Ta sẽ không đọc
giới bổn. Này các Tỷ-kheo, không có sự kiện, không có cơ hội rằng
Như Lai có thể đọc giới bổn trong một hội chúng không thanh tịnh. 7. Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn có tám pháp vi diệu chưa từng
có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn.
Thế nào là tám? Này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự xuôi, tuần tự thuận hướng ... (như
trên, Kinh số 19, từ đoạn số 2 đến số 9) ... Này các Tỷ-kheo,
đây là vi diệu chưa từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các
Asurà (A-tu-la) thích thú biển lớn. Này các Tỷ-kheo, trong biển lớn có tám pháp vi diệu chưa từng
có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Asurà thích thú biển lớn. 8. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này có tám pháp vi
diệu chưa từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú
trong Pháp và Luật này. Thế nào là tám? Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự
thuận hướng ... (như trên 19, đoạn số 11 với những thay đổi cần thiết
) ... Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa
từng có thứ tám mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ trong
Pháp và Luật này. Này các Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật này, có tám pháp vi diệu, chưa
từng có này mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo hoan hỷ trong Pháp
và Luật này. III. Phẩm Gia Chủ
Không dậy làm nhớp nhà
Biếng nhác làm nhớp dung sắc
Phóng dật làm nhớp phòng hộ
Ác hạnh nhớp mỹ nhân
Xan tham nhớp bố thí
Các pháp ác làm nhớp
Ðời này và đời sau
Nhưng có loại cấu uế
Hơn tất cả cấu uế
Ðấy chính là vô minh
Là cấu uế lớn nhất.
Ðến hội chúng bạo ngôn
Không quên lời đã học
Không che giấu giáo pháp
Không nói lời nghi hoặc
Ðược hỏi không phẫn nộ
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Xứng đáng đi sứ giả.
(I) (21) Ugga Ở Vesali
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc
nhọn. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: - "Này các Tỷ-kheo!". - "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga, người Vesàli, thành tựu tám pháp vi
diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ trì như vậy. Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ
chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá. 3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi sáng, cầm bát y, đi đến trú xá
của gia chủ Ugga người Vesàli; sau khi đến, liền ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Ugga người Vesàli, đi đến Tỷ-kheo
ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống một bên.
Tỷ-kheo ấy nói với gia chủ Ugga, người Vesàli, đang ngồi xuống một bên: 4. - Này gia chủ, Thế Tôn có nói rằng: "Gia chủ Ugga người Vesàli
này, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có". Này gia chủ, thế
nào là tám pháp vi diệu chưa từng có ấy, mà Thế Tôn nói gia chủ là
người được thành tựu? - Thưa Tôn giả, tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi
diệu chưa từng có là gì. Nhưng thưa Tôn giả, tôi có tám pháp vi diệu chưa
từng có này, hãy lắng nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói. - Vâng, này gia chủ, Tỷ-kheo ấy vâng đáp gia chủ Ugga người Vesàli. Gia chủ Ugga người Vesàli nói như sau: 5. - Thưa Tôn giả, khi tôi lần đầu tiên chỉ từ xa thấy Thế Tôn thôi,
thưa Tôn giả, chỉ thấy Thế Tôn thôi, tâm tôi được tịnh tín. Thưa Tôn
giả, đây là pháp vi diệu thứ nhất, được có ở nơi tôi. Rồi thưa Tôn
giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn thuyết
pháp thuận thứ cho tôi, như thuyết về bố thí, thuyết về giới,
thuyết về cõi Trời, nói đến sự nguy hại, hạ liệt, nhiễm ô
của các dục và sự lợi ích của viễn ly. 6. Khi Thế Tôn biết tôi tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm
không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Thế Tôn
mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao: "Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo". Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen
được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm. Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy,
pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên nơi tôi: "Phàm pháp gì được tập
khởi, tất cả Pháp ấy đều bị đoạn diệt". Rồi thưa Tôn giả, khi
tôi thấy pháp, đạt pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ
được vượt qua, do dự trừ diệt, đạt được vô sở úy, không ý cứ
người khác đối với pháp bậc Ðạo sư. Tại đấy, tôi quy y Phật, quy y Pháp
và chúng Tăng, tôi thọ lãnh năm học pháp về Phạm hạnh. Thưa Tôn
giả, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ hai, được có ở nơi tôi. 7. Thưa Tôn giả, tôi có bốn vợ đều còn trẻ tuổi. Rồi tôi đi
đến các người vợ ấy; sau khi đến, tôi nói với các người vợ ấy
như sau: "Này các vị, tôi đã thọ lãnh năm học pháp về Phạm
hạnh. Ai muốn, hãy hưởng thọ tài sản ở chỗ này, hay làm các công
đức, hay đi đến gia đình bà con của mình, hay ai có ưng ý người
đàn ông nào, tôi sẽ cho các vị". Ðược nói như vậy, thưa Tôn giả,
người vợ lớn của tôi nói với tôi: "Thưa gia chủ Ugga, hãy cho tôi
người đàn ông tên này". Rồi thưa Tôn giả, tôi cho mời người ấy lại,
với tay trái tôi cầm người vợ, với tay phải tôi cầm bình nước, rồi tôi
rửa sạch người ấy. Thưa Tôn giả, từ khi bỏ người vợ trẻ, tâm tôi không
có một chút đổi khác. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có
thứ ba, được có ở nơi tôi. 8. Thưa Tôn giả, có những tài sản ở trong gia đình tôi, chúng được phân
chia giữa những người có giới và những người tốt lành. Thưa Tôn giả, đây
là pháp vi diệu, chưa từng có thứ tư, được có ở với tôi. 9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo, tôi hầu hạ rất cẩn thận, không phải
không cẩn thận. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ
năm, được có ở với tôi. 10. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy thuyết pháp cho tôi, tôi nghe
hết sức cẩn thận, không phải không cẩn thận. Nếu Tôn giả ấy không
thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho vị ấy. Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có ở nơi tôi. 11. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, chư Thiên sau khi
đến, bảo tôi: "Này gia chủ, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết
giảng!". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với chư Thiên ấy
như sau: "Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay không nói như
vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng". Thưa Tôn giả, tuy
vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là: "Chư Thiên
đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên". Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi. 12. Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết sử này được Thế Tôn
thuyết giảng, tôi thấy rõ không có một pháp nào không được đoạn tận
ở nơi tôi. Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ tám,
được có ở nơi tôi. Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt. Nhưng tôi
không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa
từng có này. 13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia
chủ Ugga, người Vesàli, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo
ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói với gia chủ Ugga
người Vesàli thuật lại với Thế Tôn. 14. - Lành thay, lành thay! này Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Vesàli nếu
có trả lời một cách chơn chánh, có thể trả lời như vậy. Này
Tỷ-kheo, Ta đã nói gia chủ Ugga người Vesàli thành tựu tám pháp vi
diệu chưa từng có này. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng gia chủ Ugga,
người Vesàli, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. (II) (22) Ugga Người Hatthigama 1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Vajji, tại làng Hatthi. Tại
đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo ... (như kinh 21.1) ... Thế
Tôn nói như sau: 2. - Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga, người Hatthigama, thành tựu tám pháp
vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ trì như vậy. Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ
chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá. 3-4. ... (như kinh 21.3-4 ở trên, với các sửa đổi cần thiết ) ... 5. - Thưa Tôn giả, khi tôi còn vui chơi ở rừng Nàga, lần đầu tiên, tôi
thấy Thế Tôn từ đằng xa. Chỉ thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, tâm
tôi được tịnh tín, và say rượu được đoạn tận. Thưa Tôn giả, đây là
pháp vi diệu, chưa từng có thứ nhất, được có ở nơi tôi. Rồi thưa Tôn
giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
thuyết pháp thuận thứ cho tôi như thuyết pháp về bố thí,
thuyết về giới, thuyết về cõi trời, nói lên sự nguy hại, sự
hạ liệt, nhiễm ô của các dục và sự lợi ích của viễn ly. 6 - 8. (Pháp vi diệu thứ hai, thứ ba, thứ tư giống như kinh 21.6-8 với
những thay đổi cần thiết) ... chưa từng có thứ tư, được có ở nơi
tôi. 9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo, tôi hầu hạ rất cẩn thận, không phải
không cẩn thận. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy thuyết pháp cho tôi,
tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không cẩn thận. Nếu Tôn giả ấy
không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho vị ấy. Thưa Tôn
giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm, được có ở tôi. 10. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, khi tôi mời chúng Tăng,
chư Thiên đến và bảo tôi: "Này gia chủ, Tỷ-kheo này là vị câu
phần giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tuệ giải thoát; Tỷ-kheo này là
vị Thân chứng; Tỷ-kheo này là vị Kiến chí; Tỷ-kheo này là vị Tín
giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tùy pháp hành; Tỷ-kheo này là vị Tùy
tín hành; vị này giữ giới, theo thiện pháp; vị này phá giới, theo ác
pháp ". Nhưng khi tôi cúng dường chúng Tăng, tôi không cảm thấy có tâm
như vậy khởi lên: "Vị này tôi cúng ít" hay "Vị này tôi cúng
nhiều". Nhưng thưa Tôn giả, tôi cúng với tâm bình đẳng. Thưa Tôn
giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có ở tôi. 11. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, chư Thiên sau khi
đến, bảo tôi: "Này gia chủ, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết
giảng!". Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với chư Thiên ấy như
sau: "Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay không nói như vậy,
pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng ". Thưa Tôn giả, tuy vậy
tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là: "Chư Thiên
đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên". Thưa Tôn giả,
đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi. 12. Thưa Tôn giả, nếu tôi mệnh chung trước Thế Tôn, đây không
có gì là vi diệu, nếu Thế Tôn nói về tôi như sau: "Không
có một kiết sử nào, do kiết sử ấy, gia chủ Ugga người làng Hatthigàma
có thể trở lui lại đời này". Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu
chưa từng có thứ tám được có ở nơi tôi. Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt. Và tôi không
biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có
nào. 13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia
chủ Ugga, người làng Hatthigàma, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi
Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói
với gia chủ Ugga người Hatthigàma thuật lại với Thế Tôn. 14. - Lành thay, lành thay! này Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Hatthigàma
nếu có trả lời một cách chơn chánh, có thể trả lời như vậy. Này
Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Hatthigàma thành tựu tám pháp vi diệu chưa
từng có này. Như Ta đã nói, này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng gia chủ
Ugga, người Hatthigàma, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có
này. (III) (23) Hatthaka , Người Alavì (1)
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Alavì, tại điện Phật Aggàlava. Tại
đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, Hatthaka, người xứ Alavì thành tựu bảy pháp vi
diệu chưa từng có. Hãy thọ trì như vậy. Thế nào là bảy? 3. Có lòng tin, này các Tỷ kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có giới,
này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có lòng xấu hổ, này các
Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có lòng sợ hãi, này các Tỷ-kheo,
là Hatthaka người xứ Alavì; nghe nhiều, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka
người xứ Alavì; có bố thí, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì;
có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì. Thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này, này các Tỷ-kheo, là
Hatthaka người xứ Alavì. Hãy thọ trì như vậy. Thế Tôn nói như vậy.
Nói như vậy xong, bậc Thiên Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh
xá. 4. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi sáng, cầm bát y, đi đến trú xá
của gia chủ Hatthaka người Alavì; sau khi đến, liền ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Hatthaka người Alavì, đi đến
Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống một
bên. Tỷ-kheo ấy nói với Hatthaka, người xứ Alavì, đang ngồi xuống một
bên: - Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói Hiền giả thành tựu bảy pháp
vi diệu chưa từng có. Thế nào là bảy? "Có lòng tin, này các
Tỷ-kheo là Hatthaka, người xứ Alavì ... có giữ giới ... có lòng xấu hổ
... có lòng sợ hãi ... nghe nhiều ... có bố thí ... có trí tuệ, này
các Tỷ-kheo, là Hatthaka, người xứ Alavì ". Thưa Hiền giả,
Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này như Thế Tôn
đã nói. - Thưa Tôn giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng? - Thưa Hiền giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng. - Lành thay, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng. 5. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của
Hatthaka, người xứ Alavì, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo
ấy, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: - Ở đây, bạch Thế Tôn, con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi
đến trú xứ của Hatthaka, người Alavì; sau khi đến, con ngồi xuống
trên chỗ đã soạn sẵn, bạch Thế Tôn, rồi con nói với Hatthaka, người
xứ Alavì đang ngồi một bên: - "- Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói
Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này. Thế nào là
bảy? "Có lòng tin, này các Tỷ-kheo là Hatthaka, người xứ Alavì ... có
giữ giới ... có lòng xấu hổ ... có lòng sợ hãi ... nghe nhiều ... có bố
thí ... có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka, người xứ Alavì
". Hiền giả thành tựu bảy pháp này, thưa Hiền giả, như Thế
Tôn đã nói! ". Khi nghe nói như vậy, bạch Thế Tôn, Hatthaka người xứ
Alavì nói với con: - "Thưa Tôn giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng? " - Thưa Hiền giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng. - Lành thay, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng. 6. - Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Này Tỷ-kheo, thiện nam tử
này là ít dục. Vị ấy không muốn các thiện pháp của mình được người
khác biết đến. Do vậy, này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng, Hatthaka
người xứ Alavì, có thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này, tức là
ít dục. (IV) (24) Hatthaka, Người Xứ ALavì (2) 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Alavì, tại điện Phật Aggàlava. Rồi
Hatthaka, người xứ Alavì cùng với năm trăm nam cư sĩ đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Hatthaka, người xứ Alavì, đang ngồi xuống một bên: 2. - Này Hatthaka, hội chúng này thật lớn. Làm sao, này Hatthaka, Ông thâu
nhiếp được hội chúng này? - Bạch Thế Tôn, có bốn nhiếp pháp này được Thế Tôn thuyết
giảng. Con thâu nhiếp hội chúng này với những nhiếp pháp ấy. Bạch
Thế Tôn, khi con biết rằng: "Người này cần phải thâu nhiếp
nhờ bố thí", thời con thâu nhiếp người ấy với bố thí. Khi con
biết rằng: "Người này cần phải thâu nhiếp nhờ ái ngữ", thời
con thâu nhiếp người ấy với ái ngữ. Khi con biết rằng: "Người
này cần phải thâu nhiếp nhờ lợi hành", thời con thâu nhiếp người
ấy với lợi hành. Khi con biết rằng: "Người này cần phải thâu
nhiếp nhờ đồng sự", thời con thâu nhiếp người ấy với đồng sự.
Vả lại, bạch Thế Tôn, trong gia đình con có tài sản, họ nghĩ rằng
như vậy không thể được nghe như là một người bần cùng. 3. - Lành thay, lành thay, này Hatthaka! Ðây là nguyên lý để thâu
nhiếp đại chúng! Này Hatthaka, những ai trong quá khứ đã thâu nhiếp
đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp
này. Này Hatthaka, những ai trong tương lai sẽ thâu nhiếp đại chúng, tất
cả sẽ thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này. Này Hatthaka,
những ai trong hiện tại thâu nhiếp đại chúng, tất cả họ đều
thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này. 4. Rồi Hatthaka, người xứ Alavì, được Thế Tôn với pháp thoại, giảng
dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi ra đi.
Thế Tôn, sau khi Hatthaka, người xứ Alavì ra đi không bao lâu, bèn gọi
các Tỷ-kheo: 5. - Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Alavì
thành tựu được tám pháp vi diệu chưa từng có này. Thế nào là tám
pháp ? 6. Có lòng tin, này các Tỷ kheo, là Hatthaka người xứ Alavì, có giữ
giới; này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có lòng xấu hổ, này
các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; có lòng sợ hãi, này các
Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì; nghe nhiều, này các Tỷ-kheo,
là Hatthaka người xứ Alavì; có bố thí, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka
người xứ Alavì; có trí tuệ, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ
Alavì; ít dục, này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Alavì! Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Alavì thành
tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này. (V) (25) Thích Tử Mahanama
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu
vườn Nigrodha. Rồi Thích tử Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Thích tử Mahànàma bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ? - Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến
như vậy, này Mahànàma, là người nam cư sĩ. 2. - Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người nam cư sĩ
giữ giới? - Này, Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới. 3. - Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người nam cư sĩ
thực hành, vì tư lợi chứ không vì lợi tha? - Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ thành tựu lòng tin cho mình, không có
khích lệ người khác thành tựu lòng tin; thành tựu giữ giới cho mình,
không có khích lệ người khác thành tựu giữ giới, thành tựu bố thí cho
mình, không khích lệ người khác thành tựu bố thí; muốn tự mình đi
đến yết kiến các Tỷ-kheo, không có khích lệ người khác
đi đến yết kiến các Tỷ kheo; chỉ tự mình muốn nghe diệu
pháp, không khích lệ người khác nghe diệu pháp; tự mình thọ trì
những pháp đã được nghe, không khích lệ người khác thọ trì những
pháp đã được nghe; tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã
thọ trì, không khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các
pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực
hiện tùy pháp, đúng Chánh pháp, không khích lệ người khác thực
hiện tùy pháp, đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là
nam cư sĩ thực hành vì tự lợi, không phải vì lợi tha. 4. - Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là nam cư sĩ thực hành
vừa tự lợi, vừa lợi tha? - Này Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích
lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích
lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người
khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các
Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các
Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người
khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được
nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi
nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích
lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau
khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh
pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực
hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư
sĩ thực hành vì tự lợi và lợi tha. (VI) (26) Jìvaka Komàrabhacca 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương xá), tại rừng xoài Jìvaka.
Rồi Jìvaka Komàrabhacca đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Jìvaka Komàrabhacca
bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là người nam cư sĩ? - ... (giống như kinh trước 25, chỉ khác là Thích tử Mahànàma, nay là
Jìvaka Komàrabhacca) . (VII) (27) Sức Mạnh (1)
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám sức mạnh này. Thế nào là tám? 2. Này các Tỷ-kheo, sức mạnh của con nít là khóc; sức mạnh của đàn
bà là phẫn nộ; sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí; sức mạnh của các
vua chúa là uy quyền; sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo; sức mạnh của bậc
Hiền trí là cảm hóa; sức mạnh của vị nghe nhiều là thẩm sát; sức
mạnh của Sa-môn, Bà-la-môn là nhẫn nhục. Này các Tỷ-kheo, đây là tám sức mạnh. (VIII) (28) Sức Mạnh (2) 1. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta
đang ngồi xuống một bên: - Này Sàriputta, có bao nhiêu sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc? Thành tựu với những sức mạnh gì, Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc
đã được ta đoạn tận "? 2. - Bạch Thế Tôn, có tám sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các
lậu hoặc. Thành tựu với những sức mạnh gì, Tỷ-kheo đã đoạn trừ các
lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc
đã được ta đoạn tận ". Thế nào là tám? 3. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc
khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng tất cả các hành là vô
thường. Vì rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc,
khéo thấy như thật với chánh trí tuệ rằng tất cả các hành là vô
thường. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận
các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự
nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta
đoạn tận". 4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc khéo
thấy như thật với chánh trí tuệ rằng các dục ví như hố than hừng. Vì
rằng, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc khéo thấy như
thật với chánh trí tuệ rằng các dục ví như hố than hừng. Bạch Thế
Tôn, đây là sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Do sức
mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn
diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận". 5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, với
tâm thuận xuôi về viễn ly, hướng về viễn ly, thiên về viễn ly,
trú ở viễn ly, hoan hỷ về xuất ly, đoạn tận hoàn toàn tất cả pháp
có thể làm trú xứ cho lậu hoặc. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình đã đoạn diệt các lậu hoặc:
"Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận". 6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn
niệm xứ được tu tập, được khéo tu tập. Bạch Thế Tôn, vì rằng
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn niệm xứ được tu tập, được
khéo tu tập. Bạch Thế Tôn, đây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo ...
"Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận". 7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, Bốn
như ý túc được tu tập, được khéo tu tập... Năm căn được tu tập,
được khéo tu tập ... Năm lực được tu tập, được khéo tu tập ... Bảy giác
chi được tu tập, được khéo tu tập ...Thánh đạo tám ngành được tu tập,
được khéo tu tập ... Ðây là sức mạnh của vị Tỷ-kheo ... "Các lậu
hoặc đã được ta đoạn tận". Bạch Thế Tôn, đây là tám sức mạnh của Tỷ-kheo đã đoạn tận các
lậu hoặc, thành tựu với tám sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc. Do sức mạnh này, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tự nhận mình
đã đoạn diệt các lậu hoặc: "Các lậu hoặc đã được ta đoạn tận". (IX) (29) Không Phải Thời
1. - "Làm việc đúng thời là thế giới, làm việc đúng thời
là thế giới ", này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu nói như vậy,
nhưng vị ấy không biết đúng thời và phi thời. Này các Tỷ-kheo, có
tám phi thời, phi thời tiết cho đời sống Phạm hạnh. Thế nào là tám? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Và pháp được giảng đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh, đưa
đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này lại
bị sanh vào địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời, phi thời
tiết thứ nhất cho đời sống Phạm hạnh. 3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ... Phật, Thế Tôn và pháp được giảng đưa
đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh, đưa đến giác ngộ, được bậc
Thiện Thệ tuyên bố. Và người này lại bị sanh vào loại bàng sanh ...
người này lại bị sanh vào cõi ngạ quỷ ... người này lại bị sanh vào
giữa chư Thiên giới có thọ mạng lâu dài ... người này lại bị sanh vào
các biên địa, giữa những kẻ vô trí mọi rợ, tại đây, không có hướng
đi cho các Tỷ-kheo, cho các Tỷ-kheo -Ni, cho nam cư sĩ, nữ cư sĩ ... và
người này được sanh vào chánh địa, nhưng lại có tà kiến, có tri
kiến đảo ngược: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có
tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời
này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh,
ở đời không có những Sa-môn, những Bà-la-môn chánh hướng chánh hạnh, đã
tự mình chứng tri giác ngộ và truyền dạy lại đời này, đời khác ..." và người này được sanh vào đây chánh địa, nhưng người ấy lại ác
tuệ, si mê, câm điếc, không có thể hiểu rõ ý nghĩa của
một lời nói khéo, nói hay, nói dở. Này các Tỷ-kheo, đây là phi thời, phi
thời tiết thứ tám cho đời sống Phạm hạnh. 4. Này các Tỷ-kheo, có tám phi thời, phi thời tiết này cho đời sống
Phạm hạnh. 5. Này các Tỷ-kheo, chỉ có một chánh thời, một chánh thời tiết này
cho đời sống Phạm hạnh. Thế nào là một? 6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Và pháp được giảng đưa đến an tịnh, đưa đến tịch tịnh, đưa
đến giác ngộ, được bậc Thiện Thệ tuyên bố. Và người này
được sanh vào chánh địa, vị ấy có trí tuệ, không si mê, không câm
điếc, có thể hiểu rõ ý nghĩa của một lời nói khéo, nói hay,
nói dở. Này các Tỷ-kheo, đây là chánh thời, chánh thời tiết độc
nhất cho đời sống Phạm hạnh. Ai được sanh làm người (X) (30) Tôn Giả Anuruddha 1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra,
rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, Tôn giả Anuruddha
(A-nậu-lâu-đà) sống giữa dân chúng Celì, tại Pàcìnavamsadàya, Rồi Tôn giả
Anuruddha, trong khi sống độc cư ... Thiền tịnh, tâm tư khởi lên như sau:
"Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để cho
người nhiều dục; Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không
phải để cho người không biết đủ; Pháp này để cho người sống
thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng; Pháp này
để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người
biếng nhác; Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải
để cho người thất niệm; Pháp này để cho người Thiền định,
pháp này không phải để cho người không Thiền định; Pháp này để
cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác
tuệ". 2. Rồi Thế Tôn với tâm của mình rõ biết tâm tư của Tôn giả
Anuruddha, ví như người lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại; hay co lại bàn
tay đang duỗi ra; cũng vậy, Thế Tôn biến mất ở giữa dân chúng
Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển, và hiện ra
giữa dân chúng Celì, tại Pàcìnavamsadàya, trước mặt Tôn giả Anuruddha.
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Thế Tôn nói với
Tôn giả Anuruddha đang ngồi một bên: 3. - Lành thay, lành thay, này Anuruddha! Lành thay, này Anuruddha, Thầy đã suy
nghĩ đến bảy niệm của bậc Ðại nhân: " Pháp này để cho
người ít dục, pháp này không phải để cho người nhiều dục; Pháp này
để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người không
biết đủ; Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này không phải
để cho người ưa hội chúng; Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn,
pháp này không phải để cho người biếng nhác; Pháp này để cho
người trú niệm, pháp này không phải để cho người thất niệm;
Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho
người không Thiền định; Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp
này không phải để cho người ác tuệ". Do vậy, này Anuruddha, hãy suy nghĩ đến niệm thứ tám này của bậc
Ðại nhân: "Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích
hý luận, Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích
hý luận ". 4. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của
bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ chứng đạt và an trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. 5. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của
bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, diệt tầm diệt tứ, Thầy sẽ
chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. 6. Khi nào, này Anuruddha, khi nào Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm
này của bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ ly hỷ trú xả,
chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi
là "xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba. 7. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của
bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ xả lạc xả khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. 8. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của
bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại
lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc,
chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, tấm y lượm từ đống rác lên
của Thầy sẽ giống như tủ áo đầy những vải có nhiều màu sắc của người
gia chủ hay con người gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích,
không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn. 9. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của
bậc Ðại nhân, thời nếu Thầy muốn, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng
thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được
không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, các
món ăn từng miếng Thầy khất thực được sẽ giống như món cơm bằng gạo
trắng, các hạt đen đã được lượm sạch, với nhiều loại súp, với
nhiều loại đồ ăn của người gia chủ, hay của con người gia chủ, để
được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được
bước vào Niết-bàn. 10. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này
của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện
tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt
nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, chỗ nằm dưới
gốc cây thầy sẽ giống như nhà có nóc nhọn, có trét hồ trong ngoài, cửa
được cài then, cửa sổ được đóng lại ngăn chặn gió của người gia chủ,
hay của con người gia chủ, để được sống biết đủ, ưa thích, không
có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn. 11. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này
của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện
tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt
nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, giường nằm và
chỗ ngồi trải với đệm cỏ của Thầy sẽ giống như ghế dài, nệm
trải giường nằm bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da
con sơn dương gọi là kadali, tấm thảm với đầu che phía trên, ghế dài
có đầu gối chân màu đỏ của các người gia chủ, hay của con người gia chủ,
để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú,
được bước vào Niết-bàn. 12. Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này
của bậc Ðại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện
tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt
nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, dược phẩm nước
tiểu hôi của Thầy sẽ giống như các loại dược phẩm của các người gia
chủ, hay của con người gia chủ, như thục tô, sanh tô, dầu, mật, đường bánh,
để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú,
được bước vào Niết-bàn. 13. Vậy này Anuruddha, nhân kỳ an cư mùa mưa sắp đến, hãy trú giữa
dân chúng Cetì ở Pàcìnavamsadàya. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Anuruddha vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn sau khi khuyến
giáo Tôn giả Anuruddha với lời khuyến giáo này, như người lực sĩ
duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy,
Ngài biến mất giữa dân chúng Cetì ở Pàcìnavamsadàya và hiện ra giữa
dân chúng Bhagga, trên núi Sumsumàra trong rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển.
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, sau khi ngồi xuống, Thế
Tôn bảo các Tỷ-kheo: 14. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết tám tư niệm của bậc Ðại
nhân cho các Thầy. Hãy lắng nghe và khéo tư niệm, Ta sẽ giảng: - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: - Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám tư niệm của bậc Ðại nhân? 15. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không
phải để cho người nhiều dục; Này các Tỷ kheo,Pháp này để cho
người biết đủ, pháp này không phải để cho người không biết
đủ; Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp
này không phải để cho người ưa hội chúng; Này các Tỷ kheo, Pháp này
để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người
biếng nhác; Này các Tỷ kheo,Pháp này để cho người trú niệm,
pháp này không phải để cho người thất niệm; Này các Tỷ kheo, Pháp
này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người
không Thiền định; Này các Tỷ kheo, Pháp này để cho người có trí
tuệ, Pháp này không phải để cho người ác tuệ; Này các
Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích
hý luận, Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích
hý luận. 16. Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không
để cho người có dục lớn", như vậy đã được nói đến. Do duyên
gì được nói như vậy? 17. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo ít dục không muốn: "Mong
người ta biết tôi là ít dục"; biết đủ, không muốn: "Mong
người ta biết tôi là biết đủ"; sống viễn ly, không muốn: "Mong người ta biết tôi sống viễn ly"; tinh cần tinh tấn, không muốn:
"Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn"; trú niệm,
không muốn: "Mong người ta biết tôi trú niệm"; có định,
không muốn: "Mong người ta biết tôi có định"; có tuệ, không
muốn: "Mong người ta biết tôi là người có tuệ "; không thích
hý luận, không muốn: "Mong người ta biết tôi không thích hý
luận". Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này
không để cho người có dục lớn", đã được nói đến như vậy. Do
duyên này được nói như vậy. 18. Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này
không để cho người không biết đủ", như vậy đã được nói
đến. Do duyên gì được nói như vậy? 19. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ
vật dụng gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người biết đủ, Pháp
này không phải để cho người không biết đủ", đã được nói
đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy. 20, Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người sống viễn ly, "Pháp này
không phải để cho người ưa thích hội chúng", như vậy đã được
nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? 21. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Với Tỷ-kheo sống viễn ly, có
nhiều người đến thăm như Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Ni, nam cư sĩ, nữ
cư sĩ, vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của các ngoại
đạo sư. Ở đây, Tỷ-kheo với tâm thuận về viễn ly, hướng về
viễn ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly, thích thú xuất ly, nói lời hoàn
toàn liên hệ đến lánh xa. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người viễn ly, "Pháp này không phải để cho người không ưa hội
chúng", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như
vậy. 22. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, "Pháp
này không phải để cho người biếng nhác", như vậy đã được nói
đến. Do duyên gì được nói như vậy? 23. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn,
đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu các Pháp thiện, nỗ lực
kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Này các
Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, "Pháp này không phải
để cho người biếng nhác", đã được nói đến như vậy. Do
duyên này được nói như vậy. 24. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người trú niệm, "Pháp này
không phải để cho người thất niệm", như vậy đã được nói
đến. Do duyên gì được nói như vậy? 25. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ niệm, thành
tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã làm,
nói đã lâu. Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người trú niệm,
Pháp này không phải để cho người thất niệm", đã được nói
đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy. 26. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người thiền định, "Pháp
này không phải để cho người không thiền định", như vậy đã
được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? 27. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp ... chứng
đạt và an trú Thiền thứ tư. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho
người thiền định, "Pháp này không phải để cho người không thiền
định", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như
vậy. 28. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người có trí tuệ, "Pháp
này không phải để cho người không trí tuệ", như vậy đã được
nói đến. Do duyên gì được nói như vậy? 29. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có trí tuệ, có trí
tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết trạch),
đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, "Pháp
này để cho người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho người
không trí tuệ", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được
nói như vậy 30. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hý luận,
không thích hý luận, "Pháp này không phải để cho người ưa hý
luận, thích hý luận", như vậy đã được nói đến. Do duyên gì
được nói như vậy? 31. Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với đoạn diệt hý
luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú, hướng đến. Này các
Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích
hý luận, "Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích
hý luận", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói
như vậy. 32. Rồi Tôn giả Anuruddha, mùa mưa an cư đến, đến trú ở giữa dân
chúng Cetì, tại Pacìnavamsadàya. Rồi Tôn giả Anuruddha sống một mình, an tịnh,
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì, các
Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
tức là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại, vị ấy tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng nhập và an trú. Vị ấy chứng rõ: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui
lại trạng thái này nữa" và Tôn giả Anuruddha trở thành một vị A-la-hán
nữa. Rồi Tôn Giả Anuruđha chứng được A-la-hán ngay trong thời gian ấy, nói
lên những bài kệ này: Thế gian vô thượng sư
Khi diệu pháp được giảng
Lại không nắm được thời
Họ vượt qua khỏi thời
Nhiều phi thời được nói
Làm chướng ngại con người
Chỉ năm khi mười họa
Như Lai hiện ở đời
Ðược giáp mặt với Ngài
Rất khó được ở đời
Ðược sanh ra làm người
Và diệu pháp được giảng
Vừa đủ để tinh tấn
Với ai muốn lợi ích
Sao biết rõ diệu pháp
Lại để thời vượt qua!
Kẻ để thời gian qua
Sầu muộn tại địa ngục
Ở đây ai bỏ rơi
Quyết định tánh diệu pháp
Như kẻ buôn mất của
Sẽ sầu não lâu ngày
Người vô minh bao phủ
Vi phạm đến diệu pháp
Phải chịu đựng lâu ngày
Lưu chuyển trong sanh tử
Ai được sanh làm người
Trong thời pháp khéo giảng
Quá khứ, hiện, vị lai
Làm theo lời Ðạo sư
Nắm được thời ở đời
Cho vô thượng Phạm hạnh
Ai đã bước con đường
Do Như Lai thuyết giảng
Những ai sống chế ngự
Do bậc pháp nhãn dạy
Như đã được thuyết giảng
Bậc bà con mặt trời
Hãy sống thường chánh niệm
Hộ trì không tham dục
Chặt đứt mọi tùy miên
Không chạy theo ma giới
Các vị ấy ở đời
Ðến được bờ bên kia
Và họ cũng đạt được
Các lậu hoặc đoạn tận.
Rõ biết tư tưởng ta
Với thân do ý tạo
Thần thông đến với ta
Tùy theo ta nghĩ gì
Ngài thuyết rõ tất cả
Phật không ưa hý luận
Ngài thuyết, không hý luận
Ngộ pháp, ta hoan hỷ
Trú trong giáo pháp ngài
Ba minh đã đạt được
Giáo pháp Phật làm xong.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 25-05-2007