BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
I. Phẩm Chánh Giác
(I) (1) Chánh Giác
1. - Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: 2. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi như sau:
"Thưa chư Hiền, các pháp chánh giác phần lấy gì làm sở y để tu
tập?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy trả lời cho các du sĩ ngoại
đạo như thế nào? - Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn
bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
Thật lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên ý nghĩa của
lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì. - Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3. Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Thưa
chư Hiền, các pháp chánh giác phần, lấy gì làm sở y để tu tập?"
Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải trả lời cho các du sĩ
ngoại đạo ấy như sau: "Ở đây, thưa chư Hiền, Tỷ-kheo làm
bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện. Này
chư Hiền, đây là sở y thứ nhất để tu tập các pháp chánh giác
phần". 4. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới, sống được bảo vệ
với sự bảo vệ của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy
sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học
pháp. Này chư Hiền, đây là sở y thứ hai để tu tập các pháp chánh
giác phần. 5. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo có định, câu chuyện này có
khả năng đoạn giảm hướng thượng đưa đến tâm được rộng mở như luận
về ít dục, luận về biết đủ, luận về viễn ly, luận về
không tụ hội, luận về tinh tấn tinh cần, luận về giới, luận về
định, luận về tuệ, luận về giải thoát, luận về giải thoát tri
kiến, những câu chuyện như vậy, có được không khó khăn, có được
không mệt nhọc, có được không phí sức. Này chư Hiền, đây là
sở y thứ ba để tu tập các pháp chánh giác phần. 6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn để
đoạn tận các pháp bất thiện, để thành tựu các pháp thiện,
nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp. Này
chư Hiền, đây là sở y thứ tư để tu tập các pháp chánh giác phần. 7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có trí tuệ, thành tựu trí
tuệ về sanh và diệt, với Thánh thể nhập (quyết trạch) đi
đến con đường đoạn tận khổ đau. Này chư Hiền, đây là sở y thứ
năm để tu tập các pháp chánh giác phần. 8. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với
thiện, giao thiệp với thiện, thời được chờ đợi như sau: sẽ giữ
giới, sẽ sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn Pàtimokkha,
đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp
nhận và học tập trong các học pháp. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với
thiện, giao thiệp với thiện, thời được chờ đợi như sau: Câu
chuyện này có khả năng đoạn giảm, đưa đến tâm rộng mở, như luận
về ít dục... những câu chuyện như vậy, có được không khó khăn, có
được không mệt nhọc, có được không phí sức. Này các Tỷ-kheo,
với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp
với thiện, thời được chờ đợi như sau: sẽ sống tinh cần tinh tấn để
đoạn tận các pháp bất thiện... trong các thiện pháp. Này các
Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện,
giao thiệp với thiện, thời được chờ đợi như sau: sẽ có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ về sanh và diệt, với Thánh thể nhập đi
đến con đường chơn chánh đoạn tận khổ đau. Và này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo ấy đã trú trong năm pháp này, bốn
pháp nữa cần phải tu tập. Cần phải tu tập tưởng bất tịnh để đoạn tận
tham ái, cần phải tu tập từ tâm để đoạn tận sân, cần phải tu tập
niệm hơi thở vô, hơi thở ra để cắt đứt tầm, cần phải tu tập tưởng
vô thường để phá hoại ngã mạn. Này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo có
tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an trú; với Tỷ-kheo có tưởng vô
ngã, ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại, đạt được Niết-bàn. (II) (2) Y Chỉ 1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: - Ðầy đủ y chỉ, đầy đủ y chỉ, bạch Thế Tôn, được nói lên như
vậy. Bạch Thế Tôn cho đến như thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ y
chỉ? 2. - Nếu Tỷ-kheo y chỉ lòng tin, đoạn tận bất thiện tu tập
thiện, như vậy, với vị ấy, bất thiện được đoạn tận. Nếu
Tỷ-kheo y chỉ tàm (xấu hổ)... nếu Tỷ-kheo y chỉ sợ hãi... nếu
Tỷ-kheo y chỉ tinh tấn... nếu Tỷ-kheo y chỉ trí tuệ, đoạn tận
bất thiện, tu tập thiện, như vậy với vị ấy, bất thiện được
đoạn tận. Như vậy Tỷ-kheo ấy đã đoạn tận, đã khéo đoạn tận bất
thiện, khi bất thiện ấy được thấy với Thánh trí tuệ và được
đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, sau khi Tỷ-kheo ấy an trú trong năm pháp
này, có bốn pháp nữa vị ấy phải y chỉ. Thế nào là bốn? 3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi cân nhắc (ước
lượng), thực hành một sự, sau khi cân nhắc, kham nhẫn một sự, sau khi cân
nhắc, từ bỏ một sự, sau khi cân nhắc, trừ sạch một sự. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ y chỉ. (III) (3) Tôn Gỉa Meghiya
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Càlikà, tại núi Càlikà. Lúc bấy giờ, Tôn
giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng
một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con muốn đi vào làng Jantu để khất thực. - Này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời. 2. Rồi Tôn giả Meghiya vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng Jantu
để khất thực. Sau khi khất thực ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, trên con
đường khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikàlà, trong khi bộ
hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikàla, Tôn giả Meghiya thấy một
rừng xoài đẹp đẽ khả ái. Thấy vậy Tôn giả suy nghĩ: "Rừng xoài này
thật là đẹp đẽ khả ái. Vậy thật là vừa đủ để cho thiện nam tử
ưa thích tinh cần để tinh cần, và nếu Thế Tôn chấp thuận, ta sẽ
đi đến rừng xoài này để tinh cần". 3. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên. Tôn giả Meghiya bạch
Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, ở đây vào buổi sáng con đắp y, cầm y bát và đi vào
làng Jantu để khất thực. Ði khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường
đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikàlà. Bạch Thế Tôn,
khi con bộ hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikàlà, con thấy một rừng
xoài đẹp đẽ khả ái. Thấy vậy, con suy nghĩ như sau: "Rừng xoài này
thật đẹp đẽ, khả ái. Vậy thật là vừa đủ cho thiện nam tử ưa thích
tinh cần để tinh cần, và nếu Thế Tôn chấp thuận ta, ta sẽ đi
đến rừng xoài ấy để tinh cần". - Hãy chờ đợi này Meghiya cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì
chúng ta chỉ có một mình. 4. Lần thứ hai, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm
thêm, không có cái gì cần phải làm thêm vào sự việc đã làm. Còn con,
bạch Thế Tôn, có sự việc cần phải làm thêm, còn có việc cần
phải làm thêm vào sự việc đã làm. Nếu Thế Tôn chấp thuận con,
con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần. - Hãy chờ đợi này Maghiya, cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì
chúng ta chỉ có một mình. 5. Lần thứ ba, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm thêm, không
có cái gì cần phải thêm vào sự việc đã làm. Nếu Thế Tôn chấp
thuận con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần. - Này Meghia, khi Thầy đã nói tinh cần, thời chúng ta có thể còn nói
gì nữa? Vậy này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời. 6. Rồi Tôn giả Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài, ra đi đến rừng xoài ấy, sau khi
đến, đi sâu vào rừng xoài, rồi ngồi nghỉ ban ngày dưới một gốc cây.
Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng ấy, phần lớn ba ác bất thiện tầm
hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm và hại tầm. Rồi Tôn giả Meghiya suy
nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay. Ta vì lòng tin đã
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng ba ác bất thiện tầm
này xâm nhập tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm". 7. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Meghiya bạch
Thế Tôn: - Ở đây, bạch Thế Tôn, khi con sống tại rừng xoài ấy, ba ác bất
thiện tầm hiện hành, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm. Bạch Thế
Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta vì
lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nhưng ba ác bất
thiện tầm này xâm nhập, tức là dục tầm, sân tầm, hại tầm". - Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa
đến thuần thục. Thế nào là năm? 8. Ở đây, này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với
thiện, giao thiệp với thiện. Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa
được thuần thục, đây là pháp thứ nhất đưa đến thuần thục. 9. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo có giới, sống được bảo vệ sự bảo
vệ của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong
những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các học pháp. Này
Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ hai đưa
đến thuần thục. 10. Lại nữa, này Meghiya, câu chuyện này có khả năng đoạn giảm (hướng
thượng) đưa đến tâm được rộng mở, như luận về ít dục, luận
về biết đủ, luận về viễn ly, luận về không tụ hội, luận
về tinh tấn tinh cần, luận về giới, luận về định, luận về
tuệ, luận về giải thoát, luận về giải thoát tri kiến. Những
câu chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức. Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa
được thuần thục, đây là pháp thứ ba đưa đến thuần thục. 11. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn để đoạn
tận các pháp bất thiện, để được đầy đủ các pháp thiện,
nỗ lực, kiên trì không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp. Này
Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ tư đưa
đến thuần thục. 12. Lại nữa, này Meghiya, có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh
và diệt, với Thánh thể nhập đi đến con đường đoạn tận khổ
đau. Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp
thứ năm đưa đến thuần thục. 13. Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với
thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: sẽ sống có
giới, được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ
uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và
học tập trong các học pháp. Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện,
giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: Câu chuyện này có
khả năng đoạn giảm (hướng thượng) như luận về ít dục... Những câu
chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt
nhọc, có được không phí sức. Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với
thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ
đợi như sau: Vị ấy sẽ sống tinh cần tinh tấn... không từ bỏ trách nhiệm
trong các thiện pháp. Này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân
hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: Vị
ấy sẽ có trí tuệ... chơn chánh đoạn tận khổ đau. Và này Meghiya, khi
Tỷ-kheo ấy đến trú trong năm pháp này, bốn pháp nữa cần phải tu tập:
tu tập tưởng bất tịnh để đoạn tận tham ái, tu tập từ bi để đoạn
tận sân, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra để cắt đứt tầm, tu tập
tưởng vô thường để phá hoại ngã mạn. Này Meghiya, với Tỷ-kheo có
tưởng vô thưởng, tưởng vô ngã được tồn tại. Có tưởng vô ngã, thời ngã
mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại đạt được Niết-bàn. (IV) (4) Tôn Giả Nandaka 1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, trong khu vườn ông
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nandaka đang thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo trong hội trường, thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỷ. 2. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, đi
đến hội trường, sau khi đến, đứng ngoài cửa hội trường, chờ đợi
cho cuộc thuyết giảng chấm dứt. Biết được bài giảng đã chấm dứt, Thế Tôn
đằng hắng và gõ vào then cửa. Các Tỷ-kheo ấy mở cửa cho Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn bước vào hội trường và ngồi xuống trên chỗ đã soạn
sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn bảo Tôn giả Nandaka: - Dài thay, này Nandaka là pháp môn này, Thầy đã giảng cho các Tỷ-kheo!
Lưng Ta đã mỏi khi đứng ở ngoài cửa, chờ cho buổi thuyết giảng chấm
dứt. 3. Khi được nói vậy, Tôn giả Nandaka lấy làm bối rối bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, chúng con không biết Thế Tôn đứng ở ngoài cửa.
Nếu chúng con biết Thế Tôn đứng ở ngoài cửa, thời chúng con đã
không nói dài như vậy. Thế Tôn sau khi biết tâm trạng bối rối của Tôn giả Nandaka liền
nói với Tôn giả Nandaka: - Lành thay, lành thay, này Nandaka! Thật là xứng đáng cho các thiện nam
tử các Thầy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các
Thầy ngồi lại với nhau để nghe pháp. Này Nandaka, khi các Thầy hội họp
với nhau, này Nandaka, có hai việc cần phải làm: nói pháp hay giữ yên lặng
của bậc Thánh. Này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin nhưng không có giới, như
vậy vị ấy không đầy đủ về chi phần ấy. Do vậy, cần phải làm cho đầy
đủ chi phần ấy: "Làm thế nào ta có lòng tin và cả giới nữa?".
Và khi nào, này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin và có giới, như vậy vị ấy
đầy đủ về chi phần ấy. Và này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin và có
giới, nhưng nội tâm không được tịnh chỉ; như vậy vị ấy không đầy đủ
về chi phần ấy. Do vậy, cần phải làm cho đầy đủ về chi phần ấy:
"Làm thế nào ta có lòng tin và cả giới và có nội tâm tịnh
chỉ?". Và khi nào, này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin, có giới và có
được tâm tịnh chỉ; như vậy vị ấy đầy đủ về chi phần ấy. Và này
Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, có nội tâm được tịnh chỉ, nhưng
không được tăng thượng tuệ pháp quán, như vậy, vị ấy không đầy đủ
về chi phần ấy. Do
vậy, cần phải làm cho đầy đủ về chi phần ấy: "Làm thế nào ta
có lòng tin, có giới, có được nội tâm tịnh chỉ, và có được tăng thượng
tuệ pháp quán?" Và khi nào, này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin, có
giới, có được nội tâm tịnh chỉ, và có được tăng thượng tuệ pháp
quán, như vậy vị ấy đầy đủ về chi phần ấy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói như vậy xong, Thiện Thệ
từ chỗ ngồi đứng dậy, bước vào tinh xá. 4. Rồi Tôn giả Nandaka khi Thế Tôn đi không bao lâu gọi các
Tỷ-kheo: - Này, này chư Hiền, Thế Tôn với bốn câu, sau khi thuyết trình
Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi
vào tinh xá. "Này Nandaka, Tỷ-kheo có lòng tin... như vậy, vị ấy
được đầy đủ với chi phần ấy". Này chư Hiền, có năm lợi ích này, do nghe pháp đúng thời và luận
đàm về pháp đúng thời. Thế nào là năm? 5. Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn,
trình bày Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Này chư Hiền,
nhiều như thế nào, như thế nào, vị Tỷ-kheo thuyết pháp cho
các Tỷ-kheo, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện... đầy đủ trong
sạch, nhiều như vậy, như vậy, vị ấy ái mộ bậc Ðạo Sư, thích ý,
kính trọng và noi gương theo. Thưa chư Hiền, đây là lợi ích thứ
nhất, do đúng thời nghe pháp, đúng thời đàm luận về pháp. 6. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn..
đầy đủ trong sạch. Này chư Hiền, nhiều như thế nào, như thế
nào, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các Tỷ-kheo sơ thiện... đầy đủ
trong sạch, nhiều như vậy, như vậy, vị ấy thọ trì về nghĩa,
thọ trì về pháp. Thưa chư Hiền, đây là lợi ích thứ hai, do đúng
thời nghe pháp, đúng thời đàm luận về pháp. 7. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo, sơ thiện... đầy đủ trong sạch. Này chư Hiền, nhiều
như thế nào, như thế nào, vị ấy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo
sơ thiện... đầy đủ trong sạch, này chư Hiền, nhiều như vậy, như
vậy, vị ấy, sau khi thể nhập nghĩa cú thâm sâu trong pháp ấy, vị ấy
thấy. Này chư Hiền, đây là lợi ích thứ ba, do nghe pháp đúng thời và
đàm luận về pháp đúng thời. 8. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các Tỷ-kheo
sơ thiện... đầy đủ trong sạch. Này chư Hiền, nhiều như thế
nào, như thế nào, vị ấy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo sơ
thiện... đầy đủ trong sạch, nhiều như vậy, như vậy, các vị đồng
Phạm hạnh tôn trọng noi gương thêm nữa, nghĩ rằng: "Vị ấy đã chứng
hay sẽ chứng". Này chư Hiền, đây là lợi ích thứ tư, do nghe pháp
đúng thời và đàm luận về pháp đúng thời. 9. Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các Tỷ-kheo
sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Này chư Hiền, nhiều như thế
nào, như thế nào, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các Tỷ-kheo sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày Phạm
hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Ở đây, ở đây các Tỷ-kheo nào
là hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu sự vô thượng an ổn,
khỏi các khổ ách, họ được nghe pháp ấy, khởi lên tinh tấn để chứng
đạt được những gì chưa được chứng đạt, để chứng đắc những gì
chưa được chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa được chứng ngộ.
Còn các Tỷ-kheo nào ở đây là các bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn
tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng
xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí
giải thoát. Những vị ấy sau khi nghe pháp, sống chú tâm vào hiện tại lạc
trú. Này chư Hiền, đây là lợi ích thứ năm, do nghe pháp đúng thời và
do đàm luận về pháp đúng thời. Này chư Hiền, đó là năm lợi ích do nghe pháp đúng thời, và do đàm
luận về pháp đúng thời. (V) (5) Những Sức Mạnh
1. - Này các Tỷ-kheo, có bốn sức mạnh này. Thế nào là bốn? 2. Tuệ lực, tấn lực, vô tội lực, năng nhiếp lực. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là tuệ lực? 3. Những pháp nào bất thiện được xem là bất thiện; những pháp nào
thiện được xem là thiện; những pháp nào có tội được xem là có
tội; những pháp nào vô tội được xem là vô tội, những pháp nào đen được
xem là đen; những pháp nào trắng được xem là trắng; những pháp nào không
nên thực hiện được xem là không nên thực hiện; những pháp nào nên
thực hiện được xem là nên thực hiện; những pháp nào không xứng
đáng bậc Thánh được xem là không xứng đáng bậc Thánh; những pháp nào
xứng đáng bậc Thánh được xem là xứng đáng bậc Thánh. Những pháp ấy cần
phải được khéo quán sát, khéo thẩm sát với trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn lực? 4. Những pháp nào bất thiện được xem là bất thiện; những pháp nào
có tội được xem là có tội; những pháp nào đen được xem là đen; những
pháp nào không nên thực hiện được xem là không nên thực hiện; những
pháp nào không xứng đáng bậc Thánh được xem là không xứng đáng bậc
Thánh. Ðối với các pháp ấy, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách
tâm, trì tâm để đoạn tận. Những pháp nào thiện được xem là
thiện; những pháp nào vô tội được xem là vô tội, những pháp nào trắng
được xem là trắng; những pháp nào nên thực hiện được xem là nên thực
hiện; những pháp nào xứng đáng bậc Thánh được xem là xứng đáng bậc
Thánh. Ðối với các pháp ấy, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách
tâm, trì tâm để chứng được. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn
lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô tội lực? 5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử thành tựu thân
nghiệp vô tội, thành tựu khẩu nghiệp vô tội, thành tựu ý
nghiệp vô tội. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô tội lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là năng nhiếp lực? 6. Này các Tỷ-kheo, có bốn Nhiếp pháp này: bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sự. Tối thượng trong các loại bố thí, này các Tỷ-kheo, là
pháp thí. Tối thượng trong các loại ái ngữ, này các Tỷ-kheo là tiếp
tục thuyết pháp cho những ai hy cầu và lóng tai nghe. Tối thượng trong các
lợi hành, này các Tỷ-kheo, là đối với người không có lòng tin, khích
lệ, đặt vào, an trú vào đầy đủ lòng tin; đối với người không giữ
giới, khích lệ, đặt vào, an trú vào đầy đủ giới; đối với người xan
tham khích lệ, đặt vào an trú vào bố thí; đối với người ác tuệ,
khích lệ, đặt vào, an trú vào đầy đủ trí tuệ. Này các Tỷ-kheo,
tối thượng trong đồng sự là đồng sự giữa bậc Dự Lưu với bậc Dự Lưu, bậc
Nhất Lai với bậc Nhất Lai, bậc Bất Lai với bậc Bất Lai, bậc A-la-hán với bậc
A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, đây là sức mạnh năng nhiếp. Này các Tỷ-kheo, đó là bốn sức mạnh. 7. Thành tựu bốn sức mạnh ấy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử vượt
qua năm sợ hãi. Thế nào là năm? 8. Sợ hãi về sinh sống, sợ hãi về tiếng đồn xấu, sợ hãi
về xấu hổ trong hội chúng, sợ hãi về chết, sợ hãi về ác thú.
Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử ấy thẩm sát như sau: 9. "Ta không sợ hãi sự sợ hãi về sinh sống. Vì sao? Ta có bốn lực này: tuệ lực, tinh tấn lực, vô tội
lực, năng nhiếp lực. Kẻ ác tuệ có thể sợ hãi sự sợ hãi về
sinh sống. Kẻ biếng nhác có thể sợ hãi sự sợ hãi về sinh sống.
Kẻ có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có tội có thể sợ
hãi sự sợ hãi về sinh sống. Kẻ không năng nhiếp có thể sợ hãi
sự sợ hãi về sinh sống. Ta không có sợ sự sợ hãi về tiếng đồn
xấu... Ta không có sợ sự sợ hãi về xấu hổ trong hội chúng... Ta không có
sợ sự sợ hãi về chết... Ta không có sợ sự sợ hãi về ác thú. Vì
sao? Ta có bốn lực này: tuệ lực, tinh tấn lực, vô tội lực, năng nhiếp
lực. Kẻ ác tuệ lực có thể sợ hãi sự sợ hãi về ác thú; kẻ
biếng nhác có thể sợ hãi sự sợ hãi về ác thú; kẻ có thân
nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có thể sợ hãi sự sợ hãi
về ác thú; kẻ không năng nhiếp có thể sợ hãi sự sợ hãi về
ác thú." Thành tựu bốn lực ấy, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử vượt qua năm
sự sợ hãi này. (VI) (6) Cần Phải Thân Cận 1. Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo: "Này chư
Hiền". - "Thưa Hiền giả". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau: 2. - Này chư Hiền, con người cần phải được tìm hiểu trên hai
phương diện: cần phải thân cận hay không cần phải thân cận. Y áo, này
chư Hiền, cần phải tìm hiểu trên hai phương diện: cần được sử
dụng hay không cần được sử dụng. Ðồ ăn khất thực, này chư Hiền, cần
phải được tìm hiểu trên hai phương diện: cần được sử dụng hay
không cần được sử dụng. Sàng tọa, này chư Hiền, cần phải được
tìm hiểu trên hai phương diện: cần được sử dụng hay không cần được sử
dụng. Làng và thị trấn, này chư Hiền, cần phải được tìm hiểu trên
hai phương diện: cần được tìm đến hay không cần được tìm đến. Quốc độ,
này chư Hiền, cần phải được tìm hiểu trên hai phương diện: cần
được tìm đến hay không cần được tìm đến. 3. Con người, này chư Hiền, cần phải được tìm hiểu trên hai
phương diện: cần phải thân cận hay không cần phải thân cận được nói
đến như vậy. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, khi biết được về một người như sau: "Người này,
nếu ta thân cận, thời các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp
thiện bị đoạn giảm. Các vật dụng cần thiết cho đời sống xuất gia mà
ta phải có như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh, những vật dụng ấy có được một cách khó khăn. Và vì mục đích
gì ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Mục đích của Sa-môn
hạnh ấy, không đi đến tu tập viên mãn". Ðối với một người như
vậy, này chư hiền, bất luận đêm hay ngày, không hỏi gì, cần phải bỏ
đi, không được theo người ấy. Ở đây, khi biết được một người
như sau: "Người này, nếu ta thân cận, thời các pháp bất thiện
tăng trưởng, các pháp thiện bị đoạn giảm. Các vật dụng cần thiết
cho đời sống xuất gia mà ta phải có như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng ấy có được một cách không
khó khăn. Và vì mục đích gì ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia
đình. Mục đích của Sa-môn hạnh ấy, không đi đến tu tập viên mãn".
Ðối với một người như vậy, này chư Hiền, sau khi tính toán, không hỏi
gì, cần phải bỏ đi, không được theo người ấy. Ở đây, khi biết
được một người như sau: "Người này, nếu ta thân cận, thời các
pháp bất thiện giảm thiểu, các pháp thiện tăng trưởng, những vật
dụng cần thiết cho đời sống xuất gia mà ta phải có như y áo, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng ấy có
được một cách khó khăn. Và vì mục đích gì ta xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Mục đích của Sa-môn hạnh ấy, đi đến tu tập viên
mãn". Này chư Hiền, đối với một người như vậy, sau khi tính toán,
cần phải theo người ấy, không được bỏ đi. Ở đây, sau khi biết
được một người như sau: "Người này, nếu ta thân cận, thời các
pháp bất thiện giảm thiểu, các pháp thiện tăng trưởng, những vật
dụng cần thiết cho đời sống xuất gia mà ta phải có như y áo, đồ ăn
khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng ấy có
được một cách không khó khăn. Và vì mục đích gì ta xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình. Mục đích của Sa-môn hạnh ấy, đi đến tu tập
viên mãn". Này chư Hiền, đối với một người như vậy, cần phải theo
cho đến trọn đời, không được bỏ đi, dầu có bị từ chối. Này chư Hiền, một người cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: cần được thân cận và không cần được thân cận đã
được nói đến như vậy, chính do duyên này được nói đến. 4. Y áo, này chư Hiền, cần phải được hiểu biết theo hai phương
diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng đã được nói
đến như vậy. Do duyên gì được nói đến? Ở đây, sau khi biết được về y như sau: "Nếu ta sử dụng
y này, các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp thiện đoạn giảm; y
như vậy không nên sử dụng". Ở đây, sau khi biết được về y
như sau: "Nếu ta sử dụng y này, các pháp bất thiện đoạn giảm,
các pháp thiện tăng trưởng; y như vậy nên sử dụng". Này chư Hiền, y áo cần phải được hiểu biết theo hai phương
diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng, được nói
đến như vậy, do duyên này được nói đến. 5. Ðồ ăn khất thực, này chư Hiền, cần phải được hiểu biết
theo hai phương diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng đã
được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến? Ở đây, sau khi biết được về đồ ăn khất thực như sau:
"Nếu ta sử dụng đồ ăn khất thực này, các pháp bất thiện tăng
trưởng, các pháp thiện đoạn giảm; đồ ăn khất thực như vậy không nên
sử dụng". Ở đây, sau khi biết được về đồ ăn khất thực như
sau: "Nếu ta sử dụng đồ ăn khất thực này, các pháp bất thiện
đoạn giảm, các pháp thiện tăng trưởng; đồ ăn khất thực như vậy nên
sử dụng". Này chư Hiền, đồ ăn khất thực cần phải được hiểu biết theo
hai phương diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng đã
được nói đến như vậy, do duyên này được nói đến. 6. Sàng tọa, này chư Hiền, cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng đã được
nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến? Ở đây, sau khi biết được về sàng tọa như sau: "Nếu
ta sử dụng sàng tọa này, các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp
thiện đoạn giảm; sàng tọa như vậy không nên sử dụng". Ở
đây, sau khi biết được về sàng tọa như sau: "Nếu ta sử
dụng sàng tọa này, các pháp bất thiện đoạn giảm, các pháp thiện
tăng trưởng; sàng tọa như vậy nên sử dụng". Này chư Hiền, sàng tọa cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: cần được sử dụng hay không cần được sử dụng được nói
đến như vậy, do duyên này được nói đến. 7. Làng, thị trấn, này chư Hiền, cần phải được hiểu biết theo
hai phương diện: cần được tìm đến và không cần được tìm đến đã
được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến? Ở đây, sau khi biết được về làng, thị trấn như sau:
"Nếu ta tìm đến làng, thị trấn này, các pháp bất thiện tăng
trưởng, các pháp thiện đoạn giảm; làng và thị trấn như vậy không nên
được tìm đến". Ở đây, sau khi biết được về làng, thị
trấn như sau: "Nếu ta tìm đến làng, thị trấn, các pháp bất
thiện đoạn giảm, các pháp thiện tăng trưởng; làng, thị trấn như vậy
cần được tìm đến". Này chư Hiền, làng, thị trấn cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: cần được tìm đến hay không cần được tìm đến,
được nói đến như vậy, do duyên này được nói đến. 8. Quốc độ, này chư Hiền, cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: cần được tìm đến và không cần được tìm đến đã
được nói như vậy. Do duyên gì được nói đến? Ở đây, sau khi biết được về quốc độ như sau: "Nếu ta
tìm đến quốc độ này, các pháp bất thiện tăng trưởng, các pháp
thiện đoạn giảm; quốc độ như vậy không nên được tìm đến".
Ở đây, sau khi biết được về quốc độ như sau: "Nếu ta
tìm đến quốc độ này, các pháp bất thiện đoạn giảm, các pháp
thiện tăng trưởng; quốc độ như vậy nên được tìm đến". Này chư Hiền, quốc độ cần phải được hiểu biết theo hai
phương diện: nên được tìm đến hay không nên được tìm đến,
được nói đến như vậy, do duyên này được nói đến. (VII) (7) Du Sĩ Sutavà
1. Như vậy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại núi Gijjhakùta. Rồi du sĩ Sutavà
đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu
liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Sutavà bạch
Thế Tôn; 2. - Bạch Thế Tôn, có một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại
Giribbaja. Tại đây, bạch Thế Tôn, con có nghe từ miệng Thế Tôn, con
có chấp nhận từ miệng Thế Tôn: "Này Sutavà, Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã tận các lậu hoặc,
đã thành tựu viên mãn, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống,
mục đích đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận, chơn chánh giải
thoát; vị ấy không có thể làm năm sự: Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc không có thể có ý đoạt mạng sống của loài hữu tình;
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể lấy của không cho
được gọi là ăn trộm; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có
thể hành dâm dục; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có
thể biết mà nói láo; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có
thể hưởng thọ các dục do các đồ cất chứa đem lại, như trước còn
làm gia chủ". Bạch Thế Tôn, như vậy không biết con có khéo nghe,
khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì lời Thế Tôn dạy hay
không? 3. - Thật vậy, này Sutavà, như vậy Thầy đã khéo nghe, khéo nắm giữ, khéo
tác ý, khéo thọ trì. Xưa kia, và cả nay nữa, này Sutavà, Ta đã nói như sau:
"Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu viên
mãn, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục đích đã đạt được, hữu
kiết sử đã đoạn tận, chơn chánh giải thoát, vị ấy không có thể vi phạm năm
sự: Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có thể cố ý đoạt mạng sống của
loài hữu tình; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có thể cố ý lấy của không cho được gọi là ăn trộm; Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, không có thể hành dâm dục; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc, không có thể biết mà nói láo; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có
thể hưởng thọ các dục do các đồ ăn cất chứa đem lại, như trước còn làm gia
chủ; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có thể đi đến dục; Tỷ-kheo đã
đoạn tận các lậu hoặc, không có thể đi đến sân; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc, không có thể đi đến si; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có thể
đi đến sợ hãi". Xưa kia và cả nay nữa, Ta nói như sau: "Tỷ-kheo nào là bậc
A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu viên mãn, việc nên làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục đích đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận,
chơn chánh giải thoát; vị ấy không có thể vi phạm chín sự". (VIII) (8) Du Sĩ Sajjha 1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakùta. Rồi
du sĩ Sajjha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn
những lời chào đón hỏi thăm xã giao, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ
Sajjha bạch Thế Tôn: 2. - Bạch Thế Tôn, có một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại
Giribaja. Tại đây, bạch Thế Tôn, con có nghe từ miệng Thế Tôn, con
có chấp nhận từ miệng Thế Tôn. " Này Sajjha, Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn các lậu hoặc,
Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục
đích đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận, chơn chánh giải thoát;
vị ấy không có thể vi phạm năm sự: Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc không có thể cố ý đoạt mạng sống của loài hữu tình;
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có thể lấy của không cho,
được gọi là ăn trộm; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có
thể hành dâm dục; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có
thể biết mà nói láo; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không
có thể hưởng thọ các dục do các đồ cất chứa đem lại, như trước
làm gia chủ". Bạch Thế Tôn, như vậy không biết con có khéo nghe,
khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì lời Thế Tôn dạy hay
không? 3. - Thật vậy, này Sajjha, như vậy Thầy đã khéo nghe, khéo nắm giữ, khéo
tác ý, khéo thọ trì. Xưa kia và cả nay nữa, này Sajjha, Ta đã nói
như sau: "Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã
thành tựu viên mãn, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục
đích đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận, chơn chánh giải thoát;
vị ấy không có thể vi phạm chín sự: Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu
hoặc không có thể cố ý đoạt mạng sống của loài hữu tình;
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể lấy của không cho,
được gọi là ăn trộm; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có
thể hành dâm dục; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không có
thể biết mà nói láo; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, không
có thể hưởng thọ các dục do các đồ cất chứa đem lại, như trước
còn làm gia chủ. Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể phủ
nhận Phật; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể phủ nhận
Pháp; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể phủ nhận chúng
Tăng; Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc không có thể phủ nhận
Học pháp". - Xưa kia và cả nay nữa, Ta tuyên bố như sau: "Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã
thành tựu viên mãn, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục
đích đã đạt được, hữu kiết sử đã đoạn tận, chơn chánh giải thoát;
vị ấy không có thể vi phạm chín sự". (IX) (9) Các Hạng Người
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín hạng người này có mặt, hiện hữu ở
đời. Thế nào là chín? 2. Bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến chứng đắc quả A-la-hán; bậc Bất
lai, bậc đã hướng đến chứng đắc quả Bất lai; bậc Nhất lai, bậc đã
hướng đến chứng đắc quả Nhất lai; bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến
chứng đắc quả Dự lưu; kẻ phàm phu. Này các Tỷ-kheo, có chín hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. (X) (10) Ðáng Cung Kính 1. - Này các Tỷ-kheo, có chín hạng người này đáng được cung kính,
đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chắp tay, là ruộng phước vô
thượng ở đời. Thế nào là chín? 2. Bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến chứng đắc quả A-la-hán; bậc Bất
lai, bậc đã hướng đến chứng đắc quả Bất lai; bậc Nhất lai, bậc đã
hướng đến chứng đắc quả Nhất Lai; bậc Dư lưu, bậc đã hướng đến
chứng đắc quả Dự lưu; bậc chuyển tánh (gotrabhù).
II. Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử
(I) (11) Sau Khi An Cư
1. Như vậy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika, rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con đã sống an cư trong mùa mưa tại Sàvatthi. Bạch
Thế Tôn, nay con muốn ra đi du hành trong quốc độ. - Này Sàriputta, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời. Rồi Tôn giả Sàriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn,
thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi. 2. Rồi một Tỷ-kheo, sau khi Tôn giả Sàriputta ra đi không bao lâu, bạch
Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta xâm phạm con, đã bỏ đi du hành,
không có xin lỗi con. Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo: - Này Tỷ-kheo, hãy đến nhân danh Ta, nói với Sàriputta: "Thưa
Hiền giả, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả". - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tỷ-kheo ấy, vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Sàriputta, sau
khi đến, nói với Tôn giả Sàriputta: - Thưa Hiền giả Sàriputta, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả. - Thưa vâng, này Hiền giả. Tôn giả Sàriputta vâng đáp Tỷ-kheo ấy. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahà
Moggallàna và Tôn giả Ananda cầm chìa khóa, đi từ tinh xá này đến tinh
xá khác nói rằng: - Chư Tôn giả hãy đến! Chư Tôn giả hãy đến! Nay Tôn giả
Sàriputta sẽ rống tiếng rống con sư tử trước mặt Thế Tôn. 3. Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên Thế Tôn, nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi
xuống một bên: - Ở đây, này Sàriputta, một đồng Phạm hạnh có điều bất mãn với
Thầy: "Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta xâm phạm con đã bỏ đi du hành, không
có xin lỗi con". 4. - Thật vậy, bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm trên
thân, người ấy, ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể
bỏ đi du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, trên đất, người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ
bất tịnh, quăng phẩn uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng
mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không xấu hổ, hay không nhàm
chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như đất, rộng rãi,
rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an
trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm
hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, trong nước người ta rửa đồ tịnh, rửa đồ bất
tịnh, rửa sạch phẩn uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước
miếng, rửa sạch máu, rửa sạch mủ; tuy vậy nước không lo âu, không xấu
hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như
nước, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế
Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm
một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, lửa đốt các đồ tịnh, đốt các đồ bất tịnh,
đốt phẩn uế, đốt nước tiểu, đốt nước miếng, đốt mủ, đốt
máu; tuy vậy lửa không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, con an trú với tâm như lửa, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng,
không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm,
người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi
du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, gió thổi các đồ tịnh, thổi các đồ bất tịnh,
thổi phẩn uế, thổi nước tiểu, thổi nước miếng, thổi mủ, thổi
máu; tuy vậy gió không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, con an trú với tâm như gió, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng,
không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm,
người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi
du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, một miếng vải lau chùi lau các đồ tịnh, lau
các đồ bất tịnh, lau phẩn uế, lau nước tiểu, lau nước miếng, lau
mủ, lau máu; tuy vậy miếng vải lau chùi không lo âu, không xấu hổ, không
nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như miếng vải
lau chùi, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế
Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm
một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, con trai của một người Candàla (Chiên-đà-la: hạ
liệt) hay con gái của một người Candàla, với tay cầm bát ăn xin, mặc đồ
rách rưới, đi vào làng hay đi vào thị trấn, với một tâm trạng hạ liệt.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm giống như con trai của một người
Candàla hay con gái của một người Candàla,
rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với
ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị
đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, một con bò đực, với sừng bị cưa, hiền
lương, khéo điều phục, khéo huấn luyện, đi lang thang từ đường này
đến đường khác, từ ngã tư này đến ngã tư khác, không hại một ai
với chân hay với sừng. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm giống
như một con bò đực với sừng bị cưa, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không
hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người
ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du
hành, không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, một nữ nhân hay một nam nhân còn trẻ tuổi, thanh
niên, ưa thích trang điểm, sau khi gội đầu, sẽ lo âu, xấu hổ, nhàm chán
nếu xác rắn, hay xác chó, hay xác người được cuốn vào cổ người ấy.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con lo âu, xấu hổ, nhàm chán với cái thân đầy
bất tịnh này. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy
ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành,
không có xin lỗi. Ví như, bạch Thế Tôn, có người mang một cái bát đầy mỡ, có thủng
nhiều lỗ, thủng nhiều đường, bị chảy, bị rỉ. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, con mang cái thân này, có thủng nhiều lỗ, có thủng
nhiều đường, bị chảy, bị rỉ. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân
niệm, người ấy ở đây, sau khi xâm phạm một vị đồng Phạm hạnh, có
thể bỏ đi du hành, không có xin lỗi. 5. Rồi Tỷ-kheo ấy từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một
bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con đã phạm một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất
thiện. Con đã xuyên tạc Tôn giả Sàriputta, không ý thức,
trống không, vọng ngôn, không thật. Mong Thế Tôn chấp nhận cho con tội
ấy là một tội để con ngăn đón về tương lai. - Này Tỷ-kheo, thật là một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất
thiện, Thầy đã xuyên tạc Tôn giả Sàriputta, không ý thức, trống
không, vọng ngôn, không thật. Này Tỷ kheo, vì Thầy đã thấy tội ấy là
một tội, đã phát lộ đúng pháp, Ta chấp nhận tội ấy cho Thầy. Ðây là một
sự tiến bộ, này Tỷ-kheo, trong Pháp Luật của bậc Thánh, những ai thấy
tội là tội, phát lộ đúng pháp, và ngăn đón trong tương lai. 6. Rồi Thế Tôn, nói với Tôn giả Sàriputta: - Này Sàriputta, hãy tha thứ kẻ ngu si này, trước khi ở đây, đầu nó sẽ
bị vỡ tan làm bảy mảnh. - Bạch Thế Tôn, con tha thứ cho Tôn giả ấy, nếu Tôn giả ấy nói với
con: "Hãy tha thứ cho", và cũng mong Tôn giả ấy tha thứ cho con. (II) (12) Không Có Dư Y 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika, rồi Tôn giả Sàriputta vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào
Sàvatthi để khất thực. Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau: "Nay còn
quá sớm để vào Sàvatthi khất thực. Vậy ta hãy đi đến khu vườn của
các du sĩ ngoại đạo". Tôn giả Sàriputta đi đến khu vườn các du sĩ
ngoại đạo, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời
chào đón hỏi thăm , sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền ngồi xuống một bên. 2. Lúc bấy giờ, trong khi các du sĩ ngoại đạo ấy đang ngồi tụ họp,
câu chuyện này khởi lên: "Thưa chư Hiền, ai chết có dư y, tất
cả không được giải thoát khỏi địa ngục, không được giải thoát khỏi bàng
sinh, không được giải thoát ngạ quỷ, không được giải thoát khỏi cõi
dữ, ác thú, đọa xứ". 3. Rồi Tôn giả Sàriputta không hoan hỷ, không chỉ trích lời nói các du
sĩ ngoại đạo ấy, không hoan hỷ, không chỉ trích, Tôn giả từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi, với ý nghĩ: "Ta sẽ biết ý nghĩa lời
nói này từ Thế Tôn". Rồi Tôn giả Sàriputta khất thực ở Sàvatthi
xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn: - Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát đi
vào Sàvatthi để khất thực. Bạch Thế Tôn, rồi con suy nghĩ như sau:
"Nay còn quá sớm để vào Sàvatthi khất thực. Vậy ta hãy đi đến
khu vườn các du sĩ ngoại đạo, sau khi đến, con nói lên với các du sĩ
ngoại đạo những lời chào đón, hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, con ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ, trong khi các du
sĩ ngoại đạo đang ngồi tụ họp, câu chuyện này khởi lên: "Thưa
chư Hiền, ai chết có dư y, tất cả người ấy không được giải thoát
khỏi địa ngục, không được giải thoát khỏi bàng sinh, không được giải
thoát ngạ quỷ, không được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa
xứ". Rồi bạch Thế Tôn, con không hoan hỷ, không chỉ trích lời nói
các du sĩ ngoại đạo ấy. Không hoan hỷ, không chỉ trích, con từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi, với ý nghĩ rằng: "Ta sẽ biết ý
nghĩa lời nói này từ Thế Tôn". 4. - Này Sàriputta, một số các du sĩ ngoại đạo là những kẻ ngu si, không
thông minh, một số sẽ biết: "Người có dư y là người có dư y",
hay sẽ biết: "Người không có dư y là người không có dư y". Này
Sàriputta, có chín hạng người này, khi chết có dư y, được giải thoát
khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng sinh, được giải thoát khỏi
ngạ quỷ, được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú , đọa xứ. Thế
nào là chín? 5. Ở đây, này Sàriputta, có hạng người viên mãn trong các giới, viên
mãn trong định, nhưng không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi diệt
tận năm hạ phần kiết sử, là vị Trung gian Bát-niết-bàn (antarà
parinibbàyì). Này Sàriputta, đây là hạng người thứ nhất , khi chết có
dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng
sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi cõi dữ, ác
thú, đọa xứ. 6. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
viên mãn trong định, nhưng không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận năm hạ phần kiết sử, là vị Tổn hại Bát-niết-bàn
(uppahacca parinibbàyì). Này Sàriputta, đây là hạng người thứ hai, khi
chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi
loài bàng sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi
cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
viên mãn trong định, nhưng không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận năm hạ phần kiết sử, là vị Vô hành Bát Niết Bàn
(asankhàra parinibbàyì). Này Sàriputta, đây là hạng người thứ ba, khi
chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi
loài bàng sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi
cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
viên mãn trong định, nhưng không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận năm hạ phần kiết sử, là vị Hữu hành Bát-niết-bàn
(sasankhàra parinibbàyì). Này Sàriputta, đây là hạng người thứ tư, khi
chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi
loài bàng sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi
cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
viên mãn trong định, nhưng không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận năm hạ phần kiết sử, là vị Thượng Lưu đi đến Sắc cứu
cánh thiên (uddhamsota akanitthagàmì). Này Sàriputta, đây là hạng người thứ
năm, khi chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải
thoát khỏi loài bàng sinh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải
thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ. 7. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
không viên mãn trong định, không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận ba kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, là vị Nhất Lai, còn
đến thế giới này một lần nữa, rồi đoạn tận khổ đau. Này Sàriputta,
đây là hạng người thứ sáu, khi chết có dư y, được giải thoát khỏi
địa ngục... được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ. 8. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
không viên mãn trong định, không viên mãn trong tuệ. Vị ấy, sau khi
diệt tận ba kiết sử, là vị Nhất Chủng (ekabìji), còn sanh hiện hữu
làm người một lần nữa rồi đoạn tận khổ đau. Này Sàriputta, đây là hạng
người thứ bảy, khi chết có dư y, được giải thoát khỏi địa ngục...
được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ. 9. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
thành tựu vừa phải trong định, thành tựu vừa phải trong tuệ. Vị ấy, sau
khi diệt tận ba kiết sử, là vị Gia gia (kolankolo), sau khi dong ruỗi,
sau khi luân chuyển hai hay ba gia đình, rồi đoạn tận khổ đau. Này
Sàriputta, đây là hạng người thứ tám, khi chết có dư y, được giải
thoát khỏi địa ngục... được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ. 10. Lại nữa, này Sàriputta, ở đây có hạng người viên mãn trong các giới,
thành tựu vừa phải trong định, thành tựu vừa phải trong tuệ. Vị ấy, sau
khi diệt tận ba kiết sử, là vị trở lui tối đa là bảy lần (Thất Lai,
sattakkhattu-paramo), sau khi dong ruỗi, sau khi luân chuyển, tối đa là bảy
lần giữa chư Thiên và loài Người, rồi đoạn tận khổ đau. Này Sàriputta,
đây là hạng người thứ chín, khi chết có dư y, được giải thoát khỏi
địa ngục, được giải thoát khỏi bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ
quỷ, được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Này Sàriputta, một số người du sĩ ngoại đạo là ngu si, không thông minh,
một số người sẽ biết: "Có dư y là có dư y" hay một số người
sẽ biết: "Không có dư y là không dư y". Này Sàriputta, chín hạng người này, khi chết có dư y, được giải
thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải
thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi cõi dữ, ác thú, đọa xứ.
Nhưng này Sàriputta, cho đến nay, pháp môn này chưa được nói cho các
Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, các nam cư sĩ, các nữ cư sĩ. Vì cớ sao? Mong
rằng khi nghe pháp môn này, họ không đem lại phóng dật. Lại nữa, này
Sàriputta, pháp môn này được Ta nói đến vì Ta được hỏi đến. (III) (13) Tôn Giả Mahàkotthita
1. Rồi Tôn giả Mahàkotthita đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến,
chào đón hỏi thăm Tôn giả Sàriputta, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Mahàkotthita nói với Tôn giả Sàriputta: - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ hiện tại, mong
rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ trong tương lai"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ tương lai, mong
rằng nghiệp ấy, ta được cảm thọ trong hiện tại"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm giác là lạc thọ, mong
rằng nghiệp ấy ta được cảm giác là khổ thọ?" - Không phải vậy, thưa Hiền giả. -Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với
hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm giác là khổ thọ, mong rằng
nghiệp ấy ta được cảm giác là lạc thọ"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. -Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với
hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là thuần thục, mong
rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là không thuần thục"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là không thuần
thục, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là thuần thục"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là nhiều, mong
rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là ít"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là ít, mong rằng
nghiệp ấy ta cảm thọ là nhiều"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì không được cảm thọ, mong rằng
nghiệp ấy ta được cảm thọ"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. - Thưa Hiền giả Sàriputta, có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn
với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ, mong rằng
nghiệp ấy ta không được cảm thọ"? - Không phải vậy, thưa Hiền giả. 2. - Thưa Hiền giả Sàriputta, vì sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm
hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ hiện tại, mong
rằng nghiệp ấy, ta được cảm thọ trong tương lai?" Hiền giả trả lời: "Không
phải vậy, thưa Hiền giả?" Thưa Hiền giả Sàriputta, vì sao khi được hỏi: "Có
phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ
tương lai, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ hiện tại?" Hiền giả trả lời:
"Không phải vậy, thưa Hiền giả". Thưa Hiền giả Sàriputta, vì sao khi được
hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm giác là lạc thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm giác là khổ thọ"?. Hiền
giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải
sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm giác là
khổ thọ, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm giác là lạc thọ"?. Hiền giả trả
lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải sống
Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ thuần phục,
mong rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ là không thuần phục"?. Hiền giả trả lời:
"Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm
hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ không thuần
phục, mong rằng nghiệp ấy ta được cảm thọ là thuần phục"?. Hiền giả trả lời:
"Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm
hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là nhiều, mong
rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là ít"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa
Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy
vọng: "Phàm nghiệp gì được cảm thọ là ít, mong rằng nghiệp ấy ta cảm thọ là
nhiều"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được
hỏi: "Có phải sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì được
cảm thọ, mong rằng nghiệp ấy ta không được cảm thọ"?. Hiền giả trả lời:
"Không phải vậy, thưa Hiền giả". Vì sao khi được hỏi: "Có phải sống Phạm
hạnh dưới Thế Tôn với hy vọng: "Phàm nghiệp gì không được cảm thọ, mong rằng
nghiệp ấy ta được cảm thọ"?. Hiền giả trả lời: "Không phải vậy, thưa Hiền
giả". Vì mục đích gì sống Phạm hạnh dưới Thế Tôn? 3. - Thưa Hiền giả, với những gì không biết, không thấy, không
đạt, không chứng ngộ, không hiện quán, với mục đích để được
biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ, được hiện quán mà
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. - Nhưng thưa Hiền giả, do không biết gì, không thấy gì, không đạt
gì, không chứng ngộ gì, không hiện quán gì, với mục đích để được
biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ, được hiện quán, mà
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn? - "Ðây là Khổ", này Hiền giả, là điều không được
biết, không được thấy, không đạt, không chứng ngộ, không hiện quán,
với mục đích để được biết, được thấy... mà Phạm hạnh được
sống dưới Thế Tôn. "Ðây là Khổ tập"... "Ðây là Khổ
diệt"... "Ðây là con Ðường đưa đến khổ diệt", này
Hiền giả, là điều không được biết, không được thấy, không
được đạt, không được chứng ngộ, không được hiện quán, với mục
đích được biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ, được
hiện quán, mà Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. Thưa Hiền giả,
đây là điều không được biết, không được thấy, không đạt, không
được chứng ngộ, không được hiện quán, với mục đích để được
biết, được thấy, được đạt, được chứng ngộ, được hiện quán, mà
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn. (IV) (14) Tôn Giả Samiddhi 1. Rồi Tôn giả Samiddhi đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, chào
đón hỏi thăm Tôn giả Sàriputta, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Sàriputta nói với
Tôn giả Samiddhi đang ngồi xuống một bên: - Do sở duyên gì, này Samiddhi, một người khởi lên các tư duy tầm? - Do danh sắc làm sở duyên, thưa Tôn giả. - Nhưng này Samiddhi, cái gì khiến chúng đi đến sai khác? - Các giới, thưa Tôn giả. - Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì làm tập khởi? - Lấy xúc làm tập khởi, thưa Tôn giả. - Này Samiddhi, chúng qui tụ ở đâu? - Chúng qui tụ ở các cảm thọ, thưa Tôn giả. - Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì làm thượng thủ? - Chúng lấy định làm thượng thủ, thưa Tôn giả. - Nhưng này Samiddhi, chúng lấy gì làm tăng thượng? - Chúng lấy niệm làm tăng thượng, thưa Tôn giả. - Này Samiddhi, chúng lấy cái gì làm tối thượng? - Chúng là tuệ làm tối thượng, thưa Tôn giả. - Này Samiddhi, chúng lấy gì làm lõi cây? - Chúng lấy giải thoát làm lõi cây, thưa Tôn giả. - Này Samiddhi, chúng thể nhập vào gì? - Chúng thể nhập vào bất tử, thưa Tôn giả. 2. - Khi được hỏi: "Này Samiddhi, do sở duyên gì một người khởi lên
các tư duy tầm?", Hiền giả đáp: "Do danh sắc làm sở duyên, thưa
Tôn giả". Này Samiddhi, khi được hỏi: "Cái gì khiến chúng đi
đến sai khác?", Hiền giả đáp:" Trong các giới, thưa Tôn
giả". Khi được hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm tập khởi?",
Hiền giả đáp: "Lấy xúc làm tập khởi, thưa Tôn giả". Khi được
hỏi: "Này Samiddhi, chỗ qui tụ của chúng là gì?", Hiền giả
đáp: "Chỗ qui tụ của chúng là thọ, thưa Tôn giả". khi được
hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm thượng thủ?", Hiền giả
đáp: "Chúng lấy định làm thượng thủ, thưa Tôn giả". Khi được
hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm tăng thượng?", Hiền giả
đáp: "Chúng lấy niệm tăng thượng, thưa Tôn giả". Khi được
hỏi: "Này Samiddhi, chúng lấy gì làm tối thượng?" Hiền giả đáp:
"Chúng lấy tuệ làm tối thượng, thưa Tôn giả". Khi được hỏi:
"Này Samiddhi, chúng lấy gì làm lõi cây?", Hiền giả đáp:
"Chúng lấy giải thoát làm lõi cây, thưa Tôn giả". Khi được hỏi:
"Này Samiddhi, chúng thể nhập vào gì?", Hiền giả đáp:
"Chúng thể nhập vào bất tử, thưa Tôn giả". Lành thay,
này Samiddhi! Lành thay, này Samiddhi! Hiền giả đã trả lời các câu hỏi.
Nhưng Hiền giả chớ có kiêu mạn về vấn đề này. (V) (15) Một Ung Nhọt
1. - Ví như, này chư Hiền, một ung nhọt đã trải nhiều năm. Nó có
chín miệng vết thương, có chín miệng nứt rạn. Từ đấy có cái gì
chảy ra, chắc chắn bất tịnh rỉ chảy, chắc chắn hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn
nhàm chán rỉ chảy; có cái gì nứt chảy, chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc
chắn hôi thúi nứt chảy, chắc chắn nhàm chán nứt chảy. 5. Ung nhọt, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân này do bốn
đại tác thành, do cha mẹ sinh ra, do cơm cháo chất chứa nuôi dưỡng, vô
thường, biến hoại, tan nát, hủy hoại, hoại diệt, có chín miệng
vết thương, có chín miệng nứt rạn. Từ đấy có cái gì chảy ra, chắc
chắn bất tịnh rỉ chảy, chắc chắn hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn nhàm chán rỉ
chảy; có cái gì nứt chảy, chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc chắn hôi thúi
nứt chảy, chắc chắn nhàm chán nứt chảy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy nhàm chán thân này. (VI) (16) Tưởng 1. - Này các Tỷ-kheo, có chín tưởng này được tu tập, được làm cho
sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử
làm cứu cánh. Thế nào là chín? 2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng ghê tởm đối với các món ăn,
tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường,
tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng
ly tham. Này các Tỷ-kheo, chín tưởng này được tu tập, được làm sung mãn, có
quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu
cánh. (VII) (17) Gia Ðình
1. - Này các Tỷ-kheo, gia đình nào thành tựu chín chi phần, nếu
chưa đến thời không nên đến, nếu đã đến thời không nên
ngồi xuống. Thế nào là chín? 2. Không vui vẻ đứng dậy; không vui vẻ đảnh lễ; không vui vẻ mời ngồi;
nếu có, họ giấu đi; có nhiều, họ cho ít, có đồ tốt, họ
cho đồ xấu; họ cho không cẩn thận; họ cho không có chu đáo; họ
không có ngồi xung quanh để nghe pháp, không thưởng thức lời nói. Này các Tỷ-kheo, gia đình nào thành tựu chín chi phần này, nếu
chưa đến thời không nên đến, nếu đã đến thời không nên
ngồi xuống. 3. Này các Tỷ-kheo, gia đình nào thành tựu chín chi phần, nếu chưa
đến thời nên đến, nếu đã đến thời nên ngồi xuống. Thế
nào là chín? 4. Họ vui vẻ đứng dậy; họ vui vẻ đảnh lễ; họ vui vẻ mời ngồi;
nếu có, họ không giấu đi; có nhiều, họ cho nhiều, có đồ
tốt, họ cho đồ tốt; họ cho cẩn thận; họ cho một cách chu đáo;
họ ngồi xung quanh để nghe pháp, họ thưởng thức lời nói. Này các Tỷ-kheo, gia đình nào thành tựu chín chi phần này, nếu
chưa đến thời nên đến, nếu đã đến thời nên ngồi xuống. (VIII) (18) Từ Bi 1. - Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu chín chi phần được thực
hành, có quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.
Ðược thực hành như thế nào, này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành
tựu chín chi phần, có quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến
mãn lớn? 2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Hôm nay,
đêm này và ngày này, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ
trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót
đến hạnh phúc tất cả chúng sanh là loài hữu tình. Với chi phần này, ta
theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành ngày trai giới". Ðây là chi phần
thứ nhất được thành tựu. 3. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận lấy của không
cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật
đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Hôm nay, đêm này và ngày
này, ta cũng đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có
trộm cướp. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành trai
giới". Ðây là chi phần thứ hai được thành tựu. 4. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh,
hành Phạm hạnh, sống xa lìa, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và
ngày này, ta cũng đoạn phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lìa, từ bỏ
dâm dục hèn hạ. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành
ngày trai giới". Ðây là chi phần thứ ba được thành tựu. 5. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận nói láo,
tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật, chắc chắn,
đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Hôm nay,
đêm này và ngày này, ta cũng đoạn tận nói láo, tránh xa nói láo, nói
những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa
gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Với chi phần này, ta theo gương
vị A-la-hán, sẽ thực hành trai giới". Ðây là chi phần thứ tư được
thành tựu. 6. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận đắm say rượu
men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và ngày này ta cũng đoạn tận đắm say
rượu men, rượu nấu. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực
hành ngày trai giới". Ðây là chi phần thứ năm được thành tựu. 7. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán mỗi ngày dùng một
bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta
cũng dùng mỗi ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời.
Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành ngày trai
giới". Ðây là chi phần thứ sáu được thành tựu. 8. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ xem múa, hát,
nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và
các thời trang. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng từ bỏ xem múa, hát,
nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và
các thời trang. Với chi phần này, ta theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành
ngày trai giới". Ðây là chi phần thứ bảy được thành tựu. 9. "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận giường cao,
giường lớn, từ bỏ giường cao, giường lớn, các vị ấy nằm trên giường
thấp, trên giường nhỏ, trên thảm cỏ. Hôm nay, đêm này và ngày này, ta cũng
đoạn tận giường cao, giường lớn, từ bỏ giường cao, giường lớn, ta nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ, trên thảm cỏ. Với chi phần này, ta
theo gương vị A-la-hán, sẽ thực hành ngày trai giới". Ðây là chi phần
thứ tám được thành tựu. 10. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử với tâm câu hữu
với từ, biến mãn một phương và an trú, như vậy phương thứ hai... như
vậy phương thứ ba... như vậy phương thứ tư... như vậy cùng khắp thế
giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy với tâm câu hữu với từ, biến mãn và an trú, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được thực hành ngày trai giới thành tựu
chín chi phần, có quả lớn, có lợi ích, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn. (IX) (16) Chư Thiên
1. - Ðêm nay, này các Tỷ-kheo, một số đông chư Thiên, sau khi đêm đã
gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến
chỗ Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Này các
Tỷ-kheo, đứng một bên, các Thiên nhân ấy thưa với Ta: "Bạch Thế
Tôn, khi chúng con sống giữa loài Người, trong thời quá khứ, các vị xuất gia
không có gia đình đến chúng con. Bạch Thế Tôn, chúng con đã đứng
dậy, nhưng chúng con không đảnh lễ. Bạch Thế Tôn, do không làm đầy đủ
bổn phận, chúng con sanh ra hối hận, phiền não, vì bị sanh với thân hạ
liệt". 2. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều chư Thiên khác đến chỗ Ta
và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng con sống giữa loài Người,
trong thời quá khứ, các vị xuất gia không có gia đình đến chúng con.
Chúng con đã đứng dậy, chúng con đã đảnh lễ, nhưng con không mời ghế
ngồi. Bạch Thế Tôn, do không làm đầy đủ bổn phận, chúng con sanh ra hối
hận, phiền não, vì bị sanh với thân hạ liệt". 3. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều chư Thiên khác đến chỗ Ta
và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng con sống giữa loài Người,
trong thời quá khứ, các vị xuất gia không có gia đình đến chúng con.
Chúng con đã đứng dậy, chúng con đã đảnh lễ, chúng con đã mời ghế
ngồi nhưng chúng con không chia xẻ (đồ ăn) tùy theo khả năng và sức lực của
chúng con... Chúng con chia xẻ (đồ ăn), tùy theo khả năng và sức lực của
chúng con, nhưng chúng con không ngồi xung quanh để nghe pháp... chúng con
có ngồi xung quanh để nghe pháp, nhưng chúng con không lóng tai nghe pháp...
chúng con lóng tai nghe pháp, nhưng chúng con sau khi nghe không có thọ trì
pháp... chúng con sau khi nghe, có thọ trì pháp, nhưng không có suy tư
ý nghĩa các pháp đã được thọ trì... chúng con có suy tư ý
nghĩa các pháp đã được thọ trì, nhưng chúng con sau khi biết nghĩa,
biết pháp, không thực hành pháp và tùy pháp. Bạch Thế Tôn, do không
làm đầy đủ bổn phận, chúng con sanh ra hối hận, phiền não, vì bị sanh ra
với thân hạ liệt". 4. Này các Tỷ-kheo, lại có nhiều chư Thiên khác đến chỗ Ta
và thưa như sau: "Bạch Thế Tôn, khi chúng con sống giữa loài Người,
trong thời gian quá khứ, các vị xuất gia không có gia đình đến chúng con.
Bạch Thế Tôn, chúng con đã đứng dậy, chúng con đã đảnh lễ, chúng con
đã mời ghế ngồi, chúng con đã chia xẻ (đồ ăn) tùy theo khả năng và
sức lực của chúng con, chúng con đã ngồi xung quanh để nghe pháp, chúng
con lóng tai nghe pháp, chúng con sau khi nghe thọ trì pháp, chúng con có suy
tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì, chúng con sau khi biết
nghĩa, biết pháp, thực hành pháp và tùy pháp. Bạch Thế Tôn, do chúng
con làm đầy đủ bổn phận, chúng con không sanh hối hận, phiền não, vì
được sanh với thân thù thắng". Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những ngôi nhà trống.
Này các Tỷ-kheo, hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối
tiếc về sau, như các Thiên nhân đã được nói đến trước đây. (X) (20) Velàma 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông
Anàthapindika. Rồi Tôn giả Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
gia chủ Anàthapindika đang ngồi xuống một bên: - Này Gia chủ, Ông có bố thí trong gia đình của Ông không? - Bạch Thế Tôn, trong gia đình của con có bố thí, nhưng chỉ có món ăn
thô tệ làm bằng hột gạo bể, và cháo chua. 2. - Này Gia chủ, dầu bố thí các món thô hay tế, nếu bố thí không
cẩn thận, bố thí không có chú tâm, bố thí không tự tay mình, bố thí những
vật quăng đi, bố thí không có nghĩ đến tương lai; chỗ nào, chỗ
nào, sự bố thí ấy sanh quả dị thục, thời tâm không thiên về thưởng
thức các món ăn thù diệu, tâm không thiên về thưởng thức y áo thù
diệu, tâm không thiên về thưởng thức các cỗ xe thù diệu, tâm
không thiên về thưởng thức năm dục công đức thù diệu. Và các
người con, hay vợ, hay những người phục vụ, hay những người đưa tin, hay
những người làm công, họ không có khéo nghe, họ không có lóng tai,
họ không có an trú tâm hiểu biết. Vì sao? Này Gia chủ, như vậy là
quả dị thục của các nghiệp làm không có cẩn thận. 3. Này Gia chủ, dầu có bố thí các món thô hay tế, nếu bố thí có
cẩn thận, bố thí có chú tâm, bố thí tự tay mình, bố thí những vật không
quăng bỏ đi, bố thí có nghĩ đến tương lai; chỗ nào, chỗ nào,
sự bố thí ấy sanh quả dị thục, thời tâm thiên về thưởng thức các món
ăn thù diệu, tâm thiên về thưởng thức y áo thù diệu, tâm thiên
về thưởng thức các cỗ xe thù diệu, tâm thiên về thưởng thức
năm dục công đức thù diệu. Và các người con, hay vợ, hay những người
phục vụ, hay những người đưa tin, hay những người làm công, họ có khéo
nghe, họ có lóng tai, họ có an trú tâm hiểu biết. Vì sao? Này
Gia chủ, như vậy là quả dị thục của việc làm có cẩn thận. 4. Thuở xưa, này Gia chủ, có một vị Bà-la-môn tên là Velàma. Vị ấy bố
thí rộng lớn như sau: Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng vàng đựng đầy bạc. Vị
ấy bố thí 84.000 bát bằng bạc đựng đầy vàng. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng
đồng đựng đầy châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 con voi với đồ trang sức bằng
vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng
và 84.000 cỗ xe, được trải với da sư tử, được trải với da cọp,
được trải với da báo, được trải với mềm màu vàng, với những trang sức
bằng vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ
vàng. Vị ấy bố thí 84.000 con bò sữa, cột bằng những sợi dây gai mịn với
những thùng sữa bằng bạc. Vị ấy bố thí 84.000 thiếu nữ, trang sức với
những bông tai bằng châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 giường nằm trải nệm
bằng len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm
với lầu che phía trên, có đầu gối chân màu đỏ hai phía. Vị ấy bố thí
84.000 thước vải, bằng vải gai mịn màng nhất, bằng vải lụa mịn màng nhất,
bằng vải len mịn màng nhất, bằng vải bông mịn màng nhất. Và ai có thể
nói về các đồ ăn, đồ uống, loại cứng, loại mềm, các loại đồ ăn
nếm và các loại nước đường. "Chúng tôi nghĩ chúng chảy như dòng
sông". 5. Có thể, này Gia chủ, Ông nghĩ: "Có thể Bà-la-môn Velàma là
một người nào khác, vị đã bố thí một cách rộng lớn như vậy". Này Gia
chủ, chớ có nghĩ như vậy. Chính lúc ấy, Ta là Bà-la-môn Velàma, chính Ta
đã bố thí rộng lớn ấy. Nhưng này Gia chủ, khi bố thí ấy được cho, không
có một ai xứng đáng để nhận bố thí. Không có một ai làm cho thanh tịnh
bố thí ấy. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu
có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí này lớn hơn quả lớn kia.
Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho
100 người chánh kiến, và có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này
quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí rộng
lớn, và có ai bố thí cho 100 người Nhất lai, và có ai bố thí cho một vị Bất
lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma
bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 vị Bất lai, và có ai bố thí cho
một vị A-la-hán, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu
Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn hơn, và có ai bố thí cho một vị
A-la-hán, và có ai bố thí cho một vị Ðộc Giác Phật, bố thí này quả lớn
hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và
có người bố thí cho 100 vị Ðộc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ,
dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho chúng
Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ, và có ai xây dựng một tinh xá
cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp
và Tăng, và có ai với tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh,
từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ
bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu... Và có ai với tâm tịnh tín, chấp
nhận học pháp... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu, và ai tu tập
từ tâm giải thoát, cho đến trong khi khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí này
quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có
rộng lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí cho
100 vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí một vị Bất lai... và có ai
bố thí trăm vị Bất lai, và có ai bố thí một vị A-la-hán... và có ai bố thí
trăm vị A-la-hán... và có ai bố thí một vị Ðộc giác Phật, và có ai bố thí
trăm vị Ðộc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác... và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và
có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai
với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng... và có ai tâm tịnh tín
chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu
nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và
có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường,
bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.
III. Phẩm Chỗ Cư Trú Của Hữu Tình
(I) (21) Trong Ba Phương Diện
1.- Này các Tỷ-kheo, trong ba phương diện người Uttarakurukà (Bắc
Cu-lô châu) thù thắng hơn chư Thiên cõi Ba mươi ba và loài Người ở
Jambudìpa (Diêm-phù-đề). Thế nào là ba? 2. Không có ngã sở, không có chấp trước, tuổi thọ được quy định là
những thù thắng. Này các Tỷ-kheo, trong ba phương diện này, người Uttarakuruka thù
thắng hơn chư Thiên cõi Ba mươi ba và loài Người ở Jambudìpa. 3. Này các Tỷ-kheo, trong ba phương diện, chư Thiên cõi trời Ba
mươi ba thù thắng hơn loài Người ở Uttarakuruka và loài Người ở Jambudìpa.
Thế nào là ba? 4. Về thiên thọ mạng, về thiên dung sắc, về thiên lạc. Này
các Tỷ-kheo, trong ba phương diện này, chư Thiên cõi trời Ba mươi ba
thù thắng hơn loài Người ở Uttarakuruka và loài Người ở Jambudìpa. 5. Này các Tỷ-kheo, trong ba phương diện, loài Người ở Jambudìpa
thù thắng hơn loài Người ở cõi Uttarakuruka và chư Thiên ở cõi trời Ba
mươi ba. Thế nào là ba? Họ là anh hùng, có trú niệm và sống Phạm hạnh ở đời này. Này các Tỷ-kheo, trong ba phương diện này, loài Người ở cõi
Jambudìpa thù thắng hơn loài Người ở cõi Uttarakuruka và chư Thiên ở cõi
trời Ba mươi ba. (II) (22) Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục 1.- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được
điều phục và ba hạng người chưa được điều phục; ba loại ngựa
được điều phục, và ba hạng người được điều phục; ba loại ngựa
hiền thiện thuần lương và ba hạng người hiền thiện thuần
lương. Hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: 2.- Này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa chưa được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục
có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối bề cao, chu vi
bề ngoài. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp nhưng không có cân đối. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp và cân đối. Ba loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại
ngựa chưa được điều phục. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người chưa được
điều phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chưa được điều phục,
có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc
đẹp nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Ba
hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người chưa được điều
phục. 4. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được điều
phục, có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây
là Khổ", như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập", như thật
tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt", như thật tuệ tri: "Ðây
là con đường đưa đến Khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc
lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp, thắng luật, vị ấy lại ngập
ngừng, không có trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy
không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực,
nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. 5. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa có điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây
là Khổ", như thật tuệ tri: "Ðây là Khổ tập", như thật
tuệ tri: "Ðây là Khổ diệt", như thật tuệ tri: "Ðây
là con đường đưa đến Khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc
lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp, thắng luật, vị ấy liền trả
lời, không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Nhưng vị ấy
không nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được điều phục, có
tốc lực, có sắc đẹp nhưng không có cân đối. 6. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là người chưa được điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây
là Khổ"..., như thật tuệ tri: "Ðây là con Ðường đưa đến
khổ diệt". Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi về
thắng pháp, thắng luật, vị ấy liền trả lời, không có ngập ngừng. Ðây Ta
nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như y áo,
đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong
nghĩa có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp có cân đối. Những hạng người này,
này các Tỷ-kheo, là ba hạng người chưa được điều phục. 7. Này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa được điều phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa được điều phục, có
tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp
nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa
được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Các loại này,
này các Tỷ-kheo, là ba hạng loại ngựa được điều phục. 8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được điều phục, có
tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp
nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người được điều phục,
có tốc lực, không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy, được nhập Niết-bàn, không còn
phải trở lui đời này nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng được
hỏi về thắng pháp, thắng luật, vị ấy ngập ngừng, không có trả lời. Ðây
Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư
dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây
Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người được điều phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có
cân đối. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người được điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy, được nhập Niết-bàn, không phải
trở lui đời này nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi
về thắng pháp, thắng luật, vị ấy trả lời, không có ngập ngừng. Ðây Ta
nói trong nghĩa có sắc đẹp. Nhưng vị này không nhận được các đồ tư dụng
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta
nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng
người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp nhưng không có cân
đối. 9. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người được điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không phải
trở lui đời này nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi
về thắng pháp, thắng luật, vị ấy liền trả lời, không có ngập ngừng.
Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Và vị ấy nhận được các đồ tư dụng
như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta
nói trong nghĩa có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người
được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Những hạng
người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người được điều phục. 10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa hiền thiện
thuần lương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện thuần
lương, có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện thuần lương, có tốc lực, có
sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại
ngựa hiền thiện thuần lương, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối.
Những loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại ngựa hiền thiện thuần
lương. 11. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại người hiền thiện
thuần lương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện thuần
lương, có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện thuần lương, có tốc
lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người hiền thiện thuần lương, có tốc lực, có sắc đẹp, có
cân đối. Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người
hiền thiện thuần lương. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện
thuần lương, có tốc lực nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi
được hỏi về thắng pháp, thắng luật, vị ấy ngập ngừng, không trả lời.
Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ
tư dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
hạng người hiền thiện thuần lương, có tốc lực nhưng không có sắc
đẹp, không có cân đối. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện
thuần lương, có tốc lực, có sắc đẹp nhưng không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo do đoạn diệt các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có
tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp, thắng luật, vị ấy liền trả
lời, không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không
nhận được các đồ tư dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện thuần lương, có tốc lực,
có sắc đẹp nhưng không có cân đối. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện
thuần lương, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Khi được hỏi về
thắng pháp, thắng luật, vị ấy liền trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa có
sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện thuần lương,
có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, là ba hạng người hiền thiện thuần lương. (III) (23) Ái
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về chín pháp lấy ái làm cội
gốc. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là chín pháp lấy ái làm cội gốc? 2. Do duyên ái nên cầu tìm; do duyên cầu tìm nên có được; do duyên có
được nên có quyết định; do duyên quyết định nên có dục tham; do
duyên dục tham nên đắm trước; do duyên đắm trước nên có chấp trước; do
duyên chấp trước nên có xan tham; do duyên xan tham nên có thủ hộ, chấp
trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, kháng tranh, ly gián ngữ,
vọng ngữ, rất nhiều các ác, bất thiện pháp khởi lên. Này các Tỷ-kheo, đây là chín pháp lấy ái làm cội gốc. (IV) (24) Các Loại Hữu Tình 1. - Này các Tỷ-kheo, có chín chỗ cư trú của loài hữu tình.
Thế nào là chín? 2. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng
sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên, một số ở các đọa xứ.
Ðó là hữu tình trú xứ thứ nhất. 3. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng
đồng nhất, như Phạm Chúng thiên, khi mới tái sanh. Ðó là hữu tình trú xứ
thứ hai. 4. Này các Tỷ-kheo, có loại hữu tình, thân đồng nhất, tưởng sai
biệt như Quang âm thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ ba. 5. Này các Tỷ-kheo, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng đồng
nhất, như Tịnh Cư thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ tư. 6. Này các Tỷ-kheo, có những loại hữu tình không có tưởng, không có
thọ như Vô Tưởng thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ năm. 7. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình vượt khỏi sắc tưởng một
cách hoàn toàn, diệt trừ các đối ngại tưởng, không có tác ý sai
biệt tưởng, nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng được
Không vô biên xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ sáu. 8. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình, vượt khỏi hư Không vô
biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng
được Thức vô biên xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ bảy. 9. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình vượt khỏi Thức vô biên xứ
một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: "Không có gì tất cả", chứng được
Vô sở hữu xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ tám. 10. Này các Tỷ-kheo, có những loài hữu tình vượt khỏi Vô sở hữu xứ
một cách hoàn toàn, chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là hữu tình trú
xứ thứ chín. Này các Tỷ-kheo, đây là chín chỗ cư trú của các loài hữu tình. (V) (25) Trí Tuệ
1. - Này các Tỷ-kheo, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với
trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy nói như sau: "Ta rõ
biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập? 2. "Ly tham là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích
tập với trí tuệ. "Ly sân là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy
được khéo tích tập với trí tuệ. "Ly si là tâm của ta", như vậy
tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ. "Tánh không có tham là
tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
"Tánh không có sân là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với trí tuệ. "Tánh không có si là tâm của ta", như vậy tâm vị
ấy được khéo tích tập với trí tuệ. "Tánh không chuyển hướng
về dục hữu là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với trí tuệ. "Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của
ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ. "Tánh
không chuyển hướng về vô sắc hữu là tâm của ta", như vậy tâm
vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí
tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy nói như sau: "Ta rõ
biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". (VI) (26) Trụ Ðá 1. Như vầy tôi nghe: Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Candikàputta trú ở Ràjagaha (Vương
Xá) tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Tại đấy, Tôn giả
Candikàputta gọi các Tỷ-kheo, nói rằng: - Này các Hiền giả, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
"Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập
với trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
"Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". 2. Ðược nói vậy, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Candikàputta: - Này Hiền giả Candikàputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được
khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả
lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa"". Này Hiền giả Candikàputta. Devadatta thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo
được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy
trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"". 3. Lần thứ hai... Lần thứ ba, Tôn giả Candikàputta gọi các Tỷ-kheo, nói
rằng: - Thưa các Hiền giả, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như
sau: "Khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời
thật hợp lý cho vị Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: "Ta rõ biết:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn
trở lui trạng thái này nữa"". Lần thứ ba, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Candikàputta: - Này Hiền giả Candikàputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được
khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả
lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng
thái này nữa"". Này Hiền giả Candikàputta. Devadatta thuyết
pháp cho các Tỷ-kheo như sau: "Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị
Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho
Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: "Ta rõ biết: "Sanh đã tận...
không còn trở lui trạng thái này nữa"". 4. - Và như thế nào, này Hiền giả, tâm vị Tỷ-kheo được khéo
tích tập với tâm ý? - "Ly tham là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với tâm ý. "Ly sân là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được
khéo tích tập với tâm ý. "Ly si là tâm của ta", như vậy tâm vị
ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh không có tham là tâm của
ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh
không có sân là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập
với tâm ý. "Tánh không có si là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy
được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh không chuyển hướng về
dục hữu là tâm của ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với
tâm ý. "Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của
ta", như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. "Tánh
không chuyển hướng về vô sắc hữu là tâm của ta", như vậy tâm
vị ấy được khéo tích tập với tâm ý. 5. Như vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như
vậy, nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vực của con mắt,
các sắc không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm,
không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng; nếu các
tiếng do tai nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vực của lỗ tai... nếu
các hương do mũi nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vực của lỗ mũi...
nếu các vị do lưỡi nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của lưỡi...
nếu các xúc do thân nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của thân. nếu
các pháp do ý nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của ý... Các pháp
không chinh phục, tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị
lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng. Ví như, này Hiền
giả, một trụ đá cao mười sáu khuỷu tay, tám khuỷu tay chôn sâu xuống
đất, tám khuỷu tay nổi lên trên, nếu từ phương Ðông, mưa to gió
lớn đến, không làm rung động, không làm chuyển động, không làm
chuyển động mạnh trụ đá ấy; nếu từ phương Tây... nếu từ
phương Bắc... nếu từ phương Nam, mưa to gió lớn đến, không làm rung
động, không làm chuyển động, không làm chuyển động mạnh trụ đá
ấy. Vì sao? Này Hiền giả, vì trụ đá được đào sâu, được chôn sâu.
Cũng vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như vậy,
nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của con mắt, các
sắc không chinh phục tâm của vị ấy, tâm được an trú không bị tạp nhiễm,
không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng. Nếu các
tiếng do tai nhận thức... nếu các pháp do ý nhận thức mạnh mẽ đi
vào giới vức của ý, các pháp không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an
trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận
của chúng. (VII) (27) Sợ Hãi Hận Thù (1)
1. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ
Anàthapindika đang ngồi xuống một bên: 2. - Này Gia chủ, khi nào năm sợ hãi hận thù của vị Thánh đệ tử
được chỉ tức, thời vị ấy thành tựu được bốn Dự lưu phần. Nếu vị ấy
muốn, có thể tuyên bố về ngã đối với tự ngã: "Ðịa ngục đối
với ta được đoạn tận, loài bàng sanh đối với ta được đoạn tận, cõi ngạ
quỷ đối với ta được đoạn tận, cõi dữ, ác thú, đọa xứ đối với
ta được đoạn tận. Ta là vị Dự lưu, không còn thối đọa, chắc chắn
đạt đến Chánh giác". 3. Thế nào là năm sợ hãi hận thù được chỉ tức? Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do sát sanh, vì duyên sát sanh, đưa đến
trong hiện tại; sợ hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể cả
tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ. Từ bỏ sát sanh, sợ hãi hận thù
không đưa đến trong hiện tại, sợ hãi hận thù không đưa đến
trong tương lai, kể cả không có tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ...
Ðối với vị từ bỏ sát sanh, như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục. Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do lấy của không cho, vì duyên lấy của không
cho đưa đến trong hiện tại; sợ hãi hận thù đưa đến trong tương
lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ... Ðối với vị từ bỏ
lấy của không cho, như vậy sự sợ hãi hận thù được nhiếp phục. Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do sống tà hạnh trong các dục, vì duyên sống
tà hạnh trong các dục đưa đến trong hiện tại; sợ hãi hận thù đưa
đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ...
Ðối với vị từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, như vậy sợ hãi hận thù
được nhiếp phục. Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do nói láo, vì duyên nói láo đưa đến
trong hiện tại; sự sợ hãi hận thù đưa đến trong tương lai, kể
cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm thọ... Ðối với vị từ bỏ nói láo,
như vậy sợ hãi hận thù được nhiếp phục. Này Gia chủ, sợ hãi hận thù do đắm say rượu men, rượu nấu, vì duyên
đắm say rượu men, rượu nấu đưa đến trong hiện tại; sự sợ hãi hận
thù đưa đến trong tương lai, kể cả tâm khổ, tâm ưu người ấy cảm
thọ... Ðối với vị từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, như vậy sợ hãi
hận thù được nhiếp phục. Năm sự sợ hãi hận thù này được nhiếp phục. 4. Thế nào là bốn Dự lưu phần được đầy đủ? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử, đầy đủ lòng tin tuyệt
đối với đức Phật: "Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy đầy đủ lòng tin tuyệt đối với Pháp: "Ðây là Pháp do
Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình
giác hiểu". Vị ấy đầy đủ lòng tin tuyệt đối đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế
Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng
đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp
hạnh, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn, đáng được
cung kính, đang được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là
vô thượng phước điền ở trên đời. Vị ấy đầy đủ các giới đức được bậc Thánh quý mến, không bị bể vụn, không
bị hủy hoại, không có tỳ vết, không có vết nhơ, đưa đến giải thoát, được
người trí tán thán, không bị nhiễm trước, đưa đến Thiền định. Bốn Dự lưu
phần này được thành tựu. (VIII) (28) Sợ Hãi Hận Thù (2) (Thế Tôn thuyết lại kinh 26 cho các Tỷ-kheo). (IX) (29) Xung Ðột Sự 1. - Này các Tỷ-kheo, có chín xung đột sự. Thế nào là chín? 2. "Vị ấy đã làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Vị ấy đang
làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Vị ấy sẽ làm hại tôi", xung
đột khởi lên. "Vị ấy đã làm hại người tôi thương, tôi
mến"... "Vị ấy đang làm hại người tôi thương, tôi
mến"... "Vị ấy sẽ làm hại người tôi thương, tôi mến",
xung đột khởi lên. "Vị ấy đã làm lợi cho người tôi không thương,
không mến"... "Vị ấy đang làm lợi..." Vị ấy sẽ làm lợi cho
người tôi không thương, không mến", xung đột khởi lên. Này các Tỷ-kheo, đây là chín xung đột sự. (X) (30) Ðiều Phục Xung Ðột Sự
1. - Này các Tỷ-kheo, có chín điều phục xung đột sự. Thế nào
là chín? "Vị ấy đã làm hại tôi; có ích lợi gì mà nghĩ như vậy",
nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị ấy sẽ làm hại tôi; có ích
lợi gì mà nghĩ như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục.
"Vị ấy đã làm hại người tôi thương mến; có ích lợi gì mà nghĩ
như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị ấy đã làm
hại... vị ấy làm hại người tôi thương tôi mến; có ích lợi gì mà nghĩ
như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục. "Vị ấy đã làm
lợi cho người tôi không thương, không mến"... "Vị ấy đang làm
lợi... vị ấy sẽ làm lợi cho người tôi không thương, không mến, có lợi
ích gì mà nghĩ như vậy", nhờ vậy xung đột được điều phục Này các Tỷ-kheo, đây là chín xung đột sự được điều phục. (XI) (31) Chín Thứ Ðệ Diệt 1. - Này các Tỷ-kheo, có chín thứ đệ diệt. Thế nào là
chín? 2. Thành tựu sơ Thiền, các dục tưởng bị đoạn diệt. Thành tựu
đệ nhị Thiền, các tầm tứ bị đoạn diệt. Thành tựu đệ tam
Thiền, hỷ bị đoạn diệt. Thành tựu đệ tứ Thiền, hơi thở
vào, hơi thở ra bị đoạn diệt. Thành tựu Không vô biên xứ, sắc tưởng
bị đoạn diệt. Thành tựu Thức vô biên xứ, Không vô biên xứ tưởng bị
đoạn diệt. Thành tựu Vô sở hữu xứ, Thức vô biên xứ tưởng bị đoạn diệt. Thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ
tưởng bị đoạn
diệt. Thành tựu Diệt thọ tưởng định, các tưởng và các cảm
thọ bị đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, đây là chín thứ đệ diệt.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 25-05-2007