BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tiểu Bộ - Khuddhaka Nikaya
Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt
Phẩm I.a
-ooOoo-
Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn, Bậc A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác
1- Chuyện thứ nhất - Lâu Ðài Có Sàng Tọa (Pìtha-Vimàna)
Một thời đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi
(Xá-vệ), ở Jetavana (Kỳ Viên) trong tinh xá ông Anàthapindika (Cấp
Cô Ðộc). Sau khi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosala
(Kiều-tát-la), đã cúng dường suốt bảy ngày lễ vật vô thượng lên Tăng
chúng với đức Phật là thượng thủ và nhà đại phú Anàthapindika đã
cúng dường suốt ba ngày để phù hợp với lễ vật của nhà vua, và đại
đệ tử nữ cư sĩ Visàkhà (Tỳ-xá-khư) đã cúng dường đại lễ vật
như thế, tin đồn về sự cúng dường vô thượng được truyền đi
khắp cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề): 'Phải chăng bố thí cúng dường
chỉ đặc biệt phát sinh kết quả lớn khi đó là sự bố thí hào phóng
với lễ vật cao sang như vậy, hay đúng hơn, đó là sự bố thí cúng dường
tùy theo phương tiện của mình?'.
Khi Tăng chúng nghe lời bình luận này, chư vị trình lên đức
Thế Tôn. Ðức Thế Tôn bảo: - 'Không phải chỉ do hiệu lực của tặng vật mà việc bố
thí cúng dường đặc biệt phát sinh kết quả lớn, song đúng hơn, do
hiệu lực của tín tâm và phước điền của những người nhận được
vật cúng dường. Vì vậy, dù chỉ nhỏ bằng một nắm thóc hay một tấm giẻ, một
tọa cụ bằng cỏ lá hay một hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của
trâu bò, được cúng dường với lòng thành cho một người xứng đáng nhận lễ
vật cũng sẽ có đại kết quả, đại vinh quang và thấm nhuần khắp nơi'. Thiên chủ Sakkha (Ðế Thích) đã nói như vầy: 'Nếu có tín tâm, thì không một vật cúng dường nào có
thể nói là không quan trọng. Bấy giờ, chuyện này được phổ biến rộng khắp cõi
Diêm-phù-đề. Quần chúng tùy theo phương tiện của họ bố thí, cúng
dường Sa-môn, Bà-la-môn, du sĩ lữ hành và hạng người cùng khổ; họ cung
cấp nước uống trong sân nhà hoặc để ghế ngồi ở cổng ra vào. Thời ấy có một Tỷ-kheo đầy đủ hảo tướng oai nghi,
đến khất thực đúng thời trước một nhà kia. Tại đó, vị thiện gia
tín nữ chào đón vị ấy, cung kính đảnh lễ và trải một tấm vải vàng được
ủi thẳng trên sàng tọa của bà rồi đem lại dâng vị ấy. Bà cúng dường món ăn mà bà có thể sắm được và quạt
hầu vị ấy. Vốn tâm tín thành, bà suy nghĩ: 'Nay vừa phát sinh một phước
điền vô thượng dành cho ta'. Khi vị Tỷ-kheo đã thọ thực xong, vị ấy thuyết pháp
về sự cúng dường sàng tọa và thực phẩm v.v... rồi ra đi. Khi bà ấy
nghĩ về việc bố thí của bà và bài pháp thoại, tâm bà lập tức rung
động với niềm hoan lạc và bà cúng dường vị Tỷ-kheo cả chiếc
sàng tọa ấy nữa. Ít lâu sau, bà mắc bệnh từ trần và được tái sinh vào cõi
trời Ba mươi ba trong một lâu đài bằng vàng dài mười hai do-tuần (dặm). Bà
có một đoàn tùy tùng hầu cận gồm một ngàn tiên nữ. Vì trước kia bà cúng
dường sàng tọa, nên tại đấy xuất hiện cho bà một chiếc sàng
tọa bằng vàng dài một do-tuần, du hành thật nhanh qua bầu trời, giống như
một ngôi nhà có nóc nhọn. Vì thế nó được gọi là Lâu đài có
sàng tọa. Vì chiếc sàng tọa được cúng dường trước kia có phủ
tấm vải màu vàng lên, nên lâu đài này bằng vàng, chứng tỏ sự tương tự
giữa nghiệp và quả. Vì sàng tọa đã được cúng dường với tâm hoan
hỷ mãnh liệt, nên Lâu đài di chuyển rất nhanh. Vì lễ vật ấy
được cúng dường với sự thích thú của người xứng đáng nhận nó, nên lâu
đài có thể di chuyển tùy theo sở thích của bà. Vì hiệu quả tín
tâm hoan hỷ của nữ nhân kia, nên lâu đài rực rỡ và sáng chói. Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi được,
mỗi vị tùy theo phương tiện do uy lực của mình đến Hỷ lạc
Viên Nandana để vui chơi trong ngự uyển, vị Thiên nữ kia phục
sức thiên y và điểm trang thiên bảo, khởi hành trong lâu đài có sàng
tọa đầy oai nghi với cả ngàn thị nữ hộ tống. Lúc ấy, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên cõi thiên,
vừa đến cảnh giới trời Ba mươi ba và xuất hiện gần chỗ Thiên nữ
này. Khi thấy Tôn giả, vị Thiên nữ vô cùng hoan hỷ, cung kính bước xuống
khỏi sàng tọa tiến đến gần vị Trưởng lão, cúi mình đảnh lễ
với năm phần thân thể sát đất, rồi đứng lên bày tỏ sự tôn trọng
với đôi tay chấp lại, mười đầu ngón sát vào nhau. Mặc dầu vị Trưởng lão này nhờ thần lực đa diện của trí
tuệ, đã tự mình thấy rõ như thể ngắm quả Myrobalan trong lòng
bàn tay, các thiện nghiệp và ác nghiệp do Thiên nữ này cũng như
các vị khác đã tạo ra, nhờ khả năng tri kiến của Tôn giả về
nghiệp quả tương ứng, tuy nhiên, vì ngay khi vừa tái sanh cõi trời, các
Thiên nữ liền hỏi: - 'Tiểu nữ đã từ trần tại đâu và được tái
sanh vào thế giới này?' - 'Tiểu nữ đã làm thiện nghiệp gì
để được phước phần này?', và theo lệ thường, chư vị ấy đều
đi đến kết luận đúng đắn, do đó, vị Trưởng lão muốn làm sáng tỏ
nghiệp quả cho thế giới chư Thiên, bèn bảo Thiên nữ này kể lại
hạnh nghiệp vị ấy đã làm, rồi ngâm các vần kệ sau: 1. Tọa sàng kim sắc thật huy hoàng,
2. Chuyện thứ hai - Lâu Ðài Có Sàng
Tọa Thứ Hai (Dutiyapìthà-Vimàna)
Khi nó được dâng lên đức Như Lai, Chánh Ðẳng Giác hay vị đệ tử của
Ngài'.
Di chuyển nhanh như ý của nàng,
Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Khi được làm người giữa thế nhân,
Con mang sàng tọa nhỏ đem dâng,
Vái chào cung kính khách xa đến,
Tay chắp, cúng dường theo khả năng.
6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Phần giải thích và bình luận chuyện này
phải được hiểu tương ứng với những gì đã nói trong chuyện thứ
nhất. Song có điểm dị biệt là:
Chuyện kể rằng một nữ nhân sống ở Sàvatthi thấy
một Tỷ-kheo đến nhà bà khất thực; với tâm tín thành, khi muốn cúng
dường vị ấy một tọa sàng, bà trải một tấm vải xanh trên tọa sàng
của bà tặng vị ấy. Vì thế, khi bà tái sanh lên thiên giới, tại đó xuất
hiện cho bà một sàng tọa làm bằng ngọc bích. Do vậy, có các vần
kệ: 1. Tọa sàng ngọc bích thật huy hoàng,
3. Chuyện thứ ba - Lâu Ðài Có Sàng
Tọa Thứ Ba (Tatiyapìtha-Vimàna)
Di chuyển nhanh như ý của nàng,
Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Khi được làm người giữa thế nhân,
Con mang sàng tọa nhỏ đem dâng,
Vái chào cung kính khách xa đến,
Tay chắp, cúng dường theo khả năng.
6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ,
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Tại Ràjagaha (Vương Xá) (như
chuyện số 1), vị nữ nhân phát nguyện lúc dâng cúng sàng tọa của
bà: 'Ước mong hạnh nghiệp này sẽ làm nhân duyên cho ta được một sàng
tọa bằng vàng trong kiếp sau'.
Do đó, có truyền thuyết như vầy: 1. Tọa sàng kim sắc thật huy hoàng,
4. Chuyện thứ tư - Lâu Ðài Có Sàng
Tọa Thứ Tư (Catutthapìtha-Vimàna)
Di chuyển nhanh như ý của nàng,
Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Vì một hành vi nhỏ của con,
Ðây là kết quả sắc huy hoàng,
Ngày xưa khi ở trong tiền kiếp,
Con được làm người giữa thế gian.
6. Con gặp một vô lậu Thánh Tăng,
An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
Với người, con có lòng thành tín,
Ðem đến tận tay chiếc tọa sàng.
7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Hoàn cảnh chuyện này cũng ở Ràjagaha.
Chuyện phải được hiểu như đã được tả ở Lâu đài thứ hai
vì nữ nhân tặng sàng tọa sau khi trải tấm vải xanh lên đó, nên đời sau
một Lâu đài bằng ngọc bích cũng xuất hiện cho bà. Phần còn lại cũng
giống như chuyện đã được kể về Lâu đài thứ nhất. Do đó có
truyền thuyết:
1. Toạ sàng ngọc bích thật huy hoàng,
5. Chuyện thứ năm - Lâu Ðài Con Voi (Kunjara-Vima
ana)
Di chuyển nhanh như ý của nàng,
Nàng đội vòng hoa, trang phục đẹp,
Sáng như tia chớp giữa mây ngàn.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Vì một hành vi nhỏ của con,
Ðây là kết quả sắc huy hoàng,
Ngày xưa khi ở trong tiền kiếp,
Con được làm người giữa thế gian.
6. Con gặp một vô lậu Thánh Tăng,
An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm,
Với người, con có lòng thành tín,
Ðem đến tận tay chiếc tọa tàng.
7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Là con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Ðức Thế Tôn lúc ấy đang trú tại Ràjagaha
ở chỗ nuôi sóc trong Veluvana (Trúc Lâm). Bất ngờ một hôm có lễ
hội được công bố khắp thành Ràjagaha. Mọi người đều phục
sức thật đẹp và đi dự lễ hội.
Bấy giờ Ðại vương Bimbisàra thể theo nguyện
vọng của thần dân, ngự ra khỏi cung và đi dự lễ quanh kinh thành trong
cảnh vô cùng uy nghi rực rỡ. Thời ấy một thiện nữ nhân trú tại Ràjagaha
thấy cảnh huy hoàng của nhà vua, lòng đầy kinh ngạc thích thú, bèn hỏi những
người có tiếng thông thái: - Nhờ phước nghiệp gì ta tạo được cảnh vinh quang như
thiên giới này? Họ bảo nàng: - Này bạn, một thiện nghiệp cũng như viên ngọc
quý làm thỏa nguyện, hay cây thần ban điều ước này. Khi nghe thế, nàng tự nhủ: 'Ta thấy kết quả trên thiên
giới còn vĩ đại hơn phần thưởng kia (do việc bố thí cúng dường)'. Từ
đấy nàng trở nên nhiệt tâm thực hành các công đức thiện nghiệp. Bấy giờ, cha mẹ gửi cho nàng một bộ y phục mới, một sàng
tọa mới, một bó hoa sen, sữa lạc, mật ong, đường và gạo. Khi thấy các
thứ này, nàng tự bảo: 'Ta muốn bố thí, và bây giờ các lễ vật xứng đáng
bố thí cúng dường đã có trong tay ta'. Và với lòng hoan hỷ, nàng chuẩn
bị lễ vật, nhà cửa và bản thân vào ngày hôm sau. Thời ấy Tôn giả Sàriputta đi khất thực trong thành
Ràjagaha, vào đường phố với oai nghi của một người đang đặt xuống
chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền. Người nữ tỳ của nàng thấy vị Trưởng lão liền thưa: - Bạch Tôn giả, xin đưa bình bát cho tiện nữ. Và nàng nói thêm: - Xin Tôn giả đi lối này để làm đặc ân cho một tín nữ. Tôn giả trao nàng chiếc bình bát. Nàng dẫn Tôn giả đến
nhà. Lúc ấy nữ nhân kia chào đón và phục vụ Tôn giả. Trong lúc nàng
thiết đãi ngài, nàng phát nguyện: 'Do uy lực của phước nghiệp
này, ước mong ta sẽ được mọi cảnh vinh quang trên thiên giới, đầy đủ
các thiên tượng, trùng các và sàng tọa, và ước mong không lúc nào
thiếu hoa sen'. Kế đó, khi vị Trưởng lão đã thọ thực xong, nàng rửa
bình bát và đổ đầy lạc, mật ong, đường, cùng các thứ khác, lại lấy một
xấp vải trải lên sàng tọa và trao tận tay vị Trưởng lão. Sau khi vị Trưởng lão đã giã từ, nàng ra lệnh cho hai gia
nhân: - Hãy đem sàng tọa này và bình bát đến tinh xá, cúng
dường Trưởng lão ấy rồi trở về. Họ tuân lệnh. Về sau, nàng từ trần và được tái
sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng cao một trăm
do-tuần và có một đoàn tùy tùng hộ tống, gồm một ngàn tiên nữ. Do ước nguyện của nàng, một con voi quý cao năm do-tuần
xuất hiện cho nàng, được quấn quanh mình với các vòng hoa sen và trang
điểm cân đai toàn vàng. Bấy giờ vào một ngày lễ hội, chư Thiên đều đi dự,
mỗi vị tùy theo uy lực của mình đến Hỷ Lạc Viên Nandana
để vui chơi trong ngự uyển. (Từ đây về sau câu chuyện cũng giống như phần sớ giải
Lâu đài thứ nhất). Như vậy chuyện này phải được hiểu như trong
chuyện ấy, song ở đây, Tôn giả Moggallàna ngâm các vần kệ sau: 1. Voi nàng như ngọn núi huy hoàng,
6. Chuyện thứ sáu - Lâu Ðài Có Chiếc
Thuyền (Nàvà-Vimàna)
Tô điểm cân đai đủ ngọc vàng,
Khả ái, oai hùng, đầy tốc lực,
Nhẹ nhàng di chuyển giữa không gian.
2. Ðây là một bảo tượng liên hoa,
Ánh sáng sen xanh, đỏ tỏa ra,
Chân cẳng voi đầy hương phấn phủ,
Sen vàng treo lủng lẳng trên ngà.
3. Rải rác hoa sen khắp mặt đường,
Phẳng lì, tô điểm cánh sen tàn,
Khiến lòng mê mẩn, đầy êm ái,
Vương tượng bước đi thật nhịp nhàng.
4. Trong lúc tượng vương tiến bước lên,
Chuỗi chuông vàng trổi khúc êm đềm,
Chung thanh chẳng khác nào âm nhạc
Năm thứ đàn tơ hợp tấu nên.
5. An tọa trên lưng đại tượng vương,
Xiêm y nàng trắng, khéo trang hoàng,
Trông nàng thù thắng về dung sắc,
Vượt hẳn bao tiên nữ cả đoàn.
6. Kết quả này do việc cúng dường,
Hay trì giới, hoặc chắp tay nàng?
Khi nàng được hỏi điều như vậy.
Hãy nói cho ta biết rõ ràng.
7. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
8. Thấy một Sa-môn đủ tướng hiền,
Hân hoan Thiền định, trí an nhiên,
Con dâng sàng tọa đầy hoa rắc,
Với một tấm khăn vải phủ lên.
9. Tâm tín thành, tay tự trải khăn,
Rải hoa sen nở đã gần tàn,
Cùng chung các cánh hoa sen rụng,
Khắp chốn bao quanh chiếc tọa sàng.
10. Kết quả này do thiện nghiệp duyên,
Nên con nhận được của chư Thiên
Ân tình phụng sự và thương mến,
Con được tôn vinh ở cõi tiên.
11. Quả thực kẻ nào có tín tâm
Muốn đem sàng tọa để cung dâng
Những người giải thoát, tâm thanh tịnh,
Sẽ được như con, hưởng phước ân.
12. Vậy do ước vọng được an lành,
Mong quả lớn sau sẽ đạt thành,
Phải tặng tọa sàng cho những vị
Mang thân đời cuối chẳng lai sanh.
Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi
(Xá-vệ), mười sáu Tỷ-kheo đã an cư mùa mưa trong một ngôi làng,
khởi hành đến Sàvatthi vào mùa nắng, bảo nhau: 'Chúng ta sẽ
đến yết kiến đức Thế Tôn và nghe Pháp'.
Trên đường đi, có một sa mạc không có nước, vì chư vị bị
sức nóng bức bách và không tìm ra nước, chư vị liền đến vùng lân
cận một ngôi làng. Tại đó, một nữ nhân cầm bình nước đang đi tới
giếng. Bấy giờ chư Tăng thấy nàng bèn bảo: - Nếu ta đi đến nơi mà nàng đang đi, thì chúng ta có
thể xin nước. Chư vị đi theo nàng, thấy cái giếng, bèn dừng lại bên
nàng. Nàng kéo nước từ giếng lên và thấy chư vị, nàng tự nhủ: 'Những
bậc chân chánh này đang khát nước', rồi cung kính mời chư vị uống nước.
Chư vị lấy cái lọc nước từ túi xách ra, lọc nước và uống thật
nhiều nước như ý muốn, tẩm mát tay chân, nói lời chúc lành với nữ
nhân vì đã tặng nước cho chư vị, rồi ra đi. Nàng ghi nhớ công đức ấy
trong lòng và thỉnh thoảng nàng lại nghĩ đến việc ấy. Về sau nàng từ trần và tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Do
uy lực công đức của nàng, tại chỗ ấy đã xuất hiện cho nàng một Lâu
đài vĩ đại, được làm tăng vẻ mỹ lệ bằng một cây thần ban điều
ước. Chung quanh cây là một dòng suối chảy với nước trong như khối ngọc
và đôi bờ cát trắng trải dài lấp lánh như những chuỗi ngọc trai và
dải bạc. Ở hai bên bờ và ngay cổng đi vào lạc viên của Lâu đài là
một hồ sen lớn, được tô điểm với các chùm sen ngũ sắc và một
chiếc thuyền bằng vàng. Thiên nữ ấy an trú tại đó, hưởng thiên lạc, vui chơi nhàn
nhã trong chiếc thuyền kia. Rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Moggallàna trong
lúc du hành đến cõi trời, thấy nàng Thiên nữ đang vui chơi như vậy, bèn
hỏi: 1. Tiên nương đang đứng ở trong thuyền
7. Chuyện thứ bảy - Lâu Ðài Có Chiếc
Thuyền Thứ Hai (Dutiyanàvà Vimàna)
Có mái vàng che phủ phía trên,
Nàng bước xuống hồ sen ngắt hái
Một hoa sen với cánh tay tiên.
2. Trùng các là nơi nàng trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
3. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú gì nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
6. Khi được làm người giữa thế nhân,
Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
Con thấy chư Tăng đang khát nước,
Quyết lòng, con kéo nước lên dâng.
7. Quả thật ai đầy đủ nhiệt tâm,
Ðem dâng nước uống đến chư Tăng
Khát nhiều, mỏi mệt, ngày sau được
Suối mát đầy sen nở trắng ngần.
8. Bên mình nước mát với đôi bờ
Cát trắng viền luôn chảy lững lờ,
Ðầy đủ sà-la, xoài, ngọc quế,
Kèn, đào, ti-lak nở muôn hoa.
9. Phong cảnh càng tăng vẻ mỹ quang,
Lâu đài rực sáng tuyệt trần gian,
Ðây là kết quả hành vi ấy,
Ai tạo phước lành hưởng lạc an.
10. Trùng các là nơi con trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
12. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi,
có một Tỷ-kheo đã đoạn tận lậu hoặc, vào đầu mùa mưa, muốn khởi sự
an cư trong một làng xóm, nên vị ấy khởi hành sau buổi ngọ trai, lên
đường đi từ Sàvatthi đến làng ấy.
Khi mệt mỏi vì khát nước và đường xa, vị ấy ghé đến
một làng nọ. Thấy không nơi nào có bóng cây và nước uống trong vùng
lân cận, lại bị cơn mệt nhọc trấn áp, vị ấy đắp thượng y đi vào
làng, dừng chân ở cửa nhà thôn trưởng. Tại đó, có một nữ nhân thấy vị
này bèn hỏi: - Tôn giả từ đâu đến? Và khi thấy vị ấy mỏi mệt, khát nước, bà mời vị ấy vào
nhà và ngồi trên sàng tọa. Bà lại đưa nước rửa chân, dầu để xoa
chân và quạt hầu vị ấy. Khi cơn nóng đã dịu, bà dọn nước ngọt, thơm mát mời
vị ấy. Vị Trưởng lão uống nước xong, cơn khát lắng xuống, vị ấy cám ơn
bà và ra đi. Về sau bà từ trần, được tái sinh vào cõi trời Ba mươi ba.
Mọi việc cần được hiểu như ở chuyện Lâu đài trước. Các
vần kệ cũng giống như vậy.
8. Chuyện thứ tám - Lâu Ðài Có Chiếc
Thuyền Thứ Ba (Tatiyanàvà-Vimàna )
Trong lúc đức Thế Tôn du hành quanh thị
trấn với hội chúng Tỷ-kheo đông đảo, Ngài đến một ngôi làng
Bà-la-môn tên là Thùna ở quốc độ Kosala. Các gia chủ Bà-la-môn
ở Thùna nghe tin: 'Người ta nói rằng Sa-môn Gotama đã đến
tại cánh đồng làng ta'.
Bây giờ các gia chủ Bà-la-môn là ngoại đạo có tà kiến,
bản tính keo kiệt, bảo nhau: - Nếu Sa-môn Gotama vào làng này và ở lại độ hai ba
ngày, vị ấy sẽ an trú tất cả dân làng này vào Giáo pháp của vị ấy. Khi ấy
giáo lý Bà-la-môn sẽ không có nơi nương tựa. Và cố ngăn cản đức Thế Tôn dừng chân tại đấy, họ
đưa thuyền bè ra khỏi bến đậu và làm cho cầu cống trở thành vô
dụng. Họ lấp kín các giếng nước trừ một giếng cũ đầy cỏ rác
và che giấu các mạch nước, nhà nghỉ và lầu trọ. Chuyện được kể
trong Kinh Udàna (Cảm Hứng Ngữ) như vậy ở phẩm VII, 9. Ðức Thế Tôn biết được ác nghiệp của họ và
sinh lòng thương xót họ, bèn du hành giữa không gian cùng chư Tỷ-kheo
vượt qua sông, rồi tiếp tục đi đến làng Bà-la-môn Thùna. Ngài
rời đường cái và ngồi xuống một gốc cây. Vào lúc ấy, một số nữ nhân đi ngang và xách nước gần đức
Thế Tôn, trong lòng đã có sự giao ước: 'Nếu Sa-môn Gotama đến
đây, không được ai tiếp đón vị ấy, và khi vị ấy đến nhà nào thì
không ai được đem thực phẩm cho vị ấy hoặc đệ tử của vị ấy cả'. Rồi một nữ tỳ của một gia chủ Bà-la-môn đi đến với một
ghè nước, thấy đức Thế Tôn được một hội chúng Tỷ-kheo vây quanh,
nhận ra rằng chư vị đều khát nước và mệt mỏi; với lòng đầy tín
thành, nàng muốn đem nước cúng dường chư vị. Nàng tự nhủ: 'Cho dù dân
chúng làng này đã quyết định không được cho Sa-môn Gotama thứ gì
cả, thậm chí cũng không được đảnh lễ cung kính, tuy nhiên, nếu khi ta
đã tìm ra các phước điền vô thượng, xứng đáng được cúng dường
này, ta lại không làm nơi nương tựa cho ta bằng cách chỉ đem nước cúng
dường mà thôi, thì biết bao giờ ta mới được giải thoát khỏi cuộc sống
đau khổ trong đời sau? Ta hãy vui lòng để chủ ta và mọi người trong
làng này đập ta, trói ta, ta vẫn quyết cúng dường nước cho phước
điền như thế'. Khi nàng đã quyết tâm như vậy, mặc dù các nữ nhân khác
đang xách nước cố ngăn cản nàng, nàng vẫn không quan tâm đến tính mạng
mình, nhấc ghè nước trên đầu xuống, đặt sang một bên, đến gần đức
Thế Tôn với lòng đầy hân hoan, hạnh phúc, nàng đảnh lễ với năm phần
thân thể sát đất, và dâng nước lên Ngài. Ðức Thế Tôn nhận ra tín tâm của nàng, và để ban đặc
ân cho nàng. Ngài rửa tay chân và uống nước mát. Nước trong bình không giảm
xuống. Cô gái thấy vậy càng tăng tín tâm, đem nước đến lần lượt cho
mỗi vị Tỷ-kheo, rồi cho tất cả chư vị. Nước cũng vẫn không giảm
bớt. Lòng đầy hân hoan phấn khởi, với bình nước vẫn đầy như bao giờ, nàng
trở về nhà. Gia chủ Bà-la-môn của nàng nghe tin nàng đem cho nước uống. 'Nó
đã phá luật lệ của làng này và ta sẽ bị chê cười', ông bảo. Lòng nổi
cơn giận bừng bừng sôi sục, ông ném nàng xuống đất đấm đá túi bụi. Vì
bị trận đòn tàn nhẫn ấy, nàng qua đời, được tái sanh vào cõi trời Ba
mươi ba và một Lâu đài xuất hiện cho nàng như được tả trong chuyện
Lâu đài có chiếc thuyền thứ nhất. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy đem nước giếng cho Ta. Vị Trưởng lão đáp: - Bạch Thế Tôn, giếng ở đây đã bị dân chúng Thùna làm
ô nhiễm. Con không thể lấy nước được. Nhưng đức Thế Tôn ra lệnh cho vị này lần thứ hai, lần
thứ ba, vị Trưởng lão cầm bình bát của đức Thế Tôn và đi về phía
giếng. Khi vị ấy đến, nước giếng đã dâng đầy lên cao, tràn
khỏi miệng, và chảy ra mọi phía. Mọi thứ rác rến trồi lên mặt nước và chảy đi sạch.
Vì nước dâng lên, các mạch nước khác cũng tràn đầy, nên làng này bị
nước vây quanh, và vùng đất quanh làng bị chìm ngập. Các Bà-la-môn thấy
việc hi hữu, lòng đầy kinh ngạc lẫn kỳ thú, họ đến xin đức
Thế Tôn tha lỗi. Lập tức nước lụt biến mất dần. Dân chúng liền cung cấp chỗ ở lên đức Thế Tôn và
chư Tăng, thỉnh cầu chư vị ngày mai và ngày kế tiếp đi đến
thọ trai. Sau khi đã chuẩn bị đại lễ cúng dường, họ dâng cao lương
mỹ vị đủ loại cứng và mềm lên chư Tăng với đức Phật là vị thượng
thủ. Khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong, và cất tay ra khỏi
bình bát, toàn thể dân chúng Thùna đều ngồi đảnh lễ cung kính
quanh Ngài. Ngay lúc ấy, Vị Thiên nữ quán sát thành tựu của nàng và nhận
ra nguyên nhân chính là việc nàng cúng dường nước uống. Lòng đầy hoan
hỷ, nàng nói: - Tốt lắm, nay ta muốn đảnh lễ đức Thế Tôn, ta muốn tuyên
bố cho thế giới loài Người biết thành quả to lớn của các thiện
nghiệp, thậm chí rất nhỏ nhặt, được thực hành cho những người theo
đúng chánh đạo. Với nhiệt tâm tràn trề, cùng đoàn tùy tùng một ngàn
tiên nữ hộ tống trong lạc viên của nàng có cả tòa Lâu đài kia, nàng xuất
hiện với đại oai thần của Thiên giới trước sự chứng kiến của toàn
thể dân chúng. Nàng bước xuống khỏi Lâu đài, đến gần đức Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài và đứng trong dáng điệu cung kính. Sau đó đức Thế
Tôn muốn làm sáng tỏ kết quả công đức của nàng cho đám quần chúng
trước mặt Ngài, bèn hỏi nàng qua các vần kệ: 1. Tiên nương đang đứng ở trong thuyền Sau đó đức Thế Tôn thuyết pháp và giảng Bốn Thánh
Ðế. Khi pháp thoại chấm dứt, vị Thiên nữ được an trú vào sơ quả Dự
Lưu.
9. Chuyện thứ chín - Lâu Ðài Có Ngọn
Ðèn (Dìpa-Vimàna)
Có mái vàng che phủ phía trên,
Nàng bước xuống hồ sen ngắt hái
Một hoa sen với cánh tay tiên.
2. Trùng các là nơi nàng trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngăn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
3. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú gì nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Ðức Phật tòan giác hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
6. Khi được làm người giữa thế nhân,
Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
Con thấy chư Tăng đang khát nước,
Quyết lòng, con kéo nước lên dâng.
7. Quả thật ai đầy đủ nhiệt tâm,
Ðem dâng nước uống đến chư Tăng
Khát nhiều, mỏi mệt, ngày sau được
Suối mát đầy sen nở trắng ngần.
8. Bên mình nước mát với đôi bờ
Cát trắng viền luôn chảy lững lờ,
Ðầy đủ sà-la, xoài, ngọc quế,
Kèn, đào, ti-lak nở muôn hoa.
9. Phong cảnh càng tăng vẻ mỹ quang,
Lâu đài rực sáng tuyệt trần gian,
Ðây là kết quả hành vi ấy,
Ai tạo phước lành hưởng lạc an.
10. Trùng các là nơi con trú thân,
Lâu đài có nóc nhọn nhiều tầng,
Khéo xây ngắn nắp và cân xứng,
Rực rỡ, sáng ngời khắp bốn phương.
12. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
13. Nhờ đấy, nay con có lực thần,
Dung quang sáng chói khắp mười phương,
Ðây là kết quả phần công hạnh
Ðem nước dâng đức Phật cúng dường.
Trong lúc đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi,
vào ngày Bố-tát (trai giới) nhiều thiện nam tín nữ cư sĩ tuân thủ
ngày này, thực hành sự bố thí buổi sáng trước giờ ngọ, mỗi người
tùy theo phương tiện của mình, thọ thực trước giờ quy định và y
phục chỉnh tề với áo khoác ngoài sạch sẽ, cầm vòng hoa, hương liệu
đi đến tinh xá vào buổi chiều, hầu cận chư Tỷ-kheo làm phát khởi
tín tâm và nghe pháp buổi chiều tối.
Trong lúc chư vị vẫn còn nghe pháp và muốn ở lại qua đêm trong
tinh xá, thì trời tối dần. Lúc ấy một nữ nhân suy nghĩ: 'Mọi người cần
có đèn ở đây', và bà đem đèn cùng các vật để thắp đèn từ nhà
đến, thắp đèn lên, đặt trước pháp tòa và nghe pháp. Hài lòng vì đã
cúng dường đèn, bà tràn ngập niềm hân hoan, hạnh phúc và ra về sau
khi cung kính đảnh lễ chư Tăng. Về sau bà từ trần và được tái sanh vào cõi trời Ba mươi
ba trong một Lâu đài bằng ngọc báu rực rỡ. Song vì hào quang của thân
thể Thiên nữ này quá vĩ đại, nàng sáng chói hơn các Thiên nữ khác và
tỏa ánh sáng khắp mười phương. Bấy giờ, một hôm Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên
Thiên giới (như các truyện trước) nhưng ở đây, Tôn giả đặt câu hỏi
bắt đầu bằng ba vần kệ: 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
10. Chuyện thứ mười - Lâu Ðài Do Cúng
Mè (Tiladakkhina-Vimàna)
Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ trần gian.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Vì sao nàng có được hào quang
Thanh tịnh, vượt xa hẳn mọi nàng?
Vì cớ gì thân nàng rực rỡ,
Làm cho sáng chói khắp mười phương?
4. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang chiếu sáng khắp mười phương.
5. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
6. Thuở được làm người giữa thế nhân,
Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,
Khi màn đêm tối buông dày đặc,
Con thắp đèn lên để cúng dâng.
7. Khi trời tốt mịt một đêm đen,
Ai thắp đèn cho tỏa sáng lên,
Sẽ tái sanh trong lầu bảo ngọc
Ðầy hoa nở rộ cạnh hồ sen.
8. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
9. Con là Thiên nữ tỏa hào quang
Thanh tịnh, vượt xa hẳn mọi nàng,
Vì thế toàn thân con rực rỡ,
Làm cho sáng chói khắp mười phương?
10. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Bấy giờ đức Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi,
tại Kỳ Viên, trong tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Thời ấy tại Ràjagaha có
một nữ nhân đang mang thai, rửa sạch mè và phơi khô vì bà muốn uống một ít
dầu mè.
Thọ mạng của bà sắp chấm dứt, và bà có số phận phải
chết ngay hôm ấy với các hạnh nghiệp chồng chất đưa đến tái sanh
vào địa ngục. Bấy giờ, đức Thế Tôn, trong khi quán sát thế gian vào
lúc rạng đông, với Thiên nhãn Ngài thấy bà và suy nghĩ: 'Nữ nhân này sắp
chết hôm nay có thể tái sanh vào địa ngục. Vậy bây giờ Ta hãy làm
cho bà ấy tái sanh thiên giới bằng cách nhận mè do bà ấy bố thí'. Chỉ trong chốc lát, Ngài đi từ Sàvatthi đến Ràjagaha,
và trong khi Ngài đi khất thực ngang qua thành Ràjagaha, Ngài đến
cửa nhà bà. Nữ nhân ấy thấy đức Thế Tôn, lòng tràn ngập hân hoan hạnh
phúc, vội đứng lên chắp hai tay, và thấy không có gì khác xứng đáng
để cúng dường, bà rửa tay chân và lùa mè lại thành một đống, bà bụm
cả hai tay lại, bốc đầy mè và đặt nắm mè vào bình bát đức Thế Tôn.
Do lòng từ mẫn đối với bà, đức Thế Tôn bảo: 'Mong con được an lạc',
rồi tiếp tục lên đường. Ðêm ấy, lúc gần rạng đông, bà kia từ trần và được tái sanh
vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần. Tôn giả Mahà-Moggallàna, trong lúc du hành lên cõi trời
(như được tả trên đây), gặp bà và hỏi: 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ trần gian.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú gì nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang sáng chói khắp mười phương.
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Trong đời sống trước giữa phàm trần,
Con được sinh làm một thế nhân,
Con gặp Phật-đà vô lậu hoặc,
An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.
6. Gặp Phật, con đầy đủ tín thành,
Cúng dường lễ vật chính tay mình,
Lòng không tham vọng, đem mè tặng
Ðấng Giác Ngộ là bậc xứng danh.
7. Vì thế sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy, oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Revised: 13-02-2004