BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tiểu Bộ - Khuddhaka Nikaya
Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt
Phẩm I.b
-ooOoo-
11. Chuyện thứ mười một - Lâu Ðài Trinh Phụ (Patibbatà-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi.
Trong thành ấy có một trinh phụ. Nàng sống hòa hợp với chồng, nhẫn nại và
thông minh. Nàng không la mắng ai, dù khi hờn giận, nàng nói năng dịu dàng,
chân thật, đầy tín tâm và cúng dường bố thí tùy theo phương tiện của
nàng.
Khi lâm trọng bệnh, nàng từ trần và được tái sanh vào
cõi trời Ba mươi ba. Phần còn lại cũng giống như chuyện đã được
kể: 1. Thiên nga, sếu, hạc với chim công,
12. Chuyện thứ mười hai - Lâu Ðài Trinh
Phụ Thứ Hai (Dutiyapatibbatà-Vimàna)
Cu gáy du dương lượn khắp vòng
Lầu các, lạc viên, hoa tuyệt sắc,
Dập dìu bao ngọc nữ tiên đồng.
2. Thiên nữ đằng kia đại lực hùng,
Thay hình đổi dạng với thần thông,
Cùng đoàn tiên nữ vây quanh ấy
Múa hát vui chơi thật thỏa lòng.
3. Ðạt thành thiên lực đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Khi được làm người giữa thế nhân,
Con là trinh phụ chẳng tà dâm,
Như hiền mẫu chở che con trẻ,
Không nói lời thô lúc hận sân.
6. Chân thật, đoạn trừ các vọng ngôn,
Hân hoan bố thí, tính ân cần,
Với tâm thành tín, con cung kính
Hào phóng cúng dường thức uống ăn.
7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,
Công đức con làm giữa thế nhân,
Vì thế oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Tại Sàvatthi, tương truyền có một
nữ đệ tử tại gia là một trinh phụ, mộ đạo, đầy tín tâm. Bà giữ Ngũ
giới, bố thí tùy theo phương tiện và khi từ trần, bà được tái sanh vào
cõi trời Ba mươi ba. Phần còn lại như đã được tả ở trên:
1. Trụ bằng ngọc bích sáng muôn màu,
13. Chuyện thứ mười ba - Lâu Ðài Của
Nàng Dâu (Sunisà-Vimàna)
Thiên nữ oai nghi thượng thúy lâu,
Nhờ đại thần thông nàng lạc trú,
Thay hình đổi dạ thỏa mong cầu.
2. Tiên nữ vây quanh ở khắp nơi,
Ðàn ca múa hát mãi vui chơi,
Thần thông thiên giới nàng thành tựu
Do tạo đức gì ở cõi người,
Oai lực của nàng sao rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng mọi phương trời?
3. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
4. Khi làm người giữa cõi nhân gian,
Là đệ tử Ngài có Nhãn quang,
Con bỏ sát sanh loài thú vật,
Và không lấy của cải tha nhân.
5. Con chẳng hề ham uống rượu nồng,
Con không nói láo, chỉ yêu chồng,
Với lòng thành tín, con cung kính
Dâng cúng dồi dào thức uống ăn.
6. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
7. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Tại Sàvatthi, trong ngôi nhà kia, có
một nàng dâu vốn là một thiện gia tín nữ, thấy một Trưởng lão
Tỷ-kheo đã đoạn tận lậu hoặc đến nhà khất thực, lòng nàng tràn
ngập hân hoan, hạnh phúc, thầm nghĩ: 'Một phước điền vô thượng đã
xuất hiện cho ta', nàng bèn cầm phần chiếc bánh nếp mà nàng đã
nhận cho mình và cung kính cúng dường vị Tỷ-kheo. Vị ấy nhận bánh, nói
lời tùy hỷ công đức và tiếp tục đi.
Về sau, nàng dâu ấy qua đời và được tái sanh vào cõi
trời Ba mươi ba. Phần còn lại cũng giống như đã được giải thích ở trên. 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
14. Chuyện thứ mười bốn - Lâu Dài Nàng
Dâu Thứ Hai (Dutiyasunisà-Vimàna)
Ðang chiếu mười phương với ánh quang.
Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ trần gian.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức gì giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Con làm dâu ở tại nhà chồng,
Khi được làm người giữa thế nhân,
Thấy một Tỷ-kheo vô lậu hoặc,
An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm.
6. Với người, con có tín tâm thành,
Dâng bánh bằng tay của chính mình,
Trước đã cúng người phần chiếc bánh,
Nay con hưởng thú Lạc Viên đình.
7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
8. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân.
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Giống chuyện Lâu Ðài Nàng Dâu ở
trước, chỉ trừ điểm: Ở đây, vật cúng dường là phần bánh bột gạo
(Kummàsa)
15. Chuyện thứ mười lăm - Lâu Ðài Của Uttarà
(Uttarà-Vimàna)
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha,
ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Thời ấy có một người nghèo tên là Punna,
sống làm công cho một vị triệu phú chủ ngân khố ở Ràjagaha. Vợ y
có tên Uttarà và con gái cùng tên Uttarà là hai người duy nhất
trong nhà y.
Ngày kia, tại Ràjagaha có lễ hội suốt bảy ngày. Ông
triệu phú nghe tin đó, nên khi Punna đến vào sáng sớm, ông bảo: - Này chú, tất cả gia nhân ta đều muốn cử hành lễ hội,
vậy chú muốn dự lễ hay muốn làm việc lấy tiền công? Punna đáp: - Thưa ông chủ, những việc như lễ hội để dành cho
người giàu, chứ nhà con không có cả gạo để nấu cháo ngày mai nữa. Lễ
hội có nghĩa gì với con chứ? Nếu có đôi bò, con sẽ đi cày. Ông chủ đáp: - Ðược rồi, thế thì lấy bò ra. Punna đem đôi bò lực lưỡng và cây cày tốt về bảo
vợ:
- Nàng ơi, dân chúng trong thành đang làm lễ hội. Còn ta sắp
đi làm công vì nhà ta nghèo. Nhưng ngay hôm nay, nàng hãy nấu gấp đôi phần
ăn dành cho ta và đem đến chỗ ta. Sau đó y ra đồng. Bây giờ, Trưởng lão Sàriputta đã nhập Diệt định
suốt bảy ngày, vừa xuất định, bèn quán sát thế giới và suy nghĩ: 'Hôm
nay ta sẽ có dịp làm ân cho ai?' Tôn giả thấy Punna xuất hiện trong phạm vi nhận thức
của mình, liền quán sát thêm và suy nghĩ: 'Nay người này có phải là
thiện nam tử chăng? Y có thể làm ơn cho ta chăng? Khi nhận thấy Punna là một thiện nam tử có khả năng
làm ơn phước, và vì thế sẽ tạo nên kết quả lớn cho y, Tôn giả cầm
y, bát đi ra đồng nơi y làm việc cày bừa, rồi đứng đó nhìn vào bụi
cây ở cuối bờ ruộng. Ngay khi Punna thấy vị Trưởng lão, y ngừng cày, đảnh lễ
Tôn giả với năm phần thân thể sát đất và tự nhủ: - Vị ấy cần cái tăm xỉa răng. Y đưa Tôn giả cái tăm xỉa răng đã làm sẵn sàng để
dùng. Sau đó Tôn giả kéo bình bát và khăn lọc nước từ túi xách ra và
đưa cho y. Y tự nhủ: 'Vị ấy cần nước uống'. Punna bèn cầm lấy khăn
lọc nước uống và trao cho Tôn giả. Tôn giả suy nghĩ: 'Người này ở tại chính ngôi nhà cuối cùng
trong làng. Nếu ta đi đến cửa nhà ấy, vợ y sẽ không thấy ta. Vậy, ta
sẽ đứng lại ngay tại đây cho đến khi vợ y bước ra đường cái với phần
ăn của y'. Tôn giả đợi đó một lát, và khi biết rằng vợ y đã lên
đường, Tôn giả ra đi về phía thành phố. Khi người vợ thấy vị Truởng
lão trên đường, bà suy nghĩ: 'Thỉnh thoảng ta có một vật xứng đáng để
cúng dường thì ta lại không thấy ai xứng đáng để nhận nó. Thỉnh thoảng
ta gặp một người xứng đáng, ta lại không có gì xứng đáng cúng dường. Song
hôm nay ta lại gặp một nguời xứng đáng, đồng thời ta lại có vật xứng đáng
cúng dường. Chắc chắn ngài sẽ làm ơn cho ta'. Bà đặt đĩa thức ăn xuống đó, đảnh lễ vị Trưởng lão với
năm phần thân thể sát đất rồi thưa: - Bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhận cho tôi tớ của Tôn giả mà
không quan tâm đến món thực phẩm này ngon hay dở'. Lúc ấy vị Trưởng lão đưa bình bát ra, và khi bà cầm đĩa
với một tay và trao thức ăn cúng dường Tôn giả bằng tay kia, Tôn giả bảo: - Thôi đủ rồi. Khi vừa đúng nửa dĩa được cúng dường, Tôn giả lấy tay che
bình bát lại. Bà đáp: - Bạch Tôn giả, một phần ăn không thể chia hai. Nếu Tôn
giả không muốn làm ơn cho tôi tớ của ngài trong đời này thì xin Tôn giả
làm ơn cho đời sau. Con muốn cúng dường tất cả, chứ không phải để lại
bất cứ vật gì. Nói vậy xong, sau khi đặt mọi vật vào bình bát, bà phát
nguyện: - Ước mong con được dự phần vào Ðạo pháp mà Tôn giả đã
chứng đắc. Tôn giả đáp: - Mong được như vậy. Tôn giả nói lời tùy hỷ công đức lúc đang đứng, và khi
Tôn giả đã ngồi xuống một nơi thuận lợi có nuớc chảy, Tôn giả thọ
thực. Người vợ ấy về nhà, kiếm một ít gạo và nấu cơm nữa. Trong lúc Punna đã cày xong nửa thửa ruộng, và không
thể nào chịu nổi cơn đói, y tháo cái cày ra khỏi đôi bò, đi vào bóng
cây, ngồi xuống nhìn ra đường. Bấy giờ vợ y đang đi trên đường, cầm thức ăn và thấy y, bà
suy nghĩ: 'Chàng đang ngồi đó mong chờ ta vì bị cơn đói hành hạ. Giả sử
chàng mắng chửi, bảo: 'Nó đi trễ quá!', và giả sử chàng lấy gậy đánh ta,
thì việc ta làm vừa rồi sẽ không có kết quả gì. Vậy ta sẽ nói
trước với chàng để ngăn cản việc ấy'. Với ý tưởng này trong trí, bà bảo: - Thưa phu quân, hôm nay, ngay chính ngày duy nhất này, hãy tạo
nhiệt tâm, tinh tấn, đừng làm cho việc thiếp vừa làm trở thành vô
hiệu quả. Trong khi thiếp đang đem cơm cho chàng từ sáng sớm, thiếp
thấy vị Tướng quân Chánh pháp đi trên đường. Thiếp cúng dường ngài
phần ăn của chàng và sau đó về nhà nấu cơm lại và đem đây. Xin phu
quân hãy tạo nhiệt tâm. Y đáp: - Nàng đang nói gì thế? Và khi đã nghe câu chuyện, y đáp: - Này nàng, nàng đã làm rất chánh đáng khi đem phần ăn của
ta cúng dường bậc xứng đáng này. Hôm nay, lúc tảng sáng, ta cũng cúng dường
ngài cái tăm xỉa răng và nước súc miệng. Và với tâm thành tín, y thỏa mãn với câu chuyện vợ y vừa
kể, rồi mệt mỏi vì ăn cơm trễ trong ngày, y kê đầu lên lòng vợ và
ngủ thiếp đi. Bấy giờ, tất cả phần đất được cày từ sáng sớm, gồm cả
đất được nghiền nát, đều trở thành vàng sáng chói và luôn giữ vẻ
rực rỡ, như một đám hoa kanikàra màu vàng óng ả. Khi Punna thức dậy, y nhìn và bảo vợ: - Này nàng, ta thấy hình như cả đám đất được cày đã trở
thành vàng. Nàng hãy cho ta biết, chẳng phải mắt ta bị lóa vì ta ăn cơm
quá trễ lúc xế trưa đấy chứ? Bà đáp: - Thưa phu quân, thiếp cũng thấy đất có vẻ như thế. Y đứng lên, đến đó cầm một cục đất đập vào đầu cái
cày, thấy nó chính là vàng bèn kêu to: - Ô kìa, kết quả việc bố thí cúng dường vị Tướng
quân Chánh pháp xứng đáng ấy đã xuất hiện ngay hôm nay rồi. Song rõ
ràng là ta không thể hưởng riêng số tài sản quá lớn như vậy. Y đổ đầy vàng vào cái dĩa vợ y đem lại và đi đến cung
vua, khi được vua cho phép, y bước vào đảnh lễ, và vua hỏi: - Này nhà ngươi, có việc gì thế? Y đáp: - Tâu Hoàng Thượng, hôm nay mảnh đất hạ thần đã cày đều
biến thành vàng khối cả, và vẫn còn nguyên như vậy. Số vàng ấy này cần
phải được trình lên Hoàng thượng. - Nhà ngươi là ai? Nhà vua hỏi. - Tiểu thần tên là Punna. - Song nhà ngươi đã làm gì hôm nay? - Tảng sáng nay, tiểu thần dâng cái tăm xỉa răng và nuớc
súc miệng lên vị Tướng quân Chánh pháp và vợ tiểu thần dâng ngài
thức ăn được đem đến cho tiểu thần. Khi vua nghe vậy, ngài bảo: - Ngay hôm nay, kết quả do bố thí cúng dường đã xuất
hiện. Này nhà ngươi, ta sẽ làm gì đây? - Xin Hoàng thượng phái nhiều ngàn chiếc xe đi chở vàng
về dâng Hoàng thượng. Nhà vua truyền đoàn xe ra đi. Khi quân của vua cầm vàng lên và bảo: - Vàng này thuộc về Hoàng thượng. Mỗi thỏi vàng họ cầm đều hóa thành đất. Khi họ
về trình vua, ngài hỏi họ: - Các người nói gì khi cầm vàng? Họ đáp: - Chúng thần bảo vàng thuộc về Hoàng thượng. Nhà vua bảo: - Thế thì các ngươi hãy đến lần nữa và bảo trong lúc
nhặt vàng: 'Vàng này thuộc về Punna'. Họ tuân lệnh. Mọi thỏi vàng được nhặt lên vẫn giữ
nguyên trạng. Họ mang vàng về chất thành đống trong sân chầu. Ðống
vàng cao đến tám mươi cubít (khoảng 40 mét) . Nhà vua triệu tập đám
thị dân đến hỏi: - Người nào trong thành này có nhiều vàng như vậy chăng? - Tâu Hoàng Thượng, không. - Thế phải tặng cái gì cho người có như vậy? - Tâu Hoàng thượng, chiếc lọng của một đại phú chủ
ngân khố (setthi) Nhà vua phán: - Hãy cho ngươi ấy làm vị Ðại phú gia. Rồi ngài trao cho y chiếc lọng Ðại phú gia và nhiều
vàng bạc. Lúc ấy Punna trình nhà vua: - Tâu Hoàng thượng, suốt thời gian qua chúng thần ở đậu nhà
người khác. Xin Hoàng thượng ban cho chúng thần một nơi để ở. Nhà vua bảo: - Thế thì hãy xem đây. Chốn này giống như rừng hoang. Hãy
dọn dẹp sạch sẽ mọi sự và xây nhà mới. Rồi vua chỉ cho y thấy cảnh nhà vị Ðại phú gia trước kia. Chỉ
trong vài ngày, ngài đã truyền xây một nhà mới trên khuôn viên ấy, rồi
cử hành lễ tân gia và lễ nhận chức vụ cùng một thể. Y lại làm lễ cúng
dường Tăng chúng với đức Phật là vị thượng thủ suốt bảy ngày. Sau đó, vị Ðại phú gia cũ ở Ràjagaha đi hỏi con gái
của Puna về làm vợ cho con trai ông. Y đáp: - Tôi không muốn gả con gái tôi. Vị Ðại phú gia bảo: - Ðừng làm như vậy. Ông đã được may mắn ngay thời gian ông
đang ở nhà chúng tôi. Nay hãy gả con gái ông cho con trai tôi. Punna đáp: - Con trai ông không phải là kẻ mộ đạo. Con gái tôi không
thể sống thiếu sự nương tựa Tam Bảo. Chỉ vì vậy mà tôi không muốn
gả con gái tôi cho cậu ấy. Sau đó nhiều người có địa vị đến khẩn cầu y: - Ðừng phá vỡ mối giao hảo của ông với ông này. Xin hãy gả
con gái cho con ông ấy. Y chịu theo lời khẩn cầu của họ và gả con gái đúng vào
ngày rằm trăng tròn tháng Asàlhi (khoảng tháng sáu-bảy). Nàng đi
về sống với nhà chồng. Từ khi về đó, nàng không được phép đến gần
Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni, cũng không được bố thí cúng dường hoặc nghe
pháp. Khoảng hai tháng rưỡi như vậy trôi qua, nàng hỏi đám nô tỳ hầu cận: - Nay mùa mưa còn lại bao lâu nữa? - Thưa tiểu thư, còn nửa tháng. Nàng nhắn tin với cha: 'Tại sao họ lại thả con vào cảnh lao
tù như vậy? Thà rằng trước kia cha đóng dấu trên người con và cho con làm
nô tỳ kẻ khác còn hơn gả con vào trong một gia đình không có lòng tin vào
đạo. Từ lúc đến đây, con không được phép làm một thiện sự công
đức nào cả, thậm chí cũng không được nhìn một Tỷ-kheo'. Bấy giờ cha nàng, sau khi bày tỏ nỗi buồn phiền, bèn
nói: 'Than ôi, thật khổ thân con ta!'. Rồi truyền đem mười lăm ngàn đồng
kahàpana đến giao cho nàng và nhắn tin: 'Trong kinh thành này có một
kỹ nữ sang trọng tên là Sirimà. Mỗi ngày nàng kiếm được
một ngàn (kahàpana). Con hãy dùng số tiền này nhờ người đưa nàng
đến gặp con, trao nàng cho chồng con, rồi con hãy tự mình thực hành
mọi thiện sự như con muốn'. Uttarà làm như vậy. Khi chồng nàng thấy Sirimà liền
hỏi:
- Chuyện gì đây? Nàng đáp: - Thưa phu quân, trong nửa tháng này xin hãy để cho cô bạn
của thiếp săn sóc chàng, còn suốt nửa tháng này thiếp không muốn làm
gì ngoài việc cúng dường bố thí và nghe pháp. Chồng nàng nhìn kiều nữ kia và dục vọng khởi lên,
liền đồng ý ngay: - Ðược rồi, tốt lắm. Về phần Uttarà, nàng gởi lời cung thỉnh Tăng chúng
với đức Phật là bậc thượng thủ: 'Bạch Thế Tôn, suốt nửa tháng này xin
đừng đi nơi nào khác, mà chỉ nhận lễ cúng dường tại đây'. Khi nhận được sự đồng ý của bậc Ðạo Sư, nàng nói: - Từ nay cho đến Ðại lễ Tự Tứ (Mahàpavàranà), ta sẽ
có thể hầu cận bậc Ðạo Sư và nghe pháp. Với lòng hân hoan về việc ấy, nàng đi quanh sắp đặt
mọi sự cần làm trong nhà bếp, bảo: 'Hãy nấu cháo cách này, làm bánh
cách nọ'. Bấy giờ chồng nàng suy nghĩ: 'Ngày mai là Ðại lễ Tự Tứ, vừa
đứng ở cửa sổ nhìn ra nhà bếp vừa tự hỏi: 'Bây giờ không biết con
bé ngốc nghếch này đang bận làm gì?' Chàng thấy nàng đang đi quanh, thân
ướt đẫm mồ hôi, dính đầy tro bụi, lấm lem cả than lẫn bồ hóng do mọi
việc chuẩn bị, liền nói: - Con bé ngốc nghếch này không thụ hưởng xa hoa lạc thú
trong một nơi như thế này. Nó cứ đi quanh quẩn với lòng hân hoan chỉ vì
ước muốn hầu hạ đám Tỷ-kheo trọc đầu. Rồi chàng cười to và bỏ đi. Khi chàng bỏ đi, Sirimà
đang đứng cạnh chàng và tự nhủ: 'Nay chàng thấy gì khiến chàng cười to
vậy?' Rồi nhìn ra cửa sổ ấy, nàng thấy Uttarà và suy nghĩ: 'Chàng nhìn
vợ và cười to, chắc có sự mật thiết giữa hai người'. Bấy giờ chuyện kể rằng, mặc dù kiều nữ này đã làm
khách mời suốt nửa tháng trong nhà này, tuy thế, vì nàng đang hưởng thụ
xa hoa lạc thú, nàng quên nghĩ đến địa vị khách mời của mình, lại có
ý tưởng: 'Ta là chủ nhà này'. Nàng đem lòng căm hận Uttarà và tự nhủ: 'Ta sẽ phá nó',
liền đi xuống từ thượng lầu, vào nhà bếp và đến nơi người ta
đang làm bánh, lấy cái muỗng lớn múc một ít dầu bơ nóng sôi, đi về
phía Uttarà.
Uttarà thấy nàng đi đến, suy nghĩ: 'Bạn ta đã làm ơn
cho ta. Chu vi quả đất này quá hẹp, Phạm Thiên giới quá thấp, song đức độ
của bạn ta thật vĩ đại vì nhờ nàng, ta mới có thể cúng dường và nghe
pháp. Nếu ta tức giận nàng, thì dầu bơ này sẽ làm bỏng ta, nếu
không, nó sẽ không làm bỏng ta'. Dầu bơ ấy, dù được tưới trên đỉnh đầu nàng, vẫn giống
như nước lạnh vì toàn thân nàng được thấm nhuần từ tâm. Rồi khi các nô
tỳ của Uttarà thấy Sirimà tiến đến phía họ sau khi
đã múc đầy một muỗng bơ khác và suy nghĩ: 'Bơ này cũng sẽ nguội lạnh
sao?', họ đe dọa nàng: - Ơ kìa, ác nữ nhân kia! Sao ngươi dám tưới dầu sôi trên
đầu bà chủ ta? Rồi từ mọi nơi trong nhà bếp, họ xông tới lấy tay
chân đấm đá nàng và xô xuống đất. Dù Uttarà muốn ngăn cản họ,
nàng cũng không thể chận họ được. Sau đó Uttarà đứng bên Sirimà, xua các nô tỳ lui
ra, và nói với Sirimà bằng giọng trách móc: - Tại sao cô lại làm một việc tai hại như vậy? Rồi nàng lấy nước ấm tắm cho kiều nữ và xoa đầu nàng ấy
với loại dầu đã được lọc kỹ cả trăm lần. Ngay lúc ấy, Sirimà nhận ra sự thực nàng chỉ là khách
mời, bèn suy nghĩ: 'Ta đã làm một việc tai hại khi rắc dầu sôi lên đầu
nàng. Thậm chí nàng cũng không ra lệnh cho đám nô tỳ: 'Giữ lấy nó!',
nàng lại còn xua họ đi ra khi họ đả thương ta và làm cho ta những
việc đáng làm. Nếu ta không xin nàng thứ lỗi, đầu ta sẽ bị vỡ ra
bảy mảnh'. Nàng liền quỳ xuống chân Uttarà và nói: - Xin bà tha thứ cho tôi. Uttarà đáp: - Ta là cô con gái còn có cha. Nếu cha ta tha thứ, ta sẽ tha
thứ nàng. - Thưa bà, tôi sẽ xin lỗi cả thân phụ bà là Ðại phú gia Punna
nữa. - Thân phụ Punna là người cha đã sinh ra ta trong vòng
luân hồi sinh tử (samsàra). Song nếu vị thân phụ đã sinh ra ta trong
vòng không luân hồi (Nibbàna) tha thứ nàng thì ta sẽ tha thứ. - Thế ai là vị thân phụ sinh ra bà trong vòng không luân
hồi? - Ðức Phật Chánh Ðẳng Giác. - Tôi không quen biết Ngài. Làm sao bây giờ? - Bậc Ðạo Sư sẽ đến đây vào ngày mai với Tăng chúng của
Ngài. Nàng hãy đem bất cứ lễ vật cúng dường nào nàng sắm được và
đến đây xin Ngài tha thứ. - Thưa bà, được lắm. Sirimà nói xong, đứng dậy về nhà nàng, ra lệnh cho
năm trăm nữ tỳ chuẩn bị nhiều loại món ăn cứng và mềm, và ngày hôm
sau, nàng đem mọi lễ vật thiết đãi ấy đi đến nhà Uttarà
rồi ngồi đợi, chứ không dám đặt thứ gì vào bình bát của Tăng chúng với
đức Phật là vị thượng thủ. Chính Uttarà nhận lấy mọi lễ vật và
sắp đặt mọi việc cả. Còn Sirimà và đoàn tùy tùng của nàng
đợi khi buổi thọ thực hoàn tất, liền quỳ dưới chân bậc Ðạo Sư,
lúc ấy bậc Ðạo Sư hỏi nàng:
- Cô có lỗi gì? - Bạch Thế Tôn, hôm qua con đã làm như vậy như vậy, song
bạn con đã chận đám nô tỳ ấy đang đả thương con. Thay vào đó nàng đã
làm ơn cho con. Con nhận thấy đức hạnh của nàng, bèn xin nàng tha lỗi,
song nàng bảo với con rằng khi nào con được Thế Tôn tha lỗi thì 'Ta
sẽ tha lỗi'. - Có đúng như cô ấy nói không, Uttarà? - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Bạn con đã đổ dầu sôi lên
đầu con. - Thế lúc ấy con nghĩ gì? - Con nghĩ: 'Chu vi quả đất quá hẹp, Phạm Thiên giới quá thấp,
song đức hạnh của bạn con thật vĩ đại, bởi vì nhờ nàng giúp đỡ, con mới
có thể cúng dường lễ vật và nghe pháp. Nếu con tức giận nàng thì
dầu ấy cứ làm bỏng con; còn nếu không thì nó không làm bỏng con'. Nghĩ
như vậy, con đã làm cho nàng được thấm nhuần từ tâm tỏa rộng. Bậc Ðạo Sư bảo: - Lành thay, lành thay. Uttarà, ta cần phải nhiếp phục
hận sân như vậy. Và để làm sáng tỏ ý nghĩa này: 'Ta phải lấy vô sân
nhiếp phục người sân hận, nhiếp phục người phỉ báng bằng cách không
phỉ báng; nhiếp phục người mạ lị bằng cách không mạ lị; nhiếp phục
người keo kiệt bằng cách đem cho tài vật của mình; và nhiếp phục
người nói dối bằng lời chân thật', Ngài ngâm vần kệ: Ta lấy vô sân thắng hận sân, Khi Ngài đã ngâm vần kệ xong, Ngài thuyết giảng Tứ
Ðế, Uttarà được an trú vào quả Nhất Lai. Còn chồng nàng và cha
mẹ chồng nàng đều đắc quả Dự Lưu. Về sau, khi Uttarà từ trần,
nàng tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba. Khi Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành lên thiên giới như
đã tả ở trên, thấy Thiên nữ Uttarà, bèn đặt câu hỏi nàng qua vần
kệ bắt đầu với: 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm
Và bạch Tôn giả, xin hãy làm ơn nhân danh con, cung kính đảnh
lễ chân Thế Tôn và nói: 'Tín nữ có tên Uttarà cung kính khấu đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn' được chăng? Thực sự, bạch Tôn giả, nếu đức
Thế Tôn có tuyên bố cho con đạt được một trong các Sa-môn quả, thì
điều ấy cũng không lạ gì'. Về sau đức Thế Tôn đã tuyên bố quả Bất Lai cho nàng.
16. Chuyện thứ mười sáu - Lâu Ðài Của Sirimà
(Sirimà-Vimàna)
Lấy hiền lương nhiếp phục tà gian,
Lấy hào phóng thắng người keo kiệt,
Lấy thật chân thắng kẻ vọng ngôn.
Ðang chiếu mười phương với ánh quang,
Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng
Như vì sao cứu hộ trần gian.
2. Vì sao nàng được sắc như vầy,
Vì cớ gì nàng vinh hiển đây,
Những lạc thú nào nàng mến chuộng
Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay?
3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,
Nàng tạo đức giữa thế nhân,
Thần lực nàng vì sao rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương?'
4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Nàng gỉải đáp ngay phần hạnh nghiệp,
Và đây là kết quả cho nàng:
5. Tính con không tật đố, ghen hờn,
Keo kiệt, khi đang sống với chồng,
Tuân phục chồng, không hề giận dỗi,
Giữ ngày trai giới thật tinh cần.
6. Vào ngày mười bốn với mười lăm,
Mồng tám, những ngày có sáng trăng,
Ðặc biệt là ngày trong nửa tháng
Liên quan Bố-tát giới tu thân.
7. Con hành trì giới Bát quan trai,
Ðức hạnh bản thân giữ suốt đời,
Như vậy trong Lâu đài lạc trú,
Ðiều thân tiết độ, cúng dường hoài.
8. Hại mạng sát sanh, con tránh xa,
Giữ mình không dối trá sai ngoa,
Cũng không lấy vật gì phi pháp,
Tránh rượu nồng say, các dục tà.
9. Hân hoan giữ Ngũ giới tu hành,
Thánh Ðế con nghiên cứu thật tinh,
Ðệ tử đức Cồ-đàm Chánh Giác,
Nhãn quan thấu suốt, đại uy danh.
10. Bản thân giữ đạo đức nghiêm trang,
Ðạt được thanh danh thật vẻ vang,
Nay thọ hưởng công mình đã tạo,
Con thường hạnh phúc lẫn khang an.
11. Vì vậy sắc con đẹp thế này,
Và con vinh hiển ở nơi đây,
Bất kỳ lạc thú nào trong dạ
Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay.
12. Xin trình Tôn giả đại oai thần
Công đức con làm giữa thế nhân,
Nhờ đấy oai nghi con rực rỡ,
Dung quang tỏa sáng khắp mười phương.
Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại Ràjagaha
(Vương Xá) ở chỗ nuôi sóc trong Trúc Lâm. Thời ấy Sirimà, kỳ
nữ sang trọng đã được nói đến trong chuyện trước, cũng từ giã
nghề nghiệp ô uế của nàng, vì nàng đã đắc quả Dự Lưu và bắt
đầu cúng dường thực phẩm hằng ngày cho tám vị trong Tăng chúng được
chọn theo phiếu.
Từ buổi đầu, tám Tỷ-kheo đã đến nhà nàng hằng ngày.
Nàng thường múc đầy các bình bát và nói: 'Xin hãy dùng một ít bơ, hãy
dùng một ít sữa...' Phần ăn mỗi người nhận được đủ cho ba bốn người.
Mỗi ngày số thực phẩm cúng dường có giá trị bằng mười sáu kahàpana
(giá hai con bò sữa). Một hôm, một Tỷ-kheo đã thọ hưởng buổi ngọ trai
dành cho tám vị xong, bèn đi đến một tinh xá cách đó ba do-tuần (khoảng
20 km). Bấy giờ, về buổi chiều, trong lúc vị ấy ngồi hầu cận
chư Trưởng lão, chư vị hỏi: - Này Hiền hữu, Hiền hữu đã thọ thực tại đâu ngay
trước khi đến đây? - Tiểu đệ đã dự buổi ngọ trai dành cho tám vị tại
nhà cô Sirimà. - Thế cô Sirimà đem cúng dường thực phẩm mà cô ấy
đã làm cho ngon lành chăng? - Tiểu đệ không thể nào tả hết buổi ngọ trai
kia. Cô ấy cúng dường thực phẩm đã chuẩn bị rất thịnh soạn. Chỉ một phần
ăn một người nhận được cũng đủ cho ba bốn người. Song còn đặc biệt
thù thắng hơn cả lễ vật được bố thí là dung sắc của cô ấy, vì cô ấy có
dung sắc tuyệt mỹ thế này thế này...' Rồi vị ấy kể lại
mọi vẻ đẹp hấp dẫn của nàng. Bấy giờ, một Tỷ-kheo đã nghe lời tường thuật mọi vẻ
diễm lệ của nàng, mặc dù chưa thấy nàng, chỉ mới nghe kể về
nàng, vị ấy đã đâm ra si tình nàng và nghĩ thầm: 'Ta muốn đi nhìn nàng'. Vị ấy bèn nói về số hạ lạp (mùa an cư đã trải qua) và
hỏi một Tỷ-kheo về vị trí của mình trong Giáo đoàn. Khi nghe vị kia
bảo: - Này Hiền hữu, ngày mai Hiền hữu sẽ là vị Tỷ-kheo
trưởng thượng, Hiền hữu sẽ được dự một buổi ngọ trai dành cho tám
vị. Vị ấy liền cầm y bát ngay lúc ấy, và khởi hành từ lúc
rạng đông, vị ấy vào phòng phát phiếu và đã làm vị Tỷ-kheo trưởng
thượng, vị ấy đi thọ dụng một buổi ngọ trai dành cho tám vị. Song ngay đúng lúc vị Tỷ-kheo đã thọ trai ngày hôm
trước vừa ra đi, thì một căn bệnh phát ra trong thân thể Sirimà.
Vì thế nàng cởi hết tư trang và đi nằm. Lúc ấy đám gia nhân của nàng thấy các Tỷ-kheo đã đến
để thọ buổi ngọ trai dành cho tám vị, liền báo tin cho nàng.
Vì không thể chính tay cầm các bình bát hoặc mời chư Tăng an tọa,
nàng ra lệnh cho các nữ tỳ: - Này các chị, hãy cầm lấy bình bát, mời chư Trưởng lão an
tọa, dâng chư vị nước cháo để uống, rồi dọn các thức ăn cứng
(bánh trái), và khi đến giờ ngọ trai (buổi cơm chính trước ngọ),
hãy múc đầy các bình bát và dâng chư vị. Họ làm theo lệnh ấy, Nàng lại bảo: - Hãy quàng tay qua người tôi và đưa tôi vào. Tôi muốn đảnh
lễ chư vị Tôn giả. Rồi nhờ họ dìu dắt, nàng được đưa vào tiếp kiến
các Tỷ-kheo và đảnh lễ chư vị với thân hình run rẩy. Khi vị Tỷ-kheo
(đã si tình nàng) thấy nàng, vị ấy suy nghĩ: 'Dầu đang bệnh, nữ nhân
này vẫn có dung sắc mỹ lệ sáng tươi, vậy thì lúc nàng khỏe mạnh, tô
điểm mọi thứ nữ trang, nàng còn đẹp đến dường nào?' và các
lậu hoặc chất chứa từ vô lượng kiếp nổi dậy tấn công vị ấy. Vị ấy
trở nên thẫn thờ, không thể ăn cơm được nữa, bèn cầm bát trở về
tinh xá, đậy bình bát lại, để sang một bên, và trải một góc chiếc y
rồi nằm xuống. Sau đó dù một bạn đồng tu đến van nài, vị ấy cũng
không thể ăn gì được. Vị ấy cứ thế nhịn ăn. Ngay tối hôm ấy, Sirimà từ trần. Nhà vua gửi lời nhắn
với bậc Ðạo Sư: 'Bạch Thế Tôn, Sirimà, em út của y sĩ Jìvaka đã
từ trần'. Khi bậc Ðạo Sư nghe tin ấy, Ngài gửi lời nhắn với nhà vua: 'Không
nên hỏa thiêu thi hài Sirimà. Hãy đưa thi hài ấy xuống đặt ở chỗ
các xác chết chưa thiêu và canh giữ để các loài diều quạ đừng
ăn thịt nó'. Nhà vua làm theo như vậy. Ba ngày liên tiếp trôi qua, vào ngày thứ tư xác bắt đầu
sình lên. Dòi bọ bắt đầu bò ra từ chín lỗ. Toàn thân chẳng khác
nào một thùng gạo thối. Nhà vua truyền lệnh khắp kinh thành: - Ngoại trừ trẻ con phải giữ trong nhà, tất cả mọi người
nào không đi viếng Sirimà đều phải nộp phạt tám kahàpana (giá
tiền một con bò sữa). Rồi nhà vua gửi lời nhắn với bậc Ðạo Sư: 'Xin chư Tăng cùng
với đức Phật là vị thượng thủ hãy đến viếng Sirimà'. Bậc Ðạo Sư thông báo với các Tỷ-kheo: - Chúng ta sẽ đi viếng Sirimà. Vị Tỷ-kheo trẻ đã nằm dài suốt bốn ngày không để
ý gì lời ai nói, cũng không ăn uống gì. Thậm chí thức ăn trong bình bát
đã hôi thối, vị ấy cũng không nhấc chân lên. Nay một vị đồng tu đi
đến bảo: - Này Hiền hữu, bậc Ðạo Sư sắp đi viếng Sirimà đấy. Chỉ mới nghe nhắc đến tên Sirimà, vị Tỷ-kheo trẻ,
dù đang đói lả người, cũng vùng dậy. Vị đồng bạn hỏi: - Bậc Ðạo Sư sắp đi viếng Sirimà, thế Hiền
hữu có đi không? - Tôi sẽ đi. Vị ấy đáp rồi vừa đổ cơm ra, vị ấy vừa rửa bình bát và
cùng đi với Tăng chúng. Bậc Ðạo Sư được chúng Tỷ-kheo vây quanh đứng thành một
nhóm. Hội chúng Tỷ-kheo-ni, đám triều thần và thiện nam tín nữ
đứng riêng thành từng nhóm. Bậc Ðạo Sư hỏi nhà vua: - Thưa Ðại vương, cô ấy là ai thế? - Bạch Thế Tôn, đây là em gái của Jìvaka, tên là Sirimà. - Ðây là Sirimà ư? - Chính thế, bạch Thế Tôn. - Thế thì hãy đánh trống truyền lệnh khắp kinh thành
rằng bất kỳ ai muốn đều có thể chiếm được Sirimà với giá
một ngàn kahàpana. Nhà vua truyền làm như vậy. Chẳng có ai buồn nói 'có' hay 'không' trước lời đề nghị
ấy cả. Nhà vua nói với bậc Ðạo Sư: - Bạch Thế Tôn, không ai nhận lời cả. - Thưa Ðại vương, thế thì hạ giá xuống. Nhà vua lại bảo truyền lệnh bằng trống. - Hãy lấy nàng với giá năm trăm kahàpana. Khi không thấy ai nhận, nhà vua lại truyền trống lệnh: - Hãy lấy Sirimà với giá hai trăm rưỡi! - Với giá hai trăm. - Với giá một trăm. - Với giá năm chục. - Với giá hai mươi lăm kahàpana. - Với giá mười kahàpana. - Với giá năm kahàpana. - Với giá một kahàpana. - Với giá một nửa kahàpana. - Với giá một phần tư kahàpana. - Với giá một màsaka (= 1/10 kahàpana). - Với giá một kàkanikà (1/10 màsaka). Và cuối cùng nhà vua truyền trống lệnh: - Hãy nhận lấy không tốn tiền! Song cũng chẳng có ai nói 'có' hay 'không' trước lời đề
nghị trên cả. Nhà vua nói: - Bạch Thế Tôn, không ai muốn nhận nàng dù chẳng tốn
tiền. Bậc Ðạo Sư bảo: - Này các Tỷ-kheo, hãy xem đây, một nữ nhân được cả
thế giới ái mộ ngay trong kinh thành này, ngày trước, họ đưa một
ngàn kahàpana để hưởng một ngày bên cô ấy, thế mà bây giờ
không ai muốn nhận lấy dù chẳng tốn gì cả. Ðấy sắc thân là như vậy, đầy
mầm thối nát hủy hoại, chỉ được tô điểm ngọc vàng để làm cho
hấp dẫn, thật ra đó là một đống thịt đầy thương tích vì có chín lỗ
chảy chất ô uế, được kết hợp lại nhờ ba trăm cái xương, luôn luôn
đau nhức, đã làm chủ đề cho biết bao tư tưởng vì thế giới ngu
si này cứ chiêm ngưỡng nó, một tấm thân không chút bền vững. Và Ngài ngâm kệ để thuyết giảng điều này: Hãy ngắm hình nhân được vẽ màu, Khi kết thúc bài giảng, vị Tỷ-kheo si tình nàng Sirimà
đã xả ly mọi nỗi tham đắm dục vọng, vị ấy phát triển
thiền quán và thành tựu quả A-la-hán. Tám mươi bốn ngàn người khác
đắc Pháp nhãn. Và thời ấy Thiên nữ Sirimà, sau khi đã chiêm ngưỡng
cảnh vinh quang thành đạt của nàng, lại chiêm ngưỡng nơi nàng đã giã từ
và thấy đức Thế Tôn được hội chúng Tỷ-kheo vây quanh cùng đám dân
chúng đang tu tập quanh thi thể nàng. Rồi được năm trăm tiên nữ của nàng hộ tống cùng năm trăm
cỗ xe, nàng xuất hiện nguyên hình, bước xuống khỏi cỗ xe, đảnh
lễ đức Thế Tôn cùng với đoàn tùy tùng của nàng rồi nàng đứng yên
trong dáng điệu sùng kính. Lúc ấy Tôn giả Vangìsa đứng gần đức Thế Tôn,
liền thưa với Ngài: - Bạch Thế Tôn, con xin phép hỏi một câu. - Này Vangìsa, hãy hỏi đi. Ðức Thế Tôn đáp. Tôn giả Vangìsa liền hỏi Thiên nữ Sirimà câu
này: 1. Ðàn ngựa thắng cương khéo điểm trang,
Khi được vị Trưởng lão hỏi vậy, Thiên nữ giải thích về
bản thân nàng: 3. Người bảo, tối cao giữa hữu tình
Khi Thiên nữ đã giải thích như vậy về sự tái sanh của
nàng giữa chư Thiên Hoá Lạc, vị Trưởng lão lại muốn nàng kể về
kiếp trước của nàng, công đức thiện nghiệp nàng đã tạo và lòng
mộ đạo của nàng: 4. Thuở trước nàng theo thiện hạnh nào,
Ðể giải đáp vấn đề được vị Trưởng lão hỏi, Thiên
nữ ngâm các vần kệ này. 6. Ở kinh thành khéo dựng huy hoàng,
Như vậy Thiên nữ Sirimà long trọng tuyên bố niềm
tin nàng đã chấp nhận và bày tỏ lòng quy ngưỡng Tam Bảo. Nàng đảnh lễ
đức Thế Tôn cùng Tăng chúng, rồi sau khi nàng trang nghiêm đi vòng quanh
chư vị, nàng trở lại thiên giới. Ðức Thế Tôn lấy việc nàng từ thiên giới xuống trần
làm cơ hội thuyết giảng pháp thoại. Khi chấm dứt pháp thoại, vị
Tỷ-kheo đã từng mơ tưởng Sirimà chứng đắc quả A-la-hán, và pháp
thoại cũng rất lợi ích đối với toàn thể hội chúng ấy.
17. Chuyện thứ mười bảy - Lâu Ðài Của Kesakàri
(Kesakàri-Vimàna)
Kết thành một đống vết thương đau,
Chủ đề của biết bao tư tưởng,
Nhức nhối, không bền vững chút nào.
Lực thần thẳng tiến xuống trần gian,
Năm trăm xa mã theo hầu cận,
Ðược đám quản xa giục bước đường.
2. Ðứng trong xa mã đại huy hoàng,
Tỏa sáng, dung quang thật vẹn toàn,
Rực rỡ như ngàn sao chiếu rọi,
Hỡi nàng Thiên nữ sắc vinh quang,
Từ loài sanh chúng nào đi đến
Ðảnh lễ dưới chân Phật Thượng nhân?
Là nơi Thiên chúng thích thay hình,
Từ sanh loại ấy, nàng Thiên nữ
Biến hóa hình dung thỏa ý mình,
Con đã đến đây xin đảnh lễ
Phật-đà tối thượng giữa quần sanh.
Vinh quang vô lượng ấy nhờ đâu,
Phi hành đại lực, đầy an lạc,
Tỏa sáng mười phương sắc nhiệm mầu.
5. Thiên chúng vây quanh, đầy mến thương,
Từ đâu tận số, đến Thiên đường,
Nàng vâng lời dạy người nào đó,
Có phải môn đồ Phật Thế Tôn?
Hầu hạ quân vương thật vẻ vang,
Con được luyện chuyên về múa hát,
Si-ri-mà, chúng gọi tên con.
7. Giác giả tối cao, Phật Thế Tôn
Dạy con Khổ, Tập, ấy vô thường,
Niết-bàn, Khổ diệt, là trường cửu,
Ðây Ðạo thẳng ngay, Ðạo cát tường.
8. Khi nghe Bất tử, vô duyên sanh,
Tối thượng Như Lai Ðạo pháp lành,
Con chế ngự cao theo giới luật,
Trú an trong Phật Pháp quang vinh.
9. Khi hiểu Niết-bàn chẳng nhiễm ô,
Như Lai tối thượng thuyết minh cho,
Chính con đạt định tâm an tịnh,
Tịnh tín tối cao quả thật là.
10. Khi đắc Pháp kia chẳng diệt vong,
Làm con xuất chúng, vững an lòng,
Nổi danh thiền quán, không nghi hoặc,
Con đã được dân chúng kính nhường,
Con thọ hưởng bao niềm lạc thú,
Hân hoan tâm trí thật vô lường.
11. Thiên nữ là con thấy Pháp Ngài,
Môn đồ đức tối thượng Như Lai,
Vì con thấy Pháp, tâm an trú
Sơ quả Dự Lưu, chẳng đọa rồi.
12. Cung kính Pháp Vương sáng tuyệt trần,
Ðến gần đảnh lễ đấng Siêu nhân,
Và con đảnh lễ toàn Tăng chúng
Thích thú thiện hành, tạo phước ân.
13. Mừng vui, phấn khởi ở trong tâm,
Khi thấy Như Lai, Ðại trí nhân,
Là bậc vinh quang trên thế giới,
Ngài điều ngự những kẻ nhu nhuần
Ngài trừ diệt hết lòng tham ái,
Thích thú thiện lương, vị trưởng đoàn,
Con kính lễ chân Ngài tối thượng,
Từ bi, lân mẫn cõi phàm trần'.
Bấy giờ đức Thế Tôn trú tại Ba-la-nại
trong vườn Nai ở Trú xứ chư Tiên (Isipatàna). Buổi sáng các Tỷ-kheo
đắp y, cầm y bát và đi vào Ba-la-nại. Chư vị đến gần cửa nhà một
Bà-la-môn.
Trong nhà ấy, có con gái vị Bà-la-môn, tên Kesakàri đang
bắt chấy trên đầu mẹ nàng gần cửa, thấy các Tỷ-kheo đi ngang qua, bèn
hỏi mẹ: - Mẹ ơi, các vị này từ giã đời thế tục hình như còn ở
độ tuổi xuân xanh, thanh lịch, đẹp trai, dáng ưa nhìn, không gặp tai họa
khổ đau nào cả. Thế tại sao chư vị xuất gia ở tuổi này? Mẹ nàng đáp: - Này con, có vị Thích tử xuất gia từ dòng họ Thích-ca đã
hiện ra ở đời làm bậc Ðạo Sư được gọi là đức Phật. Ngài
thuyết pháp, hoàn thiện ở phần đầu, phần giữa, và phần cuối cả
về ý nghĩa lẫn ngôn từ. Ngài tuyên bố đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy
đủ và thanh tịnh. Chư vị này đã xuất gia vì nghe pháp ấy. Bấy giờ có một cư sĩ tại gia đã đắc Sơ quả và hiểu
pháp, nghe được câu chuyện khi đi ngang qua đường ấy và đến gần hai
mẹ con. Vị nữ nhân Bà-la-môn hỏi vị ấy: - Này cư sĩ, nhiều thiện nam tử từ bỏ tài sản quý
giá và đại gia tộc thân quyến để xuất gia trong dòng họ Thích-ca.
Vì cớ gì họ xuất gia như vậy? Vị cư sĩ nghe bà nói, liền đáp: - Vì thấy sự nguy hiểm trong dục lạc và lợi ích của xuất
gia. Vị ấy giải thích đầy đủ chi tiết về động lực ấy theo
khả năng hiểu biết cao nhất của mình, vừa nêu rõ các đức tính của
Tam Bảo vừa thuyết giảng sự hữu ích tiện lợi của Ngũ giới liên
hệ đến đời nay và đời sau. Sau đó, thiếu nữ Bà-la-môn hỏi vị ấy: - Thế chúng tôi có thể hưởng phần hữu ích tiện lợi
mà Tôn giả vừa nói, qua sự quy y Tam Bảo và giữ Ngũ giới chăng? Vị ấy đáp: - Tại sao lại không? Những điều được đức Thế Tôn
thuyết giảng cần được mọi loài hưởng phần đều nhau. Rồi vị ấy cho nàng thọ Tam quy và Ngũ giới. Khi nàng đã
chấp nhận Tam quy và hành trì Ngũ giới, nàng hỏi: - Thế còn phải làm gì nữa ngoài việc này? Thấy nàng có trí thông tuệ, người ấy nghĩ thầm: 'Chắc hẳn
nàng là một trong số người hội đủ khả năng điều kiện'. Và khi
giảng giải bản chất của thân thể, vị ấy nói đến đối tượng của
thiền quán là ba mươi hai phần của thân, vị ấy gợi lên cho nàng sự nhàm
chán sắc thân và ngoài ra, sau khi làm cho nàng xúc động với một bài pháp
thoại liên hệ đến Vô thường, Khổ, Vô ngã, vị ấy chỉ con đường
đưa đến tuệ quán và từ giã nàng. Nàng ghi nhớ mọi sự vị ấy nói và với niềm suy tư do
nhận thức sự bất tịnh của thân, nàng phát triển tuệ quán và chẳng
bao lâu chứng đắc Sơ quả Dự Lưu vì nàng thành tựu đủ mọi điều
kiện. Về sau nàng từ trần và được tái sanh làm Thiên nữ hầu
cận Sakka Thiên chủ. Ðoàn tùy tùng của nàng gồm một trăm ngàn tiên
nữ. Khi Sakka Thiên chủ thấy nàng, ngài kinh ngạc và ái mộ nàng, bèn
hỏi các công đức nàng đã làm trước kia: 1. Cung điện này, nơi ta trú an,
Khi được Sakka Thiên chủ hỏi thế, vị Thiên nữ đáp
hai vần kệ sau: 5. Ðế Thích ân cần đã hỏi han:
Sau đó, Sakka Thiên chủ hoan hỷ vì thành tựu công
đức của nàng và cảnh vinh hiển trên thiên giới của nàng, bèn ngâm
kệ đáp lại: 7. Chúng ta hoan hỷ đón mừng nàng,
Sau đó Sakka Thiên chủ kể cho Tôn giả Trưởng lão Mahà-Moggallàna
về sự kiện này, Tôn giả lại trình với đức Thế Tôn. Ðức
Thế Tôn lấy đề tài ấy làm dịp thuyết pháp thoại cho hội chúng.
Bài pháp ấy có ích lợi cho thế giới bao gồm cả Thiên giới nữa.
Tổng Kết
Trụ bằng ngọc bích, sáng huy hoàng,
Khéo xây dựng để trường tồn mãi,
Mọi phía cây vàng tỏa bóng râm,
Ðã được tạo nên do kết quả
Của công đức thiện nghiệp ta làm.
2. Ai đã từng sanh trưởng ở đây,
Ðều là ngọc nữ cõi trời này,
Một trăm ngàn chẵn đoàn tiên nữ;
Vì thiện nghiệp nàng đã đến đây,
Nàng thật vinh quang đầy ánh sáng,
Ðứng kia Thiên nữ vẻ vang thay.
3. Như vầng trăng, chúa tể muôn sao,
Chiếu sáng hơn tinh tú biết bao,
Cũng vậy, nàng sáng ngời rực rỡ,
Giữa đoàn tiên nữ đẹp dường nào.
4. Nàng đã từ đâu xuất hiện đây,
Hỡi nàng tuyệt sắc đến trời này?
Ind-ra Thiên chủ cùng Thiên chúng
Tam thập tam Thiên giới hiện nay
Ngưỡng mộ Phạm Thiên và bởi thế
Chẳng ai nhàm chán ngắm nàng vầy.
'Nàng từ đâu đến, chốn từ trần?'
Xưa kia thành phố Kà-si ấy
Tên gọi Ba-la-nại lẫy lừng,
Tại đó, ngay trong thành phố nọ,
Ke-sa-kà ấy chính tiền thân.
6. Con có lòng thành tín Phật-đà,
Chuyên tâm quy ngưỡng Pháp, Tăng-già,
Ðoạn nghi, trọn vẹn con trì giới,
Ðạt thành các quả vị vừa qua,
Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ,
Thân thường không tật bệnh chi mà.
Nhờ Giáo pháp, nàng chiếu ánh quang,
Tịnh tín, nàng hoàn toàn kính ngưỡng
Phật-đà, Giáo pháp, với chư Tăng,
Ðoạn nghi, trọn vẹn tu trì giới,
Ðạt đến các thành quả vẻ vang,
Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ,
Thân thường vô bệnh, được khang an.
- Năm tọa sàng (bốn tọa sàng và một
con voi), ba chiếc thuyền, một ngọn đèn, một nắm mè.
- Hai bà vợ, hai nàng dâu, Uttarà, Sirimà Kesakarikà. Phẩm này được biết qua các chuyện
trên. Lâu Ðài Nữ Nhân : Phẩm Thứ Nhất
[Phẩm trước][Mục lục][Phẩm kế][ ^ ]
Revised: 13-02-2004