Mục Lục
1. Quan niệm về
tái-sanh
2. Đâu là nguồn gốc tường tận của sự sống?
3. Do đâu chúng ta tin có sự tái-sanh?
4. Nghiệp-báo và tái-sanh biện minh những chi?
5. Triều lưu diễn tiến của sự tái-sanh.
6. Hình thức của sanh-tử .
7. Sự tái-sanh xuất hiện cách nào?
8. Cái gì đi tái-sanh?
9. Có người nào tạo tác trong đời này, và một người
khác phải gặt quả trong kiếp sống sau chăng?
10. Nếu không có linh hồn, như vậy có một trách
nhiệm nào về tinh thần đạo đức chăng?
11. Có thể nào một người kia sẽ tái-sanh lại làm
thú vật không? |
-ooOoo-
Từ đây ta sẽ đi về
đâu ?... nào biết!
Chừng nào đi ?... nào biết!
Ta chỉ biết một điều
và biết chắc như vậy,
là ngày nào đây nhất định ta phải ra đi.
|
1. Quan niệm về tái-sanh
Giáo lý về sự Tái-Sanh
chẳng phải là một lý thuyết, người Phật-tử xem nó như là
một sự thật, không chối cãi được. Nó là căn-bản của
Phật-Giáo.
Hạnh nguyện của chư
vị Bồ-Tát và chủ trương tự do tiến hóa đến nơi tận
thiện, tận mỹ đều căn cứ trên giáo lý Tái-Sanh này.
Sách vở có ghi chép
rằng Chúa Jésus, nhiều bậc hiền triết như Pythagore, Platon,
nhiều thi-sĩ như Shelly, Tennyton, Wordsworth và một số người
Âu-Châu, Á-Châu đều thừa nhận và tin tưởng có sự Luân-Hồi,
hoặc có linh-hồn đi đầu thai.
Giáo lý về sự Tái-Sanh
của Phật-Giáo khác hẳn với quan niệm Luân-Hồi và đầu
thai của linh-hồn bởi Phật-Giáo không nhìn nhận có một
linh-hồn trường tồn bất diệt để chuyển sanh từ kiếp này
qua kiếp khác, dầu là linh-hồn do Thượng Ðế sanh ra, hay
từ trong cái Ðại-Hồn (Paramàtama) tách ra.
Chỉ có nghiệp quả
mới cấu tạo được sự Tái-Sanh. Do nghiệp quá khứ mới có
sự Tái-Sanh hiện tại. Do nghiệp hiện tại hiệp với
nghiệp quá khứ mới có sự Tái-Sanh vị lai. Hiện tại là
con đẻ của quá khứ và trở thành thân sinh của vị lai.
Hiện hữu của hiện
tại không cần có bằng chứng vì nó rất rõ rệt.
Hiện hữu của quá khứ
căn cứ trên trí nhớ và tục truyền.
Hiện hữu của vị lai căn
cứ trên tiên đoán và suy luận.
Nếu có sự sống quá
khứ, hiện tại và vị lai, thì tức nhiên phải đương đầu
với một nan đề: Ðâu là nguồn cội của sự sống?
Có tôn giáo cho rằng
sự sống sanh ra bởi một bản nguyên, một năng lực thiêng
liêng hay một đấng Toàn-Năng. Có tôn giáo khác thì lại nói
rằng trong vòng nhân sanh quả, quả sanh nhân, không thể biết
được nhân nào là nhân đầu tiên.
Theo giới hạn hiện
thời của khoa-học, con người sanh ra do tinh trùng và noãn bào
của cha mẹ; nhưng khoa học lại không giải rõ rệt được
sự phát triển của tinh thần, là phần quan-trọng hơn thể-xác.
Các nhà khoa học vừa nói rằng sự sống sanh ra bởi sự
sống mà cũng vừa xác nhận rằng tinh thần và sự sống sanh
ra từ chỗ không có sự sống. Khoa-học chỉ biết nội cái
giới-hạn cha mẹ sanh ra con, nghĩa là trước phải có sự
sống của cha mẹ rồi sau mới có sự sống của con.
Khoa-học chưa tìm ra cái khởi thủy của sự sống.
Vài tôn-giáo khác cho
rằng bản chất của con người là linh-hồn sanh ra bởi Ông
Trời. Cha mẹ chỉ giúp phần cấu tạo cái bọc thô sơ bên
ngoài cho linh-hồn mà thôi.
Theo Phật-Giáo thì chúng
ta sanh ra từ cái khuôn đúc (kammayoni) của các hành động
của chúng ta, cha mẹ chỉ cho ta cái nền tảng vật chất mà
thôi. Như thế ấy thì trước phải có chúng sanh (cha mẹ),
rồi sau mới có chúng sanh (con). Lúc thọ thai, nghiệp tạo ra
cái thức đầu tiên, thức tái sanh, để dưỡng sanh thai bào.
Năng lực vô hình của nghiệp đã tạo ra trong kiếp quá khứ
sanh ra một hiện tượng tinh thần kết hợp hiện tượng sinh
khí trong một hiện tượng thể xác đã sẵn có, để có đủ
ba yếu tố Thức, Sinh-Khí và Thai. Chính ba yếu tố này tạo
thành con người.
Nói đến quan niệm về
chúng sanh, Ðức Phật có thuyết trong bộ Kinh MAJJHIMA NIKAYA,
quyển AHATANHAKHAYA, số 38, như vầy: ở nơi nào Tam-Nguyên
được cấu tạo chung thì mầm sống được gieo trồng nơi
ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc thọ
thai của người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai (Gandhabba),
thì mầm sống không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc
thọ thai của người mẹ mà không có chúng sanh đầu thai thì
mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ
thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt
trong lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào
và thức, thì mầm sống được gieo trồng.
Danh từ Gandhabba hay
Gantabba không phải tên của Mụ Bà hay Ðức Thầy chi
chi đó có phận sự bảo hộ thai bào, theo sự tin tưởng
của nhiều người. Ðây chỉ nói về một chúng sanh đủ điều
kiện, sẵn sàng đến thọ sanh trong bụng của một chúng
sanh. Danh từ Gandhabba chỉ dùng trong trường hợp đặc
biệt này thôi, chớ nên lầm tưởng là một linh hồn bất
diệt.
Nếu có một chúng sanh
sắp thọ sanh nơi đây, thì phải có một chúng sanh sắp
chết ở một nơi nào khác. Sự sanh của một chúng sanh, tức
là sự kết hợp (Khandaman Patubhavo) hai cái hiện tượng
về tinh thần và vật lý, tương hợp với sự diệt của
một chúng sanh trong quá khứ, giống như sự xuất hiện của
mặt trời vậy. Mặt trời mọc một nơi nào, có nghĩa là
mặt trời lặn một chốn khác. Muốn cho dễ hiểu hơn, chúng
ta tưởng tượng đời sống như một lượn sóng. Sanh và
diệt là hai giai đoạn của sự diễn tiến sống chết, chết
sống. Sự liên tục tiếp nối mãi của sống chết, chết
sống và nguồn sinh lực của mỗi cá nhân, được gọi là Luân-Hồi
(samsàra).
2. Ðâu là nguồn gốc tường
tận của sự sống?
Ðức Phật đã nói
rằng: Luân-Hồi ở bên ngoài ranh giới cuối cùng của
sự hiểu biết.
Chúng ta không thể biết
được cái khởi thủy của chúng sanh, vì vô-minh và phiền-não
của lòng ham muốn làm lôi kéo luân chuyển triền miên.
Triều lưu của sự
sống cuộn chảy mãi mãi, do các dòng nước nhơ đục của vô-minh
và ái-dục bồi dưỡng không ngừng nghỉ. Khi nào hai nhân này
bị cắt đứt, thì triều lưu của sự sống mới ngưng
chảy, sự tái sanh sẽ chấm dứt, y như trường hợp của Chư
Phật và Chư A-La-Hán. Khởi thủy của triều lưu sự sống không
thể biết được vì nó phát sanh do một mãnh lực đầy vô-minh
và ái-dục.
Nơi đây Ðức Phật
chỉ nói về triều lưu sơ khởi của sự sống loài người
thôi và không đề cập đến những huyền học hay đạo-lý nào
có thể làm cho con người hoang mang, luôn cả những lý
thuyết không có tánh cách xây dựng hay giải thoát, nhứt là
những nghiên cứu biện luận về nguồn gốc và sự tiến
triển của vũ trụ. Ðức Phật cũng không bắt buộc môn đệ
Ngài phải tin tưởng một cách mù quáng về những gì liên
quan đến nhân khởi thủy. Ngài đặc biệt chú trọng vấn đề
Khổ và Diệt Khổ thôi, ngoài mục đích xác thực duy nhứt
ấy, Ngài không muốn đá động đến vấn đề nào khác.
3. Do đâu chúng ta tin có sự tái-sanh?
Ðức Phật là bậc thông
suốt về vấn đề Tái-Sanh. Chính trong đêm chứng đạo quả
Niết-Bàn, trọn canh đầu, Ngài dùng tuệ-giác rọi xem trở
lại các đời dĩ vãng của Ngài, từ một, hai, ba đến trăm
ngàn muôn kiếp quá khứ. Trong canh hai, Ðức Phật dùng thiên
nhãn, xem thấy chúng sanh chết ở kiếp này, tái sanh lại
kiếp khác, kẻ hèn người sang, kẻ đẹp người xấu, kẻ
được hạnh phúc, người bị khốn khổ, tùy theo hành vi
của họ (Majjhima Nikàya, Maha Accaka Sutta, 36)
Các đoạn kinh giải về
thuyết Tái-Sanh cho chúng ta biết rằng Ðức Phật không dựa
vào một nguồn gốc nào đã sẵn có để giải thích vấn đề
ấy. Ngài chỉ nói theo nhận thức siêu phàm của chính Ngài mà
chúng ta cũng có thể đạt được nếu biết trau giồi đúng
mức.
Trong kinh DHAMMAPÀDA
(Pháp Cú), Ðức Phật có nói: " Trải qua vô lượng kiếp
Luân Hồi (Anekajàti), Như Lai đã phải đi lạc đường,
trong khi muốn tìm cho ra người thợ cất nhà này; khốn khổ
thay, Như Lai đã phải sanh đi, sanh lại triền miên (Dukkha jàti
puna punam) ".
Trong kinh DHAMMACAKKA
SUTTA có ghi lời giảng đầu tiên của Ðức Phật về cái
chân lý thứ hai như vầy:
"Yàyam Tanhà
Ponobhavikà", nghiã là
sự ham muốn quá-độ (Ái-Dục) đem lại sự Tái-Sanh; và câu
kết-luận:
"Ayamantimà jàti
Natthidam Punhabavo" , nghiã
là kiếp này là kiếp sống cuối cùng của Như-Lai.
Trong kinh Majjhima Nikàya
có ghi rằng vì lòng Từ-Bi Bác-Ái đối với chúng sanh, Ðức
Phật thường rọi thiên-nhãn tìm người hữu duyên để tế-độ.
Ngài thấy chúng sanh đương tạo nhiều tội lỗi có ảnh hưởng
đến kiếp vị-lai của họ. (Paraloka Vajja Bhaya Dassàvino).
Trong nhiều thời pháp,
Ðức Phật thường nói rằng chúng sanh nào làm dữ, sau khi
chết (Parammarana) sẽ tái sanh trong cảnh khổ; chúng sanh
nào làm lành sẽ tái sanh trong cảnh vui.
Trong kinh GHANTIKARA
SUTTA , Ðức Phật thuật lại cho Ðại-đức ANANDA
biết rằng vào thời-kỳ Phật-Tổ KASSAPA (Ca-Diếp), Ngài
sanh làm một vị Bà-La-Môn, tên Jotipãla , thông suốt ba bộ
kinh Phệ-Ðà. Khi vào xuất-gia theo Phật-Tổ KASSAPA, Ngài
siêng năng thọ trì Tam-Học, thuộc nằm lòng trọn bộ
Tam-Tạng, và được Phật-Tổ KASSAPA thọ ký.
Trong kinh ANÀTHAPINDIKAVADA
SUTTA có ghi truyện nhà trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc, sau khi
chết liền tái sanh vào cảnh Trời, có về viếng thăm Ðức
Phật trong đêm sau.
Trong kinh Anguttara Nikàya
, Ðức Phật có nói đến kiếp quá khứ của Ngài, khi Ngài
sanh lên làm PACETANA.
Trong kinh PARANIBBÀNA
SUTTA, Ðại đức ANANDA có xin Ðức Phật cho biết
kiếp vị-lai của vài người vừa chết trong làng nọ. Ðức
Phật đã cắt nghiã rõ rệt cho Ngài ÀNANDA biết những
người ấy đã đi tái-sanh nơi đâu.
Còn rất nhiều sự tích
trong Tam-tạng chỉ cho mọi người biết rằng Ðức Phật đã
xác-nhận sự Tái-Sanh là một sự thật không thể chối cãi
được.
Thực hành đúng theo giáo-lý
của Ðức Phật, các đệ-tử Ngài có thể mở mang sự hiểu
biết về quá-khứ và có thể biết ít nhiều về tiền kiếp
của họ. Riêng về Ðức Phật , Ngài thấu rõ vô số kiếp
quá khứ của Ngài.
Trước thời Ðức Phật
ra đời, một số người Ấn-độ Rishis được nổi
tiếng nhờ họ có thần thông về thiên-nhãn, thiên-nhĩ,
thần giao cách cảm, viên giác, v.v....
Mặc dầu khoa học chưa
tiến tới mức ấy, nhưng trong Phật-Giáo, người ta có thể
đạt được các pháp thần-thông bằng cách chuyên tu về
thiền-định, minh-sát. Năng-lực thiền định không xuyên qua
ngũ căn, có thể đem lại sự giao cảm bằng tư-tưởng và
tri giác với các cảnh giới khác.
Cũng có nhiều người khác
thường, nhất là các trẻ em, do luật phối hợp bất ngờ,
sực nhớ lại kiếp quá khứ, hoặc vài chi-tiết về đời trước
của họ. Các trường hợp ít có này, đủ làm cho người
học-giả tin nơi kiếp quá-khứ. Người ta thuật lại rằng
ông PYTHAGORE đã nhớ lại tường tận một cái thuẫn trong
một đền thờ Hy-Lạp, là vật mà ông đã dùng trong một
tiền kiếp lúc vây hãm thành TROIE.
Do thí-nghiệm của các
nhà tâm-linh-học, những hiện tượng ma quỉ, những giao cảm
tư tưởng giữa hai cảnh âm dương, những thiên tư khác thường
đã đem lại ít nhiều sáng tỏ trong vấn đề Tái-Sanh.
Có lúc tình cờ, chúng
ta gặp những người xa lạ, mà chúng ta lại có cảm giác như
quen biết họ từ lâu. Ðôi khi trước những cảnh vật xa
lạ, thình lình chúng ta có cảm tưởng đã quen thuộc với
cảnh vật ấy. Những sự khêu gợi bất ngờ này không ngoài
chứng tích đã kinh nghiệm trong thời gian quá khứ.
Sự thông suốt mọi lẽ
của các bậc Siêu Phàm, các bậc Toàn Giác như Ðức Phật
chẳng phải là chuyện phi thường tình cờ, cũng chẳng phải
là kết quả của những kinh nghiệm trong một kiếp sống mà
thôi.
Ngoài các lý do kể trên,
chúng ta không thể giải thích cách nào về thiên tài xuất chúng
của các ông Homère, Platon, Shakespeare, của những thần đồng
như Pascal, Mozart, Beethoven, v.v ...
Vài bác-sĩ cho rằng sự
thông minh của các thần đồng là kết quả của những hạch
tuyến khác thường, nhứt là hạch màng mũi, tùng quả tuyến
và thận tuyến.
Nếu không tin sự giải
thích theo nghiệp quả mà chỉ căn cứ nơi sự phát triển khác
thường của các thứ hạch nói trên, thì không biết khoa
học giải thích thế nào về trường hợp của ông Christian
Heinecken. Vài giờ sau khi ông ra đời, ông đã nói chuyện được;
khi ông được một tuổi, ông trả thuộc lòng vài đoạn Thánh-Giáo
trong cuốn Sấm-truyền; đến hai tuổi, ông trả lời tất
cả những câu hỏi về địa-dư; đến ba tuổi, ông nói
tiếng Pháp, tiếng La-tinh; đến bốn tuổi, ông có thể theo
học các lớp triết-học.
Ông Stuart Mill vừa ba
tuổi đã đọc chữ Hy-lạp. Ông Macaulay, lúc sáu tuổi, viết
sử-ký thế-giới. Ông William James Sidis vừa mới lên hai đã
đọc và viết chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ), đến tám tuổi đã nói
các thứ tiếng Pháp, Nga, Anh, Ðức và chút ít tiếng La-tinh và
Hy-lạp.
Khoa học không thể
giải thích tại sao các hạch tuyến chỉ phát triển trong
một vài người, mà không trổ sanh cho tất cả. Vấn đề chánh
này không thể giải quyết được. Cũng không thể đổ cho
sự di-truyền, bởi các thần đồng nói trên không phải người
thừa hưởng nơi ông cha và cũng không thể nối truyền lại
cho con cháu được. Cũng không thể nói rằng những kết quả
tốt đẹp ấy do nơi công trình thu thập trong thời gian đôi
ba chục năm, trong đời sống hiện tại ngắn ngủi này. Mà
đó là bao nhiêu cố gắng, tập sự trong nhiều kiếp người,
để tiến lần hồi đến sự tận-thiện, tận-mỹ trong
những kiếp sau.
Nếu ta tin tưởng nơi
hiện tại và vị lai, lẽ tất nhiên ta không thể không nhìn
nhận có quá khứ. Và nếu có đủ lý lẽ cho ta tin rằng ta
đã có sống trong quá khứ, thì không lý do nào ta không tin
rằng ta sẽ còn phải sống trong vị-lai sau khi hiện tại này
chấm dứt.
4. Nghiệp-báo và tái-sanh
biện minh những chi?
1) Vấn đề khổ mà chính
ta phải chịu trách-nhiệm;
2) Sự chênh lệch gần
như bất công giữa nhân loại;
3) Tại sao có những vĩ
nhân và thần đồng;
4) Sự khác nhau về
tinh-thần tính nết của hai trẻ sanh đôi, mặc dầu giống
nhau y hệt về thể xác và được nuôi dưỡng y như nhau;
5) Sự khác nhau về tánh-tình,
xu-hướng của các trẻ trong một gia-đình;
6) Sự khác nhau về đạo-đức
và trí-huệ giữa cha mẹ và con cái;
7) Tật xấu tự nhiên
của trẻ thơ, như tham lam, sân hận và ganh ghét;
8) Mối thiện cảm hoặc
ác cảm của chúng sanh đối với nhau trong khi gặp gỡ lần
đầu-tiên;
9) Ðiều lành và điều
dữ đã sẵn có trong mỗi người;
10) Sự thay đổi bất
ngờ của một người thiện trí thức ra một kẻ tầm thường,
hoặc một kẻ sát nhân thành bực thánh-nhân;
11) Cha mẹ đạo-đức sanh con hung ác, cha mẹ
hung ác sanh con hiền từ;
12) Tại sao có khi ta là
kết quả của hành vi quá khứ và sẽ là kết quả của hành
vi hiện tại, hoặc có khi ta không phải là kết quả hoàn toàn
của hành vi quá khứ, mà cũng sẽ không phải là kết quả
nguyên vẹn của hành vi hiện tại;
13) Tại sao có những cái
chết bất đắc kỳ tử và sự thay đổi tài sản sự
nghiệp một cách bất ngờ;
14) Những đặc tính
xuất chúng, tinh thần đạo đức trí tuệ viên mãn của các
bậc toàn giác như Ðức Phật.
5. Triều-lưu diễn tiến
của sự tái-sanh
Bài pháp PATICCA SAMUPPÀDA
đã giải thích đầy đủ cách diễn tiến của sự Tái-Sanh. Paticca
nghĩa là do nơi hay vì lẽ. Samuppàda nghĩa là phát sanh
hay nguồn gốc. Paticca Samuppàda là "sự phát sanh tùy
thuộc" hay "nguồn gốc liên quan" hay "nhân
quả tương quan".
Pháp Paticca Samuppàda
chỉ giải thích về sanh-tử-khổ và không đề cập đến
sự tiến triển vũ trụ từ thể chất nguyên thủy, cùng
những bí ẩn về nguồn gốc tuyệt đối của sự sống.
Vô-Minh (Avijjà) là
không hiểu biết thật tướng của sự vật, là mối dây đầu
tiên, hay là nhân khởi thủy của bánh xe luân-hồi. Nó che đậy
tất cả sự hiểu biết chân chánh.
Do nơi Vô-Minh mới phát
sanh hành vi tạo-tác (Sankhàrà), gồm cả tư-tưởng,
lời nói và việc làm, lành dữ. Các hành-động phát khởi
từ Vô-Minh hay nhuộm mầu sắc Vô-Minh, sớm muộn sẽ đem
lại kết quả để cột trói ta trong vòng luân-hồi. Những
việc lành dầu không do lòng tham sân si, cũng phải dứt
tuyệt bợn nhơ, mới mong giải thoát luân-hồi. Vì thế nên
Ðức Phật ví Pháp-Bảo của Ngài như con thuyền bát-nhã
chở đưa khách lữ-hành qua khỏi sông mê biển khổ.
Hành động của Chư
Phật và Chư A-La-Hán không được coi như là Sankhàrà ,
vì nó không bị Vô-Minh chi phối.
Do nơi Hành mới phát
sanh cái Thức (Patisandi Vinnàna). Người ta gọi là thức
Tái-Sanh vì nó nối liền quá khứ với hiện tại. Chính nó
đã phát sanh trong lúc thọ thai.
Danh Sắc hay Tinh-Thần và
Vật-Chất (Nàma-Rùpa) cũng đồng thời phát sanh một lượt
với cái Thức.
Lục Căn (Salàyatana)
phát sanh do hiện tượng thuộc về tinh thần vật lý.
Do Lục Căn mà có sự
Tiếp Xúc (Phassa).
Sự Tiếp Xúc đem lại
cảm giác, tức là Thọ (Vedanà).
Do sự cảm giác mới phát
sanh sự ham muốn ái Dục (Tanhà).
Ham muốn sinh ra sự bám
víu, tức là Thủ (Upàdàna).
Thủ gây ra Nghiệp Quả,
tức là Hữu (Bhava).
Nghiệp Quả gây ra kiếp
vị lai , tức là SANH (Jàti)
Già và chết (Jàti-marana)
là kết quả không tránh được của sự Sanh.
Do một nhân có một
quả phát sanh. Nhân dứt thì quả cũng dứt. Muốn dễ hiểu nên
diễn ngược lại pháp PATICCA
SAMUPPÀDA.
Sự già và chết chỉ có
thể có được trong một bộ máy có lục căn, gọi là thân
thể. Thân thể ấy có do nơi sự Sanh. Sự Sanh sản lại là cái
quả của những hành vi quá khứ. Hành vi được sanh ra bởi
sự bám víu, đã phát sanh do sự Tham Muốn. Những Tham Muốn có
do nơi cảm giác. Cảm giác có do sự Tiếp Xúc giữa Giác quan
và Sự vật. Giác quan này có không ngoài tâm và thân thể. Thân
Tâm lại phát sanh do nơi Thức. Thức phát sanh do nơi không
hiểu biết tánh chất thiệt thọ của sự vật.
Sự diễn tiến của
Sống và Chết cứ xảy ra mãi mãi không cùng tận. Manh mối
đầu tiên của sự diễn tiến ấy không thể biết được; cũng
như ta không thể biết đến lúc nào sự tiến triển ấy
hết bị Vô Minh chi phối. Chừng nào sự mê lầm của ta đuợc
thay thế bằng sự sáng suốt thấu rõ Niết Bàn; chừng ấy
sự diễn tiến của Tái Sanh mới chấm dứt.
6. Hình thức của
sanh-tử
Dùng những danh từ riêng
biệt tinh tế giải thích sơ lược diễn tiến của sự Tái
Sanh, Phật Giáo cho rằng cái chết là do một trong bốn nguyên
nhân sau đây:
1) Tận Nghiệp (Kammakhaya):
sự suy kiệt năng lực tái tạo của Nghiệp (hết Nghiệp).
Theo Phật Giáo, cái tư tưởng, tác ý hoặc ái dục, là
một năng lực vô cùng mạnh mẽ trong lúc sinh thời; đến lúc
chết, năng lực lại còn mạnh hơn muôn phần. Chính tư tưởng
cuối cùng ấy định đoạt điều kiện cho kiếp sống vị
lai. Ðến lúc lâm chung, tư tưởng biểu xuất một tiềm
lực đặc biệt. Khi tiềm lực của Tận Nghiệp này (của
kiếp hiện tại) tắt mất, thì những hoạt động của cơ
thể và nguồn sinh khí liền chấm dứt trước phút cuối cùng
ấy. Ðiều này thường xảy đến cho những chúng sanh trong
cảnh khổ (Apàya), nhưng cũng có khi xảy đến cho
những người thuộc cảnh giới khác.
2) Mãn Kỳ Hạn của
Kiếp Sống (Àyukhaya), kỳ hạn này khác nhau tùy cảnh
giới, như trường hợp của người chết vì tuổi già,
hết tuổi thọ.
3) Năng lực tái tạo
của Nghiệp và kỳ hạn kiếp Sống đồng chấm dứt một lượt
(Ubhayakhaya), vừa hết nghiệp, vừa hết tuổi thọ.
4) Sự phát động đối
ứng c?a một nghiệp lực khác mạnh hơn, làm cắt đứt thình
lình triều lưu của nghiệp Tái tạo, trước kỳ hạn của
kiếp Sóng. Chết bất đắc kỳ tử hay chết yểu đều do
nhân này.
Chết do ba nhân đầu, thường
gọi chung là chết hợp thời (Kàlamarana). Chết do nhân
thứ tư gọi là chết không hợp thời (Akàlamarana).
Tử có bốn nhân, Sanh cũng
có bốn cách:
1) Sanh từ trong trứng (Andaja:
noãn sanh);
2) Sanh từ trong thai (Jalapuja:
thai sanh);
3) Sanh từ chỗ ẩm
thấp (Samsadeja: thấp sanh);
4) Sanh từ sự đột
biến (Upapatika: hóa sanh).
Những ấu trùng lấy nơi
ẩm thấp làm tổ để nảy nở, như nhiều loại vi sinh vật
gọi là thấp sanh. Những chúng sanh tự hóa sanh, thường mắt
phàm tục không nhìn thấy được. Do điều kiện của nghiệp
quá khứ, chúng sanh ấy tự nhiên xuất hiện, không phải đi
ngang qua giai đoạn phát triển trong phôi thai. Hạng chúng sanh
như Ngạ Quỉ (Preta), Trời (Deva) và Phạm Thiên (Brahma)
đều thuộc giới hóa sanh.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Phần
II