Từ khi hội PĀLI TEXT LONDON ra đời, các bộ Nikāya và một số chú
giải lần lượt được dịch sang tiếng Anh, nhưng chưa có bản dịch nào về chú
giải kinh Phạm Võng. Do đó, tác phẩm của Ngài Bodhi là một đóng góp lớn
lao cho nền văn học Phật giáo khắp thế giới. Kinh Phạm Võng là kinh đầu
tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị
của kinh này như thế nào. Như lời của Ngài Bodhi trong phần giới thiệu:
"Phạm Võng đứng hàng đầu trong Dīghanikāya. Đây không phải là việc
sắp xếp tình cờ, hoặc ngẫu nhiên của các trưởng lão khi kết tập kinh điển,
nhưng hoàn toàn có chủ tâm. Việc phân loại của các trưởng lão phản ảnh tầm
nhìn xa hiểu rộng về tính trọng yếu của kinh này qua tương quan với tất cả
lời Phật dạy. Đứng ở lối vào của các Nikāya, thông điệp chính của
Phạm Võng là cung cấp lời giới thiệu cho toàn thể mô hình Phật pháp."
Khi đọc qua kinh văn, chúng ta vấp phải những thuật ngữ đương thời như:
Ngã, Thế giới, Như lai, Niết-bàn v.v… Một bản chú giải sẽ trợ giúp đắc lực
cho việc lãnh hội những ý nghĩa cô đọng trong kinh. Khi dịch xong tôi nhận
thức rằng kinh Phạm Võng giải thích cặn kẽ về nguồn gốc của ngã chấp - một
bản đồ đưa đến kho tàng vô ngã tướng kinh. Qua đó tôi có một niềm xác tín:
căn nguyên của mọi tà chấp sinh khởi do trình độ nhận thức về vấn đề nhân
sinh và vũ trụ, về sự ngộ nhận chân lý. Tất cả tà chấp cứ tái diễn vô cùng
tận khi người ta tiếp tục xây dựng đời sống trên nền tảng ngã kiến. Nơi
đây trong kinh Phạm Võng Đức Phật đã tung ra lưới chánh pháp trên đại
dương của những tư tưởng tà kiến và xác chứng rằng Ngài chính là nhân vật
đã ly thoát thế giới điên đảo đó.
Phần đặc sắc nhất của kinh Phạm Võng liên quan đến sáu mươi hai tà kiến
nên tôi dịch rất cẩn thận; phần còn lại bàn về giới chỉ là lời giới thiệu
và khá đơn giản, tôi xin lược bỏ để bản chú giải kịp thời đến tay chư độc
giả. Nếu bản dịch này giúp một phần nhỏ phương tiện cho người học Phật
thành tựu tri kiến về Không tính của các pháp thì đó là phần thưởng dành
cho người dịch.
Tỳ-kheo GIÁC LỘC
Pháp Bảo Tự
28-03-2000 - PL. 2543
-ooOoo-
Kinh Phạm Võng là một trong những kinh quan trọng nhất do Đức Phật
thuyết. Đương nhiên kinh này được tôn kính độc nhất vô nhị vì đứng vị trí
hàng đầu trong các Nikāya của tam tạng PĀLI. Sự trọng yếu
của Kinh xuất phát từ đối tượng chính, phân tích về một hệ thống trong sáu
mươi hai trường hợp, được thiết lập để bao gồm tất cả những quan điểm suy
đoán trên hai mối quan tâm chủ chốt về tư tưởng suy đoán - bản chất của
ngã và thế giới. Giải thích về những quan điểm này là một bước thiết yếu
trong toàn thể cấu trúc của Phật Pháp, là sự đo lường tiên khởi vốn cần
thiết để làm sáng tỏ lập trường thành lập chánh kiến - yếu tố đầu tiên
trong Bát Thánh Đạo, con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, mục đích của
toàn bộ giáo pháp. Kinh này đã dệt nên tấm lưới về các quan điểm, cung cấp
một dụng cụ thích hợp để khẳng định bất cứ xu hướng triết học này và quyết
định xem nó có như nhất với chánh pháp không. Vì bất cứ vấn đề nào thỏa
hiệp với những lập trường được đưa ra trong kinh này có thể được nhận ngay
là một quan điểm sai lầm, đi lệch con đường đưa đến giải thoát.
Vì lý do này, mô hình của kinh Phạm Võng đã được sở hữu bởi toàn thể di
sản Phật giáo sau như phương tiện chính xác giúp cho việc phân chia ranh
giới giữa điểm bắt đầu của Phật giáo và những quan điểm của những hệ thống
tín ngưỡng khác. Sáu mươi hai quan điểm đã được đề cập trong kinh tạng,
trở thành một phạm trù tiêu chuẩn của các chú giải và tiếp tục mãi qua
những tác phẩm triết học thuộc nhiều giai đoạn tư tưởng Phật giáo sau đó
như một phương tiện thích hợp cho việc phân loại nhiều dạng ngoại giáo.
Ý thức về sự quan trọng cốt lõi của kinh Phạm Võng, một nền văn học chú
giải đồ sộ đã được dựng lên xung quanh nó, bao gồm một chú giải dài, một
chú giải phụ và một chú giải hiệu đính. Chú giải kinh này bao gồm trong
Sumangala-vilāsinī hoặc Atthakathā cho Dīghanikāya.
Nó được sáng tác bởi nhà đại chú giải Ấn Bhadantācariya Buddhaghosa
(đầu thế kỷ thứ năm sau công nguyên), trên cơ sở của những chú giải cổ
không còn nữa, Ngài đã duyệt lại và phối hợp thành một văn bản thống nhất
mà đã truyền đến chúng ta ngày nay. Chú giải này được cung ứng với một chú
giải phụ hoặc Tìkà bở Ācariya Dhammapāla ở Badaratittha (Nam
Ấn) vào khoảng thế kỷ thứ sáu: tác phẩm của Ngài Dhammapāla gồm có
hai mục đích: Giải thích những từ khó và những điểm rắc rối nằm trong chú
giải. Thứ hai là xem xét đầy đủ những vị trí được đưa ra trong kinh, quan
sát cơ sở suy luận, những tương quan, những nghi vấn có thể xảy ra v.v…
Thật ra phần thú vị và giá trị nhất của Tīkā là những khảo sát của
nó thường được trình bày dưới dạng một câu hỏi hoặc sự đối kháng được theo
bởi một phần giải đáp dài hoặc sự biện minh. Nhưng Tīkā đầu thì
thường khá ngắn gọn trong cách diễn đạt, hoặc quá phức tạp trong những
chuỗi biện luận của nó, khiến cho nghĩa chính xác của đoạn văn đôi khi khó
nhận ra. Để sửa chữa khuyết điểm này, một chú giải mới (abhinavatīkā)
cho phần đầu của Dīghanikāya được sáng tác vào cuối thế kỷ 18 bởi
Hòa thượng người Miến Nānābhivamsa. Tác phẩm hiệu đính này có tên
là Sādhuvilāsinī, phần lớn sao chép nội dung của chú giải phụ tiêu
chuẩn nhưng mở rộng và gọt giũa nó cho văn phong sáng sửa nhiều hơn, thêm
những điểm dẫn giải nơi nào cần thiết.
Văn phong Pāli trong các Tīkā khó và phức tạp, lời văn
đầy những giải thích chằng chịt, những biện luận và nghĩa bóng. Vì tác
phẩm hiện tại so với kiến thức của chúng tôi là nỗ lực đầu tiên về một bản
dịch có qui mô bao quát từ các Tīkā, chúng tôi e rằng vài khuyết
điểm có thể phạm phải. Vì phép hành văn chúng tôi phải uyển chuyển khi
hoàn thành những cụm từ và trích dẫn trong nguyên bản, sắp xếp lại những
cấu trúc rườm rà, những chuyển đạon luận lý trong các suy luận từ chú giải
phụ. Chúng tôi hy vọng các thế hệ học giả Pāli trong tương lai sẽ tiếp tục
khảo sát các Tīkā và phô diễn thêm khía cạnh tế nhị về phương diện
triết học và tâm lý học của văn học Pāli sang Anh văn.
Tựa của tác phẩm toàn tập "The Discourse on The All-Embracing Net of
Views" (Kinh về lưới bủa khắp các quan điểm) là phóng dịch từ vài tựa
khác được nêu ra ở phần kết đề của Kinh Phạm Võng.
Bhikkhu Bodhi
Forest Heritage, Kandy,
Sri Lanka 11-07-1977