BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
|
CHÚ GIẢI KINH PHẠM VÕNG
BRAHMAJĀLA
SUTTA
Dịch Giả: Tỳ-kheo GIÁC LỘC
PHẦN CHÚ GIẢI (tiếp theo)
NHỮNG SUY ĐOÁN VỀ TƯƠNG LAI
(APARANTAKAPPIKA)
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ TƯỞNG BẤT TỬ
76.
A: "Ngã có sắc": nắm lấy sắc của
đối tượng kasiṇa là ngã, và nắm lấy tưởng (của kasiṇa) như
là tưởng của ngã, hoặc bằng suy luận suông như trong trường hợp của phái
Ājivaka v.v…; họ tuyên bố: "Ngã bất biến sau khi chết, có tưởng và
có sắc."
Ṭī: Hỏi: Phải chăng ở đây ngã nên phân biệt với sắc, vì sắc
giống như tưởng, bị chấp là sở hữu của ngã (attaniya) ? Khi người
ta nói rằng ngã có tưởng thì chính tưởng không phải là ngã (nhưng thuộc về
ngã); do vậy trên nêu ra "Nắm lấy… tưởng (kasiṇa) là tưởng của
ngã". Nếu thế, tại sao sắc của kasiṇa được nắm lấy là ngã?"
Đáp: Không nên nghĩ rằng ngã là sắc theo nghĩa sắc thuộc về ngã, nhưng
đúng hơn theo nghĩa được tiêu biểu bởi sự biến dị. Sắc của kasiṇa
bị biến dị này khiến nó giống sắc (bình thường), là sự phân hóa mà nó tải
qua khi ở lúc này nó được mở rộng và ở lúc khác nó không được mở rộng.
Không thể phủ nhận ý nghĩa này,vì kasiṇa trải qua sự phân hóa như
thế là có giới hạn và vô hạn.
Hỏi: Nếu thế phải chăng bao gồm lý thuyết này trong chủ thuyết thường
kiến là sai?
Đáp: Không sai. Vì sự bất biến của ngã theo sau thân diệt đã đựơc ngụ
ý. Do vậy có lời rằng: "Ngã bất biến sau khi chết."
"Hoặc do suy luận suông như trong trường hợp của phái Ājivaka";
không có người nào của Ājivaka đề xướng rằng có một ngã trong số
sáu hạng người, hạng đen v.v…
"Bất biến" (aroga, nghĩa đen là "vô bệnh")" nó không bị bệnh,
tức là bất diệt. Từ aroga đồng nghĩa với từ nicca (thường hằng).
Theo từ này, nhà lý thuyết tuyên bố sự thường hằng của ngã, do tính bất
biến của nó.
A: (Về quan điểm còn lại): nắm lấy các tướng của các thiền
chứng vô sắc là ngã và tưởng phát khởi (trong các sở chứng này) là tưởng
của ngã, hoặc do suy luận suông như trong trường hợp của các Nigaṇṭha,
v.v…, họ tuyên bố: "Ngã là bất biến sau khi chết, có tưởng và vô sắc".
Quan điểm thứ ba phát sanh do kết hợp các quan điểm và phần thứ tư qua suy
luận.
Ṭī: "Các tướng của các sở chứng vô sắc": chỉ còn lại không gian
do buông bỏ kasiṇa, tâm trong sở chứng vô sắc đầu tiên, và vô sở
hữu xứ (đây là những đối tượng tương ứng của bốn thiền chứng vô sắc).
"Như trong trường hợp của các Nigaṇṭha": các Nigaṇṭha
chấp rằng ngã vô sắc trú trong thân, lan rộng qua thân như vị đắng trong
lá Nimba.
"Do kết hợp các quan điểm": do nắm lấy các đối tượng của các thiền
chứng sắc và vô sắc như một ngã riêng và các tưởng phát khởi trong các
thiền chứng này như là các tưởng của ngã. Khi nhà lý thuyết này đắc các
thiền chứng sắc và vô sắc, nắm lấy các tướng của chúng như là ngã với một
khía cạnh sắc và một khía cạnh vô sắc, vị ấy biểu lộ niềm xác tín của mình
như sau "Ngã vừa có sắc vừa vô sắc", như phái Ajjhattavādin. Hoặc
do nắm lấy sự kết hợp của các sắc và vô sắc pháp qua suy luận suông, vị ấy
chấp "Ngã vừa có sắc vừa vô sắc."
"Quan điểm thứ tư qua suy luận": qua suy luận như vầy: "Ngã không có
sắc giống như sự kết tụ của trụ đá, hồ, hoặc tay chân v.v…, vì giống như
các hành vi tế (của phi tưởng phi phi tưởng xứ), nó không thể thực hiện
chức năng đặc biệt (của sắc pháp) vì bản chất cực vi của nó; tuy nhiên nó
không phải vô sắc,vì nó không vượt qua thực tính của sắc pháp". Hoặc ý
nghĩa có thể được hiểu ngược lại (với hai vị trí đầu) như trong bốn quan
điểm của lý thuyết hữu biên- vô biên. Chỉ có sự khác biệt này: Trong
trường hợp đầu, những lý thuyết thứ ba và thứ tư được chỉ khi sinh khởi
qua một sai biệt về hướng không gian và thời gian theo thứ lớp, trong khi
ở đây, chúng sinh khởi qua một sai khác về thời gian và nền tảng (kālavatthu-vasena).
Vì lý thuyết thứ ba sinh khởi qua một sai khác về thời gian, vì các đối
tượng của các thiến chứng sắc và vô sắc không thể hiện diện đồng thời. Lý
thuyết thứ tư sinh khởi qua một sai khác về nền tảng, vì nó đề xướng bằng
cách suy luận rằng uẩn của các pháp sắc và vô sắc là một ngã riêng biệt.
Ṭī: Quan điểm thứ hai nên được hiểu theo phương pháp đã phát
biểu trong thảo luận về chủ thuyết hữu biên- vô biên. Trong lý thuyết thứ
ba cho rằng ngã thuộc về tưởng đồng nhất liên quan đến người đắc các thiền
chứng; cho rằng ngã thuộc về tưởng sai biệt liên quan đến người không đắc
thiền; cho rằng ngã thuộc về tưởng có hạn lượng liên quan đến người dùng
một kasi ịa hữu hạn; cho rằng ngã thuộc về tưởng vô lượng liên quan đến
người dùng một kasi ịa vô hạn.
Ṭī: Vì mỗi thiền chứng có một tưởng khác nhau, lý thuyết cho
rằng ngã có tưởng sai biệt cũng được chấp bởi nhà lý thuyết có tám thiền
chứng. Vì vậy, tưởng trong thiền chứng tự nó có mặt như là đồng nhất, chú
giải gán cho người đắc thiền mà có lý thuyết "Ngã thuộc về tưởng đồng
nhất. Hoặc lý thuyết này có thể liên quan đến người có một thiền chứng duy
nhất. Mặc dù có sự sai khác trong các tưởng phù hợp với những sai khác
trong các thiền chứng, lý thuyết cho rằng ngã thuộc về tưởng sai biệt được
gán cho người không đắc thiền để chỉ tưởng sai biệt bằng cách sai biệt thô
về tưởng qua vô số đối tượng bên ngoài.
Phát biểu của lý thuyết thứ ba chỉ rằng lý thuyết này đồng hóa chính
tưởng với ngã, vì kasiṇa ở đây là một pháp tách rời tưởng.
Kasiṇa được đề cập để chỉ đối tượng của tưởng (Tưởng bị giới hạn vì
đối tượng của nó). Phương pháp tương tự cũng nên áp dụng cho trường hợp
của kasiṇa vô hạn (lý thuyết thứ tư). Khi điều này được làm, người
ta phân biệt vững chắc giữa hai lý thuyết này ở một mặt và những lý thuyết
hữu biên-vô biên thứ nhất và thứ nhì (trong số những nhà suy đoán về quá
khứ và những lý thuyết hữu biên và vô biên của phân đoạn hiện tại (B.1 và
B.2) ở mặt khác[*]. Lại nữa hai lý thuyết này có thể phân biệt một cặp
(tức là những lý thuyết hữu biên-vô biên thứ nhất và thứ nhì) chỉ như là
sự khác biệt giữa những khoảng thời gian mà những suy đoán của họ hướng
tâm đến (quá khứ và tương lai), và có thể phân biệt với những lý thuyết
khác (tức là hữu biên-vô biên của phân đoạn hiện tại.)
[*] Sự khác biệt chính là những lý thuyết hiện tại hợp nhất tưởng
với ngã, và xem kasiṇa chỉ như là đối tượng của ngã, trong khi những lý
thuyết khác hợp nhất tướng kasiṇa với ngã.
Hoặc "Thuộc về tưởng hữu hạn" có thể có nghĩa rằng ngã có tưởng và có
giới hạn, như trong quan điểm của những người mà nói "Ngã có kích thước
của ngón tay, hạt ngũ cốc hoặc chỉ là một nguyên tử", giống như Kapila,
Kaṇāda, v.v…
"Thuộc về tưởng vô lượng": có thể có nghĩa rằng ngã có tưởng và vô
lượng, như được chấp bởi những người mà tuyên bố rằng ngã tỏa khắp mọi
nơi.
Với quan điểm thứ tư, sau khi thấy với thiên nhãn một chúng sanh tái
sanh trên cõi tam, hoặc tứ thiền đầu tiên [**], vị ấy chấp rằng ngã là
"Cực lạc". Sau khi thấy một chúng sanh tái sanh trong địa ngục, vị ấy chấp
rằng ngã là "Thống khổ". Sau khi thấy một chúng sanh tái sanh ở cõi người,
vị ấy chấp rằng ngã là "Vừa lạc vừa khổ". Sau khi thấy một chúng sanh tái
sanh trong số những vị trời Quảng Quả thiên, vị ấy chấp rằng ngã là "Bất
lạc bất khổ". Nói chung, những người có khả năng nhớ lại các đời sống quá
khứ-suy đoán về quá khứ, những người chứng thiên nhãn-suy đoán về tương
lai.
[**] Tam thiền đầu tiên theo kinh tạng, tứ thiền đầu tiên theo vi
diệu tạng. Kinh tạng chia các thiền theo bốn cấp bậc, sự chuyển tiếp từ
sơ thiền đến nhị thiền được thực hiện bởi việc trừ đồng thời tầm và tứ.
Vi diệu tạng (áp dụng một hệ thống phân tích tâm lý chính xác nhiều hơn)
phân biệt giai đoạn phát triển định làm trung gian cho sơ thiền và nhị
thiền của hệ thống kinh tạng, ở chỗ tầm đã dứt nhưng tứ còn.
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ VÔ TƯỞNG BẤT TỬ
NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG BẤT TỬ
72, 82
A: Những lý thuyết vô tưởng bất tử
và những lý thuyết phi tưởng phi phi tưởng bất tử nên được hiểu dưới dạng
hai lý thuyết đầu tiên về hữu tưởng bất tử. Chỉ những nhà lý thuyết đó đã
chấp quan điểm rằng ngã có tưởng, trong khi những nhà lý thuyết này chấp
rằng ngã là vô tưởng và phi tưởng phi phi tưởng. Không cần tìm nguyên do
về sự kiện này, vì những ngộ nhận của những nhà lý thuyết giống như cái
giỏ của người điên.
Ṭī: Trong lý thuyết vô tưởng bất tử, lý thuyết đầu tiên (tức là
ngã có sắc) phát sanh qua kinh nghiệm của những chúng sanh tái sanh trong
cõi vô tưởng. Lý thuyết thứ hai chấp tưởng là ngã, và đề xướng một vô
tưởng bất tử trên cơsở không có tưởng khác tồn tại thuộc về ngã này như là
sở hữu của nó[*]. Lý thuyết thứ ba phát sanh khi các sắc pháp cùng với
tưởng, hoặc tất cả các sắc và vô sắc pháp hợp lại, được nắm giữ là ngã. Lý
thuyết thứ tư được đề xướng bằng cách suy luận. Trong lý thuyết thứ hai,
chấp "Vô tưởng" để chỉ rằng sắc của kasiṇa không có thực tính của
tưởng, bốn lý thuyết nên được hiểu theo phương pháp đã phát biểu trong
phần thảo luận về những lý thuyết hữu biên-vô biên.
[*] Vì theo quan điểm này ngã được đồng hóa với tưởng, mặc dù ngã
tiếp tục tưởng sau khi chết, nó được gọi là "vô tưởng" bởi vì nó không
thừa nhận một tưởng khác phụ thuộc vào chính nó.
Trong lý thuyết phi tưởng phi phi tưởng bất tử, trong trường hợp của
một chúng sanh tái sanh trong cõi phi tưởng phi phi tưởng, lý thuyết đầu
tiên nhận thức sự hiện hữu của một tưởng vi tế không có khả năng thực hiện
chức năng quyết định khi tử và tục sinh, hoặc ở bất cứ trường hợp nào
[**]. Lý thuyết thứ nhì (và phần còn lại) được đề xướng bằng sự thừa nhận
thực tính của tưởng và và sự vi tế của nó, theo phương pháp đã phát biểu
trong lý thuyết vô tưởng bất tử. Để chỉ việc không thể suy luận về những
quan điểm của những nhà lý thuyết, ngay cả khi có đủ luận cứ, nhà chú giải
nói: "Không cần tìm nguyên do về sự kiện này." Bởi vì những lý thuyết này
về hữu tưởng, vô tưởng, phi tưởng phi phi tưởng bất tử, đều phát biểu rằng
ngã là bất biến sau khi chết, thật rõ ràng chúng được bao gồm trong chủ
thuyết thường kiến.
[**] Bởi vì tưởng tiếp tục tồn tại trong cõi đó, nó được gọi là
"phi phi tưởng", nhưng vì tưởng quá vi tế không thể thực hiện chức năng
quyết định của tưởng, nó được gọi là "vô tưởng".
CHỦ THUYẾT ĐOẠN KIẾN
(UCCHEDAVĀDA)
84. HỌ TUYÊN BỐ SỰ ĐOẠN DIỆT, HỦY DIỆT, TIÊU HOẠI CỦA MỘT CHÚNG SANH
A: Có hai hạng người chấp
đoạn kiến, người có (thiên nhãn) và người không có. Người có chấp đoạn
kiến, khi với thiên nhãn, vị ấy nhận thấy sự diệt của một a-la-hán mà
không có thấy sự tái sanh nào tiếp theo, hoặc khi vị ấy nhận thấy sự diệt
(của những người khác) mà không có thấy sự tái sanh của họ (vì thiên nhãn
còn yếu). Người không có (thiên nhãn) chấp đoạn kiến bởi vì vị ấy không
biết thế giới khác nào hết, hoặc bởi vì vị ấy tham đắm dục lạc, hoặc do
suy luận, chẳng hạn: "Chúng sanh giống như những chiếc lá lìa cành và
không mọc lại nữa."
Ṭī: Vì sự diệt của cái không có thì không thể xảy ra, những từ
"Đoạn diệt của một chúng sanh" được nêu ra, chỉ sự đoạn diệt dựa vào hữu.
Từ "Chúng sanh" được dùng để chỉ như sau:
Các pháp thực tính khởi phát như là những nhân và quả bao gồm trong một
dòng tương tục. Ứng dụng sai phương pháp sai biệt, những nhà lý thuyết này
nắm giữ sai lạc sự phân hóa như thực giữa các nhân và quả, vội vã kết luận
rằng sự phân hóa đó là tuyệt đối, như thể (nhân quả tương tục thuộc về
dòng tương tục hoàn toàn khác nhau. Do vậy, nguyên do để bám vào chủ
thuyết đoạn kiến là việc ứng dụng sai phương pháp sai biệt. Nguyên do thứ
hai là việc ứng dụng sai phương pháp đồng nhất. Nơi đây dù sự phân hóa
đang tồn tại trong các thực tính của chúng, các pháp khởi phát như là
những nhân và quả trong một dòng tương tục đơn điệu, bị nắm giữ như một
toàn thể hoàn toàn không bị phân hóa. Để chỉ sự kiện này (tức là một chúng
sanh có sự hiện hữu mà dùng dùng làm đối tượng cho lý thuyết của nhà đoạn
kiến), từ "chúng sanh" được dùng trong kinh văn. Vì sự ngộ nhận về một
chúng sanh phát sinh khi các uẩn hợp lại xảy ra dưới dạng một dòng tương
tục mà không được tách ra (trong các thành phần kết hợp). Vì vị ấy chấp
rằng "Ngã tồn tại chừng nào nó không bị tiêu diệt", nên sự ngộ nhận về chủ
thuyết đoạn kiến dựa vào sự ngộ nhận về hiện hữu của một chúng sanh.
Người không có (thiên nhãn) chấp vào đoạn kiến xứ bởi vì vị ấy không
hiểu rằng có một thế giới khác ngoài thế giới này, do chủ thuyết hoài nghi
hư vô, hoặc do sự ngu xuẩn của vị ấy. Hoặc vị ấy chấp rằng "Phạm trù của
thế giới chỉ mở rộng đến cuối tầm của các căn mà thôi" do sự tham đắm dục
lạc của vị ấy. Hoặc vị ấy có định kiến rằng "Y như chiếc lá úa lìa cành
không thể liền lại nguyên vị, cũng vậy tất cả chúng sanh chết không tục
sinh nữa (họ không tái sanh, họ được trọn vẹn với cái chết và không kinh
nghiệm bất cứ hiện hữu mới nào nữa). Vì chúng sanh giống như những bọt
nước (bởi vì chúng không bao giờ hợp lại nữa)".
A: Bảy quan điểm đoạn kiến phát sanh do ái và tà kiến, bằng
cách này, hoặc cách nọ, hoặc theo cách hỗn hợp.
Sā: "Bằng cách này": theo cách được tường thuật bởi thí dụ về
người có (thiên nhãn) không thấy sự tái sanh của vị A-la-hán v.v..
"Bằng cách nọ": theo một cách khác nào đó, khi những quan điểm đoạn
kiến sinh khởi qua nhiều cách suy luận.
"Hoặc theo cách hỗn hợp": trong trường hợp của người có (thiên nhãn)
những quan điểm này cũng phát sanh qua suy luận khi vị ấy không thấy chúng
sanh nào tái sanh tiếp theo lúc mệnh chung.
85:
A: "Sanh khởi từ mẹ và cha": nghĩa là "Tinh và Huyết". Do vậy,
lý thuyết đầu tiên khẳng định nhân tính (manussattabhāva), dưới
tiêu đề thân thể có sắc, là ngã.
86.
A: Lý thuyết thứ hai, bác bỏ lý thuyết này, khẳng định thiên
tính (dibbattabhāva) là ngã. "Thiên" nghĩa là sinh khởi trong thế
giới của các vị trời. "Thuộc về dục giới" nghĩa là bao gồm sáu dục giới
thiên. "Không thiếu bất cứ căn nào": các căn của thiên tính này là toàn
vẹn. Nêu ra điểm này để so sánh với các căn tồn tại trong Phạm thiên giới
(nơi đây tỷ, thiệt, thân xứ không có chức năng như các xứ thuộc dục giới.
Chúng chỉ tồn tại như là những sắc pháp).
87-91. Trong lý thuyết thứ ba, "Do tâm tạo", nghĩa là được tạo ra
qua thiền tâm. Ý nghĩa của lý thuyết thứ tư v.v… được giải thích trong
thanh tịnh đạo. (Visum. X),
Ṭī: Không giống những lý thuyết ngụy biện vô tận được chỉ riêng
như là người không có (đắc thiền), và không giống những lý thuyết về hữu
tưởng bất tử, được chỉ riêng như là người có (đắc thiền), lý thuyết hiện
tại (về đoạn kiến) được chấp bởi cả hai những người có và những người
không có, như chủ thuyết thường kiến, chủ thuyết thường kiến phiến diện
v.v… Vì có lời rằng: "Có hai hạng người chấp quan điểm đoạn kiến". Nếu
thế, tại sao giáo thuyết dùng nơi đây khác với phương pháp được áp dụng
trong phần lý giải về chủ thuyết thường kiến v.v… ?
Đáp: Vì cách trình bày tính trang nhã của lời dạy. Chư Phật dạy pháp
bằng những cách sai biệt để thích nghi với tâm hướng của những chúng sanh
mà các Ngài huấn luyện. Do vậy nơi đây, cũng như nơi khác, Thế Tôn đã
truyền dạy bằng cách phân biệt giữa người sở đắc tâm định và nhà suy đoán
như sau: "Chư tỳ-kheo, nơi đây có vị sa-môn hoặc bà-la-môn nhờ nhiệt tâm…
với tâm định như vậy, vị ấy hướng tâm đến tuệ về sanh diệt của chúng sanh.
Với thiên nhãn, thanh tịnh và siêu nhân, vị ấy thấy tử tâm của vị
A-la-hán, hoặc tử tâm của những chúng sanh phàm phu, nhưng không thấy bất
cứ tái sanh nào tiếp theo đó. Vị ấy tuyên bố…" v.v… Vì vậy để thích nghi
với tâm hướng của những chúng sanh được huấn luyện qua tính trang nhã của
lời dạy, giáo thuyết dùng nơi đây khác với cách áp dụng trong phần lý giải
về chủ thuyết thường kiến, v.v…
Hoặc Thế Tôn đã dạy lý thuyết đoạn kiến bằng một cách khác biệt với
những lý thuyết trước để biểu lộ sự sai biệt này: trong trường hợp của chủ
thuyết đoạn kiến, lý thuyết đó (bị chấp bởi người đắc thiền không bao gồm
một cách diễn giải khác với lý thuyết bị chấp bởi nhà suy đoán (như chủ
thuyết thường kiến phiến diện làm. v.v…). Nhưng đúng hơn, vì sự phân loại
của chúng giống nhau, những dạng diễn giải của chúng cũng giống nhau. Vì
lý thuyết được diễn giải bởi nhà suy đoán đồng dạng với cách của nhà sở
đắc các thiền chứng.
Hoặc Thế Tôn không dạy những quan điểm này như những phát khởi tương
lai, hoặc như những định lý có thể xảy ra. Nhưng trong bất cứ cách nào
những nhà lý thuyết tuyên bố quan điểm của họ, cho biết: "Chỉ đây là sự
thật, bất cứ quan điểm nào khác đều sai lầm", bằng cách đó Thế Tôn đã giới
hạn chúng với tuệ toàn tri và trình bày chúng như thực. Qua sự kiện này
những ân đức Phật thâm sâu, siêu thoát được tán dương và do sự ca tụng đó
mà các Như Lai được tán dương một cách chân chánh. Vì các nhà đoạn kiến mà
thường xuyên tưởng tượng các cõi cao thượng thành lập những lý thuyết của
họ bằng cách bác bỏ lý thuyết của những người mà tưởng tượng các cõi thấp,
lời dạy xảy ra như vầy (phù hợp với cách mà những lý thuyết đó được lập).
Do vậy, việc áp dụng phương pháp giảng dạy khác với những phương pháp đã
dùng trước không cần phải bình luận. Hơn nữa, không nên nghĩ rằng vị trí
đoạn kiến có thể được khai thác thêm bằng cách của những phân đoạn phụ
trong dục giới và sắc giới (quan điểm 1-3), như được làm trong trường hợp
vô sắc giới (quan điểm 4-7). Ngoài ra nó có thể được phát biểu mà không có
khơi ra vô sắc giới, bằng một phương pháp ngắn gọn như trong trường hợp đề
cập đến dục giới và sắc giới. Nếu thế, không có chỗ cho lời bình luận rằng
lý thuyết đoạn kiến chứa ít nhiều những phân đoạn hơn bảy phần do Thế Tôn
thuyết.
Hỏi: Trong ba lý thuyết đầu tiên thật đúng khi nói "Với sự diệt của
thân", vì những lý thuyết này ám chỉ đến một cá thể bao gồm trong cõi ngũ
uẩn. Nhưng tại sao sự diễn đạt này được dùng trong bốn quan điểm cuối
cùng, khi chúng ám chỉ đến một cá thể trong cõi tứ uẩn? Có phải chăng các
chúng sanh vô sắc không có một thân?
Đáp: Đúng thế. Nhưng chính nhà lý thuyết dùng sự diễn đạt, quy cho từ
"Thân", mà thường dùng liên quan với sắc (rūpa), với cá thể vô sắc.
Thế Tôn chỉ những quan điểm của họ tương tự như những nhà lý thuyết tuyên
bố chúng. Hoặc từ miêu tả "Thân" có thể được xem xét để áp dụng cho vô
sắc-tức là, cho sự kết hợp của các pháp như xúc, v.v… - vì nó có tướng của
một thân vô sắc.
Hỏi: Đặc điểm của những lý thuyết thứ hai và sau đây như những suy đoán
về tương lai là đúng, vì những lý thuyết này-tuyên bố sự tiêu diệt không
có dư sót cá thể của những vị trời dục giới, v.v…- lấy thời tương lai làm
phạm trù của chúng. Nhưng phải chăng đặc điểm đó không đúng chỗ trong
trường hợp của lý thuyết thứ nhất; vì nó tuyên bố sự đoạn diệt của nhân
tính được kinh nghiệm trực tiếp bởi nhà lý thuyết, lấy hiện tại làm phạm
trù của nó? Những lý thuyết thứ hai và sau đây, bởi vì chúng dạy sự đoạn
diệt của một ngã, phát sanh trong một cõi cao hơn ngã được đề cập trong
mỗi lý thuyết đề cập trước, được xếp loại một cách chính xác như là những
suy đoán về tương lai. Do vậy họ nói: "Nhưng không phải ở điểm đó mà ngã
bị tiêu diệt hoàn toàn". Khi họ nói: "Vì có một ngã khác" - mà được nêu ra
liên quan đến sự phân loại giữa (ngã đó và cá thể thấp hơn bắt đầu với
nhân tính). Nhưng không có tương phản như thế trong mỗi trường hợp. (Vì lý
thuyết đầu tiên không dạy sự tiêu diệt của một ngã tái hện trong tương lai
trong trạng thái của hữu cao hơn người, và không đề cập ngã nào khác bằng
cách tương phản, phải chăng phân loại nó như là một suy đoán luận tương
lai là sai?)
Đáp: Không hẳn sai. Vì mặc dù ngã được nói đến bởi lý thuyết đầu tiên
bao gồm trong đời này, là thời tương lai như là phạm trù của lý thuyết
này. (Vì chủ ý của lý thuyết đầu tiên là đoạn diệt sau khi chết, do vậy
trong tương lai, thuộc về một ngã được bao gồm trong đời này). Như vậy
không có sự tương phản về đặc điểm của lý thuyết đầu tiên như một suy đoán
luận về tương lai.
LÝ THUYẾT VỀ NIẾT BÀN HIỆN TẠI
(DIṬṬHADHAMMANIBBĀNAVĀDA)
93.
A: "Hiện tại" (diṭṭhadhamma,
nghĩa đen là pháp có thể thấy được): một pháp có thể kinh nghiệm trực
tiếp. Đây là một định danh cho cá thể đạt được trong cõi này nọ. "Niết-bàn
hiện tại" nghĩa là lắng dịu đau khổ trong chính cá thể này.
Sā: Nơi đây, "Niết-bàn" chỉ có nghĩa là sự lắng dịu đau khổ. Nó
không liên hệ gì đến tối thượng quả (tức A-la-hán quả) và không phải là vô
vi giới, hoàn toàn ngoài tầm với của những nhà lý thuyết này.
94. KHI NGÃ NÀY ĐƯỢC THỤ HƯỞNG VÀ CUNG CẤP VỚI NĂM LOẠI DỤC LẠC, THỎA
THÍCH TRONG CHÚNG.
A: "Thỏa thích": vị ấy thả lỏng các căn đuổi bắt các
loại dục lạc theo dục vọng của mình và say đắm trong ấy bằng cách này cách
nọ. Hoặc vị ấy hoan hỷ, thỏa mãn với chúng. Các loại dục lạc này có hai:
nhân lạc và thiên lạc. Loại thứ nhất như những lạc do vua Mandhātu
hưởng, thiên lạc như những lạc do vua cõi Tha hóa tự tại tưởng. Những nhà
lý thuyết tuyên bố sự chứng nghiệm Niết-bàn hiện tại chỉ cho những người
sở hữu các loại dục lạc như thế.
Sā: Do nghĩa này Ngài cho biết họ tuyên bố Niết-bàn hiện tại
chỉ cho những người tận hưởng các loại dục lạc. Vì dục lạc của vua
Mandhātu và vua của các chư thiên Vasavattī minh họa đỉnh cao
của dục lạc.
Ṭī: (Suy luận về lý thuyết đầu tiên như sau): "Y như sự mong
mỏi thức ăn ngon, v.v… tăng cường trong một người bị chế ngự bởi đói và
khát, cũng vậy mong mỏi những đối tượng của thủ đặc biệt gia tăng trong
một người chìm đắm trong các dục lạc. Nhưng y như một người đã ăn no nê
thức ăn có vị ngon không có tham ăn nữa. Cũng vậy, một người đã thỏa mãn
tối đa các dục lạc có vị tuyệt hảo không có khao khát nào nữa đối với
chúng. Khi không còn khao khát đối tượng, người ta sẽ tự động buông bỏ,
ngay cả những đối tượng khêu gợi, mời mọc". Xuất phát từ phi như lý tác ý
như thế, nhà lý thuyết thứ nhất tuyên bố khổ luân hồi được lắng dịu bằng
sự hưởng thỏa thuê các dục lạc. Lý thuyết thứ hai và lý thuyết tiếp theo,
thấy nguy hiểm trong các dục lạc và sự an lạc của sơ thiền, v.v…. tuyên bố
sự chấm dứt khổ luân hồi sắp đến bằng sự thỏa mãn hạnh phúc của sơ thiền,
v.v…
Sự khảo sát (phương pháp giảng dạy) được nêu ra trong phần về chủ
thuyết đoạn kiến cũng có thể được đưa vào đây, với những biến đổi thích
đáng. Tuy n hiên có sự phân biệt sau đây: Năm lý thuyết này (về Niết-bàn
hiện tại) được tìm thấy trong một cá thể (Theo lý thuyết đầu tiên, nếu ngã
được thụ hưởng với các loại dục lạc, lúc đó nó đạt đến Niết-bàn hiện tại.
Trong lý thuyết thứ hai và lý thuyết tiếp theo, nếu cũng ngã này có sơ
thiền, v.v…, trong trường hợp đó nó đạt đến Niết-bàn hiện tại. Do vậy
trong kinh văn, không có sự đề cập tách biệt thành lập "Một ngã khác" như
được làm trong phần về chủ thuyết đoạn kiến).
Hỏi: Nhưng tại sao lý thuyết Niết-bàn hiện tại về ngã bao gồm trong
thườngkiến thay vì đoạn kiến, khi nó tuyên bố sự dập tắt hoàn toàn của
ngã?
Đáp: Bởi vì chúng dạy sự trường tồn của ngã thanh tịnh trong sắc riêng
của nó khi ngã này đã thoát khỏi ràng buộc bằng cách đạt được sở đắc đặc
biệt này nọ trong hạnh phúc.
Sā: Theo ý họ, ngã đã thanh tịnh này qua sự giải thoát ràng
buộc của nghiệp và chứng Niết-bàn hiện tại, vẫn tồn tại trong sắc riêng
của nó.
100-101.
A: Đến đây tất cả sáu mươi hai quan điểm đã được giải thích.
Trong đó, bảy quan điểm thuộc về chủ thuyết đoạn kiến, năm mươi lăm quan
điểm còn lại thuộc về chủ thuyết thường kiến. Bây giờ tập hợp tất cả những
nhà suy đoán về tương lai trong phần mở đầu "Chính là trên bốn mươi bốn
lập trường này" (đoạn 100), Thế Tôn hiển lộ tuệ toàn tri của Ngài. Tập hợp
tất cả những nhà suy đoán về quá khứ, tương lai, quá khứ lẫn tương lai
trong phần mở đầu "Chính là trên bốn mươi bốn lập trường này" (đoạn 100),
Thế Tôn hiển lộ tuệ toàn tri của Ngài. Tập hợp tất cả những nhà suy đoán
về quá khứ, tương lai, quá khứ lẫn tương lai trong phần mở đầu "Chính là
trên sáu mươi hai lập trường này" (đoạn 101), Ngài hiển lộ lần nữa cùng
tuệ toàn tri này. Do vậy, ở phần đầu Ngài hỏi: "Chư tỳ-kheo, các pháp sâu
xa kia, v.v… là gì?", Ngài chỉ hỏi về tuệ toàn tri. Trả lời câu hỏi này,
Thế Tôn dựa vào chính tuệ toàn tri đó, truy nguyên sáu mươi hai quan điểm
suy đoán, như thể Ngài đang đo lường các tâm hướng của chúng sanh với đôi
cân, hoặc dời cát dưới chân núi Tu Di.
Ṭī: Hỏi: Vì sao chỉ quá khứ và tương lai được chỉ (riêng biệt)
như là những đối tượng của kiến thủ và không phải liên kết hai khía cạnh?
Đáp: Bởi vì không thể thực hiện được? Trong khi những kiến suy đoán có
thể xảy ra đối với quá khứ và tương lai, do sự biến dạng của nó không phải
những suy đoán như thế có thể xảy ra đối với ngay trung điểm giữa hai khía
cạnh ngoài bản thân chúng, (vì nó chỉ là khoảng cách giữa quá khứ và tương
lai). Mặt khác, nếu khoảng giữa được dùng làm cá thể hiện tại, trong chừng
mực bản chất của nó liên quan đến quá khứ và tương lai phụ thuộc vào kiến
suy đoán, nó thật sự được bao gồm dưới những suy đoán về quá khứ và tương
lai.
Ngược lại, bởi vì nó có một quá khứ và tương lai, ngay trung điểm được
gọi là "Quá khứ lẫn tương lai". Thế Tôn chỉ riêng điều đó khi Ngài nói:
"Các sa-môn và bà-la-môn là những nhà suy đoán về quá khứ lẫn tương lai:
Theo chú giải nó cũng có thể được coi là bao gồm dưới sự diễn tả chung",
tất cả những nhà suy đoán về quá khứ, tương lai (và quá khứ lẫn tương
lai), hoặc dưới một sự phân chia về sự diễn tả đó. Mặt khác nó sẽ là vô
nghĩa khi kết hợp những nhà suy đoán cùng với một thành ngữ duy nhất.
Những nhà suy đoán này về quá khứ lẫn tương lai là ai ? (Những người mà
chấp vào sự kết hợp của những suy đoán về quá khứ và tương lai, như) những
người mà là những nhà hữu biên và vô biên (về quá khứ) và nắm giữ lý
thuyết Niết-bàn hiện tại (về tương lai), v.v…
102. TẤT CẢ VỊ ĐÓ LÀM THẾ TRÊN SÁU MƯƠI HAI LẬP TRƯỜNG NÀY, HOẶC TRÊN
MỘT TRONG SÁU MUƠI HAI LẬP TRƯỜNG KHÔNG CÓ AI Ở BÊN NGOÀI CHÚNG.
Ṭī: Theo câu này, không có nhà lý thuyết nào ngoài ba
nhóm này-Những người suy đoán vế quá khứ, tương lai và quá khứ lẫn tương
lai. Vì vậy, những nhà lý thuyết được tìm thấy trong kinh Sa môn quả và
các kinh khác, như những lý thuyết về vô quả luận (akiriyavāda), vô
nhân luận (ahetukavāda), hư vô luận (natthikavāda), v.v…
cũng như những quan dīểm suy đoán về Thượng Đế (issara), Sanh chủ
(pajāpati), Thần Khởi nguyên (purisa), Vận hội (yadiccha),
v.v… được tìm thấy nơi các ngoại điển-tất cả những lý thuyết này được bao
gồm và hình thành trong ba nhóm này.
Vô quả luận, bởi vì nó phủ nhận thực tại của nghiệp thiện ác và chấp
rằng các nghiệp là "Bất sanh, kiên cố như một đảnh núi", được bao gồm
trong chủ thuyết thường kiến. Cũng vậy, lý thuyết của Pakudha Kaccāyana
đề xướng: "Bảy nhóm này (là bất sanh và kiên cố như một đảnh núi)", v.v…
Lý thuyết vô nhân luận, bởi vì nó khẳng định "Không có nhân hoặc duyên đối
với phiền não (và thanh tịnh) của chúng sanh" (Makkhali Gosāla đề
xướng), được bao gồm trong lý thuyết sinh khởi ngẫu nhiên. Hư vô luận, bởi
vì nó khẳng định "Không có thế giới khác", được kết hợp trong chủ thuyết
đoạn kiến. Do vậy cũng đoạn văn đó cho biết: "Với sự diệt của thân, kẻ ngu
và người trí bị doạn diệt như nhau". Những lý thuyết của các Niganṭha
(The Jains) và những lý thuyết khác được bao gồm. Mặc dù lý thuyết của
Nātaputta (Mahāvīra) đã ghi trong các kinh điển bằng cách của "Tứ thu
thúc", do vậy, vì sự lẫn tránh bao gồm trong phương pháp Thất phổ tính của
nó, nó được bao gồm trong lý thuyết ngụy biện vô tận, như lý thuyết của
Sañjaya. Những lý thuyết đề xướng "Ngã và thân thể là một" và "Ngã và
thân thể là khác" được bao gồm trong những lý thuyết rằng ngã là bất biến
sau khi chết và có sắc, vô sắc. Những lý thuyết rằng: "Như Lai tồn tại sau
khi chết" và "Có hữu tình hóa sanh" được bao gồm trong chủ thuyết thường
kiến; những lý thuyết "Như Lai không tồn tại sau khi chết" và "Không có
hữu tình hóa sanh", được bao gồm trong chủ thuyết đoạn kiến; những lý
thuyết "Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết" và "Vừa có vừa
không có hữu tình hóa sanh", được bao gồm trong chủ thuyết thường kiến
phiến diện; những lý thuyết "như Lai không tồn tại cũng không phải không
tồn tại sau khi chết" và "Không có cũng không phải không có hữu tình hóa
sanh", được bao gồm trong nguỵ biện luận vô tận. Những lý thuyết về Thượng
Đế, Sanh chủ, Thần Khởi nguyên và Thời gian được bao gồm trong chủ thuyết
thường kiến phiến diện; lý thuyết của Kaṇāda cũng thế. Những lý
thuyết về Thực tính, Số mệnh và Vận hội được bao gồm trong lý thuyết sinh
khởi luận ngẫu nhiên.
Theo đó, những quan điểm suy đoán được tìm thấy trong các kinh điển và
những quan điểm nằm trong các ngoại điển được bao gồm trong sáu mươi hai
tà kiến này.
"Y như Ngài đang đo lường tâm hướng của chúng sanh với đôi cân": "Tâm
hướng" ở đây là tâm hướng về phía các tà kiến (diṭṭhiajjhāsaya). Vì
tâm hướng của chúng sanh nghiêng về phiền não có hai loại: đối với thường
kiến và đoạn kiến, mặc dù hai loại tâm hướng này được chia thành nhiều
loại trong chừng mực chúng phát sanh trong phạm trù của trí thậm thâm về
vô số chúng sanh trong hằng hà sa số thế giới, Thế Tôn đã giới hạn hai
loại tâm hướng này với tuệ toàn tri của Ngài và tóm lược trong sáu mươi
hai quan điểm bắt đầu với bốn loại thường kiến, như thể Ngài đã đặt chúng
trên bàn cân.
"Như thể dời cát dưới chân núi Tu Di": do câu này Ngài chỉ rằng bất cứ
loại tuệ nào khác ngoài tuệ toàn tri không thể sinh khởi lời dạy thâm thúy
này.
(NGHĨA LIÊN KẾT)
A: Lời dạy này trình bày bằng cách của sự liên kết về ý nghĩa
được thuyết do cấu trúc tự nhiên về lời dạy. Vì các kinh có ba loại nghĩa
liên kết:
1) nghĩa liên kết dựa vào câu hỏi;
2) nghĩa liên kết được thuyết do tâm hướng;
3) nghĩa liên kết được thuyết do cấu trúc tự nhiên về lời dạy.
(1) Nơi đây "Nghĩa liên kết dựa vào một câu hỏi" (pucchānusandhi)
được tìm thấy trong những kinh Thế Tôn giải đáp cho những ai hỏi Ngài, như
đoạn minh họa sau đây: "Khi điều này được nói, một tỳ-kheo thỉnh vấn:
"Bạch Thế Tôn, bờ gần là gì? Bờ xa là gì? Chìm ở giữa là gì? Bị ném lên bờ
là gì? Bị túm lấy bởi loài người, phi nhân và nước xoáy là gì? Sự mục nát
bên trong là gì? (Sam).
(2) "Nghĩa liên kết được thuyết do tâm hướng (ajjhāsaỳanusandhi)"
có thể được hiểu qua kinh Thế Tôn thuyết sau khi Ngài đã hiểu tâm hướng
của các chúng sanh như đoạn minh họa sau đây: "Lúc đó dòng tư tưởng này
phát sanh trong tâm của một tỳ-kheo: "Bạch Ngài, sắc là vô ngã, thọ là vô
ngã, tưởng là vô gnã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Thế thì ngã nào tạo
các nghiệp mà không có một ngã thọ quả?". Rồi Thế Tôn biết rõ với tâm của
Ngài tư tưởng của vị tỳ-kheo này, Ngài dạy: "Chư tỳ-kheo, không thể có sự
kiện rằng một kẻ ngu ở đây, không hiểu biết, bị nhận chìm trong vô minh và
bị đàn áp bởi ái, có thể tưởng tượng trong tâm rằng vị ấy có thể vượt qua
giáo huấn của vị Đạo sư, như vầy: "Thưa Ngài, sắc là vô ngã", v.v…. Chư
tỳ-kheo, các ngươi nghĩ sao, sắc là thường hay vô thường?" v.v…. (M. 109).
Ṭī: "Bạch Ngài, sắc là vô ngã…" vị tỳ-kheo này biểu lộ sự không
tán thành không tính của ngã như Thế Tôn đã dạy: "Các nghiệp đã tạo không
có một ngã": các nghiệp mà không được làm bởi bất cứ ngã nào, hoặc các
nghiệp được làm bởi các uẩn mà là vô ngã. Vị ấy hỏi: "Nếu không có ngã và
các uẩn là nhất thời: "Ai kinh nghiệm quả của nghiệp?". Vị ấy "Không hiểu"
bởi vì không thông suốt thánh pháp do thiếu học hỏi, v.v…; vị ấy "Bị nhận
chìm trong vô minh" bởi vì vị ấy chưa từ bỏ vô minh do thiếu rèn luyện
trong thánh pháp và vị ấy bị đàn áp bởi ái" , dưới ảnh hưởng của ái, nghĩ
rằng: "Nếu không có người gọi là "Ngã", ai kinh nghiệm quả của nghiệp do
tôi tạo? Nhưng nếu có một "ngã", ắt có sự hưởng quả". "Trong tâm của vị
ấy": trong một tâm tùy thuộc ngã luận thủ (attavādupādāna: thủ đối
với lý thuyết về ngã). "Vị ấy có thể vượt qua giáo huấn của vị Đạo sư":
mặc dù các hành là nhất thời, nghiệp và quả trong sự tập hợp của các pháp
(cấu tạo một cá thể) được liên kết với nhau do sự kiện rằng quả phát sanh
trong một dòng tương tục mà nghiệp tạo ra đầu tiên. Nhưng ứng dụng sai
phương pháp hợp nhất đối với sự liên kết này, vị ấy kết luận rằng ắt phải
có tác nhân cùngmột ngã và người thọ quả (để thành lập sựliên kết giữa
nghiệp và quả). Như vậy vị ấy tưởng tượng rằng mình có thể vượt qua giáo
huấn của vị Đạo sư về không tánh của ngã và của bất cứ sở hữu nào thuộc về
ngã.
A: (3) "Nghĩa liên kết được thuyết do cấu trúc tự nhiên của lời
dạy" (yathānusandhi) có thể được hiểu qua những kinh mà lời dạy
tiến từ đề tài mở đầu đến cao điểm bằng cách của những thích đáng hoặc
bằng cách của những đối nghịch với chủ đề đầu. Chẳng hạn, trong
Ākankheyya Sutta (M.6) lời dạy được trình bày mở đầu bằng cách của
giới, và lên cao nhất ở lục thông. Trong Vattha Sutta (M. 7), lời
dạy được thành lập mở đầu bằng cách của các phiền não và lên cao nhất ở
bốn phạm trú. Trong Kosambiya Sutta (M. 48), lời dạy được thành lập
bằng cách ly khai và lên cao nhất ở các nguyeyn tắc hòa hợp thân tình.
Trong Tỷ dụ cái cưa (M. 21), lời dạy được thành lập bằng cách không kiên
nhẫn và lên cao nhất ở tỷ dụ. Trong kinh Phạm Võng này, lời dạy được thành
lập mở đầu bằng cách của các tà kiến và lên cao nhất ở sự thuyết minh về
không tánh. Do vậy có lời rằng: "Lời dạy này trình bày bằng cách của nghĩa
liên kết được thuyết do cấu trúc tự nhiên của lời dạy."
Ṭī: Thí dụ đầu tiên (Ākankheyya Sutta) chỉ nghĩa liên
kết bằng cách của những thích đáng, những thí dụ khác chỉ nghĩa liên kết
bàng cách của những đối nghịch. Trong kinh Phạm Võng, lời dạy được thành
lập bằng cách của những quan điểm suy đoán, tuyên bố một ngã trường tồn,
v.v… và kết luận với sự thuyết minh về không tánh của bất cứ ngã trường
tồn nào, v.v…
SỰ LUÂN CHUYỂN CỦA CÁC DUYÊN VÀ SỰ GIẢI THOÁT
105.
A: Bây giờ để đánh dấu các cương
giới, lời dạy sau đây được xác chứng.
Sā: "Để đánh dấu các cương giới": tức là, để vạch ra sự tương
phản tuyệt đối giữa tri kiến của Như Lai và tà chấp qua ái và các tà kiến
của những nhà lý thuyết; giữa chánh kiến và tà kiến như chủ thuyết thường
kiến, v.v… Qua lời dạy sau đây Ngài đánh dấu các cương giới như vầy:
"Những quan điểm kia chỉ là những tá chấp của họ xuất phát từ ái và các tà
kiến; chúng không giống chút nào với tri kiến của Như Lai về các pháp như
thực và "Cảm thọ về các tà kiến này" chỉ là sự khuynh đảo do ái và các tà
kiến; nó không phải bất động như cảm thọ trong tri kiến của bậc dự lưu.
ĐÓ CHỈ LÀ CẢM THỌ CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG THẤY; ĐÓ CHỈ LÀ
SỰ GIAO ĐỘNG VÀ KHUYNH ĐẢO CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ CHÌM ĐẮM TRONG ÁI.
A: "Sự thỏa thích trong các tà kiến (diṭṭhi-assāda),
lạc trong các tà kiến (diṭṭhivedayita), do đó những sa môn và
bà-la-môn ở trên bốn lập trường lân hoan tuyên bố ngã và thế giới là
thường hằng-đó chỉ là cảm thọ của những người không biết và không thấy như
thực về thực tính của các pháp; đó chỉ là cảm thọ của những người hoàn
toàn bị chìm đắm trong ái", và "Đó chỉ là sự giao động và khuynh đảo", tức
là đó chỉ là sự khuynh đảo, xao động và nao núng do sự giao động của ái và
các tà kiến gây ra. Như cây cột cắm trong đống rơm, nó không phải bất động
như tri kiến của bậc dư lưu. Cùng phương pháp ứng dụng ch tất cả các quan
điểm.
Sā: "Sự thỏa thích về các tà kiến": sự thỏa thích mà dùng làm
một duyên cho tà kiến. "Lạc về các tà kiến" và "Cảm thọ về các tà kiến" là
đồng nghĩa.
Ṭī: Mặc dù chú giải nói "Người không biết và không thấy như
thực về thực tánh của các pháp", những nhà lý thuyết không hình thành một
tà chấp chỉ vì họ không biết thực tính của các pháp hữu vi. Giải thích
chung này hàm tàng một phân biệt. Khi sự phân biệt này được nhận ra thì sự
giải thích sau đây được thực hiện: "Người không biết và không thấy": người
không biết và không thấy như thực: "Qua điểm này-rằng ngã và thế giới là
thường hằng-ngộ nhận như vậy và tà chấp như vậy, dẫn đến một sanh thú như
thế, một trạng thái như thế ở đời sau". Cũng vậy, (cụm từ "Người không
biết và không thấy" có thể được áp dụng với nghĩa)" Người không biết và
không thấy như thực sư sinh khởi (và sự diệt tận, v.v…) của thọ đó do đó,
trong ái của chúng đối với thọ, chúng bám vào một quan điểm suy đoán như
thế. Bằng cách này ngài chỉ rằng trong khi các Như Lai, qua trí không ngăn
ngại trong tuệ nhãn vô ngần, biết và thấy vấn đề này như thực, các nhà lý
thuyết chỉ tà chấp qua ái và các tà kiến. Do vậy lời dạy này nêu ra để
đánh dấu các cương giới giữa Đức Phật và các nhà lý thuyết.
"Cảm thọ": nương theo lời tuyên bố về tà kiến "Ngã và thế giới là
thường hằng" và được kinh nghiệm (cùng với) quan điểm đó. Thọ này, miếng
mồi của luân chuyển, hay thay đổi, vì nó phát sanh như là sự phấn chấn của
một người bị đâm bởi những gai của ái và các tà kiến; nó không tồn tại với
một trạng thái hài hòa như lạc thọ của thánh đạo và thánh quả.
Hoặc, như một giải thích khác (cho phần hiện tại): Sau khi phân tích
sáu mươi hai quan điểm suy đoán theo các nhân đặc biệt, lời dạy hiện tại
giờ đây được xác chứng để chỉ nhân phổ thông; vì thọ, vô minh và ái là
những nhân chung cho tất cả các tà kiến. Lời tuyên bố rằng ngã và thế giới
là thường hằng, được thực hiện bởi những người không biết và không thấy
như thực ba loại thọ-lạc, khổ và xả-như là đau khổ, gai nhọn và vô thường.
Họ không biết và không thấy tất cả thọ không có loại trừ dưới dạng sự sinh
khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự ly thoát. Bởi vì nó sinh
khởi qua sự khao khát lạc, v.v… trong những người mà, qua sự hệ lụy trong
ái, bị "Chìm đắm trong ái", lời tuyên bố này chỉ là sự khuynh đảo và xao
xuyến của các tà kiến do sự giao động của ái gây nên.
DO DUYÊN XÚC
118. ĐÓ LÀ DO DUYÊN XÚC
A: Lời dạy này được xác
chứng để chỉ sự kế tục của các duyên. Do câu này bậc Đạo sư chỉ rằng vị
ngọt, lạc hoặc cảm thọ về các tà kiến theo đó những sa-môn và bà-la-môn
này hân hoan tuyên bố ngã và thế giới là thường hằng, là sự khuynh đảo của
ái và các tà kiến, một cảm thọ do duyên xúc.
Ṭī: "Sự kế tục của các duyên": lời dạy này được xác chứng để
vạch ra sự kế tục của các duyên như vầy: "Những quan điểm suy đoán này
phát sanh do sự giao động của ái. Ái do duyên thọ và thọ do duyên xúc."
(Nếu thế, mục đích của việc chỉ sự kế tục của các duyên là gì? Mục đích
là để truyền đạt sự sai khác về ý nghĩa, như vầy: ) Y như sự diễn đạt về
tà kiến và các pháp do duyên tà kiến, chỉ phát sanh qua các duyên tương
ứng và không phát sanh khi không có chúng, cũng vậy các pháp mà nhà lý
thuyết tuyên bố, tức là sắc, thọ, v.v… (chỉ phát sanh qua các duyên và
không phát sanh khi không có chúng). Không có ngã hoặc thế giới thường
hằng gì cả được tìm thấy ở đây (Ý nghĩa là "Sự khuynh đảo của ái và các tà
kiến", tức là, thọ có chức năng làm duyên cho ái, lần lượt có chức năng
làm nhân cho tà kiến-thọ đó do duyên xuc.
HỌ CÓ THỂ KINH NGHIỆM CẢM THỌ ĐÓ KHÔNG CÓ XÚC –TRƯỜNG HỢP NHƯ THẾ KHÔNG
THỂ XẢY RA
A: Phát biểu này chỉ sức mạnh của duyên (tức là của xúc)
đối với cảm thọ về các tà kiến. Y như một cột trụ là duyên mạnh để chống
đỡ căn nhà xiêu vẹo, nếu không nó sẽ sụp đổ, cũng vậy xúc cũng là một
duyên mạnh cho thọ và không có xúc sẽ không có "Cảm thọ về các tà kiến".
"Sức mạnh của duyên": đôi khi thọ phát sanh không có nhãn xứ v.v… và
không có một số pháp đồng sinh, nhưng nó không bao giờ có thể phát sanh
không có xúc; do vậy xúc là một nhân mạnh cho thọ. Vì nếu một đối tượng
giác quan ở trong tầm nhận thức, nhưng tâm sanh không tiếp xúc đối tượng,
nó sẽ không trở thành cảnh duyên cho tâm. Do vậy xúc là một duyên đặc biệt
cho tất cả các pháp đồng sinh. Do vậy, khi Thế Tôn phân tích một tâm sanh
(trong pháp tụ), Ngài nêu ra xúc trước. Nhưng nó là nền tảng đặc biệt cho
thọ.
144. TẤT CẢ NHỮNG SA-MÔN VÀ BÀ-LA-MÔN KIA KINH NGHIỆM NHỮNG CẢM THỌ NÀY
CHỈ DO CÁC XÚC CHẠM THƯỜNG XUYÊN QUA SÁU XÚC XỨ.
A: Trong đoạn văn hiện tại, Thế Tôn tổng hợp "Các cảm
thọ về các tà kiến". Tại sao? Để trình bày chúng một lần nữa với xúc. Bằng
cách nào? Do lời phát biểu: "Tất cả những sa-môn và bà-la-môn này kinh
nghiệm những cảm thọ này chỉ do các xúc chạm thường xuyên qua sáu xúc xứ".
Sáu xúc xứ là: mắt là một xúc xứ; tai, mũi, lưỡi, thân và ý là các xúc xứ.
Từ "Xứ" (āyatana) xuất hiện trong các kinh văn với bốn nghĩa:
1) nơi xuất xứ (sañjāti);
2) nơi tụ họp (samosaraṇa);
3) nhân (kārana); và
4) một định danh về nơi chốn (paṇṇattimatta).
(1) Trong câu: "Kamboja là nơi xuất xứ loài ngựa, phương nam là
nơi xuất xứ bò", nó chỉ nơi xuất xứ.
(2) "Loài chm lui tới nơi tụ hợp vui vẻ đó", ở đây chỉ nơi tụp hợp.
(3) "Khi có một nhân (để đắc thiền)", ở đây nó chỉ nhân.
(4) "Họ sống nơi các chòi tranh trong một khu rừng", ở đây nó chỉ một
định danh về nơi chốn.
Trong trường hợp hiện tại, ba nghĩa đầu tiên ứng dụng. Vì ngũ bộ xúc
(tâm, thọ, tưởng, hành và xúc) sinh khởi và hội tụ nơi các căn giác quan,
và những cái sau này là nhân của nó; do vậy chúng được gọi là "Xứ". Ở đây,
các xúc xứ, v.v… được đề cập để chỉ sự kế tục của các duyên, khiến xúc làm
điểm khởi đầu và sắp xếp lời dạy dưới tiêu đề xúc theo phương pháp của
đoạn văn sau đây: "Dựa vào mắt và các sắc, nhãn thức sinh. Sự gặp gỡ của
ba là xúc", v.v…
Ṭī: "Trình bày thọ với xúc" nghĩa là chỉ vai trò làm duyên của
xúc như vầy: "Kinh nghiệm của sáu đối tượng qua sáu nội xứ phát sanh cố
định do duyên của sáu loại xúc".
"Sự gặp gỡ của ba": xúc được hiểu như là sự gặp gỡ của ba yếu tố-đối
tượng, căn và thức. Như vậy nó có sự kết hợp làm sự biểu lộ của nó.
"Theo phương pháp của đoạn văn sau đây": mặc dù các pháp đồng sinh khác
(như tưởng) cũng được tìm thấy, trong kinh văn trích dẫn lời dạy được
thành lập dưới tiêu đề xúc để chỉ xúc là nhân chính cho tọ. Cũng vậy, ở
đây trong kinh Phạm Võng, khi nêu ra rằng: "Do sự xúc chạm thường xuyên
qua sáu xúc xứ", xúc dùng làm khởi điểm của sự liên kết bắt đầu "Với xúc
làm duyên, thọ", v.v…, để chỉ sự kế tục của các duyên dưới giáo lý duyên
khởi khi mở rộng trong tương lai.
A: Mặc dù phát biểu "Do sự xúc chạm thường xuyên qua sáu xúc
xứ" cho ấn tượng rằng chính sáu xứ thực hiện chức năng của xúc, đây là một
phán đoán sai lạc. Vì không phải các xứ tiếp xúc đối tượng; đúng hơn chính
xúc tiếp xúc các đối tượng. Các xúc được chỉ như là kết hợp trong xúc. Do
vậy, nghĩa của đoạn văn hiện tại nên được hiểu như vầy: "Tất cả những
sa-môn và bà-la-môn này kinh nghiệm cảm thọ về các tà kiến do sự xúc chạm
các đối tượng như sắc xứ, v.v… nhờ xúc sinh khởi qua sáu xúc xứ".
Ṭī: "Chính xúc tiếp xúc các đối tượng": xúc, mặc dù là một pháp
vô sắc, phát sanh như thể xúc chạm, tức là, nó phát sanh theo cách xúc
chạm mà không có bám vào đối tượng ở bất cứ khía cạnh nào. Do đó có lời
rằng: "Xúc có sự xúc chạm như là đặc điểm (tướng) của nó, biểu hiện tiếp
xúc là chức năng (sự) của nó. Chính các xứ không thực hiện chức năng tiếp
xúc, nhưng chúng được chỉ như là có chức năng này do cách diễn đạt thuộc
ngữ, như khi người ta đề cập: "Các giường phát ra tiếng". Chúng được "Kết
hợp trong xúc", bao gồm trong xúc, được thành lập về mặt ẩn dụ trong vai
trò của xúc. Vì một phép ẩn dụ chỉ là lối diễn đạt suông và không phải là
căn bản để suy ra ý nghĩa.
VỚI THỌ LÀM DUYÊN, ÁI SINH
A: "Thọ" ở đây là cảm thọ
sinh khởi qua sáu xúc xứ. Nó là một duyên cho ái-được phân thành sắc ái,
v.v… - dưới tiêu ngữ (koṭi) [*] thân y duyên. Do vậy có lời rằng:
"Với thọ làm duyên, ái sinh". Ái lần lượt là một duyên cho bốn loại thủ
dưới tiêu ngữ thân y duyên và đồng sinh duyên. Thủ là một duyên cho hữu
bằng cách tương tự. Hữu là một duyên cho sanh dưới tiêu ngữ thân y duyên.
"Sanh" ở đây là năm uẩn cùng với những biến dịch của chúng. Sanh là một
duyên cho già và chết, và cho sầu, v.v…, dưới tiêu ngữ thân y duyên. Đây
là một giải thích tóm tắt. Giải thích chi tiết có thể được tìm thấy trong
phần luận đề về duyên khởi của bộ Visuddhimagga. Nhưng những gì
được nêu ra nơi đây là đủ.
[*] Từ "koṭi", ở đây dịch là "tiêu ngữ", đựơc dùng một cách chuyên
môn trong văn chương chú giải Pāli để chỉ rằng thuật ngữ đó là phần
chính của một nhóm yếu tố.
Ṭī: Nói chung thọ có sáu loại bằng cách của sáu loại xúc
mà có chức năng như là các duyên tương ứng của nó: tức là, thọ do nhãn xúc
sanh, cho đến theo do ý xúc sanh. Một cách chi tiết, nó được chia thành
một trăm lẻ tám loại theo một trăm lẻ tám phương pháp.
Sā: Một trăm lẻ tám loại suy ra như vầy: thọ trở thành sáu phần
theo xúc. Những phần này chia mỗi thứ thành ba loại theo đối tượng quan
sát (tốt, xấu hoặc không tốt không xấu) và mười tám loại này chia thành
hai dựa vào cảnh (một đối tượng bên trong hoặc bên ngoài). Cuối cùng mỗi
phần trong ba mươi sáu loại này chia thành ba theo thời gian-quá khứ, hiện
tại, tương lai.
Những người trú ở Mahā vihāra (Anurādhapura) nói rằng như
thức, danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ được bao gồm trong một tương tục, như
là duyên hoặc phát sanh do duyên nên được nhận thức chỉ là quả (trong ngữ
cảnh của lý duyên khởi). Tuy nhiên những người khác nói rằng bất cứ khi
nào xúc và thọ có chức năng như một duyên, bằng một cách này hoặc cách nọ,
chúng không thể được bao gồm, vì vậy tất cả xúc và thọ nên được nhận thức
(được bao gồm dưới dạng "Xúc" và "Thọ" trong lý duyên khởi).
Ṭī: Nói chung, ái có sáu loại: sắc ái, v.v… cho đến pháp ái.
Một cách chi tiết, nó có một trăm lẻ tám loại.
"Dưới tiêu ngữ thân y duyên (liên kết thọ với ái)".. Hỏi: Tại sao chỉ
một mình thân y duyên được nêu ra ở đây? Phải chăng lạc thọ và xả thọ là
các duyên cho ái theo bốn cách: bằng cách của cảnh duyên, cảnh trưởng
duyên, cảnh thân y duyên và thường thân y duyên? Và phải chăng khổ thọ là
một duyên theo hai cách: bằng cách của cảnh duyên và thường thân y duyên?
Đáp: Đây là thật. Nhưng tất cả cả các duyên đã được bao gồm trong thân
y duyên.
Hỏi: Bao gồm cảnh thân y duyên trong thân y duyên là đúng, vì cả hai có
bản chất chung của thân y duyên. Nhưng làm sao cảnh duyên và cảnh trưởng
duyên được bao gồm trong đó?
Đáp: Bởi vì chúng được bao gồm trong cảnh thân y duyên, vì tất cả chúng
có bản chất chung của cảnh. Nhưng chúng không được bao gồm trong thường
thân y duyên. Để diễn tả sự kiện được đề cập trước, chú giải không nói đơn
giản rằng thọ là một thân y duyên, nhưng nó là một duyên dưới tiêu ngữ
thân y duyên.
"Ái là một duyên cho bốn loại thủ": tức là, cho dục thủ, kiến thủ, giới
cấm thủ và ngã luận thủ (thủ đối với lý thuyết về ngã).
Hỏi: Phải chăng chính ái tương tự như dục thủ? (Nếu thế, làm sao một
pháp có thể là một duyên cho chính nó?)
Đáp: Đây là thật. Nhưng người ta có thể hiểu sự phân biệt giữa chúng
như sau: Trong ngữ cảnh hiện tại, ái yếu được biết là chính ái và ái mạnh
là dục thủ. Hoặc, ái là khao khát một đối tượng chưa được chiếm hữu, như
tên trộm vươn tay ra trong bóng tối; thủ là tóm lấy đối tượng mà người ta
đã tìm được, như tên trộm nắm chặt châu báu trong tay. Ái đối nghịch với
thiểu dục, thủ đối nghịch với tri túc. Ái là gốc của đau khổ bao gồm trong
việc tầm cầu những gì người ta cần, thủ là gốc của đau khổ bao gồm trong
việc gìn giữ những sở hữu của mình.
Sā: Đây là những phân biệt mà pháp sư Dhammapāla chỉ
bằng cách nhờ đến những giải thích của các bậc thầy. Nhưng giải thích
chính thống, như được nêu ra trong Visuddhimagga, rằng ái trước (=
ái) là một duyên cho ái sau (= dục thủ), vì hữu trở nên vững chắc bởi ảnh
hưởng của ái trước, có vai trò như là thân y duyên của nó.
Ṭī: Ái là một duyên cho thủ không đồng sinh dưới tiêu ngữ thân
y duyên; vì thủ đồng sinh dưới tiêu ngữ đồng sinh duyên [*]. Ở đây, ái là
một duyên cho thủ vô gián như vô gián duyên, đẳng vô gián duyên, vô gián
thân y duyên, vô hữu duyên, ly duyên và tập hành duyên; đối với thủ không
vô gián là một thân y duyên, hoặc như một cảnh duyên. Khi nó trở thành đối
tượng của thủ, như cảnh trưởng duyên, cảnh thân y duyên hoặc như một cảnh
duyên. Khi nó được nêu ra "Dưới tiêu ngữ của thân y duyên", tất cả trong
đó được bao gồm trong thân y duyên. Vì một người qua ái, tìm thấy vị ngọt
của sắc xứ, v.v… muốn thỏa khát vọng đối với dục thủ, ái là thân y duyên
cho dục thủ. Vì một người bị bấn loạn quanh các sắc xứ v.v… nắm lấy tà
kiến rằng "Không có (quả của) bố thí", v.v… , trong khi có người muốn giải
thoát luân hồi nắm lấy phi đạo thanh tịnh là đạo, hoặc chấp giữ một thân
kiến, ngộ nhận làm ngã và sở hữu của ngã trong năm uẩn, ái cũng là thân y
duyên cho ba loại thủ kia và cuối cùng ái là một duyên cho thủ đồng sinh
bằng cách của đồng sinh duyên, hỗ tương duyên, y duyên, tương ưng duyên,
hiện hữu duyên, bất ly duyên và nhân duyên. Tất cả vấn đề này được bao hàm
khi nó được nói "Dưới tiêu ngữ đồng sinh".
[*] Vì ái là cùng sở hữu như dục thủ, ái không bao giờ có th làm
duyên đồng thời cho thủ như một đồng sinh duyên, nhưng chỉ qua một
khoảng cách thời gian, như một thân y duyên. Nhưng vì ba loại thủ kia
đưa đến sở hữu tà kiến, mà có thể cùng tồn tại với ái, ái có thể là một
thân y duyên hoặc một đồng sinh duyên cho ba loại này.
"Thủ là một duyên cho hữu bằng cách tương tự": tức là, dưới tiêu ngữ
thân y duyên và đồng sinh duyên. "Hữu" là nghiệp hữu và sanh hữu. Ở đây,
"Nghiệp hữu" là tất cả nghiệp mà dẫn đến hữu, tức là tư (cetanā) và
các sở hữu đồng sinh của nó. "Sanh hữu" thuộc về chín hữu [*]. Tứ thủ là
một duyên cho sanh hữu như một thường thân y duyên, vì nó là nhân và sở
hữu đồng sinh của nghiệp hữu, mà lần lượt là nhân của sanh hữu. Nhưng ở
một thời gian khi nghiệp được lấy làm đối tượng, dục thủ đồng sinh với
nghiệp trở thành một cảnh duyên cho sanh hữu [**]. Thủ đồng sinh là một
duyên cho nghiệp hữu đồng sinh bằng nhiều cách: như đồng sinh duyên, hỗ
tương duyên, y chỉ duyên, tương ưng duyên, hiện hữu duyên và bất luy
duyên, cũng làm nhân duyên và đạo duyên. Đối với nghiệp hữu không đồng
sinh (và vô gián), thủ là vô gián duyên, đẳng vô gián duyên, vô gián thân
y duyên, vô hữu duyên, bất ly duyên và tập hành duyênp dối với duyên không
vô gián nó là thường thân y duyên. Vào những lúc tuệ quá, v.v… nó là một
cảnh duyên. Sau khi kết hợp vô gián duyên, v.v.. trong thân y duyên và
đồng sinh duyên, v.v… trong đồng sinh duyên, nó được nêu ra "Dưới tiêu ngữ
thân y duyên và đồng sinh duyên".
[*] Chín hữu: Theo ba phương pháp phân chia sau đây:
1. Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
2. Ngũ uẩn hữu, nhất uẩn hữu và tứ uẩn hữu.
3. Hữu tưởng hữu, vô tưởng hữu và phi tưởng phi phi tưởng hữu.
[**] Điều này ám chỉ đến tiến trình tương tục giữa các đời sống,
khi một nghiệp trước trở thành đối tượng của lộ tâm cuối trước khi chết,
và kế đó trở thành đối tượng của thức tục sinh trong đời sống kế.
"Hữu là một duyên cho sanh": ở đây, nó chỉ là nghiệp hữu, không phải
sanh hữu. Nghiệp hữu đó là một duyên cho sanh. Sanh hữu là sanh, vì sanh
nằm trong các uẩn được tạo ra đầu tiên ở sát na tục sinh tiên khởi. Do vậy
có lời rằng: "Sanh" ở đây là năm uẩn cùng với nhữnb biến dịch của chúng".
Cụm từ "Với những biến dịch của chúng: nghĩa là: với những thay đổi của
chúng do sự thay đổi của việc tạo tác. Nhữnguẩn đó chính là sanh hữu, hó
không thể là nhân riêng của nó. Nghiệp hữu là một nhân duyên cho sanh hữu
(tức là cho sanh) như một nghiệp duyên và thân y duyên. Do vậy nhà chú
giải nói: "Hữu là một duyên cho sanh dưới tiêu ngữ thân y duyên". Vì già
và chết chỉ phát sanh khi có sanh, không phải khi sanh vắng mặt và vì sầu,
v.v… phát sanh trong một kẻ ngu bị dằn vặt bởi già và chết, v.v… sanh là
duyên cho già và chết, v.v….
A: Khi phân giải về luân chuyển, đôi khi Thế Tôn biện luận nó
dưới tiêu đề vô minh, như khi Ngài thuyết: "Không có khởi điểm của vô minh
có thể được thấy rõ, trước đó không có vô minh và sau đó nó phát sanh. Chū
tỳ-kheo, mặc dù nói thế, người ta có thể thấy rõ rằng vô minh có một duyên
đặc biệt (Angut). Đôi khi Ngài biện luận nó dưới tiêu đề ái: "Không
có khởi điểm của hữu ái có thể được thấy rõ, v.v… vì vậy hữu ái có một
duyên đặc biệt" (AN). Đôi khi Ngài biện luận nó dưới tiêu đề hữu kiến
(Bhavadiṭṭhi): "Không có khởi điểm của hữu kiến có thể được thấy rõ,
v.v… do vậy hữu kiến có một duyên đặc biệt. Ở đây, Ngài thuyết minh nó
dưới tiêu đề các tà kiến. Sau khi giải thích trước tiên các kiến mà phát
sanh qua tham ái đối với cảm thọ, Ngài thuyết minh duyên khởi như là có
gốc trong cảm thọ. Bằng cách này Ngài chỉ: "Những nhà lý thuyết này, chấp
thủ các tà kiến, luân hồi đó đây xuôi ngược, qua ba cõi, bốn cách sinh
khởi, năm sanh thú, bảy thức xứ và chín trú địa của chúng sanh. Như con bò
bị buộc vào ách, như một con chó bị xích vào cây cột, hoặc như một con tàu
bị cuốn hút trong bão táp, họ xoay chuyển trong bánh xe đau khổ và thậm
chí không thể ngóc đầu lên khỏi vòng luân chuyển."
Sā: Trong đoạn văn này, nhà chú giải chỉ nguyên do, cùng với
những trích dẫn, tại sao Thế Tôn thuyết minh duyên khởi trong kinh văn chỉ
bằng một phần, cho biết làm sao cảm thọ trở thành nhân cho các tà kiến.
Bằng cách ấy nhà chú giải nêu ra ý nghĩa như sau: "Thế Tôn phân tích về
luân chuyển, thuyết minh nó dưới một trong ba tiêu đề-vô minh, ái hoặc
kiến, Ngài giải thích duyên khởi bằng một phần riêng có gốc trong cảm thọ
để chỉ rằng họ là một nhân mạnh cho các tà kiến".
"Không có khởi điểm của vô minh có thể được thấy rõ": tức là, "Bởi vì
không có cương giới khởi đầu tồn tại, ngay cả tuệ toàn tri của Như Lai
cũng không thể biết rõ một cương giới đầu tiên của vô minh trong ấy nó có
thể được nói: "Vô minh đầu tiên phát sanh vào một thời gian của một bậc
toàn giác như thế như thế, hoặc của một chuyển luân vương như thế như thế.
Nó không tồn tại trước đó". Phải thừa nhận rằng, vô minh được nói là không
có một cương giới ban đầu. "Tuy nhiên", dù nói nó không có một cương giới
ban đầu dưới dạng xác định thời gian, "Vô minh có một duyên đặc biệt", tức
là, vô minh phát sinh với năm triền cái như là duyên của nó. Do vậy, khởi
điểm của vô minh có thể được biết rõ dưới dạng quy luật của các pháp
(dhammaniỳamena). Vì trong cùng kinh văn có nêu ra: "Vật thực cho vô
minh là gì? Lời giải là: năm triền cái."
"Hữu ái": ái có chức năng như là kiết sử của hữu. Duyên đặc biệt của
hnó là vô minh. Như kinh văn cho biết: "Vật thực cho hữu ái là gi? Lời
giải là: vô minh".
"Hữu kiến": thường kiến. Duyên đặc biệt của nó là cảm thọ.
Hỏi: Phải chăng các tà kiến đã được thuyết minh? Thế thì giải thích về
duyên khởi này sử dụng vào mục đích gì?
Đáp: Giải thích rõ về duyên khởi theo thứ lớp là giải thích về luân
chuyển. Nhờ sự thuyết minh này Thế Tôn chỉ rằng bao lâu mà những nhà lý
thuyết này không từ bỏ tà kiến của họ, họ vẫn bị lôi cuốn triền miên trong
tương tục duyên và bị dìm mãi trong vòng luân chuyển.
SỰ CHẤM DỨT LUÂN CHUYỂN
145. KHI MỘT TỲ KHEO HIỂU NHƯ THỰC SỰ SINH KHỞI VÀ SỰ DIỆT TẬN CỦA SÁU
XÚC XỨ, VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ THOÁT LY CHÚNG, LÚC ĐÓ VỊ ẤY HIỂU
NHỮNG GÌ VƯỢT XA TẤT CẢ NHỮNG QUAN ĐIỂM NÀY.
A: Sau khi thuyết minh luân
chuyển dưới hình thức những nhà lý thuyết, bây giờ Thế Tôn chỉ sự chấm dứt
luân chuyển, diễn tả nó dưới hình thức một tỳ-kheo…
"Sáu xúc xứ": cùng sáu xúc xứ như những xúc xứ theo đó những nhà lý
thuyết, kinh nghiệm các cảm thọ do nhờ xúc, quay cuồng trong luân chuyển.
Sư sinh khởi, v.v… của sáu xúc xứ nên được hiểu theo phương pháp được dạy
trong đề mục thiền về thọ, như vầy: "Qua sự sinh khởi của vô minh, mắt
sinh khởi", v.v… Nhưng trong khi ở trên có nêu ra rằng thọ sinh và diệt
qua sự sinh diệt của xúc. Ở đây nên chú ý rằng mắt và các xứ vật lý khác
sinh và diệt qua sự sinh diệt của vật thực. Nhưng ý xứ sinh và diệt qua sự
sinh diệt của danh sắc.
Ṭī: "Vật thực" là đoàn thực. Vì đoàn thực là một duyên, như vật
thực duyên cho thân này, bồi bổ (các xứ vật lý như mắt). Các xứ này gọi là
sắc thần kinh do nghiệp quá khứ sanh và được đoàn thực hiện tại duy trì,
phát triển.
A: "Vị ấy hiểu những gì vượt xa tất cả những quan điểm này":
nhà lý thuyết chỉ biết quan điểm của vị ấy, nhưng tỳ-kheo này hiểu những
quan điểm của nhà lý thuyết và cũng hiểu những gì vượt xa những quan điểm
đó, tức là giới, định, tuệ và giải thoát đưa đến tột đỉnh trong đạo quả
A-la-hán. Ai hiểu điều này? Bậc thánh vô lậu hiểu, bất lai, nhất lai, dự
lưu, vị tỳ-kheo đa văn về kinh điển và vị tỳ-kheo có tuệ quán. Nhưng đỉnh
cao của lời dạy cô đọng ở đạo quả A-la-hán.
Ṭī: Mặc dù bậc dự lưu, v.v… hiểu những điều này như thực, lời
dạy dừng lại ở đỉnh cao của nó trong đạo quả A-la-hán để chỉ sự tối thượng
của A-la-hán tuệ. Do đạon kinh văn trên, Thế Tôn chỉ tính cách giải thoát
của Pháp cùng với sự thục hành chánh đạo của Tăng. Khi chú giải hỏi: "Ai
hiểu?", đáp: "Bậc thánh vô lậu, v.v…". Tỳ khưu Tăng được chỉ.
146. TẤT CẢ BỊ KẸT TRONG LƯỚI NÀY VỚI SÁU MƯƠI HAI TRƯỜNG HỢP. BẤT CỨ
KHI NÀO HỌ TRỒI LÊN, HỌ TRỒI LÊN BỊ TÓM TRONG LƯỚI NÀY, BỊ KẸT VÀ NẰM GỌN
NGAY TRONG LƯỚI NÀY.
A: Sau khi thuyết minh sự chấm dứt của luân chuyển, bây
giờ Thế Tôn trình bày câu trên để chỉ rằng không có nhà lý thuyết nào
thoát khỏi lưới của giáo lý này.
"Bất cứ khi nào họ trồi lên, v.v…". Nghĩa là: :"Bất cứ khi nào họ chìm
xuống hoặc nổi lên, họ chìm và nổi bị tóm trong lưới của giáo lý này, nằm
gọn trong lưới của giáo lý này. Không có nhà lý thuyết nào không được bao
gồm trong ấy."
Ṭī: "Chìm xuống" bằng cách tái sanh trong khổ cảnh, "Nổi lên"
bằng cách tái sanh vào nhàn cảnh. Hai thuật ngữ có thể đựơc giải thích
bằng cách của một cõi giới hạn và một cõi cao thượng, bằng cách kẹt cứng
và đi quá đà, và bằng cách của những quan điểm suy đoán về quá khứ và
tương lai.
A: Dùng tỷ dụ người đánh cá với nghĩa: Thế Tôn giống như người
đánh cá; lời dạy giống như lưới; mười ngàn thế giới giống như hồ nước nhỏ;
những nhà lý thuyết giống như những sinh vật lớn. Y như người đánh cá,
đứng trên bờ quan sát cái lưới, thấy tất cả sinh vật lớn bị kẹt trong
lưới, cũng vậy Thế Tôn thấy tất cả những sinh vật lớn bị kẹt trong lưới,
cũng vậy Thế Tôn thấy tất cả những nhà lý thuyết bị tóm trong lưới của
giáo lý này.
147. CHƯ TỲ KHEO, THÂN CỦA NHƯ LAI TỒN TẠI, BỊ CẮT ĐỨT KHỎI NHỮNG RÀNG
BUỘC CỦA HỮU ÁI. CHỪNG NÀO THÂN CỦA NGÀI CÒN, CÁC TRỜI VÀ NGƯỜI CÒN THẤY
NGÀI. NHƯNG VỚI SỰ DIỆT CỦA THÂN VÀ SỰ CHẤM DỨT MẠNG CĂN, CÁC TRỜI-NGƯỜI
SẼ KHÔNG THẤY NGÀI NỮA.
A: Sau khi chỉ rằng những quan điểm của những nhà lý
thuyết đều được bao gồm trong sáu mươi hai quan điểm này, tất cả những nhà
lý thuyết được bao gồm trong lưới của lời dạy này, Thế Tôn phát biểu câu
trên để chỉ rằng chính Ngài không bị tóm bắt ở bất cứ nơi nào cả.
"Những ràng buộc của hữu ái": đây là tên chỉ một sợi dây mà người ta
lôi một con thú đi sau khi buộc quanh cổ nó. Nơi đây chính là hữu ái được
ngụ ý bởi từ "Ràng buộc", vì ái như thế tương tự với sự ràng buộc. Hữu ái
buộc quanh cổ của vô số hữu tình, lôi và kéo họ đến cõi này cõi nọ. Nhưng
đối với Như Lai, "Sự ràng buộc của hữu ái" đã bị cắt đứt với lưỡi gươm của
A-la-hán đạo tuệ; như vậy thân của Như Lai tồn tại bị cắt đứt khỏi những
ràng buộc của hữu ái."
"Sự chấm dứt mạng căn": khi Như Lai đã chứng trạng thái không còn tục
sinh nữa. "Trời và người sẽ không còn thấy Ngài": Như Lai sẽ đạt đến trạng
thái tuyệt đối (không thể diễn tả được).
Sā: "Chính Ngài không bị tóm bắt bất cứ nơi nào cả": qua sự
thiện xảo trong lời dạy, Như Lai chỉ rằng chính Ngài không bị giam giữ bất
cứ nơi nào trong tam giới-là trú địa cho những nhà lý thuyết nổi lên và
chìm xuống.
"Trạng thái tuyệt đối": Trạng thái mà Ngài không thể diễn tả bằng bất
cứ ngôn từ chế định nào tồn tại trên đời. Nhưng về vấn đề quá khứ, định
danh "Như Lai" tiếp tục cho đến khi giáo pháp tiêu hoại, thậm chí xa hơn
nữa, đến những thời khi chư Phật khác sanh ở đời như hiện thời từ Như Lai
được dùng liên quan đến Đức Phật Vipassi, v.v…
"Thân" (kāya): cá thể, tức là sự kết hợp của các sắc pháp và vô
sắc pháp.
A: Dùng tỷ dụ cây xoài với nghĩa: Thân của Như Lai giống như
cây xoài. Ái phát sanh trong quá khứ, dựa vào thân đó giống như cuống lớn
mọc trên cây. Giống như chùm xoài gắn liền với cuống, gồm có năm, mười hai
hoặc mười tám quả, tức là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới liên kết với
ái. Thân này sẽ sinh khởi trong tương lai nếu ái tiếp tục tồn tại. Nhưng y
như, khi cuống bị cắt đứt, tất cả những quả xoài kia sẽ rới cùng lúc với
cuống, cũng vậy tất cả các pháp kia-năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới-ắt
hẳn phát sanh trong tương lai nếu cuống của hữu ái không bị cắt đứt, tất
cả sẽ theo sát và tồn tại cùng lúc với hữu ái; khi cuống bị cắt đứt, chúng
cũng bị cắt đứt.
Khi cây héo dần và chết do tiếp xúc với loại gai độc Maṇḍuka,
không ai thấy cây nữa, nhưng người đời nói: "Trong nơi này, một cây như
thế đó tồn tại", dùng từ "Cây" như một thành ngữ. Cũng vậy, khi thân của
Như Lai đối diện với thánh đạo, bị héo dần và bị diệt qua sự khô cạn năng
lực của ái, với sự diệt thân và sự chấm dứt mạng căn trời và người sẽ
không thấy Như Lai nữa. Khi người đời nói: "Đây là giáo pháp của một đạo
sư như thế đó", (từ Như Lai) sẽ là một thành ngữ. Như vậy Thế Tôn đúc kết
lời dạy bằng cách đưa đến một cao điểm với vô dư Niết-bàn giới.
148.
A: Khi Thế Tôn đã thuyết xong kinh này, đức Ànanda lắng nghe
toàn thể kinh từ đầu đến cuối, đã nghĩ: "Thế Tôn đang hiển bày Phật lực,
không đặt một tựa cho kinh vừa thuyết minh. Thế thì ta hãy thỉnh cầu Ngài
cho một tựa." Do vậy, đức Ànanda thưa với Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, của
thiên khái luận về pháp này là gì?"
ĀNANDA, NGƯƠI CÓ THỂ NHỚ THIÊN KHÁI LUẬN VỀ PHÁP NÀY LÀ LƯỚI LỢI ÍCH,
LƯỚI CHÂN LÝ, LƯỚI CAO THƯỢNG, LƯỚI QUAN ĐIỂM. NGƯƠI CŨNG CÓ THỂ NHỚ NÓ LÀ
KHÚC VÔ THƯỢNG KHẢI HOÀN.
A: Đây là ý nghĩa: bởi vì lợi ích thuộc về đời này và
đời sau đã đựơc phân tích trong thiên khái luận về pháp này nên có tựa là
Lưới Lợi Ích (Atthajāla). Nhiều dòng pháp đã được thuyết minh ở đây
nên có tựa là Lưới ChânLý (Dhammajāla). Tuệ toàn tri, gọi là "Brahma"
trong nghĩa cao thuợng, đã được phân tích ở đây nên có tựa là Lưới Cao
Thượng (Brahmajāla). Sáu muơi hai tà kiến đã được phân tích ở đây
nên có tựa là Lưới Quan Điểm (Diṭṭhijāla). Sau khi nghe khái luận
này người ta có khả năng đánh bại Ma vương-tức là thiên ma, ngũ uẩn ma, tử
thần ma, phiền não ma[*] - do vậy, thiên khái luận này có tựa là Khúc Vô
Thượng Khải Hoàn (Anuttarasaṅgāmavijaya).
[*] (Lời người dịch) chỉ có bốn loại ma trong nguyên bản.
Ṭī: Một phương pháp giải thích khác như sau: Atthajāla
là "Lưới Ý Nghĩa" bởi vì nó toàn hảo về ý nghĩa. Dhammajāla là
"Lưới Chân Lý" bởivì nó toàn hảo về sự diễn đạt (ý nghĩa) và bởi vì nó
thuyết minh các pháp vô tội như giới, v.v…. Brahmajāla là "Lưới Cao
Thượng" bởi vì nó phân tích các đạo, các quả và Niết-bàn. Nó được gọi là
"Brahma" trong nghĩa cao thượng. Diṭṭhijāla là "Lưới Quan Điểm" bởi
vì nó giải rõ chánh kiến bằng cách làm sáng tỏ không tính qua sự bác bỏ
các tà kiến. Nó là "Khúc Vô Thượng Khải Hoàn" bởi vì nó cung cấp phương
tiện để đánh bại những lý thuyết của các nhà tà giáo.
149. THẾ TÔN ĐÃ THUYẾT NHƯ VẬY
A: Khi thuyết toàn thể kinh này từ phần mở đầu cho đến
những dòng kết thúc, "Khúc Vô Thượng Khải Hoàn", Thế Tôn đã hiển lộ tuệ
toàn tri thậm thâm của Ngài và không có trí tuệ của bất cứ nhân vật nào
len vào được. Ngài đã vẹt tan bóng đen dày đặc của những quan điểm suy
đoán y như mặt trời vẹt tan màn đêm tăm tối.
TRONG KHI THẾ TÔN VỪA THUYẾT XONG THIÊN KHÁI LUẬN NÀY THÌ MƯỜI NGÀN THẾ
GIỚI CHUYỂN ĐỘNG.
A: "Mười ngàn thế giới": một thế gian giới
(lokadhātu) gồm có mười ngàn sa bà thế giới (cakkavāla). Không
nên nghĩ rằng thế gian giới chỉ chuyển động khi kết thúc kinh này. Vì có
lời rằng: "Trong khi Thế Tôn vừa thuyết xong kinh này (một hiện tại phân
từ). Vì vậy nên hiểu rằng trong khi sáu mươi hai quan điểm suy đoán này
đang được dạy và làm sáng tỏ, thế gian giới chuyển động trên sáu mươi hai
trường hợp, tức là, ở phần kết luận của mỗi quan điểm trong thiên khái
luận này.
Nơi đây có tám nhân khiến địa cầu chuyển động:
1. Sự rối loạn của các đại.
2. Sự thi triển thần thông.
3. Bồ-tát giáng sanh.
4. Bồ-tát thành đạo.
5. Chuyển Pháp luân.
6. Đức Phật quyết định từ bỏ mạng căn.
7. Bát Niết-bàn.
Trong trường hợp kinh Phạm Võng, khi sáu mươi hai quan điểm suy đoán
được dạy, giải tỏa và khai thông, địa cầu chuyển động như một dấu hiệu
hoan ngênh, tán thưởng, vỗ tay.
Do vậy:
Trí giả nên thấu triệt
Nghĩa pháp kinh Phạm Võng
Do Đức Phật tuyên thuyết
Nhiều lần quả đất chuyển
Khi đã nắm toàn nghĩa
Hãy chánh tâm hành trì.
DỨT PHẦN CHÚ GIẢI
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04 |
|
Chân thành cám ơn Tỳ kheo Giác
Lộc và chị Trần Ngọc Mai đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2004)
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated: 18-01-2004