BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
|
 |
Pháp hành đưa đến
bình an
Thiền Sư U
Pandita
Tỳ khưu Pháp Luân dịch |
 |
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con xin thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Bậc A La Hán Cao Thượng, Đấng Chánh Biến Tri
[01]
Giáo Pháp và Giới Luật
Trong thời kỳ Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật còn tồn tại, tất cả
chư Tăng Ni và Cư Sĩ nên tu tập Giáo Pháp và nghiêm trì Giới Luật của Đức
Phật, để xứng đáng là người Phật tử đúng nghĩa với phẩm hạnh vẹn toàn,
cũng như hưởng được lợi lạc từ sự thực hành Giáo Pháp. Do vậy, Sư đến đây
để giúp các bạn thực hiện mục đích này. Sư rất hoan hỉ giúp những ai yêu
thích và muốn tu tập Giáo Pháp, giống như giúp người khát được uống, người
đói được ăn. Không phải ai cũng yêu thích Giáo Pháp như các bạn. Vì thế,
Sư đến đây với nhiệm vụ giúp các bạn tu tập để đạt kết quả tốt đẹp.
Theo nghĩa ngắn gọn, Giáo Pháp, Dhamma, có nghĩa là sự chỉ dạy,
sự hướng dẫn, và Giới Luật, Vinaya, là kỷ luật tu tập theo đúng
Giáo Pháp để có kết quả tốt. Bạn tu tập để có được khả năng tinh cần chánh
niệm vào những gì đang sinh khởi trong bốn lãnh vực: thân, thọ, tâm và
pháp, và biết cách vận dụng tinh tấn để hướng tâm đến đề mục một cách
chính xác. Tu tập như vậy là bạn thực hành thiền Minh Sát, có nghĩa bạn
thực hành Giáo Pháp.
Thiền Minh Sát đem lại 7 lợi lạc: (1) thanh lọc tâm trong sạch, (2)
chấm dứt lo âu phiền muộn, (3) chấm dứt uất ức than khóc, (4) diệt khổ
thân, (5) diệt khổ tâm, (6) thành tựu thánh đạo, và (7) chứng đạt Niết
Bàn.
Muốn thực hành Giáo Pháp để được các lợi lạc này cần phải có kỷ luật.
Chư Tăng phải giữ theo Luật Giới Bổn, cư sĩ phải giữ Ngũ Giới hay Bát Quan
Trai Giới. Giữ gìn như vậy có nghĩa bạn nghiêm trì Giới Luật.
Muốn chỉ dẫn người khác cần phải có cả hai tâm từ và trí tuệ. Đức Phật
có cả bai tâm Đại Từ và Trí Tuệ Toàn Giác. Nếu chỉ dẫn sai, sẽ làm cho
người thực hành có hành vi thân khẩu sai trái, thân tâm sẽ bị khổ. Với tâm
Đại Bi, Đức Phật chỉ dẫn chúng ta phải biết thu thúc những gì cần thu thúc
và giữ gìn những gì cần phải giữ gìn. Nếu tu tập theo đúng sự chỉ dẫn, sẽ
dẫn đến kết quả là hành vi và lời nói trở nên tốt đẹp, và thân tâm được an
vui. Đó chính là Giáo Pháp và Giới luật.
Thực hành đúng có nghĩa đi được đúng đường. Muốn thực hành đúng theo sự
hướng dẫn, bạn cần phải tuân theo các qui tắc cần thiết do người hướng dẫn
yêu cầu. Bạn phải hiểu rõ ràng các qui tắc để thực hành có kết
quả tốt. Sự hướng dẫn ở đây là Giáo Pháp, và qui tắc cần thiết phải tôn
trọng chính là Giới luật. Giống như khi lái xe, cần phải thông hiểu luật
giao thông, nếu không sẽ gặp tai nạn. Do vậy, nếu giữ đúng giới luật tu
tập theo đúng đường hướng chỉ dẫn, sẽ không tạo lỗi lầm qua thân khẩu. Nhờ
chính cá nhân không làm điều sai trái qua thân khẩu, nên người chung quanh
không bị đau khô. Điều quan trọng là chính mình không làm điều sai trái và
tránh làm điều sai trái. Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật, hay Phật
Pháp nói chung, Buddha Sasāna, giúp cho bạn thành đạt thân khẩu ý
trong sạch. Nhờ vậy, bạn tự bảo vệ mình, nên bạn bảo vệ cho người khác.
Đây là căn bản của sự tu tập Giáo Pháp và Giới Luật.
Các bạn cần phải phát triển tâm từ, có ý mong muốn cho mọi người được
an vui hạnh phúc. Bạn không muốn người khác đau khổ vì lỗi lầm của họ. Vì
thế, bạn có sự nhẫn nhục, tha thứ. Thà bạn chịu đựng đau khổ nhưng bạn
không làm người khác đau khổ. Đây chính là sự thể hiện của tâm bi. Do đó,
tâm từ và tâm bi rất quan trọng. Một khi phát triển được tâm từ, sẽ phát
triển được tâm bi. Vì không muốn người khác đau khổ, nên bạn không làm
điều sai trái. Như vậy, bảo vệ cho người khác là bạn bảo vệ cho chính mình
theo tinh thần "param rakkhanto attānam rakkhati", ngược lại với
"bảo vệ cho chính mình là bảo vệ cho người khác". Đây cũng là căn bản của
sự tu tập Giáo Pháp và Giới Luật.
Tu tập theo Giáo Pháp và Giới Luật không phải là ích kỷ chỉ biết cho
riêng mình. Ngược lại, bạn làm được hai điều: (1) bạn tự bảo vệ mình nên
bảo vệ cho người khác, và (2) bạn bảo vệ cho người khác nên bạn tự bảo vệ
mình. Do đó bằng sự tu tập, bạn tạo được hai điều lợi lạc. Đây là điều rất
dễ hiểu, không tốn kém, không khó khăn, không mệt nhọc chi cả. Thực hành
Giáo Pháp theo lối này, phẩm hạnh cuộc đời bạn sẽ được nâng cao. Bạn tự
giữ gìn không làm điều sai trái. Nếu giữ không làm điều sai trái, sẽ giúp
bạn hưởng được lợi lạc của sự tu tập. Theo ý nghĩa này thì Giáo Pháp và
Giới Luật không phải là hai sự thực hành riêng biệt. Cả hai được thực hành
chung với nhau.
Giáo Pháp và Giới Luật bạn thực hành ở đây không phải từ sự nghe suông,
hay biết qua sách vở, mà là do người bạn đạo, kalyāna-mitta, hướng
dẫn cả hai mặt lý thuyết và thực hành theo như những gì Đức Phật chỉ dạy.
Bắt đầu từ nghe sự chỉ dẫn và hiểu cách thực hành cho đúng, tiếp theo là
chính cá nhân thực hành thật sự. Đây là hai điều kiện bắt buộc của sự tu
tập. Phần hướng dẫn cách thực hành sẽ được nói vào đêm nay, sau đó chính
bạn thực hành. Nếu chỉ nghe hướng dẫn mà không thực hành, bạn sẽ chẳng
được lợi lạc chi. Giống như bạn có xe sẵn sàng, nhưng bạn không mở máy,
không lái xe, bạn sẽ không đi đến đâu. Cũng vậy, nếu chỉ nghe suông mà
không thực hành sẽ không cho bạn hưởng được lợi lạc. Do đó, muốn hưởng
được lợi lạc, bạn cần phải làm trọn vẹn cả hai: hiểu và hành. Nếu đi theo
đúng đường, bạn sẽ đến nơi an toàn. Nếu không thực hành đúng, sẽ không đạt
kết quả đúng. Hoài nghi, mơ mộng, sẽ không cho bạn lợi lạc. Nếu thực hành
bằng đức tin, tin tưởng vào sự hướng dẫn, tin vào pháp hành, bạn sẽ thực
chứng Giáo Pháp, hưởng được lợi lạc. Nếu tu tập đúng cách, thân khẩu ý sẽ
được cải thiện đúng đắn, đem lại lợi ích cho chính bạn. Sự tu tập của bạn
trở nên vững chải. Nhờ vậy, bạn làm cho Giáo Pháp và Giới Luật được sống
mãi, và như thế, bạn làm cho Đức Phật cũng được sống mãi.
Có thể bạn không có trở ngại trong đức tin nơi Giáo Pháp và Giới Luật
của Đức Phật, tuy nhiên có những thiền sinh khác gặp trở ngại trong đức
tin. Họ hoài nghi, phân vân, do vậy không đến được đúng nơi, vì không theo
đúng đường. Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật không dành cho người hay
tưởng tượng hoặc hay mơ mộng.
Một khi hiểu được tinh túy của Giáo Pháp và Giới Luật cùng các lợi lạc
mang lại như đã nói qua, bạn sẽ có đức tin, bạn chấp nhận, và thực hành
với tất cả nhiệt tình. Tiếp tục thực hành với nhiệt tình sẽ làm tăng
trưởng đức tin ngày thêm mạnh mẽ. Thực hành với tinh thần như vậy, Sư bảo
đảm bạn sẽ hưởng được lợi lạc. Bạn tu sửa thân khẩu ý, bạn phát triển được
tuệ minh sát đúng theo yêu cầu. Thực hành với kết quả như vậy, bạn sẽ
không còn phân biệt Giáo Pháp, Giới Luật, và người thầy hướng dẫn, như là
ba thực thể riêng biệt, trái lại chỉ có sự hợp nhất của cả ba, không còn
phân biệt riêng rẽ. Sự hợp nhất Giáo Pháp, Giới Luật và người thầy hướng
dẫn không phải là điều suy luận riêng từ cá nhân, nhưng điều này đã được
nói đến trong bài kinh Đại Niết Bàn, thuộc Trường Bộ Kinh Khi thấy Đại Đức
A Nan không giữ được sự xúc động trước sự sắp sửa ra đi của Đức Phật, Ngài
khuyên vị này như sau: "Này A Nan, Giáo Pháp và Giới Luật mà Như Lai đã
truyền lại trong suốt 45 năm qua bằng tâm Đại Từ Đại Bi và Trí Tuệ Toàn
Giác, sẽ trở thành thầy dạy của con sau khi Như Lai nhập diệt."
Do đó, trách nhiệm của các bạn là đi đúng đường, hành đúng theo Giáo
Pháp và Giới Luật, không sửa đổi hay thêm bớt, hành theo sự hướng dẫn của
thiền sư, và tôn trọng các kỷ luật cần thiết cho sự tu tập. Với đức tin
nơi Đức Phật, bạn sẽ có nhiệt tình trong sự tu tập, nhờ nhiệt tình, bạn nỗ
lực chánh niệm kịp thời các hiện tượng sinh khởi, nhờ vậy bạn bảo vệ tâm
không bị phiền não xâm nhập. Kết quả là bạn tu sửa thân khẩu ý trong sạch.
Nếu bạn thực hành với đức tin và sự kính trọng, bạn sẽ chứng nghiệm Giáo
Pháp trong vài ngày. Thấy Giáo Pháp là bạn thấy Đức Phật. Nhờ thấy Giáo
Pháp, nên bạn tin có đức Phật thực sự, tin rằng quả thật có vị Phật ra đời
ở Ấn Độ hơn 2500 về trước, với Giáo Pháp và Giới Luật của Ngài còn tồn
tại, và bây giờ chính bạn thực chứng được Giáo Pháp của Ngài.
Bằng tâm từ, bạn bắt đầu tu tập, bạn theo Giáo Pháp và Giới Luật, từ
căn bản là sự giữ giới, bạn thực hành thiền Tứ Niệm Xứ theo như được chỉ
dẫn. Nhờ vậy, bạn làm cho Giáo Pháp và Giới Luật cùng Đức Phật sống lại
trong tâm mình. Cầu mong trong suốt khóa thiền ba tuần này. bằng sự tự tin
nơi mình và bằng đức tin vào Giáo Pháp sẽ giúp bạn tu tập thành công.
-ooOoo-
[02]
Đi Đúng Đường, Đến Đúng Nơi
Sống trong thời kỳ mà Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật còn tồn tại,
điều quan trọng cho chư tăng và cư sĩ là phải tu tập để sống cuộc đời có
giá trị. Thực hành Giáo Pháp và Giới Luật của Đức Phật là sự tu tập theo
Tam Học, Giới-Định-Huệ, hay Sīla-Samādhi-pañña.
Trước nhất cần phải tu tập Giới để làm cho giới hạnh của mình được
trong sạch. Chư Tăng Ni và cư sĩ phải có Giới trong sạch, hay giới tịnh,
visuddhisīla, mới tiến đến tu tập Định và Huệ. Giữ Luật Tỳ Khưu,
hay Ngũ Giới, hay Bát Quan Trai Giới, giúp cho thân khẩu được trong sạch,
không tạo nghiệp bất thiện qua thân khẩu chẳng hạn như tránh không sát
sanh, trộm cắp v.v… chế ngự được phiền não tác động, loại phiền não ảnh
hưởng đến hành động và lời nói. Nhờ vậy bạn có sự cư xử hoà nhã khả ái. Do
đó, nhờ sự giữ giới trong sạch làm nhân, sự cư xử hoà nhã khả ái là quả.
Lợi lạc đầu tiên của sự giữ giới là bạn không tự chê trách mình. Mỗi khi
nhớ đến giới hạnh trong sạch của mình, bạn cảm thấy an vui, không cảm thấy
hối tiếc, nên không tự chê trách mình. Lợi lạc thứ hai, bạn không bị chê
trách bởi hiền nhân. Lợi lạc thứ ba là bạn không bị rắc rối bởi luật pháp
hiện hành. Lợi lạc thứ tư là bạn không tái sinh vào khổ cảnh trong kiếp
tương lai do hậu quả bất thiện nghiệp tạo qua thân khẩu. Như vậy, giới
tịnh giúp bạn sống an vui hạnh phúc trong đời này và đời sau.
Nhờ có giới, bạn trở nên người có nhân cách xứng đáng. Nếu là tỳ khưu,
bạn trở nên một tỳ khưu có phẩm giá thật sự của một tỳ khưu. Nếu là cư sĩ,
bạn trở nên một con người có phẩm giá thật sự của một con người. Tại sao
như vậy? Nhờ vào sự thu thúc thân khẩu, bạn không còn buông lung để tham
lam, sân hận cực độ ảnh hưởng đến hành động và lời nói. Do đó, bạn khắc
phục được tham sân trong con người mình. Bạn trở nên người chiến thắng
phiền não. Thay vì chiến thắng thông thường một cách sai lạc, bạn chiến
thắng với chính mình. Tự mình thắng mình. Chiến thắng này mang lại cho bạn
bình an và hạnh phúc. Nhờ chính mình có bình an hạnh phúc, nên bạn mang
lại bình an hạnh phúc cho mọi người chung quanh. Nhờ giới học, bạn tạo lợi
ích cho bản thân và xã hội. Do đó, thực hành sự giữ giới, rèn luyện Giới
học, sīla-sikkhā, không phải giới hạn trong Phật tử mà tất cả mọi
người khác không có cùng đức tin cũng nên thực hành.
Giới học làm cho hành động và lời nói trong sạch, nhưng không giúp cho
tâm trong sạch. Bạn có thể suy nghĩ điều bất thiện như có ý muốn giết hại,
ngược đãi, có ý muốn chiếm đoạt, tà hạnh, hay dối trá, v.v... Đây
là loại phiền não tư tưởng. Muốn ngăn ngừa phiền não tu tưởng, cần phải tu
tập Định học qua sự thực hành chánh niệm trong thiền tập. Do duy trì chánh
niệm, bạn không dính mắc vào những đối tượng sinh khởi qua mắt thấy, tai
nghe, v.v. làm phát sinh ưa ghét, tạo nên các tư tưởng bất thiện như chiếm
đoạt, lừa đảo, sân hận, v.v...Nhờ chánh niệm giúp ngăn ngừa không cho sinh
khởi các tư tưởng bất thiện, và diệt trừ được các tư tưởng này ngay khi
chúng phát sinh trong tâm. Tâm được chánh niệm bảo vệ trong sạch. Do đó
nhờ Định học, samadhi-sikkhā, bạn trở nên người có nhân tâm thật
sự.
Giới học giúp cho thân khẩu trong sạch. Định học giúp cho tâm được
trong sạch. Tuy nhiên, thân khẩu ý vẫn còn bị ảnh hưởng bởi si mê. Si mê
thuộc loại phiền não ngủ ngầm, ẩn tàng trong tâm bộc phát thành tư tưởng
và cuối cùng là thân khẩu. Si mê là gốc rễ bất thiện của tư tưởng và thân
khẩu. Muốn diệt tận si mê, phiền não ngủ ngầm, cần phải thực hành Tuệ học,
pañña-sikkhā. Kết quả của sự tu tập này đem lại sự thành tựu trí
tuệ minh sát, hay Minh Sát tuệ, vipassana-nañña, và Thánh Tụệ,
ariya-nañña. Nhờ trí tuệ, biết được đúng sai, bạn bảo vệ được thân
khẩu ý ít nhất bạn phải chứng đắc cho được tầng thánh đầu tiên. Dù rằng
bạn chưa tận diệt được tất cả các ô nhiễm, nhưng bạn thoát được các ô
nhiễm bậc thô tức phiền não tác động. Thành đạt mục tiêu này, bạn thăng
tiến từ phàm nhân hay người còn bị phiền não dính mắc, puthujjana,
để trở thành thánh nhân, ariya, người thoát khỏi phiền não, người
trong sạch và cao thượng. Do đó, nhờ Tuệ học, bạn trở nên người có minh
trí, người có trí tuệ thật sự.
Đức Phật là người trong sạch, ngài tuyên dạy Chánh Pháp và Chánh Luật.
Ngài tự mình thực hành Chánh Pháp, loại trừ tất cả ô nhiễm và đến được
vùng bình an. Ngài được gọi là Thiện Thệ, sugata, là người đã đi
trên chánh đạo và đến được đúng nơi. Ngài chỉ dẫn Chánh Pháp và Chánh Luật
để giúp chúng sanh thực hành. Nếu một ai thực hành theo sự chỉ dẫn, sẽ
được hưởng lợi lạc. Thiện Thệ cũng mang ý nghĩa là nói những gì đúng đắn
và lợi ích. Thế nên, nếu thực hành đúng theo Chánh Pháp và Chánh Luật, bạn
sẽ đi đúng theo Chánh Đạo và sẽ đến được đúng nơi. Một khi chính bạn thực
hành và đạt kết quả cuối cùng là đến đúng nơi, bạn giúp chỉ dạy lại cho
người khác để họ cũng đạt được kết quả như vậy. Đây là phẩm tính Thiện
Thệ.
Đức Phật chỉ dạy những gì đúng và chỉ nói những gì mang lợi ích với tâm
bi mẫn phát xuất từ trí tuệ toàn giác của Ngài, sabbaññnnuta-ñāna.
Tuy vậy, không phải lúc nào Đức Phật cũng nói hay dạy cho tất cả mọi người
ở tất cả mọi nơi. Ngài hiểu được khi nào nên nói, nói đúng lúc, đúng với
đối tượng. Ngài xem xét người được dạy có đủ đức tin, hay có đủ duyên, đủ
quyết tâm, hay đủ trình độ tâm linh sẵn sàng để lãnh hội, Ngài mới giảng
dạy. Có khi Ngài dùng lời khen tặng nhằm khuyến khích, có khi Ngài dùng
lời chê trách nhằm cảnh tỉnh để đưa họ trở lại chánh đạo. Cho dù người
nghe có thích hay không thích, Ngài luôn luôn chỉ dạy như vậy vì chỉ muốn
mang lại lợi lạc cho người này mà thôi. Giống như y sĩ cho thuốc tùy theo
bệnh trạng có khi cần phải cho thuốc ngọt có lúc cần phải cho thuốc đắng,
nhằm mục đích chữa trị cho người bệnh được bình phục.
Phẩm tính Đức Phật là dạy để đi đúng đường. Công việc của Ngài là giúp
hướng dẫn để trở về đúng đường. Với lòng bi mẫn, Ngài luôn luôn dạy chúng
sanh đi đúng đường, không bao giờ chỉ sai đường. Với trí tuệ toàn giác,
Ngài biết cách dạy đúng người, và có khả năng đem người trở lại đúng
đường, để không bị đau khổ vỉ đi lạc đường. Ngài có cả hai trí tuệ và lòng
bi mẫn để dạy dỗ chúng sanh. Nếu chỉ có trí tuệ suông thôi không thể làm
được điều này.
Mỗi khi bạn đọc "Buddhaṁ saranaṁ gaccāmi", "Con xin quy y Phật".
Tại sao phải quy y Phật? Vì Đức Phật là bậc trí tuệ toàn giác hướng dẫn
đúng đường, và có lòng bi mẫn không muốn chúng sanh đau khổ vì lạc đường.
Ngài là người hướng dẫn nên do vậy bạn xin nương tựa nơi Ngài.
Khi bạn hiểu được đâu là đúng và đâu là chánh đạo, bạn sẽ đến được đúng
nơi. Giáo Pháp có hai phẩm tính. Thứ nhất, nếu bạn thực hành đúng theo
Giáo Pháp, đi đúng theo Chánh Đạo, sẽ không bị rơi vào khổ cảnh, con người
bạn được thăng cao. Thứ hai, đến được đúng nơi. Đi trên Chánh Đạo là nhân,
đến đúng nơi chốn là quả. Đây là hai phẩm tính của Giáo Pháp. Do vậy, Giáo
Pháp xứng đáng để cho bạn nương tựa và tu tập "Dhammaṁ saranaṁ gaccāmi"
"Con xin quy y Pháp."
"Đi đúng đường, đến đúng nơi". Đây không phải là một triết lý suông.
Chính Đức Phật đã tự mình thực hành và đã đến được đúng nơi. Do đó chính
Đức Phật đã thực hành và đạt được mục đích như vậy. Giáo Pháp của Ngài
hình thành từ sự thực hành, không phải từ sự mộng mơ hay tưởng tượng.
Chính bạn phải thực hành mới đi đến nơi. Thực hành đúng như được chỉ dạy,
bạn sẽ đến được nơi an lành. Nếu được chỉ dẫn một đàng, bạn thực hành một
nẽo, hay thực hành không đến nơi chốn, bạn sẽ không đến được đúng nơi.
Những ai đi đúng đường, đến được đúng nơi, maggapṭipanna, mới trở
nên đệ tử thật sự của Đức Phật. Các thánh đệ tử, những thành viên của Tăng
Đoàn, là những người xứng đáng để nương tựa và học hỏi. "Sanghaṁ
saranaṁ gaccāmi", "Con xin quy y Tăng."
Đức Phật đã đi đúng đường, đến đúng nơi. Với trí tuệ toàn giác cùng với
tâm đại bi của Ngài, mahākaruna, Ngài hướng dẫn chúng sanh, giúp họ
đi được đúng đường, đến được đúng nơi. Do vậy, tất cả các thiền sinh nên
cố gắng tu tập để thành đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu thực hành đúng theo sự
chỉ dạy, chắc chắn bạn sẽ đến đúng nơi.
-ooOoo-
[03]
Bốn Pháp Thiền Bảo Vệ
Nhằm mục đích giúp các bạn hành thiền được an vui tốt đẹp, Sư thấy cần
giảng về đề tài Bốn Pháp Thiền Bảo Vệ, catltrārakkha bhāvanā. Bốn
pháp thiền này được thực hành bởi các hành giả thời xưa, và cho đến nay
vẫn còn được thực hành như một truyền thống lâu đời.
Bốn Pháp Thiền Bảo Vệ này gồm (1) Quán Tưởng Phẩm Tính Đức Phật
(Buddhānussali), (2) Thiền Tâm Từ (Metta Bhāvanā), (3) Quán
Tưởng Sự Ô Trược Của Thân (Asubha Bhāvanā), và (4) Quán Tưởng Sự
Chết (Maranānussati).
Pháp thiền bảo vệ thứ nhất là Quán Tưởng Phẩm Tính Đức Phật. Nếu quán
tưởng đến tất cả 10 phẩm tính Ngài thì cần rất nhiều thời gian. Ở đây các
bạn chỉ cần quán tưởng đến Minh Hạnh Túc, người có đầy đủ giới hạnh,
vijjācaranasampanno, một trong 10 phẩm tính của Ngài.
Minh, vijjā, mỗi khi nghĩ đến điều gì Ngài hiểu một cách rõ
ràng. Trong đêm thành đạo, vào canh đầu, Ngài đã thành đạt Túc Mạng Minh,
có nghĩa biết được những biến cố trong quá khứ, biết được các tiền kiếp.
Đến khuya, Ngài thành đạt Thiên Nhãn Minh, khả năng thấy chúng sinh xa gần
một cách chi ly, mỗi khi Ngài hướng tâm về. Vào gần sáng, Ngài thành đạt
Lậu Tận Minh, sau khi chứng đắc A La Hán Đạo Quả, tận diệt tất cả mọi ô
nhiễm trong tâm. Ba loại minh trí này được gọi pu-di-ā. Ngoài ra
còn có tám loại minh trí khác của Ngài nhưng chúng ta không đề cập ở đây.
Minh trí được thành đạt từ Giới hạnh. Nếu không thành tựu Giới hạnh sẽ
không thành tựu Minh trí. Đối với bậc thánh nhân, nếu không có pháp hành
sẽ không chứng đắc được thánh đạo quả. Chỉ với sự tu tập theo Tam Học,
Giới-Định-Huệ, đủ đến một mức độ nào đó sẽ thực chứng được đạo quả để trở
thành bậc thánh nhân. Tương tự, do sự thành tựu Giới hạnh, Ngài đã thành
tựu Minh trí. Do đó, với sự tu tập Giới được thành tựu sẽ đưa đến sự thực
chứng đạo quả, chứng đắc Niết Bàn. Đức Phật cũng còn thành đạt Chánh Đẳng
Chánh Giác, sabbaññuta-ñāna, khi Ngài thành đạt Lậu Tận Minh, Ngài
đã tận diệt tất cả ô nhiễm trong đó có Si Mê, mo ha. Do đó, khi cần suy
nghĩ đến điều chi, Ngài hiểu thấu triệt tường tận, không mù mờ. Thế nên,
nhờ vào Minh Trí và sự chứng đạt A La Hán Đạo Quả, Ngài thành đạt sự Toàn
Giác, sabbaññuta-ñāna. Chúng ta có thể nói, Minh Trí là nhân, Toàn
Giác là quả.
Sự viên mãn Giới hạnh đưa đến sự thành đạt tâm Đại Bi, mahākaruna.
Tâm Đại Bi cũng hình thành từ Thiền tâm Bi. Khi thành đạo, Ngài cũng
đã thành đạt Giới hạnh đến chỗ rốt ráo, tâm Đại Bi của Ngài cũng viên mãn
tột cùng. Giới hạnh đầy đủ, caranasampano. Có 15 loại hạnh căn bản:
(1) giới đức (sila-samvara), (2) thu thúc các căn
(indriya-samvaro), (3) tri túc về Tứ Vật Dụng, (4) tỉnh giác, (5) hỗ
thẹn tội lỗi (hiri), (6) ghê sợ tội lỗi (otappa), (7) đa văn
(suta), (8) trí tuệ (pañña), (9) tín (saddhā), (10)
chánh niệm (sati), (11) tinh tấn (vīriya), và bôn thiền
thuộc sắc giới. Muốn thành đạt được Minh trí, cần phải thực hành viên mãn
15 loại hạnh này.
Lợi ích của Minh Hạnh Túc như thế nào? Giáo Pháp nào được tuyên dạy từ
một giáo chủ thành đạt viên mãn 15 hạnh này sẽ là một Giáo Pháp tối
thượng. Giới Luật đặt ra bởi vị này sẽ xứng đáng để gìn giữ. Người hành
theo Giáo Pháp và Giới Luật của vị này sẽ là người có giá trị xứng đáng.
Trong đời này, nếu có ai chỉ có trí tuệ mà không có giới hạnh, vị này sẽ
không có khả năng đưa người khác trở về chánh đạo. Vì thiếu tâm bi mẫn, vị
này sẽ bỏ mặc người kia trong tà đạo. Một vị giáo chủ có đầy đủ minh hạnh,
nhờ vào lòng bi mẫn, vị này có khả năng giúp được người khác đang hành đạo
sai lạc, đưa người này trở lại được với chánh đạo. Do đó, lợi điểm của
Minh Hạnh Túc là sự phát sinh ý muốn cứu giúp người khác cùng với khả năng
biết cách cứu giúp để đưa người trở về chánh đạo. Đức Phật có được Minh
Hạnh Túc. Với trí tuệ Toàn Giác, Ngài biết những gì có lợi hay không có
lợi cho chúng sinh. Nhờ biết được căn cơ của mỗi chúng sinh cùng với tâm
Đại Bi, nên Ngài có khả năng dẫn dắt họ đi theo chánh đạo để đến được vùng
an lành, cũng như có khả năng cứu giúp họ bỏ tà đạo về lại chánh đạo. Ngài
cũng giúp họ thành đạt được trí tuệ và giới hạnh. Vì thế, vào thời Đức
Phật, đã có hàng triệu người theo học với Ngài và đã trở thành thánh nhân.
Các bạn ở đây hiện giờ đang thực hành theo Giáo Pháp của Đức Phật, giữ
giới hạnh trong sạch. Một khi giới hạnh trong sạch, chắc chắn trí tuệ được
thành đạt. Do đó, các bạn nên hoan hỉ khi quán tưởng đến phẩm tính Minh
Hạnh Túc của Đức Phật. Thực hành sự quán tưởng đến phẩm tính Minh Hạnh Túc
sẽ giúp các bạn tu tập an vui trong suốt khoá thiền. Nếu không quán tưởng
được đến phẩm tính của Đức Phật, thì chỉ cần quán tưởng sâu xa đến Giáo
Pháp của Ngài cũng đủ. Vì chỉ cần lắng nghe Giáo Pháp cũng đủ giúp tâm yên
tịnh, thoát khỏi lo âu. Nhờ thực hành Giáo Pháp sẽ đem lại hạnh phúc tịch
tịnh (samatha sukha), hưởng được hạnh phúc Minh sát (vipassanā
sukha), và cuối cùng đạt được hạnh phúc giải thoát tột cùng. Theo ý
nghĩa này, Giáo Pháp tốt đẹp ở chặng đầu, tốt đẹp ở chặng giữa, tốt đẹp ở
chặng cuối. Do đó, nếu không quán tưởng được phẩm tính của Đức Phật, bạn
có thể quán tưởng đến Giáo Pháp của Ngài.
Pháp thiền bảo vệ thứ hai là Pháp Thiền Tâm Từ. Bạn rãi tâm từ đến cho
tất cả chúng sanh, kể cả loài bé nhỏ nhất. Với tâm không ích kỷ, tham lam,
bạn cầu mong cho tất cả chúng sanh được an vui hạnh phúc. Bạn lập lại
trong tâm "Mong cho tất cả chúng sanh được thoát khỏi hiểm nguy.", "Mong
cho tất cả chúng sanh khỏi sự khổ thân.", "Mong cho tất cả chúng sanh khỏi
sự khổ tâm." Chỉ cần bạn quán tưởng trong thời gian ngắn cũng là đủ tốt.
Trong khi rãi tâm từ, bạn không nên nhớ đến những gì không ưa thích nơi
người khác, vì như vậy sẽ phát sinh sân hận, ác ý. Có mười một lợi ích của
thiền tâm Từ như: ngủ ngon, thức dậy khoẻ khoắn, không bị ác mộng, được
chư thiên yêu mến, được mọi người thương mến, v.v... Do đó, nếu bạn
rãi tâm Từ đến tất cả mọi người bạn sẽ được thương mến, điều này sẽ giúp
bạn tu tập an vui trong suốt khoá thiền.
Pháp thiền bảo vệ thứ ba là Quán Tưởng Sự Ô Trược của Thân. Nếu bạn coi
thân này gồm 32 thành phần gồm lông, tóc, móng, da, v.v...và quán tưởng sự
ô trược của từng thành phần này, bạn sẽ giảm bớt sự luyến ái vào thân thể
của chính mình. Chúng ta thường có khuynh hướng coi thân này là đẹp đẽ,
đáng yêu nên thường dính mắc vào thân thể của mình hay người khác. Một khi
bạn quán tưởng bằng cách chia chẻ thân này thành nhiều thành phần bất
tịnh, bạn sẽ thấy sự đẹp đẽ của thân này giảm dần. Và bạn bớt dính mắc nơi
thân thể của mình và của người khác. Lợi ích của sự giảm dính mắc này, sẽ
giúp bạn không còn ưa thích vào thân thể của người khác phái. Bạn chỉ thấy
sự ô trược của thân nên tâm bạn không bị chi phối, nhờ vậy giúp bạn hành
thiền được dễ dàng. Mục đích của sự thực hành thiền Minh Sát nhằm giúp bạn
làm đẹp tâm. Nếu bạn đặt ưu tiên cho việc luyện tâm, bạn sẽ không còn chú
ý vào việc làm đẹp thân thể. Ví vậy, bạn sẽ dồn hết nỗ lực vào việc hành
thiền.
Pháp thiền bảo vệ thứ tư là Quán Tưởng Đến Sự chết. Bạn quán tưởng đến
sự không trốn thoát được cái chết. Nhờ vậy, bạn sẵn sàng chấp nhận, và
không sợ hãi khi cái chết đến với mình. Nhờ không sợ chết, bạn có khả năng
đối phó được sự đau nhức xảy ra trong khi hành thiền. Do tâm không sợ hãi
sự chết, bạn hành thiền không kể thân mạng. Nhờ vậy bạn hành thiền thành
công. Trước đây, bạn đã từng chết không biết bao nhiêu lần. Thực hành Giáo
Pháp để không còn phải chết nữa. Bạn nên luôn luôn nuôi dưỡng ý muốn này.
Đây là lợi ích của sự quán tưởng đến sự chết.
Bạn chỉ cần thực hành bốn pháp thiền bảo vệ này trong vòng bốn phút,
mỗi pháp một phút cũng đủ tốt, không cần thực hành lâu hơn.
Cầu mong các bạn hành thiền được an vui. Mong các bạn đặt ưu tiên cho
sự luyện tâm, và thực chứng được lợi ích của sự thanh lọc tâm.
-ooOoo-
[04]
Giới Học
Mục đích của sự phát triển tâm là làm cho tâm hoàn toàn thoát khỏi ô
nhiễm. Nếu không hành thiền sẽ không đạt được mục đích này và như vậy sẽ
không thể nào chứng đạt được thánh đạo A La Hán. Tinh túy của Phật Giáo
Nguyên Thủy là sự tu tập Giới Định Huệ.
Giới học là sự kiểm soát và giữ gìn không cho phiền não tác động ảnh
hưởng đến thân khẩu. Nhờ giữ giới, bạn không làm điều sai trái qua thân
khẩu. Nếu thực hành sự giữ giới, bạn sẽ có hành vi và lời nói trong sạch,
hòa nhã, dễ mến và không bị chê trách. Do đó, Giới Học là sự tu tập theo
Phật Pháp. Phạn ngữ samādāna-sīla dùng để diễn giải ý nguyện quyết
tâm không phạm giới như "Tôi sẽ không làm điều này, điều kia" ,v.v.. Như
vậy có tác ý, cetanā, cũng là sự giữ giới, dù rằng chưa thể hiện ra
hành động. Khi bạn giữ giới, gặp trường hợp có thể gây nên tội lỗi, bạn
thật sự kìm hãm để không làm điều tội lỗi. Do ý muốn giữ giới và có sự giữ
giới thật sự tạo thành thói quen luôn luôn giữ giới.
Có hai loại cư xử bất thiện tạo nên bởi hành động và lời nói. Hành động
bất thiện, kaya-duccarita, như sát sanh, trộm cắp và tà hạnh. Lời
nói bất thiện, vacī-duccarita, như nói dối, nói chia rẽ, nói lời
dữ, và nói nhảm nhí. Bạn phải có sự ghê sợ và hỗ thẹn đối với hai loại cư
xử bất thiện này. Do vậy bạn luôn luôn có ý muốn giữ giới và có sự giữ
giới thật sự. Ghê sợ tội
lỗi, hi ri, và hỗ thẹn tội lỗi, otappa, là hai tâm sở
thiện lành giúp bạn có khả năng không tạo bất thiện nghiệp qua thân khẩu
một cách tròn đầy. Giữ giới cũng do phát xuất tù sự không muốn bị đau khổ
nên không muốn làm người khác đau khổ. Bạn không muốn bị giết, hay bị mất
mát, nên bạn không làm những điều này cho người khác. Bạn không muốn trở
thành đối tượng của các bất thiện nghiệp, nên bạn hiểu người khác cũng
không muốn vậy. Do đó bạn có tâm bi mẫn, không muốn làm cho người khác đau
khổ. Nhờ ghê sợ tội lỗi và hỗ thẹn tội lỗi giúp bạn giữ gìn được thân khẩu
được dễ dàng, và có lòng bi mẫn đối với người khác.
Trong kinh điển có cho thí dụ về hai thanh sắt. Một thanh sắt dính
phân, và thanh sắt nóng đỏ. Đối với thanh sắt dính phân, bạn không muốn sờ
vào thanh sắt này, vì ghê tởm sự dơ bẩn của phân. Giống như do sự ghê tởm
bất thiện nghiệp nên bạn giữ giới trong sạch. Đối với thanh sắt nóng đỏ,
bạn không sờ vào thanh sắt này, vì sợ bị phỏng. Giống như do sự sợ hãi tội
lỗi nên bạn không làm điều bất thiện.
Vì sự ghê sợ bất thiện nghiệp, nên bạn giữ gìn thân khẩu làm cho bạn có
sự cư xử hòa nhã, dễ mến. Đây là lợi ích của sự giữ giới. Vì sự sợ hãi đau
khổ, bạn không muốn gây đau khổ cho người khác. Do đó bạn bảo vệ được
người khác. Bạn hưởng được lợi ích của sự giữ giới và do vậy người khác
cũng hưởng được sự ích lợi này. Đức Phật dạy rằng "attano rakkhanto
param rakhati nāma". Bạn bảo vệ mình và bảo vệ cho người khác.
Nếu hai tâm sở hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi được sáng chói trên
thế giới, năng lực của chúng sẽ rất lớn. Khi tu tập thành đạt được hai tâm
sở này, tâm có khả năng đẩy lui được phiền não, không bị phiền não xâm
nhập, giống như một vật sáng chói có khả năng phản chiếu lại sức nóng, nên
tâm không bị ảnh hưởng của sức nóng tạo bởi phiền não. Hai tâm sở thiện
này gọi là pháp trắng, hay còn gọi pháp thanh tịnh, sukka-dhamma,
hai pháp này giúp cho hành động và lời nói trở nên tốt đẹp, trong sạch, dễ
mến. Giống như mặc đồ màu trắng không bị nóng bằng mặc đồ màu đen. Người
có hai tâm hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi sẽ không dám điều sai trái
qua thân khẩu, nên không bị đau khổ, do vậy, người này luôn an vui.
Không hỗ thẹn tội lỗi và không ghê sợ tội lỗi, ahiri và
aotappa, là hai tâm sở bất thiện, là hai pháp đen, kāla-dhamma,
có đặc tính thu hút sức nóng của phiền não, như một vật đen hấp thụ nhiệt.
Hai tâm sở hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi có khả năng bảo vệ thế
giới riêng của cá nhân và cho thế giới chung quanh. Cá nhân bảo vệ chính
mình bằng sự giữ gìn thân khẩu, làm cho thế giới của riêng mình bình an và
còn làm cho thế giới xung quanh cũng được bình an. Nhờ vậy, từ cá nhân, xã
hội, đến cả thế giới được bình an hạnh phúc. Do đó, hỗ thẹn tội lỗi và ghê
sợ tội lỗi được xem là hai tâm bảo vệ cho thế giới.
Thế giới hiện nay thật hỗn độn. Thay vì có mặt hỗ thẹn tội lỗi và ghê
sợ tội lỗi thì ngược lại chỉ có không hỗ thẹn tội lỗi và không ghê sợ tội
lỗi. Thế giới loài người khác thế giới loài vật ở sự khác biệt giữa thiện
và ác Nếu con người có khuynh hướng làm điều ác bằng sự hung bạo, thì có
khác chi thế giới loài vật. Đây là điều rất đáng sợ. Những hành vi bất
thiện giữa cha con rất đáng ghê sợ, nguyên nhân cũng vì không có sự hỗ
thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, làm phát sinh những hành động như thú vật.
Để bảo vệ phẩm giá và danh dự của mình, bạn kiểm soát sự cư xử của mình
bằng hai tâm sở hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi. Làm như vậy bạn tạo
được kết quả là bảo vệ cho chính mình đồng thời bảo vệ cho người khác. Làm
một điều, bạn thành tựu được hai điều khác.
Bảo vệ mình, là bảo vệ cho người khác. Vì có tâm từ ái với mọi chúng
sanh, mong cho tất cả được khỏe mạnh, an vui, hạnh phúc, nên bạn giao tiếp
tốt đẹp với tất cả mọi người, thể hiện bằng sự giúp đỡ người khác qua hành
động và lời nói. Ảnh hưởng của tâm từ làm giảm sân hận Bạn chỉ sống với
người khác bằng tâm từ ái. Sức mạnh của tâm từ tạo khả năng nhẫn nại, bao
dung và rộng lượng.
Do đó với hai tâm hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, bạn kiểm soát được
mình và bảo vệ được người khác. Bạn tu tập để giữ gìn thân khẩu sao cho
trong sạch, không bị chê trách. Như vậy mới là tu tập chân thật. Kết quả
lợi lạc tức thời của sự tu tập này là bình an và dễ mến. Khi suy tưởng đến
giới đức tốt đẹp của mình, bạn cảm thấy hài lòng, không tự trách mình,
không bị người khác chê trách, và không bị luật pháp trừng phạt. Do tác ý
thiện lành luôn luôn có mặt tạo nên kết quả tích cực là không đưa bạn đến
cảnh khổ. Chỉ với sự tu tập giới đức đủ làm cho bạn có được nhân phẩm sáng
ngời.
Nếu là tỳ khưu có được hai tâm sở hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi
này, bạn xứng đáng thật sự là tỳ khưu. Nếu là cư sĩ, bạn xứng đáng thật sự
là cư sĩ. Ngược lại, nếu không có hai tâm sở này, không thể xem là tỳ
khưu, hay là con người thật sự. Do đó, nếu làm người, phải là thật sự một
con người, nếu tỳ khưu phải là thật sự một tỳ khưu. Hiểu được như vậy, nếu
là tỳ khưu hay cư sĩ, bạn phải tu tập giữ gìn thân khẩu trong sạch, thành
tựu được hai tâm sở thiện hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi để sống cho
xứng đáng. Đó là ý nghĩa của Giới Học.
-ooOoo-
[05]
Năm Chướng Ngại Tâm
Tâm con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi ba loại phiền não: phiền não
tác động, phiền não tư tưởng và phiền não ngủ ngầm.
(1) phiền não tác động xuất hiện qua hành động và lời nói, được diệt
tận bằng Giới Học,
(2) phiền não tư tưởng xuất hiện dưới ý nghĩ muốn chiếm đoạt, mưu hại
.. được diệt tận bằng Định Học.
(3) phiền não ngủ ngầm ẩn tàng trong tâm con người từ nhiều kiếp là gốc
rễ của phiền não tư tưởng và phiền não tác động. Loại phiền não này chỉ
được diệt tận bằng Tuệ Học.
Ba loại phiền não này được diệt tận bằng Tam Học: Giới-Định-Tuệ.
Giới học loại bỏ được phiền não tác động nhờ sự giữ giới. Định
học chế ngự được phiền não tư tưởng nhờ thực hành thiền định. Tuệ học diệt
tận được phiền não ngủ ngầm nhờ Minh Sát tuệ và Thánh Tuệ.
Do sự giữ gìn thân khẩu và nhờ tạo thành thói quen không làm điều bất
thiện, hành động và lời nói trở nên hòa nhã và dễ mến. Thiện nghiệp tạo
nên bởi giới hạnh trong sạch có năng lực rất lớn và có hiệu quả hơn so với
thiện nghiệp tạo nên từ sự bố thí. Nhờ giới hạnh, bạn không bị khổ vì
nuông chịu lòng ham muốn làm ảnh hưởng đến thân khẩu.
Tuy nhiên, đối với phiền não tư tưởng xuất hiện qua ý nghĩ không thể
chế ngự bằng giới vì bạn không thể bằng cách đơn giản nói là "Tôi không
ham muốn". Loại phiền não xuất hiện trong tâm này chỉ được chế ngự bằng sự
thực hành chánh niệm. Phiền não tư tưởng xuất hiện dưới ý nghĩ chiếm đoạt,
tà hạnh khi có sự tham lam thái quá, hay ý nghĩ mưu hại, muốn giết, khi có
sự sân hận quá mức, hoặc có sự cố ý dối trá để hãm hại hay lường gạt. Tất
cả các tư tưởng bất thiện nảy phát xuất từ tham lam, sân hận và si mê. Do
đó, phiền não tư tưởng không thể chế ngự bằng phương cách thông thường.
Chỉ với chánh niệm mới có khả năng bảo vệ được tâm. Chánh niệm chỉ có được
qua sự tu tập bằng sự tham thiền.
Khi tâm chưa phát triển, tâm mang đầy ô nhiễm. Tâm không bị kiểm soát,
buông lung chạy theo những gì ưa ghét, như khi tâm ước muốn thấy vật đẹp
hay nghe âm thanh hay, sự ham thích thái quá khiến phát sinh ý muốn chiếm
đoạt, hay trở nên ích kỷ. Một tâm như vậy được xem là chưa phát triển. Tâm
còn mang những loại tâm sở thấp kém khác như dã dượi buồn ngủ, không năng
lực, hối tiếc, giao động, hay hoài nghi. Chúng ta không muốn có một cái
tâm không trong sạch chất chứa các loại tâm thấp kém, bất thiện như vậy.
Các loại tâm này tự phát sinh khi tâm ta buông lung, thiếu kiểm soát. Với
chánh niệm bảo vệ cho tâm không bị các loại tâm bất thiện chi phối, nếu
chúng xuất hiện, bạn ghi nhận và khắc phục được chúng bằng chánh niệm. Tâm
của người thường không biết thiền tập thường bị chế ngự bằng các tâm bất
thiện. Các tâm bất thiện này cỏn được xem là chướng ngại cho sự phát triển
trí tuệ. Chúng ngăn trở không cho trí tuệ phát triển, hoặc làm suy yếu trí
tuệ khi mới vừa sinh trưởng.
Các chướng ngại như ái dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ, trạo hối, và
hoài nghi làm cản trở không cho trí tuệ phát sinh. Một khi chúng xâm nhập
vào tâm, chúng làm cho tâm suy yếu như cơ thể suy yếu khi bị vi trùng xâm
nhập. Muốn không bị vi trùng xâm nhập, cần phải phòng ngừa. Nếu bị nhiễm
bệnh, cần phải dùng phương pháp điều trị hiệu quả. Cũng giống như vậy, tâm
bị suy yếu khi bị các chướng ngại xâm nhập. Cần phải dùng chánh niệm để đề
kháng lại các chướng ngại này. Muốn cho tâm khỏe mạnh cần phải có phương
pháp phòng ngừa. Đó là sự thực hành chánh niệm. Nếu không tu tập bằng
thiền minh sát, tâm không bao giờ được khỏe mạnh để có khả năng chống lại
các chướng ngại. Khi tâm tiếp xúc vật gì đó, tâm sẽ bị các chướng ngại
khống chế ngay lập tức giống như một người yếu đánh vật với một người mạnh
sẽ luôn luôn thua người mạnh. Tâm cần phải tu tập phát triển sức mạnh để
có khả năng chống trả lại các chướng ngại. Nếu không hành thiền sẽ không
thể làm tâm phát triển. Nếu không thực hành thiền định hay thiền Minh Sát,
hay thiền Tứ Niệm Xứ, tâm sẽ vĩnh viễn suy yếu.
Do đó cần phải phát triển tâm để làm cho tâm có khả năng đề kháng các ô
nhiễm. Danh từ bhāvanā, trong aquiditi bhāvanā, là sự phát
triển tâm thiện phi thường, atikusala, một tâm thiện vượt trội tâm
thiện thông thường. Bố thí vật chất bằng tâm từ bi là loại thiện nghiệp
thông thường, một công việc xã hội mà ai cũng có thể làm được, nên bố thí
không thể được coi là loại thiện nghiệp phi thường. Giữ gìn giới hạnh, với
tâm từ bi không muốn làm hại người khác, không muốn gây đau khổ cho người
khác, đồng thời bảo vệ được mình và bảo vệ cho người khác 1à một loại
thiện nghiệp có năng lực mạnh mẽ hơn thiện nghiệp do bố thí. Giữ giới chưa
phải là loại thiện nghiệp phi thường vì không có liên quan với sự phát
triển tâm. Phát triển tâm khó khăn hơn đòi hỏi can đảm, nỗ lực mới tu sửa
làm cho tâm được trong sạch. Do đó sự phát triển tâm được xem là thiện
nghiệp phi thường.
Giới học chỉ có khả năng chế ngự tham sân si biểu hiện một cách thái
quá, như khi quá tham làm phát sinh sự ích kỷ, khiến cho bạn mất sự nhẫn
nhục, tha thứ, bỏ qua, hoặc khi quá sân cũng làm cho mê muội gây nên những
hành động sai trái. Nhưng đối với loại tham sân si thông thường không thể
chế ngự bằng giới.
Tham thiền là phương pháp hiệu quả nhất để chống lại loại tham
sân si thông thường, loại ô nhiễm thường chiếm ngự tâm. Có hai phương pháp
phát triển tâm: thiên vắng lặng, samatha, và thiền minh sát.
Thiền vắng lặng làm cho tâm an tịnh thoát khỏi ảnh hưởng của tham sân
si. Thiền Minh Sát phát triển được sự hiểu biết về tâm và vật chất
cùng ba đặc tướng vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Sự hiểu biết này
làm tâm thoát khỏi tham sân si.
Khi tâm chưa được tu tập, tâm thường bị giao động bởi ái dục như thích
thấy vật đẹp, nghe âm thanh hay, là điều tự nhiên của con người sống trong
cõi dục giới. Sân hận phát sinh khi kinh nghiệm điều không ưa thích. Dã
dượi buồn ngủ làm cho tâm buông xuôi chiều tinh tấn, hoặc nếu ráng cố gắng
chú tâm thì mau cảm thấy mệt mõi, đặc biệt thường phát sinh trong khi hành
thiền. Phóng dật làm cho tâm không ở yên trên đối tượng đang quan sát, tâm
trượt khỏi đối tượng, phóng chạy đây đó. Hối tiếc điều tội lỗi đã làm
trong quá khứ, hay điều tốt chưa thực hiện được, làm cho tâm bất an giao
động không ở yên trên đề mục. Hoài nghi không tin nơi pháp hành, nghi ngờ
nhân quả, phân vân không biết đúng sai. Các loại tâm bất thiện này là
những chướng ngại cho tâm, đối nghịch lại các loại tâm thiện phát sinh do
sự tu tập cao thượng hơn. Chúng là kẻ thù bên trong chúng ta. Sự định tâm
phát triển qua sự tham thiền có khả năng chế ngự được các chướng ngại và
làm cho tâm an tịnh. Thiền vắng lặng và thiền định giúp chúng ta đạt được
mục đích này. Đây là loại thiền thuộc thế tục, theo đó hành giả gom tâm
tập trung vào đề mục thuộc tục đế. Thiền tâm từ thuộc về loại thiền thế
tục. Hành giả nghĩ về người thân của mình, hướng tâm về người này, đặt sự
chú tâm vào ý muốn mong cho người này được an vui hạnh phúc. Sự hướng tâm
về người được rãi tâm từ làm phát triển chi thiền Tầm, vitakka, một
loại tâm thiện có hiệu quả làm cho tâm an tịnh do sự hướng tâm trên đề mục
được duy trì lâu dài. Nhờ giữ tâm an trụ được lâu dài, tâm thoát khỏi các
chướng ngại như ái dục, sân hận, v.v... Một tâm thiện khác là chi thiền
Tứ, viccāra, cũng được phát triển, khi tâm chà sát trên đề mục. Hai
chi thiền này làm cho tâm tạm thời được an tịnh, đây là sự thực hành thiền
vắng lặng, samatha bhāvanā. Khi tâm an tịnh, tham sân vắng mặt, chỉ
có tâm vô tham và vô sân là hai loại tâm thiện phi thường. Sự an tịnh làm
cho hành giả cảm thấy phấn khởi, vui thích, phát sinh hỉ, piti, qua
nhiều giai đoạn. Hành giả cảm thấy hạnh phúc, an lạc. Thiền vắng lặng,
samatha bhāvanā, làm cho tâm an tịnh khi tâm vắng bóng phiền não.
Thiền định, samādhi bhāvanā, làm cho tâm an trụ chìm sâu trong đề
mục.
Hành thiền vắng lặng hay thiền định đưa tâm phát triển qua bốn tầng
thiền. Khi đến tứ thiền, tâm ở trạng thái rất an tịnh.
Tâm không bị ảnh hưởng bởi tham sân cũng như các tâm chướng ngại khác.
Thực hành thiền vắng lặng làm cho tâm an tịnh. Nếu biết hành thiền vắng
lặng, bạn cũng biết hành thiền định. Hai loại thiền này thuộc về loại
thiền tục thế.
-ooOoo-
[06]
Các Tầng Thiền trong Thiền Chỉ và Thiền Minh Sát
Trong thiền vắng lặng, hành giả chú tâm liên tục trên một đối tượng duy
nhất không thay đổi như đĩa đất kasina, hay chú tâm vào đối tượng
là người thân như trong thiền tâm Từ. Thực hành thiền vắng lặng không cho
hành giả đạt sự hiểu biết như phân biệt được tâm và vật chất hay danh sắc,
hiểu rõ sự tương quan nhân quả, và hiểu được sự sanh diệt của đối tượng
quan sát. Trái lại, trong sự thực hành thiền minh sát, dù rằng sự chánh
niệm được giữ trên các đối tượng luôn luôn thay đổi, luôn luôn mới, nhưng
giúp hành giả hiểu được thế nào là tâm và vật chất, sự tương quan nhân
quả, và đặc tính sinh diệt của các đối tượng quán sát. Trong thiền vắng
lặng, vì không cho hành giả sự hiểu biết về tâm và vật chất nên hành giả
có sự chấp giữ những quan kiến như tin về sự hiện hữu của một tự ngã, hay
linh hồn, hay một đấng Sáng Tạo. Hay hành giả không hiểu được sự tương
quan nhân quả, sẽ tin nơi sự không có quả báo, hoặc chỉ tin vào nhân duyên
một cách sai lạc làm cho hành giả tin có sự hiện hữu một đấng Tối Cao tạo
ra muôn loài, tạo ra vũ trụ. Đây là những sự tin tưởng sai lầm. Khi không
có sự hiểu biết về sự sanh diệt hành giả sẽ hiểu sai lạc. Nếu chỉ tin vào
sự sinh mà không có sự diệt, hành giả sẽ tin vào sự thường còn vĩnh viễn,
hay thường kiến. Hoặc chỉ tin vào sự diệt không thôi, sẽ tin vào không có
tái sinh, chết là hết, hay đoạn kiến. Do đó nếu không hành thiền minh sát,
không có trí tuệ minh sát, hành giả sẽ tiếp tục mang trong tâm những sự
tin tưởng sai lầm như vậy trong suốt nhiều đời nhiều kiếp. Vì thế, chính
vì tính chất tục thế của tâm định đạt được trong thiền vắng lặng, nên hành
giả chỉ đạt được sự an tịnh nơi tâm chứ không đạt được trí tuệ để giúp
hành già buông bỏ các tà kiến.
Sát na định, khaṇika samādhi, là sự gom tâm thành một điểm trong
một khoảnh khắc khi tâm ghi nhận hay có sự chánh niệm, hình thành ngay lập
tức khi đề mục xuất hiện. Sát na định là loại định tâm rất quen thuộc đối
với hành giả thiền minh sát. Sát na định còn có đặc tính khác là sự gắn
chặt cực mạnh vào đề mục, gom tụ tâm vào một điểm tương đương với cận định
trong thiền vắng lặng. Sát na định chỉ sinh khởi khi có chánh niệm được
giữ không gián đoạn, qua sự luôn luôn ghi nhận và liên tục ghi nhận đề
mục. Nhờ sự liên tục của chánh niệm ở thời điểm trước và thời điểm kế
tiếp, nên không cho các chướng ngại tâm chen vào được.
Khi sát na định phát triển mạnh mẽ, minh sát tuệ hình thành. Hành giả
thấy sự sinh diệt vô cùng mau lẹ của đề mục quán sát. Trong khoảnh khắc
này, tâm hành giả hoàn toàn vắng bóng các chướng ngại tâm như ái dục, sân
hận, dã dượi buồn ngủ, phóng dật hối tiếc, và hoài nghi. Do đó, tâm trở
nên an tịnh. Đặc biệt khi hành giả đạt được tuệ giác xả hành,
sankhārupekkha-ñāṇa, tâm hành giả trở nên cực kỳ định tĩnh, không thể
bị các chướng ngại tâm này ảnh hưởng.
Khi sự định tâm mạnh mẽ, tâm trở nên định tĩnh và được gọi là chứng đắc
thiền jhāna.
Có hai loại chứng đắc thiền: Chứng đắc qua thiền vắng lặng
āramanūpa-jhāna hay samatha-jhāna và chứng đắc qua thiền minh
sát lakkhanūpa-jhāna hay vipassanā-jhāna.
Trong thiền vắng lặng, hành giả thành tựu trạng thái định tĩnh này bằng
sự quan sát liên tục đề mục như dĩa đất kasina. Khi hành giả thấy
được dĩa kasina hiện rõ trong tâm, hành giả đắc thiền.
Trong thiền minh sát, hành giả đắc thiền trong hai trường hợp: đắc
thiền trong khi quán sát đề mục phát triển tuệ minh sát, và đắc thiền khi
chứng đạt Đạo Quả.
Trong trường hợp thứ nhất, hành giả thành tựu trạng thái định tĩnh khi
đạt tuệ giác phân biệt tâm và vật chất, hay tuệ giác phân biệt danh sắc,
hay khi hành giả hiểu được đặc tính riêng của đề mục, sabhāva lakkhaṇa.
Như trong lúc quán sát phồng xẹp, hành giả thấy được đặc tính riêng
của vật chất biểu hiện của tứ đại như yếu tố gió là sự chuyển động, hay
của yếu tố đất là cứng mềm, của yếu tố lửa là nóng lạnh, hay của yếu tố
nước là sự dính chặt hay ẩm ướt. Hay thấy đặc tính riêng của tâm biểu hiện
qua sự nhận biết, buồn vui, ưa, thích, sướng, khổ..v.v... Hoặc hành giả
thành tựu trạng thái định tĩnh này khi thấy đặc tính chung, samañña
lakkhaṇa, biểu hiện qua sự sinh diệt của đề mục. Tâm hành giả có sự
định tĩnh. Hành giả chứng đắc tầng thiền minh sát.
Trong trường hợp thứ hai, hành giả đắc tầng thiền minh sát và chứng đạt
sự diệt tận của danh sắc, thành đạt Đạo Quả. Hãy tạm thời để vấn đề này
qua một bên.
Hãy đề cập đến hai chi thiền tầm, vilakka, và tứ, viccāra,
trong thiền định. Khi quán sát đề mục, hành giả hướng tâm một cách
chính xác và trực tiếp vào đề mục, đây là đặc tính của chi thiền tầm.
Sau khi đặt tâm trên đề mục, chi thiền tứ hình thành qua sự chà sát đề
mục và giữ yên trên đề mục. Khi hai chi thiền này có mặt liên tục làm chế
ngự được các chướng ngại tâm như ái dục, sân hận dã dượi, buồn ngủ
v.v..không để chúng xâm nhập tâm. Tâm vắng bóng phiền não. Tâm trở nên an
tịnh, tĩnh lặng. Trạng thái này gọi là tâm ẩn cư phiền não. Kế đến, hành
giả cảm thấy hoan hỉ biểu hiện qua các hình thức như nổi óc, rờn rợn..và
hành giả cảm thấy dễ chịu, an lạc, hạnh phúc. Tâm hành giả trở nên định
tĩnh gom tụ thành một điểm, ekkagatā. Tóm lại, hành giả chứng đắc
thiền định qua sự phát triển liên tục bằng các chi thiền tầm, tứ, hỉ, lạc,
và nhất tâm.
Trong thiền minh sát, sự đắc thiền minh sát cũng được khởi đầu nhờ yếu
tố tầm. Khi quán sát phồng xẹp, phải vận dụng sự hướng tâm về đề mục, là
tầm. Lúc ban đầu, cần phải có yếu tố tầm, làm trung gian giữa chánh niệm
và đề mục để nhận thấy được đặc tính riêng của đề mục, vì chánh niệm chưa
làm quen với đề mục. Giống như một người lạ muốn vào gặp vua, không thể
trực tiếp gặp nhà vua được, trước nhất cần có người trung gian tiến dẫn
đến cho gặp vua. Sau này, quen dần, không còn cần người tiến dẫn nữa. Cũng
như vậy, lực đầu cần phải có sự hướng tâm về đối tượng hay tầm làm trung
gian giữa chánh niệm và đề mục. Chánh niệm nhờ đó được giữ liên tục trên
đề mục như thể xúc chạm, chà sát đề mục. Đây là biểu hiện của yếu tố tứ,
sự xúc chạm và chà sát đề mục. Lúc này coi như chánh niệm có sự quen thuộc
được đề mục. Do đó, nhờ sự phát triển của tầm và tứ, chánh niệm tăng
trưởng sự tiếp xúc và duy trì trên đề mục mạnh hớn nữa, tăng trưởng sự
quen thuộc với đề mục hơn nữa. Đến lúc này, hành giả cảm thấy tự tin với
sự thực hành của mình. Hành giả cảm thấy hoan hỉ, sung sướng, bình an, đưa
đến sự an tịnh trong tâm. Tâm trở nên định tĩnh. Hành giả kinh nghiệm sự
đắc thiền minh sát.
Theo tiến trình thiền tập, sức mạnh sát na định trở nên mạnh mẽ bảo vệ
tâm không bị phiền não xâm nhập. Tâm không còn bị giao động, trở nên an
tỉnh. Giống như một 1y nước bị quấy đục với cặn.bã, khi được để yên, dần
dần nước bớt đục, cặn bã lắng đọng xuống đáy ly, cuối cùng chỉ còn nước
trong bên trên, cặn bã nằm bên dưới. Cũng giống như vậy, khi sát na định
trở nên mạnh mẽ ngăn chận không để các ô nhiễm ái dục, sân hận, dã dượi
buồn ngủ, v.v.. xâm nhập tâm, tâm trở nên trong sạch an tịnh. Nhờ tâm an
tịnh, phát sinh sự hiểu biết như khả năng nhận thấy thế nào là đề mục quán
sát và thế nào là tâm ghi nhận, hay sự phân biệt được tâm và vật chất
(namā và rūpa), còn gọi là danh sắc. Hành giả cũng hiểu được
thế nào là tương quan nhân quả của các hiện tượng tâm và vật chất. Đây là
minh sát tuệ đầu tiên. Thấy được tác ý là tâm làm nhân, chuyển động là vật
chất hay sắc, là quả. Hoặc thấy vật chất là nhân, tâm là quả, hay tâm là
nhân, tâm là quả, hay vật chất làm nhân tạo ra vật chất là quả. Hành giả
hiểu được rõ ràng tương quan nhân quả của các hiện tượng. Tiếp tục phát
triển sát na định sẽ đưa đến sự hiểu biết bản chất sinh diệt của tâm và
vật chất. Hành giả hiểu được đặc tánh chung của các pháp là vô thường, bất
toại nguyện, và thấy rằng tất cả các hiện tượng tâm và vật chất chỉ đơn
thuần là một tiến trình, mả không có cái tôi ta, tự ngã, hay linh hồn nào
trong tiến trình này.
Theo sự tiến triển trong thiền tập, sức mạnh của chánh niệm và sát na
định ngày càng phát triển hơn nữa, hành giả kinh nghiệm các pháp sinh diệt
vô cùng mau lẹ. Tâm không bị phiền não chi phối do năng lực chánh
niệm được duy trì liên tục. Ở giai đoạn này, ái dục, kāmacchanda
nīvaraṇa, tạm thời không còn sinh khởi. Hỉ, lạc phát sinh. Tâm an tịnh
một cách phi thường. Trạng thái này tương đương với sự thành đạt cận định
hay nhập thiền trong thiền vắng lặng.
Đặc biệt khi hành giả đạt tuệ giác cao hơn như tuệ sinh diệt,
udayabbaya-ñāṇa, hay tuệ diệt, bhanga-ñāṇa, sát na định càng
trở nên mạnh nhiều hơn nữa. Hành giả cũng chứng nghiêm được hỉ, lạc, hay
ánh sáng v.v... là những kết quả đem lại sự vui thích, khích lệ, làm cho
hành giả không còn thoái thác trong thiền tập. Chánh niệm giờ đã quen
thuộc với đề mục nên không còn nhờ yếu tố tầm làm trung gian. Thiền tập
trở nên có trớn mạnh, không còn khó khăn như trước kia. Chánh niệm tự động
hướng đến đề mục và tự động duy trì trên đề mục. Hành giả không còn cần
phải cố gắng đưa tâm về đề mục và cố sức duy trì chánh niệm trên đề mục.
Hai yếu tố tầm và tứ giờ đây không còn. Hỉ lạc phát sinh càng mạnh hơn.
Hành giả vui thích với hỉ lạc nhiều hơn. Hành giả có khuynh hướng dính mắc
vào các cảm giác sung sướng, lâng lâng, an lạc... Sự dính mắc vào các cảm
giác, nikanti, làm cho đình trệ pháp hành. Hành giả phải tiếp tục
gia tăng chánh niệm vào tất cả các hiện tượng, sao cho sự dính mắc không
còn xuất hiện nơi tâm nữa.
Chúng ta đã bàn qua các điểm khác biệt giữa thiền vắng lặng và thiền
minh sát. Trong thiền chỉ, đề mục hành thiền thuộc về tục đế. Hành giả chú
tâm quán sát đề mục cố định, làm cho tâm định tĩnh. Trong thiền minh sát,
đề mục hành thiền thuộc về chân đế. Hành giả quán sát tất cả các hiện
tượng tâm và vật chất sinh khởi, hình thành tuệ minh sát. Hành giả hiểu
được thế nào là thân tâm, hay danh sắc, thế nào là nhân quả, và hiểu được
ba đặc tánh: Vô Thường, Bất Toại Nguyện, và Vô Ngã, để cuối cùng chứng đạt
Đạo Quả.
Do đó, thay vì thực hành thiền chỉ, bạn có thể trực tiếp hành thiền
minh sát để thành đạt thánh quả.
-ooOoo-
Ðầu trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
|
Chân thành cám ơn đạo hữu Hồ Trung Mỹ
đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2005).
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated:
30-08-2005