Tâm Từ
Tỳ
kheo Hộ Pháp
[01]
Lời ngỏ
Tâm từ, theo
cách nghĩ đơn giản là tình thương đối với người hay chúng sinh nào đó,
khi ta nhận thấy người ấy, chúng sinh đó dễ thương. Như vậy thật ra đó
chưa phải là tâm từ.
Quyển sách
nhỏ "Tâm Từ"do sư Hộ Pháp biên soạn, đọc từ đầu đến cuối mới hiểu rõ: có
được tâm từ không phải đơn giản.
Trong cuộc
sống của nhân loại nói riêng, tất cả chúng sinh, sinh vật nói chung,
tâm từ là một nguồn sinh lực cần thiết không những để cho tâm tính
con người hiền hoà, mà còn tạo một môi trường mát mẻ để cho mọi sinh vật
được tăng trưởng tốt đẹp, tạo cho cảnh vật thiên nhiên thêm xanh tươi
phát triển.
Phật tử Tổ
đình Bửu Long nhận thấy những lợi ích lớn lao của tâm từ, nên xin
ấn hành quyển sách nhỏ này để cống hiến quý độc giả gần xa làm món quà
pháp quý giá, nhất là đối với hành giả nào muốn tiến hành thiền định với
đề mục niệm rải tâm từ.
Trong những
ngày lễ đáng ghi nhớ như: lễ mừng thọ, lễ tang, lễ thăng chức, lễ tân
gia, lễ khai trương, v.v... chúng ta nên tặng sách đến các vị khách quý
làm món quà lưu niệm. Trong quyển sách, có thêm trang đầu để ghi tên vị
khách và ý nghĩa của ngày lễ ấy. Ðó không những là pháp thí thanh cao,
thiện pháp tăng trưởng, mà còn tạo được tình cảm sâu sắc, khó quên đối
với vị khách quý ấy.
Với thiện
tâm trong sáng
Phật tử Tổ đình Bửu Long
-ooOoo-
Lời mở đầu
Tâm từ,
nói một cách nôm na là tình thương yêu, là một tình cảm thiêng
liêng đối với tất cả chúng sinh dầu nhỏ dầu lớn, là một nhu cầu thiết
yếu trong đời sống của mỗi chúng sinh.
Tất cả sinh
vật
[1]
hiện hữu nói chung, tất cả mọi chúng sinh nói riêng, thường có hai nhu
cầu thiết yếu:
- Nhu cầu về
vật chất:
như vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh, v.v...
- Nhu cầu về
tinh thần:
ở đây chỉ muốn đề cập đến tình cảm thiêng liêng, tình thương yêu
đối với tất cả chúng sinh gọi là tâm từ, chỉ có trong thiện tâm
trong sáng mà thôi, là một món ăn tinh thần ngon lành bổ dưỡng không
những nhất thời, mà còn nuôi dưỡng thiện tâm tăng trưởng, đem lại sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai, cả
cho mình lẫn cho tất cả mọi chúng sinh nữa; cho nên, tâm từ là
một nguồn sinh lực quý giá, một thứ bảo bối bảo vệ an toàn cho thân tâm.
Ðể có được
tâm từ không phải là việc dễ dàng, mà đòi hỏi hành giả cần phải
có nền tảng vững chắc để tâm từ phát sanh, có tâm tinh tấn không ngừng,
có đức nhẫn nại, kiên trì thực hành niệm rải tâm từ đúng theo phương
pháp, thì tâm từ mới có thể phát sanh và tăng trưởng, chắc chắn đem
lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho mình và những người gần gũi
thân cận, cùng tất cả chúng sinh, không ngoại trừ một ai.
Bởi vì, hành
giả niệm rải tâm từ rộng lớn vô lượng, vô biên đến tất cả chúng sinh,
hoà đồng giữa mình cùng với tất cả chúng sinh; chan hoà cùng khắp, mọi
sinh vật tiếp nhận sự an lành, mát mẻ trong một môi trường sinh khí phát
xuất từ tâm từ, làm cho các sinh vật được tươi tốt và tăng trưởng.
Vậy tâm từ là gì?
Tâm từ
chính là tâm sở vô sân đồng sanh trong đại thiện tâm có đối tượng
là tất cả chúng sinh. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả
chúng sinh, không ngoại trừ một chúng sinh nào. Người có tâm từ vô lượng
vô biên rải khắp cùng mọi sinh vật; tâm từ rải đến nơi nào, chúng sinh
muôn loài hưởng được an lành mát mẻ nơi ấy; tâm từ rải khắp mọi nơi thì
chúng sinh muôn loài hưởng được an lành, mát mẻ khắp mọi nơi.
Ngược lại
với tâm từ là "tâm từ giả", cũng là tình thương yêu, nhưng
lại phát sanh từ tâm tham trong đối tượng chúng sinh nào đáng hài
lòng, người nào đáng hài lòng, v.v...
Nếu đối
tượng chúng sinh, con người ấy làm điều gì không đáp ứng được tâm
tham muốn, thì chủ thể, người mong muốn ấy cảm thấy bất mãn, thất
vọng; nghĩa là tham mà không được như ý của mình, thì chính
tâm tham ấy làm nhân duyên phát sanh tâm sân thù ghét, phá
hoại đối tượng chúng sinh, con người ấy. Do đó, tình thương yêu
phát sanh từ tâm tham gọi là "tâm từ giả".
Sự khác nhau
giữa "tâm từ giả" và tâm từ do theo tâm và đối tượng.
- Tâm từ giả
đồng sanh với tâm tham, có đối tượng là chúng sinh, con người
đáng yêu theo tâm tham của mình; nếu đối tượng chúng sinh, con người ấy
không còn thoả mãn theo tâm tham, thì làm nhân duyên phát sanh tâm
sân làm hại đối tượng ấy. Ðó là tính chất của "tâm từ giả".
- Tâm từ
là tâm sở vô sân đồng sanh với thiện tâm, có đối tượng là tất cả
chúng sinh, không ngoại trừ một ai, dầu trong số tất cả chúng sinh ấy,
biết có chúng sinh là kẻ thù của mình, thì thiện tâm vẫn không thay đổi,
hành giả vẫn niệm rải tâm từ cầu mong tất cả chúng sinh:
- Không oan
trái lẫn nhau,
- Không khổ thân,
- Không khổ tâm,
- Giữ gìn thân tâm thường được an lạc.
Ðó là tính
chất đặc biệt của tâm từ.
Hành giả
niệm rải tâm từ là người cần phải có tâm từ trước tiên; cũng ví như
người thí chủ muốn làm phước bố thí, cần phải hội đủ các điều kiện:
- Tác ý
thiện tâm bố thí.
- Có vật thí đầy đủ sẵn sàng.
- Có người thọ thí xong.
Khi ấy,
người thí chủ mới thành tựu phước thiện bố thí.
Cũng như
vậy, hành giả niệm rải tâm từ, trước tiên phải có đầy đủ tâm từ, rồi mới
niệm rải tâm từ ấy đến tất cả chúng sinh, không ngoại trừ chúng sinh
nào.
Hành giả nên
niệm rải tâm từ bằng tiếng Pāḷi, lời giáo huấn của Ðức Phật, là
một thứ tiếng phổ thông đối với các hàng chư thiên, phạm thiên, lại còn
có thể tạo được cảm giác nơi các loài chúng sinh; điều quan trọng, khi
tâm niệm, hành giả cần phải hiểu rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu Pāḷi
ấy.
Quyển sách
nhỏ này bần sư đã dày công biên soạn, chỉ dẫn tiến hành niệm rải tâm từ
theo nhiều phương pháp như:
- Phương
pháp theo bài kinh Tâm Từ (Mettāsutta).
- Phương pháp theo bộ Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga).
- Phương pháp theo bộ Paṭisambhidāmagga, v.v...
Ðể giúp cho
quý hành giả, độc giả tìm hiểu, nghiên cứu, chọn lựa phương pháp tiến
hành niệm rải tâm từ nào thích hợp với bản tánh, với căn duyên của mỗi
hành giả, để cho sự tiến hành niệm rải tâm từ đạt được hiệu quả tốt
nhất.
Sư Hộ Pháp
-ooOoo-
TÂM TỪ
Tâm từ
dịch nghĩa từ danh từ tiếng Pāḷi: mettacitta.
- Mettà: từ,
thương, tình thương.
- Citta: tâm, sự biết.
Mettācitta:
tâm từ, biết thương, tình thương cao thượng, tình thương cả mình lẫn tất
cả chúng sinh; cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho
mình và mọi chúng sinh đồng nhau cả thảy.
Ðối tượng
của tâm từ
là chúng
sinh đáng yêu, đáng mến, đáng kính (piyamanāpasattapaññatti),
thuộc chế định pháp.
Tâm từ là
tâm nào?
Thật ra, tâm
từ không có tâm riêng biệt trong các loại tâm [2].
Tâm từ này là một trong những phận sự biết đối tượng của tâm sở vô
sân (adosacetasika), khi đối tượng là chúng sinh đáng yêu,
đáng mến, đáng kính, thuộc chế định pháp.
Tâm sở vô
sân thuộc loại tâm sở tịnh hảo (sobhanacetasika) đồng sanh với
tất cả tịnh hảo tâm [3]
(sobhanacitta) có 6 đối tượng: sắc trần, thanh trần, hương trần,
vị trần, xúc trần và pháp trần gồm có đối tượng chân nghĩa pháp và chế
định pháp.
Nếu tâm
sở vô sân đồng sanh với tịnh hảo tâm không biết đến đối tượng chúng
sinh đáng yêu, đáng mến, đáng kính, thì tâm sở vô sân ấy không
gọi là tâm từ.
Nếu tâm
sở vô sân đồng sanh với tịnh hảo tâm biết đối tượng chúng sinh đáng
yêu, đáng mến, đáng kính, thì khi ấy tâm sở vô sân ấy gọi là
tâm từ.
Tâm từ, tình
thương là một trong 4 đức tính (từ, bi, hỉ, xả) trong tâm của người mẹ,
người cha; nên thường gọi mẹ là từ mẫu, gọi cha là từ phụ.
Xét theo
tâm, thì tâm từ và tâm bi không bao giờ đi đôi, không đồng
sanh với nhau, bởi vì chúng có đối tượng chúng sinh khác nhau:
Tâm từ
có đối tượng chúng sinh đáng yêu, đáng mến, đáng kính
(piyamanāpasattapaññatti), cầu mong tất cả chúng sinh được sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.
Tâm bi
có đối tượng chúng sinh đang bị khổ đau (dukkhitasattapaññatti).
Tâm bi cảm thấy thương xót, cầu mong cứu giúp chúng sinh ấy thoát khỏi
cảnh khổ ấy.
Do đó, khi
nào có tâm từ, thì khi ấy không có tâm bi; và ngược lại khi nào có tâm
bi, thì khi ấy không có tâm từ.
Tâm từ là
tình thương:
Tình thương
có 3 loại:
- Tình
thương với tâm tham ái (taṇhāpema).
- Tình thương trong gia đình (gehasitapema).
- Tình thương với tâm từ (mettā-adosa).
1- Tình
thương với tâm tham ái như thế nào?
Tình thương
với tâm tham ái là tình thương giữa người nam với người nữ có quan hệ
tình cảm yêu đương thắm thiết, gắn bó với nhau do tâm tham, hài
lòng với nhau; tình thương này thường có giới hạn giữa người nam với
người nữ, mỗi người tự xem như thuộc sở hữu của nhau, do tâm tham ấy nên
thường xảy ra khổ tâm.
- Hai người
nam và nữ sống chung hoà hợp với nhau, nếu người này bị bệnh hoạn ốm đau
v.v..., thì người kia cũng bị khổ tâm lo lắng, chăm sóc, chữa trị cho
mau khỏi bệnh; nếu chữa trị bệnh không khỏi, người ấy từ bỏ cõi đời, thì
làm cho người kia khổ tâm sầu não thương tiếc đến người thương đã quá
vãng.
- Nếu người
này nghi ngờ lòng chung thuỷ của người kia hoặc bị phụ bạc, phản bội,
thì cảm thấy khổ tâm dẫn đến thù ghét, đành phải từ bỏ nhau v.v...
Ðó là tình
thương với tâm tham ái giữa nam với nữ.
Ðức Phật
dạy: "Tham ái là nhân sanh khổ đế". Cho nên, khi tham mà được hài lòng,
thì sẽ làm nhân sanh khổ lâu dài; khi tham mà không được hài lòng, thì
sẽ làm nhân sanh khổ dữ dội.
Tâm tham là
nhân, mà tâm sân là quả. Cho nên, thương bao nhiêu, thì khổ cũng bấy
nhiêu!
2- Tình
thương trong gia đình như thế nào?
Tình thương
trong gia đình là tình thương giữa những người trong gia đình, dòng họ
có cùng huyết thống, và những người khác dòng họ như con dâu, con rể
v.v... có mối liên quan mật thiết, đã trở thành những thành viên trong
gia đình, dòng họ. Tình thương này cũng có giới hạn những người trong
gia đình, dòng họ như: ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em, chú bác, cô
dì v.v... là những người thân quyến.
Tình thương
của những người này luôn luôn mong muốn sự khoẻ mạnh, sự lợi ích, sự
tiến hoá, sự an lạc lâu dài lẫn nhau. Nhưng nếu có người nào trong gia
đình, dòng họ bị bệnh hoạn ốm đau, thì những người thân cũng bị khổ tâm
lo chăm sóc, chữa trị người ấy, cầu mong cho mau lành bệnh; nếu chữa trị
không được, người ấy phải từ bỏ cuộc đời (chết), thì những người thân
trong gia đình khổ tâm sầu não thương tiếc đến người ấy.
Những người
lớn trong gia đình thường cầu mong cho các con, cháu được tốt lành,
không có điều gì không hay xảy ra; nhưng nếu có người con, cháu nào hư
hỏng, làm điều không tốt, những người lớn trong gia đình khổ tâm không
chịu nổi, thì rầy la, thậm chí còn đánh đòn để răn dạy đứa con, cháu hư
hỏng ấy. Ðó là tình thương trong gia đình, dòng họ; nếu tình thương này
xuất phát từ tâm tham, thì dù tham được hài lòng hoặc không được
hài lòng, cũng có thể làm nhân duyên phát sanh tâm sân làm cho
khổ tâm; nếu tình thương này xuất phát từ tâm thiện, thì tâm
thiện ấy cũng bị giới hạn trong gia đình, dòng họ, khó được trong sạch
hoàn toàn.
Cả hai loại
tình thương trên gọi là tâm từ giả, bởi vì tình thương ấy phát
sanh từ tâm tham, bị phiền não làm ô nhiễm, bị biến đổi theo đối tượng.
3- Tình
thương với tâm từ như thế nào?
Tình thương
với tâm từ là tâm từ rải khắp đến tất cả chúng sinh không giới hạn,
không ngoại trừ một chúng sinh nào, cầu mong tất cả chúng sinh thường
được an lạc.
Tâm từ
này có chi pháp là tâm sở vô sân (adosacetasika) đồng sanh
với thiện tâm có đối tượng tất cả chúng sinh không giới hạn, không ngoại
trừ một chúng sinh nào, (không có phân biệt ông bà, cha mẹ, anh chị em,
v.v... thân quyến trong gia đình, dòng họ).
Do đó, dù
đối tượng chúng sinh có biến đổi tốt hoặc xấu v.v..., thì thiện tâm có
tâm sở vô sân, tâm từ vẫn không biến đổi theo đối tượng chúng sinh ấy.
Tình thương
này gọi là tâm từ, bởi vì tình thương phát sanh từ thiện tâm
trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, không bị biến đổi theo đối
tượng hạng chúng sinh nào.
Tính chất đặc biệt của tâm từ:
- Tâm từ là
một trong 4 đề mục thiền định vô lượng tâm (appamaññā) (tâm từ,
tâm bi, tâm hỉ, tâm xả). Hành giả tiến hành thiền định với đề mục niệm
rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh không giới hạn, không loại trừ
chúng sinh nào, có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến
đệ tứ thiền sắc giới; vì đề mục thiền định này còn tuỳ thuộc vào chi
thiền lạc (sukha); nên không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới;
còn đệ ngũ thiền sắc giới, thì phải diệt chi thiền lạc, thay bằng chi
thiền xả.
- Tâm từ là
một trong 4 đức tính của bậc Phạm thiên (Brahmavihāra). Bậc Phạm
thiên có 4 đức tính cao thượng là từ, bi, hỉ, xả.
- Tâm từ là
một trong 10 pháp hạnh ba la mật để chứng đắc thành Ðức Phật Toàn Giác
hoặc Ðức Phật Ðộc Giác hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác...
Cuộc sống ở
trên đời, nếu người nào thường có tâm từ, thì người ấy được phần đông
mọi người thương yêu, quý mến, kính trọng, nên tránh được nhiều điều rắc
rối, mọi công việc được suôn sẻ, dễ thành công trong cuộc đời.
Ðối với
người tại gia cũng như bậc xuất gia, tâm từ đóng một vai trò quan trọng,
hỗ trợ cho việc tiến hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ để chứng
đắc các pháp cao thượng.
Tâm từ thể
hiện 3 môn
[4]
:
1-
Kāyakammamettā:
Tâm từ được
thể hiện ra bằng thân hành thiện với mọi người, mọi chúng sinh cả khi có
mặt lẫn lúc vắng mặt.
2-
Vacīkammamettā:
Tâm từ được thể hiện ra bằng khẩu nói điều thiện với mọi người, mọi
chúng sinh cả khi có mặt lẫn lúc vắng mặt.
3-
Manokammamettā:
Tâm từ phát sanh trong ý thức thiện tâm, cầu mong sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài đến cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh cả khi
có mặt lẫn lúc vắng mặt.
1- Tâm từ
được thể hiện ra bằng thân hành thiện với mọi người, mọi chúng sinh cả
khi có mặt lẫn lúc vắng mặt như thế nào?
- Những
người có tâm từ cùng sống chung với nhau trong một ngôi chùa hoặc một
ngôi nhà hoặc một nơi tập thể, mỗi người đều có chung một ý nghĩ giống
nhau rằng: "Ta nên sống làm cho hài lòng đối với các người bạn của
ta. Ta với các bạn, tuy thân khác nhau, song tâm vẫn giống nhau như
một".
Mỗi người
đều có ý nghĩ giống nhau như vậy, thì chắc chắn họ sống với nhau rất hoà
hợp như sữa hoà với nước, cùng nhau an hưởng được sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài.
Như vậy,
điều trước tiên, ta phải có tâm từ được thể hiện ra bằng thân hành
thiện, hành động tốt giúp đỡ các người bạn những công việc nặng, nhẹ;
những nhu cầu vật chất, tinh thần, v.v...
- Khi có mặt
các bạn, ta nên sẵn sàng cùng nhau chung sức vào công việc chung cho
được thành tựu tốt đẹp, đó cũng chính là công việc riêng của mỗi người;
bởi vì nếu việc chung được hoàn thành, thì việc riêng mới được đầy đủ
trọn vẹn. Khi bạn bị bệnh hoạn ốm đau, ta phải có bổn phận chăm nom săn
sóc, chữa trị bệnh cho bạn chóng khỏi bệnh.
- Khi vắng
mặt bạn, ta nên làm giúp những công việc dở dang của bạn cho xong, quét
dọn chỗ ở sạch sẽ, giặt giũ quần áo của bạn; nếu bạn phơi quần áo khô
xong, ta nên đem vào xếp cất gọn gàng, khi bạn đi về bị mưa ướt, có áo
quần sạch sẽ để thay, có cơm ăn nước uống, v.v...
Ðó là tâm từ
được thể hiện ra bằng thân hành thiện đối với các bạn cả khi có mặt lẫn
lúc vắng mặt.
2- Tâm từ
được thể hiện ra bằng khẩu nói điều thiện với mọi người, mọi chúng sinh
cả khi có mặt lẫn lúc vắng mặt như thế nào?
- Những
người có tâm từ, trong thiện tâm nghĩ những điều thiện đem lại sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho mọi người, mọi chúng sinh.
- Khi có mặt
các bạn, hội họp nhau trong tình thương yêu hoan hỉ, không nói những
điều nhảm nhí vô ích, mà đàm luận chánh pháp, nói với nhau trong 10
chuyện như: chuyện ít tham muốn, chuyện biết tri túc, chuyện nên sống
nơi thanh vắng, chuyện không sống chung chạ với mọi người, chuyện tinh
tấn tiến hành thiền tuệ, chuyện giữ gìn giới hạnh trong sạch, chuyện
tiến hành thiền định tâm vững chắc, chuyện tiến hành thiền tuệ thấy rõ
chân lý Tứ thánh đế, chuyện giải thoát bằng Thánh Ðạo - Thánh Quả,
chuyện trí tuệ quán xét tri kiến giải thoát, v.v... Họ sống và hoan hỉ
thực hành theo chánh pháp, thường được sự an lạc trong kiếp hiện tại.
- Khi vắng
mặt bạn, họ thương nhớ bạn ấy, thường tán dương ca tụng những đức tính
tốt của bạn trong tình thương yêu, kính mến nhau, giúp đỡ cho nhau mọi
công việc dù nhỏ, dù lớn một cách rất hoan hỉ trong công việc chung.
Riêng người bạn ấy là người sống gương mẫu, không những có giới hạnh
trong sạch, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, v.v...
mà còn động viên, khuyến khích các bạn chớ nên dể duôi trong mọi thiện
pháp.
Ðó là tâm từ
được thể hiện ra bằng khẩu nói điều thiện đem lại sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc đến cho mọi người, mọi chúng sinh cả khi có mặt lẫn lúc
vắng mặt.
3- Tâm từ
phát sanh trong ý thức thiện tâm cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an
lạc lâu dài đến cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh cả khi có mặt lẫn
lúc vắng mặt như thế nào?
Những người
có tâm từ, niệm rải tâm từ cầu mong đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự
an lạc lâu dài đến những bạn đồng phạm hạnh cả khi có mặt lẫn lúc vắng
mặt rằng:
- Cầu mong
các người bạn đồng phạm hạnh của tôi không oan trái với chúng sinh,
không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân thường được an lạc lâu
dài.
Ngoài ra,
những người có tâm từ thường niệm rải tâm từ đến tất cả mọi hạng người,
mọi chúng sinh không ngoại trừ chúng sinh nào rằng:
- Cầu mong
tất cả chúng sinh cả thảy không oan trái với chúng sinh, không có khổ
tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân thường được an lạc lâu dài.
Ðó là tâm từ
phát sanh trong ý thức thiện tâm, niệm rải tâm từ đến tất cả mọi hạng
người, mọi chúng sinh như vậy.
-ooOoo-
NIỆM RẢI TÂM
TỪ
Theo bài
kinh Tâm Từ
(Mettāsutta)
Nguyên nhân
của bài kinh Tâm Từ:
Một thuở nọ,
Ðức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt
ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Ðức Thế
Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích
hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu.
Khi ấy, có
nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong,
dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây
cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm
làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn
nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn
(1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan
hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp
được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ
khưu xong, bèn bạch rằng:
- Kính bạch
chư Ðại Ðức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ
suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có được
cơ hội làm phước cúng dường bốn món vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới,
nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỉ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng
con.
Chư Tỳ khưu
xét thấy chỗ ở, con người, vật thực... thích hợp cho việc tiến hành
thiền định, tiến hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô
cùng hoan hỉ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi
đối với chư Tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Chư Tỳ khưu
trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực
giới đức trong sạch của quý Ngài, làm cho nhóm chư thiên ngự trong lâu
đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân
quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống
rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư Tỳ khưu này sẽ ở đây
suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng: "Những vị
Tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai
dám trở lại lâu đài của mình trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị
ấy rời khỏi khu rừng núi này".
Rồi họ nhất
trí với nhau rằng: "Chúng ta nên hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ,
những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, v.v... khiến cho
các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa".
Thật vậy,
chư Tỳ khưu đang tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, ban đêm nhìn
thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi
những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư Tỳ khưu bị
dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy
ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sanh bệnh hoạn, làm cho tâm không
thể an trú trong đề mục thiền định.
Một hôm, chư
Tỳ khưu Tăng hội họp, vị Ðại Ðức trưởng nhóm hỏi chư Tỳ khưu rằng:
- Này chư
pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khoẻ mạnh,
da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng v.v... Nhưng bây giờ quý pháp đệ có
thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, v.v... quý
pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải
không?
Chư Tỳ khưu
bạch rằng:
- Kính bạch
Ngài Ðại Ðức, ban đêm, chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ,
nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu,
làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ
hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định,
phát sanh tình trạng như vậy, bạch Ngài.
Ngài Ðại Ðức
trưởng nhóm dạy rằng:
- Này chư
pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền
định, pháp hành thiền tuệ. Ðức Phật cho phép Tỳ khưu an cư nhập hạ hai
kỳ:
1- An cư
nhập hạ đầu: Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 (ÂL).
2- An cư nhập hạ sau: Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 (ÂL).
Vậy, chúng
ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép Ngài an
cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào?
Tất cả chư
Tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị Ðại Ðức trưởng nhóm, sửa
soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn,
Ngài truyền dạy rằng:
- Này chư Tỳ
khưu, Như Lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu: "Trong mùa
mưa, chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không
được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng". Vậy, do
nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ.
Chư Tỳ khưu
kính bạch Ðức Thế Tôn rõ những tai hoạ xảy ra do nhóm chư thiên trong
khu rừng núi ấy, cho nên, chư Tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ
suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin Ðức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau
tại một nơi chốn khác.
Quán xét
thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, Ðức Thế
Tôn khuyên dạy rằng:
- Này chư Tỳ
khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ;
lần này, Như Lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta
[5]
là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục
thiền định và làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, thích hợp đối với các
con.
Ðó là nguyên
nhân mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta: kinh Tâm Từ
này.
Sau khi học
tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn, chư
Tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong
khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư Tỳ
khưu, nên vô cùng hoan hỉ hộ độ chư Tỳ khưu sống yên ổn tiến hành thiền
định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới làm nền
tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy,
toàn thể chư Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4
Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao
thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư Tỳ khưu đều làm lễ
Suddhipavāraṇā: lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc
Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā: đại lễ thỉnh mời thanh tịnh.
Nội dung bài kinh Mettāsutta
(Kinh Tâm Từ)
Giai đoạn
thứ nhất:
Pháp hành
phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ (Mettāpubbabhāgapaṭipadā).
Hành giả là
bậc Thiện trí thông minh sáng suốt mong muốn những sự lợi ích cõi người,
cõi trời và cõi Niết Bàn. Ðối với những hành giả trú ngụ nơi rừng núi,
muốn tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, Ðức Phật dạy những hành giả ấy,
trước khi tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, cần phải nên thực hành đầy
đủ 15 pháp hành gọi là Mettāpubbabhāgapaṭipadā: Pháp hành phần
đầu của đề mục niệm rải tâm từ, đúng theo tinh thần cốt lõi của bài kinh
Mettāsutta này.
Những hành
giả có trí tuệ sáng suốt mong muốn sự lợi ích cao thượng chứng ngộ Niết
Bàn. Ðối với hành giả tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, trước tiên cần
phải thực hành đầy đủ 15 pháp hành (sau đó bắt đầu tiến hành đề mục niệm
rải tâm từ) như sau:
1- Sakko:
là người có khả năng, nghĩa là có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có
tính chân thật, có sức khoẻ tốt, có sự tinh tấn không ngừng, trí tuệ có
khả năng hiểu biết rõ về pháp học và pháp hành.
2- Uju:
là người ngay thẳng, chân thật, hành thiện pháp, không hề gian dối bằng
thân, bằng khẩu.
3- Sahuju:
là người có tính tình trung thực, hành thiện pháp bằng ý nghĩ.
4- Suvaco:
là người dễ dạy, khuyên dạy thế nào, thì thực hành như thế ấy, không
phải là người cứng đầu khó dạy.
5- Mudu:
là người nhu mì, tính hiền lành, thân hành động nhẹ nhàng mềm mỏng; khẩu
nói lời êm dịu, dễ nghe; ý nghĩ những điều thiện, thương yêu, kính mến
mọi người.
6-
Anatimāni:
không ngã
mạn, không tự cho mình hơn người hoặc bằng người hoặc thua người; đối
với người lớn hơn mình, thì cung kính lễ phép; đối với người bằng mình,
thì sống hoà nhã; đối với người nhỏ hơn mình, thì tận tình giúp đỡ.
7-
Santussako:
là người
biết tri túc trong của cải của mình. Tri túc trong của cải có 3 ý nghĩa:
- Hài lòng
trong của cải mình đã có sẵn.
- Hài lòng trong của cải của mình đang có được.
- Hài lòng trong của cải dù tốt dù xấu (tâm không coi trọng đồ tốt,
không coi khinh đồ xấu).
8- Subharo:
là người dễ nuôi, người khác nuôi dưỡng như thế nào cũng hoan hỉ như thế
ấy, không hề lựa chọn, phân biệt tốt xấu, ngon dở, nhiều ít, có không,
v.v...
9-
Appakicco:
là người ít
công ít việc. Ðối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ
ít công việc chừng nào tốt chừng ấy; vì ít công việc thì mới có nhiều
thì giờ hành đạo.
10-
Sallahuvutti:
là người có
đời sống nhẹ nhàng; đi lại nhẹ nhàng, giống như con chim có đôi cánh để
bay, có cái mỏ để kiếm ăn vừa đủ nuôi mạng trong ngày. Hành giả có đời
sống nhẹ nhàng, đối với bậc xuất gia chỉ cần có 8 món vật dụng cần thiết
hằng ngày, nhất là tam y mặc che thân, có cái bát để đi khất thực nuôi
mạng trong ngày.
11-
Santindriyo:
là người
biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Khi mắt nhìn thấy sắc đẹp hoặc xấu;
khi tai nghe âm thanh hay hoặc dở; khi mũi ngửi mùi thơm hoặc hôi; khi
lưỡi nếm vị ngon hoặc dở; khi thân xúc giác cứng hoặc mềm, nóng hoặc
lạnh v.v...; khi tâm biết các đối tượng đáng hài lòng hoặc không đáng
hài lòng, hành giả biết thu thúc lục căn thanh tịnh không để cho phiền
não tham, sân, si phát sanh, chỉ có thiện tâm phát sanh mà thôi.
12- Nipako:
là người có trí tuệ thông minh sáng suốt, hiểu biết rõ sự lợi ích cao
thượng Niết Bàn, chỉ mong thực hành pháp hành thiền tuệ để mau chóng
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và
Niết Bàn giải thoát khổ sanh mà thôi.
13-
Appagabbho:
là người có
thân, khẩu, ý được trau dồi thuần đức.
14- Kulesu
ananugiddho:
là người
không quyến luyến trong các gia đình, để tránh tình trạng vui cùng vui
với nhau, khổ cùng khổ với nhau.
15- Yena
viññū pare upavadeyyuṃ, na ca khuddamācare kiñci:
những bậc Thiện trí chê trách điều ác nào, không làm điều
ác ấy dù là rất nhỏ.
Ðó là 15
pháp hành mà hành giả phải nên thực hành đầy đủ trước khi tiến hành đề
mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh. Nếu hành giả thực hành không
đầy đủ 15 pháp hành này trước, thì sự tiến hành đề mục niệm rải tâm từ
không đạt được hiệu quả tốt trong pháp hành thiền định.
Ví dụ:
Người nông
dân trước khi gieo trồng hạt giống xuống đất, cần phải làm cỏ cho sạch,
cày sâu bừa kỹ, dẫn nước vào, rải phân, v.v... đó là giai đoạn đầu phải
làm đầy đủ, tiếp theo mới gieo giống, khi ấy hạt giống mới có đủ điều
kiện nảy mầm thành cây rồi tăng trưởng...
Nếu người
nông dân làm không đầy đủ khâu đầu tiên, thì việc gieo trồng không đạt
được hiệu quả tốt trong nông nghiệp.
Giai đoạn
thứ nhì:
Phương pháp
tiến hành niệm rải tâm từ.
Sau khi thực
hành đầy đủ 15 pháp hành phần đầu của bài kinh Tâm Từ, đến giai đoạn thứ
nhì, hành giả bắt đầu tiến hành niệm rải tâm từ theo tinh thần cốt lõi
bài kinh Tâm Từ (Mettāsutta) có 2 phần:
I- Phần đầu:
Hành giả niệm rải tâm từ, cầu mong tất cả chúng sinh được sự tiến hoá,
sự an lạc gọi là: hitasukhāgamapatthanāmettā.
Trong phần
này, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có ba phương pháp:
1-
Sabbasaṅgāhikamettā:
Tiến hành
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp.
2- Dukabhāvanāmettā: Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có
2 nhóm.
3- Tikabhāvanāmettā: Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có
3 nhóm.
1- Tiến hành
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp như thế nào?
Tiến hành
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp gom vào nhau, không phân
loại chúng sinh khác nhau. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả
chúng sinh không giới hạn, theo bài kệ trong bài kinh Tâm Từ như sau:
"Sukhino vā
khemino hontu.
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường an lạc, được bình an vô sự; tâm
thường được an lạc).
Khai triển
phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp này theo
trạng thái có ba phương pháp tiến hành:
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
"Sabbe sattā
sukhino hontu".
(Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
"Sabbe sattā
khemino hontu".
(Cầu mong tất cả chúng sinh, sống được bình an vô sự).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
"Sabbe sattā
sukhitattā bhavantu".
(Cầu mong tất cả chúng sin,h tâm thường được an lạc).
Ðó là phương
pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp chung
trong tam giới
[6]
gồm có 31 cõi, có 4 loại chúng sinh
[7]
không giới hạn, không ngoại trừ hạng chúng sinh nào.
2- Tiến hành
niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm như thế nào?
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm gồm 4 loại như sau:
- Tasa
thāvara duka:
chúng sinh còn sợ và không còn sợ.
- Diṭṭhādiṭṭha duka: chúng sinh được nhìn thấy và không được nhìn
thấy.
- Dūra santika duka: chúng sinh ở xa và ở gần.
- Bhūtā sambhavesi duka: chúng sinh là bậc Thánh A-ra-hán và bậc
Thánh Hữu Học, với hạng phàm nhân.
Phương pháp
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm tuần tự như sau:
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā sabbasattā bhavantu
sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh còn sợ (hạng
phàm nhân và bậc Thánh Hữu Học
[8]);
và hạng chúng sinh không còn sợ (bậc Thánh A-ra-hán), thân tâm thường
được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi diṭṭhā vā adiṭṭhā vā anavasesā sabbasattā bhavantu
sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh được nhìn thấy
và hạng chúng sinh không được nhìn thấy, thân tâm thường được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi dūrā vā avidūrā vā anavasesā sabbasattā bhavantu
sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh ở nơi xa và
hạng chúng sinh ở nơi gần, thân tâm thường được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi bhūtā vā sambhavesī vā anavasesā sabbasattā bhavantu
sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh đã thành rồi
(bậc Thánh A-ra-hán); và hạng chúng sinh còn phải tái sanh kiếp sau (bậc
Thánh Hữu Học và hạng phàm nhân), thân tâm thường được an lạc).
Ðó là phương
pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm trong tam giới.
3- Tiến hành
niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm như thế nào?
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm gồm 3 loại như sau:
Dīgha
rassa majjhima tika:
chúng sinh có thân hình dài, ngắn, trung bình.
Mahantāṇuka majjhima tika: chúng sinh có thân hình to, nhỏ, trung
bình.
Thulāṇuka majjhima tika: chúng sinh có thân hình mập, ốm, trung
bình.
Phương pháp
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có thân hình khác nhau phân
chia làm 3 nhóm tuần tự như sau:
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình
rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi dīghā vā rassā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā
bhavantu sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình
dài, thân hình ngắn, thân hình trung bình (không dài không ngắn), thân
tâm thường được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác
rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi mahantā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā
bhavantu sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình
to lớn, thân hình nhỏ bé, thân hình trung bình (không lớn không nhỏ),
thân tâm thường được an lạc).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác
nữa rằng:
"Ye keci
pāṇabhūtatthi thūlā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā
bhavantu sukhitattā".
(Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình
mập mạp, thân hình gầy ốm, thân hình trung bình (không mập không gầy),
thân tâm thường được an lạc).
Ðó là phương
pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nhau
trong tam giới.
Tóm lại, ba
phương pháp niệm rải tâm từ: tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng
sinh tổng hợp; tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm; tiến
hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. Cả ba phương pháp này đều
có tâm từ cầu mong cho tất cả chúng sinh trong tam giới, được sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc gọi là hitasukhāgamapatthanāmettā:
niệm rải tâm từ cầu mong tất cả chúng sinh đều được sự tiến hoá, sự an
lạc lâu dài.
II- Phần
hai:
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ, cầu mong chúng sinh không có sự thoái hoá, sự
khổ não không xảy đến với chúng sinh gọi là:
ahitadukkhānagamapatthanāmettā.
Phần này,
niệm rải tâm từ trong những trường hợp như sau:
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
"Na paro
paraṃ nikubbetha".
(Cầu mong người này không nên lừa đảo làm khổ người kia).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
"Katthaci
kiñci naṃ nātimaññetha".
(Cầu mong người này không khinh thường người khác bất cứ nơi nào).
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
"Byārosanā
paṭighasaññā aññamaññassa dukkhaṃ na iccheyya".
(Cầu mong chúng sinh đừng làm khổ lẫn nhau bằng thân hoặc bằng khẩu do
tâm sân oán thù).
Ðó là phương
pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh cầu mong chúng sinh không
có sự thoái hoá, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh, chỉ có sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc thường phát sanh đến tất cả chúng sinh mà
thôi.
Tâm từ như
thế nào?
Tâm từ là
tình thương đối với tất cả chúng sinh như Ðức Phật dạy:
"Mātā niyaṃ
puttaṃ, ekaputtaṃ āyusā anurakkhe yathā, evampi sabbabhūtesu aparimāṇaṃ
mānasaṃ bhāvaye".
Ví như một
từ mẫu thương yêu đứa con duy nhất, bà đặt trọn vẹn tình thương yêu của
mình nơi đứa con ấy, giữ gìn, dưỡng dục đứa con yêu quý độc nhất bằng
sanh mạng của mình như thế nào, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ vô
lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn cũng như thế ấy.
"Uddhaṃ adho
ca tiriyañca, asam-bādhaṃ averaṃ asapattaṃ".
Hành giả
tiến hành niệm rải tâm từ đến toàn thể thế giới chúng sinh hướng
trên, 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên; hướng dưới 11 cõi
dục giới; ở khoảng giữa 16 cõi trời sắc giới phạm thiên, với tâm
từ trong thiện tâm không hẹp lượng, toả rộng khắp vô lượng vô
biên, không có tâm sân oan trái là kẻ thù bên trong, không có
kẻ thù bên ngoài. Do năng lực tâm từ vô lượng nên xoá bỏ được giới
hạn ranh giới giữa các chúng sinh, giữa mình với tất cả chúng sinh đều
mang tính chất đồng đẳng với nhau. Hành giả chứng đắc bậc thiền sắc giới
với đề mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới
hạn.
Ðề mục niệm
rải tâm từ này có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới
cho đến đệ tứ thiền sắc giới, nhưng không thể chứng đắc đệ ngũ
thiền sắc giới, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này luôn luôn cần có
chi thiền lạc; còn đệ ngũ thiền sắc giới thì cần phải diệt chi thiền
lạc thay bằng chi thiền xả. Do đó, đề mục niệm rải tâm từ không
thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới.
"Tiṭṭhaṃ
caraṃ nisinno vā, sayāno vā yāvatā’ssa vitamiddho, etaṃ satiṃ
adhiṭṭheyya. Idha etaṃ brahmaṃ vihāraṃ āhu".
Khi hành giả
đang đứng hoặc đang đi hoặc đang ngồi hoặc đang nằm mà không buồn ngủ,
khi ấy tâm an trú trong bậc thiền sắc giới với tâm từ vô lượng.
Ðức Phật
dạy: "Hành giả có bậc thiền với tâm từ đó là cách sống cao thượng".
Tâm từ với
thiền tuệ:
Ðề mục niệm
rải tâm từ có đối tượng chúng sinh thuộc chế định pháp
(paññattidhamma), cho nên, khi hành giả tiến hành thiền định với đề
mục này, chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc giới, nhưng chắc chắn
không thể chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn được.
Muốn chứng
đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả cần phải tiến hành thiền
tuệ, có đối tượng danh pháp, sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp
(paramatthadhamma). Vì vậy, sau khi đã chứng đắc bậc thiền sắc
giới nào rồi, hành giả cần phải thoát ra khỏi bậc thiền sắc giới ấy,
dùng tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy làm nền
tảng, làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Ðối tượng
của pháp hành thiền tuệ đó là tâm thiền hoặc chi thiền của
bậc thiền ấy thuộc về danh pháp, và tâm thiền ấy phát sanh do
nương nhờ sắc ý căn (hadayavatthurūpa) thuộc về sắc
pháp. Hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp,
sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy
rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ
sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ
trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh
pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và
hoài nghi không còn dư sót nữa.
Ðức Phật
dạy:
"Diṭṭhiñca
anupagamma, sīlavā dassanena sampanno".
Bậc Thánh
Nhập Lưu
hoàn toàn không còn tà kiến chấp ngã nơi ngũ uẩn nữa, bởi do Nhập
Lưu Thánh Ðạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn
và hoài nghi không còn dư sót nữa; cho nên, bậc Thánh Nhập Lưu có
giới đức hoàn toàn trong sạch (có định và tuệ chưa hoàn toàn).
Bậc Thánh
Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy
làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng
thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo -
Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn; rồi Bất Lai Thánh Ðạo -
Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn
tâm tham ái trong ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) ở cõi dục
giới, chỉ còn tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới mà thôi.
Ðức Phật
dạy:
"Kāmesu
vineyya gedhaṃ".
Bậc Thánh
Nhất Lai
có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong ngũ trần loại thô
cõi dục giới, còn loại vi tế chưa diệt được; đến bậc Thánh
Bất Lai mới có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong
ngũ trần loại vi tế cõi dục giới không còn dư sót, song tâm tham ái
trong cõi sắc giới và vô sắc giới chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh
Bất Lai không tái sanh trở lại cõi dục giới, chỉ còn tái sanh lên
cõi sắc giới phạm thiên và cõi vô sắc giới phạm thiên mà thôi.
Bậc Thánh
Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy
làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng
thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo -
A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tâm
tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới không còn dư sót, sẽ
tịch diệt Niết Bàn ngay kiếp hiện tại ấy, không còn tái sanh trở lại
kiếp sau khác nữa, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới
bốn loài.
Ðức Phật
dạy:
"Na hi
jātuggabbhaseyyaṃ puna reti".
Hành giả
tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh Ðạo - A-ra-hán
Thánh Quả và Niết Bàn, đã diệt đoạn tuyệt tất cả tâm tham ái không còn
dư sót rồi, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết
Bàn, không còn tái sanh kiếp sau khác nữa, giải thoát hoàn toàn mọi cảnh
khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.
(Giải thích
xong bài kinh Tâm Từ).
Nhận xét trước và sau bài kinh Tâm Từ
Lần trước,
chưa học và hành bài kinh Tâm Từ (Mettāsutta), 500 chư Tỳ khưu
vào trú ngụ tại khu rừng núi, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy
khổ thân khổ tâm. Nhóm chư thiên ấy đã hoá ra những cảnh tượng rùng rợn,
làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ phải từ bỏ khu rừng núi ấy trở về
hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép an cư nhập hạ ở một nơi khác.
Lần sau, học
và hành bài kinh Tâm Từ này, 500 chư Tỳ khưu trở lại vào trú ngụ tại khu
rừng núi cũ, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy thân tâm an lạc,
mát mẻ do năng lực niệm rải tâm từ của chư Tỳ khưu; nhóm chư thiên ấy
hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi ấy, thân tâm thường
được an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ,
chứng đắc bậc thiền sắc giới, và tiếp theo tiến hành thiền tuệ, tất cả
500 chư Tỳ khưu đều chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo - A-ra-hán Thánh
Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
Năm trăm chư
Tỳ khưu này là những bậc có giới đức trong sạch, có đầy đủ pháp hạnh ba
la mật để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, nhưng thiếu pháp
hành niệm rải tâm từ làm cho chư thiên mát mẻ, an lạc, nên chư thiên
đã gây trở ngại cho việc tiến hành thiền tuệ của chư Tỳ khưu. Nhưng về
sau, chư Tỳ khưu học và hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng
sinh không giới hạn, làm cho chư thiên ở cội cây trong khu rừng núi ấy
thân tâm được an lạc, mát mẻ; thay vì làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng
sợ như trước, thì chư thiên lại hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu an cư nhập
hạ, thân tâm an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ,
tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Bởi vậy cho nên,
pháp hành niệm rải tâm từ là một pháp hành cần thiết hỗ trợ không
những đối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, mà
còn là pháp hành hỗ trợ cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh được thân
tâm an lạc, mát mẻ trong tình thương, yêu quý mến lẫn nhau.
-ooOoo-
[1]
Sinh vật: vật có sự sống như tất cả chúng sinh, động vật, thực vật,...
chúng có sự sanh, sự tăng trưởng, sự già, sự chết.
[2]
Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm, và tâm sở có 52 tâm sở; trong số tâm, tâm
sở này không có tâm nào trực tiếp gọi là tâm từ.
[3]
Tịnh hảo tâm gồm có 59 hoặc 91 tâm.
[4]
Majjhimanikāya, Mūlapaṇṇāsa, Cuḷagosingasutta & Aṭṭhakathā.
[5]
Khuddakanikāya, bộ Suttanipāta, kinh Mettāsutta,
toàn bài kinh xin xem ở phần sau.
[6]
Tam giới: dục giới có 11 cõi, sắc giới có 16 cõi, vô sắc giới có 4
cõi.
[7]
4 loại chúng sinh: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh.
[8]
Bậc Thánh Hữu Học có 3 hạng: bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai,
bậc Thánh Bất Lai.
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 |
02 | 03 | 04 |