Tâm Từ
Tỳ
kheo Hộ Pháp
[03]
QUẢ BÁU CỦA TÂM TỪ
Trong bài kinh
Mettāsutta
[1],
Ðức Phật dạy có 11 quả báu của tâm từ như sau:
- Này chư Tỳ khưu, khi
hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới
xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho
định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn
không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như sau:
1- Ngủ được an lạc.
2- Thức dậy được an lạc.
3- Không thấy các ác mộng.
4- Ðược mọi người thương yêu, quý mến.
5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến.
6- Ðược chư thiên hộ trì.
7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí... không thể làm hại được.
8- Tâm dễ dàng an tịnh.
9- Gương mặt sáng sủa.
10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt).
11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới
(trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi
chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời
sắc giới phạm thiên.
- Này chư Tỳ khưu, khi
hành giả niệm rải tâm từ dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới
xong, đã thực hành qua thời gian lâu dài trở nên thuần thục rồi, làm cho
định tâm an trú vững chắc theo tuần tự, đã tích luỹ nhiều, đã tinh tấn
không ngừng, nên hành giả được 11 quả báu như vậy.
Giải Thích:
1- Ngủ được an lạc như
thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, tâm của họ thường sân hận, nóng nảy bực tức, cho nên
khi nằm ngủ trăn trở suốt đêm, dù nằm yên, mà vẫn không ngủ được, đến
khi mệt nhoài ngủ thiếp, cũng không được an lạc.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, thân tâm thanh tịnh, khi ngủ dễ dàng, ngủ là thời
gian nghỉ ngơi, cho nên ngủ được an lạc như hành giả nhập định.
2- Thức dậy được an lạc
như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, khi ngủ thiếp vì bị mệt nhoài, cho nên khi thức dậy,
không muốn dậy, mà phải thức dậy, vì vậy không được an lạc.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, khi ngủ dễ dàng, ngủ ngon giấc, nghỉ ngơi, cho nên
khi thức dậy được an lạc.
3- Không thấy các ác
mộng như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, nằm ngủ không ngon giấc; lúc không phải ngủ, cũng không
phải thức, cho nên thường xảy ra hiện tượng thấy những ác mộng kinh
hoàng, ví như: mộng thấy thú dữ đuổi theo mình, người đang vây bắt mình,
mình rơi xuống hố sâu, v.v... khi thức dậy còn thấy hồi hộp, lo sợ.
- Ðối với hành giả niệm
rải tâm từ, nằm ngủ ngon giấc; lúc không phải ngon giấc cũng không phải
thức, thường xảy ra hiện tượng mộng thấy như mình bay du ngoạn nơi này
nơi khác cảm thấy rất thích thú, hoặc mộng thấy mình đi chiêm bái ngôi
bảo tháp, nghe pháp v.v... hoặc mộng thấy trước những điều lành, điều
tốt sẽ xảy ra trong tương lai, v.v... khi tỉnh giấc còn ghi nhớ lại rõ
ràng, cảm thấy hài lòng, an lạc.
4- Ðược mọi người
thương yêu như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có nhân loại, không cầu
mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến tất cả nhân loại, nghĩa là
người nào không có tình thương yêu mọi người, thì người ấy không nhận
được tình thương yêu đáp lại, đó cũng là lẽ công bằng tự nhiên.
- Ðối với hành giả niệm
rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có nhân loại, cầu mong sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh, đặc biệt nhất
là tất cả nhân loại. Khi hành giả tiếp xúc với mọi người, tâm từ được
thể hiện bằng thân: thân hành động hợp với tâm từ; tâm từ được thể hiện
qua khẩu: lời nói hợp với tâm từ; tâm từ hợp với ý thức tâm cầu mong sự
lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là
tất cả loài người. Do đó, hành giả được mọi người thương yêu, quý mến.
5- Ðược các hàng phi
nhân thương yêu, quý mến như thế nào?
Phi nhân
có nghĩa là không phải người, nói đến tất cả các loài chúng sinh khác
như hạng phạm thiên, hạng chư thiên, loài ngạ quỷ, loài atula, loài súc
sanh... đều gọi là hàng phi nhân.
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có các hàng phi nhân,
cho nên các hàng phi nhân không những không thương yêu, mà còn có thể
gây ra mọi sự tai hại, mọi sự trở ngại đối với người ấy.
- Ðối với hành giả niệm
rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có hàng phi nhân, làm cho các
hàng phi nhân cảm thấy mát mẻ dễ chịu, phát sanh tâm hài lòng, hoan hỉ,
không những muốn được gần gũi thân cận với hành giả, mà còn thương yêu,
kính mến hộ trì hành giả sống được an lạc.
Dẫn chứng những trường
hợp như:
*
Một số chư Tỳ
khưu an cư nhập hạ ở trong khu rừng núi, trước kia, chư Tỳ khưu không
niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, nhóm chư thiên ở nơi cội cây
trong khu rừng ấy cảm thấy không hài lòng, không chịu khổ được, nên họ
biến hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những âm thanh rùng rợn, v.v...
làm cho chư Tỳ khưu phát sanh tâm sợ hãi, bệnh hoạn phải rời bỏ khu rừng
núi ấy trở về hầu Ðức Thế Tôn, xin phép được an cư nhập hạ ở nơi khác.
Ðức Thế Tôn quán xét thấy chỗ ở cũ thuận lợi, nên Ngài khuyên dạy chư Tỳ
khưu ấy trở lại chỗ ở cũ và Ðức Thế Tôn thuyết dạy bài kinh
Mettāsutta, chư Tỳ khưu lắng nghe rồi thực hành theo lời giáo huấn
của Ngài. Về sau, khi trở lại khu rừng núi cũ, chư Tỳ khưu tiến hành
niệm rải tâm từ, nhóm chư thiên ở nơi cội cây trong khu rừng ấy cảm nhận
được tâm từ của chư Tỳ khưu, nên tâm của họ vô cùng hoan hỉ, đón tiếp
chư Tỳ khưu, thương yêu, kính mến, hộ trì chư Tỳ khưu sống an lành suốt
mùa an cư nhập hạ trong khu rừng núi ấy. Chư Tỳ khưu tiến hành đề mục
niệm rải tâm từ làm nền tảng, tiếp theo tiến hành thiền tuệ, chư vị đều
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và
Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, trong mùa an cư nhập
hạ tại khu rừng núi ấy.
*
Một trường hợp
khác, Ngài Ðại Ðức Visakha thường tiến hành niệm rải tâm từ đến
tất cả chúng sinh, Ngài đến sống ở núi Cittala tiến hành thiền
tuệ suốt bốn tháng, rồi có một đêm, Ngài quyết định rằng: "Sáng ngày
mai, ta sẽ rời khỏi nơi này đi đến một nơi khác". Khi vào nằm ngủ, chư
thiên ở cội cây đến cầu thang (nơi cốc của Ngài đang ở) ngồi khóc, Ngài
Ðại Ðức nghe tiếng khóc bèn hỏi rằng:
- Ai khóc vậy?
- Kính bạch Ngài Ðại
Ðức, con là thiên nam Maṇila. - Vị chư thiên bạch.
- Này thiên nam
Maṇila, tại sao ngươi đến đây khóc?
- Kính bạch Ngài Ðại
Ðức, con biết ngày mai Ngài rời khỏi nơi này, nên con khóc.
- Này thiên nam
Maṇila, bần tăng sống ở nơi này có lợi ích gì cho ngươi?
- Kính bạch Ngài Ðại
Ðức, thời gian trước đây, khi Ngài chưa đến sống ở nơi này, nhóm chư
thiên ở đây hay giận hờn, thường cãi vã nhau, sống với nhau không được
an lạc chút nào. Nhưng kể từ khi Ngài đến sống nơi này, nhóm chư thiên
cảm nhận được tâm từ của Ngài, tất cả đều cảm thấy mát lành, nên sống
với nhau rất hoà thuận, thương yêu kính mến nhau, sống rất an lạc. Nếu
ngày mai, Ngài rời khỏi nơi này, nhóm chư thiên ấy sẽ phát sanh giận
hờn, gây gổ cãi vã nhau trở lại như trước, thì khổ tâm lắm! Con sợ cảnh
khổ ấy tái diễn, nên con buồn, con khóc. Bạch Ngài.
Lắng nghe vị thiên nam
Maṇila bày tỏ nỗi lòng lo sợ của mình, nên Ngài Ðại Ðức an ủi
rằng:
- Này thiên nam
Maṇila, bần tăng sống ở nơi này đem lại sự lợi ích, sự an lạc cho
các ngươi như vậy, bần tăng sẽ không đi nơi khác.
Vị thiên nam Maṇila
cảm thấy vô cùng hoan hỉ, tất cả chư thiên ở nơi ấy cũng hài lòng, hoan
hỉ, họ đều thương yêu, kính mến Ngài.
Ngài Ðại Ðức tiến hành
thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4
Thánh Quả và tịch diệt Niết Bàn tại núi ấy.
-
Không chỉ tất cả
các hàng chư thiên thương yêu kính mến hành giả tiến hành niệm rải tâm
từ, mà còn các loài súc sanh cũng thương yêu, kính mến người có tâm từ.
Như trường hợp Ðức Bồ Tát Suvannasāma sống với song thân là hai
đạo sĩ mù ở trong rừng, Ngài hành pháp hạnh tâm từ ba la mật, nên các
loài súc sanh thương yêu, kính mến Ngài. Ngài đi đâu chúng cũng đi theo
quấn quýt bên Ngài không rời nhau.
-
Và trường hợp
voi Nālāgiri sát nhân rất hung ác, Tỳ khưu Devadatta âm
mưu dùng nó để giết Ðức Phật. Ðược sự chấp thuận của Ðức vua
Ajātasattu, nên y đã cho voi Nālāgiri uống rượu say như điên
rồi đem thả ra trên đường mà Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đi vào thành
Rājagaha để khất thực. Voi Nālāgiri nhìn thấy Ðức Thế Tôn
từ xa ngự đến, liền ngước vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến
Ngài. Ðức Thế Tôn niệm rải tâm từ đến nó rồi gọi bằng phạm âm ngọt ngào,
trìu mến rằng:
- Này Nālāgiri
con yêu quý, con hãy đến đây với Như Lai.
Voi Nālāgiri
hung ác trong cơn say điên cuồng, nhưng khi nghe phạm âm ngọt ngào, trìu
mến phát sanh từ tâm từ của Ðức Thế Tôn, liền mở mắt, ngẩng đầu nhìn kim
thân của Ngài toả ra tâm từ làm cho cơn say điên cuồng tan biến, tâm
thức tỉnh, do nhờ oai lực tâm từ của Ðức Thế Tôn, voi Nālāgiri hạ
vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến quỳ một cách cung kính dưới bàn chân
Ðức Thế Tôn...
Và còn có nhiều trường
hợp khác tương tự như vậy.
Hành giả tiến hành niệm
rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, trong đó có các hàng phi nhân. Hành
giả sẽ được các hàng phi nhân thương yêu, kính mến như vậy.
6- Ðược chư thiên hộ
trì như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, chư thiên không gần gũi thân cận, nên không hộ trì
người ấy.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, do tâm từ mát mẻ, chư thiên
ưa thích gần gũi thân cận, nên thường hộ trì hành giả ấy.
7- Lửa hoặc chất độc
hoặc các loại vũ khí,... không thể làm hại được như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí... có thể làm
hại người ấy, đó là việc thông thường.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí... không
thể làm hại hành giả, bởi vì năng lực của tâm từ rất phi thường, có thể
hoá giải những thứ ấy trở thành vô hiệu, cho nên những thứ ấy không thể
làm hại được hành giả.
Dầu
bơ nóng không làm phỏng người có tâm từ:
Dẫn chứng trường hợp
tích nàng Uttarā
[2]
con gái
của phú hộ Puṇṇa, là một cận sự nữ đã chứng đắc thành bậc Thánh
Nhập Lưu, có đức tin trong sạch và vững chắc nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức
Tăng; chồng của nàng cũng là con trai của một phú hộ trong kinh thành
Rājagaha, là một gia đình tà kiến, không có đức tin nơi Tam bảo. Vì
vậy, từ khi về sống bên gia đình chồng, nàng không có cơ hội để làm
phước thiện bố thí cúng dường hộ độ Ðức Phật, chư Tăng và nghe pháp, bởi
vì nàng có bổn phận phải lo phục vụ chồng, nên không còn thì giờ rảnh
rỗi.
Một hôm nàng hỏi một tỳ
nữ rằng:
- Này em, còn bao nhiêu
ngày nữa là mãn mùa an cư nhập hạ của chư Tỳ khưu Tăng?
- Thưa bà chủ, còn 15
ngày nữa ạ!- Tỳ nữ thưa.
Nàng liền sai người đến
báo tin cho cha nàng là phú hộ Puṇṇa, biết rõ tình cảnh của mình.
Ông phú hộ hay tin con gái của mình đang khổ tâm như vậy, nên ông gởi
cho số tiền 15.000 đồng kahāpana (tiền Ấn xưa) và dạy bảo rằng:
"Trong thành có cô kỹ nữ Sirimā, thuê cô một ngày đêm là 1.000
đồng kahāpana. Với số tiền này, con có thể thuê cô ấy đến phục vụ
chồng của con trong 15 ngày, còn con có thì giờ rảnh rỗi để làm phước bố
thí cúng dường đến Ðức Phật, chư Tăng và nghe pháp".
Nàng Uttarā vâng
theo lời dạy của cha, thuê cô kỹ nữ Sirimā về, trao cho cô ta số
tiền 15.000 đồng kahāpana rồi nhờ cô lo phục vụ chồng nàng suốt
15 ngày đêm, cho đến ngày làm lễ mãn hạ. Cô kỹ nữ Sirimā hoan hỉ
đồng ý ngay.
Nàng dẫn cô kỹ nữ
Sirimā vào giới thiệu cùng đức phu quân mình rằng:
- Thưa đức phu quân,
đây là bạn gái của thiếp, người sẽ thay thiếp chăm lo, phục vụ chàng
suốt 15 ngày đêm tới kể từ hôm nay; để thiếp có thời gian làm phước bố
thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Tăng và nghe pháp.
Nhìn thấy sắc đẹp của
cô kỹ nữ Sirimā, nên chồng nàng liền đồng ý ngay.
Sau đó nàng đến hầu
đảnh lễ Ðức Thế Tôn bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, con kính thỉnh Ngài cùng chư Ðại Ðức Tăng, suốt nửa tháng kể từ
ngày mai, chỉ thọ nhận vật thực tại nhà của con mà thôi.
Ðức Thế Tôn chấp thuận
lời thỉnh mời của nàng bằng cách im lặng. Nàng Uttarā vô cùng
hoan hỉ nghĩ rằng: "Từ ngày mai cho đến ngày làm lễ Mahāpavāraṇā,
ta sẽ được làm phước bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức
Tăng và sẽ được nghe pháp".
Hằng ngày, nàng
Uttarā đã tự mình sắp đặt lo mọi công việc nấu nướng trong nhà bếp
lớn, điều hành mọi người làm đồ ăn thức uống ngon lành, để cúng dường
đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, trải qua 14 ngày như vậy.
Ðến hôm sau là ngày đại
lễ Mahāpavāraṇā, chồng của nàng đứng trên lâu đài, nhìn qua cửa
sổ thấy nàng vất vả cực nhọc, lo đi lại điều khiển mọi người làm đồ ăn
thức uống, rồi nghĩ với ý chê trách về nàng rằng: "Thật là đứa khờ
dại, hưởng an lạc như thế này không chịu, mà lại chịu vất vả khổ cực làm
đồ ăn thức uống bố thí đến các ông đầu trọc", rồi cười chế giễu bỏ
đi. Cô kỹ nữ Sirimā nhìn thấy con trai người phú hộ cười, muốn
biết chàng cười ai, cô đến chỗ cửa sổ ấy nhìn thấy nàng Uttarā,
cô nghĩ rằng chàng đã cười với nàng. Những ngày qua được phục vụ chồng
của nàng Uttarā, cô đã quên thân phận mình, nên nổi cơn ghen tức
nàng Uttarā, từ trên lâu đài cô vội xuống bếp, hậm hực đi về phía
nàng Uttarā. Ðến chảo dầu bơ đang sôi, múc ngay một gáo dầu bơ
nóng xăm xăm bước về phía nàng Uttarā.
Thoáng nhìn thấy cô kỹ
nữ, nàng Uttarā rải tâm từ đến cô ấy rằng: "Người bạn gái đã giúp
đỡ ta, toàn thế giới này vẫn còn chật hẹp, từ đây đến cõi phạm thiên
cũng còn thấp, còn công ơn của người bạn gái thật rộng lớn và cao cả vô
cùng. Chính ta đã nương nhờ cô ấy mà làm được phước bố thí cúng dường
đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, được nghe pháp của Ðức Phật. Nếu ta
có tâm sân hận cô ấy, thì gáo dầu bơ nóng kia làm phỏng da ta; còn nếu
ta không có tâm sân hận cô ấy, thì gáo dầu bơ nóng kia không làm phỏng
được". Vừa lúc ấy, cô kỹ nữ Sirimā tạt gáo dầu bơ nóng lên đầu và
mặt của nàng, dầu bơ nóng kia trở thành nước lạnh, do năng lực tâm từ
của nàng.
Nhóm tỳ nữ thấy như
vậy, chạy lại đánh đập cô kỹ nữ Sirimā té xuống đất, nàng ngăn
cản nhóm tỳ nữ, rồi đi lại đỡ cô ta dậy, đem nước ấm tắm rửa, an ủi vỗ
về. Cô kỹ nữ Sirimā hoàn toàn thức tỉnh, nhận thấy tội lỗi của
mình đối với nàng Uttarā, cô cúi lạy xin tha thứ.
Nàng Uttarā bảo
rằng:
- Này bạn, khi nào Ðức
Từ Phụ của tôi tha thứ, thì tôi mới tha thứ tội lỗi của bạn.
- Lành thay! Em sẽ đến
xin ông phú hộ, cha của chị tha thứ tội lỗi của em, rồi chị cũng tha thứ
cho em nhé! - Cô kỹ nữ Sirimā thưa.
- Ông phú hộ chỉ là
người cha mà tôi nương nhờ trong cảnh tử sanh luân hồi; tôi có ý nói
rằng: khi nào Ðấng Từ Phụ, Người Cha mà tôi nương nhờ giải thoát khỏi
cảnh tử sanh luân hồi tha thứ cho bạn, thì tôi sẽ tha thứ.
- Thưa chị Ðức Từ Phụ
ấy là vị nào vậy?
- Ðức Từ Phụ đó chính
là Ðức Thế Tôn.
- Em chưa từng thân cận
với Ngài, nhờ chị giúp đỡ em vậy!
- Ngày mai Ðức Từ Phụ
cùng chư Ðại Ðức Tăng sẽ ngự đến đây thọ nhận vật thực, bạn nên đến đây
cúng dường Ngài và cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi. - Nàng Uttarā
dạy.
- Lành thay! Thưa chị.
Cô kỹ nữ Sirimā
trở về nhà, động viên 500 nữ tuỳ tùng lo sắm sửa vật thực ngon lành, để
hôm sau đem đến cúng dường Ðức Thế Tôn cùng chư Ðại Ðức Tăng.
Ngày hôm sau, cô kỹ nữ
Sirimā cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng đem vật thực ngon lành cùng
chung với nàng Uttarā cúng dường đến Ðức Thế Tôn cùng chư Ðại Ðức
Tăng. Sau khi Ðức Thế Tôn thọ thực xong, nàng Uttarā dẫn cô kỹ nữ
Sirimā giới thiệu với Ðức Thế Tôn.
Cô kỹ nữ Sirimā
cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng đảnh lễ Ðức Thế Tôn, rồi cô kính xin Ðức Thế
Tôn tha thứ tội lỗi của mình.
Ðức Thế Tôn bèn hỏi
rằng:
- Con có tội lỗi gì?
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, hôm qua con hoàn toàn mê muội, vì ghen tức không đúng, nên con đã
múc gáo dầu bơ nóng tạt lên đầu và mặt của chị Uttarā, người chủ
của con. Như vậy, con đã phạm tội lỗi quá lớn đối với chị, con có xin
chị tha thứ tội lỗi của con; nhưng chị bảo, chỉ khi nào Ðức Thế Tôn tha
thứ tội lỗi của con, thì khi ấy chị mới tha thứ. - Cô kỹ nữ Sirimā
bạch.
- Này Uttarā
con, có đúng thật như vậy không? - Ðức Thế Tôn hỏi.
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, đúng thật như vậy. - Nàng Uttarā bạch.
Ðức Thế Tôn bèn hỏi
nàng Uttarā, khi ấy con nghĩ thế nào về hành động của cô kỹ nữ
Sirimā. Nàng Uttarā đã bạch với Ngài là khi ấy nàng rải tâm
từ đến cô ấy, nên gáo dầu bơ nóng kia tạt lên đầu, lên mặt nàng, như tạt
một gáo nước lạnh, không hề bị nóng phỏng gì cả.
Khi ấy, Ðức Thế Tôn
nhận lời sám hối của cô kỹ nữ Sirimā, rồi Ngài thuyết bài kệ dạy
nàng Uttarā, đồng thời cũng tế độ cô kỹ nữ Sirimā cùng
nhóm nữ tuỳ tùng của cô rằng:
"Akkodhena jine kodhaṃ,
Asādhuṃ sādhunā jine.
Jine kadariyaṃ dānena,
Sacce nāli kavàdinaṃ".
[3]
(Này, con Ut-ta-rā!
Thắng được người sân hận,
Bằng tâm không sân hận.
Thắng được người độc ác,
Bằng thiện pháp cao thượng.
Thắng được người keo kiệt,
Bằng phước thiện bố thí.
Thắng được người nói dối,
Bằng lời nói chân thật).
Sau khi cô kỹ nữ
Sirimā cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng lắng nghe Ðức Thế Tôn thuyết bài kệ
xong, cô cùng nhóm 500 nữ tuỳ tùng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc
Thánh Nhập Lưu.
Chất
độc không thể làm hại người có tâm từ:
- Trường hợp Ngài Ðại
Ðức Cūḷasiva thường ngày niệm rải tâm từ. Một hôm, Ngài đang tụng
Ðồng hợp bộ kinh (Saṃyuttanikāya), một con rắn độc từ trên cây
rơi xuống cắn Ngài, nhưng chất độc không thể làm hại được Ngài, vì do
năng lực tâm từ của Ngài.
Các
loại vũ khí không thể làm hại người có tâm từ:
Tích Chánh cung Hoàng
hậu Sāmāvatī
Trường hợp Chánh cung
Hoàng hậu Sāmāvatī
[4]
tóm lược như sau:
Bà Sāmāvatī, bà
Suladattā, bà Māgaṇṇiyā là ba bà Chánh cung Hoàng hậu của
Ðức vua Udena xứ Kosambī.
Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī cùng với nhóm 500 bạn gái tuỳ tùng đều là bậc Thánh Nhập
Lưu, có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp và Ðức Tăng một cách
vững chắc trong trường hợp đặc biệt. Bởi vì, bà Sāmāvatī cùng
nhóm bạn gái tuỳ tùng sống trong nội cung, không được phép tiếp xúc bên
ngoài và khi ấy Ðức vua Udena cũng chưa có đức tin nơi Tam bảo,
nên chưa thỉnh Ðức Phật hoặc chư Ðại Ðức Tăng vào cung điện thuyết pháp.
Vậy, do nhân duyên nào Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm
bạn gái tuỳ tùng trở thành bậc Thánh Nhập Lưu?
Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī có một tỳ nữ tên là Khujjuttarā, hằng ngày được Ðức
vua ban cho số tiền 8 kahāpana (tiền Ấn xưa), truyền dạy cô tỳ nữ
này mua hoa đem về dâng cho bà. Cô tỳ nữ đến mua hoa tại cửa hàng của
ông Sumana, nhưng thường ngày cô chỉ mua có 4 kahāpana,
còn 4 kahāpana cô lấy làm của riêng.
Một thuở nọ, Ðức Phật
cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến xứ Kosambī để tế độ dân chúng xứ
ấy, do lời thỉnh mời của ba ông phú hộ: phú hộ Ghosita đã xây cất
ngôi chùa Ghositārāma, phú hộ Kukkūṭa đã xây cất ngôi chùa
Kukkūṭārāma và phú hộ Pāvārika đã xây cất ngôi chùa
Pāvārikārāma làm lễ cúng dường chư Tăng từ tứ phương có Ðức Phật chủ
trì chứng minh.
Một hôm, cửa hàng của
ông Sumana được hân hạnh thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đến
làm phước bố thí cúng dường vật thực. Cô tỳ nữ Khujjuttarā đến
mua hoa như thường lệ, hôm ấy, vì lo làm đồ ăn thức uống, cúng dường Ðức
Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, nên ông Sumana yêu cầu cô
Khujjuttarā hoan hỉ chờ đợi xong lễ cúng dường, nghe pháp, rồi ông
sẽ làm tràng hoa bán cho cô. Cô Khujjuttarā nghĩ đây là cơ hội
tốt, cô có duyên lành gặp được Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, được nghe
pháp nên cô vô cùng hoan hỉ đồng ý chờ đợi. Khi Ðức Phật cùng chư Ðại
Ðức Tăng thọ thực xong, Ðức Phật thuyết pháp, cô Khujjuttarā cũng
ngồi lắng nghe pháp. Sau khi Ðức Phật thuyết pháp xong, cô liền chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh
Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (bậc Thánh đầu tiên trong Phật giáo).
Sau khi cô đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, có giới hạnh hoàn toàn trong
sạch, nên hôm ấy cô mua hoa với đủ số tiền 8 kahāpana, đem về
dâng Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī.
- Này em, hôm nay Ðức
vua ban cho số tiền gấp đôi hay sao, mà em mua hoa nhiều gấp đôi ngày
thường vậy? - Chánh cung Hoàng hậu hỏi.
- Không phải vậy. Tâu
Chánh cung Hoàng hậu. - Tỳ nữ tâu.
- Này em, vậy tại sao
hôm nay có số hoa nhiều gấp đôi vậy?
- Tâu Chánh cung Hoàng
hậu, vì mọi hôm, Ðức vua ban cho 8 kahāpana, mà con chỉ mua hoa
với 4 kahāpana, còn lại 4 kahāpana con lấy làm của riêng.
Nhưng hôm nay, con đã mua hoa đủ 8 kahāpana, nên có số hoa nhiều
gấp đôi ngày thường.
- Này em, tại sao hôm
nay em không lấy bớt như trước đây?
- Tâu Chánh cung Hoàng
hậu, bởi vì hôm nay con đã được nghe chánh pháp của Ðức Phật, con đã
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, con có giới hạnh hoàn toàn trong sạch,
nên con không lấy của mà người khác không cho.
- Này em, em có thể
thuyết lại cho ta nghe chánh pháp ấy có được không?
- Tâu Chánh cung Hoàng
hậu, con có thể thuyết lại, với điều kiện bà cho con được tắm 16 chậu
nước hoa thơm, ban cho con 2 tấm vải tốt đặc biệt, lấy một cái quạt đẹp,
ngồi chỗ cao quý của bà và trang hoàng lộng lẫy, bởi vì kính trọng pháp.
Bà Chánh cung Hoàng hậu
chấp thuận mọi điều kiện, cô Khujjuttarā mặc một tấm vải, tấm còn
lại choàng lên người, tay cầm quạt ngồi trên chỗ ngồi cao quý; bên dưới,
Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 bạn gái tuỳ tùng ngồi
nghiêm chỉnh lắng nghe cô thuyết lại bài chánh pháp, mà cô đã được nghe
từ kim ngôn của Ðức Phật và đã ghi nhớ rõ từng tiếng, từng câu. Sau khi
nghe xong bài pháp, Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500
bạn gái tuỳ tùng đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu
Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Tất cả đều
đảnh lễ cô pháp sư Khujjuttarā. Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī
thưa rằng:
- Thưa cô
Khujjuttarā, kể từ nay về sau, cô không phải làm những công việc như
trước nữa, chúng tôi đặt cô ở địa vị là người mẹ và cũng là vị
thầy của chúng tôi. Khi cô đi nghe Ðức Phật thuyết pháp xong, xin cô
về thuyết dạy lại cho chúng tôi nghe.
Ðó là trường hợp Chánh
cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm bạn gái tuỳ tùng trở thành bậc
Thánh Nhập Lưu, có đức tin trong sạch và vững chắc nơi Tam bảo.
Chánh cung Hoàng hậu Māgaṇṇiyā:
Cô Māgaṇṇiyā là
con gái của ông bà Bà la môn Māgaṇṇiya đã từng kết oan trái với
Ðức Phật. Khi cô trở thành Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua Udena
xứ Kosambī, vì mối oan trái trước kia, cô lại càng muốn tìm kiếm
cơ hội để vu oan giá hoạ, để trả thù Ðức Phật.
Bà Māgaṇṇiyā
nghe tin Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đã ngự đến xứ Kosambī,
với ý định vu oan giá hoạ cho Ðức Phật, bà đã bỏ tiền ra thuê nhóm người
ngoại đạo tà kiến, không có đức tin nơi Tam bảo, đó là những hạng người
tôi tớ, người làm công, đi theo sau chửi mắng đuổi Ðức Phật đi ra khỏi
xứ.
Ðại Ðức Ānanda
nghe lời chửi mắng như vậy, bèn bạch Ðức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, những người dân thuộc ngoại đạo tà kiến đi theo chửi mắng như vậy,
kính xin Ðức Thế Tôn ngự đến nơi khác.
- Này Ānanda,
khi đến nơi khác, dân chúng ở đó cũng đi theo chửi mắng, thì đi đến nơi
nào nữa?
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, đi đến nơi khác nữa.
- Này Ānanda,
không nên làm như vậy, sự việc đã phát sanh nơi nào, sự việc ấy phải
được dập tắt xong nơi ấy, rồi mới đi đến nơi khác.
- Này Ānanda,
những người theo chửi mắng là những hạng người nào vậy?
- Kính bạch Ðức Thế
Tôn, họ là những hạng người không có giới, ngoại đạo tà kiến, dân nghèo
khổ, hạng tôi tớ, người làm công được thuê mướn đi theo chửi mắng.
- Này Ānanda,
Như Lai ví như voi đã luyện tập xong đưa ra chiến địa, cần phải nhẫn nại
chịu đựng làn tên mũi đạn từ bốn hướng, là phận sự của voi xuất trận như
thế nào, sự nhẫn nại chịu đựng lời chửi mắng của những người không có
giới, là phận sự đối với Như Lai cũng như thế ấy.
- Này Ānanda,
con chớ nên lo ngại, những hạng người theo chửi mắng ấy chỉ có thể thực
hiện được trong vòng 7 ngày mà thôi, rồi sẽ im lặng. Bởi vì, mọi sự việc
phát sanh lên đối với chư Phật không quá 7 ngày.
Chánh cung Hoàng hậu
Māgaṇṇiyā đã thuê mướn người chửi mắng Ðức Thế Tôn nhưng không thể
làm cho Ngài rời bỏ xứ Kosambī ra đi. Bà nghĩ rằng: "Chánh cung
Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 bạn gái tuỳ tùng có đức tin
trong sạch nơi Sa môn Gotama, ta sẽ tìm cách làm hại bọn họ luôn
thể cũng được".
Chờ đợi luân phiên đến
kỳ Ðức vua ngự đến nghỉ ngơi tại lâu đài của mình suốt 7 ngày, bà tâu
với Ðức vua rằng:
- Tâu Bệ hạ, Chánh cung
Hoàng hậu cùng nhóm bạn gái tuỳ tùng của mình đem tâm hướng ngoại, tôn
thờ Sa môn Gotama, không còn trung thành với Bệ hạ nữa.
Ðể chứng mình lời nói
của bà là sự thật, bà tâu với Ðức vua trong các phòng ở của họ có đục
một lỗ nhỏ để nhìn thấy Sa môn Gotama cùng chúng đệ tử đi vào
thành khất thực.
Ðức vua ngự đến quan
sát, thấy sự thật như vậy, nhưng lại làm thinh, rồi truyền lệnh cho
người trám những lỗ nhỏ ấy lại, cho phép làm cửa sổ phía trên.
Lần khác, bà bày mưu
tính kế với người chú của mình, đem 8 con gà còn sống và 8 con gà đã
chết vào cung. Trước tiên, bà cho người đem 8 con sống dâng đến Ðức vua,
để nấu canh gà cho Ðức vua dùng. Bà tâu với Ðức vua nên truyền lệnh cho
nhóm bạn gái của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī giết gà nấu canh.
Ðức vua chuẩn tấu, truyền lệnh sai người hầu tâm phúc của bà
Māgaṇṇiyā đem gà sống đến bảo nhóm bạn gái ấy giết gà nấu canh. Nhóm
bạn gái ấy khước từ bảo rằng:
- Chúng tôi không thể
sát sanh.
Người hầu kia đem trở
về trình cho Chánh cung Hoàng hậu Māgaṇṇiyā việc ấy. Bà tâu Ðức
vua rằng:
- Thần thiếp tâu Bệ hạ
không tin, nhóm nữ kia không còn trung thành với Bệ hạ nữa, mà đã hướng
tâm tôn thờ Sa môn Gotama rồi. Bây giờ, nếu Bệ hạ truyền lệnh cho
họ hãy làm canh gà dâng đến Sa môn Gotama, thì họ sẽ làm ngay.
Ðức vua nghe theo,
truyền lệnh sai người bảo nhóm nữ ấy làm canh gà dâng đến Sa môn
Gotama. Chánh cung Hoàng hậu Māgaṇṇiyā bảo người hầu tâm phúc
đem 8 con gà đã chết đến giao cho nhóm nữ. Họ nhìn thấy gà đã chết, nên
nhận làm canh gà ngay. Người hầu kia trở về trình việc ấy cho bà
Māgaṇṇiyā biết. Bà tâu với Ðức vua rằng:
- Tâu Bệ hạ, nhóm bạn
gái của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī nấu canh gà dâng cho Bệ hạ
thì không làm, nhưng nấu canh gà dâng đến Sa môn Gotama thì làm.
Như vậy, Bệ hạ nghĩ sao?
Ðức vua vẫn làm thinh.
Mưu
kế độc cuối cùng:
Ðức vua nghỉ ngơi tại
lâu đài của Chánh cung Hoàng hậu Māgaṇṇiyā đến ngày thứ 7 là mãn
kỳ, rồi sẽ ngự tiếp đến nghỉ tại lâu đài của Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī, hôm ấy đã là ngày thứ 7. Biết rõ như vậy, bà Māgaṇṇiyā
cho người báo tin với người chú của mình, hãy tìm cho bà một con rắn hổ
mang, đem nhổ răng, rồi bí mật gởi gấp cho bà, người chú ấy đã làm theo
lời dặn của bà. Vì biết mỗi lần Ðức vua ngự đến lâu đài của các Chánh
cung Hoàng hậu thường đem theo một cây đàn, trong cây đàn có lỗ nhỏ, nên
bà bí mật bỏ con rắn hổ mang vào đó rồi lấy hoa bít lại, để lại chỗ cũ.
Bà tâu rằng:
- Tâu Bệ hạ, ngày mai
Bệ hạ sẽ ngự đến lâu đài của Chánh cung Hoàng hậu nào vậy?
- Trẫm sẽ ngự đến lâu
đài của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī.
- Tâu Bệ hạ, đêm qua
thần thiếp mộng thấy điều không lành, xin Bệ hạ không nên ngự đến lâu
đài của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī.
- Trẫm sẽ ngự đến xem
sao? - Ðức vua quả quyết phán.
Chánh cung Hoàng hậu
Māgaṇṇiyā thỉnh cầu Ðức vua không được bèn tâu rằng:
- Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ
cho thần thiếp tháp tùng cùng Bệ hạ.
Mặc dù Ðức vua ngăn cản
không cho bà theo, bà cũng vẫn đi theo. Khi Ðức vua ngự đến lâu đài của
Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī, mọi người tiếp đón Ðức vua, dâng
hoa và các thứ vật thơm, Ðức vua nhận lấy rồi đặt cây đàn trên chỗ nằm.
Ðức vua dùng đồ ăn thức uống thượng vị xong nằm ngủ. Khi ấy bà
Māgaṇṇiyā đi đi lại lại làm bộ như đang canh gác, nhằm lúc Ðức vua
không để ý, bà đến nhổ bỏ cái hoa bít lỗ trên cây đàn, con rắn hổ mang
bò ra xong, bà liền la thét lên: "Rắn! Rắn! Tâu Bệ hạ!". Con rắn hổ
phùng mang, phun độc phì phì.
Bà trách Ðức vua không
tin lời của bà, rồi bà mắng nhiếc Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī
cùng nhóm nữ kia cố ý hại Ðức vua rằng:
- Các ngươi cố ý hại
Ðức vua, các ngươi nghĩ Ðức vua băng hà rồi các ngươi được yên thân sao?
Ðức vua nhìn thấy con
rắn hổ mang thì hoảng sợ liền nổi cơn thịnh nộ quát rằng:
- Các ngươi đã làm tội
ác tày trời! Trước đây trẫm không tin lời của Chánh cung Hoàng hậu
Māgaṇṇiyā rằng các ngươi đục lỗ trên tường để nhìn ra bên ngoài,
trẫm đưa gà bảo làm canh cho trẫm thì không chịu nhận mà đem trả lại;
hôm nay lại thả rắn hổ mang trên chỗ nằm của trẫm.
Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī khuyên dạy 500 bạn gái tuỳ tùng của mình rằng:
- Ta và các em hãy niệm
rải tâm từ cho mình, rồi niệm rải tâm từ đến Hoàng thượng cùng Chánh
cung Hoàng hậu Māgaṇṇiyā. Ta và các em không được nổi tâm sân hận
đến bất cứ ai.
Ðức vua truyền lệnh bắt
Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī đứng đầu, tiếp theo sau nhóm 500
bạn gái tuỳ tùng sắp thẳng hàng. Ðức vua lắp tên đã tẩm độc rồi giương
cung nhắm thẳng bắn vào ngực của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī,
mũi tên bay ra khỏi cung, liền quay vòng trở lại dường như nhắm thẳng
đến Ðức vua rồi cắm phập xuống trước mặt, do năng lực tâm từ của Chánh
cung Hoàng hậu cùng nhóm bạn gái của bà.
Thấy vậy, Ðức vua suy
tư rằng: "Mũi tên bắn ra rất mạnh có thể xuyên thủng tảng đá, khoảng hư
không không có vật cản, tại sao mũi tên lại có thể quay trở lại dường
như nhắm thẳng vào tim của ta. Sự thật, mũi tên này không có tâm, không
phải chúng sinh, không phải sinh mạng, thế mà còn biết được ân đức của
Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī; còn ta, ta là con người, sao ta
lại không biết đến ân đức của nàng".
Ðức vua ném vội cây
cung, đến ngồi chồm hổm sát đôi chân của Chánh cung Hoàng hậu, chấp đôi
tay bèn đọc lên bài kệ rằng:
"Trẫm hôn mê lầm lạc,
Trẫm mê muội hoàn toàn,
Ðối với trẫm các hướng,
Ðều mờ mịt tối tăm.
Ái khanh Sāmāvatī!
Xin hãy che chở trẫm,
Là nơi trẫm nương nhờ!".
Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī là người cận sự nữ của Ðức Chánh Ðẳng Giác, khuyên Ðức vua
bằng bài kệ rằng:
"Tâu Bệ hạ kính mến!
Xin Người chớ nương nhờ,
Nơi thần thiếp thấp hèn,
Thần thiếp đã nương nhờ,
Nơi Ðức Phật cao thượng.
Xin Hoàng thượng nương nhờ,
Ðức Phật cao thượng ấy.
Cuộc đời của thần thiếp
Nương nhờ nơi Ðức Phật,
Xin Hoàng thượng cũng vậy".
Nghe lời khuyên chính
đáng của Chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī, song Ðức vua vẫn còn sợ
hãi, bởi vì cảm thấy có tội với bà, nên một lần nữa, Ðức vua thưa rằng:
- Trẫm xin nương nhờ
nơi ái khanh và sẽ nương nhờ nơi Ðức Phật nữa. Trẫm sẽ ban ân huệ cho ái
khanh.
- Muôn tâu Hoàng
thượng, thần thiếp cúi xin ân huệ của Hoàng thượng. Xin Hoàng thượng ban
cho ân huệ mà thần thiếp muốn là: Xin Hoàng thượng đến hầu Ðức Thế Tôn,
xin quy y, nương nhờ nơi Ðức Thế Tôn, Ðức Pháp, Ðức Tăng và kính thỉnh
Ðức Thế Tôn cùng 500 chư Ðại Ðức Tăng vào cung điện để cho thần thiếp có
cơ hội được cúng dường vật thực suốt 7 ngày.
Ðức vua truyền ban ân
huệ và Chánh cung Hoàng hậu nhận ân huệ, xong tâu:
- Tâu Bệ hạ thần thiếp
không mong được gì khác, chỉ xin Bệ hạ ban ân huệ cho thần thiếp được
kính thỉnh Ðức Phật cùng 500 chư Ðại Ðức Tăng hằng ngày ngự vào cung
điện, để cho chúng thần thiếp được làm phước bố thí cúng dường và được
nghe pháp.
Ðức vua đến hầu đảnh lễ
Ðức Thế Tôn, kính thỉnh Ngài theo lời thỉnh cầu của Chánh cung Hoàng hậu
Sāmāvatī, nhưng Ðức Phật dạy:
- Này Ðại vương, theo
lệ thường của chư Phật, hằng ngày không thể đến một nơi nào, bởi vì các
nơi khác cũng trông mong Ðức Phật.
- Bạch Ðức Thế Tôn, như
vậy con kính xin Ngài cho phép một vị Ðại Ðức cùng 500 vị Tỳ khưu hằng
ngày vào cung điện, để cho những cận sự nam, cận sự nữ trong cung điện
có dịp làm phước bố thí cúng dường và được nghe pháp.
Ðức Phật cho phép Ðại
Ðức Ānanda hướng dẫn 500 vị Tỳ khưu hằng ngày vào cung điện như
lời thỉnh mời của Ðức vua.
Qua câu chuyện trên, do
năng lực của tâm từ, các loại vũ khí đều không làm hại được; thậm chí,
tình thương yêu thật sự cũng có thể ngăn cản được những tai hại của vũ
khí. Ví như: Chuyện một con bò thương yêu con, đang cho con bú ở
trong rừng, một người đi săn thú, nhìn thấy con bò, y lấy cây lao phóng
thẳng đến định giết chết nó, nhưng do tình thương của một người mẹ đang
cho con bú, không chạy tránh, nên mũi lao đi lệch hướng khác, không làm
hại con bò được.
Do quả báu của tâm từ,
lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí không những không thể hại người
có tâm từ, mà còn có thể cải hoá người ác thành người thiện, cải tà quy
chánh.
8- Tâm dễ dàng an tịnh
như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, khi gặp phải đối tượng không hài
lòng, dễ phát sanh tâm bất bình nơi đối tượng ấy, không có tánh nhẫn
nại, khi trời lạnh quá, chịu không được hoặc trời nóng quá cũng chịu
không được, v.v... Do đó, khi tiến hành thiền định với đề mục thiền định
nào, dầu có tinh tấn nhiều, tâm cũng không dễ dàng an tịnh, bởi vì tâm
hay sân hận là một trong 5 pháp chướng ngại của thiền định; cho nên,
hành giả cần phải kiên trì tiến hành thiền định với đề mục thiền định ấy
phải trải qua thời gian lâu dài, tâm mới có thể an tịnh, để chứng đắc
các bậc thiền sắc giới.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, nên tâm thường mát mẻ, có đức tính nhẫn nại, dù
gặp phải đối tượng tốt xấu thế nào, vẫn giữ thiện tâm trong sạch. Cho
nên, hành giả tiến hành thiền định với đề mục nào, tâm cũng dễ dàng an
tịnh, có thể dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới.
9- Gương mặt sáng sủa
như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, tâm sân hận thuộc tâm ác, làm nhân
duyên phát sanh sắc pháp thường hiện rõ trên khuôn mặt cau có, nhăn nhó,
dữ tợn trông thấy đáng sợ. Một người xinh đẹp, bình thường tâm sân không
phát sanh, trông thấy dễ thương, dễ mến, nhưng khi tâm sân phát sanh,
trông thấy đáng sợ; còn một người xấu xí, bình thường tâm sân hận không
phát sanh, người ta đã không muốn nhìn, một khi tâm sân phát sanh nữa
thì đáng ghê sợ biết dường nào!
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, tâm từ thuộc về thiện tâm làm nhân duyên phát sanh
sắc pháp, thường hiện rõ trên gương mặt sáng sủa, trông thấy hiền lành
đáng yêu, đáng kính. Một người xinh đẹp lại có tâm từ, chắc chắn được
phần đông kính yêu, ngưỡng mộ; hoặc một người dầu xấu xí mà có tâm từ
cũng có thể làm cho người khác thương yêu, quý mến.
Tục ngữ có câu: "Cái
nết đánh chết cái đẹp".
Và "Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn".
Ca dao cũng có câu:
"Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người".
10- Lúc lâm chung, tâm
không mê muội (tâm sáng suốt) như thế nào?
- Ðối với người không
niệm rải tâm từ, có tánh hay sân hận, không có đức tính nhẫn nại chịu
đựng, cho nên lúc lâm chung, do bệnh làm cho khổ thân, có thể làm cho
tâm sân bực tức, khó chịu. Mỗi khi tâm sân phát sanh luôn luôn có tâm sở
si đồng sanh với tâm sân ấy làm cho tâm mê muội lúc lâm chung.
- Ðối với hành giả tiến
hành niệm rải tâm từ, có đức tính nhẫn nại chịu đựng được mọi đối tượng
xấu, thiện tâm không thay đổi, trong thiện tâm luôn luôn có tâm sở niệm
đồng sanh với thiện tâm ấy, thiện tâm có trí nhớ, nếu có tâm sở trí tuệ
đồng sanh nữa, thì lúc lâm chung, tâm không mê muội, nghĩa là có thiện
tâm sáng suốt, minh mẫn.
11- Ðề mục niệm rải tâm
từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu
chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới
sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên như
thế nào?
- Lúc lâm chung tâm mê
muội, tâm bị ô nhiễm, do ác nghiệp ấy cho quả, thường bị sa vào một
trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ do ác
nghiệp đã tạo.
- Lúc lâm chung tâm
không mê muội, thiện tâm sáng suốt, minh mẫn do thiện tâm ấy cho quả,
thường được tái sanh cõi thiện giới là cõi người hoặc cõi trời dục giới
hoặc cõi trời sắc giới.
Hành giả tiến hành niệm
rải tâm từ, nếu chưa có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc giới nào và
cũng chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi chết, do dục giới
thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh trong cõi thiện giới là cõi người hoặc
một trong 6 cõi trời dục giới, hưởng sự an lạc nơi cõi ấy cho đến hết
tuổi thọ.
- Nếu có khả năng chứng
đắc từ đệ nhất thiền cho đến đệ tứ thiền sắc giới (ngoại trừ đệ ngũ
thiền sắc giới), nhưng chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì sau khi
chết, do sắc giới thiện nghiệp ấy, đó là bậc thiền sắc giới sở đắc của
mình, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, tương xứng với
bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài tại cõi
trời sắc giới ấy.
Mười một quả báu của đề
mục niệm rải tâm từ đã được giải thích tóm tắt xong. Khi xem xét qua 11
quả báu của đề mục niệm rải tâm từ, đó là một bài học quý giá khích lệ
đối với những người chưa tiến hành đề mục niệm rải tâm từ. Và đối với
người đã từng tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, thì càng tinh tấn tiến
hành đề mục niệm rải tâm từ hơn nữa, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá,
sự an lạc cho mình và cho mọi người, mọi chúng sinh.
-ooOoo-
Pháp hẠnh tâm tỪ ba la mẬt
Pháp hạnh tâm từ ba la
mật là một trong 10 pháp hạnh ba la mật:
1- Bố thí ba la mật.
2- Giữ giới ba la mật.
3- Xuất gia ba la mật.
4- Trí tuệ ba la mật.
5- Tinh tấn ba la mật.
6- Nhẫn nại ba la mật.
7- Chí nguyện ba la mật.
8- Chân thật ba la mật.
9- Tâm từ ba la mật.
10- Tâm xả ba la mật.
Ðức Bồ Tát có ý nguyện
để trở thành Ðức Phật Toàn Giác hoặc Ðức Phật Ðộc Giác hoặc bậc Thánh
tối thượng Thanh Văn Giác hoặc bậc Thánh đại Thanh Văn Giác hoặc bậc
Thánh Thanh Văn Giác, v.v... Mỗi Ðức Bồ Tát ấy cần phải tạo các pháp
hạnh ba la mật cho đầy đủ theo ý nguyện của mình.
- Ðối với Ðức Bồ Tát
Toàn Giác cần phải tạo 30 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật
bậc thường, 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung, 10 pháp hạnh ba la mật bậc
thượng trải qua thời gian vô số kiếp. Ðức Bồ Tát Toàn Giác có 3 hạng,
mỗi hạng thời gian tạo 30 pháp hạnh ba la mật khác nhau:
*
Ðức Bồ Tát có
trí tuệ ưu việt (paññādhika), nghĩa là trí tuệ có năng
lực hơn đức tin và tinh tấn; Ðức Bồ Tát này tạo ba la mật từ khi phát
nguyện trong tâm suốt 7 a tăng kỳ [5],
tiếp theo phát nguyện bằng lời nói suốt 9 a tăng kỳ; đến khi được Ðức
Phật thọ ký còn phải tạo bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba la mật 4 a tăng kỳ
và 100 ngàn đại kiếp trái đất
[6]
nữa, để tự mình chứng đắc thành Ðức Phật Toàn Giác độc nhất vô nhị.
*
Ðức Bồ Tát có
đức tin ưu việt (sadhādhika), nghĩa là đức tin có năng
lực hơn trí tuệ và tinh tấn; Ðức Bồ Tát này tạo ba la mật từ khi phát
nguyện trong tâm gấp đôi Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt là suốt 14 a tăng
kỳ, tiếp theo phát nguyện bằng lời nói suốt 18 a tăng kỳ; đến khi được
Ðức Phật thọ ký còn phải tạo bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba la mật 8 a tăng
kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, để tự mình chứng đắc thành Ðức
Phật Toàn Giác độc nhất vô nhị.
*
Ðức Bồ Tát có
tinh tấn ưu việt (vīriyādhika), nghĩa là tinh tấn có
năng lực hơn trí tuệ và đức tin; Ðức Bồ Tát này tạo ba la mật từ khi
phát nguyện trong tâm gấp đôi Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt là suốt 28 a
tăng kỳ, tiếp theo phát nguyện bằng lời nói suốt 36 a tăng kỳ; đến khi
được Ðức Phật thọ ký còn phải tạo bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba la mật 16
a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, để tự mình chứng đắc thành
Ðức Phật Toàn Giác độc nhất vô nhị.
- Ðối với Ðức Bồ Tát
Ðộc Giác cần phải tạo 20 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc
thường, 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung trải qua thời gian ít nhất 2 a
tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.
- Ðối với Ðức Bồ Tát
tối thượng Thanh Văn cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường trải
qua thời gian ít nhất 1 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.
- Ðối với Ðức Bồ Tát
đại Thanh Văn cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường trải qua
thời gian ít nhất 100 ngàn đại kiếp trái đất.
- Ðối với Ðức Bồ Tát
Thanh Văn hạng thường cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường
trải qua thời gian dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất.
Như vậy, mỗi Ðức Bồ Tát
đã phát nguyện, có ý nguyện để trở thành Ðức Phật Toàn Giác hoặc Ðức
Phật Ðộc Giác hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn Giác hoặc bậc Thánh
đại Thanh Văn Giác hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác, v.v... đó là mục đích
cứu cánh cao cả của mình, để chứng đạt được mục đích cứu cánh ấy, còn
hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự đầy đủ các pháp hạnh ba la mật; nếu xét thiếu
một pháp hạnh ba la mật nào, thì Ðức Bồ Tát cần phải tạo cho có đủ ba la
mật ấy, mới mong chứng đạt được ý nguyện của mình.
Ðức
Bồ Tát hành pháp hạnh tâm Từ ba-la-mật:
Tâm từ ba la mật là một
trong 10 pháp hạnh ba-la-mật, mà các Ðức Bồ Tát cần phải hành để cho đầy
đủ pháp hạnh ba la mật, để làm nhân duyên trực tiếp thành tựu ý nguyện
đạt đến mục đích cứu cánh cao cả của mình.
Ðức Bồ Tát tiền thân
của Ðức Phật Gotama hành pháp hạnh tâm từ ba la mật, trong tích
Seyyajātaka
[7].
Một thuở nọ, Ðức Thế
Tôn ngự tại chùa Jetavana, của ông phú hộ Anāthapiṇṇika
gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Ngài thuyết về câu chuyện tiền
thân của Ngài là Ðức Bồ Tát thực hành pháp hạnh tâm từ ba la mật được
tóm lược như sau:
Trong quá khứ, Ðức vua
Brahmadatta trị vì tại kinh thành Bārāṇasī. Khi ấy Ðức Bồ
Tát hạ sanh vào lòng Chánh cung Hoàng hậu của Ðức vua Brahmadatta,
đến khi trưởng thành, Ðức Bồ Tát được vua cha gởi đến học tại xứ
Takkasīla, Ngài đã học thành tài, văn võ song toàn rồi trở lại kinh
thành. Sau khi Ngài trở về không lâu, phụ vương của Ngài băng hà, Ngài
được suy tôn lên ngôi vua trị vì đất nước. Ðức vua trị vì đất nước của
mình bằng 10 pháp vương
[8].
Ðức vua cho lập nhiều
trại để làm phước bố thí đến những người nghèo khổ không nơi nương nhờ,
người khách qua đường, v.v... Ngài giữ gìn ngũ giới là thường giới và
bát giới trong những ngày giới mỗi tháng, đặc biệt, hằng ngày Ngài
thường tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh, cầu mong tất
cả chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ
thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc.
Khi ấy, trong triều
đình có một vị quan thường làm nhiều điều tội lỗi, sai trái với luật
pháp, nên các quan khác đã tâu sự việc lên Ðức vua. Ðức vua cho gọi tên
quan ấy đến xét hỏi, y đã thừa nhận đó là những điều có thật. Ðức vua
khuyên răn y không nên làm những điều xấu xa tội lỗi, vi phạm luật pháp
triều đình; nên cố gắng tạo những điều tốt lành, điều phước thiện,
v.v... Nhưng y không hối cải, vẫn làm những điều sai trái, vi phạm luật
pháp. Vì vậy, Ðức vua truyền lệnh cho y rằng: "Kể từ nay, người không
còn phục vụ trong triều đình của trẫm nữa.", rồi trục xuất y ra khỏi
nước.
Tên quan bị trục xuất
sau đó đã tìm đến một nước lân bang, vào chầu Ðức vua nước ấy, rồi dùng
lời khuyến dụ nhà vua rằng việc đem quân đi đánh chiếm kinh thành
Bārāṇasī
rất dễ, không phải tốn công tốn của nhiều. Vị vua nước lân bang ban đầu
không tin lời của tên quan bị trục xuất kia; nhưng y tâu khẩn thiết
nhiều lần khiến cho Ðức vua phát sanh lòng tham, cuối cùng cũng tin theo
lời tâu của y.
Một hôm, Ðức vua lân
bang kéo quân đến biên giới của Ðức vua Brahmadatta - người trị
vì kinh thành Bārāṇasī, quan biên ải về cấp báo cho Ðức vua
Brahmadatta hay tin rằng:
- Tâu Bệ hạ, Ðức vua
lân bang kéo quân xâm lăng nước ta, đã tiến đến biên ải, xin Bệ hạ
truyền lệnh cho chúng thần được xuất binh đánh để bắt sống Ðức vua xâm
lăng ấy đem về nộp cho Bệ hạ.
Ðức vua Brahmadatta
phán:
- Chiến tranh chém giết
lẫn nhau gây đau khổ tang tóc cho thần dân hai nước là điều không nên.
Ðức vua xâm lăng dẫn
đầu đoàn quân tiến vào lãnh thổ của Ðức vua Brahmadatta, mà không
gặp một sự chống cự nào. Khi đoàn quân xâm lăng kéo đến gần kinh thành
Bārāṇasī, quan giữ thành vào tâu với Ðức vua Brahmadatta
rằng:
- Tâu Bệ hạ, Ðức vua
xâm lăng dẫn đầu đoàn quân tiến gần đến kinh thành, xin Bệ hạ truyền
lệnh cho chúng thần chặn đánh, để bắt Ðức vua ấy đến nộp cho Bệ hạ.
Ðức vua truyền lệnh hội
triều gồm có 700 vị quan có tài võ nghệ siêu quần, rồi truyền lệnh mở
rộng bốn cửa thành; Ðức vua xâm lăng kéo quân vào thành dễ dàng, không
gặp một sự chống cự nào. Ðến cung điện, Ðức vua xâm lăng liền truyền
lệnh bắt Ðức vua Brahmadatta, lấy dây xiềng đôi chân, nhốt riêng
một nhà giam, còn 700 vị quan kia cũng bị xiềng đôi chân, chia ra nhốt ở
các nhà giam khác.
Ðức vua xứ Bārāṇasī
ngồi trong nhà giam tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh,
trong đó có vị vua xâm lăng, chứng đắc bậc thiền sắc giới, do năng lực
tâm từ của Ðức vua xứ Bārāṇasī làm cho thân tâm của vị vua xâm
lăng ấy nóng như bị thiêu đốt, không sao chịu đựng nổi được. Vị vua xâm
lăng bèn hỏi các quan rằng:
- Này chư khanh tướng,
tại sao thân tâm của trẫm nóng như bị thiêu đốt, không sao chịu đựng nổi
như thế này?
- Tâu Bệ hạ, Bệ hạ đã
bắt giam một Ðức vua vô tội, có giới đức trong sạch, đó là nguyên nhân
làm cho Bệ hạ nóng như bị thiêu đốt như thế. - Các quan đồng tâu.
Ðức vua xâm lăng ngay
tức khắc đến nhà giam, nơi Ðức vua xứ Bārāṇasī đang bị nhốt, mở
cửa cung thỉnh Ðức vua xứ Bārāṇasī ra, Ðức vua xâm lăng đảnh lễ
xin sám hối tội lỗi, kính xin Ðức vua xứ Bārāṇasī tha thứ tội của
mình và trả ngai vàng lại cho Ðức vua; rồi truyền lệnh thả tất cả 700 vị
quan cận thần của Ðức vua xứ Bārāṇasī được tự do.
Ðức vua xâm lăng tâu
với Ðức vua Bārāṇasī rằng:
- Tâu Ðại vương, kể từ
nay về sau, nếu có quân thù nào đến xâm chiếm biên cương xứ sở của Ðại
vương, thì chính quả nhân sẽ là người có phận sự bảo vệ an toàn cho xứ
sở của Ðại vương, để Ðại vương được hưởng an lạc trên ngai vàng.
Khi Ðức vua xâm lăng tạ
từ xin phép kéo quân trở về, Ðức vua xứ Bārāṇasī xa giá tiễn đưa;
về đến cố quốc, Ðức vua xâm lăng trị tội tên quan đã xúi giục Ðức vua
kéo quân đi xâm lăng, làm điều phi pháp.
Ðức vua Bồ Tát
Brahmadatta xứ Bārāṇasī, ngồi trên ngai vàng truyền dạy bằng
bài kệ rằng:
"Seyyaṃso seyyaso hoti,
Yo seyyamupasevati.
Ekena sandhiṃ katvāna,
Sataṃ vajjhe amocayiṃ.
Tasmā sabbena lokena,
Sandhiṃ katvāna ekano.
Pecca saggaṃ nigaccheyya,
Idaṃ suṇātha Kāsiyā".
(Này các quan trong
nước Kā - si!
Người nào có phước thiện cao quý,
Sống nương nhờ với bậc Thiện trí,
Người ấy gọi là người cao thượng.
Bảy trăm vị quan trong ngục tù,
Có thể bị chết bởi ác vương,
Nhờ Ðức Bồ Tát có tâm từ,
Giải phóng được tất cả các quan.
Vì vậy, các ngươi dân Kā - si,
Lắng nghe điều huấn từ của trẫm,
Gắng tiến hành niệm rải tâm từ,
Ðến tất cả chúng sinh trong đời,
Do thiện nghiệp rải tâm từ ấy,
Cho quả tái sanh lên cõi trời,
Dục giới hoặc cõi trời sắc giới,
Tuỳ theo năng lực của thiện nghiệp
[9]).
Ðức vua Bồ Tát tiến
hành niệm rải tâm từ và tán dương ca tụng, khuyến khích mọi người từ
quần thần cho đến tất cả thần dân trong nước, nên tiến hành niệm rải tâm
từ cho được sự an lạc, không khổ tâm, không khổ thân, giữ gìn thân tâm
thường được an lạc.
Về sau, Ðức vua Bồ Tát
từ bỏ ngai vàng, bỏ kinh thành Bārāṇasī có xứ sở rộng lớn, ngự đi
vào rừng núi Himavantu xuất gia trở thành đạo sĩ. Ngài tiến hành
đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không ngoại trừ một ai, đã
chứng đắc các bậc thiền sắc giới. Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp
cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, hưởng sự an lạc trong
suốt thời gian đến hết tuổi thọ ở cõi trời sắc giới ấy.
Tích tiền thân của Ðức
Phật Gotama liên quan đến kiếp hiện tại như sau:
Ðức vua xâm lăng, nay
kiếp hiện tại là Ngài Ðại Ðức Ānanda.
Ðức vua xứ Bārāṇasī,
nay kiếp hiện tại là Ðức Thế Tôn.
(Tóm tắt xong tích tiền
thân).
-ooOoo-
[1]
Aṅguttaranikāya, phần Ekadasakanipāta, kinh
Mettāsutta.
[2]
Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Uttarā upāsikāvatthu.
[3]
Bộ Dhammapadaṭṭkathā, bài kệ số 223, tích Uttarā
upāsikāvatthu.
[4]
Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Sāmāvatīvatthu.
[5]
A tăng kỳ thời gian không thể tính bằng số lượng.
[6]
Ðại kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.
[7]
Khuddakanikāya, bộ Jātaka, tích Seyyajātakavaṇṇanā.
[8]
10 pháp vương: xin xem quyển "Hiếu Nghĩa" của cùng soạn giả.
[9]
Niệm rải tâm từ nếu chưa chứng đắc các bậc thiền sắc giới, thì dục
giới thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời dục giới, nếu chứng
đắc các bậc thiền sắc giới, thì sắc giới thiện nghiệp ấy cho quả tái
sanh lên cõi trời sắc giới.
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 |
02 | 03 | 04 |