|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 9
Ðau Khổ - Nhân tố của
Tình thương
Ðặc tính của
lòng thương hay lòng từ bi là cảm giác tâm lý tha thiết muốn được
giúp đỡ người khác thoát khỏi những khốn khó đau khổ. Hình thức biểu
hiện của tình thương là những vận động tâm sinh lý nhắm vào mục
đích xoa dịu những đau đớn thân tâm của tha nhân. Tình thương hay lòng từ
bi còn đồng nghĩa với một trái tim rộng mở.
Chúng ta không cần phải đi đâu xa để tìm thấy những đau khổ đó.
Bất cứ nơi đâu và lúc nào, nhân loại trên toàn thế giới vẫn từng phút
đối đầu với biết bao là đau khổ, những ám ảnh triền miên không
chừa ra bất cứ mọi ai, bất luận ở không gian hay thời gian nào và chúng
có mặt dưới mọi hình thức: Từ những khủng khoảng về chính trị, kinh
tế, cơ chế xã hội, xung đột tôn giáo, những mâu thuẩn cá nhân hay
tập thể trong mối tương giao thường nhật, nói chung tinh thần và thể
xác chúng ta luôn bị đe dọa bởi vô vàn khổ lụy. Ðó là những cái khổ
bắt nguồn từ mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Còn đối với riêng bản
thân mình thì những đau khổ đó sẽ ra sao?
Dầu chúng ta có cố tình tìm lấy cho mình một thế giới sống biệt
lập và an ổn đến mấy đi nữa, như một số đông người đã cố gắng thực
hiện, và cho dù chúng ta có cố tình nhắm mắt làm ngơ để sống
tuyệt đối an lành thì trước sau gì chúng ta cũng phải có lúc nhận ra
rằng thật ra vẫn luôn có rất nhiều những đau khổ theo đuổi, bám gót
mình trong từng phút. Ðó là những đau khổ tất yếu của một kiếp
người: Bệnh hoạn, suy yếu rồi là cái chết, một dấu chấm bắt buộc
của một lòng sinh tồn hiện hữu.
Tất cả những thảm kịch đó không nhắm riêng vào ai hết. Ðã trót có
một hình hài, chúng ta dĩ nhiên phải biết đến những cơn đau, tuổi
già và một lần nhắm mắt xuôi tay.
Khi chịu để tâm nhìn ngắm vào chính mình, chúng ta còn có dịp cảm
nghiệm được rất nhiều hình thái bất an, bất ổn trong đời sống.
Kể cả trường hợp chúng ta có tìm thấy được thật nhiều những
tiện nghi và an toàn trong đời sống mỗi ngày thì chỉ cần với một
chút tinh ý ta sẽ nhận ra một điều hết sức quan trọng là ở
đằng sau, bên dưới tất cả là những tiện nghi và bảo đảm này vẫn luôn
tàng ẩn một nguy cơ bất toàn nào đó luôn chực chờ, đe dọa chúng ta. Có
biết bao là những giây phút chúng ta cứ cảm thấy ở lòng mình có chút gì
đó như là trống vắng, thiếu thốn đến mức phải nhắm mắt lao đi tìm
đến một công việc lớn nhỏ nào đó nhằm lắp đầy cái lổ trống vô
vị nhạt nhẻo kia; hoặc cũng không ít lần trong đời sống, chúng ta lại thấy
mình bị ám ảnh bởi một sự bất mãn, đổ vở hoặc tù túng nào đó mà không
thể tự tìm thấy một lối thoát; rồi còn là cơ man những phút giây mà
tâm hồn chúng ta bị chi phối, quấy nhiễu bởi những xốn xang, sợ hãi, bức
xúc, giận dữ, ganh ghét, khao khát dục cảm...
Vậy thì đâu là nguồn cội của những hình thái tâm lý đó? Nếu
chúng ta tự trang bị cho mình một khả năng cảm nghiệm như thật và
trọn vẹn, một môi trường chính yếu cho tình thương, thì tự nhiên
chúng ta sẽ thấy mình có nhu cầu khám phá tất cả những khía cạnh nội tại
đó ở ngay bản thân.
Có nhìn thấy được những đau khổ nơi thế giới chung quanh và trong
chính thế giới tâm sinh lý của mình, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu
được sự đau khổ không chỉ là một vấn đề mang tính cá biệt mà nó
lại là một sự cảm nghiệm mang tính phổ cập và nó là một trong những
khía cạnh của tất cả hiện hữu, có thể chúng ta sẽ phải trả lời câu
hỏi sau đây: Nếu tình thương được khai sinh từ thái độ tỉnh thức
về những đau khổ của đời sống thì tại sao thế giới này lại không
là một thiên đàng, một cõi đất lành cho tình thương nảy nở sinh sôi?
Vấn đề có lẽ nằm ở chổ chúng ta thường ít khi biết phơi mở trái
tim mình để đón nhận những nổi đau của mình và người khác. Thay vào
đó, chúng ta chỉ biết sống trốn chạy, khép kín một cách vô tư, vô
tình, vô tâm, vô cảm và vô trách nhiệm. Xoay lưng hoặc nhắm mắt không
dám nhìn thẳng vào những đau khổ cuộc đời, đó có nghĩa là chúng ta tự
khép lại ngay ở cửa lòng mình một mùa xuân đẹp của tình thương, đóng kín
lại một suối nguồn vị tha mà lẽ ra mình phải có. Như đã nói, tình thương
đồng với một trái tim mở rộng, một tâm hồn khoáng đạt bao dung. Nhưng suối
nguồn của tình thương kia sẽ vẩn mãi bị đóng kín cho đến khi nào chúng
ta còn tiếp tục ngoảnh mặt chối từ hoặc đối kháng với thực tại vẫn
luôn hiện hữu trước mắt mình. Chối từ những cảm nghiệm của bản thân
về đau khổ cũng có nghĩa là chúng ta chối từ chân lý như thật
để chạy theo những ảo tượng ngộ nhận.
Về những đau đớn sinh lý
Trước hết, ta phải biết tự đặt những câu hỏi: "Phải xử
lý ra sao trước những cơn đau của cơ thể mình mỗi khi gặp phải
trong đời sống thường nhật? Thật ra còn có một cái gì nữa mà chúng ta vẫn
còn tự khép kín một cách tiêu cực, hèn nhát?" Chỉ cần hiểu được
rằng đời sống của chính mình đang bị vây hãm ra sao, coi như chúng ta đã
bắt đầu một bước đi khởi sự cho công phu phơi mở sự thật. Một trong những
thứ mà mỗi người chúng ta vẫn dùng nó để tự giam giữ chính mình
đó là những cảm xúc đau đớn về sinh lý. Chúng ta đâu có ai muốn
mình phải đau đớn và thế là từ trong tiềm thức, chúng ta luôn tự
nghĩ ra thật nhiều những liệu pháp để khắc chế, đối trừ. Các
liệu pháp này thường được lộ diện trong trí tuệ thiền định.
Một trong những liệu pháp thông dụng nhất mà chúng ta vẫn thường vận
dụng để khắc chế các đau đớn của cơ thể là thái độ cố tình
lãng quên hoặc làm ngơ trước sự hiện hữu, tồn tại của chúng, coi như
chúng không có. Liệu pháp này chỉ là một cách xử lý có giá trị
ngắn hạn bởi thật ra thì càng bị vùi lấp trong tình trạng tâm lý mê
muội, thì những đau đớn kia càng có vẻ hoành hành, phát tác mãnh liệt
hơn.
Liệu pháp tâm lý thứ hai của ý thức con người trước những đau
đớn sinh lý là phương thức tối giản, rút ngắn chúng lại bằng cách
chiết đoạn thời gian để chia nhỏ những đau đớn đó ra thành từng
mãnh vụn cảm giác. Ở đây ta có phương pháp thiền định về
đề mục hơi thở và liệu pháp thứ hai trên đây lúc này sẽ là con dao
cắt nhỏ tất cả những đau đớn kia qua từng hơi thở ra vào. Dù gì thì ta
cũng phải nhận rằng dầu có phải tiếp tục cảm nhận những đau đớn đang
quá cụ thể nhưng dưới hình thức những mãnh vụn như vậy, cơn đau đớn
xem ra cũng có vẻ ít gây khó chịu cho ta hơn. Tuy nhiên biện pháp này xét
ra vẫn chưa là một phương thức tối ưu để phơi mở thực tại với những
giá trị tĩnh thức và tình thương để ta có thể tự cảm nghiệm
những đau đớn kia một cách trọn vẹn.
Ngoài ra, còn một hình thái ý thức đối kháng khác vi tế, sâu kín
hơn, trước những đau đớn sinh lý và cũng vẫn được gọi là một
liệu pháp tâm lý. Ðó chính là thái độ chấp nhận dấn mình và đối
diện với những cơn đau đớn nhưng vẫn bằng một ý hướng nhắm vào
mục đích thoát khỏi chúng. Thái độ này tuy có vẽ bình tĩnh, dễ chấp nhận,
nhưng vì vẫn còn bị trói buộc trong tinh thần dụng ý, đối kháng nên,
nếu có vận dụng đến nó, ta vẫn chưa có được mối giao cảm trung
thực và trực tiếp với thực tại bởi vì dù có tỉnh thức trước những cơn
đau, nhưng ta vẫn còn bị gò ép trong ước muốn "được hết đau"
thay vì điềm tĩnh chào đón chúng như là chúng với một nội tâm vô cầu,
vô chấp.
Một khi trong nội tâm chúng ta còn ý niệm đối kháng thì tình
thương không thể hiển hiện. Bởi vì chúng ta đang sống trong một
cảnh giới mà chính tay mình đã tự khép lại cánh cửa ra vào thực tại. Trong
trường hợp đối diện với những đau đớn sinh lý, các phản ứng hữu
cơ cùng ý thức tập quán của chúng ta xem ra rất dễ nhìn thấy: Chúng nối
đuôi nhau hiển hiện trong hình thức những hoảng loạn và trốn chạy tinh
vi, nhỏ nhiệm. Nếu chúng ta không có nỗi một giao cảm trung thực và
trực tiếp với từng cơn đau của mình bằng khả năng thiền định bản
thân thì làm sao ta có thể xây dựng được một tình thương hòa cảm đối
với người khác, đó là chưa nói đến những đau khổ ngoại tại khác
không đến nổi cấp bách nghiêm trọng ở bản thân, ở người, và trên
toàn thế giới.
Thái độ quan trọng và cần thiết của chúng ta trong hoàn cảnh vừa
nêu trên, nếu ý cứ theo tinh thần chánh pháp, thì chỉ nàm gọn
trong sự thấu thị tinh tường về mỗi mỗi cơn đau cũng như một
thái độ phản ứng hữu cơ hợp lý đối với chúng. Ðồng thời, ta phải
biết phơi mở mọi sự, mà ở đây là những cơn đau, không nên có thái
độ trốn chạy tiêu cực. Ở trường hợp này, công phu tỉnh thức cũng là
công phu tu dưỡng tình thương, lòng từ bi đối với tha nhân, để chúng ta
có thể tự mình cảm nghiệm thực tại với tất cả khả năng phơi mở tâm
lý và có được một mối giao hòa trực tiếp, liên tục trong từng cảm
nghiệm về thực tại.
Những đau đớn tâm lý
Cũng như đối với tấm thân sinh lý, nội tâm của chúng ta luôn phải
vật lộn dai dẳng với hàng loạt những nhức nhối bất toại mà mọi người
vẫn thường trực cố ý chối bỏ và giải trừ. Chính những đau đớn nội
tại này đã là những tác nhân quan trọng cho từng cơn vật vã và xung
đột nội tâm của chúng ta. Chúng là một phần lớn thực tại trong đời sống
cảm nghiệm của mỗi người và tồn tại dưới nhiều hình thức: Những
cảm giác bất an, cô đơn, điếm nhục, sợ hãi....
Nhưng làm thế nào để ta có thể đón nhận chúng một cách trung
thực đây, trong khi ai cũng có thói quen phản ứng đối kháng thực tại một
cách nông nổi? Ðối với tất cả những cơn đau tâm sinh lý, chúng ta hầu
như luôn có thái độ đó. Chẳng hạn như khi đối diện với những cảm
giác cô đơn, ta thường có tâm thái chán ghét và bên cạnh đó là ý
hướng khai trừ, trốn chạy. Có biết bao lần trong đời mình, chúng ta chỉ
đơn giản có mỗi một nỗ lực tránh né những thực tại mà mình e sợ,
ngán ngẫm. Thái độ bất mãn trong cảm nghiệm về sự thật hiện hữu
chỉ luôn có nguy cơ gây tạo ở ta những tâm thái phân biệt, chấp thủ
đối với mọi sự mà thôi. Vạn sự sẽ đơn giản biết mấy khi mỗi
người cứ bình thản vô tư để,mặc chúng đến và đi mà không hề
có một ý niệm đối kháng nội chiến!
Cái nhức nhối nghiêm trọng nhất trong các mối khổ tâm có lẽ vẫn là
cảm giác bất an, thiếu tự tin. Nó luôn ám ảnh ta bằng những âu lo vớ
vẫn: "Ta phải sống ra sao để có vẻ cởi mở với mọi người?
Nếu thiên hạ cứ biết tỏng về con người thật của ta thì mọi
việc sẽ ra sao?..." Chính cảm giác tâm lý bất an này sẽ tạo nên
ở ta một ảo tượng ngả chấp nguy hiểm đối với thế giới, bởi ta luôn
nghĩ tới mục đích"được cuộc đời chào đón và yêu thương". Có
điều là cái ảo tượng ngu ngơ đó luôn được chúng ta che đậy, dấu kín
bằng đủ thứ ngụy trang.
Chỉ cần đôi phút tỉnh thức nhìn thẳng vào từng tâm trạng bất an và tự
ti, thiếu tự tin đó, ta sẽ thấy rằng chúng thật ra chẳng có gì dính dấp
để cần thiết phải biết đến chuyện riêng tư của chúng ta
đâu. Thay vào đó, tốt hơn ta nên quay về với các cảm nghiệm tự thân
của chính mình. Nhưng hãy khéo đấy, biết đâu chừng ta chỉ có được
cái trăn trở đối với bản thân mà không tự biết đón nhận và thương
mình một cách chính chắn, đúng nghĩa theo thiền lý.
Nếu chúng ta biết kịp thời cảm nghiệm trọn vẹn những tâm
thái bất an, thiếu tự ti và biết sống trung thực với chính bản thân
mình thì chắc chắn chúng ta sẽ tự tìm thấy mình qua cái bóng phản chiếu
thì coi như chúng ta vẫn còn bị vùi lấp, che kín trong trí tuệ hiện
tại. Nếu được hãy tạm thời xử lý những tâm trạng đó bằng cách
thư giản từng hơi thở để mình được thoải mái hơn rồi từ đó chúng ta
bắt đầu mở rộng cánh cửa tình thương đối với chính mình và tha nhân.
Như đã nói, chúng ta luôn có khuynh hướng trốn chạy, chối bỏ tất cả
những đau đớn của tâm sinh lý bằng đủ mọi cách. Ðối với những cảm
giác cực lòng của tâm lý ta thường nhớ đến những biện pháp đối
đầu mù quáng như một thái độ khước từ, những hoạt động điên cuồng nào
đó hoặc những hình thức ảo tượng ngã chấp. Một trong những nhân tố tâm
lý có phương hại đến trí tuệ như thật của chúng ta chính là
cảm giác sợ hãi. Và chính vì nó đã gần như trở thành một thứ bản năng
tâm lý mà hầu hết chúng ta đều không hề nghĩ đến
việc khám phá thật sự của nó nên chúng ta thường xuyên bị nó điều
động, chi phối một cách vô thức.
Chính Trang Tử cũng đã từng nói "Những lo sợ nhỏ thì tạo nên các e
ngại, những lo sợ lớn thì tạo nên sự hoảng loạn". Khi một sự sợ hãi
vừa xuất hiện, bất luận là sự sợ hãi về cái gì - kể cả sự sợ
chết, điều cần thiết là chúng ta bắt buộc phải thực hiện cho
bằng được đó là sự phơi mở trọn vẹn ngay chính nỗi sợ đó: Nó
hiện đang ra sao? Cảm giác sinh lý của chúng ta lúc này thế nào?
Chúng từ đâu đến? Trong nội tâm đầu nhận diện được sự sợ hãi
cũng có nghĩa là ta cũng đã thấy được đặc tính phù du hữu cơ của nó,
đồng thời khi ta phơi mở nội tâm mình để nhìn ngắm nó bằng một giao
hòa và mát mẻ sau sắc thì lúc này coi như tất cả những khái niệm ngã
chấp về cái Tôi, của Tôi cũng biến mất. Vấn đề sợ hãi đến
lúc này coi như tạm ổn.
Từ cơ sở của tỉnh thức và thái độ đón nhận thực tại một cách trung
thực, khách quan này, chúng ta có thể tự chọn lựa cho mình một trình
độ trí tuệ biền biệt nào đó của tỉnh thức. Ðôi khi điều
đó được thực hiện trong một thiền khóa với những đề mục cùng
các điều kiện lý tưởng nào đó nhưng cũng có lúc, công phu này
lại được thực hiện bằng sự quay về nhìn ngắm vào ngay chính sự sợ
hãi mà mình đã và đang đối đầu. Ý chí và tinh thần trách nhiệm của
chúng ta bây giờ cũng được tăng cường mãnh liệt hơn, vì những động
cơ nỗ lực của bản thân không còn bị hạn chế trong ảnh hưởng của
lòng sợ hãi qua tâm thái đối kháng nữa.
Chúng ta đã học được cách hòa giải đối với sự sợ hãi để công
phu thiền định có thể giúp ta khám phá ra được đích điểm vươn
tới của ý thức chính mình, xem mình thực ra muốn làm điều gì, phơi
mở cái gì. Nếu cứ tiếp tục trốn chạy lòng sợ hãi trước mắt, coi
như chúng ta cũng đã tự xây dựng một rào cản cảnh phòng đối với các sự
sợ hãi chưa xảy đến. Mà điều này vừa chẳng những không thể
thực hiện được mà lại có nguy cơ giới hạn và giam hảm đời sống nội
tâm của chúng ta. Ðiều đó cũng có nghĩa là ta đã tự khép kín cõi
lòng, đóng chặt khả năng hiển hiện của tình thương và khả năng giao
hòa, đồng cảm với thực tại, từ nội thân đến ngoại giới.
Cũng như đối với những nỗi đau tâm sinh lý của bản thân, chúng ta
còn có biết bao tình huống bắt buộc phải tự có một thái độ đối kháng,
chẳng hạn về vấn đề nhân sự và những hoàn cảnh éo le trong cuộc
sống gia đình hoặc xã hội. Bởi ta đừng bao giờ quên rằng, trong thế giới
tình cảm thường nhật vẫn luôn có rất nhiều đối tượng mà mình ác cảm
trong giao tiếp đối ngoại, cũng có không ít những tình huống dễ khiến
ta bất mãn, khó chịu. Thông thường, trước một đối tượng "đáng
ghét", chúng ta vẫn có phản ứng tự nhiên là giữ một thái độ đối lập
với từng khía cạnh nhân cách và tập tính của họ, để rồi tự mình
cầm tù trong chính thành kiến ác cảm mang tính đối kháng, ngăn cách với
người ta.
Trong khi đó, nếu tự biết điều động nội tâm mình ra khỏi thái
độ tâm lý bản năng này và tự phơi mở trái tim để bao dung tha nhân
- một trình độ nội tâm không mấy đắt đỏ mà đặc tính là độ lượng và
hòa giải - thì chúng ta có thể dễ dàng xót thương họ nhiều hơn,
thông qua sự thông cảm và trắc ẩn về những đau khổ kín đáo mà ai cũng
có. Chúng ta có thể dễ dàng tha thứ cho họ khi hiểu được một
điều hết sức quan trọng rằng tất cả những gì là đáng ghét của
đối phương thực ra chỉ là những phản ứng tự nhiên của họ trước các
khổ lụy, mà nhiều khi chỉ là một cách vô thức mà thôi. Với một cảm
nghiệm phơi mở như vậy về những đau khổ của người khác, kể cả
đối với những cá nhân mà ta vẫn xem là đối phương, đối thủ - tình
thương vị tha tự nhiên sẽ tìm đến với chúng ta.
Ðối với nỗi sợ chết
Một trong những khía cạnh khác của đời sống mà chúng ta không mấy khi lưu
tâm để tỉnh thức nhìn ngắm thấu đáo, đó chính là bản chất phù du ngay
từ căn cội của tất cả cảm nghiệm, một tên gọi khác cho dòng sanh
diệt tương tục trong sự hiện hữu, tồn tại của đời sống tâm sinh
lý. Tất cả mọi thứ, từ nội thân đến ngoại giới, những cấu tố
tâm sinh lý như là các tư tưởng, cảm giác, bức xúc, phản ứng tốt xấu
của chúng cùng tất cả những ngoại vật vô cơ hay hữu cơ trong thế giới
quanh ta, cũng chỉ đều là những đơn thể luôn nằm tr6n một dòng chảy
bất tận của những đổi thay, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác: Xuất
hiện, tiêu mòn rồi biến mất.
Nói một cách khác, bản tướng của vạn vật luôn là những biến tướng.
Trong nền văn hóa phương Tây, người ta ít khi nghĩ đến việc nhìn
ngắm, trầm tư và đối diện với cái chết. Người ta luôn e sợ cảm
giác nhìn thấy đời sống như một chu trình héo úa, già cổi mà chỉ biết
đơn giản nhìn ngắm những tử thi như một món đồ vật nào đó hết sức
bình thường.
Trong giáo lý thiền định truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy
có một pháp môn mà đề mục chú niệm lại đặc biệt nhắm vào thây
chết qua từng giai đoạn phân hủy của nó. Mới nghe qua, ta có thể cho
đó là một pháp môn thiền định "thiếu trong lành" hoặc quá
đáng, nhưng thực ra ta cũng phải nhận rằng đó là một con đường phơi mở ra
cho chúng ta bản chất của cái chết, về bản chất sinh diễn tất nhiên
của tấm thân sinh lý này và đồng thời cũng giúp ta vượt qua những ảo
tưởng phổ cập về chính sự hiện hữu của mình mà hầu như ai cũng mắc
phải. Bởi vì phần lớn chúng ta đều rất sợ chết. Và bây giờ chúng ta
tự trả lời câu hỏi sau đây đã chứ: Thế nào là cảm giác sợ chết?
Một khi chúng ta chưa có được một điều hiểu biết thấu suốt
về bản chất như thật của tâm sinh lý bản thân thì nỗi sợ hãi và
thái độ tâm lý đối kháng khi nhìn vào những hao mòn, chết chóc sẽ
trở nên mãnh liệt hơn. Bởi chúng ta vẫn luôn âm thầm nhìn ngắm tâm sinh
lý của mình như những chủ thể chắc chắn, an toàn rồi gán ghép vào
đó một ý niệm Tôi, của Tôi (Ngã, Ngã sở). Lẽ dĩ nhiên, với
kiến chấp này, nỗi ám ảnh về "cái chết của Tôi" sẽ
khiến ta kinh hoàng. Có thể nói rằng nỗi sợ chết là một chứng
minh sinh động về niềm tin vào cái ảo tưởng ngã chấp của chúng ta.
Nhưng một khi chúng ta tự biết phơi mở bản chất tâm sinh lý qua
từng quá trình vận động của chúng, chúng ta sẽ thấy rõ rằng chúng luôn sanh
tử trong mỗi mỗi phút giây. Ðó là một sự thật không hề mang tính
cường điệu, phóng đại hay ẩn dụ. Chúng ta sẽ thấy chúng chỉ là những
gì rỗng tuếch, vô ngã và vô thường, tiếp nối nhau trôi đi từng
năm tháng này sang năm khác. Chúng chỉ là một dòng nước với những bọt
sóng luôn được tạo ra và tan vỡ. Trong từng thoáng chốc thời gian, hãy cẩn
trọng suy tư về mỗi mỗi cảm nghiệm tâm sinh lý của
mình: Tiếng động hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc... nào đó. Trong từng
chớp mắt, các cảm nghiệm đó luôn sinh diệt, thay chổ cho nhau theo một
qui luật vận động cố nhiên và luôn luôn thay đổi, hoán vị, phủ định lẫn
nhau. Rõ ràng là không có một thứ gì trên đời này để ta ôm ấp cả,
mặc dù ta cũng phải nhìn nhận là để nhận thức và sống đúng theo tinh
thần trí tuệ này không dễ dàng tí nào.
Chỉ cần một phút giây nào đó, cái công phu kinh nghiệm của chúng ta
về qui luật vận hành vô thường của tâm sinh lý được thực hiện
một cách liên tục và thuần thục thì nỗi sợ chết coi như được chấm
dứt, bởi vì trong trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ không còn có chút gì
để phải sợ mất nữa. Nuôi dưỡng được một tâm phong điềm tĩnh, an
hòa xuyên qua một trí tuệ tư sát, chúng ta chẳng còn bận tâm gì về
những thành bại, được thua vốn chỉ là những qui luật vận động tất yếu
của vạn pháp để từ đó ta ngày một an bình, tự tại hơn.
Phơi mở tâm hồn
Trước hết, chúng ta phải hình dung hóa những hình thái đau khổ mà
mình vẫn luôn có thái độ đối kháng hoặc nhắm mắt làm ngơ trong đời sống
thường nhật. Ðể có được một tâm hồn giao hòa, đồng cảm thật sự thì
điều cần thiết là chúng ta phải nhìn lại cái khuynh hướng trốn chạy
mamg tính hữu cơ đối với các đau khổ, đồng phải có được những cảm
nghiệm khoáng đạt về toàn bộ nhân sinh quan của mình.
Ryokan, một thiền sư du phương người Nhật Bản (ra đời vào khoảng giữa
thế kỷ thứ 18) đã diễn đạt sinh phong tuyệt vời này trong một bài
thơ của mình, mà nội dung đặc biệt chuyển tải một ý hướng tha
thiết nhắm đến điều mà đạo giáo vẫn gọi là "tự tại
trong vui buồn" - dịch thoát từ chánh văn là "vạn hỷ vạn
sầu". Nội dung đó muốn nhắn nhủ với chúng ta một điều rằng một sự
giao hòa, vong thân và vị tha sâu sắc, vô lượng chỉ có được từ một cảm
nghiệm trọn vẹn về tất cả thực tại bằng một trái tim rộng mở. Và
sau đây là một trong những dòng thơ vừa nói trên của Ryokan.
"Một lần nữa, bọn trẻ con và tôi lại đánh nhau trên một
chiến trường mà vũ khí của đôi bên chỉ là những lá cỏ mùa xuân.
Chúng tôi tiến quân rồi lui binh, và cuộc chiến mỗi lúc một tế
nhị, nhẹ nhàng hơn.
Hoàng hôn xuống rồi, ai về nhà nấy; và ánh trăng đã giúp tôi chịu
đựng được niềm cô đơn của mình.
Những đêm tối mùa thu sao mà dài quá
Và cơn lạnh đã bắt đầu thấm đẫm vào chăn đệm của tôi.
Mười sáu năm trời qua rồi mà như mới hôm qua,
Vẫn chưa có một ai biết dành ra chút thương cảm cho tấm thân già yếu
này.
Cơn mưa rồi cũng tạnh hẳn; giờ chỉ còn lại những giọt nước nhỏ xuống
từ mái nhà.
Suốt đêm lũ côn trùng vẫn ra rã kêu hoài không dứt tiếng.
Tôi vẫn thao thức vì không thể nào ngủ được
Vẫn kê đầu trên gối, tôi ngắm nhìn những tia sáng thanh sạch của bình minh.
Ô hay! Lá y của Thầy tôi đã đủ rộng để choàng kín những kiếp đời
khổ lụy trong cõi thế trầm phù này".
Tại sao chúng ta lại không được như Ryokan: Biết phơi mở tất cả
niềm vui và nỗi buồn, tất cả những gì là sự thật trong cuộc sống của
chính mình? Chúng ta vẫn còn cứ mãi khép kín biết bao là cảm nghiệm
về đời sống chỉ vì một thứ vô minh có từ nguồn cội của nội tâm, một
sự mê muội về bản chất như nhiên của thế giới hiện tượng, giả
tướng. Chúng ta giao phó niềm tin một cách mù quáng, nông nỗi vào
những thứ mà mình cứ ngỡ là hạnh phúc, vào cái phù du và bản chất bất
toàn của chúng. Chính cái vô minh này đã nuôi lớn trong ý thức ta những
khát vọng triền miên về cái gọi là hạnh phúc, thay vì chỉ nên
hiểu rằng chúng chỉ là những ảo giác. Và cho dù những ước vọng hạnh
phúc của chúng ta có được đáp ứng liên tục, chúng ta cũng không bao giờ
cảm thấy mình được thỏa mãn trọn vẹn.
Nói một cách chính xác, là bởi vì tất cả những cảm giác thỏa mãn đó
luôn ngắn hạn và hư ảo. Những đầu tư để đáp ứng cho các ước
vọng của chúng ta thực ra chỉ đơn giản có ý nghĩa là trưởng dưỡng
và tiếp sức cho lòng tham ái để rồi sau cùng, chúng ta chỉ còn lại
thất vọng và tiếp tục tìm đến những ham muốn khác. Thái độ sống
đó có khác gì hình ảnh một người giải khát bằng nước biển, nước
muối: càng uống càng thấy khát.
Một khía cạnh bất khả ly của ước vọng hạnh phúc chính là lòng mong
mỏi "tránh được đau khổ". Một niềm tin điên cuồng về cái
ảo tưởng hạnh phúc thông qua những ảo giác về thực tại chỉ càng
khiến ta bị mê mờ về tất cả thực tại vẫn luôn xảy đến trong
đời sống của mình. Vô minh và tham ái luôn phương hại đến khả năng
tỉnh thức và phơi mở trí tuệ trước tất cả đau khổ của đời sống,
đồng thời cũng khép kín luôn ở chúng ta cánh cửa giao hòa vị tha. Trong khi
đó, cái giá trị của lòng vị tha lại bị đánh đổ trong chính sự buồn khổ,
mà sự buồn khổ lại luôn có đặc tính chối bỏ những đau đớn chứ không
hề giúp ích cho một sự phơi mở nào cả.
Có một số người cứ nghĩ rằng thái độ trốn chạy, chán ghét đau khổ là
nhân tố tâm điểm xoa dịu nó nhưng nếu có được một sự quan sát
nghiêm túc và khu biệt được sự khác nhau giữa tình thương vị tha với
lòng bi lụy thì ta sẽ thấy ngay rằng một tình thương vị tha thật sự không
bao giờ có sự can dự của thương và ghét. Mà ngược lại, đó chính là sự
phơi mở để thấu suốt tất cả đau khổ với ý nghĩa giải trừ kỳ
tuyệt và tương ứng với một cách hữu hiệu.
Hành động vị tha (Sống tình thương)
Trí tuệ sẽ thế chỗ vô minh khi chúng ta nhận chân được một
điều rằng hạnh phúc vẫn không hề có được từ sự tích lũy những
cảm giác khoái lạc, và thái độ đáp ứng để làm thỏa mãn lòng ham muốn
cũng không bao giờ đem lại cho ta một đáp ứng trọn vẹn. Nó chỉ là lớn
mạnh những vọng niệm phân biệt thương ghét mà thôi. Một khi chúng
ta biết tự mình cảm nghiệm chính chắn rằng hạnh phúc không thể
đến bằng sự kiếm tìm mà ngược lại là từ sự chối bỏ, nó cũng
không đến với ta bằng sự tầm cầu những cảm nghiệm ngọt ngào mà
là từ sự phơi mở, tỉnh thức trong mỗi phút giây thực tại, thì chính sự
hoán chuyển ý thức này cũng đồng thời khai phóng tất cả năng lực
của tình thương ngay trong chính chúng ta. Một khi nội tâm ta không còn bị
giới hạn trong sự sợ khổ ham vui nữa thì tình thương, hay nói rộng hơn là
sự giao hòa đồng cảm với thực tại, sẽ trở thành phản ứng tất nhiên của
trái tim đã được mở rộng.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này một cách trung thực và trực
tiếp ngay trong chính công phu thiền định của mình. Khi chúng ta có
thái độ đối diện và phơi mở để đón chào một cách tỉnh thức tất
cả thực tại trong từng giây phút mà không hề bị chi phối bởi các khái
niệm thương ghét, thì xem như chúng ta cũng cùng lúc làm thăng hoa tâm
phong vị tha của mình đối với từng cảm nghiệm. Từ trình độ nội tâm
này, ngoài thành quả nâng cấp công phu thiền định, chúng ta còn có
thể bắt đầu thể hiện một tâm hồn vị tha thật sự vào cuộc đời.
Việc thể hiện tấm lòng thương người đó không hề đòi hỏi
một phương thức nào hành động nhất định bởi khắp nơi và mọi người
trên toàn thế giới lúc này đều là những cánh đồng để chúng ta
gieo trồng lên đó những hạt giống tình thương. Mọi sự đều bắt đầu
ngay từ chính bản thân chúng ta và vòng tay tình thương kia sẳn sàng dành cho
tất cả mọi loài, không phân biệt một ai và vượt qua mọi giới
tuyến cá thể cũng như cộng đồng. Hành động vị tha nào cũng là tốt
cả: Bất luận là một nỗ lực xoa dịu những nỗi đau sinh lý hay một
cố gắng xoa dịu tâm lý cho những ai thật sự cần đến. Chúng ta có
thể linh động thoải mái cách đáp ứng những nhu cầu của những người đau
khổ, từ một sự can thiệp trực tiếp vào hoàn cảnh của họ cho
đến việc thực hiện một tác phẩm nghệ thuật để nuôi
dưỡng và chăm sóc đời sống nội tâm của người ta một cách nhiều ý
nghĩa: Chẳng hạn xây dựng ở họ một tình thương hay một kiến thức
giá trị. Thậm chí việc lấy mình làm một biểu tượng cho tình thương
các mối quan hệ đối giao thường nhật cũng là trong những hành động vị
tha đáng quí mà chúng ta có thể thực hiện được. Vấn đề cũng
đơn giản thôi: Hãy biến mình thành một người tốt bụng vô danh cũng
được.
Ta có thể nói rằng tình thương đối với tha nhân luôn được khai sinh
từ sự tiếp cận với những đau khổ. Nó là một phản ứng tích cực trước
những hoạn nạn cụ thể mà ta có thể quan sát từ thế giới xung
quanh, một phản ứng giúp ta thấu đáo được những cợi nguồn sâu sắc nhất mà
từ đó mình đã bị giam hãm tù đầy suốt bấy lâu nay.
Ðức Phật đã để lại cho ta những bài học hết sức quí giá và
sinh động về tình thương: Ngài đã từng tắm rửa săn sóc cho những Tỳ
kheo đệ tử đang bị lâm trọng bịnh mà thiếu người chăm nom và ân
cần trấn an hướng dẫn nội tâm họ cho đến giây phút cuối cùng trước
khi các vị tắt thở và chứng ngộ đạo quả. Dấn bước vào con đường giác
ngộ, ngay chính lý tưởng đó cũng là một cách thể hiện sâu sắc
nhất về tinh thần vị tha. Bởi đó là con đường mang ý nghĩa đánh
thức ở chúng ta sự thấu thị về những cấp độ, hình thái và những cội
rễ sâu sắc nhất của tất cả đau khổ.
Chính trí tuệ này luôn trưởng dưỡng ở chúng ta một tình thương vô
hạn đối với mọi loài và trong tất cả các tình huống. Chúng ta có
thể thương được các nạn nhân của một cơ chế xã hội hay chính trị
bất công nào đó, nhưng liệu chúng ta có thể thương nỗi những
người đã tạo ra thảm trạng này? Chúng ta thường có khuynh hướng tự cho
phép mình có quyền căm thù họ, cho thái độ tâm lý đó là đúng
đắn mà quên mất rằng tất cả các hành động của những người này đã
được điều sử, sai khiến từ một nội tâm mê muội, mù quáng mà hậu
quả không chỉ làm khổ người khác, chúng còn là những hạt giống ác
nghiệt sẽ chực chờ đày đọa chính họ trong những kiếp lai sinh
đau khổ tương lai. Hiểu được như vậy chắc có lẽ bạn sẽ có thể
bằng tấm tình thương của mình mà cảm thông và bao dung cho họ một cách
dễ dàng hơn phải không?
Một thiền sư, đồng thời cũng là môt nhà hoạt động xã hội người
Việt Nam là thầy Thích Nhất Hạnh đã có một bài thơ rất hay nói về
thứ tình thương đại đồng, vô phân biệt mà nãy giờ chúng ta vừa nhắc
đến. Nội dung bài thơ đề nghị chúng ta một cái nhìn trí tuệ
về chính tình thương đó trong cả đời sống, ngay trong chính bản thân
mình và một gắn bó với nó với trọn vẹn trái tim củam mình bằng tất cả
phơi mở:
Xin hãy gọi tôi bằng chính tên thật của tôi
Xin đừng nói rằng mai này tôi sẽ ra đi
Bởi chính hôm nay tôi vẫn đến nơi này
Xin hãy nhìn nhau bằng cái nhìn sâu sắc nhất
Tôi vẫn đến đây trong từng giây phút để làm một chòi non trên
nhánh cây mùa xuân,
Ðể làm một chú chim bé nhỏ, với đôi cánh còn yếu ớt đang tập hót
trong chiếc tổ mới của mình
Ðể làm một chú bướm non trong lòng một đóa hoa
Ðể làm một viên ngọc còn dấu mình trong đá.
Tôi vẫn đến, để cười và để khóc, để âu lo và hy vọng
đợi chờ
Nhạc điệu của lòng tôi là sự chào đời và nhắm mắt của tất cả những
gì đang hiện hữu.
Tôi là một con phù du đang ẩn mình để hóa thân trên mặt nước sông
Và tôi là một con chim đang chờ mùa xuân đến, để tìm tới nuốt sống
con phù du.
Tôi là con nhái đang tung tăng bơi lội giữa dòng nước trong của một cái hồ
Và tôi là một chú rắn hiền lặng lẽ bò đến hồ, kiếm sống bằng
những chàng nhái nhỏ.
Tôi là một đứa bé ở Uganda, tấm thân chỉ còn lại da với xương,
Ðôi chân tôi khẳng khiu như hai cây gậy trúc,
Và tôi là một thương nhân buôn bán những cánh tay, bán vào Uganda những vũ
khí chết người.
Tôi là một bé gái 12 tuổi, náu mình trên một chiếc thuyền con,
Ðã tự gieo mình xuống biển sâu khi bị một tên hải tặc cướp đi cái
tiết hạnh ngàn vàng
Và tôi là một tên cướp biển, trái tim tôi mù lòa và không biết yêu
thương.
Tôi là đồng đảng của Politburo, nắm trong tay toàn quyền sinh sát, và tôi
là người đã phải mua đứt niềm tin đắt đỏ của hắn bằng tính mạng của
các tù nhân dưới quyền mình đang chết dần mòn trong những trại tù
khổ sai lao dịch.
Niềm vui của tôi giống như tiết trời đang độ vào xuân, đủ sức ấm
cho các loài hoa đơm nở khắp mọi nẽo đời.
Nỗi đau của tôi có khác gì một dòng sông đầy những nước mắt, vừa đủ
đổ đầy vào cả bốn đại dương.
Xin hãy gọi tôi bằng tên thật của tôi nhờ vậy tôi mới có thể được
nghe tất cả giọng cười và tiếng khóc của mình trong cùng một lúc nhờ
vậy tôi sẽ thấy được rằng niềm vui và nỗi buồn của mình thật ra
chỉ là một.
Xin cho tôi được gọi tên bằng tên thật của mình để nhờ vậy tôi may
ra thức giấc và nhờ thế, cánh cửa tim tôi có thể được mở ra.
Ôi! cánh cửa của tình thương và độ lượng, hải hà...
J. G
Hướng dẫn thực tập
Nuôi lớn tình thương
Trong đời sống thường nhật chúng ta có nhiều
trường hợp và cấp độ để trưởng dưỡng và đánh thức tình thương vị
tha. Ta có thể thực hiện điều đó ngay trong giờ tĩnh tọa, chỉ
mình với mình. Những suy nghĩ hoặc các hình ảnh khả dỉ khơi gợi ở tâm hồn
ta về những nổi khổ của người khác hoặc một sự liên tưởng nào đó có
nội dung tương tự, ta hãy dồn hết tâm lực để tự đặt mình vào hoàn
cảnh của người, thực hiện một tình thương và mối giao hòa, đồng cảm
tương ứng. Việc lập đi lập lại lời nguyện "mong cho tất cả luôn
được an lành" cũng là một phương thức tốt để chúng ta tự nuôi
lớn tình thương tha nhân ngay trong chính nội tâm mình. Lời nguyện này,
buổi đầu là nhắm thẳng vào những đối tượng đang đau khổ và có thể
được kéo dài trong đôi ba phút hoặc kéo dài suốt cả thiền tọa. Bên
cạnh đó, chúng ta còn có thể tự thực hiện một tình thương vô tư
ngay đối với chính bản thân mình vào những giây phút nhận ra những đau khổ
tâm sinh lý xảy ra trong giờ thiền định.
Ngoài ra, ta có thể trưởng dưỡng và thể
hiện tình thương với mình và thái độ sống hướng về người khác.
Những khi nhìn thấy ai đó đang bị đọa đày trong bất cứ hình thức đau
buồn nào, ta hãy dành chút thời gian cho họ càng lặng lẽ, càng kín đáo
thì càng tốt. Hãy biết quan sát một cách cẩn thận tất cả những tâm
lý phản ứng phức tạp luôn có thể xảy ra trong tâm hồn mình. Hãy thanh
thản để mặt mọi thứ đến và đi, để giữ lại cho chính mình
một thế giới nội tại yên tĩnh. Hãy nhìn thẳng vào người khác với một
tình thương ấm áp và giản đơn, bất cầu báo và vô phân biệt. Nên
thường xuyên có những tra vấn tự thân: Mình có hiểu được rằng mọi
người đang triền miên đau khổ? Mình có tự tìm được rằng mọi
người đang triền miên đau khổ? Mình có tự tìm được một chút gì giao
hòa, đồng cảm với họ hay không? Giữa ta với người có một rào cản ngăn
cách nào hay không? Tâm hồn của mình cũng được phơi mở hay vẫn bị khép
kín? Nói chung, điều cần thiết là ta phải tự biết xây dựng một
mối quan hệ mật thiết và chân thật đối với tha nhân bằng niềm
mong mỏi cho họ được hạnh phúc. Bằng vào tất cả khả năng có được, ta
hãy thường trực thực hiện công phu này cho đến khi nào giữa mình với
người có một sự giao cảm và thương yêu thật sự.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |