|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 12
Năm nguồn đạo lực cho
Thiền định
Trong suốt giáo
lý giải thoát của mình, đặc biệt khi nói về thiền định, Ðức
Phật thường nhắc đến năm yếu tố đạo lực mang ý nghĩa đào
dưỡng nội tâm và kết tựu quả vị giải thoát. Pháp môn thiền định
chính là công phu trưởng dưỡng năm nguồn đạo lực đó ngay trong từng phút
giây tu tập thường nhật của chúng ta.
Niềm tin (Tín)
Nguồn đạo lực đầu tiên ở đây là đức tin. Ðại khái, đó là một trạng
thái tâm lý có khuynh hướng đi tìm một sự tín nhiệm, tin tưởng và
hâm mộ. Ðức tin hay niềm tin luôn có rất nhiều trường hợp. Nó có
thể đến khi chúng ta bắt đầu được một đối tượng nào đó khả dĩ
khích động và cuốn hút mình. Ðó có thể là một ảnh tượng tôn giáo,
một tác phẩm nghệ thuật, một buổi nói chuyện, một bối cành thiên
nhiên hay một cá nhân nào đó tự có một hấp lực đặc biệt mà do tình
cờ đánh trúng vào nhược điểm tâm lý của chúng ta. Hình thái đức
tin này đôi khi vẫn có thể mang lại cho chúng ta những tác động tốt
về tâm lý, tuy nhiên, nếu thiếu sự can thiệp của trí
tuệ thì nó rất dễ dàng một thứ cuồng tín, tức niềm tin mù quáng.
Một đức tin ở trình độ cao hơn, là thứ niềm tin được khai sinh từ
sự phán đoán của trí tuệ, một thứ đức tin được hình thành qua chính
trí tuệ biện biệt, kiểm tra, thể hiện của bản thân.
Niềm tin này gọi theo từ Phật học là Chánh Tín bởi nó hiển
hiện và song hành với trí tuệ tự chứng. Chẳng hạn đó là niềm tin
của chúng ta về những giáo lý căn bản của Ðức Phật như vấn đề
Tam Tướng, hoặc niềm tin vào khả năng giác ngộ của Ðức Phật cùng chư
vị Thánh Nhân khác, thông qua trí tuệ thực chứng (dù chỉ ở mức tương
đối và mang tính lý thuyết) của mình. Ðó là một thứ niềm tin có
được từ khả năng nội quán của chính bản thân chứ không phải thứ niềm
tin thành tựu từ những bài giáo lý học thuộc lòng.
Ngoài hai trường hợp niềm tin trên, chúng ta còn có thể thấy thêm
một kiểu niềm tin khác, không do những ảnh tượng hình thức mà cũng
chẳng đi ra từ thứ trí tuệ lý tính, mà lại hình thành trực tiếp
ngay từ đời sống thực tế. Không bị giới hạn bởi bất cứ không gian và
thời gian nào, niềm tin này hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng xử lý
thực tại của chúng ta xuyên qua trình độ kiến giải của bản thân. Có lẽ
chỉ ở Á Châu, chúng ta mới may ra bắt gặp được thứ niềm tin này và dĩ
nhiên tính về số lượng hẳn là không được nhiều lắm. Nhưng dù sao
chúng ta cũng phải trân trọng và nghiêm túc để thấy rằng trong vô số
những con người tháng ngày chỉ biết bôn ba, bươn chải với vô vàn tục
sự như những chiếc lá vô tri bị cuốn hút trong cơn lốc tạp loạn của
những nhu cầu sống, thì ở vài nơi trong đại lục mênh mông đó vẫn luôn có
những cá nhân im lặng ngồi lại một mình để cảm nhận và lắng nghe từng
biến động của thực tại, những dòng chảy triền miên của cuộc thế
quanh mình. Chúng ta sanh ra rồi lớn lên, suốt đời đi tìm những ước
vọng, sống đối đầu, lệ thuộc vào biết bao vấn đề để
rồi sau cùng, có ai thoát được những cơn đau bịnh hay tuổi già và cuối
cùng là cái chết. Thực ra đã từ lâu lắm rồi và không chỉ riêng ở Châu
Á, có biết bao người đã tự thao thức, trở trăn với những câu hỏi: Tất
cả rồi sẽ đi về đâu? Có phải mọi người luôn đi theo con đường mà
chính mình quyết định lấy hay phải nhờ đến một bàn tay nào đó can
thiệp? Có thể nói đó chính là những tiêu điểm khởi sự cho trí
tuệ tra vấn của tất cả chúng ta. Khuynh hướng tra vấn đó là một hành
trình về một lời giải đáp cho bản thân chúng ta tròn cuộc đời vốn phức
loạn và âm u này. Với niềm tin có từ một trí tuệ nội quán sâu sắc,
mỗi ứng xử của chúng ta trong đời sống đều sẽ là từng khoảnh khắc
tu tập. Quả thật không có một khoảng cách nào nếu như mỗi người
sống đúng như vậy. Chúng ta đừng bao giờ để đời sống mình bị
điều động bởi những âu lo và ham muốn, mà thay vào đó ta có thể
tận dụng từng phút giây thấu suốt thực tại để mỗi giây phút sống
là một vòng quay của chiếc bánh xe hướng về mục đích phát triển
trí tuệ giải thoát.
Khi chúng ta tự biết phơi mở tất cả cảm nghiệm của bản thân
để đón nhận thực tại một cách khách quan không thiên vị, một thái độ
ý thức nằm ngoài mọi lập trường tư tưởng chủ quan và cảm giác xuẩn
động thì Chánh Tín của chúng ta sẽ trở nên mãnh liệt hơn. Càng hướng
trí tuệ thiền định của mình vào thế giới nội tại một cách sâu
sắc và chín chắn thì càng lúc niềm tin của chúng ta sẽ càng trở nên
độc lập và hùng hậu trước mọi thử thách ngoại tại. Có cảm nghiệm
được sức mạnh của một niềm tin bất động, ta sẽ thấy rằng sự chín chắn
của nó không chỉ được hình thành bằng tình cảm và trí tuệ từ chương
nữa mà bên cạnh đó nó được khai sinh từ một khả năng trí tuệ trực
giác sâu thẳm nhất. Niềm tin ở trình độ này giống như một viên bảo
ngọc có tác dụng như những viên Tỵ Trần Châu, Tịnh Thủy Châu mà khi
được ném xuống một hồ nước, nó có thể làm cho nước hồ trở nên trong
sạch hơn. Niềm tin là một sức mạnh của nội tâm và có tác năng tương
tự như vậy: Nó giúp ta giàn xếp những nghi hoặc và bức xúc, tạo ra một
môi trường tâm lý năng động, kiên định và thanh tịnh.
Ðại khái, chúng ta phải tự biết nuôi lớn niềm tin của mình bằng
vô vàn công phu học hỏi để mở rộng và giao hòa tâm hồn mình với
tất cả những gì thực sự cần thiết. Chúng ta hầu như luôn bị vật vã bởi
biết bao là nghi hoặc ngay trong chính vấn đề niềm tin của mình.
Tất cả chỉ vì chúng ta luôn tự ngăn trở khả năng phơi mở nội tâm của mình
bằng những phân vân trong trong từng cảm nghiệm: Chấp nhận rồi chối bỏ,
chối bỏ rồi lại chấp nhận. Gặp phải trường hợp đó, đối với những cảm
nghiệm tích cực, ta hãy cố gắng duy trì, và liên tục làm chúng tái
hiện. Riêng đối với những cảm nghiệm tiêu cực, có phương hại cho
niềm tin, thì chúng ta hãy cố gắng ngăn trừ ngay khi chúng tiếp tục
quay lại. Nói một cách khác, cuộc tu của chúng ta (đặc biệt trong công phu
nuôi dưỡng niềm tin) là cả một cuộc chiến dàn xếp vấn đề
thời gian, những cảm nghiệm mang tính ám ảnh về quá khứ với tương lai
nhiều hơn là hiện tại. Chúng ta thường bị mắc bẩy trong những cảm
giác an lành, thoải mái của thiền định. Ðiều đó rất dễ xảy ra, bởi
chỉ với đôi ba phút định tĩnh và vô tư là chúng ta đã có thể cảm
nhận được những cảm giác kỳ diệu, hoàn toàn khác hẳn với những cảm
giác khói lạc thông thường. Thế rồi, nếu thiếu chút cảnh giác và
tỉnh thức chúng ta lại tiếp tục đi tìm nó, bởi cảm giác nào dù là
thiền lạc cũng luôn ngắn hạn cả. Nếu chẳng may, cùng lúc với sự vắng
mặt của cơn thiền lạc đó, mà chúng ta vẫn chưa tìm thấy lại được cảm
giác khác tương tự thì lúc này coi như hành giả tự chuốc lấy cho mình sự
đau khổ, bối rối và tiếc nuối. Vấn đề còn tệ hại hơn nữa
nếu như lúc này chúng ta cố tình lãng phí thời gian ngắm nhìn thực tại
trước mắt để tìm lại những gì đã qua đi. Vượt qua được cuộc
chiến này coi như ta đã tìm thấy được một liệu pháp cho nội tâm,
đồng thời làm trưởng dưỡng được niềm tin cần thiết cho cuộc tu và
cả lý tưởng thiền định.
Ở mỗi cảm nghiệm về thực tại, vấn đề không phải nằm ở
chổ chúng làm cho ta vừa lòng hay bất toại, mà chỉ đơn giản là những cái
luôn sinh hoá và biến diệt. Cái gọi là "Tôi, chúng ta"
thực ra chỉ là một quy trình tồn tại liên tục và tự nhiên trong mỗi
mỗi giây phút. Nỗ lực tìm lại những cảm giác thiền lạc đã qua
đi, chúng ta vô tình đã tự trở thành những tù nhân của những gì mà mình
thật ra vẫn hiểu biết một cách rõ ràng. Thay vào đó chúng ta nên
luôn xem mình như đang có mặt trong một cuộc hành trình dài, với đích
đến là những miền xa lạ mà mình chưa hề đặt chân tới. Từ đó
bạn sẽ tự mình tìm lên những đỉnh núi ngút ngàn mà từ cảnh quan cho
đến khí hậu đều thật tuyệt vời. Và cho dầu cuộc thám hiểm
này xem ra có vẻ dị thường đến mấy đi nữa, ta vẫn hãy cứ tiếp tục.
Lối đi này sẽ dẫn bước cho ta đến những lối đi khác: Từ núi cao xuống
thung lũng, đầm lầy rồi những cánh rừng... Tất cả mọi điểm chỉ đơn
giản là những nơi mà mình cần phải thám hiểm thôi. Nhưng để có
được tâm thái hồn nhiên đó, ta phải có những bước chân vô tư: Không
tiếc nuối những gì đã lùi lại sau lưng mình, không chủ quan so sánh nơi
này, nơi khác mà cũng chẳng chán ghét hoặc bất mãn bất cứ nơi đâu...
Niềm tin đang được nói đến ở đây chính là sự tin tưởng, tự tin
vào chính dòng sống của mình, đó là một ý thức nằm ngoài mọi âu lo
và ham muốn, một tâm thái vô tư tự giác trong từng giây phút một.
Nỗ lực (Tấn)
Sau khi đã có tạm đủ một niềm tin chín chắn khả dĩ làm thành sức
mạnh cho cuộc tu hành, mà như trên đây vừa tạm dùng tới hình ảnh của một
chuyến thám hiểm, nhân tố đạo lực thứ hai mà chúng ta nhất thiết
phải cần đến đó chính là công phu đào luyện khả năng tinh tấn
để góp phần vào trí tuệ nội quán của mình. Nỗ lực hay ý
thức can đảm dấn thân sở dĩ được xem là một trong những nguồn đạo lực
tối yếu là bởi vì nó luôn đóng vai trò cội nguồn, nền tảng cho tất
cả mọi thành quả mà chúng ta hướng đến, từ trong cuộc tu cho đến
những hoạt động mang tính sự nghiệp đời thường. Tuy nhiên, nếu bị
đặt sai hướng, thì nỗ lực sẽ rơi vào tình trạng phản tác dụng: Chính
nó sẽ gây nên những phấn khích quá đáng cùng các hướng hoạt động cực
đoan nguy hiểm. Do đó điều cần thiết là chúng ta phải kiểm tra
từng ý hướng nỗ lực của mình, hãy xem nó như là môt phương
tiện hoạt động mà mình làm chủ, chứ không thể để nó điều
hành ta thông qua một ý hướng sai lầm nào đó. Nếu chúng ta tự nỗ
lực ứng dụng nếp sống của mình vào một khuôn mẫu nào đó mà bản thân
cho phép nhưng thiếu đi một sự chọn lựa đúng đắn thì cuộc tu của
chúng ta sẽ chỉ còn là một chiến trận mang tính đối kháng vô nghĩa. Một
điều mà chúng ta có thể thực hiện đồng thời cũng hết sức
cần thiết đó là sự biết nuôi dưỡng một ý hướng năng động và
bản lãnh nghị lực ở tự thân để từ đó có được một sức mạnh tiềm
lực cho công phu khám phá thực tại.
Có một điều tối trọng mà ta không thể nào tự cho phép mình
lãng quên, đó là khả năng nỗ lực tu hành của mỗi người luôn rất
dễ dàng bị chi phối bởi những điều kiện sống thuận tiện, những
hình thức sinh hoạt mà bản thân vẫn cứ cho là cần thiết: Chuyện ăn
uống, ngủ nghỉ, những quan hệ giao tiếp, những công việc và sinh
hoạt thực ra không mấy cần thiết. Tất cả chỉ vì chúng ta vẫn cứ tự giam
hãm mình bằng những sự dối lòng kín đáo và luôn cố tìm cho bằng được
những cơ hội "an dưỡng" mà từ lâu đã thành ra những thói quen.
Ðể có thể vượt qua những chướng ngại tinh thần đó, ta bắt buộc
phải có một trữ lượng nỗ lực thật mạnh mẽ và linh hoạt ngay trong đời
sống nội tâm của mình. Có những sự quay lại hết sức kỳ diệu của cảm
nghiệm mà chúng ta đã có lần đi qua nhưng cũng chính chúng ta lại đánh
mất chúng là bởi vì chúng ta đã dại dột nỗ lực trở về với những
quá khứ ngọt ngào của thiền định. Những khi quá mệt mỏi bởi các
ám ảnh về thời gian, ta hãy nghĩ đến bản chất tuôn chảy không ngừng
của nó để tự tạo cho mình một nguồn tâm lực cần thiết, cũng như
để tự tìm thấy một bài học về sự tu dưỡng khả năng tinh tấn.
Bời vì ta hãy nhớ rằng sự tinh tấn hay nỗ lực chỉ có được khi ta
biết dốc lòng đầu tư nó. Chúng ta có thể dùng đến bất cứ
phương thức thử nghiệm nào để tìm ra những con đường trưởng dưỡng
khả năng tinh tấn và đừng bao giờ để mình phải bận tâm hay bị cuốn hút
vào những giới hạn tâm lý hoặc một vài thử thách nào đó.
Sự nỗ lực ở đây có thể gồm đến ba hình thái: Trước hết,
là thái độ dấn thân và sẵn sàng bước vào hành trình khám phá tất cả
những gì là sự thật. Hình thái thứ hai là một khả năng nỗ lực mang tính
tự tại, vô ngại trước tất cả mọi tình huống thử thách và hình thái
nỗ lực thứ ba hay cũng còn gọi là sự nỗ lực ở trình độ thăng
hoa mà tự trong bản chất luôn được ổn định kiên cố, liên tục lớn mạnh và
khả dĩ đưa ta đến cảnh giới giải thoát thật sự ở nội tâm.
Nỗ lực hay tinh tấn là một phương tánh có thể được thành tựu từ
những suy tưởng thiền định vốn được xem là phổ cập trong tất cả
trường phái Phật Giáo. Chẳng hạn như những giây phút trầm tư về quy
luật sinh tử hay bản chất vô thường, bất toàn của đời sống... Chúng ta thật
ra cũng chẳng cần biết đến những gì sẽ xảy đến mà ngay từ bây
giờ hãy nhìn ngắm tinh tường cái giả tướng phù du trong chính đời sống của
mình qua biết bao áp lực khắc nghiệt từ thế giới chung quanh cũng
như vô vàn những cội nguồn căn cội cho sự đổ nát, băng hoại mà thế
giới cùng tất cả nhân loại đang gánh chịu. Bản chất phù du, bất định của
cuộc đời chúng ta đã làm nên cái vẫn được gọi là "vạn hữu, sự
thật về cuộc đời", đó chính là một tặng phẩm tuy hết sức giản
đơn nhưng cũng vô cùng quý giá mà chúng ta tuyệt đối không được
quyền lãng phí nó. Bởi có ai trong chúng ta biết được rằng một cơ
hội tu hành đã trót bị lãng phí sẽ quay lại với mình vào phút giây nào.
Trong khi đó thời gian vẫn lạnh lùng trôi đi, dòng đời của mỗi người
từng ngày vẫn trôi chảy mà từng người trong chúng ta thì vẫn cứ mãi mù lòa
trong đám sương mù tối mịt của thử thách và cám dỗ.
Tỉnh thức (Niệm)
Tiếp theo sau sự nỗ lực, chánh niệm là nguồn đạo lực thứ ba cho
công phu tu tập nói chung và thiền định nói riêng. Chánh Niệm, còn
được gọi là sự tỉnh thức của nội tâm, có thể được định nghĩa
là "sự kiện toàn trọn vẹn của ý thức". Sự kiện toàn
ý thức ở đây hoàn toàn không có nghĩa là một rào cản hay một sự cô
lập tiêu cực nào cả, mà lại là một sự dung chứa, thu nhiếp từng khía
cạnh trong mỗi cảm nghiệm về thực tại. Một Chánh Niệm đúng
mức không hề bỏ sót một khía cạnh thực tại nào trong đối tượng sở tri.
Và nói như vậy có nghĩa là cho dù chúng ta đang ở bất cứ nơi đâu hay đang
làm gì, Chánh Niệm luôn có thể có mặt.
Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ (ở cả Trung Bộ lẫn Trường Bộ), Ðức Phật
đã nêu ra bốn cơ sở căn bản mang ý nghĩa công án tu tập mà nội dung
đặt biệt nhắm đến công phu trưởng dưỡng Chánh Niệm một cách
toàn triệt như là một đạo lộ duy nhất hàm chứa tất cả nội dung giáo
lý đồng thời dẫn đến giải thoát.
Cơ sở tu dưỡng Chánh Niệm hay gọi gọn là Thân Quán Niệm
Xứ. Nội dung của Niệm Xứ này là một nội tâm tỉnh thức trong từng tư
thế, cử động lớn nhỏ của hành giả (cùng nhiều đề mục khác cũng
đều nhắm về về mục đích phát triển trí tuệ và Chánh
Niệm đối với tấm thân sinh lý này, nhưng ở đây không tiện
kể ra đầy đủ). Ở trình độ tu tập sâu sắc đúng mức về Thân
Quán Niệm Xứ, cho dầu có còn là một phàm phu, ta coi như đã vượt qua
được những ngộ nhận, ngã chấp về tấm thân của mình. Lúc này, nó không
còn được xem là "thân xác của tôi" nữa, mà nó chỉ đơn giản
được coi là điểm hội tụ của những cảm giác sinh lý: nặng nề,
nhẹ nhàng, động đậy, bức xúc, căng thẳng... cứ thế, khối xương thịt
tâm lý này lúc bấy giờ không còn được đánh giá trân trọng như là
một thực thể đơn thuần khả dĩ đại diện cho một cái Tôi nào
hết. Bằng vào lý tưởng đó, vị hành giả liên tục sống trong sự tỉnh
thức về xác thân của mình và của người, đồng thời phát triển một
khả năng thấu thị tinh tường và vô ngại về quy luật sinh hóa của vạn
hữu.
Niệm xứ đầu tiên này đặc biệt nhắm đến một trí tuệ
tương ứng cho sự phát triển khả năng chú niệm sâu sắc, vững vàng
về từng hoạt động trong đời sống thường nhật của ta. Tấm thân chúng ta
cùng những vận động của nó luôn là một đối tượng cụ thể cho sự tỉnh
thức đó. Chẳng hạn như đang bước đi trên đường, ta có thể nghiêm cẩn
ghi nhận từng cảm giác của mỗi bước đi, hoặc đê một tâm mình phóng
tán qua những hồi ức quá khứ hoặc toan tính trong tương lai. Mọi sự
đều tùy thuộc vào chúng ta cả: Mở cửa, đánh răng, uống một tách trà...
Những động tác đơn giản này đều là những cơ hội để chúng ta tu
tập Thân Quán Niệm Xứ.
Niệm Xứ thứ hai là Thọ Quán Niệm Xứ, sự tỉnh thức nhắm
vào các cảm giác của tâm sinh lý nói chung. Không phải chỉ trong những
sinh hoạt, vận động mang tính "vật lộn" như trong những thời
điểm lao tâm, lao lực, thông thường, tâm sinh lý của chúng ta mới có
những cảm giác, mà ngay trong chính những phút giây thiền định an hòa
nhất chúng vẫn luôn có mặt, ngay trong từng phút giây cảm nghiệm. Có
thể nói Thọ Quán Niệm Xứ là nhắm vào thứ cảm thọ tế vi
này như là một công án chính thức. Chánh Niệm trong những cảm thọ
tế vi đó vô cùng quan trọng bởi chúng chính là môi trường cho các
phiền não tham chấp, ác cảm và ngộ nhận. Mà nội tâm của chúng ta thì
luôn có khuynh hướng tiêu cực: Ôm ấp cái hạnh phúc, bất mãn cái buồn khổ,
còn nếu cả hạnh phúc lẫn đau khổ tạm thời vắng mặt, tức chúng ta đang
sống trong Xả Thọ thì nội tâm tự nhiên khuếch tán, vọng ngoại
để tìm đến những đề tài vô ích. Nếu Niệm Xứ thứ hai
này được tu tập một cách đúng mức thì xem như chúng ta khả dĩ có được
cái khả năng tự tại trước mọi buồn vui trong từng cảm nghiệm tâm sinh
lý. Ðó là cả một sức mạnh tâm linh đáng kể mà người hành giả cần
phải sở đắc để tự làm thăng hoa nội tâm của mình bằng khả năng quân
bình và tự chủ chính nó.
Con đường Niệm Xứ này còn là chiếc chìa khóa để phơi mở một
nội tâm luôn sẵn sàng đối kháng, xung đột. Mà ngược lại, một nội tâm bị
cuốn hút vô thức vào những ảo ảnh ngọt ngào thì coi như sự chú niệm
của chúng ta đã bị cám dỗ. Ðể vượt thoát tình trạng đó, đồng
thời ghi nhận mọi cảm giác sinh lý cùng các ảo tưởng đang hiện
hữu, nếu ta tự biết ghi nhận chúng một cách rõ ràng và chính xác thì
ta sẽ thấy rõ được rằng tất cả chỉ là những ảo tượng luôn sẵn sàng đầu
tư cho sự chấp thủ. Ðiều quan trọng là hãy ghi nhận tinh tường cái
gọi là Dễ Chịu, Hạnh Phúc, ghi nhận cả tâm thái "ngoại vật" của
mình, chối bỏ mọi chấp thủ và đồng thời luôn biết tỉnh thức trước
mọi cảm giác thoải mái, xem chúng là cái để nhìn ngắm chứ không
phải để nắm bắt. Khi ta hiểu được rằng tham ái vốn được hình
thành thừ thái độ cảm giác, thì ta cũng sẽ thấy được căn cội của tất cả
ước muốn, khát vọng chính là sự phân biệt, chọn lựa và định
trị. Có thấy được đâu mà mình cứ triền miên bị tác động một cách
thảm hại bởi những bám víu và bất mãn, thì coi như ta đã đi qua gần
trọn con đường Thọ Quán Niệm Xứ mà lúc này nó đã thành ra một
phương tiện nội quán dẫn đến giải thoát.
Niệm xứ tiếp theo là Tâm Quán Niệm Xứ, sự tỉnh thức trong
từng hình thái vận động và tồn tại của ý thức chính nội tâm. Ðó là
một sự ý thức trọn vẹn về một nội tâm luôn phức loạn và tạp
nhiễm với biết bao thứ tình cảm thương ghét, vui buồn... Lấy nội tâm
mình làm đề mục thiền định là để ta có thể đối diện
với tất cả rắc rối của nó bằng một sự phơi mở, thư thái và quan trọng
nhất là chúng ta không bị quên mình để đắm chìm trong chúng. Tất cả
những biến tướng tâm lý, cũng như những khía cạnh khác trong từng
cảm nghiệm của chúng ta, hoàn toàn không hề là một cái Tôi nào cả,
chúng chỉ là từng cuộc sinh thành và biến diệt của thế giới
hiện tượng này thôi.
Một thực tại tâm lý càng hiển hiện rõ nét bao nhiêu thì nó
càng giúp ta có cơ hội nhận diện dễ dàng về nó hơn. Bởi không chỉ
nhìn ngắm có riêng nó, mà lúc này ta còn có dịp triển khai nó qua hai
đối tượng nhìn ngắm khác: Những cảm giác sinh lý trực thuộc với nó và
luôn cả những cảm giác tâm lý song hành. Lối xử lý kiện toàn này
giúp ta tiếp tục tỉnh thức và có thể an nhiên phơi mở trọn vẹn
nội tâm thực tại của mình lúc đó mà không hề tự đánh mất mình trong
cài thiên kiến chủ quan. Từ chiều hướng thăng hoa đó của Thiền
định, chúng ta sẽ càng lúc tìm thấy nhiều niềm vui kỳ thú trong cuộc
khám phá mang tính tự chứng và thể nghiệm về bản chất của tất cả
hình thái tâm lý như các dạng thức tình cảm chẳng hạn. Con đường khám
phá này thú vị và kỳ diệu hơn bất cứ một phương pháp nghiên cứu nào
đó mang tính duy lý. Bởi bằng chính con đường này, chúng tá mới có
thể có được những hiểu biết sâu thẳm về bản chất của nội
tâm một cách khách quan nhất.
Niệm Xứ thứ tư là Pháp Quán Niệm Xứ, sự tỉnh thức đối với
tất cả hình thái tâm lý sai biệt thông qua khía cạnh chức năng của
mỗi mỗi thứ. Ðại khái, Niệm Xứ này đề cập và giải quyết
trở trở lại tất cả nội dung của ba Niệm Xứ trước trên ý nghĩa tác
dụng và những khía cạnh mà ba Niệm Xứ trước coi như chưa hoàn tất.
Chẳng hạn Tâm Quán Niệm Xứ chỉ đề nghị ta ghi nhận lòng ham muốn là
lòng ham muốn, niềm tin là niềm tin... Còn ở Pháp Quán Niệm Xứ,
vấn đề đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn mang ý nghĩa giải
quyết: Hành giả phải hiểu thêm rằng lòng ham muốn là một pháp
Triền Cái (chướng ngại tinh thần), niềm tin là một nhân tố đạo
lực... Với sự tu tập về Pháp Quán Niệm Xứ, chúng ta còn có thể
biết gặp và học hỏi các pháp môn và giáo lý quan trọng tương
thuộc lẫn nhau. Ðó là Tứ Diệu Ðế, Bát Thánh Ðạo cùng sự tương
quan hiện hữu của Lục Căn, Lục Cảnh.... Nói chung, thông qua Niệm Xứ
thứ tư này, chúng ta chắc chắn sẽ thu nhặt được rất nhiều bài học.
Với từng phút tỉnh thức, Chánh Niệm, dầu với Niệm Xứ nào, trí
tuệ của ta về cuộc đời sẽ ngày một lớn mạnh, đồng thời niềm tin
Phật pháp của chúng ta sẽ là một thứ niềm tin chính chắn với sự có mặt
của trí tuệ.
Ðặc tính của Chánh Niệm là sự thẩm tấn tinh tường và sâu sắc. Ở
đây chúng ta có một ví dụ cho vấn đề này: Một chiếc nút bần bị
ném vào dòng nước thì nó vẫn nổi phiêu, ngược lại, một hòn đá bị ném
xuống nước sẽ lập tức chìm ngay. Chú niệm vào một đối tượng sở tri
thì coi như toàn bộ ý thức của chúng ta đã được gởi gấm trọn vẹn
vào đó: Còn giữ được Chánh Niệm thì đối tượng sở tri vẫn còn nằm
trong nhãn trường của chúng ta, có nghĩa là khả năng chú niệm của chúng
ta vẫn tiếp tục có hậu quả, nội tâm của chúng ta vẫn tiếp tục đối
diện với thực tại sở tri một cách trực tiếp, chính xác và sâu
thẳm...
Chánh Niệm còn là một bức vệ thành có tác dụng che chắn cho chúng
ta đối với những phiền não tập quán như cấp thủ, bất mãn, quên mình -
những nhân tố gây tạo ra đau khổ và ngộ nhận trong cuộc sống chúng ta.
Ðịnh tâm (Ðịnh)
Là nguồn đạo lực thứ tư có tác dụng mang lại sức mạnh tu tập cho một
hành giả. Có rất nhiều phương pháp để nuôi dưỡng Ðịnh Tâm. Trong
trường hợp pháp môn thiền quán thì Ðịnh Tâm chính là khả năng ổn
định hóa một sự tập trung sự chú ý của chúng ta vào đối tượng sở tri
một cách kịp thời, kể cả đối với những thực tại sở tri luôn thay đổi
liên tục. Chẳng hạn như khi chúng ta chú niệm vào hơi thở, nhờ sự can
thiệp và trợ lực của Ðịnh Tâm, chúng ta có thể cảm nhận từng
biến tướng vô thường của hơi thở ra vào cũng như các thực tại khác có
liên quan. Nhân tố cần cho Ðịnh Tâm là sự linh hoạt của Chánh Niệm.
Chúng ta có thể hình dung ra mối tương thuộc của hai nguồn đạo lực này
bằng hình ảnh hai thanh gỗ cọ xát vào nhau để tạo ra lửa. Việc
tạo lửa bằng phương thức này tuy là một thao tác xem ra có vẻ dễ dàng và
đơn giản nhưng thật ra chỉ cần hai thanh gỗ đó không được cọ xát
một cách nhuần nhuyễn thì dầu có bỏ ra bao nhiêu thời gian, ta vẫn hoài công.
Quan hệ giữa Chánh Niệm và Ðịnh Tâm cũng giống như vậy: Chỉ vài
phút thiếu Chánh Niệm, tất cả tâm lực của chúng ta coi như bị đình
chỉ. Trong khi đó, với một nguồn Chánh Niệm bất đoạn, Ðịnh Tâm lập tức
được củng cố. Nói gọn lại, sức mạnh của Ðịnh Tâm hoàn toàn tùy thuộc
vào Chánh Niệm. Mà toàn bộ con đường giải thoát của chúng ta thì
tuyệt đối phải cần đến một Ðịnh Tâm sâu sắc. Ðịnh Tâm ngoài giá
trị là một nguồn đạo lực thiết yếu cho trí tuệ giác ngộ, còn
mang lại cho hành giả những an lạc kỳ diệu mà không một khoái lạc thế
tục nào có thể so sánh được.
Trong cuộc tu của mỗi người chúng ta thường có vô số thử thách lớn
nhỏ, mà trong số đó không thể không nhắc đến những phút giây mà
chúng ta cảm thấy lười biếng và bị động. Có thể gọi đó là
những lúc chúng ta tự mâu thuẩn với lòng mình bằng chính sự thiếu vắng
khả năng kiên định của nội tâm. Những khi đó chúng ta luôn tự dối lòng
với những đòi hỏi kín đáo: "Phải chi ... Chứ phải... Ước gì... Nếu
như... thì mình sẽ có thể tiếp tục nỗ lực". Thay vì trong
những trường hợp tâm trạng đó, ta vẫn tiếp tục bỏ mặc những suy nghĩ
không cần thiết này để chú tâm phơi mở tất cả mọi cảm giác sinh
lý thực tại. Trong mọi thời điểm, hành giả hãy tự biến những
cảm nghiệm tiêu cực, thối bộ thành ra đối tượng tri nhận của sự tỉnh
thức và trí tuệ tra vấn. Một nỗ lực năng động cho Chánh Niệm vào
những tình huống nội tại này sẽ làm tăng lực cho nội tâm và giúp cho khả
năng tác niệm mỗi lúc một kiên cố hơn. Nếu chúng ta không tự gò
ép cuộc tu của mình bằng một ước vọng chật hẹp nào đó, mà luôn tự
tại tu tập với môt tinh thần thoải mái, vô cầu, vô chấp thì ở bất cứ thời
điểm nào chúng ta cũng vẫn có thể vô ngại.
Cũng như đối với các giá trị đạo lực khác, Ðịnh Tâm không phải là
một "chiến lợi phẩm" hay một "món quà phương xa". Nó
luôn tự nhiên hiện hữu trong bất cứ phút giây nào chúng ta biết sống
trọn vẹn với tất cả ý thức của mình. Nói một cách rõ ràng hơn, ngay
tại đây và bây giờ chúng ta vẫn có thể tu tập Ðịnh Tâm.
Trí tuệ (Tuệ)
Nguồn đạo lực cuối cùng được nhắc đến trong bài viết này chính
là Trí Tuệ. Trí Tuệ ở đây tuy có từ nguyên Pàli là Pannà nhưng
trong trường hợp này tạm thời được xem như đồng nghĩa với Vipassanà mà ta
vẫn hiểu là Trí Tuệ Nội Quán, Như Thật Tri Kiến, tức khả năng
nhìn thấy được bản chất như nhiên của tất cả các pháp. Dầu được ám chỉ
bằng từ ngữ nào thì thuật ngữ "Trí tuệ" ở đây cũng vẫn có
nghĩa là khả năng thấu thị tinh tường bản chất của các cảm nghiệm
về thực tại. Khi Ðịnh Tâm và Chánh Niệm được phát triển đúng
mức thì Trí Tuệ Nội Quán cũng sẽ tự hình thành. Ðó là một thứ Trí
Tuệ trực giác, không thông qua lăng kính lý tính để có thể
hướng đến một đạo lộ như thật. Trong Phật Giáo, Trí Tuệ được
phân tích ra ba hình thái:
Hình thái trí tuệ thứ nhất là một cái nhìn thấu suốt về bản chất
vô thường của vạn hữu, tức thế giới hiện tượng. Bản chất vô
thường của vạn vật nói chung có thể được nhìn thấy ở nhiều cấp
độ khác nhau tùy theo sức mạnh của Ðịnh Tâm. Nhưng dầu có nhìn nó từ một
trình độ nào đi nữa, chúng ta vẫn luôn thấy mọi thứ trên đời sinh hóa
và chuyển dịch một cách thường trực: từ đất đai, thời tiết, khí
hậu, các cơ chế xã hội cùng tất cả nền văn minh... kể cả những
quan hệ đối giao, tấm thân sinh lý cùng mọi vận động ý thức
của chúng ta đều thế cả. Một khi nội tâm chúng ta tập trung cao độ
thì khả năng tỉnh thức về quy luật vô thường cũng càng trở nên tinh
tế hơn. Khi Ðịnh Tâm và Chánh Niệm đã được tu dưỡng đến một
mức độ năng lực đúng mức, có nghĩa là khả năng thiền định của hành
giả đã đạt đến một trình độ lơn mạnh thì kiến giải vế bản
chất vô thường của các vận động tâm sinh lý lúc này cũng càng trở nên
chín chắn hơn và đồng thời nó cũng thành ra môt thứ cảm nghiệm được
tác động liên tục bởi các nguồn đạo lực khác để hành giả có thể
nhìn ngắm rõ rằng từng đơn vị cấu tố chính cảm nghiệm đó luôn sinh
diệt. Và từ đây, người hành giả mới có thể thấy rằng thực ra trên
đời này không có một thứ gì mà mình ôm ấp, bám víu cả.
Hình thái trí tuệ thứ hai chính là sự nhận ra bản chất đau khổ của
tất cả Hiện Hữu. Chỉ cần một phút giây nào đó, chúng ta ngồi lại
để lắng tâm rồi nhìn ngắm vào từng cảm nghiệm tâm sinh ký của
mình, chúng ta sẽ có dịp để có thể thấy rằng toàn bộ thế giới
tâm lý và vật lý này chỉ là một không gian tồn tại cho tất cả những
gì luôn vô thường và bất toàn. Một hình ảnh tâm vật lý nào đó xuất
hiện trong lòng hay trước mắt ta, tất cả chỉ là những bọt nước phù
du. Ðừng quá bận tâm để níu giữ nó lại mà hãy biết hồn nhiên
để mặc nó đi qua. Tất cả Hiện Hữu chỉ có mặt bằng một quy trình
lắp ghép và tồn tại ngắn hạn. Chúng ta hãy khách quan và vô tư nhìn ngắm
mọi thứ mà không hề lệ thuộc vào chúng. Tất cả tự đến rồi
tự đi, bởi trong thế giới hiện tượng khói sương này hoàn toàn không
có một thứ gì được đảm bảo an toàn cả, thậm chí đó là đời sống và
hạnh phúc của một bậc Ðế Vương. Tất cả những gì mà chúng ta vẫn
thường ôm ấp, chấp thủ vẫn chỉ là những ảo ảnh hoang đường. Thi hào
người Ðức Rilke đã gọi thứ hạnh phúc ảo tưởng đó là "Một
kiểu thu hoạch vội vã của một vụ mùa thất bại".
Ðức Phật dạy rằng hành trình tìm đến sự giác ngộ chẳng khác gì một
cuộc bơi nước ngược dòng, bởi con đường đó gần gần như đối lập lại
với tất cả quan niệm sống đời thường. Nếu chúng ta thật sự muốn
hiểu mình là cái gì trong thế giới này thì vấn đề cơ bản là
chúng ta phải tự biết khám phá ra cái gọi là cội nguồn và bản chất
của tất cả đau khổ: Nó có mặt ra sao và chúng ta đã có phản ứng gì đối
với nó. Giáo lý Ðức Phật đã dạy ta một điều hết sức quan
trọng rằng lòng ham muốn trong những gì luôn vô thường, thay đổi chính
là cội nguồn cho tất cả khổ lụy trong cuộc sống của mình. Nhưng bằng cách
nào để ta có thể chấm dứt tất cả ham muốn và khổ lụy đó? Vấn
đề ở đây chính là một sự ý thức chín chắn: Có biết được
mình đang nắm trong tay một hòn than cháy đỏ thì chúng ta mới có thể
nghĩ đến việc quăng bỏ nó đi. Có hiểu được bản chất của những
gì mà mình đang đối diện thì chúng ta mới có thể nghĩ đến
việc giải quyết, xử lý chúng một cách thích đáng.
Còn tự khép kín khả năng ý thức của mình để cam tâm gánh chịu
tất cả khổ lụy thì xem như chúng ta vẫn cứ tiếp tục dại khờ nắm chặt
trong lòng tay mình một hòn than nóng bằng não trạng của người bất tỉnh hay
một kẻ mất trí. Với sự chi phối của nền văn minh hiện đại hôm nay
trên thế giới, việc quan tâm đến những bề trái mang tính bi
kịch của đời sống luôn bị xem là một thái độ bi quan, một nhân sinh quan
tiêu cực. Mặc dù có đôi lúc chúng ta vẫn có những phút giây bận lòng, xúc
động trước những hình ảnh bệnh hoạn, già cả và chết chóc, nhưng
hầu như ta vẫn cứ có những cảm giác tự an lòng và nhìn về mọi sự
bằng một ánh mắt của kẻ bàng quan, cứ như là mình sẽ chẳng bao giờ phải đi
qua những giai đoạn buồn thảm đó. Chúng ta thường có khuynh hướng thơ mộng
hóa chuyện đời mình mà quên đi những bất trắc đen tối luôn có thể
xảy ra cho chính mình. Chẳng hạn những cơn trọng bệnh hoặc những ngày
tháng cô đơn, tẻ nhạt của tuổi già... Chính thái độ tâm lý này đã
khép chặt đôi mắt của chúng ta đối với bản chất thật sự của đời sống
Nói cho cùng, chúng ta đã lãng phí quá nhiều thời gian cho mục đích
đáp ứng những nhu cầu sống không cần thiết và ý nghĩa. Trong khi đối
với những ảo tưởng đời sống như mộng, như huyễn đó chúng ta vẫn có
thể tìm được những khám phá hết sức sâu sắc. Chúng ta cứ mãi lãng
quên mình trong cái "tuồng ảo hóa" chất đầy biết bao là những
bôn ba, bươn chải với vô vàn sinh hoạt thường nhật và xem đó là toàn bộ
cuộc Hiện Hữu của mình: Mỗi ngày thức dậy, lo chuyện vệ sinh
cá nhân, uống ăn, làm việc, giao tiếp rồi cùng là những thú tiêu
khiển khác. Chúng ta cứ triền miên xoay vần cái vòng sinh hoạt bất tận
đó, tự trói mình vào những ảo tưởng hạnh phúc xem ra có vẻ an toàn với
nhịp đời chung quanh để rồi chẳng màng gì đến dòng chảy vô thường
và bất trắc của đời sống. Thái độ sống dung dị và tri túc có thể
được xem là bí quyết để phát triển trí tuệ và tình thương,
sự giao hòa và cảm thông đối với cuộc đời quanh mình. Sự tỉnh thức đối
với tất cả đau khổ là ngọn lửa mà mỗi người chúng ta cần thiết
phải tự thắp lên trong chính tâm hồn mình, đó là một ngọn lửa có tác
dụng đánh thức mọi nguồn đạo lực, thiêu hủy mọi trở lực. Càng mở
rộng nhãn quan để nhìn ngắm tất cả đau khổ thì chúng ta càng được an
lành, một nguồn tịnh lạc thật sự trọn vẹn ngay trong chính đời sống của
bản thân.
Từ cơ sở trí tuệ về quy luật vô thường và khổ não, một hình
thái trí tuệ thứ ba sẽ được hình thành: Ðó là trí tuệ về bản
chất vô ngã của vạn pháp. Chỉ cần một cái nhìn sâu sắc đúng mức vào bản
chất của từng chuỗi vận động tâm sinh lý, một chân lý kỳ
diệu sẽ hiển hiện cho chúng ta rằng tuyệt đối không có một
cái gì khả dĩ là một cái Tôi. Mỗi người chúng ta chỉ là một quy trình
biến dịch, sinh diễn trong mỗi giây phút mà thôi. Ngoài ra chẳng còn
là "Một cái gì" nữa.
Có một vấn đề mà ta cần phải lưu tâm là cho dầu có cảm nghiệm
được quy trình vận động vô thường của vạn hữu nhưng nếu đó chỉ là
một thứ trí tuệ lý tính thì coi như những cảm nghiệm đó của
chúng ta cũng chỉ là những khái niệm máy móc. Bản chất của tâm sinh
lý chúng ta là một dòng chảy liên tục và những từ ngữ mà chúng ta vẫn
sử dụng để diễn đạt nó, cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Chúng
ta có thể rơi vào tình trạng ngộ nhận thảm hại là "Trông gà hóa
cuốc" bằng những khái niệm sai lầm thông qua những dụng ngữ diễn dịch
và thậm chí còn bị chúng dẫn dắt, hướng cái nhìn của chúng ta về
thế giới, về một khái niệm ngã chấp: Những chủ thể lý
tưởng cho một cái Tôi.
Ngay bây giờ, ta hãy làm một thử nghiệm đơn giản và thú vị: Vỗ
hai bàn tay vào nhau rồi lắng nghe. Ngoài sự va chạm và cảm giác ấm lạnh ra,
có còn cái gì khả dĩ để gọi là "bàn tay" hay không? Bằng
vào sự cảm nghiệm trực tiếp đó, ta sẽ thấy rằng cái gọi là
"bàn tay" ở đây chỉ là một khái niệm, một sự huân tập của các
cảm giác ảo tưởng. Cái mà chúng ta vẫn gọi là "Tôi" cũng chỉ
là một khái niệm giả lập được định danh từ sự hiện hữu phù du của
các hiện tượng tâm sinh lý luôn sinh diễn không ngừng.
Hay vào một buổi đêm tối trời nào đó, chúng ta hãy một mình im lặng
nhìn lên các chòm tinh tú trên vòm trời. Tinh tú nào là sao Hôm, sao Mai hay
sao Sâm, sao Thương? Trong không gian vô tận của vũ trụ có biết bao là
những thiên thể, chúng ta căn cứ vào từng quần thể của chúng mà
gọi tên thành từng chòm sao, rồi trong mỗi chòm sao này, ta lại
tiếp tục định danh từng ngôi sao theo hình dáng của nó hoặc theo một
ý nghĩa lịch sử nào đó. Mà thực ra có tinh tú nào là sao Hôm, sao Mai,
Ðại Ngư, Tiểu Hùng, Sâm, Thương... nào đâu! Chúng chỉ là những đóm
ánh sáng phản xạ từ mặt trời vào các thiên thể mà thôi.
Trong giáo lý thiền quán cũng thế, cái gọi là "Tôi, của
Tôi" chỉ là phản quang từ sự tồn tại, hiện hữu của các ảo tượng
tâm vật lý bao gồm những hình ảnh, âm thanh mùi vị, cảm xúc cùng các
vận động ý thức, những hiện tượng luôn vô thường, thay đổi.
Ảo giác về các hiện tượng là cội nguồn cho tất cả ngã chấp,
những khái niệm mang tính tập quán. Hiểu được điều này, coi như
ta đi qua một đoạn đường vô cùng quan trọng trong Thiền quán.
Ðể thấy được sao Hôm, sao Mai không phải là sao Hôm, sao Mai thì quả
là một việc vô cùng khó khăn, Bởi từ trong sâu thẳm, chúng ta đã
"là chúng ta" với một khái niệm chai cứng về cái Tôi. Có bỏ
được ngộ nhận sao Hôm, sao Mai thì chúng ta mới vất nổi ý niệm
về cái Tôi. Mà ý niệm ngộ nhận đó, từ lâu nay đã là cốt tủy
cho mọi vận động ý thức của chúng ta rồi. Chúng ta bị nó đồng hóa,
chiếm hữu và tệ hại nhất là đã bằng mọi giá bảo vệ nó.
Thế giới ngoại tại cùng mọi sinh hoạt tâm sinh lý của chúng ta đã
bị đánh giá qua lăng kính của cái Tôi đó.
Chúng ta đã đến lúc phải tự biết quay lại thôi: Trong từng phút
giây thu xếp lại khả năng cảm nghiệm của mình về cái thất bại
của khái niệm ngã chấp, một cái Tôi ảo tưởng và bắt đầu phá hủy tất
cả những thành lủy của nó, những rào cản cảnh vệ khốc liệt cho một
cái Tôi giả lập.
Trình độ trí tuệ của chúng ta ở đây sẽ được nuôi lớn bằng một
niềm tin chín chắn và đúng mức bởi chính chúng ta đã tự thấu thị bản
chất như thật của đời sống bản thân thông qua những vận động sinh hóa của
tâm lý nội tại. Vì xét cho cùng, con đưỡng tu tập nội quán chính là
một cuộc hành trình của từng khía cạnh cảm nghiệm. Ðó là một cuộc đi
có thể được khởi hành từ bất cứ nơi đâu và lúc nào. Chẳng hạn ngay
tại đây và bây giờ!
Hãy nhớ rằng đây chỉ là một cuộc đi chứ không phải là một trận
chiến. Do đó, trong công phu nội quán, ta tuyệt đối không hề cần
tới một phản ứng mang tính đối đầu hay xung đột nào đối với tất cả thực
tại sở tri xảy đến cho mình. Bởi chỉ với một khả năng chú niệm tinh
xác, một thái độ cảm nghiệm thật sự phơi mở, trong từng chớp mắt, bộ
mặt của thực tại sẽ tự khắc lộ diện để cùng lúc đó trí tuệ
thiền định cũng sẽ tự hiển hiện như tuân theo một quy luật cố
nhiên là muôn hoa cứ chờ xuân về để nẩy trổ.
Năm nguồn đạo lực vừa trình bày trên đây đều là những nhân tố
thiết yếu mang giá trị đồng vị cho hành trình giác ngộ. Nhưng một
điều hết sức quan trọng là chúng phải luôn cùng có mặt trong một
sự kết hợp đồng nhất. Ðạo lực này tương trợ cho đạo lực kia một cách
thích ứng và hợp lý. Chỉ cần sự thiếu mất sự cho nhau, một trong năm
đạo lực chắc chắn sẽ vô hiệu, thậm chí rơi vào tình trạng phản tác
dụng. Do đó Trí tuệ phải cần tới niềm tin để không trở thành
thứ trí tuệ duy lý, niềm tin thiếu trí tuệ sẽ trở nên mù
quáng; Tinh tấn cần thiết cho định tâm để nguồn đạo lực này được
ổn định... Cứ thế, các nguồn đạo lực hổ tương cho nhau và trên
hết, Chánh niệm là nhân tố tối cần cho tất cả các nguồn đạo lực.
Ngoài ra còn có những con đường khác để phát huy và ổn định năm
nguồn đạo lực trên đây nữa. Trước hết là sự phản ảnh, suy tưởng trong
từng phút giây -- tất cả những gì đang xảy đến và sẵn sàng biến
diệt đi. Chỉ cần ghi nhận được bản tướng luân lưu tương tục này của
các thực tại thì chúng ta sẽ có được từng phút giây cảm nghiệm thật
sự trọn vẹn, thấu đáo và an nhiên, tự tại.
Con đường thứ hai để trưởng dưỡng các nguồn đạo lực là thái độ
nghiêm cẩn và sống trọn vẹn, hết mình với lý tưởng thiền
định. Giáo lý của Ðức Phật là một là một đường hướng sinh phong kỳ
diệu khả dĩ mang lại cho chúng ta một nguồn an lành không gì sánh được.
Chính nhờ đặt mình vào một phép sống đúng mức, chúng ta sẽ cùng lúc tự
hàm dưỡng cho mình những giá trị đạo hạnh khác để cuộc mình trở nên
hữu ích và ý nghĩa hơn.
Những dòng sau cùng mà cũng là đôi lời nhắn gởi của người viết bài
này cho một số hành giả là đừng bao giờ tự thỏa mãn quá sớm trong
cuộc tu của mình bằng những ngộ nhận về một khả năng tâm linh, một trình
độ trí tuệ nào đó cả. Vì hấu hết chúng ta đều có khuynh
hướng sống khẩn trương nếu không muốn nói là vội vã một cách cẩu thả.
Chúng ta cứ muốn dốc sức tranh thủ để "sớm được giác ngộ"
trước khi chết mà thường thì rất hiếm người chịu khó trang bị sẵn
cho mình một chút hành lý nào khả dĩ dúng mức. Vậy thì từ trong cả cuộc
tu lẫn đời sống thường nhật, từng người chúng ta nên tự làm thăng hoa và
nuôi lớn năm nguồn đạo lực như là tất cả những gì cần thiết nhất mà
mình phải thực hiện để sống và vượt.
J. G.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |